Tiền Truyện.
Nằm lọt thỏm giữa bốn bề lau lách và rừng tràm hoang phế, làng Kỳ Hạ như một mảnh đất bị thời gian lãng quên. Từ xa nhìn lại, mái ngói âm dương phủ rêu xanh lặng lẽ ẩn dưới làn sương bạc, những hàng cau cao vút gầy guộc như những bóng người đứng chết trân, không động đậy qua bao mùa giông nắng.
Người dân trong làng ai nấy đều ăn vận y như những pho tượng bước ra từ tranh xưa: áo ngũ thân tay dài, khăn đóng, guốc mộc cồm cộp trên nền đất đỏ khô quắt. Trẻ con sinh ra đã được học cách nghe tiếng gió đổi chiều, người lớn thì xem trăng sao để đoán ngày cúng vái. Họ không nói nhiều. Mắt ai cũng đượm vẻ u uẩn, như đang nghe ngóng điều gì đó từ bên kia cõi mộng.
Mùi tử khí là điều kỳ lạ nhất nơi đây. Nó không nồng đến mức ai cũng ngửi thấy, nhưng nó luẩn quẩn trong không khí, vương vít trên từng cánh áo, từng miếng trầu têm cánh phượng. Có người từ ngoài làng ghé ngang, chưa kịp nghỉ chân đã bật ói, than rằng "nơi đây có mùi của huyệt mộ chưa lấp đất".
Đêm xuống, sương mù như có chân, lững thững kéo đến từ phía bìa rừng. Không ai biết nó đến từ đâu. Nó che phủ cả làng, len qua từng bậc thềm, từng khung cửa sổ. Dưới làn sương ấy, tiếng chuông gió ai treo bên hiên nhà ai bỗng réo vang không theo quy luật gió. Thỉnh thoảng, lại có người già thắp nhang thì thào: "Kìa, tụi nó đi ngang đấy... im đi, đừng thở mạnh."
Thuở xưa, nghe kể đất đai nơi đây trù phú kỳ lạ, cây trái quanh năm không tàn, người trong làng sống thuận hòa, lễ nghĩa, gắn bó với núi rừng như con với mẹ, dân cư đông đúc, tằm tơ phát đạt, có đình làng lớn, có người thi đỗ cử nhân, thậm chí có người từng được triệu vào kinh thành để chấm thi. Làng nổi tiếng không chỉ bởi cảnh sắc đẹp như tranh mà còn bởi một vật trấn làng linh thiêng:
Một chuỗi hạt Bồ đề màu đỏ sẫm, món pháp bảo được cho là kết từ 220 hạt xương khô của những người đắc đạo và tử vì nghĩa.
Chuỗi hạt ấy không chỉ linh thiêng, mà còn biết chọn chủ. Người giữ nó có thể nhìn thấy hồn ma, sai khiến vong linh, điều binh âm phủ như Thập Điện Diêm Vương.
Nhưng làng lại bị xóa tên khỏi bản đồ từ cuối triều Tự Đức.
Chuyện bắt đầu từ thời xa hơn cả triều Nguyễn, khi đất còn loạn, vua chưa lập. Một đạo sĩ lang thang đến vùng này, người gầy như cành củi, mắt sâu hoắm, đeo một chuỗi hạt bằng xương dài hơn sải tay, cổ thòng xuống tận bụng. Ông ta đến làng xin ở nhờ một đêm, đổi lại, nói sẽ giúp trấn yểm long mạch.
Nhưng chỉ sau một đêm, hai mươi người trong làng chết bất ngờ, miệng rỉ máu, tay chân co quắp như bị kéo vào cõi khác. Người ta phát hiện vị đạo sĩ ngồi chết trong tư thế thiền ngay miệng hang, chuỗi hạt cuốn quanh cổ như một sợi xích, mắt ông vẫn mở trừng.
Người làng hoảng sợ, cho là ông đã dùng máu người để gọi quỷ, luyện yêu. Một ông lão trong làng, vốn là hậu duệ pháp sư trấn trạch, đã gom cả làng, khấn trời, chôn xác ông đạo sĩ sâu trong hang, bịt đá, khắc bùa. Trước khi bịt, ông lão lấy chính chuỗi hạt đó, thả vào hầm, rồi nhỏ máu mình lên từng hạt.
Từ đó, chuỗi hạt trở thành vật bị phong ấn.
Nhưng năm đó, khi người làng khai thông hang tìm mạch nước, đá bị dỡ, bùa bị vỡ.
Và chuỗi hạt một lần nữa tỉnh dậy.
Thế rồi, như mọi huyền thoại có ánh vàng của lòng tham, bóng tối tìm đến.
Một ngày kia, một đoàn người lạ đặt chân tới làng. Mắt họ dài, da trắng bệch, không thấy bóng dưới nắng. Họ nói năng nhỏ nhẹ, lễ phép, tự xưng là người đi tìm đất an cư. Dân làng hiền hậu, cho ở lại, cắt đất dựng nhà. Nhưng không ai ngờ...
Họ không phải người thường.
Có lời đồn, dòng máu của họ là nửa người, nửa quỷ, sống lâu, nhưng luôn thiếu phần hồn. Chỉ có pháp bảo ấy mới giúp họ hoàn toàn hóa kiếp thành người, hoặc thành thần. Và để sở hữu nó, họ sẵn sàng làm mọi thứ.
Từng đêm trôi qua, người làng chết dần. Khi thì cả nhà biến mất không dấu vết. Khi thì sáng ra thấy mười mấy xác người treo trên cành si, máu rút khô như bị hút cạn. Dù vậy, lũ nửa người nửa quỷ vẫn sống, sống rất lâu, rất khỏe, như không hề bị ảnh hưởng gì.
Rồi một đêm mưa to gió lớn, cuộc thảm sát diễn ra. Đám nửa người nửa quỷ, giờ đã đông gấp đôi người, đồng loạt ra tay giết sạch những người còn lại trong làng. Máu đổ như suối, ngập cả giếng. Tiếng kêu khóc vang khắp núi rừng. Nhưng thứ chúng tìm, chuỗi hạt Bồ đề vẫn bặt vô âm tín.
Chúng lục tung hang đá, đào bới khắp núi, đào cả mồ mả tổ tiên. Nhưng không thấy.
Vật ấy đã biến mất, như chưa từng tồn tại.
Từ đó, ngôi làng trở nên hoang vắng. Chỉ còn những kẻ sống sót mang trong mình dòng máu lai, những sinh thể chẳng phải người cũng chẳng phải quỷ tiếp tục sống trong đêm, tránh ánh mặt trời, nghe ngóng lời nguyền, chờ một ngày... chuỗi hạt ấy tự tìm đến người xứng đáng.
Nhưng cơn ác mộng một lần nữa bắt đầu vào mùa hạn năm Mậu Dần.
Năm đó, ruộng khô nứt nẻ, trẻ con khát sữa khóc đến lịm hơi. Cúng bái, tế lễ đều vô dụng. Đến khi Phùng Bá Trạch, trưởng tộc họ Phùng dòng họ giàu nhất và có thế lực nhất trong làng đứng ra triệu tập bô lão và đưa ra một lời đề nghị:
"Đây là cách cuối cùng để cứu lấy cái làng này, mấy người phải thề đem chuyện này sống để bụng chết mang theo."
Đêm hôm đó, người ta thấy ông Trạch đem theo bảy người con gái còn trinh, trói bằng dây vải điều, dắt xuống rừng Trầm. Không ai biết họ đi đâu. Chỉ biết rằng sau ba ngày ba đêm không thấy về, thì mưa đổ xuống ào ạt, nước tràn đồng, mạch ngầm mở trở lại, lúa mọc mầm chỉ sau hai tuần.
Người làng sung sướng, tạ ơn thần linh. Nhưng một cụ già người chép gia phả của làng lặng lẽ khắc vào cột đình bốn chữ "Huyết ước Trầm Linh" bằng mực tàu trộn huyết chó mực.
Những năm sau đó, làng trở nên khác lạ. Mỗi mùa gặt, lúa nở như vàng, nhưng đầu làng luôn có người chết bất minh không bệnh, không đao thương. Chết trong giấc ngủ, mắt mở trừng, tay nắm chặt như ôm điều gì lạnh lẽo.
Đến đời thứ ba sau Phùng Bá Trạch, một người con gái trong họ Phùng Thị Cẩm Thoa phát hiện ra bản khế ước máu được viết trên da người, giấu trong hộc bàn thờ tổ. Trong đó ghi rõ:
"Mỗi mười năm, phải có trinh nữ dâng về rừng Trầm. Nếu phá lời ước, cả cái làng này sẽ phải chết."
Cẩm Thoa vì thương người, lén đốt khế ước. Đêm đó, cô bị mất tích, chỉ để lại chiếc áo ngũ thân vương máu, treo giữa đình làng. Kể từ đó, sương mù xuất hiện mỗi đêm không trăng, mùi tử khí tỏa ra từ lòng đất như thể cả trăm mạng người năm xưa chưa bao giờ được siêu thoát.
Kỳ Hạ giờ chỉ còn là cái tên trong sổ địa bạ cũ. Người đời bảo nơi đó quanh năm có sương, mùi tử khí như mùi trầm cháy dở. Vẫn có tiếng người thì thầm trong đêm, nhưng tuyệt không ai thấy được mặt.
Và thi thoảng...
Có người lạc vào rừng, thấy một cô gái mặc áo ngũ thân, tay đeo chuỗi hạt đỏ máu, đứng dưới gốc si, mỉm cười mà không có bóng.
Bạn đang đọc truyện trên: truyentop.pro