Chương Bảy
Cái lạnh của trung tuần tháng mười một hóa ra chẳng thấm vào đâu so với những ngày sau đó. Cửa sổ ốp kính trong phòng các cô phù thủy luôn phủ sương mờ vào buổi sớm, mà đến vầng thái dương dường như cũng lề mề với cái chức trách sưởi ấm mặt đất của mình, gần giữa trưa sương vẫn chưa tan trên ô cửa sổ và những dãy núi cao. Nếu trời cứ tiếp tục lạnh thế này, chị Tình Huyên bảo trong một bữa cơm tối, thì khả năng cuối tháng Giêng có tuyết là rất cao.
Sang tháng Chạp, Linh Như được gặp chị nhiều hơn. Chắc là vì về đêm trời lạnh hơn nên công việc quan sát tinh tượng bị gián đoạn. Giờ thì chị rất chăm ở trong đền thờ cùng công chúa Xích Anh, hay là cùng Tầm Phương — cô bé đã trở lại bàn ăn vào tối đó, mắt hơi sưng nhưng không ai đả động tới cuộc tranh luận về Quốc Tử nữa — dệt vải may áo ấm từ những sợi bông mà toán nghĩa binh mới chuyển lên căn cứ mang theo. Hồi trước Linh Như cứ tự hỏi chẳng lẽ một trăm trai tráng đồng loạt rời đi mà các quan lại không nghi ngờ gì, giờ nghe kể mới biết họ đến từ nhiều nơi khác nhau, giả vờ đi làm ăn xa. Tân Lang từ ngày phò mã lang Triệu Thiên lên nắm quyền thì trọng giao thương thành ra cũng ít khi bị nghi ngờ.
Hơn nữa, họ nói, các nghĩa binh có mật hiệu riêng, sẽ thay đổi luân phiên người đi kẻ ở, nên mấy năm qua không hề bị phát hiện.
Đằng sau lũy tre làng, người dân vẫn còn nhớ các thánh thần, phù thủy; về tiên đế, về hoàng thất năm xưa.
Linh Như từ ngày biết mình chẳng còn cơ may học phép thuật nữa thì thường lờ đờ không vui. Nó vẫn chưa hẳn là bỏ cuộc. Con bé ở mãi trên tường thành nhìn về nơi xa, hoặc giam mình trong thư phòng trên tầng hai của đền thờ, đọc thư tịch còn sót lại của Chúc Thiên Đài. Hầu hết sách dành cho Vọng Thiên Sư và Văn Địa Sư. Một phần ba kho tàng là sách y học, có cả sách cho phù thủy hay sách nghiên cứu các loại thảo mộc, châm cứu,... con bé mở ra vài trang đã thấy choáng váng, chắc là không có duyên với nghề này.
Nó còn tìm được sách viết bởi bà Huệ Nhãn. Linh Như khóc cả ngày trời khi thấy bút tích bà. Bà đặt ra nhiều quy luật trong việc thờ cúng và tế lễ, ví như đền thì thờ thần, miếu thì thờ thánh, các dịp lễ lộc nào cần cúng những thức gì. Bà liệt kê các đền miếu ở từng địa phương, đường đi tới đó, quy định từng nơi, sự tích về từng vị anh hùng được thờ phụng. Linh Như dò theo sách này và hỏi các anh nghĩa binh quê ở đấy, gạch đi những chỗ đã bị dẹp bỏ. Cuối cùng, khi chị Yên Hà ngó qua vai nó để đọc danh sách, chị phải nhăn mặt:
"Chẳng còn lại mấy, nhỉ?"
Chỉ còn ba ngôi miếu là chưa bị gạch đi, nhưng ấy là vì không có ai quê ở đấy để mà hỏi cả.
Hằng ngày dâng hương và cầu nguyện với chư vị thần linh, con bé vẫn chưa từ bỏ con đường Vấn Thánh Sư. Đồng thời, nó không thể không nghĩ tới công trình của mẹ nó thuở thiếu thời — bùa chú. Nghe công chúa kể, phép này phạm cả điều cấm kỵ của tiên thuật lẫn ma thuật, vừa bất kính với thần linh vừa xúc phạm đến phù thủy, mà quyền năng cũng chẳng thể bằng phép thuật chân chính. Ngài cũng khuyên Linh Như học một môn khác.
Hơn nữa, các phù thủy đã có bùa ngải của họ rồi, đó là những liều thuốc mà Thiết Phách Sư kết hợp với Văn Địa Sư chế tạo ra, có thể hồi sức, chữa trị vết thương nhanh chóng, hoặc công thức điều chế kịch độc làm người ta trở nên bệnh tật; còn thần chú là tác phẩm của các Vọng Thiên Sư cùng Mê Thần Sư, vì các vị thần mà họ thờ quá khó giao tiếp, nên đã tạo ra một hệ thống những câu chú ngữ có thể triệu hồi một dạng thức mô phỏng quyền năng chân chính của các thần đấy, ví như làm những cơn mưa nhỏ, bùa bảo vệ, giả tiếng động vật... tùy theo trí tưởng tượng của phù thủy niệm chú.
Linh Như đã thắc mắc nếu vậy thì bùa chú khác thần chú ra sao. Tình Huyên lườm nó như thể nó đang nói một điều ngông cuồng, đáp:
"Thần chú là em vẫn phải thờ phụng thần linh, em chỉ có thể làm những điều mà các ngài cho phép em làm thôi. Còn bùa chú..." Chị đảo mắt, "lấy phép từ phù thủy."
Con bé lý luận:
"Nhưng chẳng phải quyền năng của phù thủy đã là nhận lộc của thần linh rồi sao? Tại sao việc bùa chú cất giữ thứ quyền năng ấy lại bị cho là bất kính ạ?"
"Vì người sử dụng bùa chú không hề thờ phụng thần linh. Thần cho em phép, em cảm ơn thần, rồi em đi cho người khác, người khác cảm ơn em, mà phép đấy đâu phải của em! Người ta không hề cảm ơn thần linh. Huống chi, nhận lộc của thần đâu phải dễ, làm gì có phù thủy nào muốn cho đi ma thuật của mình một cách tùy tiện?"
Giọng chị dữ tới nỗi con bé không dám hỏi thêm nữa.
Chị Tình Huyên dành tất cả buổi tối của mình trên đài thiên văn, bất chấp mưa giông gió lạnh và phải ứng phó với các vị thần nghe nói là rất khó tính, Linh Như có thể hiểu vì sao chị không chấp nhận nổi ý tưởng phải chia sẻ lộc từ thần linh.
Nhưng còn những phù thủy khác, như Văn Địa Sư và Thiết Phách Sư chẳng hạn, họ có vẻ giao tiếp với thần linh rất dễ dàng. Con bé đã nghe Tầm Phương mắng Tước Âm vì định ăn Thôn Tặc, còn Thổ Công là một cụ ông gần gũi hay cười. Họ có phản cảm bùa chú tới vậy không?
Trung tuần tháng Chạp, lúc mọi người chuẩn bị cỗ cúng ông Táo và cỗ Tất niên, cổng thành mở ra cho bốn người đi vào. Linh Như đang rửa lá dong trước sân ngước lên. Người ở bên phải, con bé nhận ra mặt, là Lan San. Y mặc áo viên lĩnh nâu với quần trắng ngà, thắt lưng màu vàng, tóc buộc đuôi ngựa ra vẻ lanh lợi, môi cười hơi láu cá. Người đi giữa cao ngòng, tuổi đã cao, râu tóc điểm muối tiêu, áo the đen như một ông thầy đồ. Còn vị bên trái kia trạc tuổi cha Linh Như mà trông điển trai hơn hẳn — mũi cao dọc dừa, mày râu nhẵn nhụi, nhất là đôi mắt đẹp, sáng tựa sao Hôm. Có một người khác hơi thấp, dáng mặt tròn phúc hậu, đi hơi tụt lại đằng sau. Con bé nhìn thấy quen lắm.
"Cha!"
Tầm Phương đánh rơi cả bó sợi dây lạt xuống đất để chạy ùa về phía nhóm người kia. Ký ức Linh Như mới vỡ òa, đấy là cha của cô bé, ông ngự y cáo quan về nhà, lúc chúng còn nhỏ vẫn thường được ông nặn tò he cho. Tầm Phương nhào vào vòng tay của cha mình, mồm miệng tía lia, trong khi hai chị lớn thì điềm tĩnh hơn, trước người cha lâu ngày không gặp, họ cúi đầu chào thật lễ phép. Linh Như đoán người cao cao là ông thái sư Quang Khôi, cha của Yên Hà, còn cha Tình Huyên là người đàn ông tuấn tú kia, cựu giám chính Tư Thiên Giám.
Linh Như đứng dậy theo các chị, vái chào ông ngự y đang lại gần mình, con gái ôm cứng tay phải ông.
"Cháu chào bác ạ."
"Cái Như lớn phổng rồi nhỉ." Mắt ông ứa nước khi ngắm con bé, "Trông chẳng khác gì mẹ cháu ngày xưa!"
"Bác dạo này có được khỏe không ạ?"
"Khỏe! Bác khỏe như vâm đây này!"
Ông đùa, vừa mới cảm động giờ đã cười ha hả. Bác cháu nhận mặt nhau rồi ông lại phải đi theo các vị kia đến gặp công chúa Xích Anh. Được một lúc, mấy cô phù thủy cũng được gọi vào nghị sự.
Nói là nghị sự, thực chất chúng chỉ đứng nghe. Yên Hà với Tình Huyên châm trà nước cho người lớn, còn Tầm Phương và Linh Như được chia cho chân têm trầu, Lan San tạm thời chưa vào do phải dâng hương cho các thần ở chính đường.
Qua mấy tuần trà, dĩa trầu được têm rất khéo đã vơi bớt và những câu hỏi thăm sức khỏe đều được trả lời, họ bắt đầu vào việc chính. Ông thái sư Quang Khôi ngồi ghế đầu hàng bên trái công chúa là người đầu tiên thưa chuyện.
Sau vụ thảm án năm xưa, phò mã lang Triệu Thiên nhiếp chính, vẫn giữ nhiều nếp cũ của tiên đế, tuy là người ngoại bang mà không hề gò ép nếp sống người Tân Lang theo ý mình, trọng người tài, khuyến khích việc giao thương phát triển, nên cũng được lòng đa số quan lại trong triều. Nhưng những chính sách khắt khe ngăn cấm việc thờ phụng thần linh của hắn vẫn làm mích lòng các vị mộ đạo. Thêm vào đó, hắn cắt cử người Túc Mộc làm công việc quản lý ở địa phương, với ý định triệt tiêu văn hóa "mê tín" vô căn cứ.
Phù thủy bị ném lên dàn thiêu, hoàng thân quốc thích của Tân Lang thì đều đã qua đời, nơi duy nhất phép thuật còn sót lại là tòa thành này, đằng sau sự bảo hộ từ Rừng Thiêng.
"Tâu điện hạ, mấy tháng qua thần cải trang, ghé thăm các vị đồng liêu cũ đã hoàn hương quy ẩn, thấy chí của họ vẫn hướng về hoàng thất ta. Địa phận nước Tân Lang lại đặt dưới trướng hoàng tử dị quốc, dẫu hắn đã ở rể và không còn quyền kế vị Túc Mộc, suy cho cùng vẫn là hậu hoạn khôn lường, nếu ta có khởi binh, các vị ấy ắt sẽ hết lòng phò tá." Ông thái sư kính cẩn nói, hơi ngập ngừng, "Điện hạ, thần có lời muốn nói, không biết có nên hay không."
Công chúa cau mày, nói lời khách sáo:
"Thái sư là trạng nguyên đầu tiên của Tân Lang, còn là thầy của hoàng huynh ta, giờ lại là mưu sĩ đắc lực trong công cuộc phục quốc, sao phải e dè? Xin thái sư cứ nói thẳng."
"Năm xưa thần khuyên công chúa mai danh ẩn tích là bởi phò mã lang chuyên quyền còn phe cánh ta thì thưa thớt, hắn đã ám sát điện hạ một lần, chỉ sợ nếu biết mưu mô chưa thành thì quyết đuổi cùng giết tận. Nhưng đã qua nhiều năm, bên ngoài tôi là hội trưởng tập họp dân chúng chống đối ngụy triều, Triệu Thiên chỉ cho đây là băng đảng nông dân, không hề biết về điện hạ. Ngu kiến của thần là đưa tin tức về điện hạ ra ánh sáng. Một là, nếu các vị trung thần được hay tin công chúa còn mạnh khỏe, ắt sẽ càng quyết tâm cái chí phục hưng. Hai là, Triệu Thiên sắp giở lá bài Quốc Tử của hắn, đến lúc các cô cậu ấy đủ lông đủ cánh thì sẽ càng khó cho ta. Vậy nên giờ đây nếu điện hạ ra mặt đuổi quân xâm lược, ra chiếu cần vương, việc đánh Triệu Thiên sẽ rất tiện lợi."
"Thái sư nói vậy thì cũng có lý. Nhưng binh lực trong tay hắn hơn tám vạn quân, thám tử của ta báo về nói hắn có khả năng tùy cơ điều thêm năm vạn quân nữa từ Túc Mộc sang, mà quân ta chỉ có tám trăm tinh binh và hơn hai ngàn quân tự phát. Phải làm thế nào?"
"Tiên thuật của điện hạ có thể địch lại trăm ngàn binh mã."
Ông ngự y chậc lưỡi, xen vào:
"Ấy, ông thái sư nói bậy! Sao có thể để công chúa tự mình lĩnh binh? Nếu điện hạ có mệnh hệ gì thì huyết mạch hoàng gia phải làm thế nào? Hoàng thất chỉ còn sót lại một mình công chúa mà thôi!"
Thái sư cũng đã nghĩ tới điều này, tự thẹn mà cúi thấp đầu.
Công chúa lại không cho là vậy:
"Nếu nước ta sạch bóng quân thù, rửa được hận cho tiên đế và các bạn bè của ta, có chết trăm lần ta cũng không hối hận. Ta đã muốn hội được ra ánh sáng từ lâu. Chỉ sợ lên kế hoạch chưa kỹ càng." Ngài quay sang ông giám chính, "Ông nghĩ thế nào?"
Tư thiên giám là cơ quan làm công việc quan sát tinh tượng và đặt ngày tháng giờ giấc cho cả nước, đã khiến nhiều Vọng Thiên Sư lâm cảnh vô công rỗi nghề, nhưng mẹ của chị Tình Huyên lại chọn ông làm chồng. Mẹ chị Yên Hà được tiên đế nối duyên với ông thái sư, nghe nói cha mẹ của Tầm Phương cũng được gia đình mai mối — Linh Như thì chẳng biết hai vị nhà mình quen nhau thế nào — còn cha mẹ Tình Huyên quen biết từ bé, có tình cảm với nhau mới nên đôi nên lứa.
Ông giám chính kính cẩn tâu:
"Thần xem tinh tượng ba tháng nay, thấy sao Tử Vi phát ra hào quang màu đỏ, giống như báo hiệu nước Tân Lang ta sẽ có đế vương mới là hậu duệ Hỏa thần."
Vẻ mặt công chúa dường như hơi dao động. Nhưng ngài không tỏ ra vui, mà ngược lại hơi u sầu, có lẽ còn điều gì khúc mắc chưa quyết. Đôi mắt rực đỏ ấy liếc trộm sang Tình Huyên rồi rời đi.
Các ông chưa kịp nói tiếp đã nghe tiếng cười đi theo bước chân người mới trở vào. Lan San đứng trước bàn, vái chào công chúa.
"Em cười cái gì?" Ngài nhướng mày, hỏi.
"Tâu điện hạ, thảo dân cho rằng hai vị đại nhân đây nói cũng có lý, nhưng thảo dân nghĩ còn có cách hay hơn."
Linh Như cứ nghĩ ông thái sư nghiêm nghị ấy sẽ giận, vậy mà ông cười, vuốt râu nói:
"Giá mà thời bình, tài của Lan San ắt là trạng nguyên. Rủi thay nay thời loạn thế, nó cũng tính kiêm được chức quân sư mưu sĩ. Chi bằng công chúa cứ nghe xem nó có sáng kiến gì."
"Lan San nằm trong lòng giặc, hẳn phải biết rõ hơn chúng thần." Ông giám chính cũng nói.
Công chúa Xích Anh gật đầu:
"Hai vị đại nhân đã cất nhắc thì em cứ nói đi. Nhân lâu rồi chưa nhắc tới Quốc Tử, em hãy báo rõ tính tình chúng thế nào để mọi người cùng nghe."
Vị Mê Thần Sư chắp tay — tự dưng nhớ tới năng lực của y, con bé không khỏi ngờ vực y có cố tình khiến hai vị này nói vậy hay không — rồi thưa:
"Tâu điện hạ, quả như giám chính đại nhân nói, thảo dân tiếp xúc với các Quốc Tử nhiều năm nay, có biết được đôi phần tính cách của chúng. Tỏa Phong là anh cả, sang năm hai mươi ba tuổi, người chững chạc điềm tĩnh, văn võ song toàn, đa mưu túc trí. Anh hai Chu Diên, nhỏ hơn một tuổi, nghi dung đẹp đẽ, là bậc quân tử hiền hòa thấu tình đạt lý, khốn nỗi y không bận tâm tới chuyện khác, chỉ thích các việc múa hát đàn ca. Hai đứa Hoài Hoan và Nhật Nam cùng hai mươi mốt tuổi, một cặp bài trùng về võ nghệ binh pháp. Dưới chúng có Vũ Ninh, hai mươi, đầu óc sáng suốt mà không có lòng dạ riêng, rất mực tuân thủ luật lệ để mong được yên thân. Chân Định, mười tám, thảo dân cho là hạng tầm thường chỉ biết học mà không biết hành."
Chỗ bàn nước, hai chị lớn ngó nhau tủm tỉm cười. Tầm Phương phải suỵt họ đi.
Linh Như nhớ mang máng dung mạo các Quốc Tử. Quanh năm suốt tháng, các Quốc Tử chỉ ở trong Quốc Tử Giám, duy nhất một lần được ra ngoài: từ trung tuần tháng Chạp, phò mã lang tổ chức săn bắn mùa đông.
Khung cảnh ấy náo nhiệt lắm. Mấy bạn học của Linh Như thường xin về sớm để xem. Đường lớn được dọn dẹp sạch sẽ, quan binh đứng dọc hai bên lề, người cầm cờ, kẻ cầm kèn trống, tấu nhạc rộn rã. Phò mã lang ngồi xe đi đầu, các Quốc Tử cưỡi ngựa đi sau, hoa tươi và pháo giấy bay ngập trời.
Linh Như lúc nào cũng xớ rớ đằng sau chót đám đông, chỉ thấy loáng thoáng họ cưỡi ngựa tốt, ai nấy cao ráo, phong thái hơn người. Họ mặc áo viên lĩnh vải gấm, quần lụa màu ngà, cung bằng gỗ tốt vắt sau lưng.
Các Quốc Tử đi thành hàng hai. Người đi đầu có vết bỏng to đùng choán gần nửa mặt, nhìn vào ai cũng sợ. Bên cạnh y, một chàng trai để tóc dài, đeo cây đàn nguyệt sau lưng, mỉm cười với các cô dân nữ. Hai anh đằng sau thì luôn miệng nói cười, ngựa của họ cũng nhịp bước nhí nhảnh. Thế là họ sẽ bị cậu trai sau lưng trách mắng. Bên cạnh cậu này là một cô gái lưng thẳng vẻ đĩnh đạc, cằm hất lên trời. Hai cậu nhỏ đi chót thì có vẻ trầm, nhưng cậu nhỏ nhất lúc nào cũng ngó nghiêng với vẻ hứng thú.
"Đứa em út Gia Hinh lại khác. Sang năm nó sẽ mười bảy, rất nhạy bén, luôn hoài nghi những điều được dạy, vô cùng tò mò về thế giới bên ngoài. Có điều thể trạng nó yếu nên phần võ hơi thua thiệt. Người đáng gờm thật sự là đứa con gái độc nhất trong các Quốc Tử, Diễm Dương. Cô này gần mười chín, trí dũng đều hơn hẳn anh em, tài bắn cung bách phát bách trúng được chính phò mã lang truyền dạy, rất được Triệu Thiên yêu thương trọng dụng. Lần trước thảo dân tâu với điện hạ về chuyện Giám Quốc quân, bây giờ vẫn đang giấu chúng chưa nói, nhưng nếu chọn ra người đứng đầu đó, thảo dân tin hắn sẽ chọn cô Diễm Dương này."
Lan San tâu xong, bắt đầu hiến kế:
"Tâu điện hạ, các Quốc Tử tuy là tinh anh được nuôi dưỡng, nhưng chúng sống sung sướng quen rồi, lại học phép quân thần Túc Mộc nên rất trung thành, không có chí làm việc lớn. Phò mã lang xem chúng như cánh tay phải vì hắn có tình cảm với chúng. Đây là điểm yếu trí mạng. Thảo dân nghĩ nếu ta diệt chúng đi, chẳng những là trừ khử được cái gai trong mắt, mà còn đả kích Triệu Thiên."
Con dao tỉa lá trầu rơi xuống bàn, Linh Như giật mình quay sang, thấy Tầm Phương trừng mắt bàng hoàng, toan cản bạn lại thì cô bé đã chạy ra trước mặt công chúa, khẩn thiết nói:
"Xin điện hạ xét kỹ! Các Quốc Tử tuy là được phò mã lang nuôi dạy, nhưng vẫn là dòng dõi đồng bào ta, huống chi họ còn chưa làm gì xấu, không đáng tội chết!"
"Em định đợi chúng chĩa giáo vào em rồi ném em lên giàn thiêu mới chịu thay đổi suy nghĩ hay sao?" Lan San phàn nàn, "Trước tiên là chúng diệt trừ tiên thuật, sau đó tới ma thuật, rồi tới khi Tân Lang thành nước không vua mà người cầm đầu lại bị tẩy não bằng phong hóa Túc Mộc thì ngày vong quốc chỉ cách vài nốt nhạc mà thôi!"
"Nhưng họ là dòng dõi của Thất Đẩu Tướng!"
"Họ là con nuôi của Triệu Thiên!"
Linh Như lôi ngược Tầm Phương lại, trong khi Yên Hà với Tình Huyên kéo Lan San về. Bỗng dưng phòng thờ vọng vào một tiếng "rầm" động trời. Ai nấy giật mình nhảy dựng lên. Công chúa rời khỏi thư phòng, đi sang để kiểm tra.
Thấy bạn mình rướm nước mắt, Linh Như thấy nghẹn trong họng, vỗ vai an ủi cô.
"Thất Đẩu Tướng?" Con bé hỏi, "Các vị tướng tiên triều? Các Quốc Tử là hậu duệ của họ?"
Lan San bất đắc dĩ gật đầu.
Các vị đại nhân nhìn nhau thở dài.
"Nóng tính quá, các cô ạ." Ông thái sư vuốt râu, phê bình, "Chẳng lẽ ta không nghĩ tới các Quốc Tử? Giết đi thì có lỗi với vong linh chư vị tướng quân, còn để lại thì là mầm mống nguy hại về sau. Không bằng dụ chúng hàng đi thì hơn."
"Dụ hàng ạ?"
"Chỉ cần công chúa ra mặt, các Quốc Tử sẽ biết ngay Triệu Thiên nói láo, tự khắc sinh lòng nghi ngờ." Ông giám chính nói.
Lan San vẫn cãi:
"Nhưng cho dù nghi ngờ, cũng chưa chắc chúng đã chịu phản Triệu Thiên. Đợi công chúa vào, tôi sẽ xung phong đi giết chúng."
Linh Như nảy ra một ý, vội can:
"Bảy thằng con trai một đứa con gái tự dưng lăn đùng ra chết, khác gì rứt dây động rừng? Giết chúng rồi, biết dò la tin tức của Triệu Thiên thế nào? Bây giờ chúng còn chưa nên trò trống gì, San đã moi được cả đống nội tình trong ngụy triều — tưởng tượng chúng đứng ở vị trí cao hơn xem? Đấy là thiển kiến của em thôi. Thay vì giết chóc vô nghĩa, chi bằng tha cho chúng sống rồi tiếp tục lợi dụng?"
Bạn đang đọc truyện trên: truyentop.pro