Hai

Phần vì sức trẻ của nàng và sự huy hoàng của ánh ngày, phần vì con thèm đến bứt rứt một điếu thuốc, Cecilia Tallis ôm hoa rảo chân men con đường nhỏ ven sông, ven hồ bơi cũ có tường gạch rêu xanh cũ kỹ, rẽ vào rồi đi xuyên qua cánh rừng sồi. Hàng tuần hè trì trệ liền sau đợt thi cuối kỳ cũng tiếp thêm sự hối hả cho đôi chân; từ lúc về nhà, cuộc đời nàng lặng lờ đi và một ngày đẹp thế này khiến nàng bồn chồn, cơ hồ liều lĩnh.

Vòm rừng cao và mát lạnh khiến lòng nàng khuây khỏa, nét tinh xảo như được chạm khắc của những thân cây mang vẻ mê đắm diệu kỳ. Khi đã qua được hai cánh cổng sắt, qua khóm hoa đỗ quyên dưới bờ giậu, nàng băng qua bãi cỏ rộng bao la - đã bán đứt cho một nông dân trong vùng để chăn thả bò - và bước lại đằng sau đài phun nước có lớp bệ bao quanh, bản mô phỏng nhỏ bằng một nửa đài phun Triton do Bemini thiết kế trên Quảng trường Barberini ở Rome.

Hình người lực lưỡng kia, nửa ngồi nửa quỳ hết sức thoải mái trên tấm vỏ sò, chỉ có thể thổi vọt qua vỏ ốc xà cừ tia nước cao chưa đầy năm phân, áp suất quá yếu nên nước lại rớt xuống trở lại đầu chàng, lên mái tóc bằng đá và chảy dọc rãnh sống lưng hùng dũng, để lại một vết ố xanh thẫm lóng lánh. Phải xa quê xa quán mà lưu lạc ở khí hậu miền Bắc xa lạ này, nhưng chàng vẫn đẹp rạng rỡ dưới ánh ban mai, và bốn chú cá heo đỡ cái vỏ sò có mép lượn sóng mà chàng đang ngồi lên cũng không kém phần đẹp đẽ. Nàng đưa mắt nhìn mấy cái vảy đầy phi thực trên thân bốn con cá heo và cả trên đùi Triton, rồi về phía ngôi nhà. Đường nhanh nhất vào phòng đón khách là băng qua bãi cỏ và sân hiên rồi đi qua khung cửa sổ Pháp kia. Nhưng anh bạn từ thuở ấu thơ và lên đại học chỉ còn là người quen của nàng, Robbie Turner, lại đang quỳ gối rẫy cỏ dại chỗ bờ giậu mai khôi, mà nàng thì không muốn phải bắt chuyện với anh. Hay ít nhất là không phải bây giờ. Từ lúc về lại nhà, làm vườn đã trở thành niềm đam mê áp chót của anh. Giờ thì lại nghe bảo sẽ thi tiếp vào trường y, lấy bằng văn chương rồi mới theo đuổi chuyện đó thì có vẻ khá kiêu căng. Ngạo mạn nữa, vì chính cha nàng mới là người phải trả tiền học phí.

Nàng nhúng bó hoa xuống bể đài phun cho tươi, bể đài phun thì to như thật, sâu và lạnh, và tránh Robbie bằng cách vội quành tới mặt tiền ngôi nhà - nàng nghĩ đây là cớ để lưu lại bên ngoài thêm vài phút nữa. Ánh nắng buổi sáng, hay bất kỳ ánh sáng nào, cũng không thể che đậy nổi vẻ xấu xí của ngôi nhà Tallis – gần bốn mươi năm tuổi, gạch màu vàng thổ, thấp tè, cửa sổ khung bọc chì kiểu Gothic quý tộc, có lần bị Pevsner, hay ai đó trong nhóm của ông ta, chỉ trích trên một bài báo là thảm kịch của những cơ hội bị phí hoài, và bị một cây viết trẻ theo trường phái hiện đại chê là "vô duyên đến độ khiếm khuyết". Một dinh thự xây theo kiểu Ađam đã tọa lạc ở đây cho đến khi bị lửa thiêu rụi vào cuối những năm 1880. Những gì còn lại chỉ là đảo và hồ nhân tạo với hai cây cầu bằng đá bắc ngang làm đường xe chạy, và ven mép nước, là một điện thờ trát vữa xiêu vẹo. Ông nội của Cecilia, lớn lên từ tiệm bán đồ sắt và xây dựng gia tài nhờ một xê ri bằng sáng chế nào khóa móc, nào then cửa, chốt và bản lề, đã áp sở thích mọi thứ chắc chắn, an toàn và thực dụng của mình lên ngôi nhà mới. Mặc dù vậy, nếu một người xây lưng lại lối vào phía trước và phóng tầm mắt hết đường xe chạy, bỏ qua đám ngựa Friesian chưa gì đã tụ tập dưới bóng râm những cây đứng cách xa nhau, thì quang cảnh cũng đèm đẹp, tạo ấn tượng về một sự tĩnh lặng phi thời, bất dịch, những điều càng khiến nàng chắc chắn hơn bao giờ hết rằng mình phải sớm rời khỏi đây.

Nàng bước vào trong, lanh lẹ băng qua tiền sảnh lát gạch đen trắng - tiếng chân nàng bước vang vọng mới thân thuộc làm sao, mới khó chịu làm sao - rồi dừng lại ở bậu cửa phòng khách lấy hơi. Nhỏ những giọt nước mát lạnh xuống đôi chân mang xăng đan của nàng, bó hoa liễu diệp và diên vỹ lộn xộn khiến tâm trạng nàng dễ chịu hơn. Chiếc bình hoa nàng tìm nằm trên một cái bàn gỗ anh đào của Mỹ bên cánh cửa kính ban công đang khép hờ. Vị trí hướng Đông Nam của ngôi nhà cho phép những vạt ánh nắng ban mai dấn bước qua cả tấm thảm xanh màu nước biển. Hơi thở nàng điều hòa trở lại và cơn thèm thuốc lá càng dữ dội hơn, nhưng nàng vẫn nấn ná nơi cửa, trong khoảnh khắc bị trì níu bởi sự hoàn hảo của khung cảnh - bởi ba cái sofa Chesterfield đã lợt màu kê quanh lò sưởi kiểu Gothic gần như mới toanh trong có dựng một loạt những khúc gỗ lách đặc trưng cho mùa đông, bởi cây đàn clavico lạc giọng, vắng tay người chơi và giá nhạc bằng gỗ hồng sắc không dụng tới, bởi những tấm rèm nhung nặng nề, treo trễ nải bằng dây có núm tua xanh và cam, đóng khung một mảnh trời không mây và sân hiên đốm vàng đốm xám nơi cam cúc và cúc thanh nhiệt trồi lên giữa những kẽ lát đá. Bậc thềm dẫn xuống bãi cỏ nơi Robbie vẫn đang mải miết làm việc ở rìa, bãi cỏ kéo dài ra tít tận đài phun Triton cách đó năm mươi lăm mét.

Tất thảy những thứ này - sông, hoa, chạy, những thứ nàng hiếm khi làm vào những ngày này, những cành sồi đẹp đẽ vươn ra trên thân như những dẻ sườn, căn phòng trần cao, vòm ánh sáng, tiếng tim đập trong tai chìm vào tĩnh lặng - khi sự thân thuộc hóa thành nét xa lạ quyến rũ, tất thảy những thứ này bỗng làm nàng khoan khoái. Nhưng nàng cũng cảm thấy muốn quở măng nỗi nhàm chán khi ở ru rú trong nhà. Nàng từ Cambridge về mang theo một niềm tin mơ hồ rằng mình nợ gia đình một khoảng thời gian ở bên họ liên tục. Nhưng cha nàng vẫn còn lưu lại thành phố, còn mẹ nàng, khi bà không phải lo chăm chứng đau nửa đầu thì lại có vẻ xa cách, thậm chí thiếu thân thiện. Cecilia có lần đã bưng khay trà đến tận phòng mẹ - bẩn thỉu đến ngoạn mục không kém gì phòng nàng - nghĩ rằng biết đâu có thể chuyện trò thân mật. Nhưng, Emily Tallis chỉ muốn chia sẻ những bực dọc nhỏ nhặt chuyện nhà chuyện cửa, hoặc ngồi tựa gối, nét mặt u sầu khó hiểu, im lặng uể oải nhấp cạn tách trà. Briony thì đắm mình vào mộng tưởng viết lách - việc trước đây có vẻ là thú vui dở hơi thoáng qua giờ hóa ra lại là nỗi ám ảnh bao chiếm trọn vẹn.

Sáng hôm đó Cecilia đã gặp bọn trẻ trên cầu thang, em gái cô dẫn ba chị em họ kia, những đứa trẻ đáng thương vừa mới chân ướt chân ráo đến hôm qua, lên phòng trẻ để tập vở kịch Briony muốn diễn vào buổi tối, khi Leon và bạn anh về. Còn quá ít thời gian, mà một trong hai đứa nhóc sinh đôi đã bị Betty phạt nhốt trong phòng rửa bát vì đã làm gì đó sai trái. Cecilia chẳng buồn nghĩ đến chuyện giúp đỡ - trời nóng quá, mà dù nàng có làm gì chăng nữa, dự án kịch kia cũng két cục trong tai họa, vì Briony đã trông đợi quá nhiều, trong khi không một ai, đặc biệt là đám chị em họ, đủ khả năng đáp ứng được viễn tượng điên rồ của em.

Cecilia biết mình không thể cứ hoài phí tháng ngày trong cái ngột ngạt của căn phòng bừa bộn, nằm trên giường trong làn khói thuốc mờ ảo, tay chống cằm, sởn gai ốc khắp cánh tay trong lúc mải mê đọc Clarissa của Richardson. Nàng từng hờ hững bắt đầu vẽ một cây phả hệ, nhưng về đằng nội, ít nhất cho đến khi ông cô nội của nàng mở cái cửa hàng đồ sắt xoàng xĩnh ấy, tổ tiên nàng chỉ chìm đắm không gì cứu vãn nổi trong vũng lầy toàn việc trang trại đồng áng, những vụ đổi họ đáng ngờ và khó hiểu của cánh đàn ông, và các cuộc hôn nhân theo tập tục chứ không được ghi chép lại trong sổ sách xứ đạo. Nàng không thể lưu lại đây mãi, nàng biết mình nên lên kế hoạch, nhưng nàng chẳng động tay chân. Có rất nhiều khả năng, nhưng hết thảy đều chẳng hề câu thúc. Nàng có ít tiền trong tài khoản, đủ cho nàng sống tằn tiện trong khoảng một năm. Leon không ngớt mời nàng đến ở cùng anh tại London. Bạn bè đại học đề nghị giúp nàng tìm việc làm - một công việc nhàm chán, tất nhiên, nhưng nàng sẽ tự lập. Nàng có những bà dì ông cậu thú vị luôn sẵn lòng gặp nàng, gồm cả dì Hermione phóng túng, mẹ của Lola và hai thằng bé, hiện giờ đang ở tận Paris với người tình làm việc tại đài truyền thanh.

Không ai níu Cecilia lại, không ai đặc biệt quan tâm nếu nàng đi.

Không phải sự uể oải kìm giữ nàng - nàng vẫn thường bồn chồn đến mức dễ cáu kỉnh. Đơn giản là nàng chỉ thích cảm thấy có ai đó ngăn nàng ra đi, có ai đó cần đến nàng. Hết lần này lượt khác nàng thuyết phục bản thân rằng nàng ở lại là vì Briony, hay để giúp mẹ nàng, hay bởi thực sự đây là kỳ lưu lại cuối cùng liên tục ở nhà nên nàng sẽ không bỏ dở. Nhưng thực ra nàng cũng chẳng mấy hào hứng với ý nghĩ đóng gói va li rồi bắt chuyến tàu buổi sớm. Ra đi chỉ vì ra đi. Nấn ná lại đây, vừa nhàm chán vừa dễ chịu, là một dạng tự trừng phạt nhuốm màu khoái cảm, hoặc nàng cũng trông đợi nó như vậy; nếu nàng ra đi biết đâu sẽ có chuyện gì đó tồi tệ xảy ra, tệ hơn thế, biết đâu lại có chuyện gì đó tốt lành, chuyện gì đó mà nàng không nên để lỡ. Lại còn Robbie nữa, anh làm nàng giận điên lên được với cái vẻ bộ tịch xa cách, với những kế hoạch vĩ đại chỉ bàn bạc với cha nàng. Hai người quen nhau từ hồi mới lên bảy, nàng và Robbie, và nàng thấy buồn bực vì hai người vẫn gượng gạo khi nói chuyện. Mặc dù nàng cảm thấy phần lớn đó là lỗi của anh - phải chăng cái vị trí luôn đứng đầu đã khiến anh mê muội? - nàng biết mình phải làm cho ra ngô ra khoai chuyện này rồi mới nghĩ đến việc ra đi.

Qua khung cửa sổ mở lẩn vào mùi phân bò thoang thoảng, luôn hiện hữu trừ ngày đông giá lạnh, và chỉ những ai đi xa về mới để ý thấy. Robbie đã bỏ xẻng xuống và đứng lên quấn thuốc, một thói quen tàn tích từ thời gian sinh hoạt đảng Cộng sản của anh - một đam mê dở hơi bị bỏ rơi khác, cùng với những tham vọng trong ngành nhân chủng học, và kế hoạch đi bộ từ Calais sang Istanbul. Mà thuốc lá của nàng thì lại cách chỗ nàng đang đứng đến hai đợt cầu thang, đâu đó trong mấy cái túi.

Nàng tiến vào phòng, tống chỗ hoa vào bình. Cái bình hồi xưa là của bác Clem, nàng còn nhớ khá rõ lễ tang của ông, hay cải táng thì đúng hơn, vào những ngày cuối chiến tranh: chiếc xe vốn để chở pháo tiến vào sân nhà thờ ở quê, quan tài được phủ cờ trung đoàn, những thanh kiếm giơ cao, đống đất bên huyệt, và đáng nhớ nhất với một đứa trẻ năm tuổi là cảnh cha nàng nức nở. Clem là người anh duy nhất của ông. Câu chuyện làm thế nào bác lại có cái bình được kể lại trong một trong những lá thư cuối cùng viên trung úy trẻ viết về nhà. Ông làm nhiêm vụ liên lạc bên quân khu của Pháp và đề xướng tản cư một thành phố nhỏ phía Tây Verdun vào phút chót trước khi nó bị pháo kích. Khoảng năm mươi phụ nữ, trẻ em và người già đã được cứu mạng. Sau đó, thị trưởng và những quan chức khác đưa bác Clem vào lại thành phố đến một bảo tàng đã bị thiêu hủy quá nửa. Cái bình được lấy ra từ một kệ kính đã vỡ tan tành và trao tặng để tỏ lòng biết ơn. Không thể nào từ chối, dù có bất tiện đến đâu khi phải đi chiến đấu với một cái bình sứ Meissen kè kè kẹp dưới một bên tay. Một tháng sau, cái bình được để lại một trang trại cho an toàn, và Trung úy Tallis đã lội qua sông mùa nước lên để tìm lại nó, rồi giữa đêm lại lội ngược lại dòng nườc đó để nhập với đơn vị. Vào những ngày cuối cùng của cuộc chiến, ông được cử đi tuần tra và đã gửi lại cái bình cho một người bạn để cất giữ an toàn. Cái bình từ từ tìm đường quay lại sở chỉ huy trung đoàn, rồi được gửi đến nhà Tallis vài tháng sau lễ tang bác Clem.

Đúng là chẳng ích gì khi cô cắm lại đám hoa dại. Chúng cứ ngã nhào vào chuẩn cân đối của riêng chúng, và đúng là phân bố hoa diên vỹ và liễu diệp quá đều nhau đã làm hỏng hết ấn tượng. Nàng mất đến vài phút chỉnh lại để bình hoa có được vẻ lộn xộn tự nhiên. Trong lúc đó, nàng băn khoăn không biết có nên ra ngoài lại chỗ Robbie. Để khỏi phải chạy lên cầu thang. Nhưng nàng thấy khó chịu và nóng nực, và muốn nhìn thử dung mạo mình trong tấm gương mạ vàng lớn đặt trên lò sưởi. Nhưng nếu thế, anh mà quay lại - anh đang đứng xây lưng lại nhà, hút thuốc - thì sẽ nhìn thắng ngay vào phòng. Cuối cùng nàng cũng chỉnh xong hoa và lại đứng lên. Giờ thì bạn anh nàng, Paul Marshall, sẽ tin rằng hoa đơn giản đã được thả vào bình một cách không chủ ý hệt như khi chúng được hái vậy. Nàng biết thật vô nghĩa khi cắm hoa vào bình mà chưa đổ nước - nhưng đằng nào cũng thế rồi; nàng không cưỡng lại được việc chỉnh chúng trước, vả lại không phải mọi thứ con người làm đều có thể theo một trật tự logic, chính xác, nhất là khi họ chỉ có một mình. Mẹ nàng muốn để hoa trong phòng khách và Cecilia vui vẻ vâng lời. Nơi lấy nước là ở bếp. Nhưng Betty đang chuẩn bị nấu bữa tối, va đang trong tâm trạng rất dễ nổi đóa. Không chỉ thằng nhỏ, Jackson hay Pierrot, mới co rúm lại run rẩy - mà cả người giúp việc thêm từ làng lên cũng thế. Từ phòng khách này đã có thể nghe được tiếng hét nóng giận nghèn nghẹt thỉnh thoảng vút lên và tiếng chảo đập loảng xoảng lên mặt lò bằng một lực không mấy bình thường. Nếu giờ mà Cecilia ló mặt vào, nàng sẽ phải làm trung gian hòa giải giữa những lời chỉ dẫn mơ hồ của mẹ và tâm trạng kích động của Betty. Rõ là họp lý hơn khi ra ngoài lấy nước vào bình chỗ đài phun.

Hồi mười mấy tuổi, có lần một người bạn của cha Cecilia làm việc ở Bảo tàng Victoria and Albert đã đến xem xét cái bình và khẳng định nó khá quý. Nó là đồ sứ Meissen thật trăm phần trăm, tác phẩm của nghệ sĩ vĩ đại Horoldt, ông vẽ nó vào năm 1726. Gần như chắc chắn nó từng thuộc sở hữu của Vua August. Mặc dù nó được liệt vào thứ đáng giá hơn những thứ khác trong nhà Tallis, hầu hết là những thứ tạp nhạp ông nội Cecilia sưu tầm, Jack Tallis vẫn muốn cái bình luôn được sử dụng, để tưởng nhớ người anh trai. Nó không nên bị giam cầm trong tủ kính. Lý lẽ là nếu đã sống sót được qua chiến tranh, thì nó có thể sống sót giữa những người nhà Tallis. Vợ ông không phải không đồng tình. Sự thật là, dù giá trị của nó vĩ đại cỡ nào, và bất chấp mọi moi liên hệ mà cái bình mang trong nó, Emily Tallis vẫn không thích nó lắm. Hình vẽ mấy người Trung Hoa nhỏ xíu trịnh trọng tụ tập quanh bàn trong một khu vườn, xung quanh là cây cối rườm rà và lũ chim chóc trông đầy giả tạo, tạo cảm giác ngột ngạt và cầu kỳ rối mắt. Phong cách Trung Hoa nói chung thường khiến bà thấy nhàm chán. Cecilia thì không có ý kiến gì đặc biệt, dù thỉnh thoảng nàng vẫn tự hỏi ở nhà đấu giá Sotheby's thì cái bình bán được bao nhiêu. Cái bình được tôn kính không phải chỉ vì tài nghệ tráng những lớp men đa sắc siêu phàm của Horoldt hay những họa tiết trang trí kiểu dây da bện và hoa văn cành lá màu xanh dương và vàng chói quấn quýt vào nhau, mà vì bác Clem, vì những sinh mạng bác đã cứu sống, vì con sông bác đã băng qua lúc nửa đêm, và vì cái chết của bác chỉ một tuần trước ngày đình chiến. Hoa, đặc biệt là hoa dại, có lẽ là tặng vật thích hợp.

Cecilia đứng một chân giữ chặt cái bình sứ mát lạnh bằng cả hai tay, chân còn lại đẩy cánh cửa sổ Pháp mở toang. Khi nàng bước ra ánh sáng rỡ ràng, mùi đá nóng sực lên như một vòng tay thân mật. Hai con chim nhạn đang chao cánh trên đài phun, và bài ca của một chú claim chích vang lên xuyên qua không trung từ bên trong tán lá gần như tối thẫm của cây tuyết tùng khổng lồ xứ Lebanon vạm vỡ. Những cánh hoa rập rờn trong làn gió nhẹ, khẽ mơn trớn mặt nàng khi nàng bước qua sân hiên và thận trọng đưa chân bước lên ba bậc lung lay dẫn xuống con đường lát sỏi. Robbie thình lình quay lại khi nghe tiếng nàng bước đến.

"Tôi đang mải nghĩ," anh cất lời giải thích.

"Anh quấn cho tôi một điếu Bolshevik anh đang có được không?"

Anh ném điếu thuốc của mình qua một bên, nhặt chiếc hộp thiếc nằm trên áo khoác trên bãi cỏ rồi sánh bước cùng nàng đến đài phun. Trong một lát, hai người lặng thinh.

"Hôm nay trời đẹp nhỉ," rồi nàng nói trong tiếng thở dài.

Anh nhìn nàng bằng ánh mắt nghi ngờ thích thú. Có thứ gì đó giữa hai người, ngay cả nàng cũng phải thừa nhận rằng một lời nhận xét nhạt nhẽo về thời tiết nghe thật gượng gạo.

"Clarissa hay không?" Anh cụp mắt xuống nhìn ngón tay đang quấn thuốc.

"Chán lắm."

"Chúng ta đâu được phép nói vậy." "Tôi mong cô ta sẽ làm tới luôn."

"Có chứ. Rồi chuyện hay hơn nhiều."

Họ bước chậm lại, rồi dừng hẳn để anh đưa ngón tay quấn nốt vòng cuối cho điếu thuốc của nàng.

Nàng nói, "Tôi thà đọc Fielding còn hơn."

Nàng có cảm giác vừa nói một điều ngu xuẩn. Robbie đưa mắt nhìn qua bãi cỏ và lũ bò tới cánh rừng sồi nằm trong thung lũng sông, khu rừng sáng đó nàng đã chạy qua. Anh có thể sẽ nghĩ nàng đang bóng gió với anh, khơi gợi rằng nàng thích người cường tráng và gợi tình. Dĩ nhiên điều đó không đúng, nàng lúng lúng và không biết làm cách nào để nói cho anh hiểu đúng. Nàng thích mắt anh, nàng nghĩ, hòa quyện không lẫn lộn hai màu cam và xanh lá cây, dưới ánh nắng mặt trời trông càng như có hạt óng ánh. Và nàng thích sự thật rằng anh rất cao. Một sự kết hợp quyến rũ ở người đàn ôngng: trí thông minh và sức dài vai rộng. Cecilia cầm lấy điếu thuốc và anh châm cho nàng.

"Tôi hiểu ý cô," anh nói trong khi họ bước đi nốt vài mét đến chỗ đài phun, "ở Fielding có nhiều yếu tố đời sống hơn, nhưng về mặt miêu tả tâm lý thì ông hơi thô so với Richardson."

Nàng đặt bình xuống cạnh mấy bậc mấp mô dẫn lên bể đá của đài phun. Nàng chẳng lòng dạ nào muốn tranh luận như khi học đại học về văn chương thế kỷ mười tám. Nàng không hề nghĩ Fielding thô, hay Richardson là một nhà tâm lý tài ba, nhưng nàng sẽ không sa vào, biện hộ, giới thuyết, bác lại. Nàng chán những thứ đó rồi, mà Robbie khi tranh luận thì ngoan cố lắm.

Nên nàng chỉ nói, "Hôm nay Leon về đấy, anh biết không?" "Tôi có nghe phong thanh. Thật tuyệt quá."

"Anh ấy đưa bạn về, anh ấy tên là Paul Marshall."

"Nhà tỉ phú sôcôla. Ôi không! Và cô sắp tặng hoa cho anh ta!"

Nàng mỉm cười. Phải chăng anh đang vờ vĩnh ghen tuông để che giấu sự thật là anh thực sự đang ghen tuông? Nàng không còn hiểu được anh nữa. Hai người đã không liên lạc với nhau từ hồi ở Cambridge. Quá khó để làm gì đó khác. Nàng bèn đổi chủ đề.

"Ông Già bảo anh sẽ làm bác sĩ." "Tôi đang suy nghĩ."

"Anh hẳn là yêu đời sinh viên lắm."

Anh lại đưa mắt nhìn đi chỗ khác, nhưng lần này chưa đến một giây, và khi anh quay lại nàng nghĩ mình vừa thấy một thoáng tức giận. Có phải giọng nàng nghe có vẻ hạ cố? Nàng lại nhìn vào mắt anh, những đốm cam và xanh lá cây, như hòn bi ve của một cậu bé. Nhưng khi nói giọng anh lại hoàn toàn dễ chịu.

"Tôi biết cô chẳng bao giờ thích những thứ như thế, Cee ạ. Nhưng còn cách nào khác để trở thành bác sĩ nữa chứ?"

"Ý tôi là vậy đấy. Lại sáu năm nữa. Để làm gì?"

Anh không mếch lòng. Nàng mới là người hay suy diễn, dễ kích động mỗi khi có mặt anh, và nàng khó chịu với chính mình.

Anh trả lời câu hỏi của nàng một cách nghiêm túc. "Thực sự sẽ không ai trả lương cho tôi làm một anh thợ làm vườn. Tôi không muốn dạy học, hay thi vào ngạch công chức. Vả lại y học cũng khiến tôi hứng thú..." Anh ngừng bặt khi nảy ra một ý nghĩ. "Nghe này, tôi đã đồng ý sau này trả lại tiền cho cha cô. Thỏa thuận là thế."

"Tôi hoàn toàn không định nói chuyện đó."

Nàng ngạc nhiên khi anh nghĩ nàng đang đưa vấn đề tiền nong ra. Anh thật tủn mủn. Cha nàng đã bao cấp việc học hành của Robbie từ trước đến giờ. Đã ai lên tiếng phản đối chưa? Nàng đã nghĩ mình tự tưởng tượng ra, nhưng hóa ra nàng đúng - gần đây có gì đó khó chịu trong cách xử sự của Robbie. Anh luôn có cách chặn họng nàng bất cứ khi nào có thể. Hai hôm trước anh đã bấm chuông cửa trước - tự việc này đã kỳ quặc rồi, vì anh luôn được tự do ra vào ngôi nhà. Khi tiếng chuông gọi nàng xuống, anh đang đứng ngoài lớn tiếng hỏi vọng vào trong bằng giọng lạnh lùng rằng cho anh mượn cuốn sách được không. Khi việc đó xảy ra, Polly đang bò cả người ra lau sàn ở sảnh vào. Robbie trịnh trọng tháo ủng ra mặc dù chúng chẳng bẩn chút nào, rồi nghĩ thêm, cởi luôn cả tất, và rón rén theo kiểu cường điệu rất hoạt kê đi trên sàn ướt. Mọi việc anh làm đều nhằm mục đích giữ khoảng cách với nàng. Anh đang đóng vai con trai của người lau dọn đến nhà lớn chạy việc vặt. Hai người cùng nhau vào thư viện, và khi anh tìm thấy cuốn sách mình cần, nàng mời anh lưu lại dùng một tách cà phê. Cái kiểu run rẩy từ chối ấy đúng là một màn vờ vĩnh - anh là một trong những người tự tin nhất mà nàng từng gặp. Nàng biết mình bị giễu. Bị cự tuyệt, nàng ra khỏi phòng lên lầu nằm lăn ra giường với Clarissa, đọc mà không nhồi nổi vào đầu một từ nào, cảm thấy mỗi lúc một cáu giận và bối rối. Nàng bị giễu, hay bị trừng phạt - nàng không hiểu đằng nào thì tệ hơn. Bị trừng phạt vì đã thuộc về một giới khác khi ở Cambridge, vì đã không có một bà mẹ làm nghề lau chùi; bị giễu nhại vì cái bằng hạng xoàng của nàng - mà thực ra đằng nào người ta cũng đâu có trao bằng cho nữa giới.

Lóng ngóng, vì vẫn cầm điếu thuốc, nàng nhâc chiếc bình lên rồi khéo léo đặt nó dứng trên thành bể. Sẽ hơp lý hơn nếu lấy hoa ra trước, nhưng nàng thì đang cáu quá. Tay nàng vừa nóng vừa khô ran, nên nàng phài siết chật cái bình sứ hơn. Robbie im Lặng, nhưng nhìn biểu hiện trển mặt anh - một nụ cười gượng gạo, cố căng ra trên đôi môi mím - là nàng biết anh hối hận vì đã nói thế. Nhưng như vậy cũng chẳng giúp nàng thấy dễ chịu hơn. Chuyện này luôn xảy ra khi họ trò chuyện với nhau những ngày gần đây; nếu không phải nàng thì cũng là anh liên tục cư xử không phải, luôn cố gợi lại lời nhận xét lần trước. Không một chút thoải mái, không một chút bình lặng trong những câu họ chuyện trò, không cơ hội để họ thư giãn. Thay vào đó, chỉ là những chông gai, cạm bẫy, những lần chuyển chủ đề gượng gạo khiến nàng căm ghét bản thân mình cũng nhiều ngang với căm ghét anh, mặc dù nàng không nghi ngờ gì rằng chính anh mới là người có lỗi chính. Nàng không hề thay đổi, nhưng chắc chắn anh đã đổi thay. Anh đặt ra khoảng cách giữa anh và cái gia đình trước nay vẫn hoàn toàn mơt rộng vòng tay với anh, trao cho anh mọi thứ. Chỉ riêng lý do này thôi – biết thừa anh sẽ từ chối, và chính nàng trước đó đã không vui - tối đó nàng đã không mời anh đến dùng bữa tối. Anh muốn khoảng cách chứ gì, thì cho anh có khoảng cách.

Trong bốn con cá heo dùng đuôi đỡ cái vỏ sò cho Triton ngồi quỳ, con gần Cecilia nhất có miệng mở rộng nhồi đầy những rêu với tảo. Cầu mắt bằng đá, to ngang quả táo, xanh lóng lánh màu lá cây. Toàn bộ mặt hướng về phía Bắc của bức tượng phủ một lớp gỉ đồng xanh nhạt, nên khi nhìn vào từ góc độ nhất định, và dưới ánh sáng mờ mờ, thần Triton cuồn cuộn cơ bắp tạo cảm giác như đang ở sâu hàng trăm hải lý dưới biển. Dụng ý của Bemini hẳn là để nước từ vỏ sò lớn có mép mấp mô thánh thót chảy xuống bể bên dưới. Nhưng áp suất quá yếu, vì thế nước chỉ ri rỉ men theo mặt dưới vỏ sò, nơi chất bùn nhớt tận dụng cơ hội treo mình vào trong những giọt đang nhỏ xuống, như thạch nhũ trong động đá vôi. Bể sâu hơn một mét và sạch bong. Đáy bể là một tảng đá láng mịn màu xanh xám, trên đó là vô số những khoảng sáng hình chữ nhật cạnh trắng in bóng sóng lăn tăn được làm nên từ ánh mặt trời bị khúc xạ hết tách ra lại gối lên nhau chồng chéo.

Nàng định nhoài người qua thành bể, để nguyên hoa trong bình rồi nghiêng bình xuống nước, nhưng đúng giây phút đó Robbie, vì muốn chuộc lỗi, bèn cố tỏ ra có ích.

"Để tôi làm cho," anh nói, chìa tay ra. "Tôi sẽ lấy nước vào bình cho cô, còn cô cầm hoa."

"Tôi tự làm được, cám ơn." Nàng đã chìa cái bình ra ngoài bể rồi.

Nhưng anh nói, "Này, tôi cầm rồi." Và anh đã cầm, giữ chắc bằng ngón trỏ và ngón cái. "Thuốc của cô ướt mất. Cầm hoa đi."

Anh đã cô tạo cho mệnh lệnh này vẻ nam quyền cương quyết. Hậu quả tác động lên Cecilia là khiến nàng siết chặt tay cầm hơn. Nàng không có thời gian, và dĩ nhiên không có ý định giải thích rằng nhúng cả bình và hoa xuống nước sẽ giúp tạo ra vẻ tự nhiên mà nàng muốn có cho lọ hoa. Nàng cầm chặt hơn và lách người khỏi anh. Anh không dễ bị tống khứ như thế. Một âm thanh khô như cành cây gãy rắc vang lên, một phần miệng bình rời ra trong tay anh, và vỡ tan thành hai mảnh hình tam giác rơi tõm xuống nước, nhào lộn nhịp nhàng với nhau trên đường lao xuống đáy, rồi nằm đó, cách nhau vài xăng- timét, trông méo mó trong ánh sáng bị khúc xạ.

Cecilia và Robbie chết sững trong tư thế đang giành nhau. Mắt gặp mắt, và cái nàng nhìn thấy trong gam màu hòa quyện hai sắc xanh cam thất thần kia không phải sự kinh ngạc, hay tội lỗi, mà là một kiểu thách thức, hay thậm chí là đắc thắng. Nàng đủ tỉnh táo để đặt lại chiếc bình mẻ kia xuống bậc trước khi để bản thân đối mặt với tầm nghiêm trọng của tai biến này. Thật vô cùng hấp dẫn, thậm chí đáng hài lòng nửa, vì nàng biết chuyện càng nghiêm trọng thì Robbie sẽ thấy càng tồi tệ. Người bác quá cố của nàng, anh trai thân yêu của cha nàng, cuộc chiến tranh vô ích ấy, vụ vượt sông nguy hiểm ấy, sự quý giá không tiền bạc nào sánh nổi ấy, chủ nghĩa anh hùng và lòng hào hiệp, ngần ấy năm dồn tụ đằng sau lịch sử của chiếc bình kể từ thời Horoldt thiên tài, và trước ông xa hơn nữa đến tận thời của những nghệ nhân nắm bí quyết đã tái sinh đồ sứ...

"Đồ ngốc! Nhìn xem anh đã làm cái gì đây này."

Anh nhìn xuống nước, rồi nhìn nàng, và chỉ đơn giản lắc đầu khi đưa tay lên che miệng. Bằng cử chỉ này anh đã nhận hoàn toàn trách nhiệm, nhưng vào giây phút đó, nàng căm ghét anh vì anh đã phản ứng quá yếu ớt. Anh liếc về phía bể rồi thở dài. Trong một khoảnh khắc anh nghĩ nàng sắp lùi lại giẫm lên cái bình, anh giơ tay lên chỉ, dù vẫn không nói gì. Thay vì thế anh bắt đầu cởi cúc áo. Ngay lập tức nàng biết anh sắp làm gì. Không thể dung thứ nổi. Anh ta đã đến nhà, rồi cởi giày, cởi tất - được thôi, nàng sẽ cho anh thấy. Nàng hất phăng đôi xăng đan ra, mở cúc áo và cởi ra, tụt váy xuống và bước chân ra khỏi nó, tiến đến thành bể. Anh đứng chống nạnh trân trối nhìn nàng mặc độc bộ đồ lót chuồi người xuống nước. Khước từ sự giúp đỡ của anh, khước từ mọi khả năng chuộc lỗi, là hình phạt dành cho anh. Nước lạnh cóng bất ngờ khiến nàng thở hổn hển là hình phạt dành cho anh. Nàng nín thở và ngụp xuống, để tóc xòa tung trên mặt nước. Tự trầm chính nàng sẽ là hình phạt dành cho anh.

Khi nàng trồi lên một vài giây sau, hai tay cầm hai mảnh sứ, anh biết tốt hơn không nên đề nghị giúp nàng ra khỏi nước. Vị nữ thần trắng ngần mảnh mai, từ người nàng nước ầm ầm đổ xuống, tráng lệ hơn nhiều so với từ chàng Triton lực lưỡng kia, cẩn thận đặt những mảnh vỡ cạnh cái bình. Nàng mau lẹ mặc lại váy áo, khó nhọc xỏ cánh tay ướt sũng vào tay áo lụa, rồi nhét vào váy chiếc áo chưa cài khuy. Nàng nhặt đôi xăng đan lên rồi kẹp chặt vào dưới cánh tay, bỏ những mảnh vỡ vào túi váy rồi cầm cái bình lên. Nàng cử động một cách bạo liệt, và không thèm nhìn vào mắt anh. Anh không tồn tại, anh bị trục xuất, và đây cũng là hình phạt. Anh đờ đẫn đứng đó khi nàng bước đi, chân trần trên cỏ, và anh nhìn mái tóc bị nước làm cho sẫm màu của nàng vung vẩy nặng nề trên vai, làm ướt sũng chiếc áo. Rồi anh quay lại nhìn xuống làn nước vì nhỡ đâu nàng còn để sót một mảnh vỡ. Rất khó nhìn vì mặt nước bị khuấy tung kia vẫn chưa hồi lại được trạng thái phẳng lặng, và sự xáo trộn đó là do cơn thịnh nộ còn nấn ná trong nàng gây ra. Anh xòe tay khẽ áp vào mặt nước, như để mơn trớn xoa dịu. Nàng, khi đó, đã mất dạng vào nhà.

Bạn đang đọc truyện trên: truyentop.pro