Vị thần của loài hoa tim vỡ (2)

Tòa thánh đường ấy nằm ở một mảnh đất biệt lập cách Phố Cổ khoảng mười lăm phút đi bộ, người đến xưng tội phải đi dọc theo bờ hồ, gửi lại xe ở một trạm xăng chỉ có duy nhất một ông cụ trông coi và băng xuyên qua con đường đất của một cánh đồng hoa hướng dương để đến được cái tòa công trình bằng đá lạnh lẽo khô cằn ấy. Trông nó chẳng ăn nhập gì với những gam màu ấm nóng hừng lên xung quanh mình, tựa như một thực tại xù xì nhô ra khỏi bức tranh đầy mơ mộng. Ông cụ bán xăng nói, xưa kia nơi này vốn là một thị trấn, là nơi sản sinh ra nhiều linh mục đáng kính nhất cho đất nước này, chính giữa thị trấn là một giáo đường được dựng nên từ đá xám, lợp ngói vằn, xa về phía bờ hồ là tòa dưỡng viện giáo đồ.

Nhưng sau tất cả, u buồn là thứ di sản duy nhất được truyền từ đời này sang đời khác trên mảnh đất này, cùng một tòa thánh đường được phục dựng lại, cố gắng bắt chước dáng vẻ của tàn tích xưa cũ một cách đầy vụng về.

Taurus dựng chiếc xe đạp công cộng lại ngay ngắn trước trạm, bắt đầu chuyến hành hương ngắn thường nhật của mình về phía nhà thờ. Mùa này, hoa hướng dương vẫn chưa nở, cả cánh đồng chỉ rặt một sắc xanh rì của những chồi cây, cùng chút nắng vàng nhạt điểm xuyết trên lá để tưởng nhớ về những mùa hoa cũ. Cậu bước đi trên con đường đất nhỏ chậm rãi và thành kính như một đan sĩ đang bước vào bóng tối của giờ kinh nguyện, cố tìm kiếm tiếng chuông xa xôi nào đó mà ông đã từng một lần đề cập với cậu trong quá khứ. Khi ấy Taurus mới chỉ mười ba tuổi, và nơi này vẫn hẵng còn là một đồng hoang mọc đầy cỏ dại cao đến nửa người.

"Con có nghe thấy tiếng chuông không?" Người đan sĩ áo đen nắm chặt lấy tay cậu, ánh mắt xa xăm dõi về phía tòa thánh đường mới được sửa chữa xong cách đó không lâu, dù vậy vẫn không thể dứt mình ra khỏi cái u hoài buồn bã mà quá khứ đã để lại bên trong nó.

"Thưa không, con chỉ nghe thấy tiếng chim chóc, và tiếng xào xạc của cỏ cây."

"Con hãy thử đứng lặng một chút, rồi tiếng chuông sẽ vọng về từng hồi."

Taurus không dám nói gì, cậu nhớ mình đã đứng lặng ờ đó thật lâu, lâu đến nỗi mười phút cũng tưởng như sắp hóa thành một đời.

"Thưa, con thực sự không nghe thấy tiếng chuông nào cả."

Nếu như ngay cả khi đã đạt đến đỉnh cao của tĩnh lặng rồi mà vẫn không thể nghe thấy, thì tức là tiếng chuông đã không thể đi vào tần số cảm nhận của con. Người đan sĩ đã nói như vậy, và cũng từ ngày đó trở đi, không bao giờ ông còn nói với cậu về những tiếng chuông, những buổi lễ tụng, ông không bao giờ còn nói gì với cậu nữa, ông để cậu lại một mình trên cánh đồng hoa hướng dương, mãi mãi ngắm nhìn tòa tháp đã không còn chuông của giáo đường mà chẳng bao giờ tìm được cái âm vọng xa xăm mà ông đã từng gieo vào đầu cậu đó.

Nhiều năm sau này, người đan sĩ đã không còn là một đan sĩ, ông đã rời khỏi đan viện vì không còn giữ được sự vô ngã của mình dưới chân Thiên Chúa, ông chuyển đến ẩn cư tại tòa thánh đường vừa được xây mới lại từ bãi tàn tích cũ sau thế chiến, và tiếp tục sống cuộc đời khổ hạnh của mình trong sự thinh lặng tuyệt đối. Còn Taurus, cậu vẫn cứ quanh quẩn trong cái mùa hè năm mười ba tuổi ấy, tìm mãi tiếng chuông mà mình đã chẳng thể nghe thấy.

Tòa thánh đường này không mấy nổi tiếng, hầu như chỉ có cư dân lâu năm của Phố Cổ là hay ghé qua mỗi cuối tuần để đọc bài kinh nguyện. Cha George, vị linh mục trông coi nơi này vừa qua đời một tuần trước, người ta tìm thấy xác ông ở dưới hồ, không một vết thương, trên khuôn mặt còn vương chút gì đó nhẹ nhõm, như thể vào một ngày đẹp trời nọ, ông chỉ đơn giản là đứng dậy, bước ra hồ với một tâm thế thảnh thơi như đang chuẩn bị đi dạo mát, và rồi cứ thế gieo mình xuống dòng nước tĩnh lặng.

Người ta không tìm được lý do vì sao Cha George lại làm vậy, có người đoán ông bị trượt chân, cũng có người đổ cho chứng mộng du đầy tai hại đã dẫn ông đến chỗ chết, thậm chí có kẻ mê tín còn nghĩ rằng ông đã nhận được lời mời gọi của Thiên Chúa, dẫn lối ông mau chóng quay về phụng sự dưới chân Người. Có rất nhiều suy đoán, nhưng chỉ có một mình Taurus biết được, vào cái ngày cuối cùng trước khi Cha tự chấm dứt sinh mệnh mình, cái bóng dưới chân Cha đã kéo dài đến mức hoang hoải, trĩu nặng những mù sương bám đọng vào tận đáy tâm hồn. Dường như cái chết của Cha chẳng hề mang bất cứ một ý nghĩa tâm linh lớn lao nào, chỉ là trong một giây phút nào đó của cuộc đời, Cha chợt nhận ra nỗi buồn đã len lỏi quá sâu vào trong hồn cốt mình, đầy tràn trong từng mạch máu đến độ dư thừa khó thở. Chìm sâu xuống đáy hồ, cơ hồ là một cách để rũ sạch sương mù xám ngắt đã hòa làm một với cõi lòng ông.

Nhưng rốt cuộc nỗi buồn phải lớn đến cỡ nào mới có thể khiến người ta từ bỏ sự sống một cách nhẹ bẫng đến thế?

Taurus không biết, cậu chẳng biết một cái gì cả. Cậu đang sống trong một tòa tu viện mà chẳng thể hiểu nổi lấy một lời răn của Thiên Chúa. Những bóng ma của sự không hiểu ấy cũng đang bám lấy cậu, tạc vào xương cốt, và Taurus nghĩ đã đến lúc cậu cần phải lao xuống cái hồ của riêng mình để gột sạch những sắc xám nhức nhối ấy.

Phía trước cổng giáo đường có bóng một người đang đứng.

Chàng trai trẻ chỉ vừa bước qua ngưỡng hai mươi chẳng bao lâu, tấm lưng thẳng tắp nghiêm nghị đón lấy ánh mặt trời đổ xuống những lọn tóc nâu mềm mại, chiếc măng tô đen được cắt may cho vừa khít với dáng người anh như tấm áo choàng của người tu sĩ, thoạt trông như người được sinh ra để hành hương muôn đời về phía Chúa. Và có lẽ cậu ấy cũng sẽ thực sự trở thành một Tông đồ ngoan đạo, nếu như ngày hôm ấy anh không từ bỏ kỳ Tuyển sinh Ơn Gọi để theo đuổi đam mê ca hát. Có lẽ lựa chọn ngày ấy của anh không hề sai, vì giờ đây Capricorn Delwyn đã nổi danh khắp nước Anh như một thiên tài opera ngàn năm có một, được Nhạc viện Hoàng gia Birmingham gửi thư chiêu mộ dưới tư cách là sinh viên danh dự. Taurus vẫn nhớ khi Virgo nghe được tin này, hắn đã nói rằng kể từ cái ngày đầu tiên nghe Capricorn hát trong Ca đoàn, hắn đã biết rồi sẽ có một ngày anh ấy tỏa sáng theo cách này rồi.

Khi đó Taurus chỉ nghĩ rằng Virgo đang phán đoán cuộc đời người khác quá sức qua loa, nào ngờ nhiều năm sau đó, Capricorn thật sự đã bay lên đỉnh vinh quang bằng giọng hát của chính mình.

"Tại sao anh không vào?" Taurus bước đến bên cạnh Capricorn, lúc này cậu mới để ý cánh cổng sắt đã han gỉ của thánh đường vẫn còn đóng nguyên chưa hé ra chút nào. "Cửa không khóa đâu, ông em không bao giờ khóa cửa cả."

Capricorn dường như cũng không nhận ra có người tới, anh thoáng giật mình, giấu vội điếu thuốc đang cháy dở ra sau lưng, mãi đến khi nhìn rõ người bên cạnh là ai, anh mới thở phào một hơi, chậm rãi đưa điếu thuốc đã hút được phân nửa vào miệng, rít một hơi thật dài, sau đó mới bóp đầu thuốc để dập tàn lửa rồi nhét vào túi áo.

"Đừng nói với ai là em thấy anh hút thuốc nhé, phiền phức lắm." Capricorn lơ đễnh nhìn xa xăm. "Họ cứ bảo anh phải giữ giọng."

"Thì nên vậy mà, anh là ca sĩ, lại còn hát opera, hút thuốc nhiều là khàn giọng đấy."

Capricorn không nói gì, anh chỉ cười cười, dường như từ lúc biết nhau đến giờ, trong ấn tượng của Taurus, anh luôn đóng khung con người mình vào một nụ cười kiểu cách như vậy. Tựa như anh đang đeo một tấm mặt nạ da người, gói chặt toàn bộ xúc cảm của mình xuống dưới lớp da giả lạnh căm, không bao giờ bộc lộ ra kể cả với những người thân quý nhất. Trong mắt họ, Capricorn không biết buồn, cũng chẳng biết vui, anh đơn giản chỉ là một Capricorn với những suy nghĩ điên rồ chỉ-vì-anh-muốn-thế, hay ít nhất đó cũng là phần suy nghĩ được thêm vào sau cái lần anh từ bỏ tu viện để tham gia cuộc thi opera đầy hoang đường đó.

"Khàn thì thôi, anh chuyển sang hát cái khác. Đời mà, đâu chỉ có hát opera mới sống được đâu em." Đôi mắt nâu nhạt của anh khẽ rũ xuống, nhìn lướt qua cậu. "Taurus này, anh nghe mấy thầy cô ở trường nói em sắp đi?"

"Vâng, em đi Nhật."

"Nhưng tại sao?"

"Cũng không có gì, chỉ đơn giản là em cảm thấy mình phải đi thôi." Cậu sờ sờ mũi. "Cũng giống như anh bỏ kỳ thi Ơn Gọi để đi hát thôi ấy mà."

Trong một khoảnh khắc, Taurus cảm thấy như Capricorn vừa mới sững lại trong một giây. Cậu không nhìn lên, bởi có làm thế thì cũng vô dụng, cậu sẽ chẳng bao giờ tìm được gì trong đôi mắt và nụ cười của anh. Capricorn sẽ không bao giờ để cậu biết, kể cả khi anh có vô tình thất thố, thì anh vẫn sẽ luôn biết cách lấp liếm che đậy khôn khéo đến nỗi chẳng ai kịp nhận ra rằng anh đã từng sơ hở.

"Có nhiều thứ em vẫn không hiểu hết về anh đâu nhóc à, nhưng em đã suy nghĩ kỹ chưa? Ngài Robert sẽ rất buồn đấy."

"Em thì thấy việc mình cứ ở lì lại cái nơi không thuộc về mình này và mất phương hướng mãi sẽ còn khiến ông buồn hơn."

"Cha George vừa mất, em thì đi như thế, ông ấy cũng có tuổi rồi, ở một mình có ổn không?"

"Rồi Giáo Hội sẽ gửi xuống đây một vị linh mục mới, các linh mục giao tiếp với ông ấy hiệu quả hơn em. Họ hiểu được những câu nguyện của ông ấy, còn em thì không, em không hiểu được một cái gì hết anh ạ. Ông và em, chúng em đã sống với nhau im lặng thế suốt gần mười năm nay rồi."

"Có đôi khi anh chẳng hiểu nổi ông cháu em là thế nào luôn đấy."

"Không sao đâu anh, bởi vì em cũng không hiểu."

Capricorn nhìn cậu, lần này thì anh không cố giấu đi tiếng thở dài não nùng. Đoạn, anh rút từ trong túi ra một phong thuốc lá chỉ còn bốn năm cây, dúi vào tay Taurus điềm nhiên như cái cách mà trước đây anh vẫn luôn dúi kẹo bánh cho cậu.

"Lớn rồi, tập tành cái này cái kia một chút chẳng sao đâu, đừng hút nhiều như anh là được." Anh nháy mắt. "Dù anh chẳng thích mùi của nó cho lắm, nhưng nhìn mấy ngọn khói lững lờ tỏa ra từ đầu thuốc cũng giúp tinh thần thư giãn khá nhiều."

Taurus không từ chối, cậu nhét bao thuốc lá vào một ngăn nhỏ trong ba lô rồi cẩn thận kéo khóa lại. Dù linh mục mới chưa tới, dù ông chẳng bao giờ nói gì với cậu nữa, nhưng cậu vẫn nghĩ mấy thứ này tốt nhất là nên giấu đi thì hơn.

"Nói chứ, em đã báo cho thằng nhóc Lawrence chưa?"

"Cậu ấy là người đầu tiên biết chuyện, ban nãy tụi em vừa gặp nhau ở công viên Inverleith."

"Ừ, anh hỏi vậy thôi, giờ anh đi nhé."

"Anh không vào cầu nguyện ạ?"

"Còn ai nữa đâu mà cầu hở em."

Capricorn cười với cậu một cái thật tươi rồi rảo bước về phía đồng hoa hướng dương. Theo hướng anh đi, Taurus thấy một vùng bóng đổ, cũng dằng dặc hoang hoải và nhuốm đầy những khói xám, mỏng manh và mỏi mệt như khói thuốc.

.

Phía sau thánh đường, những ngôi mộ nằm im lìm thành năm hàng thẳng tắp. Những cây thập tự giá bằng đá có mới có cũ, có cái chỉ vừa mới được dựng nên, cũng có cái đã ẩm thấp rêu phong hết cả. Người đàn ông đứng trước ngôi mộ mới nhất, nhặt nhạnh mấy nhành hoa đã úa tàn người ta đặt lên khi đến viếng mộ ra, lại sắp thêm ít hoa ly trắng lên trên mộ. Từng hành động, cử chỉ của ông đều mang theo vẻ thành kính như thể đang làm một công việc trang trọng nhất trần đời. Cứ như thế, ông lần lượt chăm sóc cho từng ngôi mộ một, thay hoa trên mộ mới và lau chùi bia đá cho những ngôi mộ cũ. Ông giữ gìn cái địa hạt của người đã khuất như giữ gìn một miền đất thánh, ròng rã suốt sáu năm trời chưa từng thay đổi. Tấm áo chùng màu đen đã bạc màu hết cả như một minh chứng cuối cùng cho thân phận đan sĩ của ông trong quá khứ, cho dù đã rời khỏi đan viện từ lâu, nhưng ông vẫn sống cả đời mình như một nhà tu hành khổ hạnh. Ông yêu Thượng Đế bằng cả tấm lòng của một kẻ hành hương, ông biến cuộc đời mình, và cả cuộc đời của Taurus nữa, thành một đan viện vô hình không lối thoát.

"Ông ơi." Mãi đến khi người đàn ông đã xong xuôi công việc, kéo lại chiếc mũ trùm che đi mái tóc đã ngả hẳn sang màu bạch kim, Taurus mới dè dặt lên tiếng. "Cháu được nhận học bổng rồi, tháng Bảy này cháu sẽ đi cho kịp học kì mùa thu."

Người đàn ông không nói gì, đã từ rất lâu rồi ông không còn nói gì nữa ngoài những câu kinh Thần Vụ ông vẫn thường tụng niệm mỗi ngày. Ông đứng giữa những bia mộ, ánh mắt xanh lơ nhìn về phía cậu mang theo một nỗi buồn dài dằng dặc, phủ trùm lên hồn xác và cả không gian xung quanh ông. Trong thoáng chốc, Taurus ngỡ chừng như ông vừa ở lại trong cõi vĩnh hằng của những linh hồn đã chết, trở thành một phần trong số họ, và chỉ cần một cái chớp mắt khẽ thôi, ông sẽ vỡ thành từng mảnh, tan biến mất hút vào cõi xa xôi, nơi tiếng chuông mà Taurus không bao giờ có thể nghe thấy kia vẫn âm vang từng hồi.

Bạn đang đọc truyện trên: truyentop.pro