Tập 53. TĨNH ĐỊNH LÀ CHIẾU KIẾN 25/04/2020
Tập 53. TĨNH ĐỊNH LÀ CHIẾU KIẾN 25/04/2020
“Hành nguyện” chữ “Hành” thực chất chỉ cái thấy chân chính, nói cách khác cái thấy chân chính để lý giải Phật Pháp chính là kiến giải. Nếu quý vị không làm được thì kiến giải của quý vị sẽ trở nên vô dụng. Nếu ngày nay quý vị hiểu được đạo Phật, thì phải thực sự thực hành. Một người rất có tài hùng biện và hiểu biết Phật Pháp, nhưng lại không hành động như một vị Phật và không làm những việc Phật Pháp. Vì vậy, chúng ta phải đạt được “hành” mới có thể nói đến tâm từ bi chân chính. Từ bi có nghĩa là vô ngã, khi quý vị có thể từ bi với người khác, cảm thấy người khác đáng thương, cảm thấy người khác đang rất cần sự giúp đỡ của quý vị, thì quý vị chính là vô ngã rồi, vì quý vị đã nghĩ đến người khác rồi.
Khi chúng ta nói về lòng từ bi, đó không phải là một cái “tình” mà là một loại trí tuệ. Sở dĩ hôm nay quý vị có thể từ bi với người khác không phải là để nói: “Anh ấy có mối quan hệ tốt với tôi, tôi muốn giúp đỡ anh ấy”, mà bởi vì quý vị có trí tuệ: “Anh ấy là chúng sinh, tôi có công đức, tôi muốn hoàn thành tâm nguyện của mình và giúp anh ta được giải thoát”. Vì vậy, từ bi của Phật giáo Đại thừa là trí tuệ, Bát nhã cũng là từ bi, Trí tuệ Bát nhã của Quán Thế Âm Bồ Tát – đại trí đại tuệ chính là đại từ đại bi. Vì từ bi, nên sẽ có vô ngã và quý vị mới có thể có được lòng từ bi thực sự. Hơn nữa có một số người ở nhân gian thường nói “Tôi muốn từ bi bạn”, chỉ cần quý vị nghĩ đến “Tôi muốn thương xót bạn” thì quý vị liền rơi vào hạ thừa, tức là Tiểu thừa. Không phải quý vị từ bi với người khác mà là bổn nguyện của chính quý vị, là thực hành nguyện lực của chính mình, là Tâm Bồ-đề của Bồ Tát xuất phát từ trái tim của quý vị khiến quý vị có thể từ bi với người khác, điều này thật cao quý. Cũng như cha mẹ yêu thương con cái, đó không gọi là từ bi mà gọi là lòng nhân từ. Tình mẫu tử là vô giá, tình thương của mẹ đối với con mình là vô giá. Nhưng tình thương yêu này đến từ bậc làm cha mẹ mà chúng ta có thể cảm nhận được, chất chứa tình cảm trong đó. Khi có tình, thì sẽ mang theo ngã tướng, nên người ta gọi là “Tôi tình, tôi nguyện”, “tình nguyện, tôi tình nguyện”, nhiều người nói “Tôi tình nguyện làm gì đó”. Quý vị có tình rồi, nguyện lực quý vị tạo ra là tình cảm cùng nguyện lực của nhân gian, xuất phát từ “Tôi yêu” mà ra. Lòng từ bi của Bồ Tát không phải là “Tôi tình nguyện”, mà là một loại trí tuệ, đó là một tình yêu thương vô ngã vô biên, một tình yêu thương vô bờ bến - nó vừa giống như có cái tôi, nhưng lại không phải có cái tôi; quý vị nói hoàn toàn không phải là tình yêu quý vị trao cho, nhưng nó lại xuất phát ra từ trái tim của quý vị. Nếu quý vị nói nó ở trong tim quý vị, thì tình yêu của Bồ Tát Thức A Ma La, thức thứ chín, có thuộc
về quý vị không? Nó không phải của quý vị. Vậy thì phi ái phi phi ái, phi ngã phi phi ngã (Không yêu nhưng cũng không phải không yêu. Vô ngã nhưng cũng không phải vô ngã). Đây là lý do tại sao việc thực hành Phật Pháp ngày càng trở nên nghiêm khắc hơn đối với cảnh giới riêng của mình. Cả hành nguyện và hành môn đều rất quan trọng. Hành môn có nghĩa là chúng ta tìm được hướng đi để thực hiện thệ nguyện của mình.
Nếu một người lúc nào cũng ở trạng thái tĩnh định - ở trạng thái an tĩnh và an định, thì phải luôn luôn kiểm điểm bản thân, phải biết người tu hành là gì và muốn trở thành loại người tu hành như thế nào, phải là người luôn nghiêm túc kiểm tra bản thân và là người luôn quán chiếu bản thân. Dựa vào người khác để mắt tới mình không phải là “Quán tự tại”, chỉ khi tự mình quan sát hành vi của chính mình xem nó có đúng hay không và quan sát xem hành vi của mình có phù hợp với bản chất của chính mình hay không thì quý vị mới có thể “Quán tự tại” được. Chỉ những người bất cứ lúc nào cũng có thể kiểm tra hành vi tâm lý và tư duy của mình, không ngừng điều chỉnh suy nghĩ và kiểm tra hành vi của mình, thì người đó mới là người tu hành. Trong tâm họ thường xuyên suy nghĩ: “Tôi làm như vậy có vi phạm lời dạy của Bồ Tát không? Tôi như vầy có giống Bồ Tát không?”
Đừng nghĩ rằng trên đời này có một cách để tu tâm, “Tôi nên dùng phương pháp nào, nên thiền bao nhiêu ngày?”… Nhiều người thường hỏi Sư phụ: “Thưa Thầy, con nên niệm bao nhiêu biến kinh thì bệnh này của con sẽ khỏi?” Sư phụ nói thật với quý vị, nếu quý vị niệm đến mức vô ngã thì sự việc này sẽ ổn thôi; một khi quý vị đã niệm nó một cách tự nhiên thì sự việc này sẽ ổn. Không thể nói sau khi uống bao nhiêu thuốc thì bệnh này sẽ khỏi, không có như thế, bởi vì thể chất của mỗi người là khác nhau, tố chất cơ thể của mỗi người là khác nhau, và khả năng chịu đựng năng lượng của bất cứ sự vật gì trên đời cũng khác nhau. Một số người nói: “Tôi thiền thì sẽ tốt thôi. Tôi thiền được ba năm, mười năm”. Dù quý vị thiền bao nhiêu năm, mở thông kinh lạc nào, hay trì tụng thần chú nào, thì quý vị vẫn chưa hành môn, chưa hiểu thế giới này, chưa thực sự buông xuống Phật Pháp, thì làm sao quý vị có thể giải thoát, làm sao trở nên vô ngã? Nhiều người thường nói: “Hãy nhìn người này, anh ấy đã tu tập rất tốt, tôi cũng muốn làm như vậy”, rồi dần dần tập thiền, dần dần “Tôi muốn mở thông kinh lạc”. Dần dần: “Tôi đã học được rất nhiều pháp của Phật”, rồi lấy đó đi ra ngoài nói chuyện này chuyện nọ, dần dần trở nên loạn thần kinh, một lát thì nói: “Ồ, Bồ Tát đến rồi”, một lát sau liền nói “Ồ, chuyện này như thế nào, như thế nào, rồi tôi có linh cảm”. Tại sao nhiều người học Phật học càng về sau lại bị rối loạn
tâm thần? Vì suốt ngày họ luôn tưởng mình là Bồ Tát, suốt ngày muốn làm Bồ Tát, trong khi đó họ không có căn cơ này, lại không thực hành tốt Pháp Môn này và không có chứng ngộ, nên cuối cùng họ bị vong linh nhập thân. Bởi vì vong linh sẽ cho họ bất cứ thứ gì họ thích và sau đó họ sẽ chấp nhận nó, ngay khi chấp nhận nó rồi, thì sẽ giống như nó. Lấy một ví dụ đơn giản, tại sao những kẻ lừa đảo luôn thành công? Bởi vì kẻ lừa đảo biết quý vị muốn làm gì và chúng sẽ nói với quý vị rằng: “Chỉ cần bạn làm được điều này, tôi bảo đảm rằng yêu cầu của bạn sẽ được đáp ứng”. Cho nên quý vị mới bị lừa. Nếu quý vị muốn kiếm tiền, bọn chúng sẽ nói với quý vị: “Sau khi bạn đưa ra số vốn này, tôi có thể giúp bạn kiếm nhiều tiền hơn”. Cuối cùng, số tiền này của quý vị sẽ bị mất, vì vậy quý vị sẽ bị ô nhiễm, thời gian lâu dần sẽ không bình thường, và tâm trí của quý vị sẽ không còn được tỉnh táo.
Nhiều người bị loạn thần kinh và suốt ngày nói người khác là “bạn bị bệnh” hay “người đó bị bệnh”. Quý vị đi mà xem, người hay nói người khác bị bệnh chắc chắn họ có vấn đề gì đó. Khi Sư phụ khai thị thường bảo, quý vị bây giờ cộng tu nên nói nhiều hơn về tật xấu của chính mình và đừng nói về tật xấu của người khác, bởi vì quý vị còn chưa tự độ được mình thì làm sao có thể độ được người khác? Khi quý vị nói về tật xấu của người khác thì chắc chắn bản thân quý vị có tật xấu, bằng không thì làm sao quý vị có thể nói ra được vấn đề của người khác? Chính là vấn đề của quý vị.
Cho nên phải nghiêm khắc tự mình tu hành, nghiêm khắc phản tỉnh chính mình, kiểm tra chính mình, quán chiếu tu vi (tu tập tạo tác) của chính mình, thì quý vị mới có thể thoát ly. Quý vị cho rằng ngồi ở đó đả đả tọa, niệm niệm kinh, phóng phóng sinh là có thể thành công sao? Không thể. Phải có ngộ tánh, phải giác ngộ, cho nên chữ “Phật” trong tiếng Phạn chính là giác giả. Chúng ta cũng không phải dựa vào thiền tọa, cũng không phải dựa vào phóng sinh, phát nguyện, niệm kinh, mà đó là toàn bộ hợp lại một, sau đó căn cứ vào bố thí, trì giới, tinh tấn, nhẫn nhục, thiền định, trí tuệ Bát Nhã, sáu Ba-la-mật của mình, tất cả tập trung lại với nhau, thì mới có thể thành công. Giống như năm giác quan của một người, chỉ có mắt quý vị có thể sống được không? Mũi không ngửi được mùi, miệng không nói được thì phải làm sao? Chỉ đơn thuần biết nói, mắt không nhìn thấy được thì có được không? Sư phụ từng nghe qua một tướng thanh, nói ngũ quan đánh nhau, năm huynh đệ ai nấy đều không nể mặt lẫn nhau. Tai nói: Ta không nghe được, các ngươi có thể làm được gì? Mắt nói: Mắt ta làm cho các ngươi không thấy, các ngươi nghe được cũng vô ích. Miệng nói: Ta không ăn, các ngươi sẽ chết đói; ta không nói, không ai hiểu các ngươi. Cãi
nhau dữ dội, chỉ có mũi là không nói. Bốn anh em liền hỏi cái mũi: “Tại sao anh không nói chuyện, anh nói vài câu cho chúng em nghe được không?” cái mũi liền nói: “Kỳ thực các em nói nhiều như vậy đều vô dụng, là ta quan trọng nhất, bởi vì mũi ta không thông khí, tất cả các em đều chết”. Một người tu hành cũng như vậy, dựa vào nỗ lực của mọi người, dựa vào tất cả Phật tánh, nhân tố, nền tảng học Phật trên thân quý vị v.v., mới có thể thành tựu công đức Bảo Sơn của mình. Rất nhiều người niệm cả buổi, học cả buổi, nhưng công đức không trở thành “Bảo Sơn”. Chúng ta phải có một loại tâm từ bi, hơn nữa loại từ bi này tu đến một mức độ nhất định, phải thượng báo tứ trọng ân, hạ tế tam đồ khổ. “Tam đồ khổ” mọi người đều biết rồi, “thượng báo tứ trọng ân” chính là nhắc nhở chúng ta mỗi ngày phải làm công đức. Người học Phật chúng ta tùy thời tùy chỗ đều phải kiểm tra chính mình, hôm nay có từ bi chưa? Thượng báo tứ trọng ân chưa? Tứ trọng ân, ân của Phật mọi người đã báo chưa? Ân của cha mẹ, sư trưởng mọi người đã báo chưa? Ân tổ quốc mọi người đã báo chưa? Ân tình của chúng sinh mọi người đã báo chưa? Khi quý vị sinh ra, bác sĩ đỡ sinh cho quý vị chính là ân chúng sinh. Rất nhiều người nói: “Chúng sinh đối với chúng ta có ân gì?” Quý vị sống trên thế giới này, không thể nào một người có thể trưởng thành được, dựa vào sự giúp đỡ của chúng sinh đối với chúng ta thì mới có thể trưởng thành. Cho dù một mình quý vị lập nên thành tích, thì cũng là mọi người cùng nhau. Cho nên tại sao mỗi vị Bồ Tát, mỗi vị Phật thành công đều dựa vào rất nhiều rất nhiều chúng sinh, trong đó còn có cả Thần Hộ Pháp và Long Thiên Hộ Pháp, chính là cái đạo lý này. Cho nên chúng ta phải hiểu được, sống một ngày, phải tri ân người khác một ngày, bởi vì phải làm phiền rất nhiều người cung cấp sinh mệnh, sự vật cùng rất nhiều trợ giúp cho chúng ta.
Kinh Phật Tam Tạng mười hai bộ đều đang giảng hành nguyện. Một người không “hành”, có được không? Một người không có nguyện lực, có được không? Sáu độ vạn hành, ba mươi bảy đạo phẩm (thầy đã từng dạy cho pháp sư), học Phật cơ bản đều ở trong đó. Hiểu rõ nhân quả ba đời, hiểu được sáu cõi luân hồi, chính là cái đạo lý này. Từ từ hoàn thiện bản thân về mặt tinh thần và hành vi, dần dần quý vị sẽ nhìn nhận mọi việc một cách tự nhiên, tức là lý giải của quý vị đối với sự vật, lý giải đối với Phật Pháp sẽ càng ngày càng tiến bộ. Chúng ta nhất định phải chứng ngộ mới có thể chứng quả. Hành vi tâm lý của mỗi người phải thay đổi, sau khi học Phật, nhiều người đã thay đổi như ngồi thiền, niệm kinh, phóng sinh, phát nguyện, chỉ cần điều chỉnh tâm hành một ngày thì định lực sẽ theo đó tiến bộ một ngày. Chỉ cần quý vị có nguyện lực “Tôi muốn thay đổi”, thì quý vị sẽ thay đổi được mỗi ngày.
Làm sao có thể định lại được? Làm sao chúng ta có thể theo đuổi và tu tập tâm mình từ góc độ tâm thức? Nếu như quý vị chỉ đả đả tọa, niệm niệm kinh, phóng phóng sinh, đi phóng sinh suốt đoạn đường cười nói hả hê, không tranh thủ niệm kinh, hôm nay có khả năng phóng sinh cả xe chỉ là hình thức, mà không thay đổi được bản thân mình. Nhiều người ngồi thiền lâu đến tê chân, trí tuệ vẫn chưa khai mở, thiên linh cũng chưa mở ra được. Vì vậy phải kiểm tra lại linh hồn và tinh thần của chính mình, so với bất kỳ sự hiểu biết nào (ví dụ như hôm nay làm một việc gì đó muốn khai ngộ), thì đó là cảnh giới khác.
Sư phụ hôm nay nói với mọi người trọng điểm chính là ba đại cương yếu “Kiến địa-Tu chứng-Hành nguyện”. Cái “cương” này, hành nguyện là quan trọng nhất. Hôm nay nguyện lực đến rồi, quý vị phải thực hiện được. Sư phụ tin rằng tất cả các vị đang ngồi đây đều có nguyện lực đúng không? Các vị đã từng quỳ trước Bồ Tát phát nguyện rồi đúng không? Vậy đã “thực hành” chưa? Phải thực hành thệ nguyện. Chỉ khi quý vị thực hành rồi, thì cái thấy của quý vị mới có thể viên mãn. Bởi vì quý vị thực hành nó, quý vị sẽ hiểu được cái thấy chân thực (tức là kiến giải), Tu chứng của quý vị mới có thể đắc đạo chứng quả. Thời xưa người chứng quả rất nhiều, có thể đắc đạo chứng quả toàn bộ đều là do họ hành nguyện. Vì vậy, hy vọng rằng tất cả mọi người, những người học Phật, hãy thực hành cho tốt nguyện lực của mình, khi thực hành phải hạ công phu, thì cách thoát khỏi sáu cõi càng ngày càng gần.
Cuối cùng Đài trưởng kể cho mọi người nghe một câu chuyện. Ở nước Xá Vệ Ấn Độ cổ đại, có một người cha vô cùng vất vả, một mình nuôi dưỡng hai đứa con trai. Không ngờ tình cảm của hai anh em này vô cùng tồi tệ, từ nhỏ đã cãi nhau ầm ĩ, ai cũng không nhường nhau, mối oán kết vẫn luôn sâu đậm. Phụ thân nhắc nhở người anh phải yêu thương em trai của mình, người anh trai cãi lại và nói: “Cha xem cha thật thiên vị, cha chỉ yêu thương em ấy, cha không yêu thương con”. Phụ thân đành phải chuyển sang giáo dục người em: “Này con, con phải tôn trọng anh trai mình”. Không ngờ người em trai này nổi giận, nói với cha mình rằng: “Cha không rõ đúng sai, là anh trai bá đạo, làm sai trước”. Cứ như vậy, anh trách em không hiểu chuyện, em oán anh không nói đạo lý, hai anh em đều làm cho cha mình đau đầu và tổn thương thấu tim.
Từng ngày trôi qua, hai anh em này từng ngày lớn lên, mỗi ngày tranh giành đồ chơi, tranh đúng sai, sau khi lớn lên tranh điền sản, phân gia nghiệp. Phụ thân tuổi cao tự mình không khuyên răng được, dù biết cũng khuyên không được, quản không được, chỉ biết ở bên cạnh lặng lẽ rơi lệ, khẩn cầu kỳ tích có thể xuất
hiện, có thể có một thiện tri thức đến giáo hóa hai đứa con ngoan cố không thay đổi này.
Một ngày nọ, một người hàng xóm tốt bụng khuyên: “Hai anh em các anh cứ cãi nhau như vậy cũng không phải là biện pháp, chi cho bằng đến tìm quốc vương và xin quốc vương phân xử cho các anh”. Thế là hai anh em với vẻ mặt đầy oán giận, vì không muốn đối phương lớn tiếng dọa người (kẻ ác thường cáo trạng trước), bất chấp cái nắng như thiêu đốt, họ vẫn cố hết sức chạy đến hoàng cung, thậm chí vừa đi vừa chạy. Hai anh em dọc đường vì ai đúng ai sai, vừa đi về phía hoàng cung, vừa đối mắng lẫn nhau, tranh cãi không ngớt.
Đúng lúc hai người thở hổn hển, miệng khô và khát thì nhìn thấy Đức Phật tiến về phía bọn họ. Bọn họ không biết Đức Phật, nhìn thấy Sa Môn diện mạo trang nghiêm, chậm rãi an tường, bỗng nhiên trở nên nghiêm túc, hai người ngừng tranh cãi. Họ bị thu hút bởi uy đức toát ra từ khuôn mặt của Đức Phật nên xông tới hỏi thăm, đảnh lễ, thậm chí còn hỏi về danh hiệu của Đức Phật. (Pháp sư trang nghiêm được người sùng bái và tôn kính).
Đức Phật mỉm cười nhìn hai người có nhân duyên sâu đậm (vì ngay khi Đức Phật nhìn thấy hai anh em, liền biết nhân quả của hai người bọn họ), Ngài dùng giọng nói dịu dàng và ngọt ngào, ẩn dụ thiện xảo (khéo léo), nói ngay với họ những lỗi lầm của sự tức giận, tức là nói hai người các ngươi hận nhau như vậy, thì về sau sẽ có chuyện gì xấu xảy ra. Đức Phật liền trực tiếp giáo dục bọn họ: “Nếu hai người ôm ấp tâm tham, sân, hận trong lòng thì trong tâm hai người sẽ như hai con rắn độc và thú dữ, trái tim các vị sẽ bị chất độc độc hại ăn mòn. Không những công đức bên trong của các vị sẽ biến mất mà còn bị nọc độc rắn xâm hại”. Đức Phật sau đó lại khai triển các loại diệu pháp cho họ. (Hãy nhìn xem Đức Phật vĩ đại biết bao, thấy hai thanh niên trẻ tuổi, Ngài dừng lại khai thị cho họ trên đường. Cho nên chúng ta phải học tập từ sự vĩ đại của Đức Phật). Hai anh em lắng nghe lời Đức Phật giảng mãi, bị nói đến ngây ngẩn cả người, “Ồ, có lý”, trí tuệ mở ra, phiền não tiêu trừ, lập tức chứng đắc quả vị A La Hán.
Rất nhiều người khi nghe Sư phụ kể chuyện xưa thường nghĩ: Người thời xưa sao lại dễ dàng chứng được quả vị A La Hán, Tu Đà Hoàn như vậy? Bọn họ làm sao dễ dàng có được quả vị như vậy? Người thời xưa tương đối đơn giản, đầu óc không phức tạp và xảo quyệt như người hiện đại, cho nên một khi nghĩ thông suốt, rất dễ dàng đạt được quả vị. Và hãy nhìn con người hiện đại chúng ta, dù quý vị có nói Phật Pháp với họ, họ cũng không tin. Cho dù quý vị có nói Chánh Pháp với họ, họ cũng không tin. Quý vị nói gì, họ đều không tin, thì họ có thể
đạt được quả vị gì? Hai anh em này sau khi về đến nhà, thành kính sám hối với phụ thân, hơn nữa còn nói ra nhân duyên đắc đạo của mình (đắc đạo chính là hoàn toàn triệt ngộ rồi, minh bạch rồi). Người cha già nghe xong vui mừng đến rơi nước mắt, gánh nặng trong lòng cuối cùng cũng được trút bỏ. Không lâu sau, người cha già mệnh chung xả báo và qua đời. Sau khi người cha qua đời, ông nghe tin hai người con của mình đều sống rất tốt, ông rất biết ơn Đức Phật, ngay khi ông biết ơn, những thiện niệm về lòng biết ơn và Pháp hỷ của ông đã bay lên trời. (Cho nên khi ra đi, việc trì ân là rất quan trọng, sẽ được sinh lên trời. Thay vì giống như quý vị bây giờ, người khác dẫn quý vị gặp được Phật Pháp, vẫn còn trái một cái không hài lòng, phải một cái không hài lòng. Phải biết ơn). Ông vì thiện niệm nên được sinh lên trời, để tỏ lòng biết ơn ân huệ của Đức Phật, ông đến trước Đức Phật đảnh lễ cúng dường, Đức Phật ở thiên thượng đã thuyết pháp cho ông và ông ngay lập tức chứng đắc quả Tu Đà Hoàn.
Câu chuyện này cho chúng ta biết rằng ai cũng có nhân quả, việc không hiểu nhân quả không có nghĩa là không có nhân quả. Những ồn ào, đố kỵ, phiền não giữa con người với nhau đều là có nhân có quả, chúng sinh kết thiện duyên, ác duyên sâu cạn đều có từ đời trước. Vì vậy, chúng ta phải đem nó dung nhập vào trong biển rộng của Phật, hải nạp bách xuyên, có được tấm lòng rộng lớn, là có thể thiện hiểu ý người, là có thể hiểu được người khác, buông xuống sân hận trong lòng mình. Vì vậy, ở nhân gian, bất luận là thông gia hay oan gia, chúng ta đều phải giúp đỡ lẫn nhau, nâng đỡ lẫn nhau, tiếp dẫn lẫn nhau. Có đôi khi một Phật hữu nhắc nhở quý vị một câu, sẽ khiến quý vị rộng mở trong sáng. Rất nhiều người học Phật tự mình làm sai, trong u buồn, người khác thiện ý nhắc nhở một câu, có thể chính là Bồ Tát bảo họ đến nhắc nhở quý vị, quý vị sẽ chuyển ác niệm thành thiện niệm, chuyển ác duyên thành thiện duyên, hóa trần duyên thành pháp duyên, đây là chuyện học Phật có ý nghĩa nhất trong sinh mệnh của chúng ta. Cho nên, trên con đường tu hành chúng ta phải gieo nhiều thiện duyên, mới có thể một kiếp tu thành. Quảng kết thiện duyên, đó là một loại trí tuệ. Chỉ có tình yêu của chúng sinh đối với quý vị, mới có thể tạo ra sức mạnh từ bi vô hạn của quý vị. Được rồi, đó là tất cả cho buổi thuyết giảng hôm nay về “Bạch Thoại Phật Pháp” với đại chúng. Cảm ơn đại chúng.
Bạn đang đọc truyện trên: truyentop.pro