CHƯƠNG 15: TẤM LÒNG HIẾU KÍNH
Do là vi phục xuất tuần, lại chuyện khẩn cấp, cho nên nghi thức và cờ quạt đều được miễn, đội ngũ tùy tùng cũng được tinh giản, tổng cộng chỉ có hai đội hộ vệ cùng vài tên nô tài đi theo.
Lý An Thời vội vã tiến lên, dắt ngựa đến, quỳ rạp xuống đất.
Thuần Hữu Đế rủ mắt nhìn xuống quét một lượt qua sống lưng hắn, rồi nhấc chân giẫm lên lưng ngựa, sau khi ngồi vững vàng thì nhấc roi ngựa lên quất tới tấp vào Lý An Thời một hồi. Thấy hai bên thái dương hắn nổi gân xanh mà vẫn nắm chặt tay cắn răng chịu đau, bèn cười lạnh: "Đúng là một con chó có lòng dạ kiên cường, ở Đô Tri giám chắc là quá thiệt thòi cho ngươi rồi, từ sau điều ngươi đến Thượng thiện giám truyền thức ăn đi!"
Cho dù ngay lúc này Hoàng đế có điều Lý An Thời đến Hoán y cục mà giặt giũ quần áo bẩn suốt đời thì hắn cũng phải cảm tạ rơi nước mắt vì Bệ hạ đã giữ lại cho hắn một cái mạng chó, huống chi Thượng thiện giám cũng đâu phải là một nơi đoạ đầy khổ ải, rốt cuộc Bệ hạ cũng chẳng nói rõ chức vụ cụ thể là gì, chuyện thăng quan giáng chức còn có sư phụ hắn là Lý Thuận Đức trông chừng tình nghĩa, vậy thì còn phải lo gì nữa. Thế là hắn thật lòng thật dạ rơi vài giọt nước mắt, dập đầu tạ ơn.
Bỗng nghe thấy tiếng vó ngựa dồn dập, Thuần Hữu Đế nhìn về phía trước, chỉ thấy trong ánh hoàng hôn có một người một ngựa đang phi tới.
Chưa kịp nhìn rõ dung mạo và y phục, người nọ đã tự trên ngựa nhảy xuống, thong thả chậm rãi bước đến trước yên ngựa của Thuần Hữu Đế, cúi mình hành lễ: "Chủ thượng đại an."
Đoàn người của hoàng đế đều đã mặc thường phục, nói lời che đậy thân phận cũng là để khéo léo.
Lý An Thời lồm cồm bò dậy, loạng choạng đứng hầu hạ ở một bên, cẩn thận quan sát người vừa đến. Nhìn nhìn, hoá ra người nọ lại chính là vị Đường Từ mà sư phụ đã luôn lải nhải nhắc đến, nói rằng nhân tài này không được Hoàng đế yêu thích cho lắm. Lén nhìn vẻ mặt không lộ hỉ nộ của Thuần Hữu Đế, hắn thầm đổ mồ hôi thay cho Đường Từ.
Thuần Hữu Đế gật đầu, giơ roi ngựa lên, chỉ vào bộ y phục của nàng, hỏi: "Có chuyện gì mà gấp gáp như vậy, lại còn mặc quan phục đến nơi hẻo lánh này?"
Đường Từ khẽ mỉm cười, đáp: "Chuyện nói lớn không lớn, nói nhỏ không nhỏ. Chỉ là trước khi tan ca thần có nhận được một phong thư nhà viết rằng mẫu thân bị bệnh nặng, thần lo lắng mà lại không dám tự ý bỏ chức trách để về quê thăm nom, lại nhớ khi ở Vân Châu thường nghe các bậc trưởng bối trong nhà nói rằng Phật tổ ở chùa Bích Vân nơi ngoại ô kinh thành là từ bi và linh ứng nhất. Vì thế nên thần đã xin Hoàng đại nhân cho nghỉ nửa buổi chiều, mang theo vài đồng bạc vụn trong túi rồi cưỡi ngựa đến chùa, coi như chút thành tâm dâng hương hỏa để tỏ lòng hiếu kính."
"Phật tổ ở chùa Bích Vân từ bi và linh ứng ư?" Thuần Hữu Đế mỉa mai, kéo dây cương đi vòng quanh Đường Từ vài vòng: "Ta thường nghe rằng ngươi cách ba ngày hai bữa lại đến hậu viện của ngôi chùa đó nói cười tán gẫu với Tĩnh Từ sư phụ, có chuyện này không?"
Trước đó, Đường Từ ra khỏi chùa để xuống núi, đi được nửa đường thì từ xa đã nhìn thấy cảnh tượng hẻo lánh của quán trà, trong lòng vốn đã có chuẩn bị từ trước, bèn ghìm ngựa đứng lại một lúc rồi mới tới đây.
Giờ nghe thấy lời này bèn mỉm cười nói: "Mẫu thân thần rất sùng Phật pháp, khổ nỗi trong nhà không có ai có duyên với Phật môn để bầu bạn cho đỡ buồn, nên bà thường kể lể với thần. Ba năm trước thần vào kinh ứng thí, dù trượt thì vẫn ôm lòng biết ơn mà đến chùa Bích Vân tạ ơn, nghe phương trượng nói rằng Tĩnh Từ sư phụ đọc nhiều kinh Phật, căn tuệ thâm sâu, nên thần mới có ý kết giao hỏi chuyện đặng sau này khi vinh quy bái tổ cũng có thể bầu bạn chuyện trò nhiều hơn với mẫu thân, cùng nhau bàn luận về Phật đạo ở trong nhà."
Thuần Hữu Đế không nói gì thêm, chỉ nhìn chằm chằm Đường Từ bằng ánh mắt sắc lạnh ẩn ẩn vẻ tàn nhẫn.
Bốn phía vắng lặng, chỉ có tiếng vó ngựa đang bồn chồn khó chịu gõ xuống đất lộp cộp.
"Ngươi có lòng hiếu kính này thì chi bằng hãy đón mẫu thân đến kinh thành sống đi, đỡ đần bà đến chùa Bích Vân thắp hương tạ ơn Phật, cũng là một cơ hội tốt để mẫu thân ngươi có thể cùng Tĩnh Từ bàn luận Phật pháp đó chứ?" Thuần Hữu Đế nín nhịn một lúc lâu rồi nói ra mấy câu thoạt nghe có vẻ hiền từ mà lại như là không phải. Lý An Thời nghe mà lùng bùng lỗ tai, thầm nghĩ sao chủ tử lại thay đổi thái độ nhanh đến vậy chứ?
Đường Từ chẳng hề bất ngờ, gật đầu cung kính nói: "Thần cũng có ý này, chỉ là đường sá xa xôi, mẫu thân có bệnh nên đi lại bất tiện, đi đường dài e là sẽ mệt thân."
Thuần Hữu Đế quay đầu ngựa lại, thản nhiên nói: "Nếu đã như thế thì ngươi tự mình liệu mà làm đi." Rồi đột nhiên lấy ra một chiếc túi thơm trong ngực, ném cho Đường Từ, "Tìm một lúc thích hợp đưa cho Tĩnh Từ, cứ nói đó là phương thuốc an thần ngươi tìm được ở kinh thành cho mẫu thân, nhờ nàng đeo thử xem công hiệu thế nào."
Đường Từ cúi đầu vâng lời, sau khi cung kính tiễn Hoàng đế đi xa mới im lặng dắt ngựa buộc vào cột gỗ trước quán trà.
Chiếc túi gấm thêu uyên ương tinh xảo, Đường Từ lật qua lật lại vẫn không thấy dấu ấn của hoàng cung.
"Ô, đây là tay nghề của Tô nhị tỷ ở trong thành đó ư?" Người hầu dâng trà thấy Đường Từ cứ cầm chiếc túi gấm ngắm mãi, bèn lỡ lời bình phẩm.
Đường Từ nghe vậy thì vẻ mặt sáng ra, nói: "Ngươi nhận ra ư?" Nàng lại tháo sợi dây kim tuyến, mở miệng túi ra, đưa đến mũi người hầu, "Thế còn mùi? Ngửi mùi có biết là phương thuốc gì không?"
Mùi hương dễ chịu, xông vào khiến đầu óc cũng trở nên thanh tĩnh hơn.
Người hầu lắc đầu cười: "Việc này thì khó, ngài cứ đi hỏi mấy vị lương y đi, họ suốt ngày tiếp xúc với thảo dược, chắc chắn sẽ biết thôi."
Một lời khai sáng cho kẻ đang lầm đường, chỉ cần không phải là đồ trong cung thì làm một cái tương tự có khó gì, dù phương thuốc có chút khác biệt nhưng người thường đâu thể ngửi ra được. Vẻ mặt Đường Từ từ âm u chuyển sang rạng rỡ, cất túi gấm đi, móc ra vài đồng bạc vụn đưa cho người hầu, vui đến mức quên cả uống trà, lập tức đứng lên phi ngựa về thành.
Vội vã thúc ngựa đi, vó ngựa kịp bước lên đường Tử Mạt trước khi cổng thành đóng, rồi lại hỏi thăm Tô nhị tỷ ở đâu, thế là không ngừng nghỉ mà phi thẳng tới, cho nàng ta xem kiểu dáng túi gấm, trả gấp đôi tiền, hẹn một ngày sau sẽ đến lấy. Lại đến một hiệu thuốc thảo dược lớn nhất trong thành, bỏ ra một số tiền lớn để hỏi phương thuốc hương liệu an thần dưỡng thân, bấy giờ mới vui vẻ trở về ngõ Điềm Thủy.
"Mang chậu than tới đây!" Đường Từ bước qua ngưỡng cửa, hăm hở nói.
Ngư Đồng đang vừa ngâm nga khúc ca dao vừa ngồi trên chiếc ghế đẩu giặt quần áo thì nghe thế, ngẩn người ra, chưa kịp hỏi vì sao chủ tử về muộn như vậy thì đã buột miệng nói: "Chậu than? Công tử, trời nóng thế này, ngài không bị bệnh gì đó chứ?"
Đường Từ liếc hắn: "Cái mồm quạ! Bảo ngươi mang tới thì cứ mang tới, đâu ra lắm lời thế?"
Ngư Đồng không còn cách nào khác, đành lấy khăn ướt phủi lên người mấy cái rồi từ bếp mang chậu than ra, đặt trước mặt Đường Từ.
Đường Từ trợn mắt nhìn hắn: "Không có lửa thì có phải là chậu than không hả?" Tâm trạng đang vui vẻ bỗng chốc sắp bị tên người hầu ngốc nghếch lóng ngóng không nhanh nhạy này làm cho thành bực bội hết cả.
Ngư Đồng kêu ca trong bụng, lầm bầm lừ lừ đi vào trong bếp gắp vài khúc củi còn sót lửa ra, đặt vào chậu than, quạt quạt cho bén lửa, chẳng mấy chốc trong chậu đã bùng lên vài đóm lửa, càng lúc càng mạnh.
Đường Từ ném chiếc túi thơm vào chậu lửa, chỉ nghe thấy tiếng lớp vải bị lửa xé toạc và sau đó là tiếng nổ lách tách, lập tức tỏa ra một mùi hương nồng đậm.
Ngư Đồng đứng chờ một lúc lâu, suy tính phán đoán xem hôm nay tiểu tổ tông này đi chùa Bích Vân về lại định bày trò mới mẻ gì.
Lúc này hắn khịt mũi, ra vẻ cằn nhằn: "Công tử, ta nói ngài không phải là bị sốc nhiệt đến nỗi đầu óc không tỉnh táo đấy chứ? Làm cái dáng này khiến ta cứ tưởng là ngài định nướng thịt, hóa ra chỉ để đốt một cái túi thơm, ngài tự tay ném vào bếp lửa cho xong thì có phải nhanh hơn không? Lôi thôi rề rà, ta vừa mới tắm xong lại bị đổ mồ hôi hết cả người đây này!"
Cúi đầu liếc nhìn chiếc túi thơm đã bị đốt đến biến dạng, Đường Từ mỉm cười: "Ngươi thì hiểu gì chứ? Chiếc túi thơm này bẩn lắm, ném vào lửa bếp, ta sợ ngày mai nấu cơm thì cơm sẽ bị ám bẩn, ăn vào có mà hỏng bụng!"
Ngư Đồng bĩu môi: "Ngài lại lừa trẻ con ba tuổi đấy à."
"Ngươi nói thế thì là thế đi, coi như ta đang đùa với ngươi vậy." Đường Từ tâm trạng tốt, không muốn đôi co tranh cãi, nhấc chân đi vào trong nhà.
Ngư Đồng múc một gáo nước ra dập tắt lửa, vỗ vỗ đầu, chợt nói: "Công tử, hồi chiều tối Trần quản gia có đến một chuyến định mời ngài đến phủ bàn việc, sau đó thấy ngài không có nhà bèn nhờ ta truyền lời."
"Lời gì?"
Ngư Đồng hì hì cười, nói: "Cũng không phải việc gì quan trọng, tối nay lời đó đã truyền khắp các con phố, đến cả ta cũng biết rồi!"
Đường Từ nghe vậy thì nhíu mày, có chút mất kiên nhẫn, Ngư Đồng thấy thế cũng không dám đùa giỡn nữa: "Chính là vị đại nhân đã sát hại kỹ nữ đợt trước đó, ông ta đột tử một cách vô cùng khó hiểu ở trong ngục, có lẽ là tự sát vì lo lắng rằng sau khi lên đoạn đầu đài thì đầu thân sẽ lìa nhau, đầu thai không được vào chỗ tốt chăng?"
Nếu nói là tự sát để tránh hành hình, Hình Khang Bình dù sao cũng đã bị định tội, chờ đến mùa thu sẽ bị xử trảm, vẫn có thể sống yên ổn thêm mấy tháng nữa trong ngục, sao kinh qua bao ải, đến nước này rồi lại còn nghĩ quẩn đến vậy chứ? Nhà tù Hình bộ, tuy rằng số người chết không ít, oan hồn cũng nhiều vô kể, có kẻ vì không chịu nổi cực hình mà cắn lưỡi tự vẫn, hoặc thân thể yếu ớt nên chết chịu không nổi ẩm thấp dơ bẩn và nhục hình, nhưng chuyện gì cũng đều phải có một lý do. Lý do của chuyện này, nếu như đủ để khiến Tần Diên phải lập tức phái Trần Sơn đến mời mình đến bàn bạc, thì cái lý do ấy chính là bốn chữ 'đột tử khó hiểu' đấy thôi.
Đường Từ thầm điểm lại những tin tức nghe được ở Hàn Lâm viện dạo gần đây, từ từ cũng le lói manh mối, chỉ chờ ngày mai tìm một thời điểm thích hợp để đến phủ Thượng thư, nói chuyện với Tần Diên là sẽ sáng tỏ.
________
Vân Châu, Mộng Bạch học đường.
Nghe xong nội dung có phần lôi thôi dài dòng của bức thư vừa được người bên cạnh đọc lên, Cúc Mộng Bạch lắc đầu cười bất đắc dĩ, oán trách: "Dù là trạm dịch không thu phí gửi thư đi thì chuyện đơn giản có thể nói trong ba lời ngắn gọn cũng không cần phải bị viết thành ra dài dòng đến như vậy."
Tay phải lần trên giá bút, chọn một cây bút lông, thuận thế nhẹ nhàng di chuyển, chấm vào mực.
Ngón cái và ngón trỏ tay trái dang ra để vuốt phẳng tờ giấy, từng nét chấm, nét phẩy, nét gạch đều cẩn thận suy ngẫm, để viết ra những con chữ viết đẹp đẽ không khác gì khi còn sáng mắt.
Người đọc thư là một đại thúc ở trong trấn, chính mắt ông nhìn Cúc Mộng Bạch lớn lên. Thấy cô gái xưa kia hoạt bát mà ôn nhã giờ đã thành mù lòa vẫn sống một mình cô độc, vốn ông đã không đành lòng, nay thấy nàng vẫn cố gắng viết một bức thư hồi đáp Lục Hoà, bèn thở dài: "Ôi, Mộng Bạch à, cứ giấu giếm như thế này thì cũng có phải là cách đâu? Giờ Lục Hoà đã đề tên bảng vàng và làm quan ở kinh thành rồi, chắc chắn nơi đó ngoạ hổ tàng long, có thể có đại phu chữa được mắt cho con. Chi bằng, con cứ viết thư kể cho nó nghe đi."
Cổ tay trắng nõn yếu ớt khẽ dừng lại, Cúc Mộng Bạch đặt bút xuống, đôi mắt cực kỳ sáng và đẹp nhưng lại bình lặng không có chút gợn sóng nào: "A bá, tính tình của đứa trẻ kia ta hiểu rõ, giấu đi còn tốt hơn là kể cho biết. A bá cứ yên tâm, ta sẽ tự biết tiến lui, sẽ không để mình thiệt thòi." Nếu như nói cho người kia biết đôi mắt mình đã hoàn toàn mù lòa và cũng không bao giờ có thể nhìn thấy ánh sáng nữa thì nàng ở Đế kinh sao còn có thể bình tâm mà sống được.
Cánh cửa đột nhiên bị đẩy mờ toang, một người đàn ông trung niên bị vấp vào ngưỡng, cửa ngã nhào vào trong, vừa bò dậy vừa kêu lên: "Cúc tiên sinh, không hay rồi, chuyện không hay rồi!"
Ngũ quan hắn méo mó, thần sắc hoảng loạn, Cúc Mộng Bạch tuy không nhìn thấy nhưng vẫn có thể dựa vào thính giác càng lúc càng trở nên nhạy bén mà nghe ra sự hoảng hốt trong giọng nói của hắn, bèn vỗ vỗ chiếc ghế đẩu tròn bên cạnh: "Lục thúc, đừng gấp, ngồi xuống rồi nói từ từ."
Học đường dạy chữ duy nhất trong trấn này là Mộng Bạch học đường, Cúc Mộng Bạch tuổi còn trẻ mà bằng năng lực của mình đã giúp cho ngôi làng vốn nghèo kiết xác này trong mười mấy năm qua sản sinh ra năm sáu vị tú tài, ba bốn vị cử nhân, thậm chí là cả một vị Bảng nhãn như Lục Hoà, vậy là nàng đã sớm được xem là một tài nữ trên thông thiên văn dưới tường địa lý. Thế nên Lục Thập Bát được Cúc Mộng Bạch trấn an, tâm trạng cũng dần bình tĩnh lại, uống một chén trà xong mới kể lại mọi chuyện một cách rõ ràng.
Cúc Mộng Bạch lại hỏi thêm về những chi tiết nhỏ như có bao nhiêu người đến, lời nói và hành vi có lễ phép câu nệ hay không, xe ngựa hay kiệu có sang trọng không, nghe xong thì nói: "Nếu đã như thế thì thúc hãy cứ yên tâm mà đi cùng với Lục phu nhân."
Lục Thập Bát nghe vậy, trời nóng sẵn mà mồ hôi trên trán lại tuôn ra một lớp nữa, hắn lo lắng: "Cúc tiên sinh, những người đó đều đến từ kinh thành! Ta và bà nhà cũng đâu phải là người kín miệng, bọn ta thấy những kẻ làm quan đó mà trong lòng đã run sợ, làm gì cũng luống cuống, nếu như lỡ không cẩn thận mà tiết lộ cái bí mật..."
"Tiết lộ bí mật gì?" Cúc Mộng Bạch thản nhiên nói: "Lục Hoà là con trai của hai người sinh hạ ra, chuyện ấy cả cái trấn này ai mà chẳng biết? Người kinh thành thì sao, người làm quan thì sao, hơn người thường vài cái tai, vài con mắt hay thế nào? Hai người vào kinh chuyến này cứ việc an hưởng cuộc sống nhàn hạ mà đáng lẽ cha mẹ nên có, có gì đâu mà phải lo lắng?"
—— Hết chương 15 ——
Bạn đang đọc truyện trên: truyentop.pro