Oneshot

Nước Anh kết thúc Đệ Nhị Thế Chiến với mức thâm hụt 249% tổng sản phẩm quốc nội. 

Đây vốn dĩ không phải là cuộc chiến mà Anh bắt buộc phải tham gia. Đệ Tam Đế Chế vốn không hề có ý định xâm chiếm nước Anh. Họ đã từng có ý định nghị hòa và chia vùng ảnh hưởng với nước Anh sau khi họ chiếm được miền Bắc nước Pháp. Cho dù là vậy, Anh vẫn quyết định tiếp tục chiến tranh với Đức. 

Sau Đệ Nhị Thế Chiến, nước Anh hoàn toàn kiệt quệ, phải vay nợ cả những thuộc địa của mình. Có thể nói rằng, nước Anh đã vét đến đồng cuối cùng trong ngân khố của mình để mang nước Pháp trở lại.

Nhân quốc Mỹ Allen J. Jones, con trai của nhân quốc Anh Arthur Kirkland, đã nói với cha cậu rằng: "Ông thực sự sẽ làm mọi thứ vì người đó."

Arthur đáp lại: "Ngươi cũng vậy mà. Ngươi chỉ luôn giả vờ rằng ngươi không có tình cảm sâu nặng với anh ấy thôi."

Allen cáu bẳn: "Im đi. Ông ấy dù sao cũng là thầy tôi, tôi làm thế cũng là vì xét tình xưa nghĩa cũ thôi." Cậu đảo mắt. "Giờ thì ký vào giấy nợ của ông đi."

Arthur cũng không đôi co nữa. Hắn ký một đường trên tờ thỏa thuận sang nhượng tài nguyên, các mỏ lẫn cổ phần của các công ti ở những thuộc địa cũ của hắn cho con trai hắn. Khi nét bút vừa dứt, nó vạch ra một đường ranh mới, rằng thời đại hoàng kim của Anh Quốc đã kết thúc. Kể từ hội nghị Yalta, Arthur đã biết hắn chỉ còn là cái bóng lầm lũi của con trai hắn.

Số nợ mà nước Anh phải gánh lấy từ Đệ Nhị Thế Chiến dẫn đến một vấn đề khó khăn khác cho nước này. Để có thể trả được số nợ đó, Anh không chỉ đánh mất ngai vàng, mà còn phải bán đi những gì tốt nhất của mình. Một trong số những thứ đó là than đá. Loại than chất lượng cao, ít độc hại đã phải mang đi xuất khẩu hết. Trong nước, bọn họ chỉ có thể dùng loại than kém chất lượng, dạng bột mịn, dễ khuếch tán.

Rất nhiều nhà máy điện ở Luân Đôn chạy bằng than. Mùa đông của những năm ấy lạnh hơn bình thường, khiến một số lượng lớn than bụi được tiêu thụ.

Hàng tấn, hàng tấn chất hóa học độc hại bị thải ra hằng ngày. Hàng tấn bột than và chất hóa học nhiễm vào làn sương mù của Luân Đôn, và khi mặt trời rọi đến thành phố, màn sương mù hóa thành những đám mây acid được cô đặc. Những đám mây đó có màu vàng lờ lợ, ngả xanh lá, trông như súp đậu. 

Sẽ là nói dối nếu bảo rằng Arthur không cảm thấy buồn nôn khi nhìn màu vàng ngả xanh đó. Hắn cũng không rõ hắn buồn nôn vì bài xích thứ độc hại đó qua thị giác, hay là vì sự ô nhiễm trầm trọng của Luân Đôn khiến hệ tiêu hóa của hắn không được bình thường.

Thảm họa Đại Sương Mù xảy ra. Arthur chống chịu được qua khỏi thảm họa, dù sao thì chính quyền hắn vẫn đang ngập trong nợ nần, hắn không thể để chính mình gục ngã. Nhưng với thêm một thảm họa tương tự mười năm sau đó, Arthur chính thức gục ngã. Một tháng sau, Arthur phải nhập viện trong tình trạng tắc nghẽn đường hô hấp và nhiễm trùng phổi. Từ trước đó, Arthur đã có thói quen hút thuốc vô tội vạ vào những cuộc họp khủng khiếp thời Thế Chiến, mà vào thời bình, hắn không cách nào bỏ được. Vấn đề này cùng với ảnh hưởng từ Đại Sương Mù đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến phổi Arthur.

Trước cả khi phải nhập viện, Arthur đã đánh điện đến Pháp để cấm gã bạn thời thơ ấu của hắn đến Luân Đôn. Đây không phải là lần đầu tiên không khí của Luân Đôn bị ô nhiễm nghiêm trọng như thế, vấn đề này đã hiển hiện từ những năm đỉnh cao của công nghiệp hóa thế kỷ XIX. Năm 1948 đã có một lần sương mù tương tự thế này, nhưng không có lần nào nghiêm trọng như Đại Sương Mù năm 1952 và năm 1962. Tình hình của Luân Đôn đang rất độc. Dù là nhân quốc đi chăng nữa thì việc nhiễm phải màn sương mù súp đậu này cũng không phải là một trải nghiệm dễ chịu.

Vậy mà, câu trả lời từ Paris chỉ vỏn vẹn mấy chữ: 

"Mày càng cấm thì tao càng làm. Mày cản được tao à?"

Là như vậy đó. Chỉ vì chạm vào một chút tự ái của người ta mà bây giờ cái người đang lau người cho bệnh nhân Arthur là nhân quốc Pháp. Francis Bonnefoy, một cách tự nhiên, mang cả cái vali của mình đến bệnh viện, bỏ một mớ tiền để chuyển Arthur đến phòng riêng và trở thành người chăm sóc chính của Arthur. Không thiếu hộ lý và y tá chăm sóc Arthur, phải nói là vậy. Nhưng Francis giành việc của họ. Tại sao?

"Tại vì cái mặt ngộ nghĩnh đó khi tao lau người cho mày quả là thứ buồn cười nhất tao từng thấy."

Arthur tức đến nỗi vơ lấy bình hoa bên cạnh giường bệnh để ném vào Francis, nhưng Francis nhanh tay vớ lấy bình hoa đó và thu ở sau lưng. Gương mặt đẹp trai của anh cười một cách chòng ghẹo và thách thức.

"Mày-mày-" Arthur thở hổn hển. Phổi của hắn đang không hề tốt. Francis vỗ vỗ lưng hắn với vẻ an ủi rất kịch, nhưng Arthur không thể làm gì anh được. "Hừ, vừa mới loại tao ra khỏi EEC, giờ xìa mặt mày đến làm gì? Để chọc điên tao thêm à?"

Cuối cùng, Arthur đành chịu thua, để cho Francis làm gì mình thì làm. Hắn không bận tâm nữa. Cũng không phải lần đầu Francis tự tiện tới nhà hắn rồi chăm sóc cho hắn.

Nhìn thấy Arthur ngưng cự nự, Francis cũng không trêu chọc Arthur nữa. Anh ngồi bên giường bệnh, tay cầm lấy tay của Arthur, những đầu ngón tay xoa nắn lấy những khớp tay gồng cứng của bạn mình.

"Ôi thôi đi, gay quá." Arthur nói, nhưng không hất tay Francis ra.

"Cái tôi nam tính của mày mong manh đến nỗi cầm tay với trai cũng khiến mày cảm thấy bị đe dọa ư?"

"Đừng nói xằng. Bây giờ tao với mày có hôn nhau thì tao vẫn không gay." Arthur cười gằn.

Francis đảo mắt cười mỉa. Đây không phải là lần đầu lời nói thách này được đưa ra, cũng không phải lần đầu bọn họ hôn nhau để chứng minh rằng mình không đồng tính. Chỉ là, bây giờ Arthur đang ốm bệnh thế này, sấn tới khi hắn đang yếu ớt thì chẳng hề quân tử chút nào, dù chính hắn là người thách thức. Francis chỉ vén những sợi tóc vàng rơm lòa xòa của Arthur lên, lướt đầu ngón tay lên bọng mắt thâm phía dưới đôi mắt xanh ngọc lục bảo của Arthur.

"... Lần ô nhiễm này nghiêm trọng đến vậy ư?" Francis hỏi. 

"Ờ đấy. Thực ra nó cũng chỉ là cọng rơm làm gãy lưng con lạc đà thôi. Tình trạng ô nhiễm đã bắt đầu từ thời Charles Dicken viết sách chửi mắng chính quyền Anh Quốc rồi." Arthur khoanh tay tư lự. "Sau vụ này chắc chỗ tao cũng ra thêm vài đạo luật về môi trường. Không thể thế này mãi được."

"Ừm, tao cũng không muốn." Francis gật đầu. "Suy nghĩ rằng carbon dioxide sẽ được đại dương hấp thụ hóa ra chỉ là nhận thức sai lệch. Khí ấy rồi sẽ tích tụ trong khí quyển. Tao vẫn chưa hình dung rõ ràng nó sẽ ảnh hưởng đến toàn cầu thế nào, nhưng nó làm tao liên tưởng đến váng dầu nổi lềnh bềnh trên nước. Tình hình cho nhân loại thực sự đáng ngại."

"Lại nữa, cái phức cảm Đấng Cứu Thế của mày." Arthur phác một cử chỉ trên không trung. "Mày không thể cứu được cả nhân loại đâu."

"Không Artie ạ. Tao lo lắng về tình hình thế giới không phải là vì tao muốn làm Đấng Cứu Thế." Francis nhìn Arthur. "Mày là một đảo quốc. Mày dễ bị tổn thương bởi biến đổi khí hậu hơn là tao."

Lời của Francis khiến Arthur nghẹn lời mất một lúc. Hắn vừa mới nghe đối thủ của hắn nói rằng anh ta đang lo lắng cho hắn đấy chăng?

"Tao không yếu ớt đến vậy-"

"Bao lâu rồi mày không nhìn thấy những tiểu tiên đó?" Francis ngắt lời.

Arthur mở miệng, mấp máy môi mà không thể nói thành lời. Hắn bối rối gãi đầu.

"Cũng... vài trăm năm rồi. Bọn họ đều ở chỗ anh cả tao." Arthur nói. "Bọn họ không thể chịu nổi Luân Đôn. Anh tao cũng viết thư nói với tao rằng ở trong rừng nơi anh ấy sống, các tiên chết rất nhiều."

"Đây là một điềm rất xấu..." Francis lắc đầu.

"Tao biết chứ."

"Ừ nhưng... mày có nghĩ, sẽ thế nào nếu như tận thế ập đến với chúng ta?"

Lời của Francis gợi lại một ký ức xa xăm của bọn họ. Vào năm 999, đã có một lời đồn về ngày tận thế khi bước qua năm 1000. Bọn họ lúc ấy chỉ mới là những đứa trẻ, làm sao có thể không sợ hãi trước viễn cảnh tận thế chứ? 

Rốt cuộc thì chẳng có thảm họa nào cả. Hai người bọn họ bước qua thiên niên kỷ mới một cách yên bình.

Nhưng nếu lần này tận thế ập đến, thì không phải là đến từ những lời đồn nữa. Nó đến từ những thứ rất hữu hình ngay trước mắt.

Nếu quả thật sẽ có tận thế, Arthur cũng không hoảng loạn, sợ hãi như ngày còn thơ. Hắn cũng không thực sự rõ tại sao lại thế. Có lẽ thời gian sống quá lâu như vậy khiến hắn không cảm thấy quá tiếc nuối nếu một mai Thần Chết gõ cửa nhà hắn. Hắn không sợ nỗi đau cận tử, hắn đã chết trên chiến trường bao nhiêu lần rồi chứ? Hắn cũng không sợ sự hư vô. So với những thường nhân khác, hắn đã có một cuộc đời dài, nhìn thấy đủ thứ kỳ hoa dị thảo từ đất liền đến biển khơi rồi. Trải nghiệm như thế không thừa, nhưng cũng có thể xem là khá thỏa mãn nếu một mai hắn biến mất.

Hắn không sợ chết. Hắn chỉ sống vì cảm thấy đó là nghĩa vụ của hắn, hắn sẽ không để ai tước khỏi hắn thứ nghĩa vụ này. Thật kỳ lạ. Tại sao hắn lại không chịu buông tay với thứ nghĩa vụ phiền phức này?

Francis cũng không hỏi khó Arthur nữa. Anh ép Arthur nằm xuống giường, còn mình đứng dậy thay nước cho chậu hoa.

Gã người Pháp này vẫn tiếp tục ở lại với Arthur trong nhiều ngày sau, đút từng muỗng ăn cho Arthur (Arthur không phải là không chống cự đâu nhé! Nhưng cái gã người Pháp đó, cứ ép hắn, nên hắn đành phải mở miệng ra mỗi khi Francis nói "Aaaa". Chậc chậc.), cho đến khi Arthur xuất viện. Nhân cơ hội đó, Francis đề nghị Arthur đến miền Nam nước Pháp nghỉ dưỡng một chuyến, hoặc là du lịch xuyên Tây Âu cùng với anh cũng được. Arthur ban đầu không chịu, hắn muốn trở lại làm việc ngay lập tức, đặc biệt là khi Pháp vừa mới từ chối Anh tham gia vào EEC. 

Tuy vậy, khi Francis ôm Arthur từ đằng sau thủ thỉ:

"Cái này là có qua có lại mà! Là tao muốn mày đi cùng tao. Mày đi cùng tao thì tao sẽ báo đáp mày mà!"

"Báo đáp"? Nghĩa là Francis sẽ "trả" lại cái gì đó để Arthur đi nghỉ một chuyến với anh ta ư? Chà, nghe ngôn từ mới gợi hình, gợi cảm làm sao. Arthur bắt đầu tưởng tượng đến những phương án khác nhau cho sự báo đáp của Francis. Tính thế nào cũng thấy hời.

Trước khi Arthur nhận ra, hắn đã ở trên chuyến tàu xuyên Châu Âu cùng Francis.

Bọn họ bước qua những cánh đồng tulip đỏ thắm ở Hà Lan, những cánh đồng mà họ biết rằng rất nhiều trong số chúng rồi sẽ được gửi đến Canada để tri ân sự giúp đỡ của Canada với người Hà Lan trong Đệ Nhị Thế Chiến. Những con phố lát đá cuội của Bỉ mở ra chào đón họ, đưa họ đến ngắm nhìn tháp chuông Belfry vươn mình kiêu hãnh giữa trời xanh. Họ đi về phía nam, vượt dãy Alps để đến Thụy Sĩ, thơ thẩn nhìn những con dê thư thả gặm cỏ giữa một màu xanh lục trải dài ngút ngàn tầm mắt. Ở Venice, bọn họ ngồi trên những chiếc thuyền gondola để nhìn ngắm thành phố ngập trong nước. Những ban công rộ nở đầy hoa đón chào họ vào mỗi buổi sáng, những trưa nắng oi ả bên bờ biển xanh, những bữa ăn thơm phức bơ và sữa, tiếng xôn xao náo nhiệt của những phiên chợ, và bầu trời rợp cả vì sao ở trên đầu họ khi họ cùng nhau rảo bước ở những ngõ đường vùng nông thôn.

Những nơi này không phải là bọn họ chưa hề đi qua, nhưng mỗi lần bước đến một vùng đất, bọn họ lại có những trải nghiệm khác nhau. Có những nơi đã khác nhiều chỉ sau vài năm. Có những nơi, vẫn chẳng hề đổi thay dù là bao thế kỷ đã trôi qua. Dù là thế nào, cũng thật tốt.

Ở Đức, Francis kéo tay Arthur đi giữa rừng thông mênh mông. Trong khu rừng ấy, những hàng thông thẳng tắp vươn lên như những chiếc cột chống trời. Thỉnh thoảng chim sẽ lượn quanh đó. Đôi lúc là những cái đuôi sóc lấp ló trên những cành cây. Đó là điểm cuối của cuộc hành trình của họ. Bởi vì, hiện tại, Berlin vẫn đang bị chia cắt.

Francis cứ mãi ngẩng mặt lên nhìn những ngọn cây tăm tắp trên trời, khiến Arthur phải dắt tay dẫn anh đi. 

"Cái cảm giác này... cảm giác như tao đang trở lại căn bếp ở đó vậy." Francis mơ màng nói.

"Căn bếp nào?" Arthur cau mày thắc mắc. Tại sao đi giữa rừng thông, mà Francis lại nghĩ đến một không gian chật chội như căn bếp? Cái gã người Pháp này chưa bao giờ hết quái đản.

"Mày có nhớ lần bọn mình thuê trọ cùng nhau không? Chắc là không nhớ nhỉ? Để tao nhắc lại cho: nhà trọ giá rẻ thôi, đồ đạc của chủ cũ còn bị bỏ lại và rất bừa bộn. Căn trọ đó rất bẩn, bụi bặm và thậm chí là đất đai bám khắp nơi."

"Ờ, tao nhớ mà." Arthur nói. Bọn họ lúc đó đang thực hiện nhiệm vụ ám sát, nên đã thuê một căn trọ nhỏ ở một tòa nhà cao ở Genève. "Nó bẩn như vậy nhưng mày lại khoái nó dữ dằn."

"Đúng vậy. Còn gì thú vị và nhiều thứ để tìm tòi hơn một không gian lộn xộn?" Francis cười. "Mày biết thứ thú vị nhất tao tìm thấy trong căn nhà đó là cái gì không?"

"Là cái gì?"

Nụ cười của Francis hơi dịu lại.

"Tao tìm thấy một mầm cây. Ở trong căn bếp."

Nhắc mới nhớ, hồi ấy, Arthur thường thấy Francis dành thời gian lui cui trong bếp. Ban đầu, hắn cho rằng Francis chỉ đang trở thói thích-dọn-dẹp của mình thôi (và nấu ăn cho cả hai người vì Arthur không thể phân biệt được giữa nấu ăn và điều chế độc dược), hắn không nghĩ rằng Francis vậy mà lại đang ngồi quan sát một cái mầm.

"Một cái cây ư? Căn nhà đó đúng là bẩn lắm rồi." Arthur đảo mắt. "Sau vụ ám sát, bọn mình bỏ của chạy lấy người còn không xong, mày còn đòi ở lại dọn cái trọ đó."

"Ừ... nhưng đó không phải là trọng điểm. Trọng điểm là mầm cây." Đôi mắt tím của Francis dần trở nên mơ màng. "Nó có màu xanh ngắt, tươi mới và non nớt. Hai cái lá nhỏ của nó chìa ra ngoài một cách rụt rè mà cũng đầy hy vọng..." 

Nói đến đấy, Francis im bặt. Trông anh không còn vui vẻ nữa.

Không khó để đoán mầm cây ấy như thế nào. Trong một căn bếp dính bụi đến nỗi đóng ván cả đất, không khí thì ẩm ướt, và nước sinh hoạt được rảy lung tung nhiều lần đến nỗi ngấm vào cả những kẽ hở trong bê-tông, một mầm cây xanh biếc vươn lên giữa khung cảnh xám xịt đó. Nảy mầm trong một môi trường khắc nghiệt đến vậy, nó mang trong mình sức sống mới mạnh mẽ làm sao.

Nhưng dù sao nó cũng chỉ là một mầm cây. Dù nội lực và ý chí có mạnh mẽ đến đâu, thì thực tế nó vẫn chỉ là một mầm cây yếu ớt, dễ dàng bị nhổ bỏ bất kỳ lúc nào chỉ với một cái nhấc tay nhẹ của con người. Nó cũng không thể nghịch đảo được không gian sống của nó. May mắn cũng là một loại tài năng, mà nó lại không có nổi loại tài năng đó. 

Hẳn rồi, mầm cây ấy không thể sống qua ba ngày trong căn bếp ẩm ướt, làm từ bê tông và thiếu cả đất đai lẫn ánh sáng đó.

"Vậy là lúc ấy, mày muốn nán lại là để mang theo mầm cây đó à?" Arthur không cần giải thích nữa, hắn đã hiểu.

"Mày tin không, tao đã buồn mất ba ngày chỉ vì một mầm cây nhỏ như vậy đấy." Francis nói. "Tao nhìn nó, và tao nghĩ đến nhiều điều lắm."

"Tao hiểu."

Biết bao nhiêu đứa trẻ, sinh ra trong một không gian nghèo túng và đầy chất độc, cuối cùng phải cam chịu số phận héo úa trong góc phòng? Biết bao nhiêu sinh linh chưa được nhìn thấy ánh sáng mặt trời đã phải tắt thở dưới sự tàn nhẫn của người lớn? Biết bao nhiêu người nghèo chết nghẹt dưới khói bụi từ những nhà máy lớn, mà tiền được sinh ra từ những nhà máy đó lại chẳng hề quay ngược trở lại chạy chữa cho họ? Bao nhiêu người trong số đó có khả năng khám phá được những bước đột phá của khoa học, rồi cuối cùng phải chấp nhận chôn vùi bản thân dưới hầm mỏ? Bé gái lẽ ra đã là nữ tổng thống đầu tiên của Hoa Kỳ biết đâu đã phải chết với cơ thể tím tái vì sự cay nghiệt của người mẹ kế thì sao? 

Và kể cả khi những người ấy chỉ là những người bình thường, năng lực chẳng có gì vượt trội hơn đồng loại, cũng xứng đáng được sống một cách đúng nghĩa không khác gì những tài năng bị chôn vùi. Đó là quyền phổ quát, nhưng họ không có được quyền đó. Trong khi, lịch sử của nhân loại, chẳng hề được chống đỡ chỉ bởi những cá thể vượt trội. Nền tảng của tất cả xã hội, tất cả văn minh, đều được xây dựng bởi những kẻ vô danh và bình thường như thế.

Francis ngẩng đầu nhìn Arthur chăm chú. Dưới ánh nhìn của Francis, Arthur thấy hơi bối rối. Hắn nhìn qua chỗ khác, làm như thể đang định hướng, không để ý đến cái nhìn của Francis.

Mặc cho Arthur đang có ý né tránh, nhưng Francis vẫn đưa những đầu ngón tay của anh chạm lên mặt Arthur.

"Mày biết không, một trong những điều tao nghĩ đến khi nhìn thấy mầm cây ấy, là mày."

Không để cho Arthur trả lời, Francis nói tiếp.

"Từ một đảo quốc chỉ toàn là sỏi đá, mày có thể vươn lên thật cao đến như ngày hôm nay... mày dẫn đầu thế giới về thương mại và công nghiệp, mày trở thành một trong những nước giàu có và quyền lực nhất, thực sự rất đáng nể. Tao biết rằng mày đã gặp rất nhiều may mắn, nhưng mỗi khi tao nghĩ về mày, tao luôn cảm thấy mày kỳ diệu."

"Nhưng ngày vinh quang đã lùi xa khỏi tao rồi." Arthur lắc đầu. Lần đầu tiên trong một khoảng thời gian thật dài, hắn khiêm tốn trước đối thủ của hắn. "Tao đã phải ký vô số giấy nợ với Mỹ và Canada. Tao có được tiếng thơm là siêu cường vì nắm trong tay những tuyến hàng hải huyết mạch và những thuộc địa lớn, nhưng thực ra, so sánh về lục quân của lục địa Châu Âu, tao vẫn không thể bì được mày và những hàng xóm của mày. Một quốc gia khó có thể phát triển đều giữa hải quân và lục quân, tao đã chọn vế trước, thì vế sau của tao cũng đầy khiếm khuyết. Tao chỉ có thể tập trung khai thác tài nguyên ở những vùng đất mới, chứ chẳng thể cạnh tranh với các cường quốc lục địa một cách trực tiếp."

"Không, mày vẫn đang không hiểu ý của tao. Tao không quan trọng mày đang là hay đã từng là siêu cường." Francis nói. Những đầu ngón tay của anh rê trên làn da nhợt nhạt của đối phương. "Ý của tao là, tao thực sự rất biết ơn vì mày đã kiên cường đâm xuyên qua lớp bê tông trong căn bếp đó, để rễ của mày len lỏi qua những vết nứt và trổ mình thành một bóng cây cao lớn dưới ánh mặt trời không bao giờ lặn. Vì vậy..."

Francis lặng đi một lúc. Rồi anh nói, nghẹn ngào.

"Tao mong mày cố gắng... đừng biến mất. Đã cao lớn đến vậy rồi, đừng biến mất một cách bất lực như mầm cây yếu ớt kia."

"Trông mày kìa! Lại cái thói dễ xúc động đó!" Arthur phàn nàn. "Tao đã nguy kịch gì đâu mà mày lại làm như thể tao sắp xuống lỗ đến nơi như vậy?"

Thực ra, lời của Francis không phải không có căn cứ. Arthur chỉ không muốn thừa nhận.

Cho dù con người có hùng mạnh, cho dù ý chí có can trường đến đâu, thì chỉ một thảm họa tự nhiên cũng đủ để quét sạch hầu hết loài người trên mặt đất. Giống như mầm cây nhỏ trong căn bếp kia vậy. Mà nhân quốc bọn họ, được tạo thành từ con người kia mà. Bọn họ cũng không khác với mầm cây nhỏ kia. Tự nghĩ rằng mình là bất khả chiến bại, thực ra chỉ là ngoảnh mặt làm ngơ với tình trạng thực sự của mình và tự đánh lạc hướng nỗi sợ cái chết bằng những khoái lạc ngắn hạn mà thôi. 

Gần đây Allistor nhiều lần viết thư phàn nàn với Arthur rằng các vị tiên và đàn ngựa một sừng của anh ngày càng dễ đau ốm. Đã lâu rồi Arthur không còn gặp các tiên. Hắn làm như thể không nhận thấy ánh mắt trách móc của các tiên khi hắn bước vào thời kỳ công nghiệp hóa, nhưng hắn biết hết. Các tiên đã cố cảnh báo hắn, cố nhắc nhở hắn, nhưng chỉ hoài công.

Để có thể đâm xuyên rễ cây qua lớp bê tông, Arthur còn có thể làm gì khác chứ?

Francis chạm vào một thân cây to lớn, dày dạn, nhẹ nhàng như thể anh đang chạm vào lá mầm của ngày ấy.

"Tao không thể nói giữa một mầm cây non nớt chết héo trong một không gian nghèo nàn, và một cây cổ thụ nghìn năm tuổi và có bề dày lịch sử cuối cùng lại gục ngã, cái nào khiến tao đau hơn nữa?" Anh nói. "Có phải tuổi tác đã cao khiến chúng ta dễ xúc động hơn rồi chăng?"

"Mày thì lúc nào chẳng xúc động?" Arthur hỏi ngược lại. "Chúng ta đã từng trải qua bao nhiêu là thứ, bao nhiêu là cái chết, bao nhiêu là vinh quang. Chúng ta là chứng nhân của sự xấu xa khủng khiếp lẫn sự từ ái vô biên của loài người. Giả như... nếu Hoa Kỳ và Liên Xô xảy ra chiến tranh hạt nhân và tận thế đến ngay bây giờ, tao không sợ. Tao tiếc cho những sinh mạng đang sống trên hành tinh hiện tại, nhưng bản thân tao, tao nghĩ đến đây là đủ."

Francis quay lại nhìn Arthur. Ánh nắng xuyên qua những rặng thông, rải lên mái tóc bạch kim của anh khiến anh trông như thể đang mang trên tóc những mảnh đá quý nhỏ lấp lánh. Arthur hơi ngẩn người.

"Thế thì... tại sao, mày vẫn còn sống?" Francis hỏi. "Tao chưa bao giờ thấy mày có vẻ gì là muốn từ bỏ cuộc sống này cả."

Nhìn cảnh tượng trước mắt, Arthur nghe thấy tim mình đập chậm lại. Tai hắn bắt lấy tiếng chim reo ngợi ca một ngày đẹp trời, và tiếng gió xuyên qua rừng thông thầm thì vào tai hắn những bí mật của tự nhiên. Một chiếc lá kim rơi trên mái tóc bạch kim của Francis. Đã lâu rồi hắn không trải qua cảm giác này.

Arthur đưa tay gỡ chiếc lá kim ấy khỏi người đối diện.

"Là bởi vì tao thích được sống." Hắn trả lời. Chính hắn cũng hơi ngạc nhiên trước câu trả lời của mình. Hắn chưa bao giờ biết rằng hắn thích được sống, cho đến lúc này. "Ngay cả khi tao đã trải qua đủ loại chuyện trên thế gian, tao vẫn không cảm thấy mình sống cho đủ. Bởi vì..."

Hắn nhìn Francis. Hắn nhớ lại chuyến hành trình của họ, rồi lại nhận ra lý do tại sao Francis nằng nặc bảo hắn đi du lịch cùng anh. Mọi giác quan của hắn đều chậm lại. Hắn cảm nhận được từng nhịp thở phập phồng của mình. Hắn không biết nên nói câu tiếp theo thế nào.

"Thế giới này thật đẹp biết bao." Hắn nói.

Sau đó, bọn họ trao cho nhau một nụ hôn.

***

"MÀY ĐÃ BẢO RẰNG MÀY SẼ BÁO ĐÁP TAO NẾU TAO CHỊU ĐI CÙNG MÀY!" Arthur mở tung cửa văn phòng của Francis bước vào. Hắn đập bàn giận dữ. "Vậy thì việc từ chối tao vào EEC là thế nào???"

"Tao báo đáp rồi đấy thôi." Francis thản nhiên dũa móng tay.

"Báo đáp chuyện gì? Khi nào??" Arthur cau mày.

Francis đưa mặt anh tới gần gương mặt đang cúi xuống của Arthur. Anh cười, còn người kia đỏ mặt.

"Mày không nhớ nụ hôn lúc đó à?" Francis hạ giọng nhưng lại làm Arthur giật nảy mình. "Hay để tao nhắc lại cho mày nhớ nhé? Lúc đó, bọn mình ở trong rừng Schwarzwald của Đức, cứ như đang lạc giữa truyện cổ Grimm vậy. Mày cứ nhìn môi tao, và-"

Francis chưa kịp nói hết, Arthur đã đưa hai tay che miệng anh lại. 

"Đủ rồi! Tao nhớ, không cần nhắc!" Arthur nói với giọng lí nhí. "Đồ gian xảo. Tao đã nghĩ mày sẽ cho tao vào EEC đấy."

"Đâu ra chuyện dễ thế nhờ~" Francis nhún vai. "Công tư phân minh, ái tình dứt khoát. Trả công cho mày rồi, thì chuyện công cũng không liên quan gì nữa."

"Vậy mà bảo là không muốn tao biến mất. Đúng là nước mắt cá sấu mà!"

"Không có liên quan nhé! Tao không muốn mày biến mất không có nghĩa là tao sẽ hết o ép mày." Francis ôm bụng cười ngặt nghẽo.

Arthur đảo mắt một vòng quanh văn phòng. Đầu kia văn phòng chỉ có một người đang ngồi viết một số giấy tờ, ngoài việc anh ta rót một cốc nước đặt lên chỗ ngồi của Arthur thì có vẻ như anh không để ý đến việc gặp gỡ của sếp anh lắm, mà chỉ tập trung làm việc của mình.

Nhanh như chớp, Arthur dán miệng mình lên miệng Francis. Hành động của hắn khiến Francis hoảng loạn. Anh không muốn cấp dưới nhìn thấy anh như thế này. Nhận thấy sự hoảng loạn của Francis, Arthur lại càng giữ chặt đầu của đối phương hơn. Hắn không rõ người đang ngồi ở đầu kia phòng có nhận thấy bọn họ đang làm gì không, mà hắn cũng không quan tâm. Dù sao sếp của anh ta là Francis, nếu Francis có bị lan truyền tiếng xấu, thì cũng là anh chịu, không phải là hắn.

Vả lại, Arthur vốn dĩ chưa bao giờ có ý muốn dập đi tin những đồn về mối quan hệ mờ ám giữa hắn và Francis.

Đến khi Arthur thả Francis ra, cổ áo của Francis đã có dấu hiệu xộc xệch, mà môi của anh thì sưng đỏ lên. Anh sờ lên môi mình, tức tối:

"Mày làm cái gì ở nơi làm việc của người khác vậy hả?"

"Tao đã trả lại món quà ngày ấy rồi." Arthur khoanh tay với dáng vẻ của kẻ giờ lại chiếm thế thượng phong. "Bây giờ tao yêu cầu mày báo đáp bằng một cách khác."

Francis quay ngoắt đầu đi, những lọn tóc bạch kim lúc lắc trong không trung. Cái mặt anh hếch lên, còn đôi mi dày nhắm lại từ chối nhìn Arthur.

"Không trả."

"Này-"

"Tao không đôi co với một kẻ gian thương như mày!" Francis nói. "Hành động vừa rồi cho thấy mày không phù hợp với EEC!"

"Cái gì của tao mà mày chẳng bảo rằng là không phù hợp với EEC!"

"Không hợp là không hợp!" Francis chỉ để lại một câu giải thích lập lờ không có luận điểm gì.

Sau đó, Francis hất mặt sai nhân viên của anh tiễn Arthur ra ngoài.

Trước cánh cửa đóng sầm lại trước mặt, Arthur không khỏi tức tối. Hắn chẳng có thể làm gì khác ngoài việc lái xe về khách sạn, rồi về lại Luân Đôn trong chiều hôm đó.

Trong văn phòng, nhân viên của Francis thỉnh thoảng lại thấy sếp sờ lên môi một chút. Thỉnh thoảng lại thở dài rầu rĩ. Anh giả vờ như không thấy, không nghe cái gì cả. Nhưng chuyện xảy ra trong căn phòng ấy thì hôm sau có thêm khoảng mười người biết.

Về đến Luân Đôn, việc đầu tiên Arthur làm là liên lạc đến các anh chị em mình. Trong số các anh chị em, thì Allistor và Dwynwen rất khó liên lạc. Anh trai cả của Arthur thường lang thang trong rừng để chăm sóc động vật và cây cỏ. Trong khi đó, chị gái hắn lại là cô dâu của một vị thượng tiên. Thường thì hắn chỉ có thể liên lạc đến Dwynwen bằng cách truyền lời đến Allistor. Mà để nói chuyện với Allistor thì phải gọi điện đến nhà của anh và cuộc gọi ấy sẽ được người dọn dẹp bắt máy, vì anh hắn không thường ở nhà. Nếu muốn hỏi chuyện trực tiếp, Arthur sẽ phải hẹn trước người đó rất lâu.

Liên lạc trực tiếp được hay không, không quan trọng. Arthur chỉ muốn một cái hẹn cho chuyến nghỉ dài ngày sắp tới của hắn tại Scotland. Hắn sẽ mời các anh chị của hắn đi chơi cùng hắn, hoặc dã ngoại với nhau. Một buổi đi chơi gia đình, kiểu vậy.

Arthur không biết khi nào thì Mỹ và Liên Xô sẽ bấm cái nút chấm dứt thế giới này. Dù cái ngày ấy có đến hay không, thì hắn vẫn sẽ tiếp tục tận hưởng cuộc đời theo cách riêng của mình.

_Hết_

Author's note:

TL; DR cho ai lười đọc fic:

Bạn đang đọc truyện trên: truyentop.pro