CHƯƠNG 16: CHUYỆN XƯA PHỦ BỤI
Hình Khang Bình đang đợi ngày hành quyết lại đột tử bất thường ngay trong ngục, vụ án bỗng nhiên liên lụy đến các triều thần Lại bộ, Hình bộ, không thể tùy tiện giải quyết. Thuần Hữu đế lập tức hạ lệnh cho Đại Lý tự phối hợp với Hình bộ để ráo riết tra án, nhất định phải làm sáng tỏ trắng đen, công bố thiên hạ, tránh để kẻ có tâm bất chính lợi dụng thời cơ kích động lòng dân gây bất lợi cho triều đình.
Sau khi khám nghiệm tử thi, tìm ra được Hình Khang Bình trúng độc mà chết, lại là một loại độc mãn tính, nghi phạm được xác định là tên cai ngục thường ngày phụ trách đưa thức ăn cho tử tù. Sau một hồi thẩm vấn, tên cai ngục quỳ lạy xin tha, khai ra rằng chính Phó úy Bộ binh Uông Hoằng Hậu là người đã ép hắn hạ độc Hình Khang Bình.
Tiếp tục truy tra xét hỏi, quả nhiên tìm ra mấy thân tín của Uông Hoằng Hậu làm việc trong Hình bộ gần đây thường xuyên qua lại với tên cai ngục kia. Theo lý mà nói, Uông Hoằng Hậu là người của Thái tử, hành động hạ độc Hình Khang Bình thế này thật vô lý, không hợp tình, nhưng mấy tên thân tín kia sau khi chịu đại hình thì kẻ nào kẻ nấy đều tìm mọi cách thoái thác cho mình, khai ra đủ loại động cơ để giải thích cho hành động của Uông Hoằng Hậu. Vụ án còn chưa tìm được chân tướng thì Uông Hoằng Hậu đã trỗi lên cái chút khí tiết trung dũng của võ tướng, biết mình đã bị sa vào cái bẫy sâu, không cam tâm trở thành công cụ cho phe Lỗ Vương dùng để triệt hạ Thái tử, thế là hắn nhân lúc tên sai dịch tuần tra lơ là ngủ gật, dùng một chiếc đũa được dâng lên theo bữa ăn để đâm một nhát xuyên cổ họng mình.
Trong sáu tháng mà phe Đông cung mất đi hai vị trung thần ái tướng, quẫn bách bi phẫn, bèn biến đau thương thành hành động, liên tục thúc ép Ngự sử dâng tấu sớ đàn hặc Hình bộ Thượng thư Hồ Lai Ngạn lạm dụng tư hình, tra tấn ép cung hòng mưu lợi riêng tư. Phe Lỗ Vương cũng chẳng vội vàng gì, giữa giông bão lại án binh bất động. Thậm chí, Hồ Lai Ngạn còn công khai trần tình, chủ động xin tội giữa triều đình, nói rằng Hình Khang Bình chết thảm trong đại lao Hình bộ là do mình làm Hình bộ Thượng thư mà không quản nghiêm ngặt, không thể thoái thác trách nhiệm, tha thiết cầu xin Bệ hạ giáng tội, tỏ ra cho bá quan quần thần biết hắn là một kẻ biết lỗi hối cải.
Thuần Hữu Đế không thể nghe lọt những lời lẽ đàn hặc gay gắt, những ngôn từ khiển trách nghiêm khắc của các ngôn quan Ngự sử, trích dẫn điển cố điển tích từ Bạo Tần[1] đến Dương Tùy[2], nói có sách, mách có chứng, dùng ngòi bút làm mũi kiếm. Hoàng đế cũng đành phải ngay lập tức nghiêm khắc quở trách Hồ Lai Ngạn vài câu, phạt ba tháng bổng lộc, rồi mắt nhắm mắt mở mà cho qua. Đối với Đông cung, Hoàng đế ngoài mặt ngoài không khen không chê, nhưng trong lòng lại tính toán chọn lựa thêm một đợt mạc liêu mới để thay thế cho một vài kẻ nhàn rỗi ngồi không hưởng lộc.
[1]: Cách gọi để phê phán nhà Tần vì sự tàn bạo và chuyên quyền.
[2]: Nhà Tuỳ do Dương Kiến sáng lập, Dương là họ của hoàng thất.
Còn cái chết của Hình Khang Bình, vì Uông Hoằng Hậu đã tự vẫn, án ấy trở thành một vụ án có đầu mà không kết, cũng không thể điều tra thêm, cứ thế bị khép lại.
________
Đêm đó, khi đèn lồng được thắp sáng.
Từ khi triều Tấn dấy binh lật đổ bạo chính của triều đại trước, vị Thái tổ hoàng đế xuất thân từ nơi dân dã đã nêu gương cần kiệm ngay từ buổi đầu lập quốc. Tôn tử tông thất đời sau này, ngoại trừ Cao Tông vì mê đắm nữ sắc mà để ngoại thích làm loạn, và Tuyên Tông trở thành hoàng đế bù nhìn do cái nạn 'tẫn kê tư thần'[3] mà làm loạn triều cương, thì tất cả các đời Vua ai nấy đều cần mẫn trong đời sống, siêng năng trong chính sự, và biết nghe lời khuyên nhủ can gián.
[3] Gà mái gáy sớm, ý chỉ phụ nữ mà làm chuyện của đàn ông (làm chính trị). Vì gương thời Cao Tông mà đến đời Tái Hữu đế của 'Lưỡng Đô Ký Sự' 200 năm sau triều đình vẫn sợ hãi nạn ngoại thích loạn chính, nữ nhi Nhan thị mới bị nghi kị và đề phòng cao độ.
Nội thị và cung nga tiến vào điện để tỉa bấc đèn hai lượt, ba lượt, Thuần Hữu đế vẫn cầm bút ngồi dưới ánh nến, phê duyệt tấu sớ.
Tổng quản Ngự tiền Lý Thuận Đức rụt cổ mà cẩn thận quan sát thần sắc của Hoàng đế, lại cân đo tính toán chọn một thời điểm thích hợp để khuyên nhủ chủ tử nghỉ tay dùng chút điểm tâm.
Vừa khéo, tiền điện truyền báo, nói Công chúa Nghi Dương xin cầu kiến.
Hoàng đế nghe xong, đôi lông mày nhíu chặt cuối cùng cũng giãn ra. Lý Thuận Đức lập tức mừng rỡ không thôi, vị Công chúa tiểu tổ tông này quả là hiểu lòng người, ra mặt là giải quyết được chuyện cấp bách.
"Bệ hạ, nô tài đi bảo Ngự trù truyền đồ ăn đến, ngài và Công chúa nói chuyện phiếm cũng có cái để lót dạ."
Được ngầm cho phép, Lý Thuận Đức cung kính lui ra, để lại Nghi Dương và Hoàng đế ở trong điện.
Dùng bữa tối quá muộn thì e rằng hôm sau sẽ khó tiêu, nhưng lại có thể làm thỏa cơn đói bụng. Nhà đế vương cũng không có gì khác.
Lý Thuận Đức dặn dò xong, không lâu sau, thái giám trực ở Ngự trù đã sốt sắng mang đến hai đĩa điểm tâm tinh xảo và một chén trà sâm lên. Tên ấy bước những bước chân nhỏ vụn đến trước cửa điện, dưới ánh nến sáng rực, Lý Thuận Đức chợt nhận ra tên thái giám kia chẳng phải Lý An Thời đó sao? Vài ngày trước còn vừa mới xuất cung, giờ đã bị Đô tri giám tống khứ đến Thượng Thiện giám rồi sao?
Lý Thuận Đức nhìn thấy tên vô dụng này liền thấy bực mình. Hắn vốn định mượn cơ hội này để lạnh nhạt hắt hủi Lý An Thời một thời gian, cũng không gửi gắm gì với Tổng quản Thượng thiện giám cả, để cho Lý An Thời nếm mùi vị của một nô tài hèn mọn một thời gian, ngày ngày sống trong nơm nớp lo sợ mà rèn luyện tính tình, tiêu tan tham vọng. Hôm nay vừa đúng lúc, vì vậy đã đợi Lý An Thời dâng đồ ăn lên xong, vừa bước ra khỏi điện thì đã kéo hắn vào phòng trực, định bụng giáo huấn.
Trước khi vào cung, Lý An Thời vốn xuất thân là dân nghèo, sau này gặp lúc tân đế đăng cơ, cung nhân đời cũ được thay hết một lượt, triều đình của tân đế phái người đến các châu phủ, quận huyện để tuyển nam tử tự nguyện tịnh thân nhập cung, nếu nhập cung thì sẽ được miễn thuế và lao dịch. Thân sinh phụ mẫu của Lý An Thời có năm sáu người con, gánh nặng trong gia đình khá lớn, nghe tin này, lập tức đưa người con trai thứ hai và thứ ba đang độ tuổi không lớn không nhỏ của mình đến nha huyện.
Kết quả, sau khi tịnh thân, chưa được ba ngày trong tàm thất thì người con thứ hai đã chết vì sốt cao do nhiễm trùng vết thương. Còn người con thứ ba thì xem ra là có số mệnh tốt hơn, trụ được một trăm ngày, khi ra ngoài vẫn hoạt bát khoẻ mạnh như không có chuyện gì. Sau khi được khám xét và tuyển chọn, nhờ vài câu nói khéo léo hợp lòng người, người con thứ ba của họ được vào cung là lẽ đương nhiên, rồi bấy giờ lại tình cờ gặp được Tổng quản Ngự tiền Lý Thuận Đức, trùng hợp thay lại là người đồng hương. Lý Thuận Đức đã làm hoạn quan nửa đời người, liên tiếp hầu hạ hai vị Hoàng đế, kẻ nào muốn thăng quan phát tài mà chẳng phải dâng lời nịnh nọt để nhờ ông ta nói giúp vài lời trước Ngự tiền?
Người con thứ ba này vốn dĩ là có tham vọng, cũng không cam tâm cả đời làm tay sai cho người khác, vì vậy đối với quý nhân như Lý Thuận Đức, hắn đã dùng mọi thủ đoạn có thể nghĩ ra để xu nịnh. Lý Thuận Đức thấy hắn cũng là người thông minh lanh lợi, phong cách làm việc nhanh nhẹn khá hợp ý mình, nên đã nhận làm đệ tử rồi ban cho cái tên Lý An Thời, từ ấy nâng đỡ và dạy dỗ.
"Ta đã nói với ngươi không biết bao nhiêu lần rồi, làm việc gì cũng phải xem xét nặng nhẹ. Ngươi tham vọng không sao, cầu tiến là tốt, nhưng tục ngữ có câu 'cây cao tất bị gió quật', lần này ngươi mất cả chì lẫn chài, mà trong cung này có không biết bao nhiêu người đang chờ xem ngươi ngã ra sao, thật là khiến cho ta cũng cảm thấy xấu hổ!" Lý Thuận Đức vỗ vỗ vào mặt mình, khiến Lý An Thời đang xoa bóp vai cho hắn phải vội vàng tiến lên, nở một nụ cười, lấy khăn lụa ra giúp hắn lau mặt.
"Nhưng sư phụ chẳng phải vẫn thường nói phải biết nhìn thời thế, tìm cách lấy lòng chủ tử hay sao? Chủ tử ưa thích người ở chùa Bích Vân như thế, tại sao lời nói hôm đó của con lại không hợp ý chứ?"
Lý Thuận Đức liếc xéo hắn, gạt tay hắn ra, nói: "Người ở chùa Bích Vân ấy à, ngươi cũng biết thân phận của bà ấy rồi. Dù bà ấy đã vào chùa ẩn cư nhưng tước hiệu vẫn còn đó, nếu xét vai vế thì chủ tử phải gọi bà ấy một tiếng tẩu tử, bao năm qua vị trí trung cung vẫn còn trống, Đô sát viện và Lễ bộ đã dâng lên bao nhiêu tấu sớ khuyên nhủ cầu xin chủ tử nạp Phi lập Hậu, lý do đều là để dứt bỏ ý niệm phản ngược với cương thường luân lý của chủ tử đấy thôi. Bà ấy bệnh nặng, chủ tử lén đi thăm, là vì tình nghĩa và vì bổn phận của một người hoàng đệ đối với tẩu tử. Ngươi, ngươi lại có cái gan to bằng trời, công khai xúi giục chủ tử đi thăm ư? Bỏ qua chuyện đó không nói, chủ tử của chúng ta là người thế nào? Đàn ông vốn trọng thể diện. Ngày đó Ý Từ hoàng hậu vấp ngã, chủ tử đến chùa để thăm, việc đó đã khiến cho bà ấy tự chặt đứt một ngón tay để lập lời thề không bước ra khỏi chùa Bích Vân nửa bước, cả hai đều giận dữ, tình thế thì căng thẳng. Cho nên bây giờ đây cho dù có muốn gặp thì cũng là bà ấy phải tự bước ra khỏi chùa, đến đây mà cúi đầu trước mặt chủ tử chứ?"
Bị giáo huấn một hồi, Lý An Thời cuối cùng cũng tỉnh ngộ, vừa hối hận vì hành động dại dột của mình vừa suy nghĩ cách cứu vãn. Lý Thuận Đức làm sao không nhìn thấu suy nghĩ trong lòng hắn, biết hắn không phải kẻ ngu ngốc, lời cảnh tỉnh nói đến đây cũng đủ rồi, vì vậy đứng dậy khỏi ghế, phủi lại nếp áo, cười nhẹ: "Tuy nhiên ngươi cũng không cần quá lo lắng. Bệ hạ đưa ngươi đến Thượng Thiện giám, ngươi có mắt mà không biết nhìn, chỉ nghĩ đó là nơi nấu nướng bưng bê không xứng với địa vị của ngươi, nhưng thực ra công việc hầu hạ thân cận với chủ tử thì nào có phân ra cao thấp sang hèn gì. Nếu may mắn được một lần nhận ân sủng, đó là sự may mắn vạn người ngưỡng mộ cũng không bằng."
Lý An Thời đứng phía sau Lý Thuận Đức nửa bước, cúi đầu, bó tay, vẻ mặt rất thành khẩn tiếp thu.
"Không nói đâu xa, ta lấy ví dụ gần đây cho ngươi thấy." Lý Thuận Đức nhìn cánh cửa đóng kín, bóng dáng của nội thị và cung nga trực đêm mập mờ trên lớp giấy cửa sổ, hắn ta hạ chất giọng khàn khàn và ghé sát vào tai Lý An Thời, "Nhớ năm xưa, chủ tử còn là Vương gia ở Tề Châu cũng đã vì Ý Từ Hoàng hậu mà không chịu lập thê hay nạp thiếp, mà Đức Tông Hoàng đế vô cùng yêu chủ tử và Tiên đế, ngài kẹt ở giữa mà khó xử. Một năm kia, Vương phủ tuyển một đợt cung nữ mới, cũng là cô nương đó có mệnh được quý nhân phù trợ thế nào mà dung mạo lại có vài phần giống với Ý Từ Hoàng hậu, khi quét dọn ở trong sân đã được chủ tử nhìn thấy lúc đang đi qua hành lang. Sau khi nói vài câu, chủ tử đã cho mạc liêu viết tấu sớ dâng lên kinh thành. Lúc đó Đức Tông Hoàng đế vẫn còn tại vị, dù tân đế đã lên ngôi, nhưng mọi chuyện lớn nhỏ vẫn phải qua tai ngài. Lão chủ tử lúc đó làm sao còn quan tâm tới gia thế cô gái đó ra sao, thấy cái đầu gỗ của nhi tử mình rốt cuộc đã thông suốt rồi, vui đến mức xuống được khỏi giường bệnh luôn, run run rẩy rẩy tự tay viết chiếu chỉ ban hôn, thậm chí còn phong cô gái đó thẳng lên làm Vương phi! Đây chẳng phải là ví dụ sống động về việc gà rừng tầm thường mà bay lên đầu cành hóa phượng hoàng hay sao?"
Lý Thuận Đức nói đến mức hăng say, Lý An Thời cũng nghe đến mức say sưa, nhưng đột nhiên nghĩ ra điều gì, gãi tai gãi má đầy khó xử, không khỏi thốt ra: "Sư phụ, nhưng chủ tử của chúng ta đâu phải như Anh Tông Hoàng đế, đâu có thích nam sắc...", Hắn bị Lý Thuận Đức trừng mắt, rụt đầu lại, khuỵu gối xuống, "Dạ... dù ngài có thích nam sắc thì đệ tử cũng không thể hầu hạ được."
Lý Thuận Đức hừ một tiếng từ mũi, véo tai hắn một vòng, quát: "Ta nói ngươi cái đồ, cái đồ ngu mà càng lớn càng ngu, đi theo ta bao năm mà không học được cách tùy cơ ứng biến, học một biết mười sao?"
Ngoài phòng có tiếng thông truyền điểm canh, Lý Thuận Đức thầm ước chừng thời gian, có chút kinh ngạc khi thấy Công chúa Nghi Dương và Hoàng đế nói chuyện đến tận bây giờ mà vẫn chưa dừng lại. Nhìn Lý An Thời cúi đầu xoa xoa tai, thấy vừa giận vừa buồn cười, hắn ta phất tay áo, nói: "Thôi thôi, hôm nay chủ tử triệu mấy vị đại thần đến nghị sự mà không giận dữ như mọi ngày, tâm trạng ta cũng tốt, vậy thì kể cho ngươi thêm một chuyện xa xưa nữa, cũng là chuyện ở Thượng Thiện giám đây này."
"Tiên đế và Ý Từ Hoàng hậu có một vị Thái tử và hai vị công chúa. Trưởng công chúa Vĩnh Gia là vị Điện hạ được sủng ái nhất. Năm ấy, cái năm mà cô bé mới mọc răng ấy, không biết thế nào mà cứ mỗi lần thời tiết thay đổi đột ngột là lại dễ sinh bệnh, mà lại khó uống thuốc, cứ uống thuốc là nôn ra. Cả Hoàng cung và cả Thái y viện đều lo sốt vó, nhưng không có cách nào hết cả, vô kế khả thi. Thế rồi, có một vị ngự trù của Thượng Thiện giám đã nảy ra một ý tưởng kỳ lạ là kết hợp phương thuốc và món ăn vào với nhau, chế tạo ra một món bánh hấp. Công chúa ăn bánh vui vẻ ngon lành, vài ngày sau bệnh tình thuyên giảm và khỏi hẳn. Tiên đế Bệ hạ vui mừng vô cùng, đặc cách thưởng cho vị ngự trù kia một bộ áo đấu ngưu, khiến người người phải ghen tị."
Lý An Thời quả nhiên nghe chuyện xưa đến là thích thú, lại nghĩ mấy ngày nay mình đang ở Thượng Thiện giám, không biết vị ngự trù mà sư phụ nói là ai, hay là đến kết giao: "Vị đại nhân đó họ tên là gì, bây giờ còn sống không ạ?"
Trong phòng rơi vào im lặng một lúc lâu, Lý Thuận Đức thở dài não nề, trong đôi mắt đục ngầu hiện lên tia tiếc nuối: "Chết rồi, đã chết rồi. Mười hai năm trước, khi biết tin Tiên đế Bệ hạ băng hà, ông ấy đã treo cổ tự vẫn ở trên cây." Hắn nhấc chân bước về phía trước, khóe môi khẽ cong lên nhưng vẻ mặt lại u tối bất minh, nặng nề khó hiểu, "Chính sư phụ ta đã tự tay liệm y quan và chôn cất cho ông ấy."
Đôi bàn tay đầy vết chai sần gõ nhẹ lên cánh cửa gỗ rồi nhẹ nhàng mở ra, theo tiếng kẽo kẹt là một luồng gió đêm mát lạnh ùa tới.
"Ôi, trời mưa rồi." Lý Thuận Đức ngẩng đầu nhìn màn mưa trên bầu trời, tiếng mưa lách tách rơi trên ngói và đáp lên bậc đá đã gần ngay bên tai. Hắn chắp hai tay ở sau lưng và khẽ nhắm mắt lại, sống lưng năm xưa từng cõng những vị vương tử công chúa dạo quanh chơi trò cưỡi ngựa, giờ đây đã không còn thẳng thắn và khỏe mạnh như xưa nữa.
—— Hết chương 16 ——
Bạn đang đọc truyện trên: truyentop.pro