Quelques larmes, on s'en va (3)

"Chú ơi, khi nào thì chú sẽ quay lại đây ạ?"

Khi Pisces nghiêm túc níu lấy gấu áo Ophiuchus mà hỏi vậy, thế giới mà chúng tôi đang sống dường như cũng sắp sửa tiến đến một nấc thang biến chuyển về căn tính nào mà tôi không thể gọi tên được. Một biến chuyển lặng thầm, vô thực tại, để mà cái hữu hình duy nhất nó đạt đến được có chăng chỉ là những suy suyển rất nhỏ trong đôi mắt đen thăm thẳm của Ophiuchus.

Cái khoảnh khắc anh ghé mắt nhìn xuống đứa bé con vẫn còn đang níu lấy gấu áo mình ấy, nó đã trở thành khoảnh khắc lạ lùng nhất tôi từng được thấy sau ngần ấy năm sống dưới hình hài là một con người. Đó là sự hội ngộ giữa một linh hồn rúc mình trong cái cõi siêu hình của một kẻ mộng mơ, cùng một linh hồn khác đã chuyển di mình đến chương kết của cuộc đời. Tôi không tài nào nhìn ra được những gì đang diễn ra trong nội hàm cái cuộc gặp gỡ đó, bởi lẽ tôi cũng chẳng biết Ophiuchus đang cất giấu đằng sau cái dáng vẻ đĩnh đạc buồn rầu mà anh luôn mang lên mình ấy. 

Có lẽ là bạn sẽ nghĩ tôi đang làm quá, mà đúng thật thì có lẽ tôi cũng đang làm quá. Tôi chỉ mới sống mười sáu năm trong một thế giới rất đỗi nhỏ bé, một quãng thời gian ngỡ như rất dài, nhưng thực ra thì cũng rất ngắn ngủi. Tôi chưa bao giờ chứng kiến tận mắt một ai đó muốn được chết, chưa bao giờ chứng kiến tận mắt một ai đó cầu xin được sống. Cố nhiên, hình ảnh người đàn ông trước mặt tôi đây đang đấu tranh giữa hai bến bờ đối lập ấy càng lạ lùng hơn đối với tôi. Tôi quan sát những chuyển động trong ánh mắt anh bằng tất cả lòng thành kính, như thể Galileo thành kính quan sát những chuyển động của mặt trời thông qua lăng kính viễn vọng cũ kĩ.

Thế rồi, sau một hồi chẳng rõ là lâu hay mau, Ophiuchus lặng lẽ khuỵu một chân xuống, để tầm mắt mình trở nên ngang hàng với cậu nhóc Pisces. Anh mỉm cười, chiều tà nồng nàn ôm lấy mái tóc nhạt màu, đổ đầy sắc vàng cam vào những đường viền, để làm bật đi cái tàn lụi đang bung nở trên môi anh.

"Có lẽ là một ngày nào đó không xa, miễn là em vẫn đợi tôi."

Pisces bật cười hạnh phúc, còn tôi thì lặng thinh. Tôi có thể hiểu được là Ophiuchus, trong một giây phút thăng hoa của cảm xúc khi một lần nữa đối diện với những tình cảm ngây ngô của một đứa bé thơ, đã vô tình để bản thân loang màu ra nơi sự sống ngự trị một lần nữa. Một giây phút yếu lòng chẳng đủ để níu anh lại cõi đời đã trở nên quá đỗi tàn hoang này, nhưng lại đủ để anh nuối tiếc một chút. Chính vì thế mà anh đã cho phép bản thân mình đưa ra một lời hứa, một thời điểm mơ hồ rằng biết đâu bản thân vẫn có thể quay đầu, dẫu rằng tự chính bản thân anh cũng hiểu mình chẳng còn cơ hội nào nữa cả. Dĩ nhiên, đây cũng chỉ là những suy đoán vô căn cứ, những cảm tính riêng của tôi, nhưng ở thời điểm đó, tôi cũng đã tự huyễn hoặc mình, để cái suy đoán đó xâm lấn vào ranh giới của thực tại.

"Đến lúc đó thì chú dạy cho cháu nhé? Dạy hẳn luôn ý, từ đầu đến cuối."

"Được thôi."

"Móc ngoéo! Người lớn không được nói dối trẻ con đâu!"

"Em có thể tin tôi, tôi không nói dối."

Ngón tay út của họ đan vào nhau, trong hành lang vắng người và trong tiếng lũ bồ câu gọi nhau về tổ. Họ để tôi làm chứng nhân cho cái lời hứa kỳ lạ chỉ của riêng hai người, một chứng nhân lặng câm sẽ không bao giờ lên tiếng phán xét bất cứ điều gì trong bản giao ước.

Pisces không hề giấu diếm nỗi niềm phấn khích, thằng bé tóm lấy tay của Ophiuchus, đôi mắt long lanh những nỗi vui không biết nói sao thành lời. Em cứ giữ lấy tay Ophiuchus, như thể sợ rằng anh sẽ đi đâu mất, rồi nhìn lên chiếc đàn dương cầm cũ kĩ, rồi lại nhìn về phía Ophiuchus. Rồi thì em buông tay ra, nhảy phắt lên chiếc ghế gỗ to cộ, những ngón tay nhỏ xíu đặt lên phím đàn. Bài "Ngôi sao nhỏ lấp lánh" vang lên rõ ràng trong cái thanh âm trong veo của dương cầm, của những thơ trẻ hồn nhiên mà hồn em lấp lánh, tựa như những ngôi sao nhỏ lấp lánh trên bầu trời. Em sống giữa những vì sao, là một Hoàng tử bé đang tìm kiếm lại tinh cầu của mình. Có lẽ chính vì cái thuần khiết đó mà tôi không muốn khiến em phải thất vọng nhiều hơn cái lời dối trá tôi đã gieo vào em ngày hôm đó. Tôi những muốn giữ cho em bé mãi, trở thành sự tồn tại tách biệt khỏi thế giới, thế thì cái khốc liệt của thực tại sẽ vĩnh viễn không bao giờ có thể chạm được để em, và em sẽ mãi mãi là một hoàng tử bé thơ trong câu chuyện của riêng mình. Nhưng thật đáng tiếc, chúng ta đang sống trong cái cõi đời mà con người sinh ra chỉ để tiến về phía cái chết, ở cái nơi mà mong ước của tôi chẳng qua cũng chỉ là một giấc mộng điên cuồng.

Pisces đàn đi đàn lại bài hát em yêu thích thêm hai lần, rồi mới chậm rãi trèo xuống khỏi ghế, cẩn thận đóng nắp chiếc đàn lại. Xem chừng em vẫn chưa thỏa lòng với những nỗi vui mà em vừa thể hiện, bởi ngay sau đó em đã chạy đến nắm chặt tay tôi, chất giọng ngọt ngào đã bình tĩnh hơn một chút, nhưng vẫn chẳng thể giấu nổi nét hạnh phúc tột cùng.

"Anh Libra ơi, chắc là tối nay em không thể đến nhà ăn với mọi người được, anh xin viện trưởng với các sơ hộ em nha?"

Pisces cần thời gian để tự rúc mình vào cái thế giới bé nhỏ của riêng em, để mà từ từ gặm nhấm cho bằng hết những niềm vui mà em đã được trải qua, giống như con chuột lang nhỏ trốn vào góc hẹp để gặm nhấm chỗ thức ăn ngon lành mà nó giấu được trong đôi má phúng phính. Lần đầu tiên chúng tôi gặp nhau, sau khi nghe được câu chuyện tôi kể, em cũng đã xin được ở một mình như thế này. Dĩ nhiên rằng tôi và các sơ khi ấy đã chẳng thể thành toàn cái nguyện vọng bé nhỏ ấy của em. Suốt buổi tối hôm đó, chúng tôi vẫn luôn âm thầm quan sát em thông qua ô cửa sổ khác, nhỏ xíu, chẳng hề dẫn tới một ánh sao nào trên trời, thứ mà em thậm chí còn chẳng nhận ra sự hiện hữu của nó khi ấy. Dẫu cho cái lý do được dựng lên ấy có chính đáng cách mấy, thì tôi vẫn không thể thoát khỏi cái ý nghĩ rằng mình đã lừa lọc một đứa trẻ con, lại còn là đứa trẻ đã dành trọn niềm tin cho mình như thế.

"Ừ, anh sẽ nhờ mọi người để phần lại cho em."

"Em cảm ơn!"

Mãi đến khi bóng dáng Pisces khuất hẳn sau dãy hành lang vàng ươm sắc nắng, tôi mới chợt nhớ Ophiuchus đã ở bên ngoài cả ngày hôm nay. Viện trưởng nói anh đã có một chuyến hành trình dài, cũng có thể đêm qua anh đã không ngủ được một giấc ngon, ông muốn tôi đưa anh đến phòng dành cho khách để tắm rửa và nghỉ ngơi cho đến khi bữa tối sẵn sàng, nhưng tôi đã quên khuấy đi mất lời dặn dò ấy. Tôi không thể nào phân biệt được đâu là nét mỏi mệt, đâu là sự khốn khổ đã được treo sẵn trên khuôn mặt Ophiuchus. Anh là một bảng màu đã trở nên loang lổ, một bảng màu mà các sắc thái đã trộn lẫn vào nhau thành một tác phẩm tồn tại song song với bức tranh mà anh đã góp phần họa nên. Sau quãng đời đằng đẵng, người ta đã chẳng còn tìm thấy được ở anh những đường viền ngăn cách rõ rệt nơi này với nơi khác, còn anh trở thành một bức họa của những lẫn - lộn - màu - sắc mà chỉ một mình anh mới có thể hiểu được ý nghĩa. 

"Đáng lẽ ra em nên nói câu này sớm hơn." Tôi mở lời với anh khi chỉ còn lại hai chúng tôi giữa quãng trống trải của ngày. "Em xin lỗi, để em dẫn anh về phòng dành cho khách để nghỉ ngơi."

"Không có gì đâu, tôi cũng không mệt mà, cảm ơn em."

Chúng tôi im lặng đi bộ trên nắng. Đã có một vài đứa trẻ thức dậy khỏi giấc trưa, rủ nhau chạy ra chơi dưới gốc những cây hoa trà. Tôi lên tiếng nhắc nhở, dặn dò chúng đừng mải nghịch nắng mà đâm ốm. Có vài đứa cười hì hì rồi chạy vụt đi, cũng có vài đứa ngượng ngùng xin lỗi rồi cúi đầu chào Ophiuchus. Anh dùng nụ cười hiền lành để đáp lại tất cả, dù chúng có chào hay không chào anh. So với nỗi buồn dai dẳng tôi nhìn thấy ở anh lúc sáng, Ophiuchus bây giờ nom êm đềm hơn, và những nỗi đau của anh cũng mềm đi theo giọt thu rơi xuống hiên nhà.

Tôi những muốn để anh được yên mãi như vậy cho đến khắc tận cùng của thời gian, nhưng tôi không tài nào gạt khỏi tâm thức mình khung cảnh ban nãy. Trước khi để lại Ophiuchus một mình trong căn phòng rộng sáu thước, tôi đứng sững lại trước thềm cửa, mặt đối mặt với anh. Trước khi anh kịp mở miệng nói bất cứ điều gì, tôi đã tranh lấy cái quyền được lên tiếng trước.

"Em biết Pisces vẫn còn là một đứa con nít." Tôi nói, cố giữ cho được cái tông giọng nghiêm túc nhất. "Nhưng chắc là anh biết rồi đấy, trẻ con nhớ lâu hơn chúng ta vẫn tưởng, mong anh đừng khiến thằng bé phải chờ đợi một thứ không có thật, xin anh đừng để nó phải khốn khổ khi bước vào hiện thực."

Ophiuchus nom sững sờ, anh có thật sự hiểu tôi muốn nói gì không? Hay anh đang nghĩ rằng tôi chỉ là một đứa nhóc vị thành niên đang cố gắng chứng minh mình trưởng thành bằng mấy câu từ khó hiểu, như rất nhiều lần trước đây? Thành thật mà nói thì, khi ấy tôi nghiêng về vế thứ hai nhiều hơn, tôi biết rằng người lớn sẽ không bao giờ cố gắng để hiểu được những ẩn ý mà tụi nhỏ cất giấu sau lời nói. Đối với người lớn mà nói, khi họ không thể hiểu được lời nói của đám trẻ con, thì chỉ có hai nguyên nhân. Một là lũ trẻ vẫn còn quá non nớt để sắp xếp từ ngữ sao cho đúng với cái chuẩn mực giao tiếp mà họ đặt ra, hai là chính bản thân chúng cũng chả biết mình đang nói gì, chúng chỉ đang cố thể hiện mình bằng cách thốt ra thật nhiều từ ngữ nghe có vẻ trưởng thành. Bọn họ chưa bao giờ thử suy ngẫm về những bí mật mà lũ trẻ muốn truyền đạt tới mình qua những câu từ không rõ nghĩa. Tôi đã luôn mong Ophiuchus là trường hợp ngoại lệ, nhưng tôi vẫn chưa đủ can đảm để nuôi dưỡng cái mong ước đó. 

"Tôi có thể thấy được những trăn trở của em về tương lai của thằng bé." Ophiuchus đáp lời, đột ngột, bất ngờ, như cơn thủy triều dâng ào lên trong lòng tôi mà chẳng hề có một dự báo trước. "Xin hãy yên tâm, tôi không nói dối."

Tôi ngẩng phắt lên nhìn Ophiuchus, tất cả ngôn từ kẹt lại trong cuống họng. Tôi chợt thấy tức giận, chẳng hiểu vì sao. Câu trả lời của anh như một cú đấm mạnh vào kẽ hở giữa hai nhịp đập trái tim tôi, và cái ý nghĩ sai lầm rằng anh vốn chẳng hề xem trọng thế giới của một đứa bé thơ như tôi nghĩ đã khuấy đảo cái mạch nước ngầm ẩn chứa trong cõi lòng tôi. Cơn giận dữ cào xé tôi bằng cái sự bức bối tột cùng, nhưng tôi thì chẳng cách nào truyền đạt lại nó bằng từ ngữ. Tôi chỉ đành gật đầu với anh, để lại một lời chào có lệ, rồi nhanh chóng ngoảnh mặt đi.

Suy cho cùng, tất cả vẫn chỉ là viễn tượng của riêng một mình tôi, tôi còn có thể đòi hỏi gì hơn ở một người đã định sẵn cho mình một cái chết?

.

.

.

Ngọn lửa đó bùng lên khi mà tất cả chúng tôi đều đang chìm đắm trong giấc du miên sau một ngày vui chơi thỏa thích.

Mọi chuyện xảy ra nhanh đến mức tôi thậm chí còn chẳng kịp định hình điều gì. Thoạt tiên, chỉ là cái mùi khói khen khét hanh khô thoảng qua trong không khí, chờn vờn quanh cánh mũi lũ trẻ, chui vào trong giấc mơ của chúng dưới hình hài món cà tím nướng ngon lành của bữa tối. Thế nhưng cái êm đềm vốn có của buổi đêm nhanh chóng bị phá vỡ khi mà, hốt hoảng và sợ hãi, tiếng thét thất thanh của sơ Rumiko dội vào màng nhĩ chúng tôi, kéo một vài đứa nhỏ bừng tỉnh khỏi cơn mộng và làm gián đoạn cơn mơ của vài đứa mê ngủ khác. Ngay sau đó là bóng dáng nhỏ bé của viện trưởng, ông xông vào phòng chúng tôi, hô lớn bằng chất giọng đanh thép và rõ ràng.

"Mấy đứa thức dậy rồi xuống sân ngay! Libra, con dẫn các em rời khỏi đây, đừng để lũ nhỏ hoảng loạn!"

Ông chỉ kịp để lại mệnh lệnh ngắn ngủi đó rồi ngay lập tức chạy sang phòng khác, cũng đập cửa và hô lớn như vậy. Tôi lập tức bật dậy khỏi giường, kéo tay năm đứa nhỏ còn đang chưa kịp hiểu chuyện gì xảy ra kia, nhanh chóng đẩy chúng ra ngoài. Bản thân tôi cũng chưa thông suốt được chuyện gì, nhưng cái mùi khét nồng nặc như muốn thiêu cháy buồng phổi đã giúp tôi lờ mờ nắm được tình hình. Cột khói đen xì cuồn cuộn bốc ra từ tầng cao nhất, lũ trẻ túa chạy ra ngoài, các sơ và viện trưởng cố gắng giữ cho mọi thứ không trở nên hỗn loạn, dường như Ophiuchus cũng đang giúp họ một tay.

"Nhà thờ có tổng cộng bao nhiêu em?"

Ophiuchus hét lớn hỏi tôi vậy.

"Dạ ba mươi…"

Tôi vừa trả lời vừa cố gắng đếm từng đứa nhỏ đang nháo nhào. Cũng may rằng nhà thờ không quá lớn, số lượng trẻ nhận nuôi không nhiều như các nhà tình thương khác, việc lùa lũ trẻ chạy ra khỏi nơi nguy hiểm không quá mất thời gian. 

"Hăm bảy, hăm tám, hăm chín… hăm chín! Thiếu mất một đứa rồi!"

"Đã đếm luôn cả Libra chưa?"

"Rồi! Thật sự thiếu mất một đứa. Có ai thấy thiếu mất bạn mình không?"

Tôi nhìn một lượt những mái đầu cao thấp, sự căng thẳng cùng cực khiến tôi không tài nào thở được. Hăm tám, hăm chín, dù đếm lại bao nhiêu lần cũng vẫn thiếu một đứa, nhưng là ai? Và nó đang ở đâu? Không phải ngài viện trưởng đã đi đập cửa tất cả các phòng rồi ư?

"Anh Libra, em không thấy Pisces đâu cả."

Một đứa nhóc bất ngờ tóm lấy tay tôi mà mếu máo vậy. Ngay lập tức, tôi tỉnh ra. Phải rồi, Pisces. Tôi không thấy em trong đám đông. Hẳn là em vẫn còn kẹt lại trong đám cháy đó.

"Anh nghĩ anh biết thằng bé ở đâu."

Dường như có ai đó gọi với theo tôi, nhưng tôi không nghĩ được gì nữa. Ngọn lửa đã lan rộng ra, liếm cái lưỡi đỏ nóng rực của mình khắp cả tòa nhà. Trong đầu tôi khi ấy chỉ còn duy nhất một vị trí được cố định lại của Pisces, chỉ còn lại căn phòng bỏ trống ở trên tầng cao nhất của tòa nhà mà em hay lẻn tới đó. Căn phòng đó chính là căn phòng đầu tiên mà em ở lúc mới đến, nhưng vì tình trạng ẩm thấp và dột mưa nghiêm trọng mà mọi người đã quyết định bỏ trống nó chờ ngày duy tu. Pisces rất thích căn phòng đó, thỉnh thoảng, em lại trốn ngủ để trèo lên đấy chơi…

Tôi leo những bước thật dài lên thang bộ, một lần nhảy tận ba bốn bậc thang. Luồng khí nóng ngày càng khủng khiếp hơn theo mỗi tầng, chẳng mấy chốc mà khói đen đã mù mịt khắp cả. Khói xộc vào mắt, vào mũi, vào miệng tôi, nước mắt túa ra, tầm nhìn bỗng chốc trở nên hư ảo như một lăng kính mờ. Cái nóng dữ dội như muốn thiêu cháy buồng phổi, tôi không thở được, cổ họng cũng đau rát như bị ai đốt. Tôi không nhìn thấy được ngọn lửa. Rốt cuộc thì cái gì đang bốc cháy vậy chứ?

Căn phòng mà tôi nghĩ Pisces sẽ ở hóa ra lại trống không. Thằng bé không có ở đây. Tim tôi muốn vọt ra khỏi cuống họng. Chắc thằng bé đã đi đâu đó, nhưng là đâu mới được. Ý nghĩ đi tìm Pisces thoáng vụt lên trong tâm trí tôi rồi nhanh chóng tắt ngóm. Quá nguy hiểm. Làm sao có thể chạy khắp các phòng mà tìm em, khi mà tòa nhà đang bốc cháy hừng hực như thế được đây?

Ngay khoảnh khắc tôi định từ bỏ, một tiếng động lớn từ đâu đó dội lại, hẳn là có gì vừa đổ sập xuống. Ngay lập tức, tôi nghe thấy một tiếng nức nở khe khẽ vọng ra từ căn phòng, mà chính xác là trong chiếc tủ đựng chăn nệm cũ. Tôi liền xông vào đó, giật mạnh cánh cửa ra. Pisces đang cuộn mình sợ hãi trên đống chăn đã ngả sang màu ngà, đôi mắt em mở to, ầng ậc nước.

"Em đây rồi."

"Anh Libra!"

Tôi vội cởi chiếc áo khoác ngoài đưa cho em che mặt, rồi ngay lập tức bế thốc em lên. Tạng người Pisces khá bé, so với sức lực của một đứa mười sáu được ăn no ngủ kĩ như tôi thì chẳng khó khăn gì để bao bọc lấy em vào lòng. 

Ngay khoảnh khắc tôi định chạy xuống cầu thang, một tiếng nổ lớn vang lên chói tai. Tất cả những gì tôi kịp làm chỉ là xoay lưng mình lại, ghì chặt Pisces vào lòng. Áp lực và hơi nóng khủng khiếp phả vào người tôi, đẩy tôi ngã nhào. Xung quanh chúng tôi biến thành biển lửa. Ở trong lòng tôi, Pisces khóc nấc lên.

"Đừng sợ, không sao đâu."

Tôi cũng không biết nữa.

Tôi chẳng còn nghĩ được gì.

Tôi gượng đứng dậy, cố chống chịu lại cơn nóng rát khủng khiếp sau lưng. Đời tôi khi ấy chỉ còn duy nhất một sứ mệnh là đưa Pisces rời khỏi đây an toàn. 

Nhưng tôi sợ mình không làm được. Mắt tôi hoa đi, tôi không đứng vững nữa. Ngay giây phút mà tôi nghĩ mình sẽ ngã xuống, bàn tay ấy đã tóm chặt lấy vai tôi. Bà tay gầy gò, xương xương nhưng ấm áp vô cùng, cứ như là bàn tay của thiên thần. Tôi thoáng trông thấy trong ánh lửa đôi mắt đen thăm thẳm, tới mức không một tàn lửa nào có thể phản chiếu lại được trong vũng đen ấy.

"Hoshino!"

Và rồi, bóng tối. 




 






Bạn đang đọc truyện trên: truyentop.pro