Chín

Hai lần trong vòng nửa tiếng, Cecilia bước ra khỏi phòng ngủ, nhìn thấy mình trong tấm gương khung thếp vàng trên đầu cầu thang và, ngay lập tức bất mãn, quay lại tủ quần áo cân nhắc lại. Phương án đầu tiên của nàng là chiếc váy may bằng vải crêpe de chine đen mà, theo như tấm gương trên bàn trang điểm, có đường cắt khéo léo tạo một vẻ nghiêm nghị nhất định. Cảm giác bất khả xâm phạm của chiếc váy càng được làm nổi rõ nhờ đôi mắt đen của nàng. Thay vì làm dịu bớt ấn tượng đó bằng một chuỗi ngọc trai, nàng lại bất chợt hứng khởi lấy sợi dây chuyền cũng đen tuyền. Đường son môi hoàn hảo ở lần tô đầu tiên. Nhiều lần nghiêng đầu để nhìn được mình trong cả ba mặt gương khiến nàng an tâm là mặt nàng không quá dài, hay ít ra tôi nay thì không. Nàng phải thấy mẹ có mặt trong bếp, còn Leon thì đang đợi nàng, nàng biết, trong phòng khách. Dù thế, nàng vẫn tìm được thời gian, ngay lúc sắp sửa rời đi, khi vừa đóng cửa phòng ngủ lại sau lưng, để quay lại bàn trang điểm và thoa nước hoa lên khuỷu tay, một chút nghịch ngợm phù hợp với tâm trạng của nàng.

Nhưng cái nhìn công khai của cái gương trên cầu thang khi nàng vội đi về phía nó cho thấy một phụ nữ trên đường đi dự tang lễ, hơn nữa còn là một phụ nữ rầu rĩ, khổ hạnh, với bộ giáp đen có chút gì đó tương đồng với một loài côn trùng chuyên sống trong hộp diêm. Một con bọ vừng! Đấy chính là nàng tương lai, tám mươi lăm tuổi, trong tang phục của một quả phụ. Không chút lưỡng lự - nàng nhìn xuống đôi giày, cũng màu đen, và lập tức trở lại phòng.

Nàng hoài nghi, vì nàng biết tâm trí có thể chơi trò lỡm. Đồng thời, tâm trí nàng - trong mọi khía cạnh - đều nghĩ rằng nàng phải tham dự buổi tối ấy, và nàng phải thoải mái. Nàng bước ra khỏi cái váy crêpe đen nằm trên sàn, vẫn đi giày và mặc nguyên đồ lót, xem xét các thứ có thể mặc trên giá quần áo trong tủ, hiểu rằng từng phút đang qua. Nàng ghét cái ý nghĩ mình có vẻ ngoài khổ hạnh. Thoải mái mới là điều nàng muốn cảm thấy, và đồng thời, cả độc lập nữa. Trên hết, nàng muốn trông như thể nàng không hề mảy may bận tâm đến chuyện này, mà muốn thế thì lại mất thời gian. Dưới tầng, cái nút thắt sốt ruột đang siết chặt lại trong bếp, còn những giây phút nàng định dành để ở riêng với anh trai đang cạn dần.

Chẳng mấy chốc mẹ nàng sẽ xuất hiện và muốn bàn bạc việc sắp xếp chỗ ngồi, Paul Marshall sẽ từ phòng xuống và cần có người tiếp anh ta, và rồi Robbie sẽ xuất hiện ngay trước cửa. Làm thế nào nàng nghĩ cho rành mạch được đây?

Nàng lướt tay qua một đoạn lịch sử cá nhân, biên niên sử vắn tắt những thứ nàng thích. Đây là những cái váy suôn nàng mặc lúc mười mấy tuổi, giờ trông chúng mới lố bịch, ẻo lả và thiếu gợi cảm làm sao, và mặc dù trên một cái có vết rượu, còn cái khác là một lỗ thủng do điếu thuốc lá đầu tiên của nàng gây ra, nàng cũng không nỡ vứt đi. Còn đây là cái váy đầu tiên hở vai một cách rụt rè, và những cái khác theo sau càng lúc càng mạnh bạo hơn, như những bà chị gái đầy sức sống khi vứt bỏ những năm tháng trẻ con, thêm vào những đường may khoe eo và đường cong, giảm bớt độ dài của chân váy với sự phớt lờ đầy tự mãn những hy vọng của đám đàn ông. Cái váy đẹp nhất và gần đây nhất của nàng, mua để ăn mừng kết thúc kỳ thi tốt nghiệp, trước khi nàng biết về tấm bằng hạng ba tồi tệ của mình, là chiếc váy dạ tiệc màu xanh lá cây sẫm ôm sát càt chéo hở lưng có dây buộc cổ. Lần đầu tiên ra mắt ở nhà mà mặc thế này thì hơi diện quá. Nàng luồn tay vào sâu hơn nữa và lấy ra một chiếc váy lụa bồng bềnh với phần áo xếp nếp và chân váy có gấu cắt lượn sóng - một lựa chọn an toàn vì màu hồng đủ nhã nhặn và cổ điển để mặc buổi tối. Cái gương ba mặt cũng nghĩ như thế. Nàng thay giày, đổi dây chuyền đen lấy chuỗi ngọc trai, dặm lại phấn, bới lại tóc, thoa thêm một chút nước hoa ở chỗ cổ giờ đã lộ ra nhiều hơn, và chưa đầy mười lăm phút sau đã có mặt trên hành lang.

Trước đó, nàng đã thấy già Hardman cầm giỏ mây đi khắp nhà thay bóng điện. Có lẽ giờ trên đầu cầu thang đã sáng chói hơn, vì trước đây nàng chưa bao giờ thấy khó khăn đến thế với cái gương ở đó. Ngay cả khi bước tới từ cách đó cả chục bước chân, nàng đã thấy nó sẽ không cho nàng qua; thực ra cái màu hồng này trông thật nhạt nhẽo xoàng xĩnh, đường chiết eo quá cao, cái váy lòe xòe như bộ đầm dự tiệc của một con bé tám tuổi. Chỉ thiếu mỗi bộ khuy hình thỏ. Khi nàng lại gần hơn, bề mặt không hoàn toàn bằng phẳng của cái gương cổ làm hình nàng ngắn lại và nàng đối mặt với đứa trẻ của mười lăm năm trước. Nàng đứng lại và thử đưa tay lên đầu túm tóc lại thành hai bím. Cũng chính cái gương này hẳn đã nhìn nàng chạy xuống cầu thang như thế hàng chục lần, trên đường đến tiệc sinh nhật buổi chiều sôi động của một đứa bạn nào đó. Thế này sẽ không thể làm tâm trí nàng dễ chịu hơn, khi đi xuống mà trông như, hay tin rằng trông mình như Shirley Temple.

Cam chịu hơn là cáu kỉnh hay hoang mang, nàng quay về phòng. Tâm trí nàng không hề rối loạn: những ấn tượng giả tạo, quá sống động này, sự hoài nghi vào bản thân, sự rõ ràng mà mắt thường cũng nhìn thấy hiển hiện và những khác biệt kỳ quái bao bọc ngoài cái thân thuộc, chính là sự tiếp nối, là những biến thể của những gì nàng đã trông thấy và cảm thấy suốt ngày hôm đấy. Cảm thấy, nhưng không muốn nghĩ đến. Hơn nữa, nàng biết mình phải làm gì và nàng vẫn luôn biết điều đó. Nàng chỉ có một bộ duy nhất mà nàng thực lòng thích, và đó là bộ nàng nên mặc. Nàng thả chiếc đầm hồng rơi xuống chiếc màu đen, khinh khỉnh bước qua đống ấy, với tay lấy chiếc váy dài, cái váy đầm xanh hở lưng hậu-thi- tốt-nghiệp của nàng. Khi kéo váy lên, nàng hài lòng với cái mơn trớn mạnh bạo của vạt vải cắt chéo của váy lót lụa, và nàng có cảm giác mạnh mẽ một cách mềm mại, tha thướt và đầy tự tin; trong cái gương dài kia chính là mỹ nhân ngư hiện ra để gặp nàng. Nàng bỏ chuỗi ngọc trai lại chỗ cũ, đổi lại đôi giày gót cao màu đen, một lần nữa chỉnh lại tóc và trang điểm, thôi không chấm thêm nước hoa, và rồi, khi nàng mở cửa, rú lên kinh hãi. Một khuôn mặt và một nắm tay giơ lên cách nàng chỉ vài inch. Hình ảnh lập tức hiện ra trong đầu nàng, trong cơn choáng váng, là một cảnh phối cực đoan kiểu Picasso trong đó nước mắt, mắt thâm quầng sưng mọng, môi ướt và mũi không hỉ, tấy đỏ hòa vào nhau thành một mảng màu đỏ thâm sũng đau buồn. Rồi nàng bình tĩnh lại, đặt tay lên bờ vai xương xương và nhẹ nhàng quay cả người để có thể nhìn thấy cái tai bên trái. Đó là Jackson, toan gõ cửa phòng nàng. Trên tay kia là một chiếc tất màu xám. Khi lùi lại, nàng nhận ra thằng bé đang mặc quần soóc màu xám và áo sơ mi trắng đã là phẳng phiu, nhưng lại đi chân không.

"Anh bạn nhỏ! Có chuyện gì thế?"

Trong một giây, nó không đủ tự tin cất tiếng. Thay vì thế, nó giơ cái tất lên và chỉ tay ra hành lang. Cecilia nhoài ra và thấy Pierrot đứng cách một đoạn, cũng chân không, cũng cầm tất, và nhìn.

"Vậy là mỗi đứa có một cái tất nhỉ."

Thằng bé gật đầu và nuốt khan, rồi cuối cùng nó cũng nói được, "Cô Betty bảo bọn em sẽ bị ăn đòn nếu không xuống dùng trà ngay bây giờ, nhưng chỉ có một đôi tất."

"Và hai đứa tranh nhau đôi tất." Jackson gật đầu lia lịa.

Khi nàng cùng hai thằng bé đi trên hành lang về phòng chúng, thằng thứ nhất rồi thằng thứ hai nắm lấy tay nàng và nàng ngạc nhiên khi thấy mình hài lòng như thế. Nàng không thể không nghĩ đến bộ váy của mình.

"Sao hai em không nhờ chị gái giúp?"

"Hiện giờ chị ấy không nói chuyện với bọn em." "Nhưng sao lại không?"

"Chị ấy ghét bọn em."

Phòng chúng là một đống lộn xộn đáng thương những quần với áo, khăn ướt, vỏ cam, những mẩu truyện tranh bị xé nhỏ xếp lại trên một tờ giấy, một đống chăn đệm lấp gần hết những cái ghế bị lật ngược lại. Giữa hai giường là một vết ướt lớn trên tấm thảm, giữa tấm thảm là một bánh xà phòng và giấy vệ sinh ướt. Một tấm rèm treo xộc xệch dưới hộp rèm, và mặc dù cửa sổ mở, không khí trong phòng ẩm thấp, như thể thứ không khí người ta thở ra rất nhiều lần. Tất cả các ngăn kéo tủ quần áo đều mở toang và rỗng không. Có cảm giác là nỗi buồn chán trong phòng kín chỉ tạm ngưng nhờ các trò thi đấu và chiến thuật - nhảy từ giường này sang giường kia, dựng trại, suýt sáng chế ra các trò chơi trên bàn rồi bỏ dở. Không ai trong nhà Tallis trông nom hai đứa sinh đôi Quincey, và để che giấu cảm giác tội lỗi, nàng vui vẻ nói, "Chúng ta sẽ chẳng bao giờ tìm được gì khi phòng thế này cả."

Nàng bắt đầu sắp xếp lại, dọn giường, đá giày cao gót ra leo lên ghế chỉnh lại rèm, và giao cho hai thằng nhóc những việc nhỏ vừa sức. Chúng nghe lời, nhưng im lặng và khom vai mà làm, cứ như thể nàng định trừng phạt chứ không phải cứu giúp, quở mắng chứ không phải đang tỏ ra tử tế. Chúng xấu hổ về căn phòng. Khi đứng trên ghế trong chiếc váy xanh sẫm lá cây bó sát người, nhìn hai cái đầu hoe vàng nhô lên nhô lên cúi xuống làm việc, một ý nghĩ giản dị đến với nàng: không có được tình yêu chúng sẽ thấy kinh khủng và sợ hãi đến mức nào, dựng xây sự tồn tại từ hư không trong một ngôi nhà lạ hoắc.

Vướng víu, vì không cúi được gối xuống thấp, nàng bước xuống, ngồi ở mép giường và vỗ vào chỗ cạnh nàng. Tuy nhiên, hai thằng nhóc vẫn đứng, nhìn nàng hy vọng. Nàng dùng cái giọng như khẽ hát của một cô giáo trông trẻ mà nàng từng yêu quý.

"Mình đâu cần phải khóc lóc vì mấy cái tất bị mất, phải không nào?" Pierrot nói, "Thực ra, bọn em muốn về nhà hơn."

Nghiêm nghị, nàng lấy lại giọng nói chuyện của người lớn. "Lúc này thì không được. Mẹ em ở Paris với... à đang đi nghỉ ở Paris, còn cha em thì bận ở trường đại học, vì thế các em sẽ phải ở lại đây một thời gian. Chị xin lỗi vì đã bỏ mặc hai em. Nhưng hai em đã rất vui khi ở bể bơi..."

Jackson nói, "Bọn em muốn diễn kịch nhưng rồi Briony bỏ đi mà vẫn chưa quay lại."

"Có thật không?" Lại thêm một đứa nữa cần phải để mắt đến. Lẽ ra Briony phải về lâu rồi. Chi tiết này đến lượt nó lại khiến nàng nhớ ra mọi người đang đợi ở dưới tầng: mẹ nàng, đầu bếp, Leon, vị khách, Robbie. Ngay cả cái nóng của buổi tối tràn vào căn phòng qua các cửa sổ mở toang tới trên lưng nàng cũng áp đặt trách nhiệm; đây là một buổi tối mùa hạ mà ta đã mơ ước suốt cả năm, và giờ cuối cùng nó đã đến với mùi hương nồng nàn, trĩu nặng niềm khoan khoái, vậy mà nàng lại bị những đòi hỏi và lo lắng không đâu làm cho sao nhãng đến mức không hưởng ứng được. Nhưng đơn giản là nàng sẽ phải hưởng ứng. Không làm thế là sai. Được uống gin & tonic với Leon trên hiên nhà ở ngoài kia sẽ là thiên đường. Chẳng phải là lỗi của nàng khi dì Hermione chạy trốn với một tay dở người chuyên đọc mấy bài nói chuyện thân mật lê thê trên đài truyền thanh hàng tuần. Buồn rầu đủ rồi. Cecilia đứng dậy và vỗ tay.

"Phải, chuyện vở kịch tệ quá, nhưng mình đâu làm gì được. Đi tìm tất cho hai đứa rồi xuống thôi."

Tìm kiếm một hồi thì biết được đôi tất chúng đi đên đây đang được giặt, và trong cơn yêu đương dữ dội, dì Hermione quên béng chỉ xếp thêm mỗi một đôi dự phòng. Cecilia vào phòng ngủ của Briony và tỉ mỉ tìm trong ngăn kéo một đôi có vẻ ít nữ tính hhất - cao đến mắt cá chân, trắng, với những quả dâu màu đỏ và xanh lá cây quanh cổ tất. Nàng đoán giờ thể nào hai đứa cũng giành nhau đôi màu xám, hóa ra lại ngược lại, và để tránh khiến chúng buồn thêm nàng đành quay lại phòng Briony tìm một đôi nữa. Lần này nàng dừng lại nhòm trời chiều qua cửa sổ và băn khoăn không biết em gái ở đâu. Chết đuối dưới hồ, bị bọn gypsy bắt cóc, bị một chiếc xe hơi chạy qua đâm phải, nàng nghĩ theo phong tục, một nguyên tắc đáng tin rằng không có gì sẽ xảy ra như người ta tưởng tượng, và đây là cách hiệu quả để loại trừ điều tệ hại nhất.

Quay lại với hai đứa nhóc, nàng dùng lược nhúng vào nước cắm hoa chải tóc Jackson, ngón trỏ và ngón cái túm chặt lấy cằm nó, chẻ trên da đầu nó một đường thẳng tap, đẹp đẽ. Pierrot kiên nhẫn đợi đến lượt, rồi không một lời chúng cùng nhau chạy xuống lầu đối mặt với Betty.

Cecilia chậm rãi bước theo sau, đi qua cái gương hay phê phán, liếc vào và hoàn toàn hài lòng với thứ mình nhìn thấy. Hay đúng hơn, nàng đã bớt để tâm hơn, vì tâm trạng nàng đã thay đổi kể từ lúc đi cùng hai đứa sinh đôi, và suy nghĩ của nàng đã mở rộng ra để bao chứa một quyết tâm mơ hồ đang dần thành hình dù không hàm chứa cụ thể điều gì hay đưa tói một kế hoạch cụ thể nào; nàng phải đi khỏi đây. Ý tưởng này hay ho và làm nàng dễ chịu, mà không tuyệt vọng chút nào. Nàng xuống đến chiếu nghỉ trước tầng trệt và dừng bước. Dưới kia, mẹ nàng, bị tội lỗi hành hạ vì vắng mặt trong việc nhà, sắp rải sự lo lắng và bối rối khắp nơi. Thêm vào hỗn hợp này chắc chắn là tin, nếu đúng thế thật, Briony mất tích. Thời gian và lo lắng sẽ bị vắt kiệt trước khi tìm ra con bé. Sẽ có điện thoại từ bộ báo ông Tallis phải làm việc muộn nên ở lại thành phá. Leon, với tài tránh né trách nhiệm thiên bẩm, sẽ không đảm nhiệm thay vai trò của cha mình. Trên danh nghĩa, nó sẽ chuyển sang bà Tallis, nhưng rốt cuộc thì thành công của buổi tối sẽ phụ thuộc vào sự quán xuyến của Cecilia. Mọi thứ đều rõ ràng và không đáng phải chống đối - nàng sẽ không được buông mình vào một đêm mùa hạ thơm ngát, sẽ không được nói chuyện lâu với Leon, nàng sẽ không được chân trần đi bộ trên cỏ dưới những vì sao khuya. Nàng cảm thấy dưới tay mình thành cầu thang gỗ thông đánh véc ni đen bóng, hơi có kiểu neo Gothic, rắn chắc và giả tạo. Trên đầu nàng là một chúc đài lớn bằng gang treo trên ba sợi dây xích, suốt từ khi nàng còn bé đến giờ nó chưa được thắp sáng một lần. Thay vào đó, ánh sáng tỏa ra từ một cặp đèn tường được trang trí bằng núm tua với chụp đèn hình nón bằng giấy da giả. Nhờ luồng sáng màu vàng tù mù, nàng nhón chân đi qua chiếu nghỉ để nhìn sang phòng mẹ nàng. Cửa chỉ khép hờ, đèn phòng hắt ra thảm ngoài hành lang, cho thấy chắc chắn Emily Tallis đã ra khỏi giường. Cecilia quay lại cầu thang và lại chần chừ, ngại không muốn xuống. Nhưng không còn lựa chọn nào khác. Bố trí trong nhà chẳng có gì mới và nàng cũng không thấy khó chịu.

Hai năm trước, cha nàng mất hút vào việc chuẩn bị tài liệu tư vấn mật cho Bộ Nội vụ Anh. Mẹ nàng thì luôn sống trong vùng đất tối của người bệnh tật, Briony lúc nào cũng cần đến sự chăm sóc của người mẹ từ chị gái, Leon thì luôn tự do bay nhảy, còn nàng thì luôn yêu anh vì thế. Nàng không hề nghĩ đảm đương lại những vai trò cũ lại dễ dàng đến vậy. Cambridge đã thay máu cho nàng và nàng nghĩ mình trở nên mạnh mẽ. Tuy nhiên, không ai trong gia đình nhận thấy sự biến đổi ở nàng, và nàng không thể cưỡng lại sức mạnh của những kỳ vọng theo thói quen của họ. Không đổ lỗi cho ai, nhưng nàng nấn ná ở lại nhà suốt mùa hè, được ý niệm mơ hồ rằng mình đang tái thiết lập mối dây liên hệ quan trọng với gia đình cổ vũ. Nhưng giờ nàng nhận ra những mối liên hệ đó chưa bao giờ bị phá vỡ, và dù sao cha mẹ nàng cũng vẫn luôn vắng mặt theo cách riêng của họ, Briony thì mải mê trong những tưởng tượng của nó, còn Leon thì ở thành phố. Bây giờ là lúc để nàng tiến lên. Nàng cần một cuộc phiêu lưu. Cậu và dì mời nàng đi cùng họ sang New York. Dì Hermione ở Paris. Nàng có thể đi London và tìm việc làm - đó chính là điều mà cha mong đợi ở nàng. Nàng cảm thấy niềm phấn khích, chứ không phải sự bồn chồn, và nàng sẽ không cho phép buổi tối hôm nay làm nàng thoái chí. Những buổi tối thế này sẽ còn nữa, và để tận hưởng, nàng sẽ phải ở một nơi khác.

Được sự chắc chắn mới mẻ này thổi thêm sinh khí - việc chọn được bộ đầm phù hợp hẳn đã đóng góp một phần - nàng băng qua sảnh, đẩy cánh cửa bọc vải len tuyết và sải bước trên hành lang lát gạch vuông vào bép. Nàng bước vào một đám khói mù mịt gồm những khuôn mặt không có cơ thể lơ lửng ở các chiều cao khác nhau, như những hình vẽ nháp trong sổ phác thảo của họa sĩ, và mọi con mắt đều nhìn xuống đống đồ bày trên bàn bếp, Cecilia chỉ thấy lờ mờ từ sau tấm lưng to bản của Betty. Ánh đỏ lòe nhòe ở tầm ngang mắt cá chân là lửa than trong cái lò nướng đôi, cửa của nó ngay sau đó liền được một cú đá đóng lại, kêu đánh choang cùng với một tiếng quát bực tức. Hơi nước bốc lên mù mịt từ một vạc nước sôi to không người trông. Phụ bếp, Doll, một cô gái người làng gầy nhom với mái tóc búi lại đơn giản, đang ở bồn rửa cọ vung chảo, gây ra những tiếng loảng xoảng ầm ĩ như đang hậm hực điều gì, nhưng cả cô nữa cũng quay nửa người lại nhìn thứ Betty cho lên bàn. Một trong các khuôn mặt là của Emily Tallis, mặt kia của Danny Hardman, mặt thứ ba của cha cậu ta. Bồng bềnh bên trên, có lẽ là đúng trên ghế đẩu, là Jackson và Pierrot, mặt nghiêm nghị. Cecilia cảm nhận được Hardman con đang nhìn nàng chằm chằm. Nàng trừng mắt nhìn lại, và hài lòng khi cậu ta quay đi. Công việc trong bếp nặng nhọc và kéo dài suốt cả ngày dưới cái nóng, và những gì còn lại của nó đang ở khắp mọi nơi: nền lát đá phiến nhớp nháp đầy mỡ của thịt nướng chảy ra và be bét vỏ trái cây bị giẫm; khăn lau bát đĩa ướt sũng, những tặng phẩm cho công sức lao động anh hùng bị lãng quên, rũ xuống trên bếp lò như lá cờ quân đội đang mục ra trong nhà thờ; thúc vào cẳng chân Cecilia, một giỏ rau thừa đầy ngập mà Betty sẽ mang về nhà cho con lợn giống Gloucester Old Spot của bà ăn, vỗ béo chờ đến tháng Chạp. Đầu bếp ngoái đầu liếc nhìn người mới vào, và trước khi bà quay đi thì đã có đủ thời gian để kịp nhìn thấy cơn thịnh nộ trong đôi mắt đã bị gò má nung núc thịt làm cho híp tịt lại như hai lát thạch jelly.

"Bắc ra!" bà hét. Không nghi ngờ gì sự cáu tiết ấy là dành cho bà Tallis. Doll lao từ bồn rửa sang bếp, trượt chân suýt ngã, cầm hai miếng giẻ lên bắc cái vạc xuống. Trong tầm nhìn giờ đang rõ hơn hiện ra Polly, cô tớ gái ai cũng bảo là chất phác, và ở lại rất muộn mỗi khi có việc.

Đôi mắt to và ngây thơ cũng dán vào bàn bếp. Cecilia dịch khỏi chỗ sau lưng Betty để xem thứ mà ai cũng thấy - một cái khay lớn đen thui vừa được lôi ra khỏi lò nướng đựng một mẻ lớn khoai tây nướng vẫn đương xèo xèo. Dễ phải có đến một trăm củ, nằm thành những hàng xộc xệch màu vàng nhạt được cái xẻng kim loại của Betty xục, nạo, rồi lật.

Mặt bên dưới vàng rượm, dinh dính, và điểm xuyết giữa màu nâu bóng như xà cừ có thể nhận ra những đường viền lấp lánh, và thỉnh thoảng lại xuất hiện những hoa văn tinh xảo trổ ra quanh một chỗ vỏ khoai bị nứt. Chúng thật tuyệt hảo, hoặc là sẽ được như vậy.

Hàng cuối cùng đã được lật xong và Betty nói, "Bà muốn lấy cái này, thưa bà, làm salad khoai tây?"

"Chính xác. Cắt những mẩu bị cháy đi, chùi mỡ đi, cho vào tô Tuscany to rồi rưới đẫm dầu oil lên, rồi..." Emily khoát tay mơ hồ về chỗ bày hoa quả cạnh cửa chạn, nơi có thể có hoặc không một quả chanh.

Betty ngẩng lên trần nhà nói, "Có phải bà muốn salad cải Brussels không ạ?"

"Đúng rồi, Betty."

"Salad súp lơ rắc vụn bánh mì bỏ lò? Hay salad cải ngựa rưới nước xốt?"

"Bà cứ nhặng cả lên vì chuyện không đâu." "Bánh mì và salad pudding bơ?" Một trong hai đứa sinh đôi khịt mũi.

Khi Cecilia vừa đoán được cái gì sẽ đến tiếp theo thì nó đã bắt đầu xảy ra. Betty quay sang nàng, tóm chặt lấy cánh tay nàng, và khẩn khoản. "Cô Cee, nhà mình yêu cầu làm món nướng và chúng tôi đã mất cả ngày chuẩn bị trong nhiệt độ trên cả nhiệt độ sôi của máu."

Cảnh tượng thật mới mẻ, kèm theo nhân tố bất thường là có khán giả, nhưng tình huống nan giải này khá quen thuộc: làm thế nào gìn giữ được yên bình mà không xúc phạm mẹ. Thêm nữa, Cecilia đã cương quyết là sẽ ở cùng anh nàng ngoài hiên; chính vì thế việc ở bên với phe thắng và đẩy nhanh quyết định cuối cùng là rất quan trọng. Nàng kéo mẹ qua một bên, và Betty, hiểu ý, ra lệnh cho mọi người quay lại làm việc của mình. Emily và Cecilia Tallis đứng ở chỗ cánh cửa dẫn ra vườn rau lúc đó đang mở.

"Con yêu, có đợt nóng bất thường nên mẹ sẽ không đồng ý hủy món salad đâu."

"Emily, con biết là trời rất nóng, nhưng Leon muốn ăn món nướng của Betty chết đi được. Anh ấy cứ ra rả về nó suốt. Con nghe anh ấy khoe với anh Marshall về món này."

"Ôi trời ơi," Emily nói.

"Con đồng ý với mẹ. Con cũng không muốn ăn đồ nướng. Nhưng tốt nhất là cho mọi người lựa chọn. Bảo Polly đi cắt ít rau diếp. Trong chạn có củ cải đường. Betty có thể làm món khoai tây mới và để nguội."

"Con yêu, con nói đúng. Con biết mà, mẹ không thích làm Leon bé bỏng thất vọng."

Và thế là chuyện giải quyết xong và món nướng được bảo lưu. Với một vẻ duyên dáng lịch thiệp, Betty sai Doll đi cạo vỏ ít khoai tây mới, còn Polly cầm một con dao ra ngoài.

Khi họ ra khỏi bếp, Emily đeo kính râm vào và nói, "Mẹ mừng là chuyện này đã giải quyết xong vì điều thực sự làm mẹ phiền lòng là Briony cơ. Mẹ biết là nó buồn. Con bé đang dằn dỗi lang thang ngoài kia và mẹ định đi đưa nó về."

"Ý kiến hay. Con cũng lo cho nó," Cecilia nói. Nàng không hề có ý định ngăn mẹ đi xa khỏi hàng hiên.

Phòng khách từng làm Cecilia sững sờ sáng hôm đó bằng những thoi ánh sáng hình bình hành giờ đây âm u, được mỗi một ngọn đèn đặt gần lò sưởi thắp sáng. Những cửa sổ Pháp mở toang đóng khung một khoảng trời xanh nhạt, và trên nền trời đó, như một hình chiếu bóng ở phía xa, là cái đầu và đôi vai quen thuộc của anh trai nàng. Khi bước qua phòng, nàng nghe tiếng những viên đá va lanh canh vào thành cốc, và khi bước ra ngoài nàng ngửi thấy mùi bạc hà hãng, cúc la mã và cúc thơm thanh nhiệt bị giẫm nát dưới chân, giờ còn gắt nồng hơn cả lúc sáng. Không ai nhớ tên, hay thậm chí diện mạo, của người làm vườn mướn tạm, vài năm trước ông đã thực hiện kế hoạch trồng cây giữa kẽ các viên đá lát. Vào lúc ấy, không ai hiểu ông nghĩ gì. Có lẽ đó là lý do vì sao ông bị đuổi.

"Em gái! Anh đã ở ngoài này đến bốn mươi phút và bị hầm chín đến nơi rồi đấy."

"Xin lỗi. Ly của em đâu?"

Trên bàn gỗ thấp kê sát tường nhà có một cái đèn dầu tròn và xung quanh là một quầy bar giản dị. Cuối cùng thì gin & tonic cũng ở trong tay nàng. Nàng chụm điếu thuốc của mình vào điếu của anh châm lửa và họ cụng ly.

"Anh thích cái váy này." "Anh ngắm nó không?"

"Xoay một vòng nào. Xinh lắm. Anh đã quên mất em có cái nốt ruồi đó."

"Ngân hàng thế nào?"

"Buồn tẻ nhưng hoàn toàn dễ chịu. Bọn anh sống vì các buổi tối và ngày cuối tuần. Khi nào thì em mới định đến?"

Họ tha thẩn bước khỏi hàng hiên xuống con đường sỏi giữa hai luống hồng. Đài phun Triton hiện lên trước mặt họ, một khối đen như mực với những đường nét phức tạp sắc cạnh nổi bật trên nền trời đang chuyển sang màu xanh lá khi ánh sáng dần tắt. Họ có thể nghe thấy tiếng nước tí tách và Cecilia nghĩ nàng ngửi thấy cả mùi nó nữa, bàng bạc và gắt. Cũng có thể là mùi của ly rượu trong tay nàng.

Nàng cất lời sau một lúc im lặng, "Ở đây em sẽ điên mất."

"Lại là mẹ của tất cả mọi người. Em có biết là, giờ có các cô gái làm đủ loại việc. Thậm chí cả tham gia thi ngạch công chức. Ông Già sẽ vui lòng lắm."

"Họ sẽ chả bao giờ nhận em với cái bằng hạng ba này đâu."

"Một khi cuộc đời em bắt đầu rồi, em sẽ thấy cái thứ đó chả có nghĩa quái gì cả.

Họ tới đài phun và quay lại đối mặt với ngôi nhà, im lặng trong một lúc, tì người vào thành bể, ngay chỗ nàng chịu ô nhục. Liều lĩnh, lố bịch và trên tất cả là nhục nhã. Chỉ có thời gian, tấm mạng vờ đoan trang dệt nên từ nhiều giờ nhiều phút, mới ngăn anh trai khỏi thấy nàng đã như thế nào. Nhung nàng không được bảo vệ như vậy khỏi Robbie. Anh đã thấy nàng, anh luôn luôn có thể thấy nàng, ngay cả khi thời gian làm nhạt nhòa ký ức thành một chuyện kể ở quán rượu. Nàng vẫn bực anh trai vì đã mời Robbie, nhưng nàng cần anh, nàng muốn được chia sẻ một phần tự do của anh. Háo hức, nàng giục anh kể nàng nghe chuyện của mình.

Trong cuộc sống của Leon, hay nói đúng hơn, trong câu chuyện anh kể về đời mình, không ai hèn hạ, không ai mưu toan, dối trá, hay phản bội. Ai cũng được ca tụng ít nhất ở một mức độ nào đó, như thể đó là một lý do đáng kinh ngạc giải thích cho sự tồn tại của tất cả mọi người. Anh nhớ tất cả những câu nói hay nhất của bạn bè mình. Tác dụng của các câu chuyện phiếm của Leon là làm cho người nghe có thiện cảm với nhân loại và những khuyết điểm của nó. Ai ai, ở mức tối thiểu, cũng là "người tốt" hay "loại tử tế", và động cơ bên trong không bao giờ bị đánh giá mâu thuẫn với vẻ bên ngoài. Nếu xuất hiện sự khó hiểu hay bất đồng với bạn bè, Leon nhìn ra xa và tìm thấy một lời giải thích tốt lành. Văn học và chính trị, khoa học và tôn giáo không làm anh buồn chán - đơn giản là chúng không có chỗ đứng trong thế giới của anh, cũng như bất cứ vấn đề nào làm con người bất hòa nghiêm trọng với nhau. Anh đã có một bằng luật và sung sướng quên sạch những gì đã học. Rất khó hình dung ra có lúc nào anh cô đơn, hay buồn chán, hay thoái chí; sự bình thản trong anh là vô hạn, cũng ngang ngửa với sự thiếu tham vọng của anh, và anh cho rằng mọi người khác cũng giống hệt mình. Bất chấp tất cả những điều này, sự ôn tồn của anh là hoàn toàn chấp nhận được, thậm chí còn có tác dụng xoa dịu.

Đầu tiên anh kể chuyên câu lạc bộ chèo thuyền. Vừa đây anh đã làm người giữ nhịp chèo cho đội đua thuyền tám, và mặc dù mọi người đều rất tốt, anh nghĩ mình sẽ vui hơn nếu như được chèo theo nhịp của ai đó khác. Cũng như thế, ở ngân hàng có lời bóng gió việc thăng chức và khi không có gì xảy đến anh nhẹ nhõm cả người. Rồi chuyện các cô gái: Mary diễn viên, cô này rất tuyệt vời trong Private Lives, tự dưng chuyển đến Glasgow không một lời giải thích mà cũng chả ai hiểu tại sao. Anh chỉ ngờ rằng cô bận phải chăm sóc một người thân sắp chết. Francine, cô này nói một thứ tiếng Pháp đẹp đẽ và khiến cả thế giới điên tiết lên khi đeo kính một mắt, tuần trước đã đi cùng anh tới xem một vở opera của Gilbert và Sullivan, và trong lúc giải lao họ thấy Đức Vua dường như liếc về phía họ. Nàng Barbara dễ thương, đáng tin cậy, quảng giao trong giới thượng lưu mà Jack và Emily nghĩ anh nên lấy làm vợ, đã mời anh đến ở một tuần trong lâu đài của cha mẹ nàng ở vùng Highlands. Anh nghĩ nếu từ chối thì khiếm nhã quá.

Mỗi khi anh có vẻ sắp cạn chuyện, Cecilia lại ném cho anh một câu hỏi khác. Không hiểu sao tự dung tiền thuê nhà của anh ở Albany lại hạ. Một đứa bạn cũ đã làm cho một em gái nói ngọng dính bầu, buộc phải lấy em ấy rồi cũng hạnh phúc vui vẻ cả. Một thằng bạn khác vừa mua xe gắn máy. Bố thằng bạn thân vừa mua nhà máy sản xuất máy hút bụi và kể rằng nó là tấm vé kiếm ra bộn tiền. Bà một đứa can đảm ghê gớm, chân gãy mà đi bộ được đến nửa dặm. Êm đềm như không khí buổi đêm, cuộc nói chuyện xuyên qua nàng, bao bọc quanh nàng, gợi lên một thế giới của những hảo tâm và kết quả dễ chịu. Vai kề vai, nửa đứng, nửa ngồi, họ đối diện với ngôi nhà ấu thơ của mình, nơi những điểm lộn xộn bắt chước kiến trúc thời Trung cổ dường như giờ lại tạo cảm giác thư thái kỳ quặc; chứng đau nửa đầu của mẹ họ là màn giải lao vui nhộn giữa một vở opera hài, nỗi buồn của hai đứa sinh đôi sến quá đà, sự vụ trong bếp không hơn gì cuộc va chạm vui vẻ của những tâm hồn sôi nổi.

Khi đến lượt nàng kể chuyện những tháng vừa qua, gần như không thể nào không bị giọng điệu của Leon anh hưởng, mặc dù giọng điệu ấy qua cách nói của nàng, không thể tránh được, là sự mỉa mai. Nàng chế nhạo những nỗ lực của mình khi vẽ bảng phả hệ; cây gia hệ ảm đạm và không cành lá, rễ cũng không. Ông nội Harry Tallis là con trai một nông dân làm thuế, ông, vì lý do nào đó, đã đổi không dùng tên Cartwright nữa và cả ngày sinh lẫn việc cưới xin đều không được ghi chép lại. Còn Clarissa - suốt cả ngày cuộn tròn trên giường với cánh tay tê rần - chắc chắn chứng minh quan điểm ngược lại với Paradise Lost - nữ nhân vật chính trở nên đáng ghê tởm hơn khi đức hạnh bị cái chết ám ảnh của cô ta lộ ra. Leon gật đầu và bặm môi; anh sẽ không giả vờ hiểu nàng đang nói chuyện gì, cũng không ngắt lời. Nàng tạo một sắc mỉa mai cho những tuần buồn chán và cô đơn của mình, cho việc nàng đã quay về ở với gia đình, đã đền bù cho thời gian mình ở xa thế nào, và phát hiện cha mẹ và em gái mình luôn vắng mặt theo cách riêng của họ ra sao. Được thứ gần như tiếng cười rộng lượng của anh trai khích lệ, nang cô tạo ra những bức phác thảo khôi hài từ chuyện nàng thèm hút thêm thuốc mỗi ngày, việc Briony xé tấm áp phích của nó, việc hai thằng sinh đôi đứng ngoài phòng nàng mỗi đứa cầm một chiếc tất, và mẹ họ ao ước có phép lạ ở bữa tiệc - biến khoai tây nướng thành salad khoai tây. Leon không hiểu lời ám chỉ liên quan đến Kinh Thánh ở đây. Trong tất cả những gì nàng nói có một sự cùng quẫn, sự trống rỗng ở hạt nhân của nó, hay thứ gì bị gạt đi không nhắc đến hoặc không xác định đến khiến nàng nói nhanh hơn, và cường điệu hơn đồng thời ít thuyết phục đi. Sự vô dụng dễ chịu của cuộc đời Leon là một món đồ nhân tạo được đánh bóng, cái vẻ giả tạo thoải mái của nó, những giới hạn của nó đạt tới nhờ lao động chăm chỉ vô hình và những ưu điểm ngẫu nhiên trong bản tính, không gì trong những thứ này nàng hy vọng cạnh tranh nổi. Nàng luồn tay qua tay anh và siết chặt. Đó là một đặc điểm nữa của Leon: mềm mỏng và dịu dàng khi ở bên người khác, dù qua lớp áo jacket, cánh tay anh vẫn có sự rắn chắc của gỗ rừng nhiệt đới. Nàng cảm thấy hoàn toàn dễ chịu, và mọi thứ sáng sủa. Anh nhìn nàng trìu mến.

"Sao thế, Cee?"

"Không sao. Không sao hết."

"Thực sự em nên đến ở với anh và nhìn thế giới bên ngoài."

Có một người đang đi lại trên hiên, và trong phòng khách dần sáng đèn. Briony gọi anh trai và chị gái.

Leon đáp lại. "Bọn anh ở ngoài này."

"Mình nên vào thôi," Cecilia nói, vẫn tay khoác tay, họ bắt đầu đi về phía ngôi nhà. Khi họ bước qua khóm hồng, nàng tự hỏi không biết thực sự còn có gì đó mà nàng muốn kể anh nghe không. Thú nhận hành vi của nàng sáng này chắc chắn là không thể rồi.

"Em rất thích lên thành phố?" Ngay khi nói ra những lời đó, nàng đã tưởng tượng ra có gì đó đang kéo ngược mình lại, không đóng gói nổi đồ đạc hay đến kịp giờ tàu chạy. Có lẽ nàng hoàn toàn không muốn đi chút nào, nhưng nàng lặp lại câu ấy dứt khoát hơn một chút.

"Em rất thích."

Briony đang bồn chồn trên hiên nhà chờ đón anh trai. Ai đó đang nói với em từ trong phòng khách và em ngoái đầu lại đáp lời. Khi Cecilia và Leon tiến tới, họ lại nghe giọng nói đó - mẹ họ đang cố tỏ ra nghiêm khắc. "Mẹ chỉ nói một lần nữa thôi. Con phải đi lên, tắm rửa và thay quần áo ngay bây giờ."

Vẫn lưỡng lự nhìn về phía họ, Briony tiến lại phía mấy cửa sổ Pháp. Trên tay em cầm thứ gì đó.

Leon nói, "Bọn anh có thể thu xếp cho em ngay lập tức."

Khi họ bước vào phòng, dưới ánh sáng của vài ngọn đèn, Briony vẫn ở đó, vẫn chân trần, mặc cái váy trắng bẩn thỉu, còn mẹ em thì đứng cạnh cửa phía bên kia càn phòng, mỉm cười bao dung. Leon dang tay ra và giả giọng Cockney khôi hài anh dành riêng cho em.

"Đây trả phải nà iem gái bí bổng của eng seo!"

Lúc chạy nhào tới, Briony dúi vào tay Cecilia một mẩu giấy gấp làm đôi, hét ré lên tên anh trai mình và nhảy vào vòng tay anh.

Ý thức được mẹ đang nhìn mình, Cecilia tỏ vẻ tò mò thích thú khi mở tờ giấy ra. Thật đáng tán dương, nàng có khả năng giữ được vẻ mặt đó khi nhìn vào khối chữ đánh máy nho nhỏ và trong một cái liếc mắt đã thấu hiểu toàn bộ - một đơn vị nghĩa mà sức mạnh và màu sắc có nguồn gốc từ một từ được lặp lại duy nhất. Ngay bên khuỷu tay nàng, Briony đang kể Leon nghe về vở kịch em đã viết dành cho anh và than vãn chuyện không diễn được Những gian nan của nàng Arabella, em cứ nhắc đi nhắc lại Những gian nan của nàng Arabella. Chưa bao giờ em có vẻ linh hoạt đến thế, phấn khích kỳ lạ đến thế. Em vẫn vòng tay quanh cổ anh trai, và đứng nhón chân cọ má vào má anh.

Thoạt đầu, một cụm từ đơn giản cứ xoay mòng mòng trong đầu Cecilia: Đương nhiên rồi, đương nhiên rồi. Sao nàng không nhìn ra chứ? Mọi thứ được giải thích. Cả ngày hôm nay, hàng bao tuần trước đó, cả tuổi thơ của nàng. Một đời. Giờ mọi thứ với nàng thật rõ ràng. Còn vì lý do gì nữa mà mất nhiều thời gian đến thế chỉ để chọn một cái váy, hay cãi nhau vì một cái bình hoa, hay thấy mọi thứ sao mà khác biệt, hay không thể nào rời khỏi đây? Điều gì đã khiến nàng mù quáng đến thế, đần độn đến thế? Nhiều giây đã trôi qua, và nếu cứ tiếp tục cắm mặt cắm mũi vào mẩu giấy thì thật không bình thường. Khi gập nó lại, nàng nhận ra một chuyện hiển nhiên: nó không thể nào gửi đến mà không được cho vào phong bì. Nàng quay sang nhìn em gái.

Leon đang nói với em, "Thế này nhé? Anh giả giọng rất cừ, em thậm chí còn siêu hơn. Mình sẽ cùng nhau đọc to vở kịch ấy lên."

Cecilia đi vòng quanh anh, để Briony nhìn thấy. "Briony? Briony, em đọc cái này rồi à?"

Nhưng Briony, còn bận hú hét đáp lại lời đề nghị của anh trai, bíu chặt lấy tay anh, quay đầu đi, gần như vùi mặt vào jacket của Leon.

Từ bên kia phòng Emily dịu dàng nói, "Bình tĩnh nào."

Lại một lần nữa, Cecilia chuyển vị trí để đứng cạnh anh trai. "Phong bì đâu?"

Briony lại quay mặt đi và cười rú lên khi Leon nói gì đó với em.

Rồi Cecilia cảm nhận thấy có một người nữa cùng ở đó, ngoài rìa tầm mắt nàng, đang đi đến phía sau nàng, và khi quay lại nàng thấy mình đối diện với Paul Marshall. Một tay anh ta nâng khay bạc đựng năm ly cocktail, mỗi ly chứa phân nửa một thứ sền sệt màu nâu. Anh ta cầm một ly lên đưa cho nàng.

"Tôi năn nỉ cô nếm thử."

Bạn đang đọc truyện trên: truyentop.pro