NĂM

Phía trước tình hình còn rối loạn hơn, nhiều tiếng gào thét hơn. Thật kinh ngạc, một đoàn xe bọc sắt đang lấn đường tiến của đoàn xe cộ binh lính, người tị nạn. Đám đông miễn cưỡng tẽ ra. Mọi người len vào những chỗ trống giữa xe cộ bỏ không hoặc nép mình vào những bức tường và cửa nhà đổ nát. Đó là một đội quân Pháp, không đông hơn một phân đội là mấy - ba xe bọc sắt, hai háp-lrắc và hai xe chở quân. Không có vẻ gì là ở cùng phe với họ. Lính Anh luôn cho rằng người Pháp đã làm họ thất vọng. Không có ý chí chiến đấu cho tổ quốc cùa chính mình. Tức giận vì bị đẩy sang bên, lính Anh chửi thề, và chế giễu đồng minh của mình bằng những tiếng hét "Maginot!" về phần mình, lính Phớp hẳn là đã nghe tin dồn di tản. Và giờ họ đây, được cử đi yểm hộ phía sau. "Đồ hèn! Lên tàu đi! Đi mà bĩnh ra quần bọn mày!" Rồi họ di hết, và đám đông lại quần tụ dưới một đám khói diesel, bước tiếp.

Họ đang tiến tới những ngôi nhà cuối cùng trong làng. Trong cánh đồng phía trước, anh thấy một ông cùng với con chó collie bước sau một cái cày ngựa kéo. Như những bà trong cửa hàng, tay nông dân này dường như không biết là có đoàn xe. Họ như sống những cuộc đời song song - chiến tranh là thú vui với những kẻ hăng hái tham gia, song chẳng phải vì vậy mà kém phần nghiêm túc. Giống như ta đang đi săn và cố sống cố chết theo kịp bầy chó săn, trong khi ngoài hàng giậu liền kề, nơi băng sau chiếc ô tô chạy vụt qua, một phụ nữ vẫn đang mê mải đan, và trong khu vườn trơ trụi của một ngôi nhà mới xây, một người đàn ông đang dạy con trai đá bóng. Phải, cày cấy vẫn tiếp tục và sẽ có vụ mùa, ai đó sẽ gặt lúa và xay lúa, người khác thì ăn, và không phải rồi ai cũng chết...

Turner đang nghĩ thế thì Nettle tóm lấy tay anh và chỉ. Đoàn quân Pháp di chuyển đã át mất tiếng động, nhưng chúng dễ thấy. Ít nhất có đến mười lăm cái, ở độ cao khoảng hơn ba nghìn mét, những chấm nhỏ trên trời xanh, lượn vòng bên trên đường. Turner và hai tay hạ sĩ dừng lại nhìn, mọi người bên cạnh cũng đã trông thấy chúng.

Một giọng mệt mỏi lẩm bẩm gần tai anh, "Đù mẹ. Đám RAF đâu rồi chứ?"

Một người khác nói vẻ hiểu biết, "Chúng sẽ chỉ tấn công đám ếch Phớp thôi."

Như thể bị khích phải chứng minh là không phải vậy, một trong những đốm nhỏ kia tách đàn và bắt đầu cú lao gần như thẳng đứng, ngay xuống đầu họ. Trong vài giây tiếng động không đến được chỗ họ. Im lặng tăng dần giống như sức ép trong tai họ. Ngay cả những tiếng hét gào man dại khắp trên đường cũng không làm mất đi sự im lặng đó. Tìm chỗ trốn! Tản ra! Tản ra! Ngay lập tức!

Di chuyển rất khó khăn. Anh có thể cố lê bước đều đặn, và anh có thể dừng lại, nhưng thật là cả một nỗ lực, một nỗ lực ký ức, để hiểu ra những mệnh lệnh không quen thuộc, để tránh khỏi con đường và chạy. Họ đã dừng lại bên căn nhà cuối cùng trong làng. Đằng sau ngôi nhà là kho thóc và hai bên hông nhà là cánh đồng nơi gã nông dân kia đang cày ruộng. Giờ gã đứng dưới tán cây với con chó, như thể trú một con mưa rào. Ngựa của gã, vẫn đóng yên cương, gặm cỏ ở chỗ đất chưa cày. Lính và dân thường đang tán loạn lao khỏi đường, túa ra tứ phía. Một phụ nử ôm đứa con đang khóc chạy sượt qua anh, rồi cô đổi ý quay lại và đứng đó, tần ngần quay ngả quay nghiêng trên đường. Lối nào đây? Sân trại hay cánh đồng? Cảnh cô đứng bất động khiến anh bừng tỉnh. Khi anh đẩy vai cô về phía cánh cổng, tiếng rít khủng khiếp liền nổi lên. Ai đó đã biến ác mộng thành khoa học. Ai đó, chỉ là một con người bình thường, đã dành thời gian tưởng tượng ra tiếng rít ma quỷ này. Và mới thành công làm sao! Nó là âm thanh của chính sự hoảng loạn, mỗi lúc một to hơn và căng ra về phía sự tuyệt diệt mà họ đều hiểu, từng người một hiểu, là của chính họ. Nó là tiếng động ta buộc phải riêng phần mình nhận lấy. Turner dắt người đàn bà qua cổng. Anh muốn cô chạy với anh ra giữa cánh đồng. Anh đã chạm vào cô, và quyết định hộ cô, vì thế bây giờ anh cảm thấy mình không thể bỏ rơi cô. Nhưng thằng bé ít ra cũng sáu tuổi và rất nặng, và đi cùng nhau thì họ chẳng tiến được chút nào.

Anh giằng đứa bé khỏi tay cô. "Nhanh nào," anh hét.

Một chiếc Stuka mang theo một quả bom hạng nặng. Cái chính là phải tránh khỏi nhà cửa, xe cộ và những người khác. Tên phi công sẽ không hoài phí quả bom quý giá của hắn lên một người đơn lẻ trên cánh đồng. Nhưng khi hắn đã quay lại bắn phá thì lại là chuyện khác. Turner đã chứng kiến chúng truy đuổi một người đàn ông hộc tốc chạy chỉ để chơi cho vui. Bàn tay không bận của anh kéo tay người phụ nữ. Thằng bé tè ướt quần và gào thét ầm ĩ vào tai Turner. Người mẹ có vẻ không chạy nổi. Cô rụt tay ra, la hét. Cô muốn đòi lại đứa con. Thằng nhỏ ngoặt ngoẹo về phía cô, qua vai anh. Giờ thì tiếng bom rơi rú rít. Người ta bảo nếu nghe tiếng rít đó dừng lại trước khi bom nổ là ta tiêu đời. Khi nằm gục xuống cỏ, anh kéo người phụ nữ xuống cùng mình và dúi đầu cô xuống. Anh đang nằm đè một nửa trên đứa trẻ khi mặt đất rung lên bần bật với tiếng ầm không tưởng tượng nổi. Sức ép hất họ lên khỏi mặt đất. Họ che mặt lại tránh trận mưa cát bụi đau rát như có ngòi châm. Họ nghe tiếng chiếc Stuka bay vút lên sau khi bổ nhào xuống, ngay cùng lúc đó họ nghe tiếng than khóc của nữ thần báo tử cho đợt tấn công kế tiếp. Quả bom rơi xuống đường cách đó chưa đầy tám mươi mét. Anh cắp thằng nhỏ dưới tay và cố kéo người phụ nữ đứng dậy.

"Mình lại phải chạy thôi. Mình ở gần đường quá."

Người phụ nữ trả lời nhưng anh không hiểu cô nói gì. Họ lại nháo nhào chạy qua cánh đồng. Anh thấy cơn đau bên sườn như một vệt màu lóe lên. Thằng bé trong tay anh, và một lần nữa có vẻ như cô đang kéo anh lùi lại, và cố giằng đứa bé khỏi tay anh. Giờ thì cả ba đã chạy được hơn trăm mét trên cánh đồng, tất cả là để có chạy về phía khu rừng ở phía xa kia. Khi bom rin rít đổ, mọi người nằm rạp xuống đất. Nhưng cô kia không hề có bản năng cảm nhận nguy hiểm và anh lại phải kéo cô xuống. Lần này họ gí mặt vào đất vừa bị lật lên. Khi tiếng rít lớn hơn, cô kia hét lên tiếng gì đó như một lời cầu nguyện. Khi đó anh nhận ra cô ta không nói tiếng Pháp. Bom nổ ở đầu xa của con đường, cách đó hơn một trăm năm mươi mét. Nhưng giờ chiếc Stuka đầu tiên đang quay lại làng và oanh tạc. Thằng bé im bặt vì sợ. Mẹ nó không đứng lên. Turner chỉ về chiếc Stuka đang bay vào làng trên những nóc nhà. Họ đang năm đúng đường bay của nó và không có thời gian tranh cãi. Cô không nhúc nhích. Anh lao mình vào luống cày.

Tiếng đạn súng máy nã thịch thịch vào đất cày và động cơ gào rú vụt qua họ. Một người lính bị thương kêu thét. Turner đứng lên. Nhưng cô kia không chịu nắm tay anh. Cô ngồi trên mặt đất mà siết chặt đứa con. Cô đang nói tiếng xứ Flander với nó, an ủi nó, chắc chắn đang bảo với nó rằng mọi thứ sẽ ổn cả thôi. Mẹ sẽ lo hết. Turner không biết một từ nào của thứ tiếng này. Mà có biết cũng sẽ chẳng thay đổi được gì. Cô không để ý gì đến anh. Thằng bé đờ đẫn nhìn anh qua vai mẹ.

Turner bước lùi lại. Rồi anh chạy. Khi anh loạng choạng qua những luống cày, trận tấn công lại đổ xuống. Đất màu mỡ bám chặt vào bốt anh. Chỉ trong ác mộng chân mới nặng như thế. Một quả bom rơi xuống đường, cách đó khá xa về phía giữa làng, nơi những chiếc xe tải đỗ. Nhưng một tiếng rít luôn che giấu trong nó một tiếng nữa, và nó rơi xuống cánh đồng trước khi anh kịp nằm xuống. Trận nổ làm anh văng tới trước khoảng chừng một mét, mặt đập xuống đất. Khi anh tỉnh lại, miệng mũi tai anh đầy đất. Anh cố nhổ ra, nhưng miệng không có chút nước bọt nào. Anh dùng một ngón tay, nhưng còn tệ hơn. Anh cố khạc ra đất, rồi anh nôn lên ngón tay bẩn thỉu của mình. Anh hỉ đất ra khỏi mũi. Nước nhầy ở mũi dính đầy bùn và làm nghẹt miệng anh. Nhưng rừng gần ngay đó, sẽ có suối và thác và hồ. Anh tưởng tượng ra thiên đường. Khi lại nghe tiếng hú rít càng lúc càng to của một chiếc Stuka đang lao xuống, anh cố gắng nghe ngóng xem âm thanh từ đâu. Hết nguy hiểm rồi ư? Đầu óc anh cũng bị tắc nghẹn. Anh không thể nhổ hay nuốt, anh gần như không thở nổi, và anh không nghĩ được. Rồi, khi nhìn thấy tay nông dân với con chó vẫn kiên nhẫn đợi dưới gốc cây, mọi thứ quay lại với anh, anh nhớ ra mọi thứ và quay đầu nhìn lại. Chỗ người phụ nữ và thằng con trai là một hố bom. Ngay cả khi nhìn thấy nó, anh nghĩ mình đã luôn biết thế. Đó là lý do tại sao anh phải bỏ họ. Việc của anh là sống sót, mặc dù anh đã quên tại sao phải làm vậy. Anh tiếp tục chạy về phía rừng.

Anh đi bộ vài bước dưới tán cây, rồi ngồi dưới một bụi cây thấp mới mọc, lưng dựa vào cây phong non. Anh chỉ nghĩ đến nước. Có hơn hai trăm người trốn trong rừng, gồm cả những người bị thương đã lết được vào. Có một gã, dân thường, cách đó không xa, khóc lóc và kêu gào đau đớn. Turner đứng dậy dịch ra xa. Tất cả những cây non này đều nói với anh duy nhất một điều là nước. Trận tấn công tiếp diễn trên đường và cả làng. Anh gạt lá khô ra và dùng mũ để đào. Đất ẩm nhưng không có nước rỉ vào cái lỗ anh vừa đào, ngay cả khi đã sâu đến gần năm mươi phân. Vậy là anh ngồi đó nghĩ đến nước, và cố dùng tay áo lau sạch lưỡi. Khi một chiếc Stuka lao xuống, anh gần như không thể không căng thẳng và co rúm người lại, mặc dù lần nào anh cũng nghĩ là mình không đủ sức. Đến lúc cuối chúng quay lại oanh tạc trong rừng, nhưng không hiệu quả gì. Lá cây và cành con từ ngọn cây đổ xuống. Rồi mấy chiếc máy bay bay đi, và trong sự im lặng khủng khiếp bao trùm khắp cánh đồng, cây cối, ngôi làng, thậm chí không có đến một tiếng chim hót. Sau một lúc, từ phía đường cái vọng đến tiếng huýt sáo báo hiệu đã hết nguy hiểm. Nhưng không ai cử động. Anh nhớ chuyện này lần trước cũng thế. Họ quá sững sờ, họ đờ đẫn khi hết lần này lượt khác bị kinh hồn táng đởm. Mỗi đợt máy bay bổ xuống lại khiến từng người, bị dồn vào đường cùng và co rúm lại, đối mặt với án tử hình. Khi nó không đến, cuộc thử thách sẽ lại lặp lại từ đầu và nỗi sợ không hề thuyên giảm. Với những người còn sống, kết thúc trận oanh tạc của một chiếc Stuka là tình trạng tê liệt vì kinh sợ, những nỗi kinh sợ lặp đi lặp lại. Những trung úy và sĩ quan trẻ có thể đến hò hét và đá mọi người đứng dậy. Nhưng họ đã kiệt quệ và, mãi một lúc lâu, là những quân nhân vô dụng.

Vậy là anh ngồi đó thẫn thờ như mọi người, hệt như lần đầu tiên, ở ngoài một ngôi làng mà anh không nhớ rõ tên nữa. Những ngôi làng Pháp mang tên Bỉ. Khi anh bị tách khỏi đơn vị và, còn tồi tệ hơn cho một lính bộ binh, tách khỏi khẩu súng trường. Đã bao nhiêu ngày rồi? Không cách nào biết được. Anh kiểm tra khẩu súng lục đầy đất là đất. Anh đóc đạn ra và quẳng súng vào bụi cây. Một lúc sau, sau lưng anh có một tiếng động và một bàn tay đặt lên vai anh.

"Cầm lấy này. Đồ cứu trợ từ trung đoàn Green Howards."

Hạ sĩ Mace đang đưa cho anh chai nước của một người chết nào đó. Vì nó gần như còn đầy nên anh dùng tợp đầu tiên để súc miệng, nhưng làm thế thì lãng phí quá. Phần còn lại anh uống luôn, cả đất.

"Mace, ông là một thiên thần."

Tay hạ sĩ chìa tay ra kéo anh lên. "Phải di chuyển thôi. Có tin đồn là đám quân Bỉ mắc dịch đã bại trận. Chúng ta phải đi tắt từ phía Đông. Đường đất còn dài."

Khi họ băng qua lại cánh đồng, Nettle nhập bọn. Gã có một chai rượu và một thanh Amo, họ chia cho nhau.

"Yến tiệc ra trò," Turner vừa nói vừa tu ừng ực. "Đúng kiểu Phớp."

Tay nông dân và con chó collie lại quay về luống cày. Ba người lính lại chỗ hố bom bốc mùi thuốc nổ nồng nặc. Cái hố là một hình nón ngược cân đối hoàn hảo, các bên nhẵn thín, như thể được sàng và giần rất kỹ.

Không có dấu hiệu con người, không một mảnh áo quần hay giày dép. Bà mẹ và đứa trẻ đã bốc hơi. Anh dừng lại để tiêu hóa sự thực này, nhưng hai tay hạ sĩ vội vàng đẩy anh đi tiếp và chẳng mấy chốc họ nhập cùng những người lang thang trên đường. Giờ thì dễ hơn rồi. Sẽ không có xe cộ gì cho tới khi công binh mang xe ủi đất vào làng. Phía trước, đám khói dầu đốt vẫn lơ lửng trên không như một ông bố giận dữ. Máy bay ném bom tầm cao vù vù phía trên, một dòng bay hai chiều cứ bay tới mục tiêu rồi lại quay về. Turner phát hiện ra có thể là mình đang bước vào một trận thảm sát. Nhưng ai cũng đi đường đó, và anh không nghĩ ra cách nào khác. Đường đi đưa họ thẳng sang bên phải đám khói, về phía Đông Dunkirk, tới biên giới Bỉ.

"Bray Dunes," anh nói, nhớ tên này từ trên bản đồ. Nettle nói, "Nghe âm mấy chữ này thích nhỉ."

Họ đi qua những người bị bỏng rộp đến hầu như không bước nổi nữa. Vài người đi chân không. Một tay lính ngực bị thương đỏ lòm nằm gục trong một cái xe đẩy cổ lỗ sĩ do đồng đội đẩy đi. Một trung sĩ dắt một con ngựa, trên lưng nó là một viên sĩ quan vắt qua thõng thẹo, bất tỉnh hoặc đã chết, chân và cổ tay thừng buộc chặt. Một vài lính cưỡi xe đạp, hầu hết là đi bộ theo nhóm hai ba. Một liên lạc viên của Bộ binh Highland Light chạy qua trên một chiếc Norton. Đôi chân anh ta nhầy nhụa máu buông thõng, còn người đi cùng ngồi yên sau, hai tay băng bó chằng chịt, thì đang đạp pê đan. Khắp đường ngổn ngang những măng tô bị người ta vứt lại vì nóng quá không muốn mang theo. Turner cũng đã bảo hai tay hạ sĩ vứt lại áo của họ.

Họ đi được một giờ thì nghe sau lưng mình một âm thanh thình thịch đều đều, như tiếng tích tắc của một cái đồng hồ khổng lồ. Họ quay đầu nhìn. Thoạt tiên trông nó như một cánh cửa nằm ngang kếch xù đang bay trên đường về phía họ. Nó là một trung đội Vệ binh xứ Wales hàng lối trật tự, súng trường vác trên vai, do một thiếu úy dẫn đầu. Họ bước đều qua, mắt đăm đăm nhìn thẳng phía trước, tay đánh cao. Mọi người dạt sang hai bên cho họ qua. Đây đúng là lúc để giễu cợt, nhưng không ai liều huýt sáo. Màn trình diễn kỷ luật và đoàn kết thật đáng hổ thẹn. Thật nhẹ cả người khi đội Vệ binh này nện bước đi khỏi và mọi người có thể tiếp tục cắm cúi lê bước tiếp.

Cảnh tượng thì quen thuộc, các chi tiết thì y hệt, nhưng giờ có nhiều thứ hơn; xe cộ, hố bom, cát sỏi. Nhiều thi thể hơn. Anh bước đi cho đến khi gặp vị của biển lẫn trong làn gió mát rượi thổi qua những cánh đồng bằng phẳng nhiều đầm lầy. Dòng người một chiều với mục tiêu duy nhất, máy bay vẫn liên tục nghênh ngang trên không, đám khói khổng lồ báo hiệu nơi họ cần đến, khiến tâm trí mệt mỏi nhưng lại bị kích thích quá mức của anh nghĩ đến một niềm sung sướng từ thuở ấu thơ vốn đã chìm vào quên lãng, một lễ hội hay sự kiện thể thao nơi tất cả thiên hạ đều hội tụ về. Có một ký ức anh không tài nào nhớ nổi đã xảy ra khi nào, anh được cha công kênh trên vai, lên đồi về phía một cái gì đó hết sức hấp dẫn, về nguồn của một niềm phấn khích khổng lồ. Giờ anh muốn thấy lại đôi vai đó. Người cha mất tích của anh để lại không nhiều kỷ niệm. Một chiếc khăn quàng cổ quấn nhiều vòng, một mùi nhất định, nét mờ mờ của một bộ dạng có vẻ cáu kỉnh, buồn bã. Ông trốn không tham gia Thế chiến thứ nhất, hay ông chết đâu đó gần đây dưới một cái tên khác? Có lẽ ông còn sống. Grace tin chắc rằng ông ta quá hèn nhát, quá gian giảo nên sẽ không tòng quân, nhưng bà có lý do riêng để mà cay nghiệt. Gần như ai ở đây cũng có một người cha vẫn còn nhớ miền Bắc nước Pháp, hoặc bỏ lại xác ở đó. Anh muốn một người cha như thế, dù còn sống hay đã chết. Cách đây rất lâu, trước chiến tranh, trước Wandsworth, anh thường say mê niềm tự do gây dựng đời của riêng mình, viết nên câu chuyện riêng của mình nhờ sự giúp đỡ từ xa duy nhất của Jack Tallis. Giờ anh hiểu điều đó mới đúng là một ảo tưởng dối lừa làm sao. Không có rễ, thế thì không đơm hoa kết trái. Anh muốn một người cha, và cũng vì lý do đó, anh muốn trở thành một người cha. Chẳng có gì nghịch thường khi người ta nhìn thấy quá nhiều chết chóc và muốn có một đứa trẻ. Bình thường, vì thế rất con người, và anh muốn còn hơn thế nữa. Khi những người bị thương kêu gào, ta mơ tưởng một ngôi nhà nhỏ đâu đó nơi ta có người để sống cùng, mơ cuộc sống thường nhật, dòng dõi gia đình, mối dây liên kết. Khắp xung quanh anh, những con người lặng lẽ bước đi cùng những suy nghĩ của mình, cải tạo đời mình, đi đến những quyết định. Giá tôi có bao giờ thoát khỏi được cái đận này... Chẳng bao giờ đếm được chúng có bao nhiêu đứa, những đứa trẻ trong mơ kia, được thụ thai bằng tinh thần trên con đường cuốc bộ về Dunkirk, và sau đó được đắp da đắp thịt. Anh sẽ tìm Cecilia. Địa chỉ nàng trên lá thư trong túi áo, cạnh bài thơ. Trong hoang mạc con tim/ Hãy để nguồn chữa thương khởi dòng. Anh cũng sẽ tìm cha mình. Họ rất giỏi truy tìm những người mất tích, Đội quân Cứu thế ấy. Một cái tên hoàn hảo. Anh sẽ tìm được dấu vết cha, hay câu chuyện về người cha đã chết - dù thế nào, anh cũng sẽ trở thành con trai của cha mình.

Họ đi cả buổi chiều đến khi, cuối cùng, cách hơn cây số rưỡi, nơi một quầng khói xám vàng cuồn cuộn bốc lên từ những cánh đồng xung quanh, họ thấy cây cầu bắc qua kênh Bergues-Fumes. Giờ thì suốt cả con đường, không một ngôi nhà hay kho thóc nào còn đứng vững. Cùng với khói, chướng khí sinh ra từ thịt rữa dật dờ trôi về phía họ - thêm nhiều ngựa kỵ binh bị giết, hàng trăm con, chất thành ụ lớn trên đồng. Cách họ không xa là một núi đồng phục và chăn màn cháy âm ỉ. Một tay cai quyền lực lưỡng cầm búa tạ nện xuống một loạt máy đánh chữ và máy roneo. Hai xe cứu thương đỗ bên lề đường, cửa sau mở toang. Từ trong xe vọng ra tiếng rên rỉ và gào rú của những người bị thương. Một người thét lớn, hết lần này lần khác, giận dữ hơn là đau đớn, "Nước, cho tôi uống nước!" Như những người khác, Turner đều chân bước.

Đám đông lại đang ứ lại. Trước cầu dẫn qua kênh là một ngã tư, và từ hướng đi Dunkirk, trên con đường chạy dọc kênh, một đoàn xe tải ba tấn đi qua, quân cảnh đang cố hướng nó vào cánh đồng phía trước nơi có xác đàn ngựa. Nhưng binh lính nhung nhúc qua đường buộc đoàn xe phải dừng lại. Tài xế bấm còi và chửi bới ầm ĩ. Đám đông dồn tới. Những người mệt mỏi vì phải chờ đợi từ sau xe tải trườn xuống. Có tiếng hét, Tìm chỗ tránh! Và trước khi mọi người kịp nhìn quanh, một núi đồng phục lại được cho nổ. Những mẩu vải xéc xanh lục bé xíu rơi lả tả như mưa. Gần hơn, một phân đội pháo thủ đang dùng búa nện xuống ông ngắm và tấm thép đóng nòng những khẩu súng của mình. Một người, Turner nhận thấy, vừa khóc vừa hủy bích kích pháo của mình. Ở lối vào cũng cánh đồng đó, một cha tuyên úy và thư ký của ông ta đang đổ dầu lên những hòm đưng sách cầu nguyện và Kinh Thánh. Mọi người băng qua đồng về phía một kho của Quân tiếp vụ NAAFI đặng tìm thuốc lá và rượu. Khi có tiếng hét gọi, hàng chục người nữa rời khỏi đường nhập bọn cùng. Một nhóm ngồi cạnh cổng trang trại, thử mấy đôi giày mới. Một tay lính má phúng phình tay ôm một hộp kẹo dẻo màu hồng trắng sượt qua vai Turner. Cách kho bốt Wellington một trăm mét, người ta đốt mặt nạ chống độc và áo choàng không tay, khói cay sè phủ khắp dòng người đang dồn đẩy nhau về phía cầu. Cuối cùng thì đoàn xe tải cũng chuyển bánh chạy vào cánh đồng lớn nhất nằm ngay phía Nam con kênh. Quân cảnh đang tổ chức chỗ đậu xe, xếp theo hàng, như ủy viên ban tổ chức một cuộc trình diễn ở địa phương. Xe tải nhập cùng xe háp-trắc, xe máy, xe bọc thép chở quân và xe bếp di động. Phưong pháp phá hủy, như mọi khi, đơn giản - cho một viên đạn vào bộ tản nhiệt, và để mặc động cơ chạy cho đến khi cháy máy.

Cây cầu được trung đoàn Vệ binh Coldstream chiếm giữ. Hai ụ súng máy làm bằng nhiều túi cát chất gọn gàng bao quát lối vào. Những người râu ria nhẵn nhụi, mắt lạnh lùng, im lặng tỏ vẻ khinh bỉ đám rách rưới lộn xộn bẩn thỉu đang lê bước qua. Phía bên kia kênh, những phiến đá sơn trắng đặt cách nhau đều đặn chỉ đường tới một cái lán dùng làm phòng chỉ huy. Ở phía bờ xa, về hướng Đông và Tây, trung đoàn Vệ binh Coldstream được phân ra trấn thủ theo đơn vị của mình. Nhà trên bến tàu được quân đội trưng dụng, ngói bị dỡ ra, cửa sổ chất đầy túi cát để làm ụ súng máy. Một trung sĩ mặt mày bặm trọn đang giữ trật tự trên cầu. Hắn bắt một trung úy cưỡi xe máy quay lại. Tuyệt đối không dụng cụ hay xe cộ nào được cho qua. Một gã ôm lồng vẹt buộc phải quay lại. Tay trung sĩ này cũng điều động người làm nhiệm vụ phòng hộ vòng ngoài, và hắn làm việc đó với vẻ uy quyền gấp bội tay thiếu tá thảm hại kia. Một phân đội đang tăng dần quân số uể oải khổ sở đứng cạnh lán chỉ huy. Turner thấy những gì đang xảy ra đồng thời với hai hạ sĩ, khi họ vẫn còn cách đó một đoạn khá xa.

"Bọn nó sẽ túm mẹ nó lấy ông cho mà coi, chiến hữu ạ," Mace nói với Turner. "Tội nghiệp bọn bộ binh. Nếu ông còn muốn về nhà với mấy em xinh tươi thì len vào giữa hai bọn tôi mà khập khiễng mau."

Cảm thấy nhục nhã, nhưng cũng kiên quyết không kém, anh quàng tay qua vai hai hạ sĩ và cả ba loạng choạng bước tới.

"Chân trái đấy nhé, nhớ chưa, Cha nội," Nettle nói. "Ông có muốn tôi xuyên lưỡi lê qua chân ông không?"

"Cảm ơn ghê gớm. Tôi nghĩ mình tự xoay xở được."

Turner gục đầu xuống khi họ qua cầu vì thế anh không hề thấy tia nhìn hung tợn của tay trung sĩ đang thực thi nhiệm vụ kia, mặc dù cảm thấy độ nóng của nó. Anh nghe tiếng lệnh quát, "Ê, anh kia!" Một kẻ không may nào đó ngay sau anh bị kéo ra để tham gia chống đỡ trận tấn công chắc hẳn sẽ đến trong hai ba ngày tới, trong khi người cuối cùng của Lực lượng Viễn chinh Anh quốc đang leo lên tàu. Khi cúi đầu như vậy, anh thấy một chiếc sà lan dài đen chạy dưới cầu về phía Fumes ở Bỉ. Người lái sà lan ngồi ở chỗ bánh lái hút tẩu, lãnh đạm nhìn về phía trước. Phía sau anh, cách đó mười dặm, Dunkirk đang đùng đùng cháy. Phía trước, trên mũi tàu, hai thằng nhóc đang cúi xuống một chiếc xe đạp lật ngược lên, có lẽ đang vá lốp. Một dây quần áo có cả đồ lót phụ nữ chăng lên phơi cho khô. Mùi nấu nướng, mùi hành tỏi, bốc lên từ con tàu. Turner và hai hạ sĩ đi qua cầu, qua những tảng đá quét vôi trắng, một thứ khiến họ nhớ đến trại huấn luyện và tất cả thứ kỷ luật nhảm nhí đó. Trong lán chỉ huy, điện thoại đang réo chuông.

Mace lầm bầm, "Ông cứ khập khiễng thật ác chiến vào cho đến khi mình đi cho khuất mắt."

Nhưng đất bằng phẳng kéo dài hàng dặm và không cách nào biết tay trung sĩ kia đang nhìn theo hướng nào, và họ cũng không muốn quay lại xem thử. Sau nửa tiếng họ ngồi xuống một máy gieo hạt gỉ sét nhìn đội quân bại trận đi qua. Họ nảy ra ý sẽ trà trộn vào đám đông vừa mới tụ lại này, để việc Turner tự nhiên hồi phục không thu hút sự chú ý của một tay sĩ quan nào đó. Rất nhiều người đi qua cáu kỉnh vì không thấy biển sau kênh dào. Có vẻ như họ nghĩ đó là do người ta lên kế hoạch sai. 

Dựa vào bản đồ Turner biết là còn những bảy dặm nữa, và một khi họ tiếp tục bước, nó sẽ là chặng đường gian khổ nhất, thê lương nhất mà họ đã đi ngày hôm đó. Vùng đất rộng thênh thang chẳng cây cối gì không tạo cảm giác là ta đang tiến tới. Mặc dù mặt trời chiều muộn đang trượt qua rìa đám khói dầu, trời vẫn nóng hơn bao giờ hết. Họ thấy máy bay trên cảng đang thả bom. Tệ hơn, còn thấy cả những chiếc Stuka tấn công ngay trên bãi biển nơi họ đang tiến tới. Họ bước qua những người bị thương đang lê chân mà không đi xa hơn được nữa. Họ ngồi xuống như ăn mày bên vệ đường, cầu xin giúp đỡ, hay ngụm nước. Những kẻ khác thì nằm cạnh mương, bất tỉnh, hoặc chìm đắm vào vô vọng. Chắc chắn sẽ có xe cứu thương từ vành đai phòng hộ đến, thường xuyên chạy đến bãi biển. Nếu người ta đã có thời gian để sơn trắng đá thì hẳn cũng phải có thời gian bố trí cho việc đó. Không có nước. Họ đã uống sạch rượu và giờ cơn khát càng dữ dội hơn. Họ không mang theo thuốc. Họ mong đợi gì chứ? Cõng một chục người trên lưng trong khi chính họ còn không nhấc nổi chân ư?

Tự dưng nổi cáu, Hạ sĩ Nettle ngồi xuống đường, cởi bốt ném ra đồng. Anh ta bảo anh ta ghét chúng, anh ta ghét chúng bỏ mẹ, nhiều hơn tất cả cái bọn Đức chết mẹ đó gộp lại. Và chỗ rộp bị đau đến nỗi anh ta thà vứt mẹ nó đi.

"Đi về Anh mà mang mỗi tất thì đường dài lắm đấy," Turner nói. Anh thấy mình nông nổi một cách kỳ quặc khi xuống đồng tìm. Chiếc thứ nhất tìm thấy ngay, còn chiếc thứ hai phải mất một lúc. Cuối cùng anh thấy nó nằm trong cỏ gần một hình thù lông lá màu đen mà dường như, khi anh lại gần, đang cử động hay co đập. Đột nhiên một bầy nhặng bay vù lên không trung vo ve giận dữ, để lộ ra một thi thể đang thối rữa bên dưới. Anh nín thở, chộp lấy chiếc bốt, và khi anh vội chạy đi đàn nhặng lại sà xuống và rồi chỉ còn im lặng.

Dỗ ngon dỗ ngọt mất một lúc, Nettle mới chịu cầm lại bốt, dùng dây cột hai chiếc lại với nhau rồi quàng qua cổ đeo đi. Nhưng gã làm thế, gã nói, chỉ là vì Turner thôi đấy.

Bạn đang đọc truyện trên: truyentop.pro