BIẾN CHUYỂN MẬT TÔNG

OSHO

BIẾN CHUYỂN MẬT TÔNG

Bài nói thêm về Bài thơ hoàng đế của Saraha

TANTRIC TRANSFOMATION

Further Discourses on the Royal Song of Saraha

1. Bản đồ mật tông

2. Tự do có giá trị hơn

3. Phá vỡ bốn lớp xi

4. Tin cậy không thể bị phản bội

5. Từ không tới không

6. Tôi một mình là đủ

7. Thông minh là thiền

8. Yêu không tạo hình bóng

9. Vô trí là cánh cửa

10. Chỉ việc nhớ lại

Về Osho

Những bài nói ngẫu hứng của Osho cho đệ tử và bạn bè tại Thính phòng Trang tử, Poona, Ấn Độ

************************************************************

Giới thiệu

Từ lâu Mật tông đã được coi hoặc như một hệ thống

luyện tập dục hoặc khác đi thì cũng như một ngôn ngữ uyên

bác khó hiểu đòi hỏi nhiều kiên nhẫn và học vấn vượt ra

ngoài khả năng người thường. Cả hai cách hiểu này đều

hoang đường.

Mật tông của Saraha - Mật tông của Osho - là có thực và

sinh động. Trong những bài nói này, Osho nói về một tầm

nhìn - tầm nhìn về cuộc đời được sống trong tự do toàn bộ,

cuộc sống của tình yêu vô biên, vô giới hạn - không phải như

ý tưởng mà như kinh nghiệm thực tế và hiện tại. Điều được

chứa đựng bên trong những trang này chính là tiếng vọng lại

của lời mời phát ra từ trái tim của bản thân sự tồn tại - không

'cách thức', không lí thuyết, không hệ thống - chỉ là lời mời

gọi.

Cái ngày tôi biết về bản thân mình, tôi cũng biết được

chính cái ta của sự tồn tại. Xin hãy nhìn tôi! Tôi đang đây.

Nó đang ở đây!

Tôi không có triết lí, tôi có kinh nghiệm chắc chắn. Tôi

có thể chia sẻ kinh nghiệm đó với bạn, nhưng chia sẻ không

thể chỉ từ phía tôi. Bạn sẽ phải đi từ quan điểm giáo điều của

mình. Bạn sẽ phải đi cùng với tôi vào cái chưa biết.

Tôi có thể đưa bạn tới cánh cửa sổ đó mà sự tồn tại là

trong trẻo, trong suốt. Nhưng bạn sẽ phải nắm tay tôi và

bước ...

Ma Prem Asha

************************************************************

#1 Bản đồ Mật tông

Với thích thú của việc hôn niềm ao ước dối

trá mà tuyên bố nó là điều có thực tối

thượng - thì cũng tựa như người đàn ông rời

khỏi nhà, đứng tại cửa yêu cầu người đàn bà

nói lại khoái lạc nhục dục.

Khích động của các lực sinh học trong ngôi

nhà không có gì làm nảy sinh nhân tạo hoan

lạc theo nhiều cách thức. Các nhà yoga ấy,

từ cơn ngất đau buồn, vì đã trượt khỏi chỗ

hạnh phúc tuyệt vời, bị dụ dỗ vào trong tật

xấu.

Như một brahmin, người, từ cơm và bơ, tạo

ra vật thiêu cúng tế trong ngọn lửa sáng

chói, tạo ra bình nước cam lồ từ chỗ hạnh

phúc tuyệt vời, coi điều này, qua suy nghĩ

ước ao là điều tối thượng.

Một số người đã nhóm lên sức nóng bên

trong và nâng nó lên đỉnh đầu, lấy lưỡi mơn

trớn cuống họng theo kiểu giao hoan và lầm

điều trói buộc với cái đem lại giải thoát, vẫn

tự hào tự gọi mình là nhà yoga.

Mật tông là tự do - tự do với mọi kết cấu tâm trí, với

mọi trò chơi tâm trí; tự do với mọi cấu trúc - tự do khỏi mọi

thứ khác. Mật tông là không gian hiện hữu. Mật tông là giải

thoát.

Mật tông không phải là tôn giáo theo nghĩa thông

thường. Tôn giáo cũng lại là trò chơi tâm trí, tôn giáo cho

bạn mẫu hình nào đó. Người Ki tô giáo có mẫu hình riêng,

người Hindu giáo cũng vậy, người Mô ha mét giáo cũng

vậy. Tôn giáo cho bạn phong cách nào đó, giới luật nào đó.

Mật tông vứt bỏ mọi giới luật.

Khi không còn giới luật nào nữa, khi không còn trật tự

bó buộc nào nữa, thì một loại trật tự hoàn toàn khác nảy

sinh trong bạn. Điều Lão Tử gọi là Đạo, điều Phật gọi là

pháp dhamma - cái nảy sinh trong bạn. Đó không phải là

điều gì do bạn tạo ra, nó xảy ra cho bạn; Mật tông đơn giản

chỉ tạo ra không gian cho điều đó xảy ra. Nó thậm chí

không chào mời, không chờ đợi; nó đơn giản tạo ra không

gian. Và khi không gian sẵn sàng, thì cái toàn thể tuôn

chảy.

Tôi đã từng nghe một câu chuyện rất hay, rất cổ ...

Trời đã lâu lắm rồi không mưa tại một tỉnh nọ. Mọi thứ

đều khô héo; cuối cùng dân chúng quyết định phải tìm

người cầu mưa. Một đại biểu đã được phái tới gặp người

này tại một thành phố xa xăm, nơi ông ta sống, với lời khẩn

cầu đến ngay tức khắc để làm mưa cho cánh đồng khô hạn

của họ.

Người cầu mưa, một ông già trí huệ, đã hứa cầu mưa

với điều kiện phải có cho ông một túp lều tranh nhỏ đơn

độc tại miền đồng quê, tại đó ông có thể tự mình rút lui

trong vòng ba ngày; không cần lương thực hay đồ uống nào

cả. Rồi ông sẽ xem điều gì có thể được làm. Yêu cầu của

ông được đáp ứng.

Vào tối ngày thứ ba một cơn mưa to đổ xuống, rồi một

đám đông những người cảm kích và tôn sùng hành hương

tới túp lều của ông và hỏi, "Xin ông hãy cho chúng tôi biết

ông đã cầu được mưa như thế nào?"

"Rất đơn giản," người cầu mưa trả lời. "Trong ba ngày

mọi việc tôi làm chỉ là tự đặt mình vào trật tự. Vì tôi biết

rằng một khi tôi trong trật tự thì thế giới sẽ trong trật tự, và

hạn hán phải nhường chỗ cho mưa rào."

Mật tông nói: Nếu bạn đang trong trật tự, toàn bộ thế

giới cũng trong trật tự cho bạn. Khi bạn đang hài hoà, toàn

bộ sự tồn tại cũng trong hài hoà cho bạn. Khi bạn trong hỗn

loạn, toàn bộ thế giới cũng hỗn loạn. Và trật tự này phải

không được là trật tự giả tạo, nó phải không được là trật tự

bị bó buộc. Khi bạn áp đặt trật tự nào đó lên mình, bạn đơn

giản trở nên chia chẻ; sâu bên dưới hỗn loạn vẫn tiếp diễn.

Bạn có thể quan sát nó: nếu bạn là người giận dữ, bạn

có thể khống chế cơn giận của mình, bạn có thể kìm nén nó

sâu trong vô thức; nhưng nó không định tan biến đi. Có thể

bạn trở thành hoàn toàn không hay biết gì về nó, nhưng nó

vẫn còn đó - và bạn biết rằng nó vẫn còn đó. Nó vẫn chạy

ngầm bên trong bạn, nó vẫn trong tầng hầm tối của bản thể

bạn, nhưng nó vẫn còn đó. Trên đỉnh của nó bạn có thể

ngồi đó mỉm cười, nhưng bạn biết nó có thể bùng nổ bất kì

lúc nào. Và nụ cười của bạn không thể rất sâu lắng, và nụ

cười của bạn không thể đúng, và nụ cười của bạn sẽ chỉ là

nỗ lực bạn tạo ra để chống lại chính mình. Người phải áp

đặt trật tự từ bên ngoài vẫn còn trong trạng thái hỗn loạn.

Mật tông nói: Có một loại trật tự khác. Bạn không áp

đặt bất kì trật tự nào, bạn không áp đặt bất kì giới luật nào;

bạn đơn giản vứt bỏ mọi cấu trúc, bạn đơn giản trở thành tự

nhiên và tự phát. Đó là bước tiến lớn nhất mà con người có

thể được yêu cầu thực hiện. Điều đó cần tới dũng cảm lớn

vì xã hội không thích điều đó; xã hội sẽ chống lại điều đó

đến cùng. Xã hội muốn một trật tự nào đó. Nếu bạn tuân

theo xã hội, xã hội sẽ hoan hỉ với bạn. Nếu bạn chỉ đi lạc

đây đó chút xíu, xã hội sẽ rất giận dữ. Và đám đông điên

khùng.

Mật tông là nổi dậy. Tôi không gọi nó là cách mạng, vì

không có chính trị trong đó. Mà tôi không gọi nó là cách

mạng còn vì nó không có kế hoạch thay đổi thế giới, nó

không có kế hoạch thay đổi quốc gia và xã hội. Nó là nổi

dậy, nó là nổi dậy cá nhân. Nó là việc cá nhân thoát ra khỏi

các cấu trúc và nô lệ. Nhưng khoảnh khắc bạn thoát ra khỏi

nô lệ, bạn đi tới cảm nhận được một loại tồn tại khác bao

quanh bạn mà bạn chưa bao giờ cảm thấy trước đó - dường

như bạn đang sống trong cảnh bị bịt mắt rồi bỗng nhiên

việc bịt mắt bị lỏng ra, mắt bạn mở ra và bạn có thể thấy

một thế giới hoàn toàn khác.

Sự bịt mắt này chính là cái bạn vẫn gọi là tâm trí mình -

suy nghĩ của bạn, định kiến của bạn, tri thức của bạn, kinh

sánh của bạn; tất cả chúng tạo thành tầng bưng bít dầy.

Chúng giữ bạn trong cảnh mù loà, chúng giữ bạn trong đờ

đẫn, chúng giữ bạn mất sinh khí.

Mật tông muốn bạn được sinh động - sinh động như

cây cối, sinh động như dòng sông, sinh động như mặt trời,

mặt trăng. Đó chính là quyền tập ấm của bạn. Bạn chẳng

được cái gì bởi việc mất nó; bạn mất tất cả. Và nếu như mọi

thứ phải mất đi để có được nó thì chẳng có gì bị mất đi cả.

Thậm chí chỉ một khoảnh khắc tự do hoàn toàn cũng đủ

thoả mãn. Còn cuộc sống dài cả trăm năm, dưới ách nô lệ,

cũng là vô nghĩa.

Sống trong thế giới Mật tông cần can đảm, đó là phiêu

lưu. Cho tới nay chỉ mới có rất ít người có khả năng đi trên

con đường đó. Nhưng tương lai đầy hi vọng. Mật tông sẽ

trở thành ngày càng quan trọng hơn. Con người đang ngày

càng hiểu ra nô lệ nghĩa là gì và con người cũng đang hiểu

rằng không có cuộc cách mạng chính trị nào chứng tỏ được

tính cách mạng cả. Mọi cuộc cách mạng chính trị cuối cùng

đều biến thành phản cách mạng. Một khi họ có quyền lực,

họ trở thành phản cách mạng. Quyền lực là phản cách

mạng. Cho nên có một cơ chế có sẵn trong quyền lực: trao

cho bất kì ai quyền lực, người đó trở thành phản cách

mạng. Quyền lực tạo ra thế giới riêng của nó. Cho nên mãi

tới nay đã có biết bao cuộc cách mạng trên thế giới và tất cả

đều thất bại, thất bại hoàn toàn; không cuộc cách mạng nào

có ích cả. Bây giờ con người mới đang trở nên nhận biết về

điều đó.

Mật tông đưa ra cảnh quan khác. Nó không phải là cách

mạng, nó là nổi dậy. Nổi dậy mang nghĩa cá nhân. Bạn có

thể nổi dậy một mình, bạn không cần tổ chức ra đảng phái

cho nó. Bạn có thể nổi dậy một mình, theo cách của riêng

bạn. Nhưng xin nhớ, nó không phải là đấu tranh chống lại

xã hội; nó chỉ là vượt ra ngoài xã hội. Nó không phải là

phản xã hội, nó là phi xã hội; nó chẳng liên quan gì tới xã

hội cả. Nó không chống lại cảnh nô lệ, nó là vì tự do - tự do

hiện hữu.

Nhìn vào cuộc đời bạn đi. Bạn có phải là người tự do

không? Không đâu: có cả nghìn lẻ một cảnh tù túng xung

quanh bạn. Bạn có thể không nhìn vào chúng, điều đó thật

gây bối rối; bạn có thể không thừa nhận chúng, điều đó làm

tổn thương bạn. Nhưng điều đó chẳng thay đổi được tình

huống: bạn vẫn là nô lệ. Để đi theo chiều hướng Mật tông

bạn sẽ phải nhận ra thân phận nô lệ của mình. Nó có gốc rễ

rất sâu xa; nó phải bị vứt bỏ, và nhận biết về nó giúp cho

bạn vứt bỏ nó.

Bạn đừng cứ tự làm nguôi mình, đừng cứ tự an ủi

mình, đừng cứ nói, "Mọi thứ ổn cả." Không phải thế: chẳng

cái gì ổn cả, toàn bộ cuộc đời bạn chỉ là ác mộng. Nhìn vào

nó mà xem! Chẳng có thơ ca, chẳng bài hát và chẳng điệu

vũ nào, cũng chẳng có tình yêu chẳng lời nguyện. Không

có lễ hội. Vui vẻ ư? - đấy chỉ là một từ trong từ điển. Phúc

lạc ư? - có, bạn đã nghe nói về nó, nhưng bạn vẫn chẳng

biết gì về nó cả. Thượng đế ư? - trong đền đài, trong nhà

thờ. Vâng, người ta vẫn nói về điều đó. Những người nói,

họ đâu có biết; những người nghe cũng đâu có biết. Mọi

thứ đẹp đẽ dường như vô nghĩa, còn mọi thứ vô nghĩa lại

dường như rất, rất quan trọng.

Con người cứ tích luỹ tiền và nghĩ rằng mình đang làm

điều gì đó rất có ý nghĩa. Đần độn của con người thật vô

hạn. Nhận biết về điều đó đi, nó sẽ phá huỷ toàn bộ cuộc

đời bạn; nó đã phá huỷ cuộc đời hàng triệu con người qua

bao nhiêu thời đại. Giữ lấy nhận thức của bạn - đó là khả

năng duy nhất để thoát ra khỏi đần độn.

Trước khi chúng ta vào lời kinh hôm nay, điều gì đó

phải được hiểu về bản đồ Mật tông của tâm thức bên trong.

Tôi đã nói cho các bạn đôi điều về nó; vài điều nữa cần

phải được nói.

Trước hết: Mật tông nói rằng không đàn ông nào chỉ là

đàn ông và không đàn bà nào chỉ là đàn bà. Mỗi đàn ông

đều là cả đàn ông và đàn bà, cũng như vậy với đàn bà - là

cả đàn bà và đàn ông. Adam có Eve trong anh ta, Eve có

Adam có trong cô ta. Trong thực tế không ai chỉ là Adam

và cũng không ai chỉ là Eve, chúng ta là Adam-Eve. Đây là

một trong những sáng suốt nhất đã từng được đạt tới.

Tâm lí chiều sâu hiện đại đã trở nên nhận biết về điều

đó, họ gọi nó là lưỡng dục. Nhưng trong ít nhất năm nghìn

năm Mật tông đã biết về điều đó, đã thuyết giảng về điều

đó. Đó là một trong những phát hiện lớn nhất của thế giới,

vì với hiểu biết này bạn có thể chuyển vào chiều hướng bên

trong của mình; bằng không thì bạn không thể chuyển

hướng vào trong được. Tại sao đàn ông lại yêu đàn bà? - vì

anh ta mang người đàn bà trong mình, bằng không anh ta

đã chẳng yêu. Rồi tại sao bạn lại yêu người đàn bà nào đó?

Có hàng nghìn đàn bà, nhưng tại sao, bỗng nhiên, người

đàn bà nào đó trở thành quan trọng nhất đối với bạn, dường

như mọi đàn bà khác đều biến mất và chỉ còn mỗi người

đàn bà đó trên thế giới? Tại sao? Tại sao người đàn ông nào

đó lại hấp dẫn bạn? Tại sao ngay từ cái nhìn đầu tiên cái gì

đó bỗng nhiên nhoáng lên? Mật tông nói: Bạn đang mang

hình ảnh về người đàn bà trong bạn, hình ảnh về người đàn

ông trong bạn. Mỗi đàn ông đều mang một đàn bà và mỗi

đàn bà đều mang một đàn ông. Khi ai đó bên ngoài khớp

với hình ảnh bên trong của bạn thì bạn yêu - đó là ý nghĩa

của tình yêu.

Bạn không hiểu về việc này, bạn đơn giản nhún vai nói,

"Việc xảy ra vậy." Nhưng quả có cơ chế tinh tế trong đó.

Tại sao điều đó đã xảy ra với người đàn bà nào đó, sao

không với người khác? Hình ảnh bên trong của bạn khớp

một cách nào đó, người đàn bà bên ngoài tương tự theo một

cách nào đó. Cái gì đó đụng vào hình ảnh bên trong của

bạn. Bạn cảm thấy, "Đây là người đàn bà của mình," hay

"Đây là người đàn ông của mình"; cảm giác này chính là

điều tình yêu là gì. Nhưng người đàn bà bên ngoài lại

không định thoả mãn, vì không người đàn bà bên ngoài nào

lại định hoàn toàn khớp với người đàn bà bên trong của

bạn. Thực tại không theo cách đó chút nào. Có thể cô ấy

khớp được một chút - có hấp dẫn, sức hút, nhưng sớm hay

muộn nó sẽ phôi phai. Chẳng mấy chốc bạn sẽ nhận ra rằng

có cả nghìn lẻ một thứ mà bạn không thích trong người đàn

bà này. Sẽ mất chút thời gian để đi tới biết về những điều

đó.

Trước hết bạn sẽ bị mê tít. Ban đầu tương tự sẽ quá

nhiều, nó sẽ tràn ngập bạn. Nhưng dần dần bạn sẽ thấy rằng

có cả nghìn lẻ một thứ, những vụn vặt đời thường, không

khớp; rằng các bạn là những người ngoại lai, xa lạ. Vâng,

bạn vẫn còn yêu cô ấy, nhưng tình yêu không còn mê đắm

nữa, cái nhìn lãng mạn mất dần. Rồi cô ấy cũng nhận ra

rằng điều gì đó hấp dẫn trong bạn, nhưng cái toàn bộ của

bạn thì không hấp dẫn. Đó là lí do tại sao mỗi người chồng

cố gắng thay đổi người vợ và mỗi người vợ cũng cố gắng

thay đổi người chồng. Họ cố gắng làm gì vậy? Tại sao? Tại

sao vợ cứ tiếp tục cố gắng thay đổi chồng? Để làm gì? Cô

ta đã yêu người đàn ông này, rồi lập tức cô ta bắt đầu tìm

cách thay đổi người đàn ông đó sao? Bây giờ cô ta đã nhận

ra những dị biệt. Cô ta muốn vứt bỏ những dị biệt đó; cô ta

muốn cắt bỏ vài mảnh ở người đàn ông này để anh ta hoàn

toàn khớp với người đàn ông lí tưởng của mình. Và người

chồng cũng cố gắng làm như vậy - không khó nhọc, không

ương bướng như đàn bà, bởi vì người chồng chóng trở nên

mệt mỏi - đàn bà hi vọng lâu hơn.

Đàn bà nghĩ, "Hôm nay hay ngày mai hay ngày kia -

một ngày nào đó ta sẽ thay đổi được ... " Phải mất gần hai

mươi, hai mươi nhăm năm để nhận ra được sự kiện là bạn

không thể thay đổi được người khác. Đến độ tuổi năm

mươi, khi đàn bà đã qua tuổi mãn kinh và đàn ông cũng

vậy, khi họ bắt đầu thực sự già thì họ trở nên tỉnh táo dần

dần rằng chẳng có gì thay đổi cả. Họ đã cố gắng vất vả, họ

đã thử đủ mọi cách... người đàn bà vẫn nguyên như vậy và

người đàn ông cũng nguyên như vậy. Chẳng ai có thể thay

đổi được ai. Đây là một kinh nghiệm lớn đạt tới, một hiểu

biết lớn.

Đó là lí do tại sao người già trở nên dễ tha thứ hơn: họ

biết rằng chẳng cái gì có thể được làm cả. Đó là lí do tại

sao người già trở nên thanh nhã hơn: họ biết rằng mọi thứ

là như chúng hiện hữu. Đó là lí do tại sao người già trở nên

dễ chấp nhận hơn. Người trẻ rất giận dữ, không chịu chấp

nhận; họ muốn thay đổi mọi thứ, họ muốn làm cả thế giới

theo cách họ thích. Cuộc vật lộn thật gian nan, nhưng điều

đó chẳng bao giờ xảy ra. Nó không thể xảy được, nó không

trong bản chất của mọi vật. Người đàn ông bên ngoài

không bao giờ khớp hẳn với người đàn ông bên trong của

bạn và người đàn bà bên ngoài cũng chẳng bao giờ tuyệt

đối giống như người đàn bà bên trong của bạn. Đó là lí do

tại sao tình yêu đem lại sự thích thú và cả nỗi đau nữa, tình

yêu đem lại niềm hạnh phúc và cả nỗi bất hạnh nữa. Mà bất

hạnh thì thường lại nhiều hơn là hạnh phúc.

Mật tông đề nghị gì về điều này, thế thì phải làm gì?

Mật tông nói: Không có cách nào thoả mãn được với người

bên ngoài; bạn phải quay vào bên trong. Bạn phải tìm ra

người đàn bà bên trong và người đàn ông bên trong, bạn

phải đạt tới hợp giao giới bên trong. Đó là đóng góp vĩ đại.

Điều này xảy ra như thế nào? Cố hiểu bản đồ này. Tôi

đã nói về bảy luân xa, sinh lí học Yoga-Mật tông. Trong

đàn ông, muladhar là nam tính và swadhishthan là nữ tính.

Trong đàn bà, muladhar là nữ tính còn swadhishthan là

nam tính, và cứ như vậy tiếp tục. Trong bảy luân xa, cho

tới luân xa thứ sáu đều có tính nhị nguyên; luân xa thứ bảy

là bất nhị.

Có ba cặp luân xa bên trong bạn: muladharswadhishthan

phải cặp đôi với nhau. Manipura-anahata

phải cặp đôi với nhau. Vishuddha-agya phải cặp đôi với

nhau.

Khi năng lượng chuyển ra bên ngoài, bạn cần người

đàn bà bên ngoài. Bạn có một thoáng nhìn trong khoảnh

khắc, bởi vì việc giao hợp với người đàn bà bên ngoài

không thể mãi mãi, nó chỉ có thể là tạm thời. Trong một

khoảng khắc bạn có thể làm mất bản thân mình vào nhau.

Rồi bạn lại bị ném trả về bản thân mình, bị ném trả lại với

mức độ cao hơn. Đó là lí do tại sao sau mỗi lần làm tình có

thất vọng nào đó: bạn lại trở nên yếu đi, nó đã không xảy ra

như cách bạn mong muốn nó phải xảy ra. Vâng, bạn đã đạt

tới đỉnh, nhưng thậm chí trước khi bạn trở nên nhận biết

được nó, sút giảm, đi xuống đã bắt đầu. Trước khi đạt tới

đỉnh là thung lũng. Trước khi bạn gặp người đàn bà hay

đàn ông ... đã có phân tách. Li dị đến cùng với hôn nhân

nhanh tới mức nó thành chán nản. Mọi người yêu đều là

những người chán nản: họ hi vọng quá nhiều, họ hi vọng

ngược với kinh nghiệm của mình, họ cứ thế hi vọng mãi -

nhưng chẳng có gì được thực hiện. Bạn không thể phá huỷ

qui luật của thực tại. Bạn phải hiểu những luật này.

Gặp gỡ bên ngoài chỉ là nhất thời, nhưng gặp gỡ bên

trong mới có thể trở thành vĩnh hằng. Và bạn càng chuyển

lên cao hơn thì gặp gỡ đó càng thành vĩnh hằng hơn. Trước

hết, muladhar trong đàn ông là nam tính. Ngay trong khi

làm tình với người đàn bà bên ngoài, Mật tông nói, nhớ tới

người đàn bà bên trong. Làm tình với người đàn bà bên

ngoài nhưng nhớ tới người đàn bà bên trong. Để tâm thức

bạn chuyển vào bên trong. Quên hoàn toàn người đàn bà

bên ngoài. Vào khoảnh khắc cực thích, quên hoàn toàn

người đàn bà hay đàn ông. Nhắm mắt lại và hiện hữu bên

trong, và để điều đó là thiền. Khi năng lượng được khuấy

động, đừng bỏ lỡ cơ hội này. Đó chính là khoảnh khắc mà

bạn có thể có sự tiếp xúc - hành trình hướng nội.

Thông thường rất khó nhìn vào trong, nhưng vào lúc

yêu, có khe hở nào đó, bạn không còn bình thường. Trong

khoảnh khắc yêu bạn đang ở cực đại của mình. Khi cực

thích xảy ra, toàn bộ năng lượng thân thể đập mạnh theo

điệu vũ; từng tế bào, từng thớ thịt nhảy múa theo nhịp, theo

một cách hài hoà mà bạn không biết tới trong cuộc sống

thông thường. Đây chính là khoảnh khắc, khoảnh khắc của

hài hoà; dùng nó như bước chuyển vào trong. Trong khi

làm tình, trở thành thiền, nhìn vào trong.

Một cánh cửa mở ra vào khoảnh khắc đó - đây là kinh

nghiệm Mật tông. Một cánh cửa mở ra vào khoảnh khắc đó,

và Mật tông nói rằng bạn cảm thấy hạnh phúc chỉ bởi vì

cánh cửa đó mở ra và cái gì đó của niềm phúc lạc bên trong

tuôn chảy cho bạn. Nó không đến từ người đàn bà bên

ngoài, nó không đến từ người đàn ông bên ngoài; nó đến từ

cốt lõi bên trong nhất của bạn. Bên ngoài chỉ là cái cớ.

Mật tông không nói rằng làm tình với người bên ngoài

là tội lỗi, nó chỉ đơn giản nói rằng việc đó không đi được

xa. Nó không lên án việc đó, nó chấp nhận tính tự nhiên

của việc này, nhưng nó nói rằng bạn có thể dùng đợt sóng

tình yêu đó để đi xa vào bên trong. Trong khoảnh khắc kích

động đó, mọi vật không còn trên mặt đất nữa, bạn có thể

bay. Mũi tên của bạn có thể đưa cánh cung hướng tới đích.

Bạn có thể trở thành một Saraha.

Nếu trong khi làm tình bạn trở nên thiền, bạn trở nên

im lặng, bạn bắt đầu nhìn vào trong, bạn nhắm mắt lại, bạn

quên người đàn ông hay đàn bà bên ngoài, thì điều đó xảy

ra. Muladhar, trung tâm nam tính bên trong của bạn, bắt

đầu di chuyển về trung tâm nữ tính - trung tâm nữ tính là

swadhishthan - và có hợp giao, có hợp giao bên trong.

Đôi khi điều này xảy ra mà không có việc biết của bạn.

Nhiều sannyasin đã viết thư cho tôi; trước đây tôi chưa bao

giờ trả lời vì không thể trả lời được. Bây giờ tôi có thể trả

lời, bạn sẽ có khả năng hiểu được. Một sannyasin cứ viết đi

viết lại cho tôi và anh ta lấy làm lạ tại sao tôi không trả lời

... Tấm bản đồ còn chưa có sẵn, cho tới nay còn chưa có,

bây giờ tôi mới trao cho bạn tấm bản đồ. Nghe tôi anh ta

bao giờ cũng cảm thấy dường như anh ta đang đi vào cực

thích. Toàn bộ thân thể anh ta bắt đầu rung lên và anh ta có

cùng kinh nghiệm như khi anh ta làm tình với đàn bà. Anh

ta trở nên rất phân vân - một cách tự nhiên thế. Anh ta mất

dấu vết về điều anh đã lắng nghe, anh ta quên ... và cơn

kích động mới mạnh mẽ và niềm hoan lạc mới mạnh mẽ

đến mức anh ta đâm lo nghĩ: Điều gì đang xảy ra vậy? Đây

là điều gì bên trong anh ta vậy?

Điều đã xảy ra là: muladhar đang gặp gỡ với

swadhishthan, trung tâm nam tính của bạn đang gặp gỡ với

trung tâm nữ tính của bạn. Đó là vui vẻ khi bạn chuyển vào

thiền, khi bạn chuyển vào lời nguyện; đây là cơ chế lễ hội

bên trong của bạn. Và khoảnh khắc muladhar và

swadhishthan gặp gỡ, năng lượng được thoát ra. Giống như

khi bạn yêu người đàn bà, năng lượng được thoát ra, khi

swadhishthan và muladhar gặp nhau, năng lượng thoát ra

và năng lượng đó đập vào trung tâm cao hơn, manipura.

Manipura là nam tính, anahat là nữ tính. Một khi bạn

đã trở nên hoà hợp với cuộc gặp gỡ thứ nhất của người đàn

ông và đàn bà bên trong thì một ngày nào đó bỗng nhiên

cuộc gặp gỡ thứ hai xảy ra. Bạn không phải làm gì về điều

đó cả; chỉ năng lượng thoát ra từ cuộc gặp gỡ thứ nhất tạo

ra khả năng cho cuộc gặp gỡ thứ hai. Và khi năng lượng

được tạo ra bởi cuộc gặp thứ hai, thì nó sẽ tạo ra khả năng

cho cuộc gặp thứ ba.

Cuộc gặp thứ ba là giữa vishuddha và agya. Và khi

cuộc gặp gỡ thứ ba xảy ra, năng lượng được tạo ra cho lần

thứ tư, vốn không phải là gặp gỡ, không phải là hợp nhất

mà là thống nhất. Sahasrar là một mình, không có nam

tính-nữ tính. Adam và Eve cuối cùng đã biến mất hoàn toàn

vào nhau. Đàn ông đã trở thành đàn bà, đàn bà đã trở thành

đàn ông; mọi phân chia biến mất. Đây là gặp gỡ vĩnh hằng,

tuyệt đối. Đây là điều người Hindu gọi là satchitananda.

Đây là điều Jesus gọi là "vương quốc của Thượng đế".

Trong thực tế số bẩy đã được mọi tôn giáo sử dụng.

Bẩy ngày là tượng trưng và ngày thứ bẩy là ngày nghỉ,

ngày linh thiêng. Sáu ngày Thượng đế làm việc đến ngày

thứ bẩy ông ấy nghỉ. Bạn phải làm việc trong sáu luân xa,

luân xa thứ bẩy trong trạng thái nghỉ lâu, nghỉ cuối cùng,

hoàn toàn thảnh thơi - bạn đã về nhà.

Với luân xa thứ bẩy bạn mất đi phần nhị nguyên, mọi

cực biến mất, mọi khác biệt biến mất. Đêm không còn là

đêm mà ngày cũng không còn là ngày. Mùa hè không còn

là mùa hè và mùa đông cũng không còn là mùa đông. Vật

chất không còn là vật chất và tâm trí không còn là tâm trí -

bạn đã vượt ra ngoài. Đây chính là không gian siêu việt mà

Phật gọi là niết bàn.

Ba cuộc gặp gỡ này xảy ra bên trong bạn, còn việc đạt

tới cái thứ tư có chiều hướng khác nữa. Tôi đã nói với các

bạn nhiều lần về bốn trạng thái: ngủ, mơ, tỉnh, turiya.

Turiya nghĩa là 'cái thứ tư', 'cái vượt ra ngoài'. Bẩy luân xa

này, và làm việc qua chúng, cũng có sự tương ứng với bốn

trạng thái đó.

Cuộc gặp gỡ thứ nhất giữa muladhar và swadhishthan

tựa như ngủ. Cuộc gặp gỡ xảy ra, nhưng bạn không thể rất

nhận biết về nó. Bạn sẽ tận hưởng nó, bạn sẽ cảm thấy tươi

tắn lớn lao nảy sinh trong bạn. Bạn sẽ cảm thấy sự nghỉ

ngơi lớn, dường như bạn đã ngủ rất say; nhưng bạn sẽ

không có khả năng thấy nó một cách chính xác, nó còn rất

mờ tối. Người đàn ông và người đàn bà đã gặp nhau trong

bạn nhưng họ đã gặp nhau trong vô thức; cuộc gặp gỡ

không phải trong ánh nắng ban ngày, nó là trong đêm tối.

Vâng, kết quả sẽ được cảm thấy, hậu quả sẽ được cảm thấy.

Bạn bỗng nhiên cảm thấy một năng lượng mới trong mình,

sự toả sáng mới, ngọn lửa mới. Bạn sẽ có hào quang. Ngay

cả những người khác cũng bắt đầu cảm thấy rằng bạn có

phẩm chất hiện diện nào đó, 'rung động'. Nhưng bạn sẽ

không chính xác tỉnh táo với điều đang xảy ra, cho nên

cuộc gặp gỡ đầu tiên tựa như giấc ngủ.

Cuộc gặp gỡ thứ hai tựa như giấc mơ: khi manipura và

anahata gặp nhau, cuộc gặp gỡ của bạn với người đàn bà

bên trong dường như là bạn đã gặp trong giấc mơ. Vâng,

bạn có thể nhớ được chút ít về điều đó, giống như vào buổi

sáng bạn có thể nhớ được giấc mơ bạn có đêm hôm trước -

chút ít đây đó, vài thoáng nhìn. Có thể điều gì đó đã bị

quên mất, có thể cái toàn thể không được nhớ, nhưng dẫu

sao thì bạn vẫn có thể nhớ. Cuộc gặp gỡ thứ hai tựa giấc

mơ. Bạn sẽ trở nên nhận biết nhiều hơn về nó; bạn sẽ bắt

đầu cảm thấy rằng cái gì đó đang xảy ra. Bạn sẽ bắt đầu

cảm thấy rằng bạn đang thay đổi, rằng biến chuyển đang

trên đường, rằng bạn không còn là con người cũ nữa. Và

với cuộc gặp gỡ thứ hai bạn bắt đầu trở nên nhận biết rằng

mối quan tâm của bạn với người đàn bà bên ngoài đang bớt

dần... mối quan tâm của bạn với người đàn ông bên ngoài

không còn say mê như nó đã thế.

Với lần gặp gỡ đầu tiên cũng sẽ có thay đổi, nhưng bạn

sẽ không nhận biết được nó. Với cuộc gặp gỡ đầu bạn có

thể bắt đầu nghĩ rằng bạn không còn quan tâm tới người

đàn bà của bạn, nhưng bạn sẽ không có khả năng hiểu được

rằng bạn không quan tâm tới bất kì người đàn bà nào hết

cả. Bạn có thể nghĩ rằng bạn chán người đàn bà của mình

và bạn sẽ hạnh phúc hơn với người đàn bà khác nào đó;

thay đổi nào đó sẽ là điều tốt, bầu không khí khác sẽ là điều

tốt, tính chất khác của người đàn bà sẽ là tốt. Đây chỉ là

phỏng đoán. Với lần gặp gỡ thứ hai bạn sẽ bắt đầu cảm

thấy rằng bạn không còn quan tâm tới người đàn bà hay

đàn ông nữa, rằng mối quan tâm của bạn đang chuyển vào

trong. Với lần gặp gỡ thứ ba bạn sẽ trở nên nhận biết hoàn

hảo; cũng tựa như tỉnh dậy. Vishuddha gặp agya ... bạn sẽ

trở nên nhận biết hoàn hảo, cuộc gặp gỡ xảy ra trong ánh

sáng ban ngày. Hay bạn có thể nói việc đó theo cách này:

cuộc gặp gỡ đầu xảy ra trong bóng tối nửa đêm, cuộc gặp

gỡ thứ hai xảy ra lúc tranh tối tranh sáng giữa ngày và đêm,

cuộc gặp gỡ thứ ba xảy ra vào giữa trưa - bạn tỉnh táo hoàn

toàn, mọi việc đều rõ ràng. Bây giờ bạn biết bạn đã kết thúc

với người bên ngoài. Điều đó không có nghĩa là bạn sẽ bỏ

vợ hay chồng mình, nó đơn giản có nghĩa là say đắm không

còn nữa. Bạn sẽ cảm thấy từ bi. Chắc chắn người đàn bà đã

giúp đỡ bạn cho tới giờ là người bạn lớn; người đàn ông đã

đưa bạn đi xa đến vậy là người bạn lớn; bạn biết ơn người

đó. Các bạn sẽ bắt đầu biết ơn và có lòng từ bi với nhau.

Bao giờ cũng như vậy: khi hiểu biết nảy sinh, nó đem

lại từ bi. Nếu bạn bỏ lại vợ mình để trốn vào rừng, điều đó

đơn giản chỉ chứng tỏ bạn là người độc ác và từ bi đã

không nảy sinh. Điều đó chỉ bắt nguồn từ không hiểu biết,

nó không thể bắt nguồn từ hiểu biết được. Nếu bạn hiểu

bạn sẽ có từ bi.

Khi Phật trở nên chứng ngộ, điều đầu tiên ông ấy nói

với các đệ tử là, "Ta muốn tới gặp Yashodhara và nói

chuyện với nàng" - vợ ông ấy.

Ananda rất bối rối. Ông ấy nói, "Phỏng có ích gì mà

quay trở về cung điện và nói chuyện với vợ thầy? Thầy đã

bỏ vợ - mười hai năm đã trôi qua." Và Ananda cũng bối rối

hơn chút ít, vì làm sao vị phật lại có thể nghĩ về vợ mình

được? Phật không được trông đợi nghĩ theo cách đó.

Khi mọi người đã bỏ đi hết, Anada nói với Phật, "Điều

này là không tốt. Mọi người sẽ nghĩ gì?"

Phật nói, "Mọi người nghĩ gì ư? Ta phải bày tỏ lòng

biết ơn của ta với nàng, và ta phải cám ơn nàng vì mọi sự

giúp đỡ mà nàng đã dành cho ta. Ta phải đem tặng cái gì đó

của điều đã xảy ra cho ta - Ta mắc nợ nàng rất nhiều. Ta sẽ

phải đi."

Ông ấy quay lại, ông ấy trở về cung điện, ông ấy gặp

lại vợ mình. Chắc chắn là Yashodhara phải phát khùng:

người đàn ông này vào một đêm đã trốn đi chẳng thèm nói

một lời với mình. Nàng nói với Phật, "Chẳng lẽ anh không

còn tin vào em nữa sao? Đáng ra anh nên nói rằng anh

muốn đi, và em sẽ là người phụ nữ cuối cùng trên thế giới

ngăn cản anh. Anh không thể tin cậy vào em đến mức thế

cơ à?" Rồi nàng khóc ... mười hai năm của giận hờn! Còn

người đàn ông này đã trốn đi tựa như tên kẻ cắp giữa đêm -

đột ngột, không một chỉ dẫn cho nàng.

Phật tạ lỗi. Rồi ông ấy nói, ""Điều đó bắt nguồn từ

không hiểu biết. Anh là kẻ dốt nát, anh đã không nhận biết.

Nhưng bây giờ anh nhận biết và anh biết, đó là lí do anh đã

quay lại. Em đã giúp anh vô cùng. Em quên những chuyện

cũ đi, bây giờ chẳng ích gì mà nghĩ đến sữa đổ nữa. Em

nhìn anh đây: cái gì đó lớn lao đã xảy ra. Anh đã trở về

nhà. Và anh cảm thấy trách nhiệm đầu tiên của mình là

hướng về em - về gặp em và chuyển trao, chia sẻ kinh

nghiệm của anh với em."

Giận hờn tiêu tan, phẫn nộ lắng xuống, Yashodhara

nhìn qua dòng nước mắt. Vâng, con người này đã thay đổi

thật lớn lao, đây không còn là cùng con người nàng vẫn

biết. Đây không còn là cùng con người ấy nữa, không một

chút nào; người này giống như một nguồn sáng chói ngời ...

nàng gần như có thể thấy được ánh hào quang, ánh sáng

bao bọc quanh ông ấy. Và ông ấy mới yên bình và im lặng

thế... ông ấy gần như biến mất, sự hiện diện của ông ấy gần

như thiếu vắng. Và rồi, không đếm xỉa đến bản thân mình,

nàng quên mất mình đang làm gì: nàng quì xuống và xin

được điểm đạo.

Khi bạn hiểu, nhất định có từ bi. Đó là lí do tại sao tôi

không bảo các sannyasin của mình rời bỏ gia đình họ. Vẫn

cứ ở đấy đi.

Rabindranath đã viết một bài thơ về sự việc này - khi

Phật tới. Yashodhara đã hỏi ông ấy một việc: "Xin anh nói

cho em một điều," nàng nói. "Dù anh đã đạt tới cái gì - em

có thể thấy anh đã đạt tới, dù nó là gì, em không biết nó là

gì - nhưng cho em biết một điều: anh không thể đạt được

điều đó ở đây, trong ngôi nhà này hay sao?"

Và Phật không thể nói không. Có thể đạt tới điều đó ở

đây trong ngôi nhà này, bây giờ thì ông ấy biết... bởi vì nó

chẳng liên quan với rừng thẳm hay với thành phố, với gia

đình hay với đạo tràng. Nó chẳng liên quan gì đến nơi chốn

cả; nó có cái gì đó liên quan tới cốt lõi bên trong nhất của

bạn. Nó có sẵn ở mọi nơi.

Lần thứ nhất, bạn sẽ bắt đầu cảm thấy rằng mối quan

tâm của mình vào người khác đang lỏng dần. Đó là hiện

tượng mờ nhạt, tối - như nhìn qua chiếc kính râm, nhìn qua

buổi sáng sương mù. Lần thứ hai, mọi thứ dần trở nên rõ

ràng hơn một chút, tựa giấc mơ; màn sương không còn dầy

đặc nữa. Lần thứ ba, bạn hoàn toàn tỉnh thức - nó đã xảy ra,

người đàn bà bên trong đã gặp người đàn ông bên trong.

Tính lưỡng cực không còn đó nữa, bỗng nhiên bạn là một.

Phân liệt đã biến mất, bạn không còn phân chia.

Với hội nhập này, bạn trở thành cá nhân. Trước đó bạn

không là cá nhân, bạn là đám đông, bạn là đám hỗn độn,

bạn là nhiều người, bạn mang tính cách đa tâm lí. Bỗng

nhiên bạn rơi vào trật tự. Đó chính là điều câu chuyện cổ

này nói lại.

Người đàn ông đó đã yêu cầu trong ba ngày... Nếu đôi

khi bạn nhìn vào các câu chuyện cổ này, bạn sẽ kinh ngạc;

tính biểu tượng của chúng thật lớn lao. Người đàn ông đó

đã yêu cầu ba ngày để ngồi im lặng. Tại sao lại ba ngày?

Đó chính là ba điểm: trong giấc ngủ, trong giấc mơ và khi

tỉnh thức, người đó muốn đặt bản thân mình vào trật tự.

Trước tiên điều đó xảy ra trong giấc ngủ, rồi điều đó xảy ra

trong giấc mơ, rồi xảy ra trong lúc tỉnh thức. Và khi bạn đã

trong trật tự, toàn bộ sự tồn tại cũng trong trật tự. Khi bạn

là một cá nhân, khi sự chia chẻ của bạn đã biến mất và bạn

được bắc cầu cùng nhau, mọi vật cũng được bắc cầu cùng

nhau.

Điều này dường như có vẻ ngược đời, nhưng phải nói

thế này: cá nhân là vũ trụ. Khi bạn trở thành cá nhân, bỗng

nhiên bạn thấy rằng bạn là vũ trụ. Từ trước cho tới nay bạn

vẫn coi rằng bạn tách rời khỏi sự tồn tại; từ nay bạn không

thể nghĩ được điều đó. Adam và Eve đã biến mất vào nhau.

Đây là mục tiêu mà mọi người đang cố gắng tìm ra bằng

cách này cách khác. Mật tông là khoa học chắc chắn nhất

để đạt đến điều đó; đó là mục tiêu.

Đôi điều thêm nữa: tôi đã nói với các bạn rằng

muladhar phải được thảnh thơi, chỉ thế thì năng lượng mới

có thể chuyển lên, vào trong. Và 'vào trong', 'chuyển lên' có

nghĩa như nhau; 'ra ngoài' và 'đi xuống' có nghĩa như nhau.

Năng lượng có thể chuyển vào trong hay đi lên chỉ khi

muladhar được thảnh thơi. Cho nên điều đầu tiên là thảnh

thơi muladhar.

Bạn giữ trung tâm dục của mình rất kín. Xã hội đã làm

cho bạn rất nhận biết về trung tâm dục; xã hội làm cho bạn

bị ám ảnh về nó; cho nên bạn giữ kín nó. Bạn có thể đơn

giản quan sát. Bạn bao giờ cũng giữ bộ phận dục rất kín,

dường như bạn sợ rằng cái gì đó sẽ sai nếu bạn thảnh thơi.

Toàn bộ ước định của bạn đã là phải giữ nó căng thẳng.

Thả lỏng nó ra, để cho nó là chính nó. Đừng e ngại gì - sợ

hãi tạo nên căng thẳng. Vứt bỏ sợ hãi. Dục là đẹp; nó

không phải là tội lỗi, nó là đức hạnh. Một khi bạn coi nó là

đức hạnh, bạn sẽ có khả năng thảnh thơi.

Tôi đã nói về cách thảnh thơi muladhar trước đây. Và

tôi cũng đã nói về cách thảnh thơi swadhishthan; nó là

trung tâm của cái chết. Đừng sợ chết. Có hai điều sợ hãi chi

phối loài người: sợ dục và sợ chết. Cả hai cái sợ đều nguy

hiểm, chúng không phép bạn trưởng thành. Vứt bỏ cả hai.

Luân xa thứ ba là manipura; nó bị tải nặng bởi các xúc

động tiêu cực. Đó là lí do tại sao dạ dầy bạn bị rối loạn -

khi bạn bị rối loạn về xúc động, manipura bị ảnh hưởng

ngay lập tức. Trong mọi ngôn ngữ trên thế giới chúng ta

đều có cách diễn đạt như, "Tôi không thể tiêu được nó."

Điều đó đúng theo từng từ. Đôi khi bạn không thể tiêu hoá

được thứ gì đó thì bạn bắt đầu cảm thấy buồn nôn, bạn

muốn mửa ra. Trong thực tế đôi khi điều đó xảy ra - nôn

mửa tâm lí. Ai đó đã nói điều gì đó và bạn không thể tiêu

hoá được điều ấy, rồi bỗng nhiên bạn cảm thấy buồn nôn ...

rồi mửa ra, sau khi mửa, bạn cảm thấy rất thảnh thơi.

Trong Yoga người ta có phương pháp cho điều đó. Nhà

yoga phải uống đủ nước vào buổi sáng - một bát nước pha

muối, nước phải hơi ấm - rồi ông ta phải nôn nó ra. Điều đó

sẽ giúp làm thảnh thơi manipura. Đó là một quá trình lớn,

quá trình tẩy rửa lớn.

Bạn sẽ ngạc nhiên ... bây giờ nhiều cách trị liệu hiện

đại cũng đã nhận biết về nó, rằng nôn mửa cũng có ích.

Cách Phân tích Hành động nhận biết về sự kiện việc mửa là

có ích. Cách Trị liệu nguyên thuỷ cũng nhận biết về sự kiện

việc mửa là có ích. Nó làm làm nhẹ manipura. Mật tông và

Yoga bao giờ cũng nhận biết về nó.

Các xúc động tiêu cực - giận dữ, hận thù, ghen tị vân

vân và vân vân - tất cả chúng đều bị kìm nén. Manipura của

bạn bị quá tải. Những xúc động bị kìm nén này không cho

phép năng lượng đi lên, những xúc động bị kìm nén này

vận hành tựa như tảng đá; lối đi của bạn bị bít lại. Trị liệu

đương đầu, Trị liệu động thái và những cách trị liệu giống

thế, tất cả đều vận hành không ý thức dựa trên manipura.

Họ cố gắng khêu ra giận dữ của bạn, họ cố gắng khêu ra

ghen tị của bạn, tham lam của bạn; họ khêu ra hùng hổ của

bạn, bạo hành của bạn, để cho nó phình lên, tràn ra bề mặt.

Xã hội đã làm một việc: nó đã huấn luyện cho bạn kìm nén

mọi thứ tiêu cực và giả bộ mọi thứ đều tích cực. Bây giờ cả

hai điều đó đều nguy hiểm. Giả bộ tích cực là giả dối, đạo

đức giả, còn kìm nén những điều tiêu cực cũng nguy hiểm;

đó chính là chất độc, nó đầu độc hệ thống của bạn.

Mật tông nói: Bày tỏ điều tiêu cực và cho phép điều

tích cực. Nếu cơn giận đến, đừng kìm nén nó; nếu hùng hổ

đến, đừng kìm nén nó. Mật tông không nói rằng cứ xông

tới giết người. Nhưng Mật tông nói rằng có đến nghìn lẻ

một cách bày tỏ những xúc động bị kìm nén. Bạn có thể đi

ra vườn và chặt cây. Bạn đã từng xem người chặt cây chưa?

Họ trông im lặng hơn bất kì ai. Đã bao giờ bạn quan sát thợ

săn chưa? Thợ săn là người rất tốt. Họ làm những việc rất

dơ bẩn, nhưng họ là người tốt. Đôi điều xảy ra với họ trong

khi họ đang săn mồi. Giết được con vật, nỗi giận của họ,

hùng hổ của họ tiêu biến đi. Những người được coi như bất

bạo lực là người xấu xa nhất trên thế giới. Họ không phải là

người tốt bởi vì họ đang giữ núi lửa. Bạn không thể cảm

thấy thoải mái với họ, có cái gì nguy hiểm hiện diện đây

đó; bạn có thể cảm thấy điều đó, bạn có thể động chạm đến

điều đó, nó đang rỉ ra từ họ. Bạn chỉ có thể vào rừng và kêu

lên, gào lên. Trị liệu nguyên thuỷ chỉ là trị liệu la hét, trị

liệu theo cơn giận bùng nổ. Và Đương đầu, Nguyên thuỷ,

Động thái đều có ích rất lớn cho việc làm thảnh thơi

manipura.

Một khi manipura được thảnh thơi, sẽ phát sinh cân

bằng giữa tiêu cực và tích cực. Và khi tiêu cực và tích cực

đã được cân bằng, lối đi để mở; thế thì năng lượng có thể

chuyển lên cao hơn. Manipura là nam tính. Nếu manipura

bị bịt kín, năng lượng không thể đi lên được. Nó phải được

thảnh thơi.

Cân bằng Cực có thể có ích rất nhiều trong việc đem lại

sự cân bằng giữa tích cực và tiêu cực. Đó là lí do tại sao tôi

cho phép mọi loại phương pháp trên khắp thế giới trong

khu trại này. Mọi thứ có thể có ích đều nên được làm thành

sẵn có, vì con người đã bị làm hỏng đến mức mọi nguồn trợ

giúp đều nên có sẵn. Bạn thậm chí có thể không có khả

năng hiểu tại sao tôi làm mọi phương pháp thành sẵn có

cho bạn: Yoga, Mật tông, Đạo, Sufi, Jaina, Phật, Hindu,

Động thái, Kịch tâm lí, Đương đầu, Trị liệu nguyên thuỷ,

Cân bằng Cực, Rolffing, Tích hợp Cấu trúc - tại sao tôi làm

cho tất cả những thứ đó có sẵn cho bạn. Bạn chưa bao giờ

nghe nói đến những điều này đã được thực hiện trong bất kì

trại nào ở bất kì đâu tại Phương Đông. Có lí do cho việc đó:

con người đã bị làm hỏng đến mức mọi nguồn đều nên

được dùng tới. Trợ giúp nên được lấy ra từ mọi nguồn có

thể, chỉ thế thì mới có hi vọng. Bằng không con người sẽ bị

diệt vong.

Luân xa thứ tư là anahata. Hoài nghi là vấn đề với luân

xa thứ tư; nếu bạn là người hoài nghi, luân xa thứ tư của

bạn vẫn còn chưa khai mở. Tin cậy khai mở nó. Cho nên

bất kì cái gì tạo nên hoài nghi đều phá huỷ trái tim bạn - nó

là luân xa trái tim, anahata. Logic, bắt bẻ logic, biện luận,

quá nhiều luận giải, quá nhiều Aristotle trong bạn phá huỷ

anahata. Triết lí, hoài nghi phá huỷ anahata.

Nếu bạn muốn khai mở anahata bạn phải tin cậy nhiều

hơn nữa. Thơ ca còn có ích hơn triết lí, và trực giác có ích

hơn lập luận, cảm giác có ích hơn suy nghĩ. Cho nên bạn sẽ

phải dịch chuyển từ hoài nghi sang tin cậy, chỉ có như vậy

thì anahata của bạn mới trở nên khai mở, anahata của bạn

mới trở nên có khả năng đón nhận năng lượng nam tính từ

manipura. Anahata là nữ tính; với hoài nghi nó đóng lại,

với hoài nghi nó trở nên lạnh nhạt; với hoài nghi nó trở

thành khô héo; nó không thể nhận được năng lượng nam

tính. Với tin cậy nó mở ra, với tin cậy những lỗ nhỏ được lộ

ra trong luân xa đó và nó có thể cho phép năng lượng nam

tính được tràn vào.

Rồi đến luân xa thứ năm: vishuddha. Phi sáng tạo, bắt

chước, như vẹt, như khỉ - tất cả những điều đó làm hỏng.

Mới hôm nọ tôi đọc một giai thoại nhỏ...

Một học sinh được hỏi, "Có mười con vẹt đang đậu

trên hàng rào. Một con nhảy xuống và đi mất. Còn lại mấy

con?

Và đứa trẻ trả lời "Chẳng còn con nào."

Thầy giáo nói "Không còn con nào à? Chỉ có một con

bỏ đi thôi mà!"

Còn đứa trẻ thì nói "Chúng là vẹt. Khi một con nhảy đi

thì cả bọn cũng nhảy theo."

Vishuddha bị phá huỷ bởi sao chép. Đừng là kẻ bắt

chước, đừng chỉ là bản sao nguyên si. Bạn đừng cố trở

thành một Phật mà cũng đừng cố trở thành một Christ.

Nhận biết về những cuốn sách như cuốn sách của Thomas

ở Kemplis Bắt chước Christ - nhận biết đi. Không bắt

chước nào có ích cả. Vishuddha bị phá huỷ bởi không sáng

tạo, bởi bắt chước; và vishuddha được giúp đỡ bởi sáng tạo,

diễn đạt, tìm ra phong cách sống riêng của bạn, đủ dũng

cảm để 'làm điều riêng của bạn'. Nghệ thuật, hát, nhạc,

múa, phát minh - tất cả đều có ích. Nhưng mang tính phát

minh - bất cứ cái gì bạn làm, cố gắng làm nó theo cách

mới. Cố đem tính cá nhân nào đó vào trong nó, đem dấu

hiệu đích thực nào đó. Ngay cả lau nhà, bạn cũng có thể

làm nó theo cách riêng của mình; ngay cả nấu cơm, bạn

cũng có thể làm nó theo cách của mình. Bạn có thể đem

tính sáng tạo vào mọi thứ bạn làm; điều đó nên được đem

vào. Bởi vì bạn sáng tạo - tốt, vishuddha sẽ khai mở. Và

khi vishuddha khai mở, chỉ thế thì năng lượng mới chuyển

vào trong agya, trung tâm con mắt thứ ba, trung tâm thứ

sáu.

Đây là quá trình đó: trước hết lau sạch mọi trung tâm,

làm thuần khiết nó, nhận biết cái gì làm hỏng nó, và giúp

nó để cho nó trở nên vận hành tự nhiên. Các khối chắn bị

vứt bỏ thì năng lượng xô vào.

Bên ngoài luân xa thứ sáu là sahasrar, turiya, hoa sen

một nghìn cánh. Bạn nở hoa. Vâng, điều đó đích xác là như

vậy. Con người là cái cây: muladhar là gốc và sahasrar là

việc nở hoa của nó. Hoa đã nở, hương thơm của bạn thoảng

ra theo gió. Đó là lời nguyện duy nhất; đó là cúng dường

duy nhất dưới chân của điều thiêng liêng. Hoa vay mượn

không có tác dụng, hoa hái từ cây không có tác dụng; bạn

phải nở hoa và cúng dường hoa của mình.

Bây giờ đến lời kinh. Lời kinh thứ nhất:

Với thích thú của việc hôn niềm ao ước dối trá

mà tuyên bố nó là điều có thực tối thượng -

thì cũng tựa như người đàn ông rời khỏi nhà,

đứng tại cửa

yêu cầu người đàn bà nói lại khoái lạc nhục dục

Hôn là biểu tượng - biểu tượng cho bất kì sự gặp gỡ

nào giữa âm và dương, giữa nam tính và nữ tính, giữa

Shiva và Shakti. Dù bạn có đang cầm tay người đàn bà -

đây là hôn, tay hôn lẫn nhau - hay bạn chạm vào môi cô ấy

bằng môi mình, đó cũng là hôn; hay các bộ phận sinh dục

của bạn tiếp xúc nhau - đó nữa cũng là cái hôn. Cho nên

hôn là biểu tượng trong Mật tông cho mọi sự gặp gỡ của

các cực đối lập. Đôi khi bạn có thể hôn chỉ qua việc nhìn

người đàn bà. Nếu mắt bạn gặp và chạm vào ánh mắt người

kia, cuộc gặp gỡ đã xảy ra.

Với thích thú của việc hôn niềm ao ước dối trá

mà tuyên bố nó là điều có thực tối thượng

Saraha nói rằng những người bị lừa dối - những người

không tỉnh táo chút nào với điều họ đang - cứ thèm khát, bỏ

lỡ người kia: đàn ông, ham muốn và bỏ lỡ đàn bà; đàn bà

ham muốn và bỏ lỡ đàn ông. Họ liên tục thèm khát gặp

nhau - và cuộc gặp gỡ chẳng bao giờ xảy ra. Điều ngớ ngẩn

của viêc đó là thế này: bạn cứ thèm khát và thèm khát, ham

muốn và ham muốn, và chẳng có gì ngoài chán nản lọt vào

tay bạn. Saraha nói đây không phải là cuộc gặp gỡ thực sự

tối thượng. Cuộc gặp gỡ thực sự tối thượng là điều xảy ra

trong sahasrar. Một khi nó đã xảy ra, nó đã xảy ra mãi mãi.

Đó là điều thực. Cuộc gặp gỡ xảy ra bên ngoài là không

thực, tạm thời, khoảnh khắc, chỉ là ảo tưởng. Nó là:

... thì cũng tựa như người đàn ông rời khỏi nhà,

đứng tại cửa yêu cầu người đàn bà nói lại khoái

lạc nhục dục

Một ví von hay. Saraha nói rằng cầm tay người đàn bà

bên ngoài, trong khi người đàn bà bên trong vẫn đang đợi

được là của bạn và của bạn mãi mãi, thì cũng thì cũng tựa

như người đàn ông rời khỏi nhà, đứng tại cửa yêu cầu

người đàn bà nói lại khoái lạc nhục dục.

Trước hết: rời khỏi nhà... Bạn đang rời khỏi ngôi nhà

mình, cốt lõi bên trong nhất, để đi tìm người đàn bà bên

ngoài - còn người đàn bà ở bên trong. Bạn sẽ lỡ cô ấy dù

bạn đi đâu; bạn có thể đi cùng trời cuối đất săn đuổi mọi

loại đàn bà và đàn ông. Đó là ảo tưởng; đó chỉ là chuyện đi

tìm cầu vồng, chẳng có gì đến trong tay bạn cả. Người đàn

bà là ở bên trong, còn bạn đang rời khỏi ngôi nhà mình.

Và rồi: đứng tại cửa. Điều đó nữa cũng là biểu tượng.

Bạn bao giờ cũng đứng ở cửa, theo nghĩa giác quan - đó là

các cửa. Mắt là cửa, tay là cửa, bộ phận sinh dục là cửa, tai

là cửa - tất cả những cái đó đều là cửa; chúng ta bao giờ

cũng đứng tại cửa. Nhìn qua mắt, nghe qua tai, thử chạm

bằng tay, con người liên tục vẫn còn ở cửa và quên mất

cách đi vào trong nhà. Và thế rồi cái ngớ ngẩn của việc đó -

bạn không biết tình yêu là gì, rồi bạn hỏi người đàn bà về

thích thú, về kinh nghiệm của cô ấy. Bạn nghĩ rằng bằng

cách nghe kinh nghiệm cô ấy, bạn sẽ trở nên phúc lạc. Việc

ấy cũng như đang lấy thực đơn đồ ăn vậy.

Saraha nói rằng trước hết bạn đi ra khỏi bản thân mình

- đứng ở cửa - rồi bạn hỏi người khác niềm thích thú là gì,

cuộc sống là gì, vui vẻ là gì, Thượng đế là gì. Còn Thượng

đế thì mọi lúc đều chờ đợi bên trong bạn. Ngài cư ngụ bên

trong bạn ... mà bạn lại đi hỏi những người khác. Và bạn có

nghĩ rằng bằng cách nghe họ bạn sẽ đi đến hiểu biết gì

chăng?

Khích động của các lực sinh học trong ngôi nhà

không có gì làm nảy sinh nhân tạo hoan lạc theo

nhiều cách thức. Các nhà yoga ấy, từ cơn ngất

đau buồn, vì đã trượt khỏi chỗ hạnh phúc tuyệt

vời, bị dụ dỗ vào trong tật xấu.

Trước hết: dục không phải là điều tối thượng trong

hoan lạc, nó chỉ là cái bắt đầu, alpha, ABC về điều đó; nó

không phải là omega. Dục không phải là cái thực tối

thượng, nó không phải là phúc lạc tối cao, mà chỉ là tiếng

vọng của điều đó; sahasrar còn xa lắm. Khi trung tâm dục

của bạn cảm thấy chút ít sướng thì đấy mới chỉ là tiếng

vọng xa xôi của sahasrar. Bạn càng tới gần hơn với

sahasrar, bạn càng hạnh phúc hơn...

Khi bạn chuyển từ muladhar sang swadhishthan, bạn

cảm thấy hạnh phúc hơn - cuộc gặp gỡ đầu tiên của

muladhar và swadhishthan là vui vẻ lớn. Thế thì cuộc gặp

gỡ thứ hai lại là vui vẻ còn lớn hơn. Thế thì cuộc gặp gỡ

thứ ba... bạn không thể tin được rằng lại có thể có nhiều vui

vẻ hơn nữa, nhưng nhiều hơn nữa vẫn có thể có bởi vì bạn

vẫn còn ở xa - không phải rất xa mà vẫn còn ở xa - với

sahasrar. Sahasrar thì thật không thể tin nổi. Phúc lạc nhiều

đến độ bạn không còn nữa, chỉ còn mỗi phúc lạc. Phúc lạc

nhiều đến độ bạn không thể nói "tôi đang phúc lạc," được

nữa, bạn chỉ biết rằng bạn là phúc lạc.

Tại luân xa thứ bảy bạn chỉ còn là cơn chấn động vui

vẻ - tự nhiên thế. Hoan lạc xảy ra trong sahasrar và thế thì

nó phải đi qua sáu tầng. Nhiều thứ bị mất đi, đấy chỉ là

tiếng vọng. Nhận biết đi, đừng lầm tiếng vọng với cái thực.

Vâng, ngay cả trong tiếng vọng cũng có cái gì đó thực ở đó.

Tìm ra sợi chỉ của thực tại xuyên qua đó. Nắm bắt lấy sợi

chỉ đó và bắt đầu chuyển vào trong.

Khích động của các lực sinh học trong ngôi nhà

không có gì làm nảy sinh nhân tạo hoan lạc theo

nhiều cách thức.

Và bởi vì lừa dối này rằng dục trở thành hoan lạc tối

thượng, cho nên bao nhiêu điều nhân tạo đã trở thành rất

quan trọng. Tiền bạc đã trở thành rất quan trọng bởi vì bạn

có thể mua mọi thứ bằng tiền, bạn có thể mua cả dục nữa...

Quyền lực đã trở thành quan trọng bởi vì thông qua quyền

lực bạn có thể thu được nhiều dục theo ý muốn; người

nghèo không thể đảm đương được điều đó. Vua thường có

tới hàng nghìn vợ - cho dù ở thế kỉ hai mươi này, vua

Nizam của Hyderabad có năm trăm vợ. Một cách tự nhiên,

người có quyền lực có thể có bao nhiêu dục tuỳ ý. Do lừa

dối này mà dục thành cái thực tối thượng, hàng nghìn vấn

đề khác nảy sinh: tiền bạc, quyền lực, danh vọng.

Khích động của các lực sinh học trong ngôi nhà không

có gì... Đấy chỉ là tưởng tượng... đấy chỉ là tưởng tượng mà

bạn đang nghĩ đó là hoan lạc. Đấy là tự thôi miên, tự gợi ý.

Và một khi bạn tự gợi ý cho chính mình thì nó lại tựa như

hoan lạc. Nghĩ xem: cầm tay người đàn bà, và bạn cảm

thấy hoan lạc thế... đấy chỉ là tự thôi miên, đấy chỉ là ý

tưởng của tâm trí.

Khích động của các lực sinh học... Bởi ý tưởng này mà

năng lượng sinh học của bạn bị khuấy động. Đôi khi nó bị

khuấy động khi bạn xem tranh khiêu dâm trong tạp chí

Playboy; chẳng có ai ở đó cả, chỉ có đường nét và mầu sắc

- và năng lượng của bạn bị khuấy động lên. Đôi khi chỉ một

ý tưởng trong tâm trí mà năng lượng của bạn có thể bị

khuấy động. Năng lượng tuôn theo tưởng tượng.

Khích động của các lực sinh học trong ngôi nhà không

có gì... bạn có thể tạo ra các mơ mộng, bạn có thể phóng

chiếu các giấc mơ lên màn ảnh của cái không... làm nảy

sinh nhân tạo hoan lạc theo nhiều cách thức.

Nếu bạn quan sát bệnh tật của con người bạn sẽ buồn

cười: người ta có các ý tưởng mà bạn không thể nào tin

được rằng điều này đang xảy ra. Người đàn ông nào đó

không thể làm tình với người đàn bà của mình trừ phi

người đó nhìn vào bức tranh khiêu dâm trước. Cái thực

dường như ít thực hơn là cái giả; người đó trở nên kích

động chỉ qua điều giả. Bạn chưa từng thấy điều đó lặp đi

lặp lại trong cuộc sống mình đó sao - rằng cái thực dường

như kém kích động hơn cái giả?

Rushma đang ngồi kia. Cô ấy tới từ Nairobi. Hôm nọ

cô ấy hỏi: "Tôi khao khát thầy, thưa Osho, nhiều thế ở

Nairobi. Tôi mơ về thầy, tôi tưởng tượng về thầy... và tôi

đã đến đây từ nơi xa xôi ấy. Còn bây giờ trái tim tôi không

còn xao xuyến theo cách đó nữa. Điều gì đã xảy ra vậy?"

Chẳng có gì xảy ra cả, chỉ là chúng ta đang yêu điều tưởng

tượng nhiều hơn là yêu điều có thực. Cái không thực đã trở

nên thực hơn. Cho nên ở Nairobi bạn có Osho 'của bạn' -

đấy là tưởng tượng của bạn, tôi chẳng có liên quan gì với

nó cả, đấy là ý tưởng của bạn. Nhưng khi bạn đến với tôi,

tôi đang ở đây... và thế rồi bỗng nhiên ý nghĩ tưởng tượng

của bạn không còn có liên quan nữa. Bạn đến với ước mơ

trong tâm trí bạn; thực tại của tôi sẽ phá huỷ ước mơ đó.

Nhớ thay đổi tâm thức của bạn từ tưởng tượng sang

hiện thực. Bao giờ cũng lắng nghe hiện thực. Chừng nào

mà bạn còn chưa rất, rất tỉnh táo thì bạn sẽ vẫn còn trong

bẫy của điều tưởng tượng.

Điều tưởng tượng dường như rất thoả mãn bởi nhiều lí

do. Nó nằm dưới kiểm soát của bạn. Bạn có thể làm cho

mũi của Osho dài như bạn muốn - trong tưởng tượng của

bạn ấy. Bạn có thể nghĩ bất kì điều gì bạn muốn nghĩ;

chẳng ai có thể cản trở nó, chẳng ai có thể đi vào trong

tưởng tượng của bạn, bạn hoàn toàn tự do. Bạn có thể vẽ tôi

như bạn muốn, bạn có thể hình dung về tôi, bạn có thể

trông đợi...bạn có thể làm bất kì cái gì bạn muốn về tôi, bạn

tự do; bản ngã cảm thấy rất thoải mái.

Đó là lí do tại sao khi thầy qua đời, thầy có nhiều đệ tử

hơn khi thầy còn sống. Với bậc thầy đã qua đời, đệ tử hoàn

toàn thoải mái; với thầy còn sống, họ gặp khó khăn. Phật

chưa bao giờ có nhiều đệ tử như ông ấy có hiện nay, sau

hai mươi nhăm thế kỉ. Jesus chỉ có mười hai đệ tử - bây giờ

thì nửa quả đất. Nhìn vào tác động của bậc thầy vắng mặt

đi: bây giờ Jesus là trong tay bạn, bạn có thể làm bất kì cái

gì bạn muốn làm với ông ấy. Ông ấy không còn sống nữa,

ông ấy không thể phá huỷ mơ mộng và tưởng tượng của

bạn. Nếu cái gọi là những người Ki tô giáo được thấy Jesus

thật, tim họ sẽ ngừng xao xuyến lập tức. Sao vậy? - bởi vì

họ sẽ không tin. Họ đã mường tượng mọi điều, còn Jesus là

người thật. Bạn có thể tìm thấy ông ấy trong tiệm rượu,

đang uống rượu với bạn bè và tán gẫu. Bây giờ điều này

chẳng có vẻ gì giống như 'đứa con duy nhất của Thượng

đế', điều đó có vẻ quá tầm thường. Có thể ông ấy chỉ là đứa

con của ông thợ mộc Joseph... Nhưng một khi Jesus đã qua

rồi, ông ấy không thể can thiệp vào tưởng tượng của bạn

được nữa. Thế thì bạn có thể hoạ và vẽ rồi tạo ra hình ảnh

về ông ấy theo ý bạn thích.

Xa xôi dễ dàng hơn - tưởng tượng có đầy quyền năng.

Bạn càng tới gần tôi thì tưởng tượng của bạn càng ít quyền

năng hơn. Và bạn sẽ chẳng bao giờ có thể thấy được tôi

chừng nào bạn còn chưa vứt bỏ được tưởng tượng của bạn.

Cho nên đấy cũng là trường hợp xảy ra đối với tất cả những

hoan lạc khác.

Khích động của các lực sinh học trong ngôi nhà

không có gì làm nảy sinh nhân tạo hoan lạc theo

nhiều cách thức.

Các nhà yoga ấy, từ cơn ngất đau buồn, vì đã trượt

khỏi chỗ hạnh phúc tuyệt vời, bị dụ dỗ vào trong tật

xấu.

Nếu bạn tưởng tượng quá nhiều, bạn sẽ làm mất chỗ

hạnh phúc tuyệt vời của mình. Tưởng tượng là luân hồi,

tưởng tượng là mơ mộng của bạn. Nếu bạn mơ mộng quá

nhiều, bạn sẽ đánh mất chỗ hạnh phúc tuyệt vời của mình,

bạn sẽ đánh mất điều thần thánh, bạn sẽ không thể là con

người có ý thức được. Tưởng tượng sẽ tác động tới bạn, nó

sẽ đè nặng bạn, bạn sẽ bị lạc trong tưởng tượng. Bạn có thể

ngất ngây trong tưởng tượng và bạn có thể nghĩ rằng đấy là

samadhi. Có những người ngất ngây và rồi họ nghĩ họ đang

trong samadhi. Phật đã gọi samadhi đó là 'samadhi giả’.

Cho nên Saraha nói: Đấy là samadhi giả. Hình dung về

Thượng đế, đi vào trong tưởng tượng của bạn, nuôi dưỡng

tưởng tượng của bạn, vun đắp cho nó ngày một nhiều,

tưởng tượng thêm nữa - bạn sẽ ngất ngây, bạn sẽ mất mọi ý

thức; bạn sẽ có những mơ mộng đẹp do chính bạn tạo ra.

Nhưng đấy là sa ngã từ chỗ hạnh phúc tuyệt vời. Và

Saraha nói rằng đấy là tật xấu duy nhất: sa ngã khỏi thuần

khiết của nhận biết của bạn. Ông ấy định nói gì về 'chỗ

hạnh phúc tuyệt vời'? Đấy là chỗ không có mơ mộng. Mơ

mộng là thế giới này; không mơ mộng bạn trong niết bàn.

Như một brahmin, người với cơm và bơ

tạo ra vật thiêu cúng tế trong ngọn lửa sáng chói,

tạo ra bình nước cam lồ từ chỗ hạnh phúc tuyệt vời,

coi điều này, qua suy nghĩ ước ao là điều tối thượng.

Ở Ấn Độ, người brahmin đã từng làm yagnas. Họ đã

từng cúng dường cơm và bơ cho ngọn lửa, ngọn lửa chói

sáng, và tưởng tượng rằng đồ cúng dường này dâng cho

Thượng đế. Ngồi quanh ngọn lửa, nhịn ăn nhiều ngày, thực

hiện một số nghi lễ, một số mật chú, lặp lại một số kinh

sách, bạn có thể tạo ra trạng thái tự thôi miên. Bạn có thể tự

dối mình và bạn có thể nghĩ rằng bạn đang đạt tới Thượng

đế.

Saraha nói: Những người thực sự muốn đi vào Thượng

đế, họ sẽ phải đốt lên ngọn lửa bên trong của mình; ngọn

lửa bên ngoài chẳng có tác dụng. Và những người thực sự

muốn đạt tới, họ sẽ phải thiêu đốt hạt mầm ham muốn riêng

của mình; gạo chẳng có tác dụng. Và những người thực sự

muốn đạt tới, họ sẽ phải thiêu đốt bản ngã của mình; bơ

chẳng có tác dụng gì. Bơ chỉ là phần tinh tuý nhất của sữa,

phần được làm thuần khiết nhất của sữa. Cũng vậy bản ngã

là giấc mơ được làm thuần khiết nhất; nó là ghee, bơ thuần

khiết. Cúng dường ghee cho ngọn lửa chẳng ích gì. Bạn

phải đốt lên ngọn lửa bên trong của mình.

Và năng lượng dục đi lên trở thành lửa, nó trở thành

ngọn lửa. Nó là lửa! Ngay cả khi nó đi ra ngoài thì nó cũng

đem sự sinh nở cho cuộc đời; năng lượng dục là điều kì

diệu nhất. Chính qua năng lượng dục mà cuộc sống được

sinh ra. Cuộc sống là lửa, nó là chức năng của lửa; không

có lửa cuộc sống không thể tồn tại. Không có mặt trời sẽ

không có cây cối, không con người, không chim chóc,

không muông thú. Nó là ngọn lửa đã được biến đổi để trở

thành cuộc sống.

Trong khi làm tình với người đàn bà, ngọn lửa đi ra.

Trong khi chuyển vào trong, ngọn lửa đi vào trong. Và khi

bạn ném những hạt mầm ham muốn, hạt mầm ý nghĩ, hạt

mầm tham vọng, hạt mầm tham lam vào trong ngọn lửa

này, chúng bị đốt cháy. Và thế rồi, cuối cùng bạn ném bản

ngã của mình - giấc mơ thuần khiết nhất; cái đó nữa cũng

bị thiêu cháy. Đây mới thực là yagna, nghi lễ thực, hi sinh

thực.

Như một brahmin, người với cơm và bơ

tạo ra vật thiêu cúng tế trong ngọn lửa sáng chói,

tạo ra bình nước cam lồ từ chỗ hạnh phúc tuyệt vời,

coi điều này, qua suy nghĩ ước ao là điều tối thượng.

Và người đó nghĩ, thông qua suy nghĩ ước ao, rằng đây

là điều tối thượng. Người đàn ông đang làm tình với người

đàn bà và nghĩ rằng đấy là điều tối thượng thì chính là đang

ném vào ngọn lửa bên ngoài theo đúng cùng cách thức;

người đó đang rót cái gì đó ra ngoài. Và người đàn bà cũng

vậy, người nghĩ cô ta đang làm tình hay đang đi vào chỗ

phúc lạc và ích lợi lớn lao chỉ bởi việc làm tình với người

đàn ông, chính là đang ném ngọn lửa của cô ta ra.

Ngọn lửa phải chuyển vào trong, thế thì nó cho bạn tái

sinh, nó làm trẻ lại bạn.

Một số người đã nhóm lên sức nóng bên trong

và nâng nó lên đỉnh đầu,

lấy lưỡi mơn trớn cuống họng theo kiểu giao hoan

và lầm điều trói buộc với cái đem lại giải thoát,

vẫn tự hào tự gọi mình là nhà yoga.

Và một điều rất quan trọng... Giống như tôi đã giải

thích cho bạn về bản đồ, bạn phải nhớ rằng vishuddha, luân

xa thứ năm, là ở cổ họng. Vishuddha, luân xa cổ họng, là

điểm cuối cùng từ đó bạn có thể rơi trở lại. Cho tới điểm đó

vẫn còn có khả năng rơi trở lại. Khi đạt tới luân xa thứ sáu,

con mắt thứ ba, không còn khả năng rơi trở lại nữa. Bạn đã

vượt ra ngoài điểm mà người ta có thể quay lại được. Điểm

không quay lại nữa là con mắt thứ ba. Nếu bạn chết tại

trung tâm con mắt thứ ba, bạn sẽ được sinh ra tại trung tâm

con mắt thứ ba. Nếu bạn chết tại sahasrar, bạn sẽ không

được sinh ra nữa. Nhưng nếu bạn chết tại vishuddha, bạn sẽ

trượt trở lại luân xa thứ nhất, muladhar. Trong kiếp sau bạn

sẽ phải bắt đầu lại từ muladhar.

Cho nên đến luân xa thứ năm vẫn còn không chắc

chắn; có hứa hẹn, nhưng không chắc chắn. Cho tới luân xa

thứ năm có mọi khả năng rơi trở lại. Và một trong những

khả năng lớn nhất đã giúp cho nhiều người ở Ấn Độ rơi trở

lại là bởi vì, theo lời kinh này nói:

Một số người đã nhóm lên sức nóng bên trong

và nâng nó lên đỉnh đầu,

Bạn có thể tạo ra sức nóng bên trong - ngọn lửa bắt đầu

chuyển lên và nó tới cổ họng; thế thì nảy sinh ham muốn

lớn mơn trớn họng bằng lưỡi. Nhận biết về điều đó đi. Ở

Ấn Độ người ta đã phát minh ra một kĩ thuật lớn để mơn

trớn nó bằng lưỡi. Họ thậm chí còn cắt cuống lưỡi để cho

lưỡi dài hơn và có thể dễ dàng chuyển lùi vào trong - bạn sẽ

thấy nhiều nhà yoga làm điều đó. Lưỡi có thể chuyển lùi

vào trong và nó có thể mơn trớn trung tâm thứ năm. Việc

mơn trớn đó là một loại thủ dâm bởi vì năng lượng dục đã

lên đến đó.

Như tôi đã nói với bạn, trung tâm thứ năm, vishuddha,

là nam tính. Khi năng lượng nam tính lên đến cổ họng thì

họng bạn trở thành gần như cơ quan sinh dục - có cao cấp

hơn, có tinh vi hơn cơ quan sinh dục thường. Chỉ cần một

chút mơn trớn bằng lưỡi và bạn rất khoái cảm. Nhưng đó là

thủ dâm, và một khi bạn bắt đầu làm điều ấy... và nó tạo ra

rất, rất nhiều hoan lạc thì dục không sao so sánh được với

nó. Nhớ điều ấy: dục chẳng là cái gì khi so sánh với nó.

Mơn trớn bằng lưỡi bạn... bạn có thể thích thú lắm lắm.

Cho nên trong Yoga có những phương pháp...

Saraha làm điều này rõ ràng mà chưa người mật tông

nào làm được như thế. Đấy là lừa dối và là sai lầm lớn bởi

vì năng lượng đã lên tới trung tâm thứ năm, và bây giờ ham

muốn lại nảy sinh để mơn trớn nó - đó là ham muốn cuối

cùng. Nếu bạn có thể giữ cho mình tỉnh táo và có thể vượt

ra ngoài ham muốn đó, bạn sẽ đạt tới trung tâm thứ sáu,

ayga; bằng không, bạn sẽ bắt đầu rơi trở lại. Đấy là quyến

rũ cuối cùng. Trong thực tế, trong Mật tông đấy là quyến rũ

mà bạn có thể nói rằng Jesus gặp khi quỉ Satan đến và

quyến rũ ông ấy, hay Phật đã gặp khi ma vương đến quyến

rũ ông ấy. Đây là quyến rũ cuối cùng, nỗ lực cuối cùng của

tâm trí-ham muốn của bạn, nỗ lực cuối cùng của thế giới

mơ mộng của bạn, nỗ lực cuối cùng của bản ngã trước khi

bị mất hoàn toàn. Nó tạo ra nỗ lực cuối cùng để quyến rũ

bạn. Và quyến rũ này thực sự lớn: rất khó tránh được nó.

Nó hoan lạc làm sao, còn hoan lạc hơn vô hạn lần so với

hoan lạc dục.

Khi người ta nghĩ rằng hoan lạc dục là tối thượng, làm

sao nói được về hoan lạc này? Mà nó chẳng mất năng

lượng gì. Trong dục bạn phải mất năng lượng; bạn cảm

thấy chán nản, mệt mỏi, yếu đi. Nhưng nếu bạn mơn trớn

năng lượng dục khi nó lên đến cổ họng thì chẳng mất năng

lượng gì. Và bạn có thể liên tục mơn trớn cả ngày - đó là

điều Delgado đã đạt tới qua những thiết bị máy móc.

Một số người đã nhóm lên sức nóng bên trong

và nâng nó lên đỉnh đầu,

lấy lưỡi mơn trớn cuống họng theo kiểu giao hoan

và lầm điều trói buộc với cái đem lại giải thoát...

Đây lại là luân hồi... rơi lại trong luân hồi.

...và lầm điều trói buộc với cái đem lại giải thoát,

vẫn tự hào tự gọi mình là nhà yoga.

Nhưng họ không phải là nhà yoga, họ đã lỡ. Trong thực

tế từ đúng dành cho họ là yogabrashta, giả yoga, 'người đã

sa ngã từ Yoga'.

Trung tâm thứ năm là trung tâm nguy hiểm nhất. Bạn

không thể mơn trớn bất kì trung tâm nào khác - đó là nguy

hiểm của nó. Bạn không thể mơn trớn swadhishthan, bạn

không thể mơn trớn manipura, bạn không thể mơn trớn

anahata; chúng ở bên ngoài bạn, không có cách nào đạt tới

chúng và mơn trớn chúng. Bạn không thể mơn trớn con

mắt thứ ba. Điểm duy nhất có thể mơn trớn được là

vishuddha, trung tâm cổ họng, bởi vì nó có sẵn. Miệng mở,

nó có sẵn và cách dễ nhất là quay lưỡi lùi vào và mơn trớn

nó. Trong các luận thuyết Yoga bạn sẽ thấy nó được mô tả

như cái gì lớn lao; không phải vậy đâu, nhận biết về nó đi.

Đây là bản đồ bên trong của thuật luyện kim đan Mật

tông. Năng lượng có thể bắt đầu chuyển vận bất kì lúc nào;

bạn chỉ phải đem vào việc làm tình của mình một chút

thiền, một chút hướng nội. Mật tông không chống lại làm

tình, nhớ lấy; cứ để cho việc đó được lặp đi lặp lại. Mật

tông ủng hộ việc đó, nhưng cũng không chỉ ủng hộ nó; đó

mới chỉ là bậc đầu tiên của chiếc thang, chiếc thang có bảy

bậc.

Con người là chiếc thang. Bậc thang đầu tiên là dục và

bậc thang thứ bảy là sahasrar - samadhi. Bậc đầu tiên gắn

bạn với luân hồi, với thế giới, còn bậc thang thứ bảy nối

bạn với niết bàn, với cõi bên kia. Với bậc thang đầu tiên,

bạn chuyển vào vòng sinh tử luẩn quẩn lặp đi lặp lại; nó cứ

thế lặp. Với bậc thang thứ bảy, bạn vượt ra ngoài sinh tử.

Cuộc sống vĩnh hằng là của bạn - vương quốc của Thượng

đế.

Đủ cho hôm nay.

************************************************************

#2 Tự do có giá trị hơn

Điều gì xảy ra cho tình yêu nếu không ai

thừa nhận nó?

Thầy là ai nếu không có đệ tử?

Tôi không đi đâu cả.

Tại sao lại phải cần tới bản đồ?

Đang ở đây bây giờ chẳng đủ sao?

Tôi yêu chồng nhưng ghét dục.

Dục có phải là thú tính không?

'Đừng hỏi,

hãy tự tìm lấy chính mình.'

Tiếng nói này từ đâu tới?

#2Câu hỏi thứ nhất:

Osho kính yêu, tình yêu trong tôi phụ thuộc

vào thế giới bên ngoài. Đồng thời tôi thấy

điều thầy nói về việc phải hoàn toàn ở bên

trong. Điều gì xảy ra cho tình yêu nếu không

có gì và không có ai thừa nhận và nếm trải

nó? Thầy là ai nếu không có đệ tử?

Điều đầu tiên: Có hai loại tình yêu... C.S. Lewis đã chia

tình yêu thành hai loại: "tình yêu-nhu cầu" và "tình yêu-ban

tặng". Abraham Maslow cũng chia tình yêu thành hai loại.

Loại thứ nhất ông ấy gọi là "tình yêu-khiếm khuyết" và loại

thứ hai ông ấy gọi là "tình yêu-hiện hữu". Phân biệt này là

có ý nghĩa và cần phải được hiểu.

Tình yêu-nhu cầu hay tình yêu-khiếm khuyết phụ thuộc

vào người khác; nó là tình yêu non nớt. Trong thực tế nó

không phải là tình yêu thực sự, nó là nhu cầu. Bạn sử dụng

người khác, bạn dùng người khác như phương tiện; bạn

khai thác, bạn thao túng, bạn chi phối. Nhưng người khác

bị thu lại, người khác gần như bị phá huỷ. Và đích xác cũng

điều này được người kia thực hiện. Người đó cố gắng thao

túng bạn, chi phối bạn, sở hữu bạn, sử dụng bạn. Việc dùng

người khác thật là điều rất phi tình nghĩa, cho nên nó chỉ có

vẻ giống tình yêu; nó là đồng tiền giả. Nhưng đây là điều

xảy ra cho gần chín mươi chín phần trăm mọi người, bởi vì

bài học đầu tiên về tình yêu mà bạn học được là trong tuổi

thơ của mình.

Đứa trẻ được sinh ra, nó phụ thuộc vào người mẹ. Tình

yêu của nó hướng về người mẹ là tình yêu-khiếm khuyết:

nó cần người mẹ, nó không thể tồn tại nếu không có mẹ.

Nó yêu mẹ bởi vì mẹ là cuộc sống của nó. Trong thực tế,

không có tình yêu, nó sẽ yêu bất kì người đàn bà nào - bất

kì ai bảo vệ nó, bất kì ai giúp nó tồn tại, bất kì ai đáp ứng

cho nhu cầu của nó. Người mẹ là một loại thức ăn mà nó

ăn. Nó không chỉ nhận sữa từ người mẹ, nó còn nhận cả

tình yêu nữa - và đó cũng là một nhu cầu.

Hàng triệu người vẫn còn ngây thơ trong các kiếp sống

của mình, họ chưa bao giờ trưởng thành. Họ lớn về tuổi tác,

nhưng họ chẳng bao giờ trưởng thành trong tâm trí mình;

tâm lí của họ vẫn còn hoang sơ, chưa chín chắn. Họ bao giờ

cũng cần tình yêu, họ khao khát tình yêu như thức ăn.

Con người trở nên chín chắn vào lúc người đó bắt đầu

yêu thay vì cần. Người đó bắt đầu tràn trề, chia sẻ; người

đó bắt đầu cho. Nhấn mạnh là hoàn toàn khác biệt. Với loại

tình yêu đầu, nhấn mạnh nhằm vào cách để được nhiều

hơn. Với loại tình yêu thứ hai, nhấn mạnh nhằm vào cách

cho - làm sao cho nhiều hơn và làm sao cho không điều

kiện. Đây là trưởng thành, chín chắn, xảy đến cho bạn.

Người chín chắn cho. Chỉ người chín chắn mới có thể

cho được, bởi vì chỉ người chín chắn mới có điều đó. Thế

thì tình yêu là không phụ thuộc, thế thì bạn có thể yêu dù

có người kia hay không. Thế thì tình yêu không phải là

quan hệ, nó là trạng thái.

Điều gì sẽ xảy ra nếu mọi đệ tử biến mất và chỉ còn

mình tôi ở đây? Bạn nghĩ sẽ có gì thay đổi ư? Điều gì xảy

ra khi một bông hoa nở trong rừng sâu mà không có ai tán

thưởng nó, không ai biết đến hương thơm của nó, không ai

buông ra lời bình luận và nói "đẹp lắm"; không ai thưởng

thức cái đẹp của nó, vui vẻ của nó, không ai chia sẻ - điều

gì xảy ra cho bông hoa đó? Nó chết ư? Nó đau khổ ư? Nó

trở nên hoang mang ư? Nó tự tử ư? Nó vẫn tiếp tục nở hoa

đấy, nó đơn giản cứ nở hoa. Nó đâu có phân biệt gì; dù có

ai đó đi qua hay không cũng chẳng can hệ gì. Nó vẫn cứ lan

toả hương thơm theo gió, nó cứ cúng dường vui vẻ của

mình cho Thượng đế, cho cái toàn thể.

Nếu tôi một mình, thế nữa tôi cũng sẽ yêu như khi tôi

đang ở cùng bạn. Không phải bạn là người tạo ra tình yêu

của tôi. Nếu bạn tạo ra tình yêu của tôi thì một cách tự

nhiên, khi bạn ra đi, tình yêu của tôi cũng sẽ ra đi. Bạn

không kéo tình yêu của tôi ra mà tôi đang trút nó lên bạn:

đó là tình yêu ban tặng, đó là tình yêu hiện hữu.

Và tôi cũng không thực sự đồng ý với C.S. Lewis và

Abraham Maslow bởi vì tình yêu đầu tiên mà họ gọi là

"tình yêu" thì lại không phải là tình yêu, nó là nhu cầu.

Làm sao nhu cầu lại có thể là tình yêu được? Tình yêu là

thứ xa hoa. Nó là thừa thãi, nó có nhiều cuộc sống đến độ

bạn không biết phải làm gì với nó, cho nên bạn chia sẻ. Nó

có nhiều bài ca trong lòng bạn đến mức bạn phải hát chúng

lên; dù có ai lắng nghe hay không cũng chẳng quan hệ gì.

Nếu không ai nghe, thế thì bạn cũng vẫn cứ phải hát nó,

bạn vẫn cứ phải nhảy điệu vũ của mình.

Người khác có thể được nó, người khác có thể bỏ lỡ nó,

nhưng khi có liên quan tới bạn thì nó vẫn tuôn chảy, nó vẫn

tràn ngập. Dòng sông đâu chảy vì bạn, chúng vẫn chảy dù

bạn có đó hay không. Chúng không chảy vì cơn khát của

bạn, chúng không chảy vì cánh đồng khô hạn của bạn;

chúng đơn giản chảy ở đó. Bạn có thể làm dịu cơn khát của

mình, bạn có thể lỡ, điều đó tuỳ vào bạn. Dòng sông không

thực sự chảy vì bạn, dòng sông chỉ chảy thôi. Ngẫu nhiên

bạn có thể lấy nước tưới cho cánh đồng, ngẫu nhiên bạn có

thể lấy được nước cho nhu cầu của mình.

Thầy là dòng sông, đệ tử là ngẫu nhiên. Thầy tuôn

chảy; bạn có thể dự phần, bạn có thể tận hưởng, bạn có thể

chia sẻ hiện hữu của thầy. Bạn có thể được tràn ngập bởi

thầy, nhưng thầy không dành cho bạn; thầy không tuôn

chảy cho bạn nói riêng, thầy đơn giản tuôn chảy. Nhớ lấy

điều này. Và điều này tôi gọi là tình yêu chín chắn, tình yêu

thực sự, tình yêu đích thực, tình yêu đúng đắn.

Khi bạn phụ thuộc vào người khác, bao giờ cũng khổ.

Khoảnh khắc bạn phụ thuộc, bạn bắt đầu cảm thấy khổ, bởi

vì phụ thuộc là nô lệ. Thế rồi bạn bắt đầu trả thù theo cách

tinh tế, bởi vì người bạn phải phụ thuộc vào đã trở thành có

quyền trên bạn. Không ai thích bất kì ai có quyền trên

mình, không ai muốn bị phụ thuộc, bởi vì phụ thuộc giết

chết tự do. Và tình yêu không thể nở hoa trong phụ thuộc

được, tình yêu là hoa của tự do; nó cần không gian, nó cần

không gian tuyệt đối. Người khác phải không được can

thiệp vào đó. Đấy là điều rất tế nhị.

Khi bạn phụ thuộc, chắc chắn người kia sẽ chi phối

bạn, và bạn sẽ cố chi phối người kia. Đó là tranh đấu cứ

diễn ra giữa cái gọi là những người yêu nhau: họ là những

kẻ thù thân thiết, liên tục đánh nhau. Chồng và vợ - họ

đang làm gì? Yêu thương rất hiếm hoi, đánh nhau là qui

tắc; yêu thương là ngoại lệ. Và họ cố chi phối nhau bằng đủ

mọi cách; ngay cả qua tình yêu họ cũng cố chi phối. Nếu

chồng đòi hỏi vợ, vợ từ chối, cô ấy bị miễn cưỡng, cô ấy rất

khổ sở. Cô ấy cho, nhưng rất miễn cưỡng; cô ấy muốn bạn

vẫy đuôi quanh cô ấy. Và điều cũng tương tự xảy ra cho

chồng. Khi vợ thấy cần và đòi hỏi chồng, chồng nói rằng

anh ta mệt. Có quá nhiều việc ở văn phòng - "thực sự quá

tải" - và anh ta muốn đi ngủ.

Tôi đã đọc bức thư do Mulla Nasruddin viết cho vợ.

Nghe xem...

Gửi người vợ yêu mến vô cùng của anh,

Trong năm qua anh đã thử làm tình với em 365 lần,

trung bình một lần một ngày, và sau đây là danh sách các lí

do em nêu ra để bác bỏ anh:

Sai tuần, 11 lần

Làm trẻ con thức giấc, 7 lần

Trời nóng quá, 15 lần

Trời lạnh quá, 3 lần

Quá mệt, 19 lần

Quá muộn, 16 lần

Quá sớm, 9 lần

Giả vờ ngủ, 33 lần

Cửa sổ mở, hàng xóm có thể nghe thấy, 3 lần

Đau lưng, 16 lần

Đau răng, 2 lần

Đau đầu, 6 lần

Không trong tâm trạng, 31 lần

Trẻ con quấy, có thể khóc, 18 lần

Xem phim muộn, 15 lần

Bùn bẩn, 8 lần

Mỡ trên mặt, 4 lần

Quá say, 7 lần

Quên đến hiệu hoá dược, 10 lần

Khách thăm ngủ phòng bên, 7 lần

Tóc mới làm, 28 lần

"Đấy là tất cả những gì anh nghĩ tới ư?", 62 lần

Em thân yêu, em có nghĩ rằng chúng ta có thể cải thiện

bản danh sách này cho năm sau không?

Chồng thân yêu của em,

Mulla Nasruddin

Có nhiều cách thao túng, nhiều cách làm cho người

khác phải khao khát - để làm cho người đó càng ngày càng

đói hơn đến mức người đó trở thành ngày càng bị phụ

thuộc.

Một cách tự nhiên, đàn bà thường có khả năng ngoại

giao về phụ thuộc này hơn đàn ông, bởi vì đàn ông vốn đã

có quyền. Anh ta không cần tìm những cách thức tinh tế và

tinh ranh để có quyền, anh ta đã có quyền rồi. Anh ta quản

lí tiền bạc - đó là quyền của anh ta. Anh ta khoẻ hơn về sức

vóc - đó là quyền của anh ta. Suốt trong nhiều thế kỉ anh ta

đã huấn luyện tâm trí của đàn bà rằng anh ta có quyền hơn

và cô ấy không có quyền. Trong mọi cách thức anh ta bao

giờ cũng cố tìm ra người đàn bà bao giờ cũng kém hơn anh

ta. Đàn ông không muốn lấy đàn bà có giáo dục hơn anh ta,

bởi vì thế thì quyền lực bị lâm nguy. Anh ta không muốn

lấy đàn bà cao hơn mình, bởi vì đàn bà cao có vẻ hơn anh

ta. Đàn ông không muốn lấy đàn bà quá nhiều trí tuệ, vì thế

thì cô ấy sẽ tranh cãi, và luận cứ thì có thể phá huỷ quyền

lực. Đàn ông không muốn lấy đàn bà rất nổi tiếng, vì thế thì

anh ta sẽ trở thành thứ yếu. Và suốt trong nhiều thế kỉ đàn

ông bao giờ cũng tìm đàn bà trẻ hơn anh ta. Tại sao? - tại

sao vợ không thể già hơn bạn? Cái gì sai đây? Nhưng

người đàn bà già hơn bạn sẽ nhiều kinh nghiệm hơn; điều

đó phá huỷ quyền thế.

Cho nên đàn ông bao giờ cũng đi tìm đàn bà kém hơn,

kém hơn theo mọi cách. Đó là lí do tại sao đàn bà bị mất

chiều cao. Không có lí do nào cho họ để phải thấp bé hơn

đàn ông, không có một chút lí do nào cả; họ phải mất chiều

cao chỉ bởi vì đàn bà nhỏ hơn bao giờ cũng được đàn ông

chọn lựa. Dần dà mọi thứ ăn sâu vào tâm trí họ đến mức họ

mất chiều cao. Họ mất cả trí thông minh bởi vì đàn bà

thông minh không được cần tới; đàn bà thông minh là điều

kì dị. Bạn sẽ ngạc nhiên khi biết rằng trong thế kỉ này chiều

cao của họ đang tăng lại. Và bạn sẽ ngạc nhiên ... ngay cả

xương của họ cũng trở nên lớn hơn, bộ khung xương của

họ đang trở nên lớn hơn. Mới chỉ có trong vòng năm chục

năm nay ... đặc biệt là ở Mĩ. Còn trí óc của họ cũng phát

triển và trở nên lớn hơn nó thường thế; xương sọ của họ

đang trở nên to dần ra. Với ý tưởng tự do, ước định sâu sắc

nào đó đã bị phá bỏ.

Đàn ông có quyền cho nên anh ta không cần phải rất

láu lỉnh, không cần phải rất quanh co. Đàn bà không có

quyền. Khi bạn không có quyền, bạn phải ngoại giao hơn -

đó là thay thế. Cách duy nhất họ có thể cảm thấy quyền thế

là họ được cần tới, là ở chỗ đàn ông liên tục cần họ. Đây

không phải là tình yêu, đây là mặc cả. Và họ vẫn đang liên

tục mặc cả về giá, đấy liên tục là cuộc vật lộn.

C.S. Lewis và Abraham Maslow chia tình yêu ra làm

hai. Tôi không chia thành hai. Tôi nói rằng loại thứ nhất chỉ

là cái tên, đồng tiền giả, nó không phải thực. Chỉ có loại

tình yêu thứ hai mới là tình yêu.

Tình yêu xảy ra chỉ khi bạn chín chắn. Bạn trở nên có

khả năng yêu chỉ khi bạn là người trưởng thành. Khi bạn

biết rằng tình yêu không phải là nhu cầu mà là sự tràn ngập

- tình yêu hiện hữu hay tình yêu ban tặng - thế thì bạn cho

vô điều kiện.

Loại thứ nhất, cái gọi là tình yêu, bắt nguồn từ nhu cầu

sâu xa của con người cần tới người khác, trong khi tình yêu

ban tặng hay tình yêu hiện hữu, thì tuôn chảy hay tràn ngập

từ người chín chắn sang người khác do thừa thãi; người ta

bị ngập lụt với nó. Bạn có nó và nó bắt đầu chuyển vận

xung quanh bạn, giống như khi bạn thắp sáng ngọn đèn,

các tia sáng bắt đầu lan toả vào trong bóng tối. Tình yêu là

sản phẩm phụ của hiện hữu. Khi bạn hiện hữu, bạn có hào

quanh của tình yêu quanh mình; khi bạn không hiện hữu,

bạn không có hào quang đó quanh mình. Và khi bạn không

có hào quang đó quanh mình, bạn xin người khác cho bạn

tình yêu.

Chúng ta nhắc lại điều đó: Khi bạn không có tình yêu,

bạn phải yêu cầu người khác đem nó cho bạn, bạn là kẻ ăn

mày. Và người kia cũng đang yêu cầu bạn đem nó đến cho

người đó. Bây giờ, hai kẻ ăn mày chìa tay ra cho nhau, cả

hai đều hi vọng rằng người kia có nó... lẽ tự nhiên cả hai

cuối cùng đều cảm thấy tiêu tan hi vọng và cả hai đều cảm

thấy bị lừa.

Bạn có thể hỏi bất kì người chồng và bất kì người vợ

nào, bạn có thể hỏi bất kì người yêu nào, cả hai người đều

cảm thấy bị lừa. Chính phóng chiếu của bạn là ở chỗ cho

rằng người kia có nó. Nếu bạn có phóng chiếu sai lầm,

người kia có thể làm gì được về điều đó? Phóng chiếu của

bạn đã bị tan vỡ; người kia tỏ ra không theo phóng chiếu

của bạn; có thế thôi. Nhưng người kia không có nghĩa vụ

phải chứng tỏ bản thể mình theo trông đợi của bạn.

Còn bạn đã lừa người kia ... đó là cảm giác của người

kia, bởi vì người kia đang hi vọng rằng tình yêu sẽ tuôn

chảy từ bạn. Các bạn cả hai đều hi vọng tình yêu sẽ tuôn

chảy từ người kia, và cả hai lại trống rỗng. Làm sao tình

yêu có thể xảy ra được? Nhiều nhất các bạn có thể cùng

khổ với nhau. Trước đây bạn đã quen khổ một mình, tách

biệt; nay bạn có thể cùng nhau khổ. Và nhớ, bất kì khi nào

hai người cùng khổ với nhau, đấy không phải là phép cộng

đơn giản, đấy là phép nhân.

Một mình bạn cảm thấy nản lòng, bây giờ bạn cảm thấy

cùng nản lòng. Một điều tốt về nó là: bây giờ bạn có thể

trút trách nhiệm vào người kia - rằng người kia gây ra khổ

cho bạn. Đấy là một điểm tốt. Bạn có thể cảm thấy dễ chịu,

rằng "Chẳng có gì sai với mình cả... tại người kia... Phải

làm gì với mụ vợ như vậy - cáu kỉnh, càu nhàu?" Người ta

phải bị khổ. "Phải làm gì với lão chồng như thế? - xấu xí,

keo kiệt" Bây giờ bạn có thể trút trách nhiệm lên người kia;

bạn đã tìm ra cái bung xung. Nhưng khổ vẫn còn, lại nhân

lên nữa.

Bây giờ đây là ngược đời: người đã từng yêu chẳng còn

tình yêu gì nữa, đó là lí do tại sao họ lại yêu nhau. Và bởi

vì họ không còn tình yêu nữa nên họ không thể cho được.

Thêm một điều nữa: người chưa chín chắn bao giờ cũng

yêu người chưa chín chắn khác, bởi vì chỉ họ mới có thể

hiểu được ngôn ngữ của nhau. Người chín chắn yêu người

chín chắn, người chưa chín chắn yêu người chưa chín chắn.

Bạn có thể tiếp tục đổi chồng hay vợ mình cả nghìn lẻ

một lần, nhưng bạn sẽ lại tìm thấy cùng kiểu đàn bà và

cùng nỗi khổ: được lặp lại dưới những dạng khác, nhưng

vẫn cùng nỗi khổ được lặp lại - bao giờ cũng gần như nhau.

Bạn có thể đổi vợ, nhưng bạn đâu có thay đổi. Bây giờ ai

định chọn người vợ khác đây? Bạn sẽ chọn. Chọn lựa sẽ lại

nảy sinh từ chưa chín chắn của bạn. Bạn sẽ chọn kiểu đàn

bà tương tự lần nữa.

Vấn đề cơ bản của tình yêu là trước hết phải trở nên

chín chắn; thế thì bạn sẽ tìm ra người bạn tình chín chắn,

thế thì những người chưa chín chắn sẽ không hấp dẫn được

bạn chút nào. Sự việc giống hệt thế này. Nếu bạn hai nhăm

tuổi, bạn không thể yêu đứa bé hai tuổi được ... bạn không

thể phải lòng nó được. Đích xác giống như vậy, khi bạn là

người chín chắn về mặt tâm lí, tâm linh, bạn không yêu đứa

bé con. Điều đó không xảy ra, nó không thể xảy ra được.

Bạn có thể thấy rằng điều đó là vô nghĩa.

Trong thực tế người chín chắn không bị đổ vì tình,

người đó đi lên trong tình yêu. Từ đổ không hợp lắm. Chỉ

những người chưa chín chắn mới đổ vì tình, họ loạng

quạng và đổ vì tình. Bằng cách nào đó họ đang xoay xở và

đứng lên. Họ không thể xoay xở và đứng lên được - họ tìm

thấy người đàn bà và rồi họ bị người đó bỏ đi, họ tìm thấy

người đàn ông và rồi họ bị người đó bỏ đi. Họ bao giờ cũng

chỉ chực ngã xuống đất và bò. Họ không có xương sống,

không có trục sống ... họ không có sự toàn vẹn để đứng

riêng một mình.

Người chín chắn có sự toàn vẹn để tồn tại một mình.

Và khi người chín chắn đem cho tình yêu, người đó cho mà

không có điều gì gắn với nó: người đó đơn giản cho. Và khi

người chín chắn cho tình yêu, người đó cảm thấy biết ơn là

bạn đã nhận tình yêu của người đó, không có điều ngược

lại. Người đó không trông đợi bạn phải biết ơn về điều đó -

không, không chút nào, người đó thậm chí còn không cần

đến cả lời cám ơn của bạn. Người đó cám ơn bạn vì bạn đã

chấp nhận tình yêu của người đó.

Và khi hai người chín chắn yêu, một trong những

ngược đời vĩ đại nhất của cuộc sống xảy ra, một trong

những hiện tượng đẹp đẽ nhất xảy ra: họ cùng nhau nhưng

vậy mà cực kì một mình, họ cùng nhau nhiều đến mức họ

gần như là một. Nhưng tính một của họ không phá huỷ tính

cá nhân của họ; trong thực tế, nó lại tôn cao tính cá nhân:

họ trở thành cá nhân nhiều hơn. Hai người chín chắn yêu

nhau sẽ giúp lẫn nhau để trở thành tự do hơn. Không có

chuyện chính trị bên trong, không có ngoại giao, không có

nỗ lực chi phối. Làm sao bạn có thể chi phối người bạn yêu

được? Nghĩ về điều đó mà xem.

Chi phối là một loại ghen ghét, giận dữ, thù hằn. Làm

sao bạn thậm chí có thể nghĩ đến việc chi phối người bạn

yêu? Bạn sẽ thích thấy người này được tự do hoàn toàn,

độc lập hoàn toàn; bạn sẽ cho người ấy nhiều tính cá nhân

hơn. Đó là lí do tại sao tôi gọi nó là điều ngược đời lớn

nhất: họ cùng nhau nhiều đến mức họ gần như là một,

nhưng dầu vậy trong tính một đó họ vẫn là các cá nhân.

Tính cá nhân của họ không bị xoá bỏ đi; chúng đã trở thành

được nâng cao hơn. Người kia đã làm phong phú thêm cho

chúng chừng nào còn có liên quan tới tự do.

Người chưa chín chắn khi yêu đương phá huỷ tự do của

nhau, tạo ra tù túng, làm thành nhà tù. Người chín chắn

trong tình yêu giúp lẫn nhau được tự do; họ giúp lẫn nhau

phá huỷ mọi loại tù túng. Và khi tình yêu tuôn chảy với tự

do, có cái đẹp. Khi tình yêu tuôn chảy với phụ thuộc, có cái

xấu.

Nhớ lấy, tự do có giá trị cao hơn tình yêu. Đó là lí do

tại sao ở Ấn Độ, điều tối thượng chúng ta gọi là moksha.

Moksha nghĩa là tự do. Tự do có giá trị cao hơn tình yêu.

Cho nên nếu tình yêu đang phá huỷ tự do thì nó không có

giá trị. Tình yêu có thể bị vứt bỏ, tự do phải được giữ lấy;

tự do có giá trị cao hơn. Và không có tự do, bạn chẳng bao

giờ hạnh phúc cả, điều đó là không thể được. Tự do là ước

muốn bản năng của từng đàn ông, từng đàn bà - tự do hoàn

toàn, tự do tuyệt đối.

Cho nên bất kì cái gì đưa tới phá huỷ tự do, người ta

đều bắt đầu ghét nó. Bạn không ghét người đàn ông bạn

yêu sao? Bạn không ghét người đàn bà bạn yêu sao? Bạn

có ghét; điều đó là cái xấu cần thiết, bạn phải dung thứ nó.

Vì bạn không thể một mình được nên bạn phải xoay xở để

ở với ai đó, và bạn phải điều chỉnh theo đòi hỏi của người

kia. Bạn phải dung thứ, bạn phải chịu đựng họ.

Tình yêu, là tình yêu thực sự, phải là tình yêu hiện hữu,

tình yêu ban tặng. Tình yêu hiện hữu nghĩa là trạng thái

yêu. Khi bạn đã về tới nhà, khi bạn đã biết mình là ai, tình

yêu nảy sinh trong sự hiện hữu của bạn. Thế thì hương

thơm sẽ toả ra và bạn có thể đem nó cho người khác.

Làm sao bạn có thể đem cho cái gì đó mà bạn không

có?

Để cho được nó, yêu cầu cơ bản đầu tiên là phải có nó.

Bạn hỏi: "Tình yêu trong tôi phụ thuộc vào thế giới bên

ngoài..." Thế thì đấy không phải là tình yêu; hay nếu bạn

muốn chơi chữ như kiểu C.S. Lewis và A.H. Maslow, gọi

nó là tình yêu-nhu cầu, tình yêu-khiếm khuyết. Nó cũng tựa

như việc gọi bệnh tật là bệnh-sức khoẻ - điều ấy là vô

nghĩa, nó mâu thuẫn ngay trong lời nói. Tình yêu-khiếm

khuyết là mâu thuẫn trong lời nói. Nhưng nếu bạn quá gắn

bó với từ tình yêu thì cũng được; bạn có thể gọi nó là tình

yêu-khiếm khuyết hay tình yêu-nhu cầu.

"Đồng thời tôi thấy điều thầy nói về hoàn toàn bên

trong ..."

Không, bạn chưa thể thấy nó được. Bạn nghe tôi, bạn

hiểu điều đó về mặt trí tuệ, nhưng bạn chưa thể thấy được

nó. Trong thực tế tôi đang nói ngôn ngữ này còn bạn hiểu

theo ngôn ngữ khác. Tôi đang hô lên ở bình diện này còn

bạn thì lắng nghe ở bình diện khác. Vâng, tôi đang dùng

cùng những từ như bạn dùng, nhưng tôi không giống bạn

cho nên làm sao tôi có thể cho những từ đó cùng nghĩa như

bạn cho chúng được? Về mặt trí năng bạn có thể hiểu và đó

sẽ là hiểu lầm.

Mọi hiểu biết trí tuệ đều là hiểu lầm.

Tôi kể cho bạn một vài giai thoại.

Một người Pháp đến thăm Ireland vào một toa xe lửa,

trong toa đã có hai người Ireland đều là du khách thương

mại. Một người nói với người kia, "Vừa mới đây anh đã ở

đâu?"

Câu trả lời vọng ra, "Chắc chắn, tôi chẳng vừa mới tới

Kilmary và bây giờ tôi tới Kilpatrick. Còn anh thì sao?"

Người kia trả lời, "Tôi đã tới Kilkenny và Kilmichael

còn bây giờ tôi tới Kilmore."

Người Pháp lắng nghe với sự kinh hoàng. "Toàn bọn

côn đồ giết người!" anh ta nghĩ rồi xuống luôn ga sau.

Bây giờ bạn hãy nghe: Kil-mary (giết mary), Kil-kennt

(giết Kenny), Kil-michael (giết Michael) và Kil-more ((giết

nhiều người nữa). Giết nhiều nữa ... người Pháp phải kinh

hoàng. "Toàn bọn côn đồ giết người!"

Cái gì đó hoàn toàn giống như thế này vẫn cứ xảy ra.

Tôi nói điều gì đó, bạn hiểu điều gì đó khác. Nhưng điều đó

là tự nhiên; tôi không lên án nó, tôi đơn giản làm cho bạn

nhận biết về nó.

Có ba đứa trẻ, một đứa tên là Rắcrối, một đứa tên là

Kiểucách, và đứa kia tên là Lolấyviệccủaông. Người bố là

triết gia cho nên ông ta đặt cho chúng các cái tên rất có ý

nghĩa. Bây giờ ta sẽ thấy rất nguy hiểm khi đặt tên người

bằng các cái tên có nghĩa...

Rắcrối bị lạc, cho nên Kiểucách và Lolấyviệccủaông

tới đồn cảnh sát. Lolấyviệccủaông nói với Kiểucách, "Bây

giờ em đợi ở đây bên ngoài," và nó đi vào đồn.

Bên trong nó nói với viên cảnh sát tại bàn, "Bạn cháu

bị lạc."

Viên cảnh sát nói, "Tên cháu là gì?"

"Lolấyviệccủaông."

"Cháu nói kiểu cách gì thế?" viên cảnh sát nói.

"Ở ngoài trên bậu cửa ấy."

"Cháu định gây rắc rối à?"

"Vâng, chú có thấy nó không?"

Điều này cứ tiếp diễn. Tôi nói rằng chừng nào bạn còn

chưa hoàn toàn bên trong mình, tình yêu sẽ không tuôn

chảy. Tất nhiên bạn hiểu các lời này, nhưng bạn cho những

lời này ý nghĩa riêng của mình. Khi tôi nói, "Chừng nào

bạn còn chưa hoàn toàn bên trong mình ..." tôi không đề

nghị lí thuyết, tôi không triết lí chút nào; tôi đơn giản chỉ ra

sự kiện của cuộc sống. Tôi đang nói: Làm sao bạn có thể

cho được nếu bạn không có? Làm sao bạn có thể tràn ngập

khi bạn trống rỗng? Và tình yêu là sự tràn ngập. Khi bạn có

nhiều hơn bạn cần, chỉ thế thì bạn mới có thể cho; do đó nó

là tình yêu ban tặng.

Làm sao bạn có thể cho món quà khi bạn không có?

Điều này bạn nghe và bạn hiểu, nhưng thế thì vấn đề nảy

sinh bởi vì việc hiểu mới là ở mặt trí tuệ. Nếu nó thấm

nhuần vào bản thể bạn, nếu bạn đã thấy tính sự kiện của nó,

thế thì câu hỏi sẽ không nảy sinh. Thế thì bạn sẽ quên hết

mọi mối quan hệ phụ thuộc của mình và bạn sẽ bắt đầu làm

việc với bản thể riêng của mình: lau sạch, chùi sạch, làm

cho cốt lõi bên trong của bạn được tỉnh táo hơn, nhận biết

hơn; bạn sẽ bắt đầu làm việc theo cách đó. Và bạn càng bắt

đầu cảm thấy rằng bạn đang đi tới sự toàn bộ nào đó thì bạn

sẽ càng thấy rằng tình yêu đang phát triển dần bên cạnh, nó

là sản phẩm phụ.

Tình yêu là vận hành của việc là toàn bộ... thế thì câu

hỏi sẽ không có đó. Nhưng câu hỏi lại có đó, cho nên bạn

chưa thấy được sự kiện. Bạn đã lắng nghe về nó như một lí

thuyết và bạn đã hiểu nó, bạn đã hiểu logic của nó. Việc

hiểu logic là chưa đủ, bạn sẽ phải nếm trải nó nữa.

"Tình yêu trong tôi phụ thuộc vào thế giới bên ngoài.

Đồng thời tôi thấy điều thầy nói về việc phải hoàn toàn ở

bên trong. Điều gì xảy ra cho tình yêu nếu không có gì và

không có ai thừa nhận nó và nếm trải nó?"

Nó không cần được nhận biết: nó không cần thừa nhận,

nó không cần xác nhận, nó không cần ai nếm trải nó. Việc

thừa nhận của người khác chỉ là điều ngẫu nhiên, đấy

không phải là bản chất của tình yêu; tình yêu sẽ cứ tuôn

chảy. Không ai nếm trải nó, không ai thừa nhận nó, không

ai cảm thấy hạnh phúc, thích thú vì nó - tình yêu sẽ cứ tuôn

chảy, bởi vì chính trong tuôn chảy đó bạn cảm thấy cực kì

phúc lạc, bạn cảm thấy cực kì sung sướng.

Chính trong tuôn chảy đó, khi năng lượng của bạn tuôn

chảy... Bạn đang ngồi trong căn phòng rỗng không và năng

lượng đang tuôn chảy và trút đầy căn phòng rỗng không

bằng tình yêu của bạn. Không có ai ở đó cả - bức tường sẽ

không nói "cám ơn bạn" - không ai thừa nhận, không ai

nếm trải nó. Nhưng điều đó không thành vấn đề chút nào.

Năng lượng của bạn toả ra, chảy ra... bạn sẽ cảm thấy hạnh

phúc. Bông hoa thấy hạnh phúc khi hương thơm toả ra theo

gió; dù gió có biết về điều đó hay không thì cũng không

thành vấn đề.

Và bạn hỏi: "Thầy là ai nếu không có đệ tử?"

Tôi vẫn là tôi đây. Dù đệ tử có đó hay không, điều đó

chẳng can hệ gì; tôi không phụ thuộc vào bạn. Và toàn bộ

nỗ lực của tôi ở đây chỉ là để cho bạn cũng có thể trở thành

độc lập với tôi.

Tôi ở đây để đem lại cho bạn tự do. Tôi không muốn áp

đặt bất kì điều gì lên bạn, tôi không muốn làm què quặt bạn

theo bất kì cách nào; tôi muốn bạn chỉ là chính bạn. Rồi

một ngày sẽ xảy ra là bạn độc lập với tôi, bạn sẽ có thể thực

sự yêu tôi - không trước điều đó.

Tôi yêu bạn. Tôi không thể đừng được điều đó. Vấn đề

không phải là liệu tôi có yêu bạn hay không, tôi đơn giản

yêu mến các bạn. Nếu các bạn không có ở đây, thính phòng

Trang Tử này vẫn tràn ngập tình yêu của tôi; không có gì

khác biệt cả. Những cây cối này vẫn đón nhận tình yêu của

tôi, những chim chóc này vẫn cứ đón nhận tình yêu của tôi.

Và cho dù như tất cả mọi cây cối và chim chóc có biến mất

đi, điều đó cũng chẳng tạo ra cái gì khác biệt; tình yêu vẫn

cứ tuôn chảy. Tình yêu hiện hữu, cho nên tình yêu tuôn

chảy.

Tình yêu là năng lượng động, nó không thể tù đọng

được. Nếu ai đó cùng chia sẻ, tốt. Nếu không ai chia sẻ,

điều ấy nữa cũng tốt. Thượng đế đã nói gì với Moses... bạn

có nhớ không? Khi Moses gặp Thượng đế, tất nhiên

Thượng đế trao cho ông ta vài thông điệp để chuyển lại cho

đồng bào của ông ta.

Và Moses là người Do thái thực sự, ông ta đã hỏi,

"Thưa Thượng đế, xin ngài nói cho tôi về tên ngài! Người

dân xứ tôi sẽ hỏi, "Ai trao cho ông những thông điệp này?"

- họ sẽ hỏi tên của Thượng đế. "Cho nên tên của Thượng đế

là gì?"

Và Thượng đế nói, "Ta là cái ta đang là. Ông cứ về gặp

người dân của mình và nói rằng 'Ta là cái ta đang là' nói

như vậy. Đó là thông điệp từ 'Ta là cái ta đang là.'"

Nghe có vẻ vô lí nhưng điều đó cực kì có ý nghĩa: Ta là

cái ta đang là. Thượng đế không có tên, không có định

nghĩa, chỉ là sự hiện hữu.

#2Câu hỏi thứ hai

Osho kính yêu, tôi không đi đâu cả. Tại sao

cần bản đồ? Cứ ở đây bây giờ không đủ rồi

sao?

Vâng, không có mục tiêu và không đâu mà đi cả. Còn

bản đồ thì chẳng cần thiết nếu bạn đã hiểu tôi. Nhưng bạn

đã không hiểu tôi và bản đồ là cần thiết. Và nhu cầu về bản

đồ không phải bởi vì có mục tiêu, không phải là để đi đâu

đó mà bản đồ được cần tới; bản đồ được cần tới bởi vì bạn

đã đi đâu đó và bạn phải quay lại ở đây bây giờ. Nó không

được cần để đi đâu đó, nhưng bạn đã mơ mộng rằng bạn đã

đi đâu đó; bản đồ là cần để quay về nhà. Bạn đã đi lạc

đường, bạn đã đi vào trong tưởng tượng của mình, trong

ham muốn của mình, trong tham vọng của mình; bạn không

nhìn vào bản thân mình. Bản thể bạn đang ở sau lưng bạn

và bạn đang chạy ra xa. Bản đồ là cần thiết để nhìn lại, để

gặp gỡ bản thể bạn, để gặp với chính bạn.

Nhưng nếu bạn hiểu tôi - rằng ở đây và bây giờ là tất cả

những cái đang hiện hữu - bạn có thể đốt bản đồ, bạn có thể

vứt bỏ bản đồ; thế thì bản đồ không còn cần cho bạn nữa.

Với người đã về tới nhà, bản đồ không còn cần thiết nữa.

Nhưng đừng đốt bản đồ chừng nào bạn còn chưa về tới

nhà.

Có bức tranh nổi tiếng về thiền sư đốt kinh phật. Ai đó

hỏi ông ta, "Thưa thầy, thầy đang làm gì vậy? Thầy bao giờ

cũng dạy về các kinh này, thầy bao giờ cũng bình giảng và

suy ngẫm về những kinh này - sao thầy lại đốt chúng đi?

Còn thiền sư cười vang và nói, "Bởi vì ta đã về đến nhà

cho nên không cần tới bản đồ nữa."

Nhưng bạn không nên đốt chúng trừ phi và chừng nào

bạn về đến nhà. Bạn mang bản đồ: nó có nghĩa khi bạn

đang ở xa; khi bạn đã về đến nhà bạn vứt nó đi. Nếu bạn

vứt nó trước khi về tới nhà bạn sẽ gặp nguy hiểm.

Vâng, ở đây và bây giờ còn đầy đủ hơn - không chỉ có

đủ, còn hơn việc đủ - nó là tất cả những cái đang có đó.

Nhưng bạn lại không ở đây bây giờ, cho nên tất cả những

bản đồ này đều cần thiết để đưa bạn về nhà. Bạn chưa đi

đâu thực sự cả, nhưng bạn đang mơ rằng bạn đã đi đâu đó.

Những bản đồ này cũng là những bản đồ mơ. Nhớ lấy,

những bản đồ này đều là những bản đồ mơ; những bản đồ

này đều giả như luân hồi của bạn, như thế giới của bạn.

Bản kinh tối thượng không có lời trong nó. Người Sufi

có một cuốn sách, Sách về các Sách. Nó đơn giản rỗng

không, không một lời được viết trong nó. Suốt trong nhiều

thế kỉ, nó đã được truyền từ bậc thầy nọ sang bậc thầy kia,

truyền tay từ thầy qua đệ tử, và đã được gìn giữ hết sức trân

trọng. Đó là tột đỉnh trong kinh sách. Kinh Veda không hay

được như vậy, Kinh Thánh không hay được đến vậy vì điều

gì đó đã được viết ra ở đó. Cuốn Sách về các Sách thực sự

mang giá trị vô biên, nhưng liệu bạn có đọc được nó

không? Khi lần đầu tiên ở phương Tây người Sufi muốn nó

được xuất bản, không nhà xuất bản nào sẵn sàng in cả. "Cái

gì vậy? Chẳng có gì để xuất bản cả!" họ sẽ nói vậy. "Nó chỉ

là cuốn sách rỗng không. Xuất bản nó để làm gì?"

Tâm trí phương Tây có thể hiểu được lời, mực đen trên

giấy trắng; nó không thể thấy được giấy trắng một cách

trực tiếp. Trang giấy trắng không tồn tại cho tâm trí phương

Tây, chỉ có mực đen. Mây tồn tại cho tâm trí phương Tây,

không có bầu trời: tâm trí tồn tại cho đầu óc phương Tây,

không có tâm thức. Nội dung tồn tại, nhưng họ đã hoàn

toàn quên mất bình chứa.

Ý nghĩ giống như mực đen trên giấy trắng; ý nghĩ chỉ là

thông điệp được viết ra. Khi ý nghĩ biến mất, bạn sẽ trở

thành cuốn Sách về các Sách - rỗng không. Nhưng đó chính

là tiếng nói của Thượng đế.

Bạn nói: "Tôi không đi đâu cả. Tại sao cần bản đồ? Cứ

ở đây bây giờ không đủ sao?"

Chính bởi vì bạn hỏi câu hỏi này mà bạn vẫn còn cần

tới bản đồ: câu hỏi là câu hỏi về bản đồ. Nếu bạn đã hiểu

tôi, không còn câu hỏi nào nữa. Thế thì cái gì có đó để

được hỏi? Bạn có thể hỏi gì về ở đây và bây giờ? Mọi việc

hỏi đều là hỏi về các mục tiêu ở đâu đó khác, lúc khác chỗ

khác.

#2Câu hỏi thứ ba:

Osho kính yêu, tôi đã xây dựng gia đình hai

mươi năm nay thế mà cảm giác "Tại sao cô

ấy không thể nào hiểu nổi?" vẫn cứ có đó.

Và thế rồi tôi chưa bao giờ thấy cô ấy trong

đời mình, và thế rồi tôi lại thấy mình đang

trong tuần trăng mật, và rồi... Tâm trí tôi trở

nên điên rồ!

Tâm trí bao giờ cũng trở nên điên rồ - đó là cách thức

của tâm trí. Tâm trí là một luồng, nó liên tục thay đổi; nó

không là một cho bất kì hai khoảnh khắc kế tiếp nào, mỗi

khoảnh khắc lại một khác. Vâng, khoảnh khắc này bạn cảm

thấy rằng bạn chưa từng gặp vợ mình trong cả cuộc đời,

bạn chưa hề gặp cô ấy, mặc dầu bạn đã sống cùng cô ấy cả

hai mươi năm ròng. Khoảnh khắc khác bạn lại thấy mình

đang trong kì trăng mật - bạn đã thấy vẻ đẹp của cô ấy, vẻ

duyên dáng của cô ấy, vui vẻ, cốt lõi bên trong nhất của cô

ấy - và rồi điều đó trôi qua. Và cảnh trí cứ thay đổi.

Tâm trí rất khó nắm giữ. Nó liên tục không tỉnh táo, nó

không thể dừng lại ở bất kì đâu. Nó không có khả năng

đứng lại; nó là một luồng. Với tâm trí mọi thứ đều giống

thế này: khoảnh khắc này bạn hạnh phúc, khoảnh khắc

khác bạn bất hạnh; khoảnh khắc này bạn vui vẻ thế, khoảnh

khắc khác bạn lại buồn bã thế... nó cứ như thế, bánh xe tâm

trí cứ liên tục chuyển vận. Khoảnh khắc này cái nan hoa

này đang trên đỉnh, khoảnh khắc khác nan hoa khác đã tới

đỉnh, và nó cứ tiếp diễn theo cách này. Đó là lí do tại sao ở

phương Đông chúng ta gọi nó là luân hồi, cái bánh xe. Thế

giới là cái bánh xe, nó cứ chuyển mãi - cùng một bánh xe,

quay mãi, quay mãi và nó không ổn định dù chỉ một

khoảnh khắc.

Nó tựa như cuốn phim: nếu phim dừng một thoáng

chốc, bạn có thể thấy được màn ảnh. Nhưng phim cứ

chuyển cảnh và nó chuyển nhanh đến mức bạn mê mải về

nó, bị bận tâm về nó đến mức bạn không thể thấy được

màn ảnh. Và màn ảnh là thực tại. Hình ảnh được chiếu lên

chỉ là giấc mơ. Tâm trí cứ phóng chiếu.

Tôi đã từng nghe...

Một triệu phú đi vào bưu điện và thấy đôi vợ chồng già

đang đứng tại quầy để rút tiền hưu tuổi già. Ông ta đang

trong tâm trạng phấn khởi; ông ta cảm thấy rất thương hại

cho đôi vợ chồng già và ông ta nghĩ họ đáng được hưởng

một tuần nghỉ ngơi để biết tới vẻ đẹp và vui vẻ cuộc sống...

ông ta đang trong tâm trạng từ thiện. Tiến tới chỗ họ ông

nói, "Hai ông bà có muốn nghỉ một tuần tại khu nhà tôi

không? Tôi sẽ tặng cả hai ông bà một thời gian tuyệt diệu."

Tốt, hai ông bà nhận lời, và thế là triệu phú đưa họ về

ngôi nhà mình trong chiếc xe Roll, và như đã hứa, ông ta

thấy rằng họ đã có một kì nghỉ sung sướng thực sự với đồ

ăn ngon, ti vi mầu và nhiều thứ đồ xa hoa mà họ chưa từng

bao giờ mơ ước có được. Đến cuối tuần ông ta bước vào

thư viện nơi ông già đang tận hưởng thời gian thanh bình

với một cốc rượu và hút xì gà. "Thế nào," ông ta hỏi, "ông

tận hưởng được chứ?"

"Quả là có," ông già đáp. "Nhưng tôi có thể hỏi ông

một điều được không?"

"Tất nhiên rồi," nhà triệu phú trả lời.

"Vậy thì," ông già nói, "người đàn bà già đã ngủ cùng

tôi cả tuần kia là ai vậy?"

Đây là tình huống của những người đã sống với vợ

mình, với chồng mình suốt cuộc đời. Ai là người đàn bà

bạn đã cùng đã ngủ trong suốt hai mươi năm qua? Có

những khoảnh khắc bạn cảm thấy bạn biết. Có những

khoảnh khắc bỗng nhiên có bức Trường thành Trung Quốc,

đen tối, mờ đục - bạn không thể thấy được cái gì, bạn

không biết người xa lạ này ở đây là ai cả.

Mọi hiểu biết của chúng ta đều hời hợt; chúng ta vẫn

còn là những người xa lạ. Bạn có thể ngủ với người đàn bà

trong suốt hai mươi năm - điều đó cũng chẳng gây khác

biệt gì lắm, các bạn vẫn còn là những người xa lạ. Và lí do

là ở chỗ bạn thậm chí không biết đến cả bản thân mình, làm

sao bạn có thể biết về người khác được? Đấy là điều không

thể được, bạn hi vọng vào điều không thể được. Bạn thậm

chí không biết về chính mình! Bạn không biết người mà

bạn đang là và bạn đã ở đây trong sự tồn tại từ vĩnh hằng.

Hàng triệu kiếp bạn đã từng ở đây mà bạn vẫn không biết

bạn là ai, vậy thì nói gì về hai mươi năm?

Và làm sao bạn có thể biết về người kia, người đàn bà

thật xa xôi với bạn? Bạn không thể đi vào trong giấc mơ

của cô ấy, bạn không thể đi vào trong ý nghĩ của cô ấy, bạn

không thể đi vào trong ham muốn của cô ấy - làm sao bạn

có thể biết về bản thể cô ấy? Thậm chí giấc mơ bạn cũng

không thể biết được. Bạn có thể ngủ cùng con người đàn bà

đó trong hai mươi năm nhưng cô ấy mơ giấc mơ của cô ấy,

bạn mơ giấc mơ của bạn; tính chủ quan của các bạn vẫn

còn là các thế giới tách biệt.

Ngay cả khi bạn làm tình với người đàn bà và ôm cô ấy

trong vòng tay, liệu bạn có thật sự ôm người đàn bà đang

có đó hay là bạn đang ôm giữ chỉ một tưởng tượng, một

phóng chiếu, một bóng hình? Bạn có thật sự ôm giữ người

đàn bà thật trong vòng tay mình hay chỉ là một hình ảnh

tâm trí, một bóng ma? Bạn có yêu người đàn bà hiện đang

có đó, hay bạn có ý tưởng nào đó rằng bạn yêu và bạn tìm

những ý tưởng ấy được phản ánh trong người đàn bà này?

Khi có hai người trên giường, cảm giác của tôi là bao giờ

cũng có bốn người: hai bóng ma nằm ngay giữa hai người -

sự phóng chiếu của người đàn bà về người chồng và sự

phóng chiếu của người chồng về người vợ.

Không phải ngẫu nhiên mà chồng cứ cố gắng thay đổi

vợ theo một lí tưởng nào đó, còn vợ thì cứ thay đổi - cố

gắng ít nhất cũng để thay đổi - chồng theo lí tưởng nào đó.

Đấy là hai bóng ma. Bạn không thể chấp nhận người đàn bà

như cô ấy đang thế, chứ gì? Bạn có nhiều cải biến cần làm,

nhiều thay đổi. Và nếu như điều đó thực sự có thể được...

nếu một ngày nào đó Thượng đế xuống thế giới này và nói,

"Thôi được. Bây giờ tất cả mọi người vợ đều được phép

thay đổi chồng theo ý mình," hay "Tất cả mọi người chồng

đều được phép thay đổi vợ theo ý mình," thì điều gì sẽ xảy

ra, bạn có biết không? Thế giới sẽ chỉ đi tới chỗ phát rồ.

Nếu đàn bà được phép thay đổi chồng mình thì bạn sẽ thấy

không còn đàn ông nào còn lại để bạn có thể nhận ra được.

Mọi người già sẽ biến mất. Nếu chồng được phép thay đổi

vợ mình thì không đàn bà nào ở đây còn như cô ấy hiện thế

nữa. Và bạn có cho là bạn sẽ hạnh phúc không? Bạn sẽ

không thể hạnh phúc được, bởi vì thế thì người đàn bà mà

bạn đã thay đổi và làm phù hợp với mẫu hình lí tưởng của

mình sẽ không còn hấp dẫn với bạn nữa; cô ấy sẽ không có

điều bí ẩn trong cô ấy nữa.

Nhìn vào cái ngớ ngẩn này của tâm trí, cái yêu cầu của

tâm trí - yêu cầu kiểu tự tử. Nếu bạn có thể thay đổi được

chồng mình và bạn thực sự trở thành đủ quyền năng để

thay đổi anh ta hoàn toàn thì bạn có còn yêu người đàn ông

đó nữa không? Anh ta sẽ chỉ là cái gì đó do bạn gắn lại.

Anh ta sẽ không còn gì bí ẩn nữa, anh ta sẽ không có tâm

hồn, anh ta sẽ không có bất kì sự toàn vẹn nào của riêng

mình, và anh ta sẽ không có gì để bạn khám phá nữa. Bạn

sẽ mất ham thích, bạn sẽ chán anh ta; đấy sẽ chỉ là "người

rởm." Còn thích thú gì? Thích thú nảy sinh chỉ vì có cái gì

đó chưa biết cần được khám phá, một bí ẩn, một khêu gợi

thách thức bạn đi vào cái chưa quen thuộc.

Điều đầu tiên: bạn còn chưa biết tới chính mình, làm

sao bạn có thể biết về vợ mình được? - không thể được. Bắt

đầu bằng việc biết về chính mình đi. Và đây là cái đẹp của

nó: cái ngày bạn biết về chính mình, bạn sẽ biết tất cả.

Không chỉ vợ bạn, bạn sẽ biết về toàn bộ sự tồn tại; không

chỉ con người, mà cả cây cối, chim chóc và muông thú, cả

từng hòn đá và dòng sông, rặng núi. Bạn sẽ biết tất cả bởi

vì bạn hàm chứa tất cả; bạn là tiểu vũ trụ.

Và một cái đẹp khác, một kinh nghiệm đáng ngạc nhiên

khác, là ở chỗ khoảnh khắc bạn biết về chính mình, điều bí

ẩn lại không kết thúc. Trong thực tế lần đầu tiên điều bí ẩn

trở thành mênh mông. Bạn biết, ấy vậy mà bạn biết rằng

nhiều thứ có đó để được biết. Bạn biết, ấy vậy mà bạn còn

biết rằng tri thức này chẳng là gì cả. Bạn biết, ấy vậy mà

biên giới lại xa ra. Bạn chỉ đi vào trong đại dương tri thức,

bạn chưa bao giờ đạt tới bờ bên kia.

Khoảnh khắc đó toàn bộ sự sống là điều bí ẩn: vợ bạn,

con bạn, bạn bè bạn. Và tri thức đó không phá huỷ điều kì

diệu, không phá huỷ bài thơ cuộc đời; tri thức đó làm tăng

thêm chất thơ cuộc đời, điều ảo thuật, điều kì diệu, điều bí

ẩn.

"Tôi đã xây dựng gia đình hai mươi năm nay thế mà

cảm giác "Tại sao cô ấy không thể nào hiểu nổi?" vẫn cứ

còn đó."

Bạn có hiểu bản thân mình không? Bạn có không làm

những việc để rồi sau đó lại hối hận về việc đó không? Và

bạn nói, "Tôi đã làm điều đó mặc dù tôi không muốn." Bạn

có hiểu bản thân mình không? Bạn có làm mọi thứ qua hiểu

biết không? Khi ai đó đánh bạn và bạn trở nên giận dữ, bạn

có trở nên giận dữ với hiểu biết không? Hay chỉ bởi vì

người đó đã nhấn vào một nút của bạn?

Tri thức của bạn về chính mình hời hợt làm sao... nó

cũng tựa như là người lái xe, người lái một chiếc xe. Vâng,

người đó có biết vài thứ: người đó có thể xoay tay lái,

người đó có thể điều chỉnh chân ga, người đó có thể đổi cần

số, người đó có thể chuyển khớp li hợp, người đó có thể

dùng phanh - có thế thôi. Bạn có cho là người đó biết mọi

điều về chiếc xe không? Cái ẩn dưới nắp ô tô là điều không

được biết tới chút nào, và đó mới là chiếc xe thật; đó là nơi

hành động xảy ra, đó là nơi sự việc thực xảy ra. Còn điều

người đó đẩy và kéo chẳng là gì khác hơn ngoài các nút

bấm. Chẳng chóng thì chầy mọi thứ đều biến mất khỏi

chiếc xe. Chúng phải biến mất, chúng rất nguyên thuỷ - tay

lái này, bộ li hợp này, bộ phanh này. Chúng phải biến mất,

chúng không còn cần nữa; máy tính có thể là mọi thứ. Và

rồi ngay cả đứa trẻ con cũng có thể lái xe - thực sự không

cần bằng nữa.

Nhưng bạn có hiểu điều gì xảy ra bên trong không? Khi

bạn nhấn vào một nút và đèn điện bật sáng, bạn có hiểu về

điện không? Bạn chỉ biết cách ấn vào nút, đấy là tất cả

những gì bạn biết.

Tôi đã nghe một câu chuyện ...

Khi lần đầu tiên thành phố Vienna có điện, một người

bạn của Sigmund Freud tới thăm ông ta. Anh này chưa bao

giờ thấy điện. Ban đêm Freud để người đó lại trong phòng

để nghỉ. Người bạn rất lo âu: người đó chưa bao giờ thấy

điện và người đó không thể tìm được cách tắt đèn. Người

đó đã thử rất nhiều cách - người đó đứng lên giường, người

đó cố thổi tắt ngọn đèn, nhưng người đó không thể tìm ra

được cách nào để thổi tắt nó. Mà người đó thì lại sợ phải

quay lại hỏi Freud bởi vì như thế thì hoá ra quá đần.

"Những người này sẽ nghĩ thế nào đây ... mình thậm chí

không thể thổi tắt được ngọn đèn à? Mình thậm chí lại

không biết đến cả điều ấy à?" Điều ấy có vẻ quá dốt nát.

Còn người đó thì mới từ một làng nhỏ tới cho nên người ta

sẽ cười, và như thế là không tốt. Cho nên người đó bọc

ngọn đèn lại bằng chiếc khăn rồi đi ngủ.

Người đó chẳng thể ngủ ngon được; chốc chốc người

đó lại nghĩ về điều đó: chắc phải có cách nào đây ... Người

đó nhỏm dậy; chốc chốc lại thử ... mà đèn vẫn cứ sáng và

thật khó mà ngủ được. Nhưng còn hơn cả ngọn đèn là điều

châm chọc, liên tục châm chọc, rằng "Mình không biết đến

cả một điều nhỏ nhặt như thế này sao?"

Sáng hôm sau, khi Freud hỏi anh ta, "Anh ngủ ngon

chứ?" thì người bạn trả lời, "Mọi sự tốt lành cả. Phải mỗi

tội tôi phải hỏi ông: làm sao tắt được ngọn đèn này?"

Còn Freud nói, "Dường như là anh không biết về điện

tí gì cả. Lại đây. Ngay trên tường là công tắc; anh ấn vào

công tắc và đèn sẽ tắt."

Thế rồi người dân làng này nói, "Đơn giản thế thôi à!

Bây giờ thì tôi biết điện là gì rồi."

Nhưng bạn có biết điện là gì không? Bạn có biết giận

dữ là gì không? Bạn có biết tình yêu là gì không? Bạn có

biết hạnh phúc là gì, vui vẻ là gì không? Bạn có biết buồn

là gì không? Bạn chẳng biết gì cả. Bạn không biết đến bản

thân mình. Bạn không biết về tâm trí mình. Bạn không biết

đến bản thể bên trong của mình. Bạn không biết cách toàn

bộ cuộc sống xảy ra. Từ đâu? Từ đâu cơn giận kéo tới? Từ

đâu vui vẻ kéo tới? Từ đâu...? Khoảnh khắc này bạn cảm

thấy lễ hội đến thế mà khoảnh khắc tiếp bạn lại sẵn sàng tự

tử.

"Tại sao cô ấy không thể nào hiểu nổi?" - cái cảm giác

đó ...

Về vợ bạn thì điều đó là tự nhiên. Làm sao bạn có thể

hiểu được cô ấy? Bạn thậm chí còn chưa hiểu được tâm trí

mình. Ngày bạn hiểu được tâm trí mình và bản thể mình thì

bạn cũng hiểu được mọi tâm trí và mọi người, bởi vì luật cơ

bản là một. Nếu bạn có thể hiểu chỉ một giọt nước biển, bạn

đã hiểu được tất cả biển khơi - quá khứ, hiện tại, tương lai -

trên trái đất này, trên các hành tinh khác, bởi vì một khi bạn

đã hiểu rằng đó là HO thì bạn đã hiểu được nước. Bất kì

đâu có nước, nó đều là HO. Một khi bạn đã hiểu được cơn

giận của mình, bạn hiểu được mọi cơn giận của mọi con

người, cả quá khứ, hiện tại lẫn tương lai. Nếu bạn đã hiểu

được bản năng dục của mình, bạn cũng hiểu được mọi dục.

Xin đừng có cố hiểu người khác, điều ấy không phải là

cách thức. Cố hiểu bản thân mình, đấy mới là cách thức.

Bạn là vũ trụ thu nhỏ. Trong bạn là toàn bộ bản đồ của sự

tồn tại.

#2Câu hỏi thứ tư

Osho kính yêu, tôi yêu chồng nhưng tôi

ghét dục, và điều đó tạo ra xung khắc.

Liệu dục có phải là thú tính không?

Có đấy. Nhưng con người cũng là con vật - nhiều phần

con vật như bất kì con vật nào khác. Nhưng khi tôi nói rằng

con người là con vật, tôi không hàm ý rằng con người kết

thúc với thú tính; người đó có thể nhiều hơn con vật, người

đó cũng có thể kém hơn con vật. Đó là niềm vinh quang

của con người, là tự do và nguy hiểm, phiền não và cực lạc.

Con người có thể thấp kém hơn con vật, và con người cũng

có thể cao hơn thiên thần. Con người có tiềm năng vô hạn.

Con chó vẫn là một con chó: nó luôn chỉ là một con chó.

Nó được sinh ra là chó và nó sẽ chết là chó. Con người có

thể trở thành một phật, và con người cũng có thể trở thành

một Adolf Hitler nữa. Cho nên con người rất mở về cả hai

phía - người đó có thể sa ngã. Bạn có thấy con vật nào nguy

hiểm hơn con người, điên dại hơn con người không?

Nghĩ về một cảnh: năm mươi nghìn con khỉ ngồi trong

sân vận động, giết trẻ con, ném chúng vào lửa. Bạn nghĩ gì

về chúng? Hàng nghìn trẻ con bị ném vào lửa... Một ngọn

lửa lớn đang bùng cháy ở giữa sân vận động, và năm mươi

nghìn con khỉ thích chí, nhảy múa, còn trẻ con đang bị ném

vào lửa - con cái của chính chúng. Bạn sẽ nghĩ gì về những

con khỉ này? Bạn không nghĩ rằng lũ khỉ này đã phát điên

à? Nhưng điều này đã xảy ra trong loài người. Ở Carthage

điều đó đã xảy ra: năm mươi nghìn người thiêu trẻ con. Họ

thiêu ba trăm đứa trẻ một lúc xem như đồ cúng cho thượng

đế của họ - những đứa con riêng của họ!

Nhưng quên Carthage đi, việc ấy lâu quá rồi. Adolf

Hitler đã làm gì trong thế kỉ này? Tất nhiên, đây là thế kỉ

tân tiến hơn nhiều, cho nên Adolf Hitler có khả năng làm

những việc lớn hơn những điều đã làm ở Carthage. Ông ta

đã giết hàng triệu người Do thái; hàng nghìn người bị tống

vào buồng hơi ngạt một lúc. Và hàng trăm người đứng

trông ở bên ngoài theo dõi thông qua các tấm gương phản

chiếu. Bạn nghĩ gì về những người này? Kiểu người nào

đây ...? Người ta đang bị đầu độc, bị thiêu cháy, hoá hơi,

còn những người khác thì đứng nhìn? Bạn có thấy loài vật

nào làm những điều như vậy không?

Trong suốt ba nghìn năm loài người đã trải qua năm

nghìn cuộc chiến tranh - giết chóc, giết chóc và giết chóc.

Và bạn gọi dục là thú tính? Con vật chưa bao giờ làm

những việc gì "thú tính" hơn con người. Và bạn nghĩ con

người không phải là con vật?

Con người là con vật. Và ý tưởng con người không

phải là con vật chỉ là một trong những chướng ngại cho

trưởng thành của bạn. Cho nên bạn cứ cho là mình không

phải là con vật, và rồi bạn dừng trưởng thành. Thừa nhận

đầu tiên phải là thế này, rằng "tôi là con vật và tôi phải tỉnh

táo và phải vượt ra ngoài nó."

Điều đó đã xảy ra ...

Một người viết thư cho một khách sạn thôn quê ở

Irland để hỏi liệu con chó của anh ta có được phép ở đó

không. Anh ta nhận được câu trả lời sau:

Thưa ông ấy,

Tôi đã từng kinh doanh khách sạn trên ba mươi năm

nay. Chưa bao giờ tôi phải mời cảnh sát tới để tống khứ

một con chó vô trật tự vào buổi sáng. Không con chó nào

dám gửi một cái séc giả tới tôi. Không bao giờ một con chó

dám để chăn màn cháy bởi hút thuốc. Tôi chưa bao giờ

thấy khăn tắm của khách sạn trong va li của một con chó.

Con chó của ông được hoan nghênh đấy.

T.B. Nếu nó có thể đảm bảo cho ông thì ông cũng có

thể tới được!

Con vật đẹp đẽ, dù chúng là gì; chúng hoàn toàn hồn

nhiên. Con người rất tinh ranh, rất tính toán, rất xấu xí. Con

người có thể còn xuống thấp hơn con vật, bởi vì con người

có thể vươn cao hơn con người, cao hơn cả thần.

Con người có tiềm năng vô tận: người đó có thể là

người thấp nhất mà người đó cũng có thể là người cao nhất.

Người đó có toàn bộ các bậc thang trong bản thể mình, từ

bậc đầu tiên tới bậc cuối cùng.

Cho nên điều đầu tiên tôi muốn nói với bạn: Đừng gọi

dục là thú tính, bởi vì dục có thể chỉ là thú tính - điều đó là

có thể - nhưng không nhất thiết là như vậy. Nó có thể vươn

cao hơn: nó có thể trở thành tình yêu, nó có thể trở thành

lời nguyện. Điều đó tuỳ thuộc ở bạn. Dục trong bản thân nó

chẳng là cái gì tựa như một thực thể cố định; nó chỉ là khả

năng. Bạn có thể tạo ra nó theo ý mình, như bạn muốn.

Đó chính là toàn bộ thông điệp của Mật tông: dục có

thể trở thành samadhi. Đó là tầm nhìn của Mật tông: dục có

thể trở thành samadhi, thông qua dục cực lạc tối thượng có

thể đi vào bạn.

Dục có thể trở thành cây cầu giữa bạn và điều tối

thượng.

Bạn nói: "Tôi yêu chồng nhưng tôi ghét dục, và điều đó

gây ra xung khắc."

Làm sao bạn có thể yêu chồng mình mà lại ghét dục?

Bạn lại chơi chữ rồi. Làm sao bạn có thể yêu chồng mình

mà lại ghét dục được?

Cố hiểu điều đó đi. Khi bạn yêu người đàn ông, bạn

cũng muốn cầm tay anh ta nữa. Khi bạn yêu người đàn ông

đôi khi bạn còn muốn ghì chặt anh ta nữa. Khi bạn yêu

người đàn ông bạn không chỉ muốn nghe tiếng anh ta, bạn

còn muốn thấy mặt anh ta nữa. Khi bạn chỉ nghe thấy tiếng

người mình yêu, người đó đang ở xa, âm thanh là không

đủ; khi bạn thấy anh ta bạn được thoả mãn hơn. Khi bạn

chạm vào anh ta, chắc chắn bạn còn được thoả mãn hơn

nữa. Khi bạn nếm trải anh ta, chắc chắn bạn còn được thoả

mãn hơn nữa. Dục là gì? Nó chỉ là sự gặp gỡ của hai năng

lượng sâu sắc.

Bạn phải mang điều kiêng kị nào đó trong tâm trí, điều

cấm đoán. Dục là gì? Chỉ là hai người gặp nhau ở điểm tối

đa - không chỉ cầm tay nhau, không chỉ ghì chặt thân thể

nhau, mà còn xâm nhập vào vương quốc năng lượng của

nhau. Tại sao bạn phải ghét dục? Tâm trí bạn chắc phải đã

bị ước định bởi những mahatma, cái gọi là những người tôn

giáo, người đã đầu độc toàn bộ loài người, đã đầu độc

chính nguồn gốc trưởng thành của bạn.

Tại sao bạn phải ghét? Nếu bạn yêu người đàn ông của

mình, bạn sẽ muốn chia sẻ toàn bộ con người mình với anh

ta; không có nhu cầu ghét. Còn nếu bạn ghét dục, bạn đang

nói điều gì vậy? Bạn đơn giản nói rằng bạn muốn người

đàn ông ấy lo chuyện tài chính của bạn, lo chuyện nhà cửa,

đem về cho bạn ô tô và áo lông. Bạn muốn dùng người đàn

ông ấy ... và bạn gọi đó là tình yêu sao? Còn bạn thì không

muốn chia sẻ cái gì với người ấy.

Khi bạn yêu, bạn chia sẻ tất cả. Khi bạn yêu, bạn không

có bất kì bí mật nào. Khi bạn yêu, bạn có trái tim để mở

hoàn toàn, bạn sẵn sàng với người kia. Khi bạn yêu, bạn

sẵn sàng đi với anh ta cả xuống địa ngục nếu anh ấy đi

xuống địa ngục.

Nhưng điều này xảy ra. Chúng ta đều là các chuyên gia

lão luyện trong dùng từ ngữ: chúng ta không muốn nói rằng

chúng ta không yêu, cho nên chúng ta làm cho có vẻ như là

mình yêu và mình ghét dục. Dục không phải là tất cả tình

yêu, điều đó đúng; tình yêu còn nhiều hơn dục, điều đó

đúng - nhưng dục lại chính là nền tảng của nó. Vâng, một

ngày nào đó dục sẽ tan biến đi, nhưng ghét dục thì không

phải là cách làm nó tan biến đi. Ghét nó chỉ là cách kìm nén

nó, và bất kì cái gì bị kìm nén đều sẽ tìm ra cách này hay

cách khác để thoát ra.

Xin đừng cố trở thành sư hay ni.

Nghe câu chuyện này.

Các ni cô coi sóc một trại trẻ mồ côi, một hôm Mẹ bề

trên triệu tập ba cô gái đẫy đà vừa mới bị bỏ rơi và nói,

"Bây giờ các con tất cả đều đang đi vào thế giới tội lỗi lớn

và ta phải cảnh báo trước các con chống lại một số tụi đàn

ông. Có những tên đàn ông sẽ mua đồ uống cho con, đưa

con vào phòng, cởi quần áo con và làm những điều không

thể nói ra được với con. Rồi chúng sẽ cho con hai hay ba

đồng và con bị đuổi đi, con bị hư hỏng!"

"Xin lỗi mẹ, Mẹ tôn kính," cô gái đẫy đà hơn cả nói,

"mẹ nói những người đàn ông độc ác đó làm điều ấy với

chúng con rồi lại còn cho chúng con những ba đồng nữa kia

à?"

"Đúng, con thân yêu ạ. Sao con lại hỏi vậy?

"Thế này mẹ ạ, các linh mục chỉ cho chúng con táo

thôi."

Nhớ lấy, dục là tự nhiên. Người ta có thể vượt ra bên

ngoài nó, nhưng không phải qua kìm nén. Và nếu bạn kìm

nén nó, chẳng chóng thì chầy bạn sẽ tìm ra cách khác để

bầy tỏ nó, một loại hư hỏng nào đó nhất định sẽ đi vào; bạn

sẽ phải tìm ra cái thay thế nào đó. Và cái thay thế đó thì

chẳng ích chút nào; chúng không có ích, chúng không thể

có ích được. Và một khi một vấn đề tự nhiên đã bị biến

chất theo cách mà bạn quên mất nó, và nó đã sủi bọt lên ở

đâu đó khác thành một thứ thay thế thì bạn có thể tiếp tục

tranh đấu với cái thay thế đó, nhưng điều đó cũng chẳng ích

lợi chi.

Tôi đã từng nghe ...

Một người lạ bước vào một toa tầu chạy ở vùng ngoại

ô, trong đó đã có sẵn hai người đang ngồi. Một trong họ có

cử chỉ rất kì cục - anh ta cứ gãi gãi mãi khuỷu tay mình.

Việc gãi khuỷu tay này thu hút người lạ cho đến khi người

gãi đó xuống tàu.

"Anh bạn anh chắc phải đau buồn lắm," anh ta nói với

người kia.

"Quả thế; anh ta đã uống quá liều thuốc."

"Tôi không nói về thuốc, tôi đang nói về việc gãi hiện

tại thôi."

"Đúng, phải đấy, thuốc mà. Anh thấy đấy, anh ta là

người rất tôn giáo và là người phục vụ quần chúng nữa, và

chính việc gãi khuỷu tay ấy chỉ là sự thay thế."

Nhưng thay thế chẳng bao giờ có ích cả; chúng chỉ tạo

ra hư hỏng, ám ảnh. Cứ tự nhiên nếu một ngày nào đó bạn

muốn vượt ra ngoài tự nhiên. Tự nhiên, đó là yêu cầu đầu

tiên. Tôi không nói rằng không có gì lớn hơn tự nhiên; có

cái tự nhiên còn cao hơn - đó là toàn bộ thông điệp của Mật

tông. Nhưng hãy thật sự ở trên đất bằng nếu bạn thực sự

muốn vươn cao trên bầu trời.

Bạn không thấy cây cối đó sao? Chúng bắt rễ trong đất,

và khi chúng càng bắt rễ sâu hơn thì chúng lại càng vươn

cao hơn. Chúng càng muốn vươn cao hơn, chúng càng phải

cắm rễ sâu hơn vào lòng đất. Nếu cây muốn chạm tới các vì

sao thì cây sẽ phải đi sâu xuống chạm tới chính địa ngục -

đó là con đường duy nhất.

Bắt rễ trong thân thể mình đi nếu bạn muốn trở thành

linh hồn. Bắt rễ trong dục nếu bạn thực sự muốn trở thành

người yêu. Vâng, năng lượng càng được chuyển vào trong

tình yêu, càng ít có nhu cầu về dục, nhưng bạn không ghét

nó.

Ghét không phải là mối quan hệ đúng với bất kì điều

gì. Ghét đơn giản chỉ chứng tỏ rằng bạn đang sợ hãi, ghét

đơn giản chỉ biểu lộ rằng đang có nỗi sợ lớn bên trong bạn.

Ghét đơn giản chỉ bày tỏ rằng sâu bên dưới bạn vẫn bị hấp

dẫn. Nếu bạn ghét dục, năng lượng của bạn sẽ bắt đầu

chuyển tới một chỗ nào đó khác. Năng lượng phải chuyển

đi.

Con người, nếu người đó kìm nén dục, trở thành nhiều

tham vọng hơn. Nếu bạn thực sự muốn là người tham vọng,

bạn phải kìm nén dục; chỉ thế thì tham vọng mới có năng

lượng, bằng không bạn sẽ không có năng lượng nào. Chính

khách phải kìm nén dục; chỉ thế thì người đó mới có thể xô

về New Delhi. Năng lượng dục là cần, năng lượng dục bị

kìm nén là cần, giận dữ lớn là cần. Bất kì khi nào bạn kìm

nén dục, bạn đều giận dữ với toàn thế giới; bạn có thể trở

thành nhà cách mạng vĩ đại. Mọi nhà cách mạng nhất định

đều bị kìm nén về dục.

Trong một thế giới tốt đẹp hơn, dục sẽ đơn giản, tự

nhiên, được chấp nhận không có kiêng kị, cấm đoán nào,

chính trị sẽ biến mất và sẽ không có các nhà cách mạng

nữa. Sẽ không có nhu cầu. Khi một người kìm nén dục,

người đó trở thành quá gắn bó với tiền bạc; người đó phải

đặt năng lượng dục của mình vào đâu đó. Bạn chẳng từng

thấy có những người giữ lệnh phiếu vài trăm rupi cứ như là

họ đang chạm vào người yêu của mình sao? Bạn chẳng

thấy cùng sự thèm khát trong mắt họ đó sao? Nhưng điều

này là xấu xí. Ôm người đàn bà với tình yêu sâu sắc là đẹp

đẽ; ôm giữ lệnh phiếu trăm rupi với thèm khát chỉ là điều

xấu xí. Đấy là sự thay thế.

Bạn không thể đánh lừa con vật.

Một người đàn ông vào vườn bách thú và mang theo

đứa con; anh ta muốn chỉ cho đứa con xem khỉ ở đó. Đứa

con rất thích thú, nó chưa bao giờ thấy khỉ. Họ đi vào đó -

nhưng chẳng có con khỉ nào cả. Cho nên anh ta mới hỏi

người coi vườn bách thú, "Có chuyện gì thế này? Khỉ đâu

hết cả rồi?"

Người coi vườn bách thú nói, "Bây giờ là mùa tình yêu,

cho nên chúng nó đã đi vào trong lều rồi."

Người đàn ông này rất thất vọng. Trong nhiều tháng

anh ta đã cố đem đứa con lại, họ đã du hành một chặng

đường xa - và bây giờ lại là mùa tình yêu! Cho nên anh ta

hỏi, "Nếu chúng tôi ném hạt dẻ, liệu chúng có ra không?"

Còn người coi vườn bách thú thì trả lời, "Ông cứ thử

xem sao"

Nhưng tôi nghĩ con người có thể đi ra đấy, nếu chúng

ta ném hạt dẻ. Con người phải đi ra. Người coi vườn bách

thú lầm. Khỉ sẽ không ra, điều đó là chắc chắn. Nếu bạn

cho chúng tiền, chúng sẽ không tới, chúng sẽ nói, "Ông cứ

giữ lấy tiền, mùa tình yêu đang diễn ra! Giữ lấy tiền ông ạ."

Còn nếu bạn nói, "Chúng tao có thể làm mày thành tổng

thống Ấn Độ," chúng sẽ nói, "Ông cứ giữ lấy cái chức tổng

thống của ông, mùa tình yêu đang diễn ra!"

Nhưng con người, nếu bạn làm cho người đó thành

tổng thống, người đó có thể giết cả người yêu của mình;

nếu phải thiêu sống, người đó cũng làm. Đó là những điều

thay thế. Bạn không thể lừa phỉnh được con vật.

Tôi đã từng nghe ...

Một bà cô có một con vẹt luôn luôn lặp lại, "Tôi muốn

chọc! Tôi muốn chọc!" Cô ta cảm thấy hơi khó chịu cho tới

khi một người bạn đã có gia đình giải thích cho cô điều đó

nghĩa là gì. Thế là cô ấy trở nên rất cảnh giác. "Mình yêu

quí con chim đó, nhưng mình sẽ phải tống khứ nó đi bằng

không cha xứ sẽ chẳng bao giờ ghé thăm nữa," cô ấy nói.

Nhưng người bạn nhiều kinh nghiệm hơn của cô thì lại

nói, "Thôi được, nếu bạn thực sự yêu quí nó thì bạn cho nó

cái mà nó mong mỏi nhất, một con vẹt cái; thế thì nó sẽ

không còn tiếp tục nói câu ấy mọi lúc nữa."

Thế là bà cô đi tới hiệu chim, nhưng người chủ hiệu lại

nói, "Không, tôi không thể làm gì ngay bây giờ được.

Không con vẹt cái nào lại tới vào mọi mùa cả, thưa cô.

Nhưng tôi có thể bán cho cô một con cú cái với giá rất hời."

Có cái gì đó còn hơn không, cho nên bà cô tống con cú

vào chiếc chuồng vẹt và mong đợi hồi hộp.

"Tôi muốn chọc! Tôi muốn chọc!" con vẹt vẫn nói.

"Ôôô -ôôô!" con cú cái nói.

"Không phải mày, mày là đồ quái vật lồi mắt!" con vẹt

nói. "Tao không thể đứng cạnh đứa đàn bà đeo kính!"

Cái thay thế sẽ không có tác dụng. Con người vẫn đang

sống với những thứ thay thế. Dục là tự nhiên, tiền là phi tự

nhiên. Dục là tự nhiên; quyền lực, danh vọng, kính trọng,

đều phi tự nhiên. Nếu bạn thực sự muốn ghét cái gì đó, ghét

tiền bạc, ghét quyền lực, ghét danh vọng đi. Tại sao lại ghét

tình yêu?

Dục là một trong những hiện tượng đẹp nhất trên thế

giới. Tất nhiên, là cái thấp nhất, điều đó đúng, nhưng cái

cao hơn phải đi qua cái thấp hơn: hoa sen nở ra từ bùn đen.

Bạn đừng ghét bùn; bằng không làm sao bạn có thể giúp

bùn làm lộ ra hoa sen? Giúp cho bùn, chăm sóc bùn để cho

hoa sen được lộ ra. Chắc chắn hoa sen vươn xa khỏi bùn

đến mức bạn thậm chí không thể quan niệm được có bất kì

mối quan hệ gì. Nếu bạn thấy bông sen, bạn không thể tin

được rằng nó nảy sinh từ bùn - nhưng thực nó sinh ra từ

bùn; đó là là một cách diễn đạt của bùn.

Linh hồn thoát ra từ thân thể, tình yêu thoát ra từ dục.

Dục là với thân thể, tình yêu là điều tâm linh. Dục giống

như bùn, tình yêu giống như hoa sen. Nhưng không có bùn

thì không thể có hoa sen được. Cho nên đừng ghét bùn.

Toàn bộ thông điệp của Mật tông thực đơn giản; nó rất

khoa học và nó rất tự nhiên. Thông điệp đó là nếu bạn thực

sự muốn vượt ra ngoài thế giới, hãy đi vào thế giới một

cách sâu sắc, hoàn toàn tỉnh táo, hoàn toàn nhận biết.

#2Và câu hỏi cuối cùng:

Osho kính yêu, tôi có nhiều câu hỏi, nhưng

mỗi lần lại có một tiếng nói bên trong tôi

bảo rằng, "Chớ có hỏi - tự tìm ra cho mình."

Nhưng bây giờ điều đó quá nhiều, bởi vì tôi

không biết tiếng nói này tới từ đâu.

Câu hỏi này là từ Dharma Chetana. Bạn không nhận ra

giọng nói của tôi sao?

Đủ cho hôm nay.

************************************************************

#3 Phá vỡ bốn lớp xi

Khi nhận biết cao hơn, họ dạy điều họ kinh

nghiệm bên trong. Điều giam hãm họ, họ sẽ gọi

là giải phóng. Món nữ trang thuỷ tinh mầu xanh,

đối với họ là viên ngọc vô giá. Bị ảo tưởng, họ

không biết phân biệt viên ngọc với cái họ cứ

tưởng là ngọc.

Họ coi đồng là vàng. Bị ràng buộc với suy nghĩ

lan man, họ tưởng ý nghĩ này là thực tại tối

thượng. Họ mong mỏi hoan lạc được kinh

nghiệm trong giấc mơ. Họ gọi thâm-tâm mau tàn

là niềm phúc lạc tối cao vĩnh viễn.

Bằng biểu tượng EVAM họ nghĩ việc tự tẩy rửa

được đạt tới. Theo những tình huống khác nhau

đòi hỏi bốn lớp xi họ gọi điều họ đã tưởng tượng

là tính tự phát. Nhưng đây là nhìn vào sự phản

xạ trong gương.

Như dưới sức mạnh của ảo tưởng bầy hươu xô

về nguồn nước trong ảo tưởng không nhận ra,

cho nên ảo tưởng không làm dịu đi cơn khát của

chúng, chúng bị gắn vào xiềng xích và tìm thấy

hoan lạc trong chúng, nói rằng tất cả đều là thực

tế tối thượng.

Mật tông là siêu việt. Nó không si mê mà cũng chẳng

kìm nén. Nó là việc đi trên dây, nó là một trong những sự

quân bình lớn nhất. Nó không dễ dàng như nó có vẻ thế, nó

cần có nhận biết rất tinh tế. Nó là sự hài hoà vĩ đại.

Rất dễ dàng để cho tâm trí si mê. Điều đối lập cũng rất

dễ dàng: từ bỏ. Việc chuyển sang cực đoan này là rất dễ

dàng đối với tâm trí. Duy trì được ở giữa, chính giữa, là

điều khó khăn nhất cho tâm trí, bởi vì đấy chính là việc tự

tử của tâm trí. Tâm trí chết đi ở giữa và vô trí nảy sinh. Đó

là lí do tại sao Phật đã gọi con đường của mình là majjhim

nikaya - trung đạo. Saraha là một đệ tử của Phật, theo cùng

dòng truyền thừa, với cùng hiểu biết, với cùng nhận biết.

Cho nên điều rất cơ bản này cần phải được hiểu rõ,

bằng không bạn sẽ hiểu lầm Mật tông. Lằn ranh là gì? Đích

xác ở giữa là gì? Si mê trong thế giới này chẳng cần nhận

biết. Kìm nén các ham muốn trần tục, cũng chẳng cần tới

nhận biết. Cái gọi là người thế giới này của bạn và cái gọi

là người thế giới khác cũng chẳng khác nhau nhiều lắm; họ

có thể đứng quay lưng vào nhau nhưng họ chẳng khác nhau

chút nào, họ đều y hệt cùng một kiểu tâm trí. Ai đó khát

khao tiền bạc, và ai đó chống lại tiền bạc đến độ người đó

thậm chí không thể nhìn được tờ giấy bạc; người đó trở

thành sợ hãi và run rẩy phát sinh trong người đó. Những

người ấy chẳng khác nhau; với cả hai tiền đều rất quan

trọng. Một đằng thì tham lam, một đằng thì sợ hãi, nhưng

tầm quan trọng của tiền bạc là như nhau: cả hai đều bị tiền

ám ảnh.

Một người cứ nghĩ về đàn bà, mơ ước, tưởng tượng.

Người khác lại trở nên sợ hãi đến độ người đó phải trốn

thoát lên Himalayas chỉ để tránh đàn bà. Nhưng cả hai là

như nhau: với cả hai, đàn bà là quan trọng, hay đàn ông -

người khác là quan trọng. Người này tìm kiếm người khác,

người này tránh người khác, nhưng người khác vẫn còn là

tiêu điểm của họ.

Mật tông nói: Người khác phải không được là tiêu

điểm, không theo cách này cũng chẳng theo cách nọ. Điều

này chỉ có thể xảy ra thông qua hiểu biết sâu sắc. Thèm

khát đàn bà phải được hiểu - không si mê mà cũng chẳng

né tránh, nhưng phải hiểu. Mật tông là rất khoa học.

Từ khoa học có nghĩa là hiểu, từ khoa học có nghĩa là

biết. Mật tông nói: Việc biết giải phóng. Nếu bạn biết đích

xác tham lam là gì thì bạn được tự do khỏi tham lam;

không có nhu cầu từ bỏ nó. Nhu cầu từ bỏ nảy sinh chỉ bởi

vì bạn đã không hiểu tham lam là gì. Nhu cầu lấy lời

nguyện chống dục là được cần tới chỉ bởi vì bạn đã không

hiểu dục là gì. Và xã hội không cho phép bạn hiểu nó.

Xã hội giúp bạn không hiểu. Xã hội đã né tránh ngay

chính chủ đề dục và chết trong suốt nhiều thế kỉ. Các chủ

đề này không được nghĩ tới, không được suy tư tới, không

được thảo luận, không được viết ra, không được nghiên

cứu; chúng bị né tránh. Qua né tránh đó mà dốt nát lớn lao

về chúng tồn tại và dốt nát đó là căn nguyên. Thế thì có hai

kiểu người phát sinh từ dốt nát đó: một kiểu người si mê

điên dại, còn một loại thì trở nên rất mệt mỏi và trốn chạy.

Mật tông nói: Loại người si mê điên dại sẽ chẳng bao

giờ hiểu được vì người đó sẽ đơn giản lặp lại thói quen, và

người đó sẽ chẳng bao giờ nhìn vào thói quen đó cùng căn

nguyên của nó; người đó sẽ chẳng bao giờ nhìn vào quan

hệ nhân quả của nó. Và người đó càng si mê, người đó

càng trở nên máy móc.

Bạn chưa từng quan sát điều đó sao? Tình yêu đầu tiên

của bạn có cái gì đó tuyệt vời, tình yêu thứ hai không được

tuyệt vời như thế, tình yêu thứ ba thậm chí còn bình thường

hơn, tình yêu thứ tư trần tục. Điều gì đã xảy ra? Tại sao

tình yêu đầu tiên lại được ca ngợi đến thế? Tại sao mọi

người bao giờ cũng nói rằng tình yêu chỉ xảy ra có một lần?

Tại sao?... Bởi vì lần đầu tiên nó không phải là máy móc,

cho nên bạn có chút tỉnh táo về nó. Lần tiếp bạn đã trông

đợi về nó, nên bạn không thật tỉnh táo. Lần thứ ba bạn nghĩ

bạn biết về nó cho nên chẳng còn thám hiểm trong nó. Lần

thứ tư nó quá trần tục; bạn đã lắng đọng vào thói quen máy

móc.

Thông qua si mê dục trở thành thói quen. Vâng, nó

đem lại một chút xả hơi - tựa như hắt hơi, nhưng không

nhiều hơn thế. Nó là việc xả ra năng lượng về mặt vật lí.

Bạn trở nên quá nặng gánh với năng lượng, bạn phải vứt

năng lượng đó. Bạn thu thập nó qua thức ăn, qua luyện tập,

qua ánh sáng mặt trời - cứ thu thập nó rồi lại vứt nó đi - đó

là điều người si mê tiếp tục làm. Người đó tạo ra năng

lượng lớn rồi vứt đi, chẳng mục đích gì, chẳng ý nghĩa gì.

Có nó, người đó chịu đựng căng thẳng về nó. Vứt nó đi,

người đó chịu đựng yếu đuối về nó. Người đó đơn giản

chịu đựng.

Đừng bao giờ nghĩ rằng người si mê là người hạnh

phúc - đừng bao giờ! Người đó là người khổ nhất trên thế

giới. Làm sao người đó có thể hạnh phúc được? Người đó

hi vọng, người đó ham muốn hạnh phúc, nhưng người đó

chẳng bao giờ đạt được nó.

Nhưng nhớ lấy, khi nói về những điều này Mật tông

không đề nghị rằng bạn chuyển sang cực đoan khác. Mật

tông không nói rằng bạn nên trốn khỏi thế giới si mê này.

Trốn sẽ lại trở thành thói quen máy móc. Ngồi trong hang

núi, đàn bà không có sẵn, nhưng điều đó chẳng tạo ra nhiều

khác biệt lắm. Nếu bất kì lúc nào đàn bà trở nên có sẵn,

người đàn ông, người đã từ bỏ, sẽ lại còn dễ sa ngã hơn

người đang si mê trong thế giới. Bất kì cái gì bạn kìm nén

đều trở thành rất mạnh bên trong bạn.

Tôi đã từng nghe...

Có một lính cứu hoả bủn xỉn khủng khiếp cả đối với vợ

và ông chủ nhà. Một đêm anh ta đem về một chiếc bánh

thịt lợn tuyệt ngon và ăn bữa tối hết nửa cái bánh. Vợ anh

ta và ông chủ thì phải ăn bánh mì khô và pho mát. Anh ta

cẩn thận cất kĩ nửa cái bánh còn lại và rồi tất cả lên giường.

Giữa đêm chuông báo cháy reo vang và ông chủ gia

đình phải chạy đi. Người vợ, trần như nhộng, vào phòng

người chủ, lay ông ta dậy và nói, "Nó vừa đi rồi. Nhanh

lên! Bây giờ là cơ hội cho anh."

"Cô có chắc mọi việc ổn thoả chứ?" người chủ hỏi lại.

"Tất nhiên! Mau lên, đừng mất thời gian!"

Thế là người chủ nhà đi xuống cầu thang và ăn nốt cái

bánh thịt lợn.

Bây giờ điều đó đã là kìm nén của ông ta - miếng bánh

thịt lợn. Ông ta phải mơ ước về nó, nghĩ về nó, tưởng

tượng về nó. Người đàn bà trần như nhộng chẳng còn hấp

dẫn gì anh ta, nhưng miếng bánh thịt lợn thì...

Nhớ lấy, bất kì cái gì bạn kìm nén đều sẽ trở thành hấp

dẫn, sẽ trở thành lôi kéo hấp dẫn với bạn. Cái bị kìm nén

trở thành mạnh mẽ; nó thu được sức mạnh theo mọi tỉ lệ.

Nghe giai thoại này...

Sâu trong khu công viên cây cối tươi đẹp có hai bức

tượng đồng đáng yêu đứng đó, một đứa con trai và một đứa

con gái đang trong tư thế yêu đương và khao khát mãnh

liệt. Chúng đã đứng đó ba trăm năm nay, cánh tay chúng

vươn tới nhau, khao khát nhưng chưa bao giờ chạm vào

nhau được. Một hôm, một nhà ảo thuật đi qua và động lòng

từ bi nói, "Ta có đủ quyền năng để cho chúng sống trong

một giờ, nên ta sẽ thực hiện việc này. Trong một giờ chúng

sẽ có thể hôn nhau, chạm vào nhau, ôm nhau, làm tình với

nhau."

Thế là nhà ảo thuật vẫy chiếc đũa thần và ngay lập tức

hai bức tượng nhảy phóc ra khỏi đế tượng tay nắm tay nhau

chạy tuốt vào bụi cây.

Những tiếng động lớn... tiếng đấm thùm thụp, tiếng hò

hét, tiếng kêu oai oái và tiếng vỗ cánh. Không cưỡng nổi tò

mò nhà ảo thuật nhón chân ngó sát qua lá cây. Đứa con trai

đang ấn dí một con chim xuống, còn đứa con gái đang ngồi

xổm lên con chim đó. Bỗng nhiên đứa con trai nhảy lên và

kêu ầm ĩ, "Bây giờ đến lượt đằng ấy giữ nó trong khi tớ ỉa

vào nó!"

Đã ba trăm năm nay chim tới ỉa lên chúng... thế thì còn

ai bận tâm tới việc làm tình nữa? Đó chính là kìm nén của

chúng.

Bạn có thể đi và ngồi trong hang núi và trở thành bức

tượng, nhưng cái mà bạn đã kìm nén sẽ lởn vởn quanh bạn,

sẽ là cái duy nhất bạn luôn luôn nghĩ tới.

Mật tông nói: Nhận biết... nhận biết về si mê và hãy

nhận biết về từ bỏ. Nhận biết cả hai, cả hai đều là bẫy. Và

bạn bị mắc bẫy theo cả hai cách trong tâm trí.

Thế thì đâu là con đường? Mật tông nói: Nhận biết là

con đường. Si mê là máy móc, kìm nén là máy móc, cả hai

đều là những điều máy móc. Cách duy nhất thoát ra khỏi

điều máy móc là trở nên nhận biết, tỉnh táo. Đừng đi lên

Himalayas, đem im lặng của Himalayas vào bên trong bạn.

Đừng trốn, trở nên tỉnh thức nhiều hơn. Nhìn sâu vào mọi

điều mà không sợ hãi... không sợ nhìn sâu vào mọi điều.

Đừng nghe điều những người vẫn được gọi là tôn giáo cứ

thuyết giảng. Họ làm cho bạn sợ, họ không cho phép bạn

nhìn vào dục, họ không cho phép bạn nhìn vào cái chết. Họ

đã khai thác nỗi sợ của bạn tối đa.

Cách duy nhất để khai thác một người là trước tiên làm

cho người đó sợ. Một khi bạn sợ, bạn đã sẵn sàng bị khai

thác. Sợ hãi là điều cơ bản, nó phải được tạo ra trước hết.

Bạn đã bị làm cho sợ hãi: dục là tội lỗi. Cho nên có nỗi sợ...

Ngay cả trong khi làm tình với người đàn bà hay người đàn

ông của mình bạn cũng chẳng bao giờ nhìn thẳng vào đó,

thậm chí trong khi làm tình bạn cũng đang tránh né. Bạn

đang làm tình và tránh né. Bạn không muốn nhìn vào trong

thực tại của nó - nó đích xác là cái gì, tại sao nó lại mê đắm

vậy, tại sao nó lại có lôi kéo hấp dẫn với bạn đến thế - tại

sao? Nó đích xác là gì, làm sao nó lại nảy sinh, làm sao nó

lại sở hữu bạn, nó cho cái gì và nó dẫn đến đâu? Điều gì

xảy ra trong nó và điều gì xảy ra từ nó? Bạn đi đến đâu khi

cứ làm tình đi làm tình lại như thế? Bạn có đến được bất kì

nơi nào không? Những điều này đều cần phải được đương

đầu.

Mật tông là đương đầu với thực tại cuộc đời. Và dục là

nền tảng, chết cũng vậy. Chúng là hai luân xa nền tảng, cơ

bản nhất - muladhar và swadhishthan. Hiểu chúng thì luân

xa thứ ba mở ra. Hiểu được luân xa thứ ba, luân xa thứ tư

mở ra, và cứ thế tiếp diễn. Khi bạn đã hiểu được sáu luân

xa, chính hiểu biết đó sẽ đụng vào luân xa thứ bảy và nó nở

thành hoa sen một nghìn cánh. Ngày đó là niềm vinh quang

huy hoàng. Ngày đó Thượng đế đến với bạn, ngày đó bạn

đến với Thượng đế; ngày đó là ngày hội ngộ. Ngày đó là

ngày của cực thích vũ trụ. Ngày đó bạn ôm choàng lấy điều

thiêng liêng và điều thiêng liêng ôm choàng lấy bạn. Ngày

đó dòng sông tan biến vào trong đại dương mãi mãi và mãi

mãi; thế thì không có việc quay lại nữa.

Nhưng từ mỗi trạng thái của tâm trí, bạn phải thu được

hiểu biết. Dù bạn ở bất kì đâu, chớ sợ hãi. Đó là thông điệp

của Mật tông: dù bạn ở bất kì đâu, chớ sợ hãi. Vứt bỏ chỉ

một điều - sợ hãi. Chỉ một thứ phải sợ thôi và đó là nỗi sợ.

Không sợ hãi, với lòng dũng cảm lớn, nhìn thẳng vào thực

tại, dù thực tại đó là gì đi chăng nữa. Nếu bạn là tên trộm,

nhìn vào điều đó. Nếu bạn là người giận dữ, nhìn vào điều

đó. Nếu bạn là kẻ tham lam, nhìn vào điều đó. Dù bạn ở bất

kì đâu, nhìn vào đó. Đừng trốn. Nhìn vào trong đó, đi vào

trong đó. Khi quan sát, đi vào vào nó. Nếu bạn có thể bước

trên con đường vào tham, vào dục, vào giận dữ, vào ghen

tị, với đôi mắt mở to, bạn sẽ được tự do với nó.

Đây là lời hứa của Mật tông: Chân lí đem lại giải

phóng. Hiểu biết đem lại tự do. Hiểu biết là tự do. Bằng

không, dù bạn có kìm nén hay bạn si mê, kết cục là như

nhau.

Chuyện đã xảy ra...

Có một người đàn ông với cô vợ rất hấp dẫn. Nhưng

anh ta bắt đầu nghi ngờ cô ấy... điều đó cũng tự nhiên. Bạn

có người vợ càng đẹp thì bạn càng có nhiều nghi ngờ.

Mulla Nasruddin đã cưới một trong những người đàn

bà xấu nhất. Tôi hỏi, "Mulla, sao vậy? Cái gì không ổn

chăng? Cái gì xâm chiếm bạn vậy?"

Anh ta đáp, "Chẳng có gì cả, chỉ là hiểu biết."

Tôi nói, "Đấy là kiểu hiểu biết gì vậy?"

Anh ta nói, "Bây giờ thì tôi sẽ không bao giờ ghen

tuông và tôi sẽ không bao giờ nghi ngờ vợ mình, bởi vì tôi

không thể tưởng tượng nổi người nào yêu được cô ấy nữa."

Người đàn ông này rất nghi ngờ về cô ấy. Cuối cùng

anh ta không thể kìm lâu hơn nữa. Ban đêm anh ta xin phép

quản đốc đi ra rồi trở về nhà lúc hai giờ sáng, thấy chiếc xe

của anh bạn thân nhất bên ngoài, y như anh ta đã sợ hãi.

Anh ta lẻn vào, bò lên cầu thang và xô vào trong phòng ngủ

của vợ. Trong đó cô ta đang nằm trên giường - trần như

nhộng nhưng hút thuốc và đọc sách.

Anh ta phát rồ và lục lọi dưới gầm giường, trong tủ

quần áo, cả trong tủ đứng thông gió, nhưng chẳng tìm thấy

người đàn ông nào. Anh ta cáu tiết và đập phá phòng ngủ.

Rồi anh ta nhìn sang phòng khách - ném ti vi ra ngoài cửa

sổ, đập vỡ ghế bành, lật đổ bàn và tủ bát đĩa. Rồi anh ta

chuyển sự chú ý sang nhà bếp, ở đó anh ta đập bát đĩa tan

thành từng mảnh rồi ném tủ lạnh qua cửa sổ. Rồi anh ta tự

bắn vào mình.

Khi anh ta lên đến cổng trời, người mà anh ta muốn

gặp đang đứng đợi để vào cửa và đó chính là người bạn

thân đã chết của anh ta, người đó nói, "Cậu đang làm gì ở

đây thế này?"

Thế là người chồng lầm lỗi giải thích tất cả về việc anh

ta đã mất tự chủ trong cơn giận và mọi chuyện về nó, rồi

anh ta nói thêm, "Nhưng việc xảy ra thế nào mà cậu lại

cũng đến đây thế?"

"A, tớ á? Tớ nằm trong tủ lạnh đấy."

Cả hai đều kết thúc theo cùng một cách - dù bạn trong

hang núi Himalayas hay trong thế giới thì cũng chẳng khác

nhau nhiều lắm. Cuộc sống si mê và cuộc sống kìm nén cả

hai đều kết thúc theo cùng cách bởi vì cơ chế của chúng là

không khác. Dáng vẻ bên ngoài của chúng có khác nhưng

phẩm chất bên trong thì như nhau.

Nhận biết đem đến phẩm chất khác cho cuộc sống của

bạn. Với nhận biết mọi thứ bắt đầu thay đổi, thay đổi vô

cùng lớn lao. Không phải là bạn thay đổi chúng, không,

hoàn toàn không chút nào. Con người của nhận biết chẳng

thay đổi điều gì còn con người của vô nhận biết thì liên tục

cố gắng thay đổi mọi thứ. Nhưng người vô nhận biết chẳng

bao giờ thành công trong việc thay đổi cái gì, còn người có

nhận biết đơn giản tìm thấy thay đổi xảy ra, thay đổi cực kì

lớn xảy ra.

Chính nhận biết đem lại thay đổi, không phải là nỗ lực

của bạn. Tại sao điều ấy lại xảy ra thông qua nhận biết? -

bởi vì nhận biết làm thay đổi bạn. Và khi bạn khác đi thì

toàn bộ thế giới cũng khác đi. Vấn đề không phải là việc

tạo ra một thế giới khác, vấn đề là tạo ra một bạn khác. Bạn

là thế giới của mình, cho nên nếu bạn thay đổi thì thế giới

này thay đổi. Nếu bạn không thay đổi, bạn có thể vẫn cứ

tìm cách thay đổi toàn bộ thế giới - nhưng chẳng có gì thay

đổi cả; bạn sẽ cứ tạo ra cũng thế giới cũ lặp đi lặp lại. Bạn

tạo ra thế giới của bạn. Chính là từ bạn mà thế giới của bạn

mới được phóng chiếu ra.

Mật tông nói: Nhận biết là chìa khoá, chìa khoá chủ mở

mọi cánh cửa cuộc đời. Cho nên nhớ lấy, đấy thực sự là

điều tinh tế... Nếu tôi nói về ngu xuẩn của kìm nén, bạn bắt

đầu nghĩ về si mê; nếu tôi nói về ngu xuẩn của si mê, bạn

lại bắt đầu nghĩ về kìm nén. Điều đó xảy ra hàng ngày: bạn

chuyển ngay sang cái đối lập. Và toàn bộ vấn đề không

phải là bị quyến rũ bởi cái đối lập. Bị quyến rũ bởi cái đối

lập tức là bị quyến rũ bởi quỉ. Đó là quỉ trong hệ thống Mật

tông, bị quyến rũ bởi cái đối lập. Không có quỉ nào khác;

quỉ duy nhất là ở chỗ tâm trí có thể chơi xỏ bạn, nó có thể

đề nghị cái đối lập.

Bạn chống lại si mê sao? Tâm trí nói, "Đơn giản thế...

bây giờ kìm nén đi. Đừng si mê nữa, trốn đi. Bỏ cả thế giới

này đi. Quên ráo mọi điều về nó." Nhưng làm sao bạn có

thể quên được tất cả về nó? Quên tất cả về nó đi đơn giản

vậy sao? Thế thì tại sao bạn lại trốn cho thật xa? Thế thì tại

sao bạn lại sợ hãi? Nếu bạn có thể quên tất cả về nó đơn

giản như vậy, cứ ở đây và quên mọi điều về nó đi. Nhưng

bạn không thể ở đây được, bạn biết thế giới này sẽ quyến rũ

bạn. Và hiểu biết tạm bợ này, hiểu biết giả tạm này mà bạn

nghĩ bạn đã thu được, sẽ chẳng có ích gì nhiều. Khi quyến

rũ tới từ ham muốn, bạn sẽ thành nạn nhân; bạn biết điều

đó. Trước khi nó xảy ra bạn muốn trốn đi, bạn muốn thoát

thật nhanh. Bạn muốn thoát khỏi cơ hội ấy. Tại sao? Tại

sao bạn muốn trốn thoát khỏi cơ hội ấy?

Ở Ấn Độ cái gọi là thánh nhân ấy sẽ không ở với bà

quản gia. Sao vậy? Nỗi sợ là gì? Ở Ấn Độ cái gọi là các

thánh nhân ấy sẽ không chạm tới đàn bà, thậm chí còn

không nhìn họ nữa. Sao vậy? Nỗi sợ là gì? Cái sợ này đến

từ đâu? Chỉ để tránh né cơ hội... Nhưng việc tránh né cơ

hội không phải là thành tựu lớn lao gì. Và bởi việc tránh né

cơ hội, nếu bạn đạt tới vô dục nào đó, vô dục đó cũng là

giả.

Tôi đã từng nghe...

Một người dân quê vào một quán rượu Luân đôn cùng

với một con chó. Người này gọi nửa lít sữa, con chó gọi

một cốc rượu nhẹ. "Cái chết tiệt gì đây...?" người chủ quán

hỏi.

"Vâng," chủ con chó nói, "nó là con chó thông minh

nhất trong khu miền tây này. Tôi đem nó đến đây để ngắm

cảnh thành phố."

"Nếu tôi đưa cho nó năm xu liệu nó có mua về cho tôi

một tờ báo được không?” người chủ quán nói - "bởi vì tôi

quên mất chưa mua tờ báo."

"Tất nhiên tôi có thể mua được," con chó ăng ẳng nói.

Thế rồi nhận lấy tiền, "Tôi về ngay đấy..."

Con chó chẳng quay lại, cho nên sau một giờ người chủ

lo lắng phải đi tìm. Cuối cùng ông ta tìm ra con chó của

mình ở sau ngõ hẻm đang đùa nghịch với con chó sói cái.

"Đồ chết dẫm!" người chủ nói. "Mày chưa bao giờ làm

việc đó trước đây à."

"Chưa," con chó nói, "trước đây tôi chưa bao giờ có

tiền cả."

Chỉ để tránh cơ hội thì cũng chẳng ích lợi gì nhiều, đấy

chỉ là bề ngoài giả; bạn có thể tin vào nó nhưng bạn không

thể lừa được Thượng đế. Trong thực tế bạn thậm chí không

thể lừa được chính mình. Liên tục trong giấc mơ của bạn,

điều bạn bỏ lại đằng sau theo cách kìm nén sẽ thòi ra hết

lần nọ tới lần kia. Nó sẽ làm cho bạn thành quá si mê. Cái

gọi là thánh nhân của bạn thậm chí còn không có khả năng

ngủ ngon, họ sợ giấc ngủ. Sao vậy? - bởi vì trong giấc ngủ,

thế giới mà họ đã kìm nén lại tự khẳng định chính nó trong

giấc mơ. Vô thức bắt đầu liên hệ, vô thức nói, "Mình làm gì

ở đây? Mình là đồ ngu." Vô thức trải tấm lưới của nó ra.

Trong khi bạn đang tỉnh thức bạn có thể kìm nén,

nhưng khi bạn đang ngủ thì làm sao bạn có thể kìm nén

được nó? Bạn mất mọi kiểm soát. Ý thức kìm nén, nhưng ý

thức lại đi ngủ. Đó là lí do tại sao trong mọi truyền thống

cổ các vị thánh bao giờ cũng sợ giấc ngủ. Họ cắt giấc ngủ

từ tám tiếng xuống bẩy, từ bẩy xuống sáu, từ sáu xuống

năm... bốn, ba, hai. Và người ngu nghĩ đấy là thành tựu lớn.

Họ nghĩ, "Ông thánh này là một thánh nhân vĩ đại, ông ta

chỉ ngủ có hai tiếng." Trong thực tế ông ta đơn giản chỉ bầy

tỏ mỗi một điều - rằng ông ta sợ vô thức của mình. Ông ta

không cho phép vô thức có thời gian liên hệ.

Khi bạn ngủ có hai tiếng, vô thức không thể có liên hệ

được, bởi vì hai tiếng đó là cần cho thân thể nghỉ ngơi. Bạn

mơ giấc mơ tốt hơn, giấc mơ hay, giấc mơ đẹp trước lúc

giấc ngủ của bạn đã hoàn tất - đó là lí do tại sao bạn mơ tốt

hơn vào buổi sáng, vào sáng sớm. Trước hết thân thể cần

phải được sang sửa, thân thể cần nghỉ ngơi. Một khi thân

thể đã nghỉ thì tâm trí cần nghỉ; đó là điều thứ hai.

Một điều là ở chỗ khi tâm trí cần nghỉ thì vô thức, trong

tâm trạng nghỉ ngơi, thả ra các ham muốn của nó và giấc

mơ nảy sinh. Điều thứ hai là ở chỗ nếu bạn chỉ nghỉ có hai

giờ trong đêm thì có thể có giấc mơ nhưng bạn sẽ không

thể nào nhớ được chúng. Đó là lí do tại sao bạn chỉ nhớ

những giấc mơ cuối cùng mà bạn mơ vào sáng sớm. Bạn

quên mất các giấc mơ khác của cả đêm vì bạn đã chìm sâu

vào trong giấc ngủ đến mức bạn không thể nhớ được. Cho

nên thánh nhân nghĩ ông ta đã không mơ về dục, ông ta đã

không mơ về tiền, ông ta đã không mơ về quyền lực, danh

vọng, kính trọng. Nếu ông ta ngủ có hai tiếng thì giấc ngủ

sẽ sâu, nó là sự cần thiết cho thân thể, điều ấy gần giống nh

hôn mê, cho nên ông ta không thể nhớ được. Bạn nhớ được

giấc mơ chỉ khi bạn nửa thức nửa ngủ. Thế thì giấc mơ có

thể được nhớ lại, bởi vì nó gần với ý thức; nửa ngủ, nửa

thức, cái gì đó của giấc mơ lọt vào ý thức bạn, chuyển vào

trong ý thức. Vào buổi sáng bạn có thể nhớ được một chút

ít về nó. Đó là lí do tại sao bạn sẽ ngạc nhiên rằng nếu bạn

đến hỏi người lao động đã làm việc vất vả cả ngày, "Anh có

mơ không?" thì anh ta sẽ nói, "Không."

Người nguyên thuỷ không mơ. Nói họ không mơ cũng

chưa đúng - họ không thể nhớ được, có vậy thôi. Mọi

người đều mơ, nhưng họ không thể nhớ được. Làm việc vất

vả cả ngày, chặt củi hay đào mương hay đập đá là những

việc nặng nhọc, tám tiếng, đến mức khi bạn chìm vào giấc

ngủ là bạn gần như trong cơn mê. Giấc mơ tới nhưng bạn

không thể nào nhớ được, bạn không thể nào nắm được

chúng.

Bây giờ cái gọi là các thánh nhân của bạn bao giờ cũng

sợ ngủ... Có một lần một thanh niên được đem tới tôi. Anh

ta sắp mất trí. Anh ta là tín đồ của Swami Sivananda ở

Rishikesh. Tôi hỏi anh ta, "Có chuyện gì với anh vậy?"

Anh ta đáp, "Chẳng có gì thành vấn đề cả. Tôi là người tâm

linh. Người ta nghĩ rằng tôi sắp mất trí."

Tôi hỏi bố mẹ anh ta - họ rất lo lắng; tôi đi vào chi tiết.

Chi tiết là thế này: anh ta tới gặp Swami Sivananda và

Sivananda nói, "Anh ngủ nhiều quá. Như thế không tốt cho

lành mạnh tâm linh, anh nên ngủ ít hơn." Thế là anh ta cắt

bớt giấc ngủ xuống ba tiếng - từ tám tiếng xuống còn ba!

Bây giờ anh ta bắt đầu cảm thấy buồn ngủ cả ngày,

cũng tự nhiên thôi. Cho nên Sivananda nói, "Anh là

tamasic, anh có năng lượng rất thấp, xấu trong mình. Hãy

thay đổi thức ăn đi. Anh phải đã ăn thức ăn làm cho anh

nặng nề và buồn ngủ." Thế là anh ta bắt đầu sống chỉ bằng

sữa. Bây giờ anh ta bắt đầu trở nên yếu ớt. Đầu tiên giấc

ngủ bị cắt bớt, rồi đến thức ăn cũng bị cắt bớt, bây giờ thì

anh ta đang trong trạng thái mà bất kì lúc nào anh ta cũng

có thể ngã đổ.

Không có thức ăn sẽ khó cho bạn đi vào giấc ngủ sâu

cho dù chỉ có ba tiếng; thức ăn là cái phải có cho giấc ngủ

ngon. Khi dạ dầy chẳng có gì để tiên hoá toàn bộ năng

lượng sẽ chuyển vào đầu. Đấy là lí do tại sao vào ngày nhịn

ăn bạn không thể ngủ say. Năng lượng không còn ở trong

dạ dầy, nó thoát lên đầu. Khi năng lượng được cần tới trong

dạ dầy thì đầu không thể lấy được nó bởi vì đầu là thứ yếu,

dạ dầy là chủ yếu.

Có một thứ bậc chắc chắn trong thân thể... những cái

đứng đầu phải được thoả mãn trước. Dạ dầy là cơ sở. Dạ

dầy có thể tồn tại không cần đầu, nhưng đầu không thể tồn

tại không có dạ dầy. Cho nên dạ dầy là cơ sở, nền tảng hơn;

khi dạ dầy cần năng lượng, nó sẽ kéo năng lượng từ mọi

nơi về.

Bây giờ anh ta thậm chí còn không thể ngủ được ba

tiếng nữa. Mắt anh ta trở nên đờ đẫn, chết; thân thể anh ta

mất mọi óng ả, sinh động và có run rẩy tinh vi. Cầm tay

anh ta, tôi có thể cảm thấy toàn bộ thân thể anh ta run rẩy;

trong nhiều tháng trời thân thể đã không được nghỉ ngơi.

Và bây giờ anh ta nghĩ rằng anh ta đang trở thành tâm linh.

Kiểu vô nghĩa này đã tiếp diễn đủ lâu để trở thành đáng

kính trọng. Khi một điều tiếp diễn đủ lâu, nó trở nên đáng

kính - chỉ bởi vì nó đã có đó khá lâu.

Trong thực tế, lắng nghe thân thể mình đi, nhu cầu của

thân thể mình. Lắng nghe tâm trí bạn, lắng nghe nhu cầu

của tâm trí bạn. Đừng lẩn tránh. Đi vào trong những nhu

cầu đó, thám hiểm những nhu cầu này với sự quan tâm trìu

mến. Thân thiện với thân thể bạn, thân thiện với tâm trí

bạn, nếu bạn muốn vượt ra ngoài chúng một ngày nào đó.

Thân thiện là điều rất bản chất. Đó là tầm nhìn Mật tông về

cuộc sống: Thân thiện với năng lượng cuộc sống. Đừng trở

thành đối kháng.

Bây giờ đến lời kinh. Những lời kinh này có ý nghĩa

lớn lao. Saraha nói với nhà vua:

Khi nhận biết cao hơn, họ dạy điều họ kinh nghiệm bên

trong.

Điều giam hãm họ, họ sẽ gọi là giải phóng.

Món nữ trang thuỷ tinh mầu xanh, đối với họ là viên

ngọc vô giá.

Bị ảo tưởng, họ không biết ngọc trong cái họ cứ tưởng

là ngọc.

Ông ấy đang nói về cái gọi là mahatmas, cái gọi là

những nhà yoga, theo cùng cách như tôi cứ nói đi nói lại về

cái gọi là các thánh nhân. Saraha đang nói:

Khi nhận biết cao hơn, họ dạy điều họ kinh nghiệm bên

trong.

Bây giờ đây là một phát biểu vĩ đại. Nó phải được giải

mã. Trước hết: kinh nghiệm tối thượng về thực tại không

phải là kinh nghiệm chút nào, bởi vì khi bạn kinh nghiệm

cái gì đó, bao giờ cũng có nhị nguyên - người kinh nghiệm

và cái được kinh nghiệm. Cho nên không thể có kinh

nghiệm tối thượng theo nghĩa là bạn kinh nghiệm bản thân

mình, không. Làm sao bạn có thể kinh nghiệm bản thân

mình được? Thế thì bạn sẽ bị phân chia thành hai, thế thì

nhị nguyên chủ thể-đối thể sẽ đi vào.

Mật tông nói: Bất kì cái gì bạn biết, biết rằng bạn

không phải là cái đó. Đây là một tuyên bố vĩ đại, một sự

sáng suốt rất thấu đáo. Nếu bạn thấy cái gì đó, biết rõ rằng

bạn không phải là cái đó, bởi vì bạn là người thấy. Bạn

chẳng bao giờ là cái được thấy. Bạn không thể bị thu lại

thành một vật. Bạn là tính chủ thể, chủ thể thuần tuý, chủ

thể không rút gọn lại được; không có cách nào biến bạn

thành một vật, thành một thứ. Bạn không thể đặt bản thân

mình ra trước chính mình, bạn làm được không? Bạn

không thể đặt chính mình ra trước bản thân mình bởi vì bất

kì cái gì bạn đặt ra đó đều sẽ không phải là bạn. Bạn bao

giờ cũng là người mà mọi thứ được đặt ra trước bạn.

Saraha nói: Chân lí không phải là kinh nghiệm - không

thể được. Chân lí là việc kinh nghiệm, không phải là kinh

nghiệm. Nó là việc biết, không phải là tri thức. Khác biệt là

lớn. Bạn kinh nghiệm một điều khi nó tách biệt với bạn.

Bạn không thể kinh nghiệm bản thân mình theo cùng cách.

Cho nên Mật tông đã đặt ra một từ khác: 'việc kinh

nghiệm'. Trong tiếng Phạn chúng ta có hai từ: anubhav,

anubhuti. Anubhav nghĩa là kinh nghiệm; anubhuti nghĩa là

việc kinh nghiệm. Chẳng có gì để kinh nghiệm. Chẳng có

gì ở phía trước bạn, chỉ có trống rỗng; nhưng bạn có đó,

hoàn toàn có đó, không có gì che khuất. Không có đối thể...

thuần tuý chủ thể: chỉ có bình chứa, không có nội dung.

Cuốn phim đã dừng... chỉ có màn ảnh, thuần tuý màn ảnh

trắng... Nhưng không ai nhìn vào màn ảnh trắng này: bạn là

màn ảnh trắng đó. Do dó có một từ mới: anubhuti, việc

kinh nghiệm.

Trong tiếng Anh không có từ tách biệt, cho nên tôi phải

dùng 'việc kinh nghiệm'. Để chỉ ra sự khác biệt: kinh

nghiệm trở thành sự vật, việc kinh nghiệm là quá trình,

không phải là sự vật. Tri thức là sự vật, việc biết là quá

trình. Tình yêu là sự vật; việc yêu là quá trình.

Và Mật tông nói: cốt lõi bên trong nhất của bạn bao

gồm các quá trình, không phải là các vật. Việc biết có đó,

không có tri thức. Việc yêu có đó, không có tình yêu. Danh

từ không tồn tại, chỉ có động từ! Đây là cái nhìn sâu sắc

vào thực tại. Chỉ động từ. Khi bạn nói, "Đây là cái cây,"

bạn đang thiết lập một sự vật rất sai: phải nói đây là việc

thành cây, không phải là cái cây, bởi vì nó đang lớn lên, nó

không phải là vật tĩnh tại. Khi bạn nói, "Đây là con sông,"

nhìn vào điều bạn đang nói - vô nghĩa. Đấy là sông đang

chảy, nó đang chuyển động, nó là năng động. Không một

khoảnh khắc nào nó như cũ, cho nên tại sao bạn lại gọi nó

là 'con sông'? Ngay cả tảng đá cũng không phải là tảng đá,

nó cũng là một quá trình.

Sự tồn tại bao gồm không chỉ các vật mà còn cả các

biến cố. Đừng nói với người đàn bà, "Anh yêu em." Nói,

"Anh đang trong trạng thái yêu." Tình yêu không phải là

vật; bạn chỉ có thể trong trạng thái yêu, bạn không thể yêu.

Có ngôn ngữ của các phật tử trong đó mọi thứ tồn tại

như quá trình. Khi lần đầu tiên Kinh thánh được dịch sang

một số nước theo Phật giáo - Miến điện, Thái lan - các nhà

truyền giáo Ki tô giáo lúng túng, họ không thể tìm ra được

từ chỉ Thượng đế. Bởi vì nếu bạn nói con sông là dòng

sông đang chảy thì vẫn được, cây là đang thành cây thì vẫn

được, đàn ông là đang thành đàn ông và đàn bà là đang

thành đàn bà thì vẫn được. Nhưng về Thượng đế - ngài

đang đấy! Không có việc trở thành Thượng đế. Nhưng

trong tiếng Miến điện mọi từ đều thực sự là động từ. Mỗi

động từ đều biểu lộ sự trở thành. Nhưng để gọi Thượng đế

là 'trở thành', là quá trình, thì thật khó khăn cho người Ki tô

giáo, rất khó. Thượng đế hiện hữu... bao giờ cũng như thế,

vĩnh viễn như thế. Chẳng có gì xảy ra cho Thượng đế cả.

Phật tử nói nếu không có gì xảy ra cho Thượng đế thì

ngài chết, thế thì làm sao ngài có thể sống được? Cuộc sống

là nơi mọi thứ xảy ra. Cuộc sống đang xảy ra. Và về kinh

nghiệm tối thượng... Nói điều này về thực tại trần tục thì

cũng được. Bạn có thể nói, "Đây là cái ghế," và chẳng cần

bận tâm nhiều về nó; điều ấy đơn giản. Bây giờ để nói về

mọi thứ, "Đây là việc thành cái ghế và đây là việc thành

cây," điều đó sẽ tạo ra khó khăn trong cách diễn đạt. Nhưng

về thực tại tối thượng người ta phải rất tỉnh táo. Ít nhất tại

đó người ta nên tỉnh táo.

Saraha nói:

Khi nhận biết cao hơn, họ dạy điều họ kinh nghiệm..

Bây giờ nếu bạn đã đọc sách của học giả Gopi Krishna,

ông ấy nói kundalini là kinh nghiệm tối thượng. Không thể

là như vậy được. Saraha sẽ không đồng ý, ông ấy sẽ cười

học giả Gopi Krishna.

Nếu bạn kinh nghiệm năng lượng nào đó dâng lên

trong cột sống mình, bạn là người đang thấy nó. Cột sống

là tách biệt, cho nên kundalini đang lên trong đó cũng là

tách biệt. Làm sao bạn có thể là nó được? Tôi có thể thấy

bàn tay này: chỉ bởi vì thấy bàn tay này mà tôi đã trở thành

tách biệt với bàn tay đó. Tôi không thể là bàn tay này. Tôi

đang dùng bàn tay này, nhưng tôi tách biệt với bàn tay này.

Có thể tôi đang bên trong bàn tay, nhưng tôi không thể là

bàn tay được.

Kundalini không phải là kinh nghiệm tâm linh. Kinh

nghiệm tâm linh đơn giản có nghĩa là khoảnh khắc khi

không có gì được kinh nghiệm. Mọi kinh nghiệm đều tan

biến, bạn ngồi một mình trong sự thuần khiết của mình.

Bạn không thể gọi nó là kinh nghiệm được.

Cho nên Saraha nói: Những người được gọi là nhà

yoga và thánh nhân cứ nói rằng họ đã đạt tới tâm thức cao

hơn. Và họ đã đạt tới cái gì vậy? Kundalini của ai đó đã

dâng lên, ai đó đã thấy ánh sáng xanh bên trong, và mọi thứ

đại loại như vậy. Ai đó đã thấy linh ảnh: ai đó đã thấy

Krishna và ai đó đã thấy Mohammed, và ai đó đã thấy

Mahavira và ai đó đã thấy Mẹ Kali - nhưng tất cả những cái

đó đều chỉ là hình dung.

Mọi kinh nghiệm đều là hình dung.

Từ hình dung cũng hay; nó bắt nguồn từ 'hình ảnh'.

Mọi kinh nghiệm đều chẳng là gì khác hơn là những hình

ảnh nổi lên trong tâm thức bạn. Khi không có gì nổi lên

trong tâm thức bạn - nhớ lây, thậm chí không có cả cái

'không có gì' nổi lên trong tâm thức bạn - khi tâm thức bạn

đơn giản có đó mà không có nội dung, cái thuần khiết phi

nội dung đó mới chính là cái mà Mật tông gọi là kinh

nghiệm thật. Bạn không thể gọi nó là kinh nghiệm được -

bởi chính bản chất của nó, nó không phải là kinh nghiệm.

Khi bạn chứng kiến người chứng kiến thì làm sao bạn có

thể gọi nó là việc chứng kiến? Khi bạn biết về người biết

thì làm sao bạn có thể gọi nó là hiểu biết?

Cho nên điều đầu tiên ông ấy nói là : Khi nhận biết cao

hơn, họ dạy điều họ kinh nghiệm bên trong.

Và điều thứ hai cần phải nhớ: phân biệt giữa bên trong

và bên ngoài cũng lại là giả. Trên bình diện nào đó phân

biệt ấy là tốt - bạn đang sống trong thế giới bên ngoài, cho

nên bạn phải được nhắc nhở đi vào bên trong. Nhưng bên

trong và bên ngoài là hai mặt của cùng một đồng tiền. Một

ngày nào đó bạn được bảo phải vứt bỏ cả hai; vì bạn đã vứt

bỏ bên ngoài, bây giờ vứt bỏ nốt bên trong nữa. Siêu việt

lên - không bên ngoài cũng chẳng bên trong.

Bên trong cũng chẳng có như bên ngoài: đó là sáng

suốt của Mật tông. Bên trong là gì? Tôi đang nhìn bạn, bạn

là bên ngoài. Thế rồi tôi nhắm mắt lại và tôi thấy kundalini

của mình - nó bên trong chăng? Bất kì cái gì tôi có thể thấy

đều là bên ngoài, là 'ngoài' tôi, nó không thể là 'trong' tôi

được. Thế rồi tôi thấy ánh sáng xanh; đấy là bên ngoài. Tất

nhiên tôi đang thấy nó với đôi mắt nhắm; nó ở gần tôi hơn,

nhưng vẫn là bên ngoài. Tôi đang thấy bạn với đôi mắt mở,

bạn là bên ngoài. Trong đêm tôi thấy giấc mơ, và bạn đến

trong giấc mơ của tôi - thế thì bạn có ở bên trong không?

Bạn cũng vẫn ở bên ngoài, mặc dầu mắt tôi nhắm; nhưng

tôi đang thấy bạn hệt như tôi đang thấy bạn ngay bây giờ.

Bất kì cái gì thấy được đều ở bên ngoài. Người thấy chẳng

ở bên ngoài cũng chẳng ở bên trong.

Cho nên Saraha nói: Những người này trước hết cứ nói

về kinh nghiệm bên ngoài của mình, và rồi họ bắt đầu nói

về kinh nghiệm bên trong của họ.

Giống như hôm nọ chúng ta đã thảo luận điều này: bạn

làm tình với người đàn bà - người đàn bà này là bên ngoài.

Bây giờ năng lượng, ngọn lửa của bản năng dục của bạn,

dâng lên trong bạn, đến cổ bạn, đến vishuddha, đến luân xa

cổ họng. Và tại đó bạn bắt đầu thủ dâm nó bằng lưỡi quay

vào trong. Bạn gọi nó là bên trong ư? Nó vẫn là bên ngoài.

Nhiều nhất thì nó cũng vẫn cứ là bên ngoài như nó vẫn thế

khi bạn đang làm tình với người đàn bà.

Mật tông là sáng suốt vĩ đại, sáng suốt sâu lắng đến độ

nó nói: Người ta phải vứt bỏ bên ngoài, người ta phải vứt

bỏ cả bên trong nữa. Người ta phải vào trạng thái mà có thể

nói là tôi chẳng ở ngoài cũng chẳng ở trong, chẳng hướng

ngoại cũng chẳng hướng nội, chẳng là đàn ông cũng chẳng

là đàn bà, chẳng là thân thể cũng chẳng là tâm trí. Người ta

phải đi đến điểm tại đó người ta có thể nói tôi chẳng trong

luân hồi mà cũng chẳng trong niết bàn. Đấy mới là vấn đề,

cánh cửa cho mọi sự nhị nguyên, điểm chính giữa cho mọi

sự nhị nguyên.

Cái giam hãm họ, họ sẽ gọi là giải phóng.

Bây giờ điều này sẽ là giam hãm mới, có thể đẹp hơn

một chút so với giam hãm bên ngoài - có thể giam hãm bên

ngoài được làm bằng sắt còn giam hãm này được làm bằng

vàng - nhưng giam hãm vẫn là giam hãm. Dù nó làm bằng

sắt hay bằng vàng thì cũng chẳng tạo ra khác biệt gì; bạn

vẫn bị giam hãm.

Bây giờ giam hãm mới này sẽ trở thành tù túng của

bạn. Kundalini đang lên, linh ảnh, linh ảnh tâm linh, linh

ảnh vũ trụ - bây giờ những điều này sẽ trở thành nơi giam

hãm bạn. Bây giờ bạn sẽ khát khao về chúng, bây giờ bạn

sẽ ham muốn về chúng. Ban đầu bạn ham muốn tiền bạc,

bây giờ bạn sẽ ham muốn những kinh nghiệm tâm linh này.

Ban đầu bạn đã ham muốn quyền lực, bây giờ bạn sẽ ham

muốn siddhis, quyền năng tâm linh - nhưng ham muốn vẫn

còn đó, và ham muốn là giam hãm. Chỉ trong vô ham muốn

thì mới có giải thoát.

Món nữ trang thuỷ tinh mầu xanh, đối với họ là viên

ngọc vô giá. Bị ảo tưởng, họ không biết phân biệt viên

ngọc với cái họ cứ tưởng là ngọc.

Nếu bạn không biết, nếu bạn không tỉnh táo và nhận

biết, bạn có thể bị lừa. Món nữ trang thuỷ tinh mầu xanh...

và bạn có thể nghĩ đây là viên ngọc quí. Vâng, mầu sắc như

nhau, hình dáng có thể cũng như nhau, thậm chí cả trọng

lượng cũng có thể như nhau, nhưng giá trị vẫn khác nhau -

và giá trị mới là vật đó.

Vâng, mọi người có quyền lực trong thế giới bên ngoài.

Tổng thống, thủ tướng có quyền lực nào đó, và thế rồi một

nhà yoga, một mahatma có những quyền năng nào đó khác

- về thế giới bên trong, nhưng chẳng có gì so sánh được với

viên ngọc thực cả. Bên ngoài là vật bằng thuỷ tinh và bên

trong cũng là đồ nữ trang rẻ tiền bằng thuỷ tinh: có mầu

sắc, được cắt theo cùng hình dáng, có cùng trọng lượng

dường như nó là vật tâm linh. Nó không phải vậy.

Tâm linh là bầu trời thuần khiết không có mây. Cho

nên con người tâm linh thực sự không thể nói gì về kinh

nghiệm tâm linh, bởi vì mọi kinh nghiệm tâm linh đều là

loại đồ nữ trang rẻ tiền bằng thuỷ tinh mầu xanh; chúng

không phải là viên ngọc.

Đó là lí do tại sao Phật vẫn im lặng. Khi mọi người hỏi

ông ấy, "Thầy đã chứng ngộ chưa?" ông ấy sẽ im lặng. Khi

mọi người hỏi, "Thầy có biết Thượng đế không?" ông ấy sẽ

chẳng nói gì, ông ấy sẽ mỉm cười hay cười phá lên. Sao

vậy? Tại sao ông ấy lại lảng tránh điều ấy?... Và những

người đần sẽ nghĩ ông ấy lảng tránh bởi vì ông ấy không

biết, ông ấy lảng tránh bởi vì ông ấy chưa kinh nghiệm.

Ông ấy lảng tránh bởi vì ông ấy đã kinh nghiệm. Ông ấy

lảng tránh bởi vì ông ấy biết rằng nói về điều đó sẽ không

tốt; điều đó sẽ là báng bổ.

Chân lí không thể luận bàn. Chúng ta có thể nói về con

đường nhưng chúng ta không thể nói về chân lí. Chúng ta

có thể nói về cách đạt tới nó nhưng chúng ta không thể nói

nó là gì khi ta đạt tới nó.

Saraha đang nói: Tất cả những người nói về kinh

nghiệm đều hư huyễn:

Bị ảo tưởng, họ không biết phân biệt viên ngọc với cái

họ cứ tưởng là ngọc.

Họ coi đồng là vàng.

Bị ràng buộc với suy nghĩ lan man,

họ tưởng ý nghĩ này là thực tại tối thượng.

Họ mong mỏi hoan lạc được kinh nghiệm trong giấc

mơ.

Họ gọi thâm-tâm mau tàn là niềm phúc lạc tối cao vĩnh

viễn.

Họ coi đồng là vàng... Cái cơ sở, cái khách quan họ

nghĩ là chủ quan. Người biết vẫn chưa được biết tới. Họ đã

biết cái gì đó khác và họ đã hiểu lầm; họ nghĩ họ đã biết

người biết. Họ có thể đã biết về kundalini, họ có thể đã biết

một vài linh ảnh tâm linh - những linh ảnh vĩ đại đầy thơ

ca, những linh ảnh vĩ đại rực rỡ và mênh mông - những

linh ảnh vĩ đại, phiêu diêu, nhưng

Họ coi đồng là vàng.

Bị ràng buộc bởi suy nghĩ lan man,

họ tưởng những ý nghĩ này là thực tại tối thượng

Và những người được gọi là thánh nhân và mahatmas

đều bị ràng buộc bởi logic, bị ràng buộc bởi suy nghĩ lan

man... Họ cứ biện minh; họ thậm chí còn cứ cố chứng minh

rằng Thượng đế tồn tại.

Trong Ki tô giáo, hai nghìn năm đã bị phí hoài để

chứng minh rằng Thượng đế tồn tại. Làm sao bạn có thể

chứng minh rằng Thượng đế tồn tại được? Và nếu điều đó

có thể chứng minh được thế thì nó cũng có thể bị bác bỏ

nữa. Logic là con dao hai lưỡi, logic là con đĩ. Nếu nó có

thể chứng minh rằng có Thượng đế thì nó cũng có thể

chứng minh rằng không có Thượng đế. Và trong thực tế cái

hay của nó là thế này: cùng một luận cứ có thể chứng minh

rằng có Thượng đế và cùng một luận cứ đó có thể chứng

minh rằng không có Thượng đế.

Bây giờ luận cứ lớn nhất mà những người được gọi là

thánh nhân đã từng đưa ra cho thế giới là ở chỗ thế giới cần

một đấng sáng tạo, bởi vì làm sao thế giới tồn tại được mà

không có đấng sáng tạo? Bây giờ điều đó có vẻ hấp dẫn, ít

nhất thì cũng đối với tâm trí ngây thơ; với tâm trí chưa chín

chắn nó có vẻ quyến rũ. Vâng, sự tồn tại mênh mông như

thế - làm sao nó có thể có đó mà không có đấng sáng tạo?

Một ai đó nhất định phải có đó, người đã tạo ra nó. Và rồi

chỉ một điều khó chịu nhỏ nhặt mà logic tiêu tan và quả

bóng nổ tung. Một ai đó hỏi, "Thế thì ai tạo ra đấng sáng

tạo?" Đấy cũng chính là cùng một logic ấy. Nếu bạn nói thế

giới cần đấng sáng tạo thì lần nữa đấng sáng tạo của bạn sẽ

cần một đấng sáng tạo, và cứ như thế mãi, phát buồn nôn.

Bạn có thể tiếp tục và bạn có thể nói số một đã tạo ra thế

giới, rồi số hai tạo ra số một, rồi số ba tạo ra số hai... bạn có

thể tiếp tục mãi. Nhưng câu hỏi chung cuộc vẫn còn như

cũ: Ai tạo ra cái đầu tiên, cái nguyên thuỷ?

Nếu bạn chấp nhận rằng cái nguyên thuỷ không được

tạo ra thế thì tất cả mọi sự nhặng sị này là về gì? Thế thì tại

sao không nói rằng thế giới này là không được tạo ra? Nếu

Thượng đế còn có thể không được tạo ra thì cái gì sai khi

đơn giản nói rằng thế giới vẫn có đó mà chẳng có ai tạo ra

nó cả? Điều đó dường như hợp lí hơn, hơn là cứ tiếp tục cái

logic ngu xuẩn này chẳng dẫn đến đâu cả.

Nhìn vào các luận cứ đã được nêu ra cho Thượng đế:

tất cả chúng đều ngu ngốc và đần độn. Đó là lí do tại sao

bạn không thể thuyết phục được dù chỉ một kẻ vô thần về

Thượng đế của bạn. Còn những người đã bị thuyết phục,

vâng, họ đã bị thuyết phục; thì đấy lại không phải là vấn đề.

Bạn không thể thuyết phục được một tâm trí nghi ngại, luận

cứ của bạn chẳng ích gì; trong thực tế luận cứ riêng của bạn

sẽ tạo ra khó khăn cho bạn.

Saraha đang nói gì? Saraha đang nói: Người đã biết về

thực tại bên trong mình thì biết rằng chẳng có chứng cớ nào

khác hơn việc hiểu biết nó. Người đó không tin vào các ý

nghĩ lan man. Người đó không nêu ra bất kì logic nào cho

nó; nó là phi logic, nó nằm ngoài lập luận. Nó là như vậy.

Bạn có thể kinh nghiệm nó hoặc bạn có thể bỏ mặc nó,

nhưng không có cách nào chứng minh nó hay bác bỏ nó.

Hữu thần và vô thần cả hai đều vô nghĩa. Tôn giáo chẳng

liên quan gì với họ; tôn giáo là việc kinh nghiệm về điều

đang hiện hữu. Gọi nó bằng bất kì cái tên nào bạn chọn để

gọi nó: gọi nó là Thượng đế, gọi nó là niết bàn, gọi nó là

XYZ, bất kì thứ gì, điều đó chẳng thành vấn đề - nhưng

kinh nghiệm nó đi. Mật tông tin vào kinh nghiệm; Mật tông

không phải là trí năng, nó mang tính chất tồn tại.

Họ coi đồng là vàng... và Thượng đế này được chứng

minh bằng luận cứ thì họ nghĩ là Thượng đế của mình. Rồi

họ tạo ra hình ảnh về Thượng đế, và rồi họ tôn sùng; họ tôn

sùng suy luận của riêng họ. Cái gì có trong nhà thờ, đền

đài, đền Mô ha mét giáo của bạn? - chẳng có gì ngoài suy

luận. Thế giới cần một đấng sáng tạo, cho nên bạn tin vào

một đấng sáng tạo. Đấy là niềm tin, và tất cả mọi niềm tin

đều là giả tạo. Niềm tin là một thứ nhân tạo. Vâng, nó an

ủi, nó cho bạn an ninh, thoải mái nào đó. Thật thuận tiện

mà tin rằng ai đó đang coi sóc thế giới, bằng không người

ta sẽ trở nên sợ hãi: chẳng ai chăm nom điều đó, vào bất kì

lúc nào, bất kì cái gì cũng có thể chạy sai. Điều đó cho bạn

niềm tin.

Cũng gần giống như khi bạn trong chiếc máy bay và

bạn biết rằng phi công đang có đó, người đó đang trông

nom mọi thứ. Rồi bỗng nhiên bạn tới nhìn vào buồng lái và

chẳng thấy có ai cả! Bây giờ điều gì sẽ xảy ra? Ngay

khoảnh khắc trước bạn còn đang nhấm nháp nước chè và

nói chuyện, rồi bạn quan tâm tới người đàn bà ngồi cạnh

bạn, bạn đang định chạm vào cô ấy, và mọi điều... Bây giờ

mọi thứ biến mất - phi công không có đó! Cho tới khoảnh

khắc này mọi thứ đều thuận tiện. Bạn sẽ trở nên rất bồn

chồn, bạn sẽ bắt đầu run rẩy; bạn sẽ mất mọi sự quan tâm

đến đàn ông và đàn bà, đến đồ ăn thức uống, mọi thứ đã

chấm dứt! Nhịp thở của bạn sẽ rối loạn, huyết áp sẽ rối

loạn, tim bạn sẽ bắt đầu đập không đều và bạn bắt đầu vã

mồ hôi... trong chiếc máy bay có điều hoà!

Thật thuận tiện mà tin rằng trong buồng lái có phi công

biết mọi thứ và mọi việc đều ổn thoả - Thượng đế lo tất cả.

Bạn có thể vẫn theo con đường của mình. Ngài là 'Cha',

ngài biết mọi người. Thậm chí chỉ một chiếc lá rơi cũng

theo ý chí của ngài, cho nên mọi thứ đều tốt lành. Thật là

thuận tiện. Tâm trí quả rất tinh ranh. Thượng đế này là một

phần của tâm trí tinh ranh.

Saraha nói: Niềm tin không phải là chân lí, và chân lí

không bao giờ là niềm tin cả. Chân lí là việc kinh nghiệm.

Họ tưởng ý nghĩ này là thực tại tối hậu.

Họ mong mỏi hoan lạc được kinh nghiệm trong giấc

mơ.

Đấy là những hoan lạc được kinh nghiệm trong giấc

mơ.

Họ gọi thâm-tâm mau tàn là phúc lạc tối cao vĩnh viễn.

Đôi khi bạn bị thân thể mình lừa dối và bằng cách nào

đó nếu bạn xoay xở vượt ra ngoài thân thể, bạn lại bị tâm

trí lừa dối, kẻ lừa dối hơn nữa. Ba luân xa đầu tiên thuộc về

thân thể. Ba luân xa tiếp sau thuộc về tâm trí. Và luân xa

thứ bảy vượt ra ngoài cả hai loại này.

Thông thường những người si mê vẫn còn trong ba

luân xa đầu, các luân xa thấp, họ lơ lửng ở đó. Ba luân xa

đầu đó - muladhar, swadhishthan và manipura - đều gắn

với đất. Chúng là các địa luân xa, chúng bị hấp dẫn bởi

trọng lực, chúng bị kéo xuống. Ba luân xa tiếp: anahata,

vishuddha và agya là gắn với trời; lực trọng trường không

ảnh hưởng tới chúng. Chúng chịu ảnh hưởng của luật khác

gọi là bay lên, chúng được kéo lên. Ba luân xa này gồm

tâm trí; thân thể bị kéo xuống, tâm trí bị kéo lên. Nhưng

bạn thì chẳng phải là cả hai; bạn là luân xa thứ bảy, chẳng

phải thân thể lẫn chẳng phải tâm trí.

Cho nên những người si mê sống trong ba luân xa đầu,

và những người kìm nén ba luân xa đầu bắt đầu sống trong

ba luân xa thứ hai. Nhưng họ tạo ra thế giới mơ... Nó gần

giống như thế này: một hôm bạn nhịn ăn và ban đêm bạn

mơ thấy rằng bạn được nữ hoàng nước Anh chiêu đãi, một

bữa tiệc linh đình được dọn cho bạn để tỏ lòng trân trọng,

và bạn ăn hết mọi món - tất cả mọi thứ bạn muốn ăn mà

bác sĩ thì không cho phép ăn. Việc nhịn ăn tạo ra giấc mơ

này, nhưng giấc mơ này không thể nuôi dưỡng được bạn.

Sáng dậy bạn vẫn đói như trước - còn đói hơn. Nhưng giấc

mơ này cũng giúp ích đôi chút. Nó giúp ích thế nào? Nó

giúp bạn tiếp tục ngủ. Bằng không, cơn đói sẽ đánh thức

bạn liên tiếp, bạn sẽ cứ tỉnh dậy. Giấc mơ này là thủ đoạn

của tâm trí. Tâm trí nói, "Không cần dậy; không cần đi

trong bóng tối và tìm tủ lạnh. Mình có thể ngủ ngon. Trông

này, nữ hoàng đã mời mình! Có biết bao thức ăn trên bàn,

sao mình lại không ăn?" - và bạn bắt đầu ăn. Đấy là thủ

đoạn của tâm trí, nó giúp bạn giữ yên giấc ngủ.

Điều đó xảy ra nhiều lần... bụng bạn đầy nước và bạn

bắt đầu mơ rằng bạn đang trong nhà vệ sinh. Điều này có

ích - không phải vì nó làm nhẹ bụng mà nó giữ bạn bị lừa

và giấc ngủ có thể tiếp tục. Niềm tin của bạn, tưởng tượng

của bạn, giấc mơ của bạn, ngôi đền của bạn, nhà thờ của

bạn, gurudwaras của bạn giúp bạn vẫn còn ngủ. Chúng là

thuốc an thần.

Họ gọi thâm-tâm mau tàn là phúc lạc tối cao vĩnh

viễn... Đôi khi họ nghĩ phúc lạc tối cao có đó trong thân

thể, và rồi họ bắt đầu nghĩ trong tưởng tượng của tâm trí

rằng kundalini đang dâng lên... ánh sáng, và cả nghìn lẻ

một linh ảnh và kinh nghiệm. Nhận biết về những linh ảnh

này đi.

Người hướng tâm linh thực sự không quan tâm đến bất

kì nội dung nào của tâm thức. Người đó quan tâm tới chính

bản thân tâm thức.

Bằng biểu tượng EVAM họ nghĩ việc tự tẩy rửa được

đạt tới. Theo những tình huống khác nhau đòi hỏi bốn

lớp xi

họ gọi điều họ đã tưởng tượng là tính tự phát.

Nhưng đây là nhìn vào sự phản xạ trong gương.

Qua mật chú, qua âm thanh, người ta có thể đạt tới sự

thanh bình tâm thần nào đó. Vâng qua TM* người ta có thể

đạt tới ảo giác nào đó. Nếu bạn lẩm nhẩm một âm nào đó

liên tục, nó sẽ làm dịu bạn; nó cho bạn nhịp điệu nào đó

trong tâm trí, nó mang tính nhịp điệu. Nếu bạn lẩm nhẩm,

"Om, Om, Om," hay "Evam, Evam, Evam," hay bất kì mật

chú nào... "Coca-Cola" cũng có tác dụng; nếu bạn lẩm

nhẩm, "Coca-Cola, Coca-Cola, Coca-Cola," rất đáng yêu và

tôn kính, điều đó sẽ có ích. Bạn cũng có thể đặt một chai

Coca-Cola phía trước mình rồi đặt thêm vài bông hoa, vài

trái cây trước nó; điều đó sẽ có ích. Bạn phải tạo ra bầu

không khí... bạn có thể đốt vài nén hương trước chai Coca-

Cola và lẩm nhẩm câu mật chú. Nếu bạn làm việc đó đủ

lâu, sẽ có mọi khả năng bạn cảm thấy dễ chịu. Bạn đã tự

thôi miên mình, bạn đã gợi ý điều gì đó cho chính mình;

bạn đã gợi ý rằng thanh bình sẽ đến, im lặng sẽ đến, hạnh

phúc sẽ đến. Đấy chẳng là gì khác hơn tự gợi ý, tự gợi ý rất

gián tiếp.

Emile Coué đề nghị những gợi ý trực tiếp. Nghĩ: Mình

đang khoẻ lên, mình đang mạnh khoẻ, mình đang hạnh

phúc hơn - những gợi ý trực tiếp. Emile Coué là người

phương Tây - lương thiện, thật thà và trực tiếp hơn.

Maharishi Mahesh Yogi gợi ý rằng bạn lẩm nhẩm, Om,

Om, Ram, Ram - điều này là gián tiếp, nhiều tâm trí

phương Đông hơn; không trực tiếp, nhưng gián tiếp.

Nhưng mọi gợi ý ấy đều được đưa ra - rằng nếu bạn lẩm

nhẩm câu mật chú này hai lần mỗi ngày trong hai mươi

phút vào buổi sáng và hai mươi phút vào buổi tối bạn sẽ trở

nên mạnh khoẻ hơn, bạn sẽ trở nên im lặng hơn, bạn sẽ trở

nên phúc lạc hơn... thế này thế nọ. Mọi thứ đều được hứa

hẹn - thậm chí cả lương của bạn cũng sẽ tăng lên. Bạn sẽ

được đề bạt và toàn bộ thế giới sẽ hợp tác với bạn trong

tham vọng của bạn.

Điều này được cho một cách gián tiếp. Và rồi bạn

chẳng còn quan tâm đến mật chú nữa, bạn đang quan tâm

đến những thứ này: sức khoẻ, của cải, quyền lực, danh

vọng, im lặng, vui vẻ - bạn đang quan tâm tới những thứ

ấy. Vì mối quan tâm này mà bạn lẩm nhẩm mật chú. Nhưng

mỗi lần bạn nhẩm "Om," bạn biết rằng những thứ ấy sắp

xảy ra. Và những câu mật chú này linh nghiệm trong phạm

vi mà bạn tin vào chúng; nếu bạn không tin chúng sẽ không

linh nghiệm. Nếu bạn không tin, chúng không có tác dụng.

Nếu bạn không tin, Mahesh Yogi sẽ nói, "Làm sao chúng

linh nghiệm được? Bạn phải tin vào chúng, thế thì chúng

mới có tác dụng."

Chân lí vận hành chẳng cần niềm tin của bạn; chân lí

không cần niềm tin về phần bạn. Chỉ phi chân lí mới vận

hành qua niềm tin. Phi chân lí cần niềm tin về phần bạn,

bởi vì chỉ nếu bạn tin thì bạn mới có thể tạo ra thái độ tâm

trí, tự gợi ý, bầu khí hậu mà trong đó nó vận hành.

Bằng biểu tượng EVAM họ nghĩ việc tự tẩy rửa đã đạt

được.

Và Saraha đang nói rằng điều này là vô nghĩa. Bằng

cách lẩm nhẩm một âm nào đó, không sáng tỏ nào được đạt

tới, bạn chỉ trở nên u ám hơn. Không phải là bạn trở nên

thông minh và nhận biết hơn mà bạn trở nên buồn ngủ hơn.

Tất nhiên bạn sẽ có giấc ngủ ngon hơn, đó là phần tốt của

nó. Và không phải là ngẫu nhiên mà kĩ thuật thiền TM của

Mahesh Yogi đã trở nên có ảnh hưởng tại Mĩ, bởi vì Mĩ là

nước đang phải chịu đựng rất nhiều về chứng mất ngủ. Mọi

người không thể ngủ được, họ cần thủ thuật nào đó để ngủ;

TM có thể giúp giấc ngủ tốt. Và tôi không phản đối TM

nếu bạn chỉ dùng nó cho ngủ ngon - tôi ủng hộ tất cả những

gì giúp cho giấc ngủ ngon. Nhưng nhớ cho, nó không thể

dẫn bạn tới bất kì cõi giới nào khác, nó không thể trở thành

cuộc hành trình tâm linh của bạn; nó là an ủi thôi.

Bởi những tình huống khác nhau đòi hỏi bốn lớp xi...

Bốn lớp xi này phải được hiểu rõ. Mật tông nói về bốn

lớp xi, bốn mudras - ấn. Để đạt tới điều tối thượng, người

ta đi qua bốn cánh cửa, người đó phải mở bốn cái khoá.

Bốn cái khoá này được gọi là bốn lớp xi, bốn ấn. Chúng rất

quan trọng.

Ấn đầu tiên được gọi là ấn nghiệp. Nó là cánh cửa bên

ngoài nhất, chính phần ngoại vi của bản thể bạn. Nó ở bên

ngoài nhất thế... tựa như hành động, đó là lí do tại sao nó

được gọi là ấn nghiệp. Nghiệp có nghĩa là hành động. Hành

động là cốt lõi bên ngoài nhất của bản thể bạn, là phần

ngoại vi của bạn; điều bạn làm là phần ngoại vi của bạn.

Bạn yêu ai đó, bạn ghét ai đó, bạn giết ai đó, bạn bảo vệ ai

đó - cái bạn làm là phần ngoại vi của bạn. Hành động là

phần bên ngoài nhất của bản thể bạn.

Lớp xi thứ nhất được mở ra thông qua việc trở thành

toàn bộ trong hành động của bạn... toàn bộ trong hành động

của bạn. Bất kì điều gì bạn làm, làm một cách toàn bộ, và

sẽ nảy sinh vui vẻ lớn - không phải bằng cách lẩm nhẩm

mật chú nào đó mà bằng cách thực hiện nó một cách toàn

bộ. Nếu bạn giận dữ, hãy giận dữ toàn bộ; bạn sẽ học rất

nhiều từ giận dữ toàn bộ đó. Nếu bạn giận dữ toàn bộ và

tràn đầy nhận biết về giận dữ của bạn, một ngày nào đó

giận dữ sẽ biến mất. Sẽ không còn vấn đề giận dữ chút nào

nữa; bạn đã hiểu nó, nó có thể bị vứt bỏ bây giờ.

Bất kì cái gì được hiểu đều có thể bị vứt bỏ dễ dàng.

Chỉ những gì không được hiểu mới tiếp tục lơ lửng quanh

bạn. Cho nên hãy là toàn bộ, dù nó là bất kì cái gì. Cố là

toàn bộ và tỉnh táo: đây là chiếc khoá đầu tiên cần phải mở.

Bao giờ cũng nhớ, Mật tông rất khoa học. Nó không

nói phải lẩm nhẩm mật chú. Nó nói: Trở nên nhận biết

trong hành động của bạn.

Lớp xi thứ hai được gọi là ấn hiểu biết gyana - sâu hơn

một chút so với lớp xi đầu, vào bên trong hơn một chút so

với lớp xi đầu: tựa như tri thức. Hành động là thứ bên ngoài

nhất, tri thức có sâu hơn một chút. Bạn có thể quan sát điều

tôi đang làm nhưng bạn không thể quan sát điều tôi đang

biết. Biết là bên trong hơn. Hành động có thể được quan

sát, biết không thể được quan sát, chúng là bên trong hơn.

Lớp xi thứ hai là lớp xi của việc biết - ấn hiểu biết.

Bây giờ bắt đầu biết điều bạn thực sự biết đi và dừng

việc tin vào những thứ bạn thực sự không biết. Ai đó hỏi

bạn, "Có Thượng đế không?" và bạn nói, "Có chứ, có

Thượng đế." Nhớ lấy, bạn có thực biết không? Nếu bạn

không biết, xin đừng nói rằng bạn biết. Hãy nói, "tôi không

biết." Nếu bạn là người thật thà và bạn chỉ nói điều bạn

biết, và bạn chỉ tin điều bạn biết, cái khoá thứ hai sẽ bị phá

vỡ. Nếu bạn vẫn cứ biết mọi thứ, tin mọi thứ mà bạn không

thực sự biết, cái khoá thứ hai sẽ không bao giờ bị phá vỡ.

Tri thức giả là kẻ thù của tri thức thật. Và mọi niềm tin đều

là tri thức giả; bạn đơn giản tin chúng. Và những người

được gọi là thánh nhân của bạn vẫn cứ bảo bạn: Trước hết

hãy tin tưởng rồi bạn sẽ biết.

Mật tông nói: Trước hết hãy biết, rồi niềm tin có đó.

Nhưng đó là loại niềm tin hoàn toàn khác; đó là tin cậy.

Bạn tin vào Thượng đế, bạn biết về mặt trời. Mặt trời mọc,

bạn không cần phải tin vào điều đó; nó đơn giản có đó, bạn

biết nó. Thượng đế thì bạn tin. Thượng đế là hư ảo; Thượng

đế của bạn là hư ảo.

Còn có Thượng đế khác - Thượng đế tới qua hiểu biết.

Nhưng điều đầu tiên được rút ra là, vứt bỏ tất cả những gì

bạn không biết mà chỉ tin vào những gì bạn đã biết. Bạn

bao giờ cũng tin và bạn bao giờ cũng mang tải trọng. Vứt

bỏ tải trọng đi. Trong một trăm thứ bạn sẽ dỡ đi gần như

chín mươi tám thứ - dỡ đi. Chỉ vài thứ sẽ còn lại đó mà bạn

thực sự biết. Bạn sẽ cảm thấy tự do lớn lao; đầu bạn sẽ

không còn nặng nề nữa. Và với tự do cùng phi trọng lượng

đó bạn đi vào ấn thứ hai. Cái khoá thứ hai bị phá vỡ.

Ấn thứ ba được gọi là ấn thời gian samaya. Samaya

nghĩa là thời gian. Tầng đầu tiên, tầng bên ngoài nhất là

hành động, tầng thứ hai là việc biết, tầng thứ ba là thời

gian. Tri thức đã biến mất, bạn chỉ còn trong bây giờ; chỉ

sự thuần khiết nhất của thời gian là còn lại. Quan sát, thiền

về nó. Trong khoảnh khắc bây giờ, không có tri thức. Tri

thức bao giờ cũng là về quá khứ. Trong khoảnh khắc bây

giờ không có tri thức, nó hoàn toàn tự do khỏi tri thức.

Ngay khoảnh khắc này, nhìn vào tôi, bạn biết gì? Chẳng cái

gì được biết cả. Nếu bạn bắt đầu nghĩ rằng bạn biết cái này

cái nọ, điều đó sẽ đến từ quá khứ. Điều đó sẽ không đến từ

khoảnh khắc này, không đến từ bây giờ. Tri thức là từ quá

khứ, hay phóng chiếu vào tương lai. Bây giờ là sự thuần

khiết của tri thức.

Cho nên lớp xi thứ ba là ấn thời gian samaya - trong

khoảnh khắc này. Tại sao Saraha lại gọi nó là samaya, thời

gian? Thông thường bạn nghĩ rằng quá khứ, hiện tại và

tương lai là ba phân chia của thời gian. Đó không phải là

cách hiểu của Mật tông. Mật tông nói: chỉ hiện tại mới là

thời gian. Quá khứ là kí ức, tương lai là tưởng tượng. Chỉ

hiện tại mới là thời gian; quá khứ không hiện hữu, nó đã

qua rồi. Tương lai không hiện hữu; nó còn chưa tới. Chỉ

hiện tại mới hiện hữu.

Hiện hữu trong hiện tại là thực sự trong thời gian.

Ngoài ra bạn hoặc là trong kí ức hoặc bạn trong mơ mộng,

cả hai đều giả - đều là ảo giác. Cho nên lớp xi thứ ba bị phá

vỡ bởi việc hiện hữu trong bây giờ. Thứ nhất, là toàn bộ

trong hành động của bạn - lớp xi thứ nhất bị phá vỡ. Thứ

hai, thật thà trong việc biết của bạn - lớp xi thứ hai bị phá

vỡ. Bây giờ, chỉ ở đây và bây giờ - lớp xi thứ ba bị phá vỡ.

Và lớp xi thứ tư được gọi là ấn đại biểu tượng

mahamudra, điệu bộ lớn... bên trong nhất, tựa không gian.

Bây giờ chỉ còn lại không gian thuần khiết nhất. Hành

động, việc biết, thời gian, không gian - đây là bốn lớp xi.

Không gian là cốt lõi bên trong nhất của bạn, cái trục của

bánh xe, hay trung tâm của cơn xoáy lốc. Trong cái trống

rỗng bên trong nhất của bạn là không gian, bầu trời. Đây là

ba tầng: tầng thứ nhất là thời gian, rồi tầng thứ hai là việc

biết, rồi đến tầng thứ ba là hành động. Đây là bốn lớp xi

cần phải bị phá vỡ. Bằng cách trích dẫn mật chú, điều đó

không xảy ra. Bạn đừng tự lừa mình. Công việc lớn được

cần tới là đi vào trong thực tại của bạn.

Bằng biểu tượng EVAM họ nghĩ việc tự tẩy rửa đã đạt

được.

Bởi những tình huống khác nhau đòi hỏi bốn lớp xi ...

Việc tẩy rửa không được đạt tới nếu không có việc phá

vỡ bốn lớp xi đó. Sáng tỏ chỉ được đạt tới khi bạn đã đi vào

không gian thuần khiết của mình.

...họ gọi điều họ đã tưởng tượng là tự phát.

Nhưng đấy chỉ là nhìn vào sự phản xạ trong gương.

Vâng, bạn có thể tạo ra gương bằng cách tụng niệm

mật chú, và trong tấm gương đó bạn có thể thấy mọi thứ.

Đấy là cái nhìn qua tinh thể, không nhiều giá trị lắm. Hệt

như nhìn vào mặt hồ và nghĩ rằng mặt trăng có đó; mặt

trăng không có đó, nó chỉ phản xạ ở đấy thôi. Đấy là việc

nhìn vào trong gương và nghĩ rằng bạn đang trong đó; bạn

không có trong đó. Đừng ngây thơ - trẻ nhỏ mới nghĩ như

thế. Bạn đã quan sát đứa nhỏ lần đầu tiên được đưa tới

trước gương chưa? Nó cố gắng đi vào trong gương... nó cố

tóm lấy gương và cố tìm cách đi vào trong đó và gặp đứa

trẻ trong đó. Khi nó thấy điều đó khó khăn, nó cố đi qua

phía sau của tấm gương: có thể có một chỗ và đứa trẻ ngồi

ở đó. Đây là điều chúng ta vẫn đang làm.

Tâm trí là tấm gương. Vâng, bằng cách lặp lại câu mật

chú TM bạn có thể làm cho tấm gương này rất, rất rõ.

Nhưng nhìn vào trong tấm gương đó bạn sẽ không đạt tới

được. Trong thực tế cần phải vứt bỏ hoàn toàn tấm gương

đó, ném nó đi. Bạn phải chuyển vào trong. Và điều này rất

thực tế: hành động đầu tiên, rồi việc biết, rồi thời gian, rồi

đến không gian.

Như dưới sức mạnh của ảo tưởng bầy hươu xô về

nguồn nước trong ảo tưởng không nhận ra, cho nên ảo

tưởng không làm dịu đi cơn khát của chúng, chúng bị

gắn vào xiềng xích và tìm thấy hoan lạc trong chúng,

nói rằng tất cả đều là thực tế tối thượng.

Đây là câu kinh cuối.

Saraha nói: Nhìn vào trong gương, bạn đang nhìn vào

ảo ảnh. Bạn đang mơ. Bạn đang giúp cho ảo tưởng được

tạo ra xung quanh mình, bạn đang hợp tác trong giấc mơ.

Như dưới sức mạnh của ảo tưởng bầy hươu xô về

nguồn nước trong ảo tưởng không nhận ra, cho nên ảo

tưởng không làm dịu đi cơn khát của chúng, chúng bị

gắn vào xiềng xích.

Chúng ta bị lừa dối bởi sự phản xạ vốn xảy ra trong

tâm trí ta.

Tôi đã từng nghe một câu chuyện hay...

Một người muốn đi dạo trong vùng núi xứ Wales đã đặt

tổng hành dinh của mình ở một quán rượu trong một thị

trấn thôn quê. Anh ta thấy các buổi tối đều chán ngắt, vì

chẳng có gì xảy ra, và chuyện ở quán rượu thì gần như chỉ

về cừu, gần như chỉ về xứ Wales.

Anh ta hỏi người chủ cách bắt đầu tìm phụ nữ trong thị

trấn, và điều đó mới đáng gây chấn động.

"Này ông bạn, đây là xứ Wales. Chúng tôi không thể có

gái mãi dâm được - nhà thờ không bao giờ cho phép điều

đó."

Ông khách có vẻ buồn và người chủ tiếp tục, "Tất

nhiên chúng tôi cũng có bản tính con người hệt như mọi

nơi khác, nhưng điều ông định nói tới thì bị giữ cho khuất

mắt." Ông ta tiếp tục giải thích rằng trên núi, sau lưng núi,

có nhiều hang động, trang bị đồ đạc đầy đủ và với mọi điều

kiện thuận lợi. Điều người khách lạ phải làm là lên núi lúc

chạng vạng tối và hô to, "Yoo-hoo!" và nếu có giọng phụ

nữ vọng lại "Yoo-hoo" thì có thể thương lượng các điều

khoản. Nếu cô ấy đã ước hẹn thì không có câu trả lời.

Tối hôm đó chàng người Anh hô lên yoo-hoo trên

đường từ hang nọ sang hang kia, nhưng chẳng gặp may

chút nào; cuối cùng anh ta quyết định quay lại và uống

rượu. Nhưng ở chân núi anh ta tìm ra một cái hang tươi

mát. Anh ta hô to "Yoo-hoo!" Tiếng vọng "Yoo-hoo! Yoohoo!"

dội lại thật rõ ràng.

Anh ta chạy xô vào trong hang - và bị tầu hoả chẹt

chết.

Đó chính là điều ảo giác là gì: bạn hình dung, bạn

tưởng tượng, rồi bạn bắt đầu thấy. Và rồi bất kì cớ nào

cũng được. Khi người khát trong sa mạc, bị lạc, và cơn khát

cháy bỏng như ngọn lửa bên trong và người đó chỉ nghĩ

đến nước - chỉ nước và không gì khác - có mọi khả năng là

người đó sẽ bắt đầu thấy nước ở đâu đó. Người đó sẽ phóng

chiếu nó; ham muốn của người đó nhiều đến mức người đó

sẽ phóng chiếu nó. Người đó sẽ bắt đầu thấy hồ ảo giác,

người đó sẽ nghĩ tới gió mát đã tới. Người đó sẽ nghĩ mình

đã thấy một vài con chim bay qua, người đó thậm chí còn

sẽ nghĩ rằng mình có thể thấy vài cây xanh - không chỉ có

cây xanh mà còn sự phản xạ của chúng trong nước. Người

đó sẽ chạy xô tới.

Đấy chính là cách chúng ta cũng chạy xô tới trong hàng

triệu kiếp sống... kêu lên yoo-hoo hết hang nọ đến hang kia.

Và bạn vẫn không thấy rằng mỗi lần bạn đi bạn chẳng tìm

thấy nước gì cả, cơn khát chẳng dịu đi. Nhưng bạn chẳng

học được gì.

Vấn đề lớn nhất với con người là ở chỗ người đó không

học. Bạn yêu người đàn bà hay người đàn ông, bạn nghĩ

rằng cơn khát của bạn sẽ dịu đi - nó chẳng dịu đi cho.

Nhưng bạn cũng chẳng học được điều gì, bạn bắt đầu

hướng sang hang khác. Bạn không có tiền và bạn nghĩ rằng

nếu bạn có mười nghìn ru pi mọi sự sẽ ổn thoả. Và rồi

mười nghìn đồng cũng có, nhưng bạn chẳng học được gì.

Trước lúc đó bạn bắt đầu nghĩ, "Chừng nào mình còn chưa

có một chục vạn ru pi thì làm sao mình hạnh phúc được?"

Một chục vạn rồi cũng xảy ra, nhưng bạn vẫn chưa học

được điều gì; bây giờ bạn nghĩ rằng chừng nào chưa có đó

trăm vạn làm sao bạn sung sướng được? Và rồi cứ như thế

mãi bạn đi... hết hang này đến động kia, từ lần sinh này

sang lần sinh khác, từ cái chết này đến cái chết khác. Con

người dường như gần như không có khả năng học hỏi.

Những người học, chỉ họ mới biết.

Bắt đầu học đi. Tỉnh táo thêm chút nữa; để cho từng

kinh nghiệm đem lại cho bạn việc biết nào đó. Bạn đã hỏi

bao nhiêu lần về bao nhiêu thứ mà chẳng có gì xảy ra. Bây

giờ dừng việc hỏi lại. Bạn đã ham muốn bao nhiêu thứ và

mỗi ham muốn đều dẫn bạn đến thất vọng. Bạn vẫn cứ ham

muốn sao? Bạn đã làm cùng một việc ngày hôm qua và

ngày hôm kia, và bạn sẽ làm cùng việc ấy ngày hôm nay và

ngày mai nữa - mà chẳng cái gì đến từ nó. Và bạn cứ di

chuyển và làm cùng một thứ lặp đi lặp lại.

Học là trở thành mang tính tôn giáo. Từ đệ tử - disciple

- thật hay, nó có nghĩa là người có khả năng học. Nó xuất

xứ từ một gốc có nghĩa là 'việc học'; người có khả năng học

là đệ tử.

Trở thành đệ tử... đệ tử của cuộc sống riêng của bạn.

Cuộc sống là thầy thực của bạn. Và nếu bạn không thể học

được từ cuộc sống, bạn còn có thể học được từ đâu nữa?

Nếu như người thầy cuộc sống vĩ đại bị thất bại với bạn và

không thể dạy được bạn điều gì, thế thì ai sẽ có khả năng

dạy bạn điều gì?

Vũ trụ này là trường đại học. Mỗi khoảnh khắc đều là

một bài học, mỗi thất vọng là một bài học. Mỗi lần bạn thất

bại, học điều gì đó đi! Dần dần, tia sáng hiểu biết đi vào.

Từng li một người ta trở nên tỉnh táo; từng li một người ta

trở nên có khả năng không lặp lại sai lầm cũ. Khoảnh khắc

bạn bắt đầu học, bạn đang tới gần hơn với Thượng đế.

Và đừng tin vào chút xíu hiểu biết, đừng nghĩ rằng bạn

đã tới nơi. Một sự học hỏi nho nhỏ đôi khi làm cho mọi

người thoả mãn lắm lắm... rồi họ dừng lại, rồi họ dừng

chuyển động. Đây là cuộc hành trình vĩ đại, đây là cuộc

hành trình vô tận. Bạn càng học nhiều, bạn càng có khả

năng học thêm. Bạn càng học nhiều, bạn càng có khả năng

trở nên nhận biết rằng nhiều thứ nữa cần phải học. Bạn

càng biết nhiều, bí ẩn lại càng trở nên mãnh liệt hơn. Bạn

càng biết nhiều, bạn càng cảm thấy mình biết ít. Với việc

biết, những cánh cửa mới mở ra. Với việc biết, những bí ẩn

mới được lộ ra.

Cho nên đừng thoả mãn với đôi chút tri thức. Chừng

nào Thượng đế còn chưa tự hiển lộ mình cho bạn, đừng bao

giờ bằng lòng. Hãy để có không bằng lòng lớn về tâm linh.

Chỉ những người đủ may mắn mới có sự không bằng

lòng thiêng liêng này trong họ - rằng không cái gì ngoài

Thượng đế mới thoả mãn cho họ - chỉ họ mới đạt tới.

Không ai khác.

Đủ cho hôm nay.

************************************************************

#4 Tin cậy không thể bị phản bội

Tại sao bao giờ tôi cũng quan tâm tới đàn bà

đã có chồng?

Làm sao tôi có thể có giúp đỡ của người đàn

bà bên ngoài để được hợp nhất với người

đàn bà bên trong?

Tại sao người ta lại bỏ lỡ thầy? Tôi có thể

thấy ngu si của họ - tại sao họ lại không thấy

điều đó?

Tại sao dục lại trở thành điều kiêng kị trong

bao nhiêu thời đại?

#4Câu hỏi thứ nhất:

Osho kính yêu, tại sao bao giờ tôi cũng quan

tâm tới đàn bà đã có chồng?

Chẳng có gì đặc biệt về điều ấy cả, đấy là tật bệnh rất

thông thường đã tồn tại gần như theo qui mô dịch bệnh.

Nhưng có lí do cho nó đấy. Hàng triệu người, cả đàn ông

lẫn đàn bà, đều quan tâm tới người đã có gia đình. Trước

tiên, người chưa xây dựng gia đình chứng tỏ rằng chưa ai

ham muốn người đó cả; người có gia đình chứng tỏ rằng có

ai đó đã ham muốn về người ấy. Còn bạn hay bắt chước

đến độ bạn thậm chí không thể yêu được chính mình. Bạn

nô lệ đến độ khi ai đó khác đang yêu ai đó, chỉ thế thì bạn

mới theo sau. Nhưng nếu một người một mình và không ai

yêu họ, bạn đâm ra hoài nghi. Có thể là người này chẳng có

giá trị gì, bằng không thì tại sao người ấy phải đợi cho

mình? Người đã có gia đình có sức hấp dẫn lớn đối với

người hay bắt chước.

Thứ hai là, những người ít yêu - những người trong

thực tế không biết yêu là gì; họ hay ganh đua nhau nhiều

hơn. Người đàn ông đã có vợ này... và bạn trở nên quan

tâm, hay người đàn bà đã có chồng này... bạn trở nên quan

tâm, bởi vì bây giờ có khả năng ganh đua. Cuộc chiến tay

ba là có thể. Người đàn bà không phải dễ gì có sẵn, sẽ có

giằng co ganh đua.

Trong thực tế bạn đâu có quan tâm tới người đàn bà,

bạn quan tâm tới việc giằng co. Bây giờ người đàn bà gần

như là món hàng; bạn có thể tranh đấu vì cô ấy và bạn có

thể chứng tỏ khí khái của mình. Bạn có thể thế chỗ người

chồng và bạn sẽ cảm thấy khoái chí... một trò bản ngã, nó

không phải là hành trình tình yêu. Nhưng nhớ, một khi bạn

thành công trong việc phế bỏ người chồng, bạn cũng sẽ

không còn quan tâm tới người đàn bà chút nào nữa. Bạn đã

quan tâm tới người đàn bà có chồng; làm sao bạn có thể

quan tâm tới người đàn bà không chồng bây giờ được? -

bạn lại sẽ bắt đầu tìm sự giằng co đâu đó lần nữa. Bạn bao

giờ cũng tạo ra tay ba. Đấy không phải là yêu.

Nhân danh tình yêu có ghen tuông, có ganh đua, có gây

hấn, có bạo hành. Bạn muốn chứng tỏ bản thân mình, bạn

muốn chứng tỏ mình hơn người kia: Trông đây, ta đã chiếm

được người đàn bà của anh. Một khi bạn đã chiếm người

đàn bà, bạn sẽ không còn quan tâm tới người đàn bà đó

chút nào nữa, bởi vì cô ấy không còn là điều ham muốn

nữa; điều ham muốn là một loại chiến thắng.

Tôi đã từng nghe...

Một nhà doanh nghiệp nổi tiếng có vợ bị chết và đám

tang trở thành một sự kiện công chúng rất quan tâm. Mọi vị

chức sắc của thành phố đều đến dự và gần như tất cả đều

quen biết với người mất vợ này. Tuy nhiên lại có người lạ

tới và anh ta dường như đau khổ hơn mọi người khác.

Trước khi đám tang kết thúc anh ta bị suy sụp hoàn toàn.

Người chồng mất vợ hỏi, "Người lạ khóc nhiều này là

ai vậy?"

"A!" Một ai đó thì thào, "Ông không biết à? Ông ấy là

người yêu của người vợ cuối cùng của ông đấy."

Người mất vợ đi thẳng tới người đàn ông đang nức nở,

vỗ nhẹ vào lưng anh ta và nói, "Hãy vui lên, anh bạn cũ,

hãy vui lên. Có lẽ tôi sẽ cưới vợ lần nữa."

Cẩn thận đấy. Đây là bệnh, yêu đàn bà đã có chồng hay

đàn ông đã có vợ. Tìm các lí do đi. Đấy không phải là tình

yêu, còn có một cái gì khác vận hành bên ngoài tâm trí bạn,

trong vô thức của bạn.

Một điều nữa: đàn bà đã có chồng không dễ có sẵn.

Điều đó nữa cũng tạo ra ham muốn. Việc dễ có sẵn giết

chết ham muốn. Người đàn bà càng khó tiếp cận, càng khó

với tới, càng nhiều ham muốn hơn; bạn có thể mơ ước về

cô ấy. Và trong thực tế chẳng có mấy khả năng là điều đó

trở thành thực tại. Có mọi khả năng để lãng mạn về người

đàn bà đã có chồng; bạn có thể đùa với tưởng tượng của

mình. Nhưng không dễ dàng gì làm cho cô ấy sẵn có với

bạn. Bạn không quan tâm đến những người đàn bà chưa

chồng bởi vì họ sẽ không cho phép có nhiều cơ hội lãng

mạn; nếu bạn quan tâm, họ đều sẵn sàng, không có không

gian trống còn lại. Không phải chờ đợi lâu, rất lâu nữa.

Nhiều người quan tâm không phải tới tình yêu mà là

chờ đợi; họ nói rằng chờ đợi còn đẹp hơn tình yêu nhiều.

Theo một cách nào đó điều đó quả là như vậy, bởi vì khi

bạn đang chờ đợi, bạn đơn giản đang phóng chiếu, bạn

đang mơ mộng. Tất nhiên giấc mơ của bạn là giấc mơ của

bạn và bạn có thể làm cho nó đẹp tuỳ thích. Người đàn bà

thực sẽ làm tan nát mơ mộng của bạn. Mọi người đều sợ

người đàn bà thực. Và người đàn bà đã có chồng trở thành

không thực hơn là thực. Điều tương tự cũng xảy ra cho

người đàn ông đã có vợ; anh ta ở xa xa. Không còn mấy

khả năng anh ta sẽ thực sự đi vào quan hệ yêu đương với

bạn.

Tôi đã từng nghe...

Một thanh niên tới gặp một cụ già rất thông thái, anh

thanh niên này nói, "Cháu đang ốm tương tư, thưa bác. Bác

có thể giúp cháu được không?"

Cụ già thông thái suy nghĩ rồi nói, "Chỉ có mỗi một

cách chữa lành bệnh tương tư, đó là hôn nhân. Còn nếu hôn

nhân không thể nào chữa được nó thì chẳng có gì có thể

chữa được nó cả! Nếu cháu cưới vợ, cháu sẽ lành bệnh; rồi

đừng bao giờ nghĩ về tình yêu nữa nhé!"

Vâng, hôn nhân chắc chắn chữa lành nó, chắc chắn

tuyệt đối đến mức nếu hôn nhân không thể chữa được bệnh

tương tư của bạn thì chẳng cái gì có thể chữa được nó. Thế

thì bạn vô phương cứu chữa. Tương tư người đàn bà đã có

chồng cũng tốt bởi vì thế thì không thể nào chữa được nữa;

bạn sẽ ốm tương tư suốt đời.

Có những người cực kì thích thú tương tư: khóc lóc,

kêu gào, chờ đợi, tưởng tượng, thi vị hoá, đọc, viết thơ, vẽ

tranh, soạn nhạc - mọi cách thay thế. Người đàn bà thực là

nguy hiểm. Người đàn bà thực chỉ giống như âm nhạc từ

nơi xa xa. Lại gần thì cô ấy trở thành người đàn bà thực. Cô

ấy không còn là tiên nữa, không còn là hư cấu nữa; thực tại

của cô ấy phải được nhận ra. Và khi người đàn bà tới gần

bạn, cô ấy không chỉ là thực mà cô ấy còn kéo bạn rớt từ

tháp ngà của mình xuống đất.

Trong mọi nền văn hoá trên thế giới, đàn bà đều được

biểu thị như đất còn đàn ông thì như trời. Đàn bà rất hướng

về đất; cô ấy toả sức hút về đất. Cô ấy nhiều tính đất hơn

đàn ông, thực tế hơn, thực dụng hơn đàn ông. Đó là lí do tại

sao bạn không tìm thấy được nữ thi hào vĩ đại nào, bạn

không tìm thấy được nữ hoạ sĩ vĩ đại hay nữ nhạc sĩ vĩ đại

nào, không. Họ không bay bổng trên trời nhiều thế. Họ bám

chặt với đất, họ ăn sâu vào đất với gốc rễ của mình và đứng

đó tựa như cây cối vững chãi. Đàn ông giống như chim.

Khi đàn ông có gia đình, đàn bà đưa anh ta về đất, về thế

giới thực tế. Các nhà thơ không thích xây dựng gia đình.

Họ muốn vẫn còn mãi tình yêu, họ không muốn chữa bệnh

tương tư đó.

Mọi người hay tương tư với người đàn bà đã có chồng -

đây là ngôi nhà nửa vời, đây là thủ đoạn. Họ có thể tin rằng

họ đang yêu và họ cũng có thể né tránh nó. Tình yêu tạo ra

nỗi sợ lớn bởi vì tình yêu là thách thức, thách thức lớn. Bạn

sẽ phải trưởng thành. Bạn không thể vẫn còn là thiếu niên

và chưa chín chắn được; bạn sẽ phải vật lộn với thực tại của

cuộc sống. Cái gọi là nhà thơ lớn của bạn gần như bao giờ

cũng vẫn còn là người rất thơ ngây, chưa chín chắn, vẫn

còn sống trong cảnh thần tiên của tuổi thơ. Họ không biết

thực tại là gì, họ không cho phép thực tại được tràn vào

trong mơ mộng của mình.

Đàn bà chắc chắn là kẻ phá huỷ những hư cấu. Cô ấy

không mang tính hư cấu, cô ấy là sự kiện, sự thật. Cho nên

nếu bạn muốn tin rằng bạn đang yêu và bạn vẫn muốn lẩn

tránh tình yêu, thì tương tư với người đàn bà đã có chồng

hay người đàn ông đã có vợ là tốt, là an toàn. Điều này rất

thủ đoạn, điều này là lừa dối, tự lừa dối.

Đàn bà cũng sợ tương tư với người đàn ông tự do, bởi

vì với người đàn ông tự do hay người đàn bà tự do sẽ có

quấn quít - quấn quít hai mươi tư tiếng. Với đàn bà có

chồng việc quấn quít không lớn đến thế. Bạn có thể được

vài cái hôn vụng trộm, bạn có thể gặp cô ấy ở đâu đó trong

góc tối, bao giờ cũng sợ rằng người chồng có thể tới, ai đó

có thể thấy. Việc ấy bao giờ cũng nửa vời, bao giờ cũng vội

vã, và bạn không thể nhận ra người đàn bà thực như cô ấy

trong cuộc đời hai mươi tư tiếng. Bạn chỉ nhận ra khuôn

mặt son phấn của cô ấy, bạn chỉ biết vẻ tô điểm của cô ấy

chứ không phải là con người thực của cô ấy.

Khi người đàn bà ra khỏi nhà để đi chợ, cô ấy không

còn cùng là người đàn bà đó. Cô ấy gần như là người khác:

bây giờ cô ấy là người đàn bà biết kiềm chế, bây giờ cô ấy

là người biểu diễn. Đàn bà là các nữ nghệ sĩ lớn. Trong nhà

họ trông không đẹp được đến như thế; ngoài nhà họ bỗng

nhiên trở thành cực kì xinh tươi, vui vẻ, hớn hở, thích thú.

Họ trở thành cô bé nhỏ nhắn, khúc khích cười trong tình

yêu cuộc sống. Khuôn mặt của họ khác hẳn, rạng ngời: mắt

họ khác hẳn, cách hoá trang, cách tô điểm của họ...

Nhìn người đàn bà trên bãi biển hay trong cửa hàng,

bạn đang thấy một loại thực tại hoàn toàn khác. Sống với

người đàn bà hai mươi tư giờ trong ngày là điều rất trần

tục, nó phải là như thế. Nhưng nếu bạn thực sự yêu người

đàn bà, bạn sẽ muốn biết về thực tại của cô ấy, không phải

là điều hư cấu của cô ấy, bởi vì tình yêu chỉ có thể tồn tại

với thực tại. Và tình yêu có đủ khả năng biết về thực tại và

vẫn còn yêu cô ấy, biết tất cả những nhược điểm và vẫn yêu

cô ấy. Tình yêu là sức mạnh vô biên.

Khi bạn sống với một người hai mươi bốn giờ một

ngày, dù đàn ông hay đàn bà, bạn sẽ đi tới nhận ra mọi

nhược điểm: tất cả những cái tốt và tất cả những cái xấu

nữa, tất cả những gì xinh đẹp và cả những gì xấu xí, tất cả

những gì tựa như tia sáng và những gì tựa như đêm tối. Bạn

sẽ nhận ra toàn bộ con người đó. Tình yêu đủ mạnh để vẫn

cứ yêu người khác trong khi biết rõ mọi nhược điểm, giới

hạn, nhu nhược mà con người phạm phải. Nhưng tình yêu

hư cấu này thì không đủ mạnh. Nó chỉ có thể yêu người

đàn bà trên màn ảnh. Nó chỉ có thể yêu người đàn bà trong

tiểu thuyết, nó chỉ có thể yêu người đàn bà trong thơ ca. Nó

chỉ có thể yêu người đàn bà tựa ngôi sao xa xăm. Nó chỉ có

thể như yêu người đàn bà không thật.

Tình yêu là chiều hướng hoàn toàn khác: đó là yêu thực

tại. Vâng, thực tại có nhược điểm, nhưng những nhược

điểm này chính là những thách thức cho trưởng thành. Mỗi

nhược điểm đều là một thách thức để siêu việt trên nó. Và

khi hai người thực sự yêu nhau, họ giúp đỡ lẫn nhau để

trưởng thành. Họ nhìn vào nhau, họ trở thành tấm gương

cho nhau, họ phản ánh lẫn nhau. Họ giúp lẫn nhau, họ ảnh

hưởng lẫn nhau. Những lúc sung sướng, những lúc gian

nan, những khoảnh khắc của hạnh phúc, những khoảnh

khắc của buồn rầu, họ đều cùng nhau, họ quấn quít với

nhau. Đó chính là điều từ quấn quít muốn nói lên.

Nếu tôi chỉ cùng bạn khi bạn hạnh phúc và tôi không

cùng bạn khi bạn bất hạnh, đó không phải là quấn quít; đó

là khai thác. Nếu tôi chỉ cùng bạn khi bạn tuôn chảy và tôi

không ở bên bạn khi bạn không tuôn chảy, tôi không cùng

bạn chút nào. Thế thì tôi không yêu bạn, tôi chỉ yêu bản

thân tôi và tôi chỉ yêu hoan lạc của mình. Khi bạn thích thú,

tốt; khi bạn trở nên đau buồn tôi sẽ vứt bỏ bạn. Đây không

phải là tình yêu, đây không phải là quấn quít, đây không

phải là cam kết. Đây không phải là tôn trọng người khác.

Dễ dàng yêu vợ của ai đó bởi vì anh chồng phải chịu

đựng thực tại còn bạn tận hưởng hư cấu; đấy là cách phân

chia lao động rất tốt. Nhưng điều này vô nhân đạo. Tình

yêu nhân đạo là sự đương đầu lớn lao. Và tình yêu chỉ hiện

hữu nếu trưởng thành xảy ra trong nó, bằng không thì nó là

kiểu tình yêu gì vậy?

Những người yêu nhau nâng cao lẫn nhau, theo mọi

cách. Những người yêu nhau đạt tới đỉnh cao hơn của hạnh

phúc khi họ cùng nhau, và họ cũng đạt tới các chiều sâu sâu

hơn của nỗi buồn khi họ cùng nhau. Miền hạnh phúc và

buồn khổ của họ trở nên mênh mông: đó chính là tình yêu

là gì. Một mình, nếu bạn kêu khóc, nước mắt của bạn

không có nhiều chiều sâu. Bạn đã bao giờ quan sát điều đó

chưa? Một mình, họ nông cạn. Khi bạn khóc cùng với ai

đó, có chiều sâu, chiều hướng mới cho nước mắt của bạn.

Một mình bạn có thể cười, nhưng tiếng cười của bạn sẽ

nông cạn. Trong thực tế nó sẽ là cái gì đó không lành mạnh

- chỉ có người điên mới cười một mình. Khi bạn cười cùng

ai đó, có chiều sâu trong đó, có lành mạnh trong đó. Một

mình bạn có thể cười, nhưng cái cười sẽ không đi thật sâu -

không thể đi sâu được. Cùng nhau, nó đi vào chính cốt lõi

bản thể bạn. Hai người cùng nhau, cùng nhau trong mọi khí

hậu - ngày và đêm, mùa hè và mùa đông - trong mọi tâm

trạng, trưởng thành.

Cây cối cần mọi khí hậu và mọi mùa. Vâng, nó cần

mùa hè nóng bỏng và nó cần mùa đông băng giá. Nó cần

ánh sáng ban ngày, mặt trời trút lên nó, và nó cũng cần cái

yên tĩnh của ban đêm để nó có thể khép mình và chìm vào

giấc ngủ sâu. Nó cần những ngày yên tĩnh, vui vẻ, sung

sướng, nó cần cả những ngày ảm đạm, u ám nữa. Nó

trưởng thành qua tất cả những biện chứng này.

Tình yêu là biện chứng. Một mình bạn không thể

trưởng thành được. Bao giờ cũng nhớ rằng nếu bạn đang

yêu, đừng né tránh cam kết, đừng né tránh quấn quít. Thế

thì đi toàn bộ vào trong đó. Thế thì đừng đứng ở phần

ngoại vi mà chực chuồn nếu mọi sự trở thành quá rắc rối.

Và tình yêu cũng còn là hi sinh nữa đấy. Bạn phải hi

sinh nhiều... bản ngã của bạn. Bạn phải hi sinh tham vọng

của mình; bạn phải hi sinh cái riêng tư của mình, bạn phải

hi sinh bí mật của mình; bạn phải hi sinh nhiều thứ. Cho

nên chỉ trong tình yêu lãng mạn mới không cần có hi sinh

nào cả. Nhưng khi không có sự hi sinh, cũng chẳng có

trưởng thành được.

Tình yêu làm bạn thay đổi gần như hoàn toàn; đó là

sinh thành mới. Bạn không bao giờ còn là con người cũ

như trước khi bạn yêu người đàn ông hay đàn bà. Bạn đã đi

qua lửa, bạn đã được thuần khiết. Nhưng dũng cảm là cần.

Bạn hỏi: "Tại sao bao giờ tôi cũng quan tâm tới đàn bà

đã có chồng?" Bởi vì bạn không dũng cảm. Bạn muốn né

tránh quấn quít. Bạn muốn điều đó với giá rẻ, bạn không

muốn trả giá cho nó.

#4Câu hỏi thứ hai:

Thưa thầy kính yêu, không phải là làm tình

chút nào nữa... Tôi cảm thấy tôi đang

trong ngôi đền với thầy ở khắp nơi. Và tại

khoảnh khắc này tôi nhận biết - điều tôi

chưa bao giờ biết tới trước khi được gặp

thầy. Mọi thứ đều khác mọi lúc - đối với

tôi và với nửa kia. Việc cám ơn thầy chẳng

bao giờ thích hợp vào khoảnh khắc đó. Và

vậy mà tôi lùi lại. Làm sao chúng tôi có

thể cất cánh được? Làm sao tôi có thể

nhận sự giúp đỡ của người đàn bà bên

ngoài để được hợp nhất với người đàn bà

bên trong tôi?

Câu hỏi này cũng của Anand Kul Bhushan. Điều đầu

tiên: Đừng bao giờ nghĩ về đàn bà như 'nửa kia'; cô ấy

không phải thế, bạn cũng không phải là như vậy. Bạn là

một tổng thể, cô ấy là một tổng thể. Cô ấy là một cá nhân

và bạn cũng là một cá nhân. Bạn là đầy đủ và cô ấy cũng là

đầy đủ. Thái độ cũ cho rằng đàn bà là nửa kia đã chứng tỏ

là thảm hoạ lớn. Khoảnh khắc bạn bắt đầu sở hữu - đấy là

một loại sở hữu - khoảnh khắc bạn bắt đầu phá huỷ tính cá

nhân của người kia, bạn đang phá huỷ cái gì đó có giá trị

lớn. Đó là không sáng tạo. Đừng bao giờ nghĩ về đàn bà

như nửa kia - cô ấy không phải như thế!

Hai người yêu nhau giống như hai cột trụ trong ngôi

đền: đó là cách Kahlil Gibran nói về điều đó. Họ nâng đỡ

cho cùng một cái mái, nhưng họ tách rời, họ không gắn với

nhau. Nếu hai cột trụ của ngôi đền ở thật gần nhau, ngôi

đền sẽ sụp đổ, mái sẽ không được nâng đỡ chút nào nữa.

Nhìn các cột trụ trong thính phòng Trang Tử này: chúng

đứng cách xa nhau - chúng đỡ cho cùng một mái. Cho nên

những người yêu nhau phải là: tách rời, cá nhân, vậy mà

vẫn cùng nâng đỡ cái gì đó chung.

Vợ không phải là một nửa của chồng và chồng không

phải là một nửa của vợ. Chồng không buông xuôi theo vợ

mà vợ cũng chẳng buông xuôi theo chồng; họ cả hai cùng

buông xuôi theo thượng đế tình yêu. Nhớ điều đó; điều

ngược lại đã chứng tỏ làm tê liệt thực sự. Chắc chắn đàn

ông không phải chịu đựng nhiều lắm... bởi vì chính ý tưởng

của đàn ông về đàn bà là cô ấy là nửa kia của mình. Anh ta

không nghĩ rằng bản thân anh ta cũng là nửa kia, không;

chính ý tưởng của đàn ông là đàn bà là nửa kia. Đàn ông

vẫn còn là tổng thể còn đàn bà thì trở thành nửa kia.

Đó là lí do tại sao sau đám cưới đàn bà mang họ của

chồng, không phải là chồng mang họ của vợ. Cô ấy biến

mất, cô ấy bị phá huỷ; cô ất không còn là đàn bà nữa, cô ấy

là vợ. Vợ là một thể chế. Đàn ông vẫn còn là đàn ông như

anh ta trước đây. Cái gì đó đã được thêm vào đàn ông,

nhưng cái gì đó đã bị tước đi khỏi đàn bà. Điều này là xấu.

Một hôm tôi đã đọc một áng thơ hay về đàn bà:

"Đừng nói với em về tình yêu của anh," cô ấy nói với

người yêu...

Đừng nói với em về tình yêu của anh,

Em biết nó quá rõ.

Em cảm nhận nó trong cái liếc nhìn của anh,

Em cảm thấy nó như ngọn roi quất

Còn tệ hơn nữa

từ miệng lưỡi anh.

Đừng nói với em về tình yêu của anh;

Nó hay thay đổi đến thế

Nó dìm chết em và tình yêu của em

trong lửa tình hừng hực

Có những chỗ không thành sẹo -

Sức nóng tình yêu anh đã thiêu đốt tất cả tâm trí em,

Sự yên ổn của tình yêu anh không đưa em đi xa thêm,

Món quà tình yêu anh đã ghi dấu hoang tàn trong em.

Lời chứng thực tình yêu anh đã giam cầm em,

Bài hát tình yêu anh đã làm em câm lặng.

Em không hát được nữa.

Em không còn nữa.

Anh đã yêu em trong lãng quên.

Tôi xin nhắc : "Anh đã yêu em trong lãng quên."

Thế thì tình yêu không còn chứng tỏ nhiều là tình yêu

nữa; đó là cách chi phối tinh vi. Và khi đã có chi phối tình

yêu biến mất. Khi có sở hữu tình yêu biến mất.

Xin đừng sở hữu đàn bà và đừng sở hữu đàn ông. Sở

hữu, tính sở hữu không phải là tình yêu. Nhớ lấy, đàn bà

phải vẫn còn nguyên như một cá nhân. Tự do của cô ấy

phải không được bị phá huỷ, tự do của cô ấy phải được tôn

trọng - dù điều đó nghĩa là gì. Đây là tầm nhìn Mật tông:

Dù điều đó nghĩa là gì - một cách vô điều kiện - tự do của

cô ấy phải được giữ nguyên. Nếu bạn thực sự yêu cô ấy,

bạn phải yêu cả tự do của cô ấy nữa, và cô ấy sẽ yêu tự do

của bạn. Nếu bạn yêu một người, làm sao bạn có thể phá

huỷ tự do của người ấy được? Nếu bạn tin cậy vào một

người, bạn cũng phải tin cậy vào tự do của người đó nữa.

Một hôm chuyện xảy ra, một người đàn ông lạichỗ tôi,

anh ta thực sự đang trong trạng thái rối tung, rất khổ. Và

anh ta nói, "Tôi phải tự tự thôi."

Tôi hỏi, "Sao vậy?"

Anh ta nói, "Tôi đã tin cậy vào vợ mình thế mà nó

phản bội tôi. Tôi đã tin cậy hoàn toàn vào nó, còn nó thì đi

dan díu với một thằng cha khác, mà tôi thì chẳng hề hay

biết gì về việc đó mãi cho tới bây giờ. Tôi đã tóm được một

vài lá thư... rồi tôi dò hỏi, rồi con ráo riết truy hỏi, và bây

giờ thì nó thú nhận rằng nó đã dan díu suốt từ trước tới nay.

Tôi phải tự tử thôi," anh ta nói.

Tôi nói, "Bạn nói rằng bạn tin cậy cô ấy à?"

Anh ta nói, "Vâng, tôi đã tin cậy vào nó mà nó thì

phản bội tôi."

"Bạn ngụ ý tin cậy là gì? Quan niệm sai về tin cậy... tin

cậy dường như chính trị vậy. Bạn đã tin cậy cô ấy để cho

cô ấy không phản bội bạn. Tin cậy của bạn là thủ đoạn; bây

giờ bạn muốn làm cho cô ấy mặc cảm nữa. Đấy không phải

là tin cậy."

Anh ta rất phân vân. Anh ta nói, "Vậy thầy ngụ ý tin

cậy là gì nếu điều này không phải là tin cậy? Tôi tin cậy cô

ấy vô điều kiện."

Tôi nói, "Nếu tôi ở vào địa vị bạn thì tin cậy đối với tôi

có nghĩa là tôi tin cậy vào tự do của cô ấy và tôi tin cậy vào

thông minh của cô ấy, tôi tin cậy vào khả năng yêu của cô

ấy. Nếu cô ấy yêu người khác, tôi cũng tin cậy cả vào điều

đó. Cô ấy thông minh, cô ấy có thể chọn lựa. Cô ấy tự do,

cô ấy có thể yêu. Tôi tin cậy vào hiểu biết của cô ấy."

Bạn ngụ ý tin cậy là gì? Khi bạn tin cậy vào thông

minh của cô ấy, vào hiểu biết của cô ấy, vào nhận biết của

cô ấy thì bạn tin cậy vào điều đó. Và nếu như cô ấy thấy

rằng cô ấy thích chuyển sang yêu ai đó, điều đó cũng hoàn

toàn được chứ sao. Cho dù cho bạn có cảm thấy đau đớn,

đó là vấn đề của bạn, đâu phải là vấn đề của cô ấy?

Và nếu bạn cảm thấy đau đớn, đấy không phải bởi vì

tình yêu, đấy là vì ghen tuông. Đây là kiểu tin cậy gì, mà

bạn nói nó đã bị phản bội? Cách hiểu về tin cậy của tôi là ở

chỗ nó không thể bị phản bội được. Bởi chính bản chất của

nó, bởi chính định nghĩa của nó, tin cậy không thể bị phản

bội được. Không thể nào phản bội được tin cậy. Nếu tin cậy

có thể bị phản bội, nó không phải là tin cậy.

Nghĩ về việc này đi. Nếu tôi yêu người đàn bà, tôi tin

cậy vô hạn vào thông minh của cô ấy, và nếu trong khoảnh

khắc nào đó cô ấy muốn yêu ai đó khác, điều đó hoàn toàn

tốt. Tôi bao giờ cũng tin cậy vào thông minh của cô ấy; cô

ấy phải cảm thấy giống như thế. Cô ấy tự do; cô ấy không

phải là nửa kia của tôi, cô ấy là độc lập. Và khi hai người là

hai cá nhân độc lập, chỉ thế mới có tình yêu. Tình yêu có

thể tuôn chảy chỉ giữa hai sự tự do.

Tôi hiểu câu hỏi của Kul Bhushan. Anh ta đã dùng từ

'nửa kia' một cách vô ý thức. Tôi đã thấy tình yêu của anh

ta đối với vợ, tôi đã thấy tình yêu của vợ anh ta đối với anh

ta. Họ không phải là các nửa của nhau, không phải thế chút

nào; đấy chỉ là thói quen vô ý thức trong dùng từ. Nhưng

tôi muốn làm cho điều này rõ ràng.

Điều thứ hai: " Không còn làm tình chút nào nữa..."

Khi tình yêu phát triển sâu nó trở thành cái gì đó khác.

Khi tình yêu không phát triển, nó trở thành cái gì đó khác.

Yêu là điều rất tinh tế. Nếu nó không phát triển, nó sẽ trở

thành cay đắng, nó trở thành chất độc; nó trở thành ghét.

Nó thậm chí còn rơi xuống thấp hơn ghét - nó có thể trở

thành lãnh đạm, cái đi xa nhất khỏi tình yêu.

Yêu là năng lượng nóng. Ghét cũng là năng lượng

nóng. Nhưng lãnh đạm là lạnh, đông cứng. Bạn có thể nghĩ

về yêu, ghét và lãnh đạm theo thang đo này. Chính giữa

ghét và yêu là một điểm không - tựa như trong nhiệt biểu

có điểm không; phía dưới nó là lạnh lẽo, trên nó là ấm áp.

Yêu là ấm áp. Điểm không là ghét; dưới nó bạn trở thành

lạnh lùng hơn, lạnh lẽo hơn, bạn có thể trở thành lạnh tựa

băng giá - lãnh đạm. Nếu yêu không lớn lên, nó bắt đầu tụt

xuống. Nó phải chuyển động.

Tình yêu là năng lượng; năng lượng chuyển vận. Nếu

nó di chuyển, chẳng mấy chốc bạn sẽ thấy nó không còn là

tình yêu nữa; nó đã trở thành thiền, nó đã trở thành lời

nguyện

Đó là toàn bộ cách tiếp cận của Mật tông - rằng nếu

tình yêu trưởng thành đúng hướng, nếu tình yêu được chăm

nom cẩn thận, nó trở thành lời nguyện. Cuối cùng nó trở

thành kinh nghiệm tối thượng về Thượng đế.

Tình yêu là ngôi đền của Thượng đế.

Cho nên những người sống lãnh đạm không thể biết tới

được Thượng đế. Lãnh đạm là vô thần thực sự. Những

người sống theo cách sống lạnh lẽo... ngay cả toà án cũng

hiểu điều này. Nếu ai đó đã giết người theo cách nóng nảy,

toà án không coi đó là quá nghiêm trọng; nếu ai đó đã giết

người vì đam mê, toà án còn xem xét khoan dung về điều

đó. Thế thì kẻ giết người không phải bị trừng phạt quá

nghiêm khắc. Đấy chỉ là hành động đam mê; cơn cuồng dại

bất thình lình xảy ra.

Nhưng toà án rất cứng rắn khi đó là kẻ sát nhân với tính

toán lạnh lùng. Kẻ sát nhân lạnh lùng là người nguy hiểm

nhất. Hắn chuẩn bị mọi thứ thật chi li; hắn suy nghĩ, nghiền

ngẫm, dự liệu về điều đó, hắn tính toán. Hắn di chuyển theo

một cách rất, rất máy móc và hiệu quả; hắn đi vào công

việc rất lành nghề. Hắn không có trái tim, hắn chỉ là sự lạnh

lùng.

Trái tim lạnh lùng là trái tim chết. Trái tim lạnh lùng là

trái tim chết, khô héo, hoá đá. Nếu tình yêu không đi lên

cao hơn, nó sẽ đi xuống thấp hơn, nhớ lấy; nó không thể

dừng tĩnh tại, đó là điểm cần được hiểu. Tình yêu không

thể còn trong trạng thái ứ đọng; hoặc nó đi xuống hoặc nó

đi lên, nhưng nó di chuyển. Cho nên nếu bạn thực sự muốn

sống cuộc sống nồng nhiệt, giúp cho tình yêu phát triển đi.

Hai người yêu nhau... nếu tình yêu của họ không lập

tức bắt đầu trở thành tình bạn, chẳng chóng thì chầy sẽ dẫn

tới li dị. Tình bạn nên phát triển từ tình yêu; bằng không

thù hằn sẽ phát triển. Cái gì đó nhất định sẽ xảy ra. Tình

yêu là sự mở đầu. Lập tức bắt đầu trưởng thành trong tình

bạn đi; bằng không thù hằn sẽ lớn lên. Cái gì đó nhất định

sẽ lớn lên.

Tình yêu có khả năng sinh sôi. Nếu bạn không gieo hạt

mầm hoa đẹp, cỏ dại sẽ mọc - nhưng cái gì đó nhất định sẽ

phát triển. Khi tình yêu thực sự chuyển vào sâu sắc hơn, nó

trở thành lời nguyện. Thế thì toàn bộ phẩm chất là phi dục,

thế thì phẩm chất là phi giác quan. Thế thì bạn có cảm giác

chắc chắn về kính nể người kia - không có chút nào thèm

khát dục cả, nhưng đôi chút kính nể. Chính trong sự hiện

diện của người kia bạn bắt đầu cảm thấy cái gì đó thiêng

liêng, cái gì đó linh thiêng. Người yêu của bạn trở thành

thượng đế của bạn.

"Không còn làm tình chút nào nữa... Tôi cảm thấy tôi

đang trong ngôi đền với thầy ở khắp nơi." Phải đấy, bạn

đang được ân huệ. "Tại khoảnh khắc này tôi nhận biết -

điều tôi chưa bao giờ biết tới trước khi được gặp thầy."

Tình yêu càng trở thành lời nguyện, nhận biết sẽ càng xảy

ra, giống như cái bóng.

Đây là nhấn mạnh của tôi: nếu nhận biết xảy ra, thế thì

tình yêu đến - tình yêu đến như cái bóng. Nếu tình yêu xảy

ra, thế thì như cái bóng nhận biết đến. Hoặc bạn trưởng

thành trong tình yêu, hoặc bạn trưởng thành trong thiền,

nhưng kết quả chung cuộc là như nhau. Cả hai đến cùng

nhau: bạn thử cái này, cái kia tới. Điều đó tuỳ thuộc bạn.

Nếu bạn cảm thấy hoà hợp hơn với tình yêu, thế thì

tình yêu là con đường của bạn - con đường của người sùng

kính, bhakta. Nếu bạn cảm thấy hoà hợp hơn với nhận biết

thế thì con đường thiền, dhyana. Đó là hai con đường cơ

bản duy nhất; mọi con đường khác đều chỉ là tổ hợp của hai

con đường này. Nếu tình yêu phát triển, bạn sẽ trở thành

ngày càng nhận biết nhiều về nó tại mọi khoảnh khắc. Nó

càng lên cao, sáng suốt của bạn trong mọi vật càng trở

thành cao hơn.

"Việc cám ơn thầy chẳng bao giờ thích hợp vào mọi

lúc..."

Điều ấy không thể và cũng chẳng cần. Trong thực tế

nhiều lần khi chúng ta nói cám ơn, ta không hàm ý về nó.

Ai đó đưa lọ muối trên bàn cho bạn và bạn nói cám ơn -

bạn ngụ ý gì? Bạn không định nói điều đó, đấy chỉ là hình

thức. Giữa thầy và đệ tử không nên có hình thức; không

cần thiết, tôi đâu có đưa lọ muối cho bạn.

'Cám ơn' là thói kiểu cách phương Tây; ở phương Đông

điều ấy gần như không thể được. Tôi chẳng bao giờ cám ơn

bố mình, tôi không thể cám ơn bố được. Làm sao tôi có thể

cám ơn bố tôi được? Tôi không cám ơn mẹ tôi. Tôi có mọi

thứ để phải cám ơn mẹ nhưng tôi chẳng cám ơn mẹ. Tôi có

thể làm như nào? Điều ấy quá là không thích hợp, điều ấy

quá là lúng túng, ngay cả để nói lời cám ơn. Như thế quá

hình thức, như thế sẽ thiếu tình yêu. Tốt hơn cả là im lặng

về nó. Mẹ hiểu.

Giữa thầy và đệ tử không có khả năng hình thức, mọi

hình thức bao giờ cũng là điều không thích hợp. Nhưng

không có nhu cầu. Tôi hiểu, Kul Bhushan. Tôi có thể thấy

trái tim bạn đầy lòng biết ơn. Chỉ trong im lặng điều đó

mới có thể được nói ra. Nó có thể được nói ra. Nó có thể

được nói ra mà không bằng việc nói nó; nếu bạn cố gắng

nói điều đó, nó sẽ chẳng bao giờ có vẻ phải.

"Việc cám ơn thầy chẳng bao giờ thích hợp vào khoảnh

khắc đó. Và vậy mà tôi lùi lại. Làm sao chúng tôi có thể cất

cánh được? Làm sao tôi có thể nhận sự giúp đỡ của người

đàn bà bên ngoài để được hợp nhất với người đàn bà bên

trong?"

Lùi lại là tự nhiên. Quá khứ lớn thế còn khoảnh khắc

hiện tại nhỏ thế. Lực kéo của quá khứ lớn thế còn nhận biết

này chỉ giống như chiếc lá mới nhú ra từ cây - tươi tắn, trẻ

trung, thanh thoát, mong manh. Còn quá khứ thì tựa như

dãy núi Himalayas vĩ đại - toàn những đá là đá. Chiếc lá

nhỏ này và đá Himalayas vĩ đại này... chiếc lá này phải

tranh đấu với dãy Himalayas của quá khứ hàng nghìn kiếp

sống trong máy móc, sống vô ý thức. Nhưng dầu vậy chiếc

lá nhỏ này sẽ chứng tỏ còn mạnh hơn cả dãy Himalayas

toàn những đá và đá. Sao vậy? - bởi vì chiếc lá này sống

động... sống động với tình yêu, bừng cháy với tình yêu.

Chiếc lá này là chiếc lá của nhận biết. Nó đang đi tới chiến

thắng.

Nhưng nhiều lần bạn sẽ cảm thấy rằng bạn đã tụt lùi -

điều đó là tự nhiên. Đừng lo nghĩ về điều đó, đừng cảm

thấy mặc cảm về điều đó. Bất kì khi nào nhớ, bắt đầu

trưởng thành đi. Luôn luôn giữ chiếc lá mới trong tâm thức

của bạn. Rót toàn bộ tâm thức của bạn vào sáng suốt mới

đang lớn lên trong bạn. Ban đầu những khoảnh khắc này

nhất định là còn ít và xa nhau. Nhưng cho dù chỉ thỉnh

thoảng một lần khoảnh khắc này tới khi tình yêu không còn

là tình yêu mà đã trở thành lời nguyện, bạn là trong khoảnh

khắc Mật tông rồi. Đừng lo nghĩ về những đêm tối, không

cần phải lo nghĩ. Di chuyển từ ngày nọ sang ngày kia. Nhớ

ngày nọ tới ngày kia.

Sẽ có đêm - đôi khi đêm rất dài. Nghĩ về những đêm

này giống như đường hầm tối đen. Tại đầu này là ánh sáng,

tại đầu kia là ánh sáng; ở giữa là đường hầm đen tối. Và

điều đó nữa cũng là tốt bởi vì nó chuẩn bị cho đôi mắt bạn

thấy ánh sáng rõ ràng hơn. Nó đem lại nghỉ ngơi, nó đem

lại thảnh thơi. Bạn đừng nghĩ dưới dạng hết đêm này tới

đêm kia và ngày thì ở giữa, đừng. Cho dù những khoảnh

khắc rất ít và xa nhau - và những khoảnh khắc rất nhỏ -

chúng đều là những đồ châu báu quí giá, sáng loáng. Nghĩ

về những khoảnh khắc đó. Một khoảnh khắc đã xảy ra hôm

nay, và một khoảnh khắc có thể xảy ra một năm sau. Đừng

lo lắng về một năm đó, điều ấy chẳng can hệ gì; từ khoảnh

khắc này tới khoảnh khắc khác để cho mắt bạn được tập

trung. Cả năm chỉ là một đường hầm từ ngày này sang ngày

khác, từ ánh sáng này tới ánh sáng khác, từ khoảnh khắc

yêu đương này tới khoảnh khắc yêu đương khác, từ nhận

biết này sang nhận biết khác. Chẳng bao lâu việc tụt lùi sẽ

ít đi, và chẳng bao lâu việc tụt lùi sẽ biến mất. Nhưng

không cần phải cảm thấy mặc cảm, không cần cảm thấy ăn

năn về nó. Nó là điều tự nhiên, chấp nhận nó.

"Làm sao tôi có thể nhận sự giúp đỡ của người đàn bà

bên ngoài để được hợp nhất với người đàn bà bên trong?"

Đừng nghĩ tới 'làm sao'; nếu tình yêu có đó, điều đó sẽ

xảy ra. Và tình yêu không phải là 'làm sao', tình yêu không

có cách thức. Chỉ yêu không vì lí do nào hết cả. Chỉ yêu

với tôn kính, với kính nể. Yêu đi: thấy trong người kia

không phải là thân thể mà là linh hồn, thấy trong người kia

không phải là tâm trí mà là vô trí. Nếu bạn có thể thấy vô

trí trong trong người đàn bà của mình, bạn sẽ có thể tìm

thấy người đàn bà bên trong rất dễ dàng. Thế thì người đàn

bà bên ngoài sẽ chỉ là trung gian: qua người đàn bà bên

ngoài, thông qua người đàn bà bên ngoài bạn sẽ được ném

về người đàn bà bên trong. Nhưng nếu người đàn bà bên

ngoài kia chỉ là thân thể, thế thì bạn bị chặn lại. Nếu người

đàn bà kia chỉ là linh hồn, trống rỗng, chỉ là số không, chỉ

là bước chuyển, chẳng có gì ngăn cản bạn cả, năng lượng

của bạn sẽ chuyển lùi lại và sẽ đi vào và sẽ tìm thấy người

đàn bà bên trong của bạn.

Mỗi người đàn bà và đàn ông đều có thể có ích từ bên

ngoài để tìm ra người đàn bà và người đàn ông bên trong.

Nhưng không có 'làm sao' cho việc đó. Sùng kính là cần.

Nghĩ theo, suy tư theo sự thiêng liêng của người khác.

Người khác là thiêng liêng; để thái độ đó tràn ngập, để khí

hậu đó bao quanh bạn. Và điều đó sẽ xảy ra! Nó đang trên

đường rồi đó.

#4Câu hỏi thứ ba:

Osho kính yêu, tại sao mọi người bỏ lỡ

thầy? Từ khi tôi nhận tính chấtsannyas, tôi

có thể thấy rất rõ ngu si của họ. Tại sao họ

không thể thấy được điều đó?

Đừng quá nghiêm khắc với mọi người. Mà đấy cũng

không phải là việc của bạn. Nếu họ không muốn thấy điều

đó, đấy là quyết định của họ và là tự do của họ. Thậm chí

đừng gọi điều đó là ngu si, bởi vì nếu bạn gọi điều đó là

ngu si, bản ngã tinh vi sẽ ló ra trong bạn rằng bạn có thể

thấy được mà họ thì không thể thấy được, rằng bạn thông

minh và họ là ngu đần. Không, điều này là không tốt.

Có lần chuyện xảy ra...

Mohammed đi tới nhà thờ Mô ha mét giáo để nói lời

nguyện buổi sáng và ông ta đem theo một thanh niên,

người trước đây chưa bao giờ đi tới nhà thờ cả. Khi quay về

- lúc ấy là sáng mùa hè và mọi người vẫn còn đang ngủ -

khi quay về, chàng thanh niên nói với Mohammed, "Hazrat,

trông những kẻ tội lỗi này vẫn còn đang ngủ. Đây mà là lúc

ngủ sao? Đây là lúc cầu nguyện chứ!" Và đây là lần đầu

tiên bản thân anh ta đi cầu nguyện.

Bạn có biết Mohammed nói gì không? Nhìn lên trời,

ông ta nói, "Thật đáng tiếc."

Chàng thanh niên nói, "Thầy đang nói điều này với ai

vậy?"

Mohammed nói, "Với Thượng đế. Và ta sẽ phải quay

lại nhà thờ... và xin cậu đừng đến lần này. Cũng tốt là trước

đây cậu chưa từng tới nhà thờ; ta đã làm điều sai lầm là

đem cậu đi. Đáng ra cậu cũng ngủ thì tốt hơn - ít nhất thì

cậu cũng sẽ không tụ hội bản ngã này. Bây giờ cậu là thánh

nhân chỉ bởi vì cậu đã đọc lời nguyện, còn những người

này đều là tội nhân. Và bởi vì ta đã mang cậu theo mình

nên lời nguyện của ta cũng bị hư hoại, cho nên ta sẽ quay

về. Và xin cậu đừng đến lần nữa. Ít nhất thì ta cũng không

định đem cậu đi với ta nữa."

Và ông ta quay lại cầu nguyện và xin Thượng đế tha

thứ. Ông ta kêu khóc, nước mắt ròng ròng trên khuôn mặt.

Vài ngày trước đây bạn đã nhận tính chất sannyas - hay

vài tuần trước đây - và bạn nghĩ rằng những người khác

đều ngu si cả sao? Điều đó là không phải, điều đó không

phải chút nào. Trong thực tế sannyasin là người chấm dứt

việc can thiệp vào cuộc sống của người khác. Đây là can

thiệp, cái thái độ này. Tại sao? Nếu họ không muốn gặp tôi,

nếu họ không muốn nghe tôi, nếu họ không muốn hiểu điều

đang xảy ra ở đây, thì đó là tự do của họ. Họ không ngu si,

đấy đơn giản là tự do của họ; họ phải là chính họ.

Nếu bạn thu thập những thái độ như vậy, đó là cách

cuồng tín được sinh ra; thế thì một ngày nào đó bạn có thể

trở thành kẻ cuồng tín, thế thì bạn có thể buộc họ phải tới...

"Các anh phải tới." Xuất phát từ lòng từ bi bạn phải ép

buộc họ. Đó chính là điều tôn giáo đã làm trong suốt bao

nhiêu thế kỉ: người theo Mô ha mét giáo giết người Hindu,

người Hindu giết người Mô ha mét giáo, người Ki tô giáo

giết người Mô ha mét giáo, người Mô ha mét giáo giết

người Ki tô giáo. Để làm gì? - do từ bi. Họ nói, "Chúng ta

sẽ đưa anh về con đường đúng. Anh đang đi lầm lạc, chúng

ta không thể cho phép anh lầm lạc."

Tự do có nghĩa là tự do toàn bộ. Tự do có nghĩa là đi

lầm lạc nữa. Nếu bạn không cho phép một người được lầm

lạc thì đây là kiểu tự do gì vậy? Nếu bạn bảo đứa trẻ, "Cháu

được tự do chỉ để làm điều phải và ta quyết định cái gì là

phải; cháu không được tự do làm điều sai và ta quyết định

cái gì là sai" - đây là kiểu tự do gì vậy? Bạn là ai để quyết

định cái gì là phải? Để mọi người tự quyết định cho chính

mình đi.

Thật rất dễ dàng thu thập những thái độ như vậy. Đó là

lí do tại sao, trong suốt các thời đại, ngu xuẩn này đã xảy

ra: hàng triệu người đã lao vào chém giết nhau nhân danh

tình yêu, nhân danh Thượng đế. Làm sao điều này có thể

xảy ra được? Người Ki tô giáo nghĩ rằng họ đang thực thi

một nghĩa vụ vĩ đại, bởi vì họ nghĩ, "Chừng nào bạn chưa

tới qua Jesus, bạn chẳng bao giờ tới được Thượng đế." Nếu

bạn nhìn vào logic của họ, có vẻ như rất rất từ bi. Nếu đây

thực sự là trường hợp xảy ra - tức là bạn có thể tới Thượng

đế chỉ qua Jesus - thì những người đang đốt phá và giết

chóc và trừng phạt người khác quả thực là các thánh nhân

vĩ đại.

Nhưng đấy là vấn đề. Người Mô ha mét giáo nghĩ rằng

bạn chỉ có thể tới được thông qua Mohammed; Mohammed

là nhà tiên tri gần đây nhất, Jesus đã lạc hậu rồi. Thượng đế

đã gửi một thông điệp khác - được nâng cao hơn; một ấn

bản mới đã tới. Cho nên tại sao phải băn khoăn về Jesus khi

Mohammed đã tới? Chắc chắn bản mới nhất là bản tốt nhất,

cho nên bạn phải đến qua Mohammed. Bây giờ chỉ có một

Thượng đế và chỉ có một nhà tiên tri về Thượng đế, và đó

là Mohammed. Và nếu bạn không chịu nghe thì họ sẵn

sàng giết bạn - xuất phát từ tình yêu, vì điều tốt lành của

riêng bạn.

Rồi hãy nghe người Hindu - họ nói rằng tất cả những

điều này là vô nghĩa, bản đầu tiên mới là bản tốt nhất, kinh

Veda. Tại sao? - bởi vì Thượng đế không thể phạm phải bất

kì sai lầm nào, cho nên ông ấy không thể cải tiến được. Bản

đầu là tốt nhất! Ông ấy không thể phạm phải bất kì sai lầm

nào, cho nên làm sao ông ấy có thể cải tiến được? Bản đầu

cũng là bản cuối, alpha là omega. Thượng đế đã cho một

lần là cho mãi mãi; thế thì tại sao có các bản khác này?

Những bản này là để dành cho người ngu, người không thể

hiểu được bản gốc. Nếu bạn có thể hiểu được Veda, chẳng

cần phải hiểu Kinh thánh hay kinh Koran làm gì; chúng là

vô nghĩa. Bản đầu là tốt nhất; Thượng đế tin cậy rằng con

người sẽ hiểu. Nhưng rồi ngài nhận ra là con người rất ngu,

chỉ vài người trí huệ mới có thể hiểu nổi. Thế là ngài phải

hạ thấp mình xuống một chút. Đấy không phải là việc cải

tiến thêm, đấy chỉ là hạ thấp xuống mức con người, cho

nên ngài đã cho Kinh thánh. Thế mà vẫn không hiểu, cho

nên ngài lại cho kinh Koran. Lại vẫn chưa hiểu được, cho

nên ông ấy cho Guru Grantha. Đấy là cách con người sa

ngã.

Theo khái niệm của người Hindu thì hoàn hảo là trong

quá khứ; từ đó con người đã sa ngã, đây là thời đại ngu

muội nhất. Con người đã không tiến hoá lên, con người đã

sa ngã xuống. Đấy không phải là tiến hoá, người Hindu nói,

đấy là thoái hoá. Cho nên sách càng mới, nó càng phải tầm

thường bởi vì điều đó có nghĩa là chỉ dành cho người bình

thường. Người hoàn hảo chỉ có trong những ngày của

Veda.

Bây giờ có tới ba trăm tôn giáo trên trái đất, và mỗi tôn

giáo đều cho là mình là đúng, và mỗi tôn giáo đều sẵn sàng

giết tôn giáo khác. Họ liên tục chẹn họng nhau. Một cái gì

cơ sở đã đi sai. Đây là điều đã đi sai: bạn yêu cầu tôi cho

phép bạn được trở thành kẻ cuồng tín. Không, ít nhất thì

điều này không xảy ra với tôi - ít nhất là trong lúc tôi còn ở

đây. Những người khác được tự do làm bất kì điều gì họ

thích, thấy như họ thích, diễn giải như họ thích. Bạn đừng

coi họ là ngu si. Họ có tâm trí riêng của họ, điều đó là đẹp.

Một đứa bé da đen về nhà với sơn trắng phết đầy người

và nói, "Tụi trẻ tại trường sơn trắng người con." Thế là mẹ

nó đánh nó vì làm lộn xộn.

Bố nó về nhà và nói, "Cái gì thế này?" Thế là mẹ nó

mách rằng bọn trẻ ở trường đã sơn trắng thằng Sam của

chúng ta. Thế là bố nó lại cho nó một trận nên thân không

đứng dậy được.

Giây phút sau đó người ta nghe thấy một giọng nói yếu

ớt, "Mình mới chỉ làm đứa trẻ da trắng có hai giờ nhưng

mình đã ghét bọn chó chết da đen!"

Và bạn mới làm người da cam có vài tuần... Xin hãy

kiên nhẫn, hãy thông minh và tôn trọng tự do của người

khác, bản thể của người khác, cách thức của họ, phong cách

của họ.

#4Câu hỏi thứ tư:

Osho kính yêu, tại sao dục là điều kiêng

kị trong mọi xã hội trong suốt các thời

đại?

Đây là một câu hỏi rất phức tạp, nhưng rất quan trọng

nữa - đáng đi vào. Dục là bản năng mạnh mẽ nhất trong con

người. Chính khách và tu sĩ đã hiểu ngay từ đầu rằng dục là

năng lượng điều khiển mạnh nhất trong con người. Nó phải

bị tước đi, nó phải bị cắt bỏ đi; nếu con người được phép tự

do hoàn toàn trong dục, sẽ không còn khả năng nào chi

phối người đó: sẽ không thể nào làm cho người đó thành nô

lệ được.

Bạn chưa từng thấy điều này đã được thực hiện như thế

nào sao? Khi bạn muốn đóng ách con bò để kéo chiếc xe,

bạn làm gì? Bạn thiến nó, bạn phá huỷ năng lượng dục của

nó. Và bạn có thấy sự khác biệt giữa con bò thường và con

bò thiến không? Thật là khác lắm! Con bò thiến là hiện

tượng nghèo nàn, một nô lệ. Con bò thường đẹp đẽ; con bò

thường là hiện tượng vinh quang, lộng lẫy lớn lao. Nhìn

con bò thường đang bước đi, nó bước giống hoàng đế làm

sao! Và nhìn con bò thiến đang kéo xe... Cùng điều đó cũng

được thực hiện cho con người: bản năng dục đã bị cắt bỏ,

bị làm què quặt. Bây giờ con người không tồn tại như con

bò thường, con người tồn tại như con bò thiến. Và mỗi

người đều đang kéo cả nghìn lẻ một xe.

Nhìn đi, và bạn sẽ thấy đằng sau bạn cả nghìn lẻ một

chiếc xe, và bạn bị đóng ách vào chúng. Tại sao bạn không

thể đóng ách con bò thường? Con bò thường quá mạnh mẽ.

Nếu nó thấy một con bò cái đi ngang qua, nó sẽ hất cả bạn

lẫn chiếc xe và phi về phía con bò cái. Nó chẳng bận tâm tí

gì về bạn là ai và nó sẽ không chịu nghe lời. Không thể nào

kiểm soát được con bò thường.

Năng lượng dục là năng lượng sống; nó là không kiểm

soát được. Và các chính khách và các tu sĩ chẳng quan tâm

gì tới bạn, họ chỉ quan tâm tới việc chuyển năng lượng của

bạn vào các hướng khác. Cho nên có một cơ chế nào đó

đằng sau điều đó; nó phải được hiểu.

Kìm nén dục, kiêng kị dục, là chính nền móng cơ bản

cho sự nô lệ của con người. Và con người không thể tự do

chừng nào dục chưa được tự do. Con người không thể thực

sự tự do chừng nào năng lượng dục của người đó còn chưa

được phép trưởng thành tự nhiên.

Có năm thủ đoạn qua đó con người đã bị biến thành nô

lệ, thành một hiện tượng xấu xí, kẻ què quặt. Thủ đoạn thứ

nhất là: Giữ cho con người yếu đuối nhất có thể được nếu

bạn muốn chi phối người đó. Nếu tu sĩ muốn chi phối bạn

hay chính khách muốn chi phối bạn, bạn phải bị giữ cho

thật yếu đuối. Vâng, trong một số trường hợp, vài ngoại lệ

là được phép: tức là, khi việc phục vụ chiến đấu với kẻ thù

được cần tới; chỉ thế thôi, ngoài ra thì không. Quân đội

được phép làm nhiều điều mà người khác không được

phép. Quân đội đang phục vụ cho cái chết, nó được phép

mạnh mẽ. Nó được phép duy trì mạnh nhất có thể được; nó

cần cho việc tiêu diệt kẻ thù.

Người khác bị phá huỷ. Họ bị buộc phải yếu ớt theo cả

nghìn lẻ một cách. Và cách tốt nhất để giữ con người trong

yếu đuối là không cho tình yêu được tự do toàn bộ. Tình

yêu là sự nuôi dưỡng. Bây giờ các nhà tâm lí đã phát hiện

ra điều đó, rằng nếu đứa trẻ không được cho tình yêu, nó sẽ

co về chính nó và trở thành yếu đuối. Bạn có thể cho nó

sữa, bạn có thể cho nó thuốc, bạn có thể cho nó mọi thứ...

chỉ không cho nó tình yêu, không ôm ghì nó, không hôn

nó, không ôm ấp nó gần với hơi ấm thân thể bạn, và thế là

đứa trẻ sẽ bắt đầu yếu dần, yếu dần và yếu dần đi. Và nó có

nhiều cơ hội chết hơn là sống sót. Điều gì xảy ra? Tại sao?

Chỉ có ôm ghì, hôn, truyền cho nó hơi ấm, bằng cách nào

đó đứa trẻ cảm thấy được nuôi dưỡng, được chấp nhận,

được yêu mến, được cần tới. Đứa trẻ bắt đầu cảm thấy

xứng đáng, đứa trẻ bắt đầu cảm thấy ý nghĩa nào đó trong

cuộc đời nó.

Bây giờ ngay từ thời trẻ thơ, chúng ta bỏ đói chúng,

chúng ta không cho chúng tình yêu nhiều như chúng cần

tới. Rồi chúng ta buộc nam thanh niên và nữ thanh niên

không được yêu nhau chừng nào họ chưa xây dựng gia

đình. Đến độ tuổi mười bốn họ trở nên chín muồi về dục.

Nhưng giáo dục có thể cần nhiều thời gian hơn - mười năm

nữa, hai mươi bốn, hai mươi lăm năm; rồi họ còn phải nhận

bằng thạc sĩ hay tiến sĩ, bác sĩ cho nên chúng ta buộc họ

không được yêu.

Năng lượng dục tới đỉnh điểm của nó trong khoảng độ

tuổi mười tám. Đàn ông sẽ không bao giờ đạt được lần nữa

khả năng dục như thế, đàn bà không bao giờ có khả năng

cực thích lớn hơn điều cô ấy có thể có khả năng ở độ tuổi

gần mười tám. Nhưng chúng ta buộc họ không được làm

tình. Chúng ta buộc con trai phải sống trong kí túc xá tách

biệt riêng - con gái và con trai sống tách biệt - và giữa hai

người là toàn bộ cơ chế cảnh sát, quan toà, hiệu phó, hiệu

trưởng, chủ nhiệm khoa. Họ tất cả đứng đó, ngay giữa, để

giữ cho con trai không đi sang phía con gái, con gái không

đi sang phía con trai. Tại sao? Tại sao phải nhiều quan tâm

đến thế? Họ đang cố giết chết con bò thường và tạo ra con

bò thiến.

Vào lúc bạn mười tám tuổi bạn ở vào đỉnh năng lượng

dục, năng lượng tình yêu. Vào lúc bạn xây dựng gia đình,

hai nhăm, hai sáu, hai bẩy... và độ tuổi này cứ tăng lên mãi,

quốc gia càng văn hoá, bạn càng phải đợi thêm, bởi vì thêm

nhiều thứ phải học, phải tìm việc - thế này thế nọ. Vào lúc

bạn xây dựng gia đình bạn gần như suy giảm năng lực của

mình.

Rồi bạn yêu, nhưng tình yêu chẳng bao giờ trở thành

nóng bỏng thực sự; nó chưa bao giờ lên tới điểm tại đó con

người thăng hoa, nó còn hững hờ. Và khi bạn không thể

nào yêu được hoàn toàn, bạn không thể yêu con trẻ được

bởi vì bạn không biết cách. Khi bạn không còn khả năng

biết được đỉnh của nó, làm sao bạn có thể dạy cho con trẻ

của bạn được? Làm sao bạn có thể giúp cho con trẻ có được

đỉnh điểm của nó. Cho nên suốt nhiều thời đại con người đã

từ chối tình yêu đến mức con người vẫn còn yếu đuối.

Thủ đoạn thứ hai là: giữ cho con người dốt nát và bị

lừa gạt nhiều nhất có thể được để cho người đó có thể dễ

dàng bị lừa gạt. Và nếu bạn muốn tạo ra một loại ngu si -

vốn là điều cần thiết cho tu sĩ và chính khách và âm mưu

của họ - điều tốt nhất là đừng cho phép con người được đi

vào tình yêu một cách tự do. Không có tình yêu, thông

minh của con người tụt xuống. Bạn chưa từng quan sát điều

này sao? Khi bạn đang yêu bỗng nhiên tất cả các khả năng

của bạn đều lên đỉnh điểm, tới cao trào. Mới khoảnh khắc

trước đây bạn còn trông đờ đẫn, và rồi bạn gặp người đàn

bà của mình... và bỗng nhiên vui vẻ lớn bùng nổ trong con

người bạn, bạn là ngọn lửa. Khi người ta đang trong yêu,

họ biểu lộ mình ở mức tối đa. Khi tình yêu biến mất hay

khi tình yêu không có đó, họ biểu lộ ở mức tối thiểu.

Những người vĩ đại nhất, thông minh nhất là những

người dục nhiều nhất. Điều này cần phải được hiểu rõ, bởi

vì năng lượng yêu về cơ bản là thông minh. Nếu bạn không

thể yêu bạn bị khép lại, lạnh lẽo theo một cách nào đó; bạn

không thể tuôn chảy. Trong yêu người ta tuôn chảy. Trong

yêu người ta cảm thấy tự tin đến mức người ta có thể chạm

tới các vì sao. Đó là lí do tại sao người đàn bà trở thành

niềm hứng khởi lớn, người đàn ông trở thành niềm hứng

khởi lớn. Khi người đàn bà được yêu, cô ấy lập tức trở nên

đẹp hơn, ngay lập tức! Chỉ mới khoảnh khắc trước cô ấy

còn là người đàn bà bình thường... và tình yêu đã mưa lên

cô ấy, cô ấy được tắm trong năng lượng mới hoàn toàn, hào

quang mới nảy sinh quanh cô ấy. Cô ấy bước duyên dáng

hơn, điệu vũ tới theo bước chân cô. Mắt cô bây giờ cực kì

long lanh, khuôn mặt rạng ngời, cô ấy toả sáng. Và cùng

điều đó cũng xảy ra cho người đàn ông.

Khi người ta đang yêu, họ biểu lộ những điều tuyệt vời

nhất. Không cho phép yêu thì họ sẽ còn ở mức tối thiểu.

Khi ở mức tối thiểu họ đần độn, họ dốt nát, họ không bận

tâm tới hiểu biết. Và khi người ta dốt nát, ngu muội và bị

lừa, họ có thể dễ dàng bị lừa dối. Khi người ta bị kìm nén

về dục, bị kìm nén về yêu, họ bắt đầu khao khát đến cuộc

sống khác; họ nghĩ về cõi trời, thiên đường, nhưng họ

không nghĩ tới việc tạo ra cõi trời ngay ở đây và bây giờ.

Khi bạn đang yêu, cõi trời là ở đây và bây giờ. Thế thì

bạn không băn khoăn, thế thì ai tới các tu sĩ? Thế thì ai băn

khoăn rằng phải có cõi trời? Bạn đã ở đấy rồi, bạn chẳng

quan tâm. Nhưng khi năng lượng yêu của bạn bị kìm nén,

bạn bắt đầu nghĩ, "Tại đây chẳng có gì cả. Bây giờ là sự

trống rỗng. Thế thì phải có ở đâu đó mục tiêu nào đó..."

Bạn tới tu sĩ và hỏi về cõi trời, rồi ông ta vẽ lên bức tranh

đẹp đẽ về cõi trời.

Dục đã bị kìm nén cho nên bạn có thể trở nên quan tâm

tới cuộc sống khác. Và khi người ta quan tâm tới cuộc sống

khác, tự nhiên người ta không quan tâm tới cuộc sống này.

Còn Mật tông nói: Cuộc sống này là cuộc sống duy nhất.

Cuộc sống khác ẩn nấp trong cuộc sống này. Nó không

chống cuộc sống này, nó không xa với cuộc sống này; nó là

bên trong cuộc sống này. Đi vào trong nó đi.

Đây là nó!

Đi vào trong nó và bạn sẽ tìm thấy cả cuộc sống khác

nữa. Thượng đế ẩn trong thế giới, đó là thông điệp Mật

tông. Thông điệp vĩ đại, cao cả, vô song.

Thượng đế ẩn trong thế giới, Thượng đế ẩn ngay ở đây

và bây giờ.

Nếu bạn yêu, bạn sẽ có khả năng cảm thấy điều đó.

Bí mật thứ ba: Giữ con người sợ hãi nhiều nhất có thể

được. Và cách chắc chắn là không cho phép người đó được

yêu, bởi vì yêu phá tan sợ... "Yêu gạt bỏ sợ." Khi bạn đang

yêu bạn không sợ. Khi bạn đang yêu bạn có thể tranh đấu

chống toàn thế giới, khi bạn đang yêu bạn cảm thấy có khả

năng vô hạn về mọi thứ. Nhưng khi bạn không yêu, bạn sợ

cả những điều nhỏ nhặt. Khi bạn không yêu bạn trở nên

quan tâm nhiều hơn tới an ninh, an toàn. Khi bạn đang yêu

bạn quan tâm nhiều hơn tới phiêu lưu, tới thám hiểm.

Mọi người không được phép yêu bởi vì đó là cách duy

nhất làm cho họ sợ. Và khi họ sợ và run rẩy, họ bao giờ

cũng quì xuống, cúi đầu trước các tu sĩ, cúi đầu trước các

chính khách. Đó là mưu đồ lớn chống lại loài người. Đó là

mưu đồ lớn chống lại bạn. Chính khách và tu sĩ là kẻ thù

của bạn, nhưng họ giả bộ rằng họ là đầy tớ của quần chúng.

Họ nói, "Chúng tôi ở đây để phục vụ các bạn, để giúp các

bạn đạt tới cuộc sống tốt hơn. Chúng tôi ở đây để tạo ra

cuộc sống tốt lành cho bạn." Và họ là những kẻ phá huỷ

chính bản thân cuộc sống.

Điều thứ tư: Giữ con người khổ nhất có thể được - bởi

vì người khổ bị lẫn lộn, người khổ không có giá trị riêng,

người khổ tự lên án mình, người khổ cảm thấy rằng mình

phải đã làm điều gì đó sai. Người khổ không có nền tảng;

bạn có thể đẩy người ấy hết chỗ nọ sang chỗ kia, người ấy

có thể bị biến thành mẩu gỗ trôi giạt rất dễ dàng. Và người

khổ thì bao giờ cũng sẵn sàng bị chỉ huy, bị ra lệnh, bị kỉ

luật, bởi vì người ấy biết, "Về phần tôi, tôi chỉ là kẻ khổ.

Có thể ai đó khác có lẽ áp đặt kỉ luật vào đời tôi chăng?"

Người ấy là một nạn nhân sẵn sàng.

Và điều thứ năm: Giữ con người bị xa lánh khỏi người

khác nhiều nhất có thể được, để cho họ không thể tập hợp

với nhau theo mục đích nào đó mà các tu sĩ hay chính

khách không thể chấp thuận được. Giữ con người tách biệt

khỏi lẫn nhau không cho phép họ quá thân mật với nhau.

Khi người ta tách biệt, đơn độc, xa lánh lẫn nhau, họ không

thể tụ hội với nhau được. Và có cả nghìn lẻ một thủ đoạn

để giữ họ xa nhau.

Chẳng hạn: nếu bạn đang khoác tay người cùng giới -

bạn là đàn ông và bạn khoác tay người đàn ông, rồi bước đi

trên đường vừa hát - bạn sẽ cảm thấy mặc cảm bởi vì mọi

người sẽ bắt đầu nhìn vào bạn: bạn đồng tính luyến ái nam

hay cái gì đó chăng? Hai người đàn ông không được phép

hạnh phúc cùng nhau. Họ không được phép khoác tay

nhau, họ không được phép ôm ghì nhau; họ bị kết án là

đồng tính luyến ái. Nỗi sợ phát sinh.

Nếu bạn của bạn tới và khoác tay bạn trong tay anh ấy,

bạn phải nhìn quanh: liệu có ai đó nhìn thấy hay không? Và

bạn vội vã bỏ tay ra. Bạn bắt tay một cách vội vã. Bạn có

quan sát đến điều đó không? Bạn mới chỉ chạm vào tay

người kia và bắt tay rồi bạn phải kết thúc ngay; bạn không

giữ tay lâu, bạn không ôm ghì nhau. Bạn sợ.

Bạn có nhớ, bố bạn có bao giờ ôm ghì bạn không? Bạn

có nhớ mẹ bạn có ôm ghì bạn sau khi bạn đã trưởng thành

về dục không? Sao lại không? Nỗi sợ đã được tạo ra. Một

thanh niên và mẹ anh ta ôm ghì nhau ư? Có thể dục nào đó

sẽ nảy sinh giữa họ, ý tưởng nào đó, tưởng tượng nào đó.

Nỗi sợ đã được tạo ra: bố và con trai, không; bố và con gái,

không; anh và chị, không; anh trai và em trai - không!

Người ta bị giữ trong các hộp nhỏ tách biệt với các bức

tường lớn bao quanh họ. Mọi người đều bị phân loại và có

cả nghìn lẻ một rào chắn. Vâng, rồi một ngày nào đó, sau

hai mươi nhăm năm của đủ loại huấn luyện, bạn mới được

phép làm tình với vợ mình. Nhưng bây giờ việc huấn luyện

đã đi vào bạn quá sâu và bỗng nhiên bạn không biết phải

làm gì nữa. Yêu thế nào nhỉ? Bạn còn chưa học ngôn ngữ

này.

Cứ dường như là một người còn chưa được nói trong

suốt hai mươi nhăm năm. Nghe đấy: trong hai mươi nhăm

năm người đó chưa từng được phép nói một lời và rồi bỗng

nhiên bạn đẩy người đó lên bục và bảo người đó, "Hãy đọc

bài giảng lớn cho chúng tôi." Điều gì sẽ xảy ra? Hơn nữa,

người đó sẽ sụp đổ đây đó. Người đó có thể ngất, người đó

có thể chết... hai mươi nhăm năm im lặng và bỗng nhiên

bây giờ người đó được trông đợi đưa ra một bài giảng lớn.

Điều ấy không thể được.

Đây là điều đang xảy ra: hai mươi nhăm năm chống

yêu, sợ hãi, và rồi bỗng nhiên bạn được phép một cách hợp

pháp - bạn được cấp giấy chứng nhận, và bây giờ bạn có

thể yêu người đàn bà này. Đây là vợ bạn, bạn là chồng cô

ấy, và bạn được phép yêu. Nhưng hai mươi lăm năm huấn

luyện sai lầm đâu cả rồi? Chúng sẽ vẫn còn đó.

Vâng, bạn sẽ 'yêu'... bạn sẽ cố gắng, làm động tác. Nó

sẽ không mang tính bùng nổ, nó không lên tới cực đỉnh: nó

sẽ rất tí hon. Đó là lí do tại sao bạn thất vọng sau khi làm

tình. Chín mươi chín phần trăm mọi người đều thất vọng

sau khi làm tình, còn thất vọng hơn là họ đã thất vọng trước

đó. Và họ cảm thấy, "Gì thế nhỉ?... Chẳng có gì cả! Điều đó

không đúng!"

Bây giờ lần đầu tiên tu sĩ và chính khách mới dạy bảo

rằng bạn không nên có khả năng yêu và rồi họ tới và họ

thuyết giáo rằng chẳng có gì trong yêu cả. Và chắc chắn

thuyết giảng của họ có vẻ phải, thuyết giảng của họ có vẻ

hoà hợp đúng với kinh nghiệm của bạn. Đầu tiên họ tạo ra

kinh nghiệm về tính vô ích, về thất vọng, rồi... đến giáo lí

của họ. Và cả hai có vẻ gắn với nhau một cách logic thành

một vở kịch.

Đây là một thủ đoạn lớn, lớn nhất đã từng được áp

dụng cho con người. Năm điều này có thể được sử dụng

qua một việc đơn giản, và đó là kiêng kị yêu. Có thể thực

hiện được tất cả các mục tiêu này bằng cách nào đó ngăn

cản người ta khỏi yêu lẫn nhau. Và điều kiêng kị đó đã

được dùng theo cách rất khoa học... Điều kiêng kị này là vở

kịch lớn; tài năng lớn và tinh ranh lớn đã đi vào trong đó,

nó thực sự là kiệt tác. Điều kiêng kị này cần phải được

hiểu.

Trước hết: nó là gián tiếp, nó ẩn giấu. Nó là không rõ

ràng, bởi vì bất kì khi nào điều kiêng kị thành quá hiển

nhiên nó sẽ không có tác dụng. Điều kiêng kị phải được che

giấu để cho bạn không biết cách nó vận hành. Điều kiêng kị

phải được che giấu để cho bạn thậm chí không thể tưởng

tượng được rằng có thể có cái gì chống lại nó. Điều kiêng

kị phải đi vào vô thức, không đi vào ý thức. Làm sao làm

cho nó thật tinh vi và thật gián tiếp? Thủ đoạn của họ là:

trước hết cứ thuyết giảng rằng tình yêu là vĩ đại cho nên

người ta chẳng bao giờ nghĩ rằng các tu sĩ và chính khách

chống đối tình yêu. Cứ thuyết giảng rằng tình yêu là vĩ đại,

rằng tình yêu là điều phải - và rồi không cho phép bất kì

tình huống nào tình yêu có thể xảy ra, không cho phép có

cơ hội nào. Không cho bất kì cơ hội nào, và cứ thuyết giảng

rằng thức ăn là vĩ đại, việc ăn là vui vẻ lớn - "Hãy ăn thoả

sức" - nhưng chẳng cung cấp thứ gì để ăn cả. Giữ cho mọi

người cứ đói dài và tiếp tục nói về tình yêu.

Cho nên mọi tu sĩ cứ nói về tình yêu. Tình yêu được ca

tụng cao hơn bất kì cái gì, chỉ có sau Thượng đế, và bị chối

từ mọi khả năng xảy ra. Trực tiếp cổ vũ cho nó; gián tiếp

cắt đứt gốc rễ nó. Đấy là kiệt tác.

Không tu sĩ nào nói về cách họ đã gây hại. Dường như

là bạn cứ nói với cái cây, "Xanh thắm đi, nở hoa, tận hưởng

đi," và bạn cứ cắt rễ để cho cây không thể xanh được. Và

khi cây không xanh, bạn có thể nhảy lên cây và nói, "Nghe

đây! Mi chẳng chịu nghe lời ta, mi không tuân theo ta." Tất

cả chúng ta cứ nói "Xanh thắm đi, nở hoa, tận hưởng, nhảy

múa đi"... trong khi đó thì bạn cứ chặt rễ.

Tình yêu bị phủ nhận quá nhiều... và tình yêu là điều

hiếm hoi nhất trên thế giới, nó không nên bị từ chối. Nếu

một người có thể yêu năm người, người đó nên yêu cả năm.

Nếu một người có thể yêu năm mươi người, người đó nên

yêu năm mươi người. Nếu một người có thể yêu năm trăm

người, người đó nên yêu năm trăm người. Tình yêu hiếm

đến độ bạn càng trải rộng tình yêu càng tốt hơn.

Nhưng có các thủ đoạn lớn. Bạn bị dồn vào một góc

hẹp, rất hẹp: bạn chỉ có thể yêu vợ mình, bạn chỉ có thể yêu

chồng mình, bạn chỉ có thể yêu cái này, bạn chỉ có thể yêu

cái kia; các điều kiện quá nhiều. Dường như là có luật rằng

bạn chỉ có thể thở được khi ở bên vợ mình, bạn chỉ có thể

thở được khi ở bên chồng mình. Thế thì việc thở sẽ trở

thành không thể được, thế thì bạn sẽ chết. Và bạn thậm chí

còn không thể nào thở được trong khi bên cạnh vợ hay

chồng mình. Bạn phải thở hai mươi tư tiếng một ngày. Bạn

càng thở nhiều thì bạn càng có thể thở trong khi ở cùng với

bạn đời của mình.

Hãy là việc yêu.

Thế rồi có một thủ đoạn nữa: họ nói về tình yêu 'cao

hơn' và họ phá huỷ cái thấp hơn. Và họ nói rằng cái thấp

hơn phải bị phủ nhận: tình yêu thân thể là xấu, tình yêu linh

hồn mới tốt. Bạn đã bao giờ thấy bất kì linh hồn nào không

có thân thể không? Bạn đã bao giờ thấy một ngôi nhà

không móng không? Cái thấp hơn là nền móng cho cái cao

hơn. Thân thể là nơi trú ngụ của bạn, linh hồn sống trong

thân thể, với thân thể. Bạn là linh hồn được hiện thân và là

thân thể mang linh hồn. Bạn là cả hai hợp lại. Phần thấp

hơn và phần cao hơn là không tách bạch, chúng là một...

các bậc của cùng chiếc thang.

Đây là điều Mật tông muốn làm sáng tỏ: phần thấp hơn

phải không bị chối bỏ, phần thấp hơn phải được biến đổi

thành phần cao hơn. Phần thấp hơn là tốt. Nếu bạn bị mắc

kẹt với phần thấp hơn, lỗi là ở bạn, không phải là ở phần

thấp hơn. Chẳng có gì sai với bậc dưới của chiếc thang.

Nếu bạn bị mắc kẹt với nó, chính bạn bị mắc kẹt: đó là cái

gì đó trong bạn. Di chuyển đi.

Dục không sai, bạn sai nếu bạn bị mắc kẹt ở đó. Đi lên

cao hơn đi. Phần cao hơn không chống phần thấp hơn;

phần thấp hơn tạo khả năng cho phần cao hơn tồn tại.

Và những thủ đoạn này đã tạo ra lắm vấn đề khác. Mỗi

lần bạn yêu, bạn lại mặc cảm thế nào đó; mặc cảm nảy

sinh. Khi có mặc cảm bạn không thể đi toàn bộ vào trong

yêu; mặc cảm ngăn cản bạn, nó giữ bạn dừng lại. Ngay cả

trong khi làm tình với vợ hay chồng vẫn có mặc cảm: bạn

biết điều này là tội lỗi, bạn biết bạn đang làm điều gì đó sai.

Các thánh nhân không làm điều đó, bạn là tội nhân. Cho

nên bạn không thể đi toàn bộ ngay cả khi bạn được phép -

một cách bề ngoài - yêu vợ bạn. Tu sĩ ẩn đằng sau bạn

trong cảm giác phạm tội của bạn; ông ta đang kéo bạn từ

đằng kia, kéo sợi dây buộc bạn. Khi mặc cảm nảy sinh bạn

bắt đầu cảm thấy rằng bạn sai; bạn mất tự tin, bạn mất tự

trọng.

Và vấn đề khác nảy sinh: khi có mặc cảm bạn bắt đầu

giả vờ. Bố và mẹ không cho phép con cái được biết rằng họ

làm tình; họ giả vờ, họ giả vờ rằng tình yêu không tồn tại.

Chẳng chóng thì chầy giả vờ của bố mẹ sẽ bị con cái biết.

Khi con cái nhận ra giả vờ đó, chúng mất mọi tin cậy,

chúng cảm thấy bị phản bội, chúng cảm thấy bị lừa. Còn bố

và mẹ thì nói rằng con cái không tôn trọng họ. Bạn là

nguyên nhân của điều đó, làm sao chúng có thể tôn trọng

bạn được? Bạn đã lừa dối chúng theo mọi cách, bạn đã

không trung thực, bạn đã kém cỏi. Bạn đã bảo chúng đừng

yêu - "Cẩn thận đấy!" - rồi bạn làm tình mọi lúc. Rồi một

ngày sẽ tới, chẳng chóng thì chầy, lúc chúng sẽ hiểu rằng

ngay cả bố chúng, ngay cả mẹ chúng cũng không thật với

chúng - cho nên làm sao chúng có thể kính trọng bạn được?

Ban đầu mặc cảm tạo ra giả vờ, rồi giả vờ tạo ra xa

lánh mọi người. Ngay cả đứa trẻ, con bạn, cũng sẽ không

cảm thấy hài hoà với bạn. Có rào chắn: giả vờ của bạn. Và

bạn biết rằng mọi người đều giả vờ. Một ngày nào đó bạn

sẽ đi tới nhận ra rằng bạn chỉ là việc giả vờ, và người khác

cũng thế. Khi mọi người đều giả vờ làm sao bạn có thể có

quan hệ được? Khi mọi người đều giả, làm sao bạn có thể

quan hệ được? Làm sao bạn có thể thân thiết khi mọi nơi

đều có lừa dối, giả dối? Bạn trở nên rất, rất buồn phiền về

thực tại, bạn trở nên rất cay đắng, bạn thấy đấy chỉ là

xưởng thợ của quỉ.

Và mọi người đều có khuôn mặt giả, không ai chân

thực cả. Mọi người đều đeo mặt nạ, không ai phô bày

khuôn mặt nguyên thuỷ của mình. Bạn thấy mặc cảm, bạn

cảm thấy rằng bạn đang giả vờ, và bạn biết rằng mọi người

cũng đang giả vờ, mọi người đều thấy mặc cảm, và mọi

người đều trở thành giống như vết thương xấu xí. Bây giờ

rất dễ làm cho những người này thành nô lệ - biến họ thành

thư kí, trưởng ga, hiệu trưởng, bộ trưởng, thống đốc, tổng

thống. Bây giờ rất dễ dàng sao lãng tư tưởng họ. Bạn đã

làm họ sao lãng từ tận gốc rễ. Dục là gốc rễ, do đó có tên

muladhar. Muladhar nghĩa là năng lượng chính gốc.

Tôi đã từng nghe ...

Đó là đêm tân hôn và Bà Jane kiêu căng đã thực hiện

nghĩa vụ làm vợ lần đầu tiên.

"Lạy trời," bà hỏi chú rể, "đấy là điều mà thường dân

vẫn gọi là làm tình sao?"

"Đúng, thế đấy, thưa bà," Ông ấy Reginald trả lời, lại

làm như trước.

Sau một chốc Bà Jane mới phẫn nộ than vãn, "Thế thì

quá tốt cho dân thường!"

Dân thường không thực sự được phép làm tình: điều ấy

là quá tốt cho họ. Nhưng vấn đề là ở chỗ khi bạn đầu độc

toàn bộ thế giới thường, bạn cũng bị đầu độc. Nếu bạn đầu

độc bầu không khí mà dân thường hít thở, không khí mà

vua thở cũng bị đầu độc; không thể tách biệt được, nó là

một. Khi tu sĩ đầu độc dân thường, cuối cùng ông ta cũng

bị đầu độc. Khi chính khách đầu độc không khí của dân

thường, cuối cùng ông ta cũng hít thở cùng bầu không khí

ấy; không có không khí khác.

Một cha phó và một giám mục đang ở hai góc đối diện

của một khoang tàu hoả trên một hành trình dài. Khi giám

mục bước vào, cha phó cất ngay cuốn tạp chí Playboy và

bắt đầu đọc The Church Times. Giám mục bỏ qua ông ta và

cứ giải đố chữ chéo của tờ Times. Im lặng lan khắp toa.

Sau một chốc cha phó cố bắt chuyện. Và khi giám mục

bắt đầu làm một loạt các câu hắc búa và tặc lưỡi khó chịu

thì cha phó lại thử "Tôi có thể giúp ông được chứ?"

"Có thể. Tôi chỉ chịu mỗi một từ thôi. Từ gì có bốn chữ

này mà ba chữ cuối là u-n-t, và đầu mối là 'về bản chất là

nữ tính?"

"Sao, thưa ông ấy," cha phó sau một chốc dừng lại,

"Đấy phải là từ aunt - bà cô."

"Tất nhiên, tất nhiên!" giám mục nói. "Tôi nói, cậu

thanh niên, cậu có thể cho tôi mượn cái tẩy được không?"

Khi bạn kìm nén trên bề mặt, mọi thứ luồn sâu vào bên

trong, vào vô thức. Nó vẫn có đó; dục không bị phá huỷ.

May mắn là nó không bị phá huỷ; nó chỉ bị đầu độc. Nó

không thể bị phá huỷ được, nó là năng lượng cuộc sống. Nó

đã trở thành bị ô nhiễm và nó có thể được làm thuần khiết.

Đó là toàn bộ quá trình của Mật tông: quá trình làm thuần

khiết vĩ đại.

Vấn đề cuộc đời bạn về cơ bản có thể được qui về vấn

đề dục của bạn. Bạn có thể cứ giải quyết các vấn đề khác

của mình nhưng bạn sẽ chẳng bao giờ có thể giải quyết

được chúng bởi vì chúng không phải là vấn đề thực. Và nếu

bạn giải quyết vấn đề dục của mình, mọi vấn đề sẽ biến mất

bởi vì bạn đã giải quyết được điều cơ sở.

Nhưng bạn sợ ngay cả việc nhìn vào nó. Điều đó đơn

giản: nếu bạn có thể gạt sang một bên những ước định đã

học của mình, vấn đề rất đơn giản, nó đơn giản cũng như

câu chuyện sau...

Một bà cô chán chường là người quấy rầy cho cảnh sát;

bà cô cứ gọi điện nói có một người đàn ông ở dưới gầm

giường mình. Cuối cùng người ta phải đưa cô tới bệnh viện

tâm thần, nhưng cô vẫn cứ nói với các bác sĩ là có một

người đàn ông dưới gầm giường cô. Họ cho cô liều thuốc

cuối cùng rồi cô bỗng nhiên tuyên bố rằng cô đã khỏi.

"Cô định nói, cô Rustifan, là bây giờ cô không còn thấy

một người đàn ông dưới gầm giường chăng?"

"Không, tôi không thể nói thế. Tôi có thể thấy hai

người cơ."

Một bác sĩ nói với bác sĩ khác rằng thực sự chỉ có một

loại thuốc tiêm mới có thể chữa bệnh phàn nàn của cô ấy,

loại thuốc ông ta gọi là 'trinh ác tính': tại sao họ không đặt

cô ấy nằm trong giường ngủ cùng với Dan Lớn, ông thợ

mộc của bệnh viện?

Dan Lớn bị lôi tới, người ta kể cho nghe về điều phàn

nàn của cô ấy và rồi anh ta sẽ bị nhốt vào phòng cùng cô ấy

trong một giờ. Anh ta nói rằng không cần phải lâu đến thế,

và một nhóm người lo âu tụ tập trên đầu cầu thang. Họ

nghe thấy, "Không, dừng việc ấy lại đi, Dan. Mẹ sẽ không

bao giờ tha thứ cho em đâu!"

"Đừng có la hét thế, đằng nào cũng cần phải làm việc

này. Đáng phải làm từ vài năm trước rồi!"

"Anh hay dùng sức mạnh thế, anh vũ phu lắm!"

"Đấy chính là điều chồng cô đáng phải làm, cô đáng

phải có một người chồng."

Không thể chờ đợi được nữa, các bác sĩ ùa vào.

"Tôi đã chữa khỏi cô ấy!" người thợ mộc nói.

"Anh ấy đã chữa khỏi cho tôi!" Cô Rustifan nói.

Anh ta đã cưa hết chân giường.

Đôi khi chữa trị rất đơn giản, và bạn làm cả nghìn lẻ

một thứ... Còn người thợ mộc thì làm chính xác, chỉ cần

cưa chân giường và thế là xong việc. Bây giờ người đàn

ông có thể ẩn nấp vào đâu được nữa?

Dục là gốc rễ của hầu hết mọi vấn đề của bạn. Nó phải

là như vậy bởi vì có tới hàng nghìn năm đầu độc. Việc làm

thuần khiết vĩ đại là cần thiết. Mật tông có thể làm thuần

khiết năng lượng dục của bạn. Lắng nghe thông điệp của

Mật tông, cố hiểu nó. Đấy là thông điệp cách mạng vĩ đại.

Nó chống lại mọi tu sĩ và chính khách. Nó chống lại mọi kẻ

đầu độc này, người đã giết chết mọi vui vẻ trên trái đất chỉ

để cho con người có thể bị biến thành - thu lại thành - nô lệ.

Giành lấy tự do của bạn.

Giành lấy tự do yêu của bạn.

Giành lấy tự do được hiện hữu, và rồi cuộc sống không

còn là vấn đề.

Nó là bí ẩn.

Nó là cực lạc.

Nó là phúc lành.

Đủ cho hôm nay.

************************************************************

#5 Từ không tới không

Vô kí ức là chân lí của qui ước

còn tâm trí đã trở thành vô trí là chân lí tối thượng.

Đây là hoàn thành, đây là điều tốt lành cao nhất.

Các bạn, điều tốt lành cao nhất này trở thành nhận

biết.

Trong vô kí ức tâm trí bị hấp thu;

chính điều này là hoàn hảo và thuần khiết đa cảm. Nó

không bị ô nhiễm bởi cái tốt cái xấu trần tục

tựa như hoa sen vươn lên từ bùn không bị ảnh hưởng

bởi bùn đen.

Mọi điều đều cần phải được xem xét dường như chúng

là câu thần chú kì diệu...

Nếu không phân biệt bạn có thể chấp nhận hay bác bỏ

luân hồi hay niết bàn,

tâm trí bạn kiên định, tự do khỏi màn đêm.

Trong bạn sẽ là tự tại, vượt ra ngoài ý nghĩ và gốc

gác.

Thế giới dáng vẻ này

có từ việc bắt đầu toả chiếu của nó

chẳng bao giờ đi tới hiện hữu;

không mẫu hình, nó đã vứt bỏ mẫu hình.

Thông thường nó là việc thiền liên tục và duy nhất;

nó là vô tâm trạng, suy tư không tì vết, và vô trí

Một cảnh cổ đại... phải là một buổi sáng như thế này.

Cây cối lay động trong ánh mặt trời buổi sáng và chim chóc

hót líu lo.Và ngôi nhà của nhà huyền môn vĩ đại thời ấy,

Udallaka, đang mở hội đón chào sự trở về của con ông,

Swetketu, từ nhà thầy, nơi anh ta được gửi tới học.

Swetketu về. Người bố đón cậu con ngay cửa, nhưng

ông cảm thấy cái gì đó bị thiếu, cái gì đó thiêu thiếu ở

Swetketu, và cái gì đó đang hiện diện mà đáng ra không

nên hiện diện - kiêu ngạo tinh vi, bản ngã tinh vi. Đó là

điều cuối cùng mà người bố đang chờ đợi.

Trong những ngày xưa ấy giáo dục chủ yếu là giáo dục

về vô ngã. Sinh viên được gửi vào trường đại học trong

rừng để sống với thầy sao cho anh ta có thể làm tan biến

bản thân mình và nếm trải sự tồn tại. Tin đồn đưa về rằng

Swetketu đã trở thành học giả lớn. Cũng còn có tin đồn

rằng anh ta đã đoạt phần thưởng lớn nhất. Và bây giờ anh

ta quay trở về, thế mà Udallaka lại không hạnh phúc.

Vâng, anh ta đã đem về phần thưởng lớn nhất mà

trường đại học có thể ban tặng. Anh ta đã vượt qua mọi kì

thi, anh ta đã thu được bằng cấp cao nhất, và anh ta trở về

tải nặng với nhiều tri thức. Nhưng cái gì đó vẫn thiếu, và

đôi mắt người bố đẫm lệ. Swetketu không thể hiểu được

điều đó. Anh ta nói, "Có chuyện gì không ổn vậy? Sao bố

không sung sướng?" Còn người bố thì nói, "Bố có một câu

hỏi: con đã học được cái một đó chưa, nếu học được cái đó

thì mọi điều đều được biết, và nếu quên cái đó thì mọi tri

thức đều vô ích, vô nghĩa, chỉ là gánh nặng - chẳng ích gì,

chỉ có hại?"

Swetketu nói, "Con đã học mọi điều được biết đến lúc

này. Con đã học lịch sử, con đã học triết học, con đã học

toán học, con đã học Veda. Con đã học ngôn ngữ, con đã

học nghệ thuật, con đã học thứ này thứ nọ..." Và anh ta liệt

kê ra tất cả tên của mọi khoa học ngày đó. Nhưng sự bất

hạnh của người bố vẫn nguyên như trước. Ông nói, "Nhưng

con đã học cái một đó chưa, với việc học cái đó mà người

ta biết được tất cả?"

Cậu con trai hơi khó chịu. Anh ta nói, "Bất kì cái gì

thầy có thể dạy con đều đã học qua. Và bất kì cái gì được

viết ra trong sách con đều đã học qua. Bố đang nói về cái gì

vậy? 'Cái một đó'...! Bố đừng nói điều bí ẩn, bố hãy nói

đích xác điều đó. Bố ngụ ý gì?"

Tự nhiên đã có kiêu ngạo. Anh ta đã về với ý tưởng

rằng bây giờ anh ta đã biết tất cả. Có thể anh ta đã nghĩ -

như mọi sinh viên nghĩ - rằng bây giờ bố mình chẳng biết

gì. Anh ta phải đã về nhà với ý tưởng rằng bây giờ anh ta

đã trở thành người hiểu biết lớn. Và thế mà người bố già

của anh ta vẫn không hạnh phúc, và ông đang nói về một

điều bí ẩn nào đó: cái một.

Và người bố nói, "Con có thấy cái cây đằng kia, xa kia

không? Tới đó và lấy hạt của cây đó về." Đó là cây

nayagrod. Người con đem hạt của cây đó về, rồi người bố

nói, "Cây này mọc lên từ đâu?"

Người con nói, "Tất nhiên là từ cái hạt nhỏ bé này."

"Cái cây lớn thế... mà mọc ra từ hạt nhỏ thế này à?

Đập vỡ hạt ra và xem cái cây đó mọc ra từ đâu - cái cây lớn

đó." Hạt mầm bị đập vỡ ra, nhưng chẳng có gì cả. Trong

hạt này là cái rỗng không. Rồi người bố nói, "Con có thấy

rằng từ cái rỗng không đó mà cái cây lớn này mọc lên

không?"

Và người con nói, "Con có thể suy luận ra điều đó,

nhưng con không thể thấy được điều đó. Làm sao bố có thể

thấy được cái không?"

Và người bố nói, "Đó chính là cái một mà bố vừa nói

tới. Chính từ cái không mà mọi thứ xảy ra, chính từ cái

trống rỗng sáng tạo đó mà tất cả được sinh ra và rồi một

ngày nào đó lại tan biến trở lại cái không đó. Con quay lại,

học về cái trống rỗng, quay lại và học shunya. Quay lại,

học cái trống rỗng này, bởi vì đấy là ngọn nguồn của tất cả:

cội nguồn. Và cội nguồn cũng là mục đích nữa, cái bắt đầu

cũng là cái kết thúc. Hãy đi và học điều cơ sở, nền tảng

này. Mọi thứ khác con đã học đều chỉ là rác rưởi! Quên nó

đi; nó tất cả chỉ là kí ức, nó tất cả đều là tâm trí. Học cái vô

trí, hãy học cái vô kí ức. Đấy là tất cả tri thức mà con học.

Học việc biết, học việc nhận biết, học việc hiểu biết. Đấy là

mục tiêu mà con phải học, nhưng con vẫn chưa thấm nhuần

vào tận cốt lõi bên trong nhất."

Thế giới được coi như một cái cây lớn. Và đây là bốn

bước trong Mật tông. Cái trống rỗng là bước đầu tiên - cái

trống rỗng trong hạt mầm. Hạt mầm chẳng là cái gì khác

ngoài bình chứa cho cái trống rỗng sáng tạo đó; nó chứa cái

trống rỗng sáng tạo đó. Khi hạt mầm lẩn vào trong đất, cái

trống rỗng đó bắt đầu mọc mầm thành cây.

Cái không này - điều các nhà vật lí gọi là phi-vật chất -

cái không này, cái không có gì này chính là cội nguồn. Từ

cái không này cây được sinh ra. Rồi đến hoa, quả và cả

nghìn lẻ một thứ. Nhưng mỗi thứ lại trở thành một hạt mầm

và hạt mầm rơi xuống đất và lại trở thành cái trống rỗng đó.

Đây là vòng tròn của sự tồn tại: từ không tới không, từ

không đâu cả tới không đâu cả. Giữa hai cái không đâu cả

là giấc mơ, là luân hồi. Giữa hai cái không là mọi thứ. Do

đó chúng được gọi là chất liệu mơ; do đó chúng được gọi là

ảo vọng; do đó chúng được gọi là cái không nhưng có ý

nghĩ, tưởng tượng. Đấy là cây Mật tông.

Vô trí là chỗ bắt đầu cho tất cả và là chỗ kết thúc của

tất cả. Từ vô trí sinh ra điều Mật tông gọi là vô thuỷ; từ vô

thuỷ sinh ra vô kí ức; từ vô kí ức sinh ra kí ức. Đây là cây

Mật tông.

Vô trí, cái không, có nghĩa là mọi cái đều là tiềm năng,

không có gì là thực tại. Mọi thứ đều có thể, có lẽ, nhưng

không có gì đã xảy ra. Sự tồn tại là giấc ngủ say trong hạt

mầm, việc nghỉ ngơi - trạng thái nghỉ ngơi, trạng thái sinh

linh chưa biểu hiện. Nhớ điều đó, bởi vì chỉ có thế thì bạn

mới có thể hiểu được những lời kinh này. Những lời kinh

này là rất quan trọng, bởi vì nếu hiểu chúng bạn có thể đi

vào tâm trí của mình và tìm kiếm vô trí.

Trạng thái thứ nhất: vô trí - mọi thứ đều là tiềm năng,

cái không là thực tại. Trạng thái thứ hai: vô thuỷ - vẫn cái

không đã trở thành thực tại, nhưng mọi thứ mới đang sẵn

sàng trở thành thực tại. Theo một đằng nó chính là như

trạng thái thứ nhất, nhưng có hơi khác. Trong trạng thái thứ

nhất mọi thứ đều tuyệt đối nghỉ; việc nghỉ là tuyệt đối,

không cái gì có thể xảy ra trong hàng triệu năm. Trong

trạng thái thứ hai vẫn không có gì xảy ra, nhưng mọi thứ đã

sẵn sàng để xảy ra vào bất kì lúc nào; tiềm năng là sẵn sàng

bùng nổ vào thực tại. Điều ấy giống như vận động viên

chạy đã sẵn sàng chạy vào bất kì lúc nào còi thổi. Người đó

sắp sửa, người đó đang trên vạch xuất phát, tuyệt đối sẵn

sàng; một khi tín hiệu được phát ra là người đó sẽ chạy.

Vô thuỷ có nghĩa là không có gì có nguồn gốc hết,

nhưng nó sẵn sàng để sinh ra. Vô thuỷ nghĩa là trạng thái

thai nghén. Đứa con đang trong bụng mẹ, đứa con có thể ra

đời vào bất kì lúc nào. Vâng, nó còn chưa xảy ra, cho nên

theo cách đó nó tương tự với trạng thái thứ nhất. Nhưng nó

đã rất, rất sẵn sàng; theo cách đó nó không giống với trạng

thái thứ nhất.

Trạng thái thứ ba được gọi là vô kí ức. Đứa trẻ được

sinh ra; kinh nghiệm đã trở thành thực tại. Thế giới đã tới,

nhưng vẫn không có tri thức: vô kí ức.

Nghĩ đến ngày đầu tiên của đứa trẻ sơ sinh. Nó mở mắt,

nó sẽ thấy những cây xanh này, nhưng nó sẽ không thể

nhận ra chúng là xanh. Làm sao nó có thể nhận ra được

chúng là xanh? Nó chưa bao giờ biết mầu xanh lá cây trước

đó. Thậm chí nó còn không có khả năng nhận ra rằng

chúng là cây. Nó sẽ thấy cây, nhưng nó sẽ không có khả

năng nhận ra được chúng bởi vì nó chưa bao giờ biết đến

chúng trước đây. Cảm nhận của nó sẽ là thuần khiết, không

tì vết bởi kí ức; do đó trạng thái này còn được gọi là vô kí

ức.

Đây chính là trạng thái người Ki tô giáo nói tới khi

Adam sống trong vườn Địa đàng: không tri thức, anh ta còn

chưa nếm quả của cây tri thức. Đây là trạng thái trong đó

mọi đứa trẻ sống những ngày đầu tiên trong cuộc đời.

Trong vài tháng đứa trẻ thấy, nghe, chạm, nếm, nhưng

không nhận biết nào nảy sinh, không kí ức nào được tạo

thành. Đó là lí do tại sao người ta rất khó nhớ những ngày

đầu của cuộc đời mình. Nếu bạn cố gắng nhớ, bạn có thể dễ

dàng trở lại lúc năm tuổi. Cố thêm chút nữa - đến bốn tuổi;

thêm chút nữa - phải cố lắm - và bạn có thể trở lại tới ba

tuổi. Rồi bỗng nhiên có một khoảng trắng, thế thì bạn

không thể nhớ được nữa. Sao lại không? Bạn đã sống. Thực

tế bạn đã sống đến mức bạn sẽ chẳng bao giờ sống lại được

lần nữa. Ba năm đầu tiên này là thời kì sống động nhất của

cuộc sống của bạn. Tại sao kí ức về chúng không có đó?

Tại sao bạn không thể xâm nhập vào chúng? Bởi vì cảm

nhận không có đó. Ấn tượng thì có nhưng không có cảm

nhận.

Đó là lí do tại sao Mật tông gọi trạng thái này là vô kí

ức. Bạn thấy, nhưng bởi việc thấy, tri thức không được tạo

ra. Bạn không thu thập cái gì. Bạn sống từ khoảnh khắc này

sang khoảnh khắc khác; bạn trượt từ khoảnh khắc này vào

khoảnh khắc khác mà không mang khoảnh khắc đầu vào

khoảnh khắc sau. Bạn không có quá khứ nào, mỗi khoảnh

khắc nảy sinh tuyệt đối tươi tắn. Đó là lí do tại sao trẻ con

mới sinh động và tươi trẻ đến thế, cuộc đời chúng đầy vui

vẻ, thích thú, kì diệu. Những vật nhỏ bé cũng làm chúng

sung sướng đến thế, những sự việc nhỏ bé cũng làm cho

chúng kích động, mê li đến thế. Chúng liên tục ngạc nhiên:

chỉ một con chó chạy qua mà chúng cũng ngạc nhiên. Một

con mèo tới trong phòng mà chúng cũng ngạc nhiên. Bạn

mang hoa tới, và mầu hoa đối với chúng mới cực kì say mê

làm sao... Chúng sống trong thế giới ngây ngất; mọi thứ

đều toả sáng. Mắt chúng trong trẻo, không chút bụi trần

bám đọng; tấm gương của chúng phản chiếu hoàn hảo. Đây

là trạng thái của vô kí ức, trạng thái thứ ba.

Và rồi trạng thái thứ tư tới: kí ức, trạng thái của tâm trí.

Adam đã ăn trái cây tri thức; anh ta đã sa ngã, anh ta đã đến

thế giới này. Từ vô trí tới tâm trí là bước chuyển vào trong

thế giới. Vô trí là niết bàn; tâm trí là luân hồi. Nếu bạn

muốn quay trở lại lần nữa tới thuần khiết nguyên thuỷ, tới

hồn nhiên nguyên sơ, tới thuần khiết chủ chốt của tâm thức,

bạn sẽ phải đi ngược lại. Và cũng chính là các bước trên sẽ

là các bước đi: kí ức phải tan biến thành vô kí ức. Do đó

nhấn mạnh của mọi cách thiền đều là tâm trí phải bị vứt bỏ,

suy nghĩ phải bị vứt bỏ.

Chuyển từ ý nghĩ sang vô ý nghĩ, rồi từ vô ý nghĩ sang

vô thuỷ, rồi từ vô thuỷ sang vô trí... và giọt nước rơi vào

trong đại dương. Bạn lại là đại dương, bạn lại là vô hạn,

bạn lại là vĩnh cửu.

Vô trí là vĩnh hằng; tâm trí là thời gian.

Hôm nọ tôi đã nói về bốn ấn: ấn nghiệp karma, điệu bộ

hành động, ấn hiểu biết gyana, điệu bộ tri thức, ấn thời gian

samaya, điệu bộ thời gian thuần tuý, và đại biểu ấn

mahamudra, điệu bộ vĩ đại, điệu bộ không gian. Chúng

cũng có liên hệ với bốn trạng thái này.

Đầu tiên, ấn nghiệp, là kí ức. Mật tông nói: bất kì cái gì

bạn coi là hành động đều không là gì ngoài kí ức. Trong

thực tế hành động chưa bao giờ xảy ra. Nó là giấc mơ mà

bạn đã nhìn qua, nó là phóng chiếu của bạn. Hành động

không xảy ra, hành động không thể xảy ra trong chính bản

chất của sự vật. Hành động chỉ là giấc mơ tâm trí, bạn

phóng chiếu nó.

Cho nên điều đầu tiên, ấn nghiệp, đích xác song song

với kí ức. Ngày bạn vứt bỏ kí ức, bạn cũng vượt ra ngoài

hành động. Thế nữa mọi thứ vẫn xảy ra qua bạn, nhưng bạn

không còn là tác nhân, bạn không còn là người làm ra

chúng; bản ngã biến mất. Mọi thứ chảy qua bạn, nhưng bạn

không phải là người làm ra chúng. Cây không cố mọc lên;

việc mọc xảy ra, nhưng cây không cố lớn lên. Hoa nở,

nhưng không có nỗ lực can dự vào. Sông chảy nhưng

chúng không mệt. Sao dời nhưng chúng không lo âu. Mọi

thứ xảy ra nhưng không có người làm.

Trạng thái thứ hai là ấn hiểu biết gyana, điệu bộ tri

thức. Bạn đơn giản ngắm nhìn, bạn đơn giản biết, bạn

không làm gì cả. Mọi thứ xảy ra, bạn chỉ là người ngắm

nhìn; bạn không trở thành bị đồng nhất là người làm.

Rồi ấn thứ ba là ấn thời gian samaya. Rồi dần dần sự

kiện người biết cũng không còn cần thiết nữa; chẳng có gì

để biết. Hành động đầu tiên biến mất, thế rồi tri thức cũng

biến mất. Thế thì có cái bây giờ thuần khiết; thời gian chỉ

trôi trong sự thuần khiết của nó. Tất cả là: không có gì phải

làm và không có gì phải biết. Bạn đơn giản hiện hữu; thời

gian cứ trôi bên cạnh, bạn không bị quấy rối, không bị xáo

động. Mọi ham muốn làm hay biết đều đã biến mất.

Chỉ có hai loại ham muốn: loại thấp hơn là làm việc gì

đó, loại cao hơn là biết cái gì đó. Loại thấp hơn cần thân thể

để thực hiện, loại cao hơn chỉ cần tâm trí để biết - nhưng cả

hai đều là ham muốn. Cả hai đều ra đi, bây giờ bạn ngồi lại

một mình. Mọi thứ đều biến chuyển, thời gian trôi đi, mọi

thứ cứ xảy ra. Bạn không là người làm cũng chẳng là người

biết.

Và rồi điệu bộ thứ tư: ấn đại biểu tượng mahamudra,

điệu bộ vĩ đại. Thậm chí bạn cũng không còn nữa. Hành

động bị vứt bỏ, tri thức bị vứt bỏ, rồi ngay cả thời gian

cũng bị vứt bỏ... và rồi bạn cũng biến mất. Thế thì chỉ còn

im lặng. Đây chính là điều im lặng là gì. Cái bạn vẫn gọi là

im lặng thì không phải là im lặng. Im lặng của bạn chỉ là

phản xạ xa xăm, im lặng rất nghèo nàn. Đôi khi bạn cảm

thấy một chút thảnh thơi và tâm trí không xoay tròn nhanh

như nó vẫn thường thế; tâm trí có một chút thảnh thơi, bạn

cảm thấy cái im lặng. Điều đó chẳng là gì cả.

Im lặng là khi hành động đã mất, tri thức đã mất, thời

gian đã biến mất... và cả bạn nữa. Cuối cùng bạn cũng mất.

Một ngày nào đó bỗng nhiên bạn thấy mình không hiện

hữu: một ngày nào đó bạn bỗng nhiên thấy rằng mọi thứ

đều biến mất, chẳng còn lại cái gì. Trong cái không có gì

đó - điệu bộ vĩ đại - bạn là vô tận.

Với điệu bộ thứ nhất, ấn nghiệp, còn có ý nghĩ - và một

cách tự nhiên, với ý nghĩ, có cả quá khứ và tương lai, bởi vì

ý nghĩ hoặc là về quá khứ hoặc là về tương lai. Với ý nghĩ,

có cả lo âu, căng thẳng, đau khổ.

Với điệu bộ thứ hai, ấn hiểu biết gyana, kí ức tan biến

trong vô kí ức: không quá khứ, không tương lai - chỉ có bây

giờ. Tâm trí đi ngủ, chưa chết hẳn, có thể thức dậy lần nữa.

Cho nên nhiều lần ấn gyana xảy ra và mất đi. Đó là ý nghĩa

của việc đạt được thiền và mất nó. Trong trường hợp thứ

hai tâm trí không bị phá huỷ, nó đơn giản đi ngủ. Nó có

giấc ngủ nhỏ, có thế thôi; nó đi vào trong giấc ngủ. Rồi lần

nữa nó quay trở lại, đôi khi với mức độ mạnh hơn; tất nhiên

quay trở lại với năng lượng cực kì lớn - nó đã nghỉ ngơi

rồi! Cho nên sau mỗi lần thiền sâu bạn sẽ thấy rằng tâm trí

xoay tròn nhiều hơn, bây giờ nó đã nhận được nhiều năng

lượng hơn; nó đã nghỉ ngơi và đã trở thành tích cực hơn.

Trong điệu bộ thứ hai, ấn hiểu biết gyana, tâm trí đi vào

giấc ngủ nhưng chưa biến mất - nhưng bạn có thể nếm trải

một chút vô trí trong thoáng chốc. Trong một giây hé ra tia

sáng ùa vào, bạn xúc động. Và việc nếm trải này tạo ra tin

cậy; đây là nơi tin cậy nảy sinh.

Tin cậy không phải là niềm tin, nó là nếm trải. Khi bạn

đã thấy ánh sáng này, cho dù chỉ một khoảnh khắc, thế thì

bạn chẳng bao giờ còn là con người như cũ nữa. Bạn có thể

mất nó, nhưng nó sẽ ám ảnh bạn. Bạn có thể không có khả

năng gặp lại nó lần nữa, nhưng bạn sẽ không thể nào quên

được nó, nó bao giờ cũng có đấy. Và bất kì khi nào bạn có

thời gian và năng lượng, nó sẽ bắt đầu gõ vào cánh cửa của

bạn.

Đây là trạng thái có thể xảy ra rất sớm trong hiện diện

của thầy; đây là đỉnh cao tiếp xúc. Trạng thái thứ hai, ấn

hiểu biết gyana, có thể xảy ra trong hiện diện của người đã

đạt tới giai đoạn thứ tư, tới vô trí.

Do đó trong suốt các thời đại những người tìm kiếm đã

đi tìm thầy. Có thể lấy nếm trải đó từ đâu? Bạn không thể

lấy được nó qua sách vở, sách vở chỉ cung cấp cho bạn

niềm tin. Kiếm kinh nghiệm sống đó từ đâu? Và bạn không

thể có được kinh nghiệm sống đó bởi vì bạn không biết nó

đính xác là gì, đi theo hướng nào, phải làm gì. Và hoài nghi

bao giờ cũng có đó... liệu tất cả những điều đó có tồn tại

không... có thể đấy chỉ là giấc mơ của vài người khùng

chăng? Và họ là phần thiểu số nhỏ bé - một Phật, một

Christ, một Saraha, họ là những phần rất nhỏ bé của nhân

loại. Đại đa số loài người sống mà không có kinh nghiệm

như vậy. Ai biết được, những người đó có thể là người

khùng. Ai biết được, những người đó có thể có hư hỏng

nào đó. Ai biết được, những người này có thể lừa đảo, giả

dối; họ có thể đi lừa kẻ khác. Hay có thể họ không là kẻ

lừa... những người thành thật, nhưng họ tự lừa dối mình.

Họ có thể tự thôi miên mình, họ có thể tạo ra ảo giác. Hay

có thể họ đã mơ về điều đó, có thể họ là những tay mơ,

những tay mơ giỏi...

Có những người mơ tốt và những người mơ xấu. Người

mơ xấu là những người có giấc mơ bao giờ cũng mầu đen

và trắng - phẳng, hai chiều. Những người mơ tốt là những

người có giấc mơ trong ba chiều, bao giờ cũng đầy mầu

sắc. Những người mơ ba chiều này trở thành nhà thơ. Bạn

có nhớ lúc nào bạn có giấc mơ mầu sắc không? Rất hiếm

khi một người thấy một giấc mơ mầu sắc; thường thì chúng

chỉ là trong đen trắng. Nếu bạn thấy giấc mơ mình có mầu

sắc thì có khả năng con người bạn là nhà thơ, hoạ sĩ, ngược

lại thì không. Ai biết được, các nhà huyền môn đều là

những người mơ vĩ đại và họ mơ trong ba chiều, cho nên

việc mơ của họ hoàn toàn thực tại. Và một cách tự nhiên họ

dành nhiều thời gian cho các giấc mơ của mình đến nỗi có

thể là họ trở nên bị ám ảnh với giấc mơ và đến nỗi chẳng

có gì giống điều ấy lại thực sự là thực cả...

Hoài nghi này cứ còn dai dẳng, hoài nghi này cứ theo

mọi người tìm kiếm. Điều ấy cũng tự nhiên, chẳng có gì

phải băn khoăn về nó cả. Làm sao vứt bỏ hoài nghi này?

Kinh sách chỉ nói, "Hãy vứt bỏ nó và hãy tin tưởng."

Nhưng làm sao vứt bỏ nó? Bạn có thể tin tưởng, nhưng sâu

bên trong hoài nghi vẫn cứ tiếp tục.

Thánh Augustine có một lời nguyện mà ông quen dùng

để cầu nguyện Thượng đế hàng ngày: "Thượng đế, con tin

tưởng. Con tuyệt đối tin tưởng. Nhưng xin ngài chăm nom,

ban ơn cho con, để cho hoài nghi không khởi lên nữa."

Nhưng tại sao? Nếu tin tưởng là tuyệt đối thì sợ hãi này nảy

sinh từ đâu? Lời cầu nguyện này tới từ đâu? "Con tin

tưởng," thánh Augustine nói, "và xin ngài chăm nom sự

không tin của con." Nhưng không tin có đó. Có thể bạn đã

kìm nén nó... từ tham lam, từ thèm khát Thượng đế, từ

thèm khát và ham muốn thế giới khác, bạn có thể đã kìm

nén nó; nhưng nó vẫn có đó, và nó tiếp tục giày vò trong

tim bạn. Bạn không thể vứt bỏ nó chừng nào kinh nghiệm

nào đó chưa xảy ra cho bạn.

Nhưng làm sao kinh nghiệm đó có thể xảy ra được?

Kinh sách nói, chừng nào bạn còn chưa tin tưởng thì kinh

nghiệm vẫn không xảy ra. Bây giờ đây là hiện tượng rất

phức tạp. Họ nói rằng kinh nghiệm sẽ không xảy ra chừng

nào bạn còn chưa tin. Và làm sao để kinh nghiệm xảy ra? -

vì bạn không thể tin được chừng nào kinh nghiệm chưa xảy

ra. Chỉ kinh nghiệm mới có thể tạo ra niềm tin - niềm tin

không hoài nghi, tin cậy không hoài nghi.

Tin cậy không hoài nghi này là có thể có chỉ nếu bạn

đang trong hiện diện của một ai đó mà điều đó đã xảy ra

cho người đó. Trong sự hiện diện ấy, một ngày nào đó, bạn

vẫn đang ngồi im lặng, không biết, không cố gắng, không

ham muốn, nó xảy ra. Nó xảy ra tựa như chớp loé... và toàn

bộ cuộc đời bạn được biến đổi. Đây chính là điều được ngụ

ý qua cải tâm. Bạn đã được cải tâm, bạn đã được biến đổi,

bạn đã chuyển tới một bình diện mới.

Sự hiện diện của ai đó sống cao hơn bạn đã nâng bạn

lên. Không nhận biết thấy, về phần mình, bạn đã được kéo

lên. Một khi bạn đã nếm trải thì có tin cậy. Và khi có tin

cậy bạn có thể chuyển vào trạng thái thứ ba và thứ tư. Sự

hiện diện của thầy chỉ có thể dẫn bạn qua trạng thái thứ hai,

ấn gyana. Vâng, thầy có thể cho bạn chút ít hiểu biết, chút

ít nếm trải về bản thể thầy.

Khi Jesus chuẩn bị ra đi, ông ấy bẻ chiếc bánh mì và

nói với các đệ tử, "Ăn nó đi, nó là ta," ông ấy rót rượu và

nói, "Uống đi, đây là máu ta, đây là ta." Điều này rất tượng

trưng, nó là biểu dụ. Đây là ấn hiểu biết gyana. Jesus đã

nói: ông có thể có một chút nếm trải ta, ông có thể uống ta,

ông có thể ăn ta. Mỗi đệ tử đều là con vật ăn thịt. Ông ta ăn

thầy, ông ta hấp thụ thầy; đó chính là điều ăn nghĩa là gì.

Bạn làm gì khi bạn ăn cái gì đó? Bạn tiêu hoá nó, bạn hấp

thu nó. Nó trở thành máu bạn, nó trở thành xương bạn, nó

trở thành tuỷ bạn, nó trở thành tâm thức bạn. Đó chính là

ăn là gì.

Bạn làm gì với thầy? Bạn ăn hiện diện của thầy, bạn ăn

rung động của thầy, và bạn tiêu hoá nó. Và dần dần, điều

đó trở thành tâm thức của bạn. Cái ngày nó trở thành tâm

thức của bạn, bạn là sannyasin, không trước điều đó. Trước

điều đó, sannyasin chỉ là hình thức. Trước điều đó,

sannyasin chỉ là sự bắt đầu hướng tới hiện tượng này.

Không phải là một sannyasin thì sẽ rất khó cho điều này

xảy ra, bởi vì với tính chất sannyas bạn trở nên cởi mở và

mong manh. Khi bạn cởi mở và mỏng manh, một ngày nào

đó, một khoảnh khắc nào đó, mọi thứ sẽ hội lại với nhau.

Trong một khoảnh khắc nào đó năng lượng của bạn ở trong

trạng thái mà năng lượng của thầy có thể kéo nó ra. Trong

những khoảnh khắc nào đó bạn đến rất gần. Trong khoảnh

khắc yêu thương nào đó, trong khoảnh khắc vui vẻ nào đó,

trong lễ hội nào đó, bạn tới gần với thầy và bạn có thể được

móc vào thầy! Và chỉ một thoáng nhìn, chỉ một giọt cam lồ

đó trôi xuống cổ họng bạn, thế là bạn được cải tâm.

Giờ bạn biết. Giờ bạn biết bản thân mình, giờ thì không

cần tin nữa. Bây giờ thậm chí toàn bộ thế giới có nói rằng

Thượng đế không tồn tại, điều ấy cũng chẳng thành vấn

đền: bạn sẽ có khả năng tranh đấu chống lại toàn bộ thế

giới bởi vì bạn biết. Làm sao bạn có thể phủ nhận được tri

thức riêng của mình? Làm sao bạn có thể phủ nhận được

kinh nghiệm của riêng mình?

Giọt cam lồ nhỏ bé đó còn mạnh hơn toàn bộ thế giới.

Giọt cam lồ nhỏ bé đó còn tiềm năng hơn toàn bộ quá

khứ của bạn.

Hàng triệu kiếp sống chẳng là gì khi so sánh với giọt

cam lồ nhỏ bé đó.

Nhưng điều này chỉ có thể xảy ra khi bạn ở gần. Mọi

người tới tôi và họ hỏi, "Tại sao phải là mang tính

sannyas? Chúng tôi không thể ở đây mà không mang tính

sannyas được sao?” Có chứ, bạn có thể ở đây lâu tuỳ thích,

nhưng bạn sẽ không ở gần. Bạn có thể ngồi ngay bên cạnh

tôi. Tôi có thể cầm tay bạn; điều đó sẽ không có tác dụng.

Hãy mong manh về phần bạn, cởi mở về phần bạn...

Mới vài ngày hôm trước một thanh niên hỏi tôi, "Đâu

là lí do cơ bản cho áo thụng da cam, cho vòng hạt, cho hình

trái tim có lồng ảnh này? Đâu là sự hợp lí?"

"Chẳng có gì cả," tôi bảo anh ta. "Đấy chỉ là ngớ ngẩn."

Anh ta phân vân. Anh ta nói, "Nhưng nếu đấy là điều

ngớ ngẩn thì tại sao thầy áp đặt nó?

Còn tôi thì bảo anh ta, "Đấy đích thị là cái tại sao."

Nếu tôi nói điều gì đó hợp lí và bạn làm việc đó thì

điều đó không làm bạn buông xuôi theo tôi, điều đó sẽ

không phải là điệu bộ. Nếu cái gì đó hợp lí và bạn được

thuyết phục về tính hợp lí của nó và rồi bạn theo nó, bạn

chính là đang theo lí trí của mình, không phải theo tôi. Nếu

cái gì đó hợp lí và có thể được chứng minh một cách hợp lí,

khoa học và bạn theo nó, bạn không mong manh cho tôi,

bạn không sẵn có cho tôi. Điều đó sẽ không ích gì; bạn sẽ

vẫn theo lí trí của bạn. Cho nên mỗi bậc thầy trong khắp

các thời đại đều đã phát triển một vài điều ngớ ngẩn. Chúng

đơn giản là biểu tượng. Chúng đơn giản chỉ ra rằng, vâng,

bạn đã sẵn sàng và bạn không đòi hỏi lí lẽ. Bạn đã sẵn sàng

đi với con người này và nếu ông ta có những ý tưởng lập dị

nào đó, cả điều ấy nữa bạn cũng theo. Điều này làm lỏng

đầu bạn, nó chỉ làm cho bạn cởi mở thêm một chút.

Chứng ngộ có thể xảy ra theo bất kì mầu sắc nào; mầu

da cam không phải là nhất thiết, nó có thể xảy ra theo bất kì

mầu nào. Nó có thể xảy ra không có hình trái tim lồng ảnh

nào, nó có thể xảy ra không có vòng hạt nào. Nhưng thế thì

tại sao?... Cái 'tại sao' là cái ngớ ngẩn của nó. Lí do là ở chỗ

nó là vô nghĩa. Nó chỉ là một cử chỉ về phần bạn rằng bạn

sẵn sàng đi vào cái gì đó cho dù nó là ngớ ngẩn. Bạn sẵn

sàng đi ra ngoài lí trí của mình, đó là ý nghĩa của nó.

Đây là sự bắt đầu rất nhỏ bé, nhưng những bắt đầu nhỏ

bé đó có thể kết thúc trong những điều lớn lao. Khi con

sông Hằng xuất phát từ Himalayas, nó chỉ là những giọt tí

tách; bạn có thể cầm nó trong tay, nó là một hiện tượng nhỏ

bé làm sao. Nhưng đến lúc nó đạt tới đại dương thì nó lớn

mênh mông, khổng lồ và to lớn đến mức nó nhấn chìm bạn;

bạn không thể cầm được nó tí nào nữa.

Đây là một cử chỉ nhỏ - mặc áo thụng da cam và đeo

vòng hạt mala và trái tim có lồng ảnh - một điều rất ngớ

ngẩn, một cử chỉ nhỏ bé, sự khởi đầu của cái gì đó. Bạn yêu

một người đến mức bạn sẵn sàng làm điều gì đó ngớ ngẩn

cho người ấy, có thế thôi. Điều này làm cho bạn thành

mong manh đối với tôi, và thế thì bạn có thể dễ dàng nhiễm

tác động.

Tin cậy mang tính truyền nhiễm, và bạn phải có sẵn

cho nó. Hoài nghi là một loại tiêm chủng: nó bảo vệ. Lí trí

bảo vệ. Được bảo vệ, bạn sẽ không bao giờ đi đâu cả. Được

bảo vệ, bạn sẽ chỉ chết. Được bảo vệ, bạn trong nấm mồ

của mình. Không được bảo vệ, bạn sẵn có cho Thượng đế.

Ở cận kề với thầy... hiện tượng này có thể xảy ra một

ngày nào đó, bạn sẽ được nâng lên; bỗng nhiên bạn có

cánh, một chút nếm trải tự do và bầu trời. Và thế thì... thế

thì mọi thứ có thể được làm theo cách riêng của bạn.

Thế thì giai đoạn thứ ba trở thành có thể: ấn thời gian

samaya. Thế thì bạn có thể bắt đầu nhìn theo hướng đã

được mở ra bên trong bạn, và bạn có thể bắt đầu chuyển

dịch. Bây giờ bạn biết nơi cần tới, nơi cần đi; bây giờ bạn

có hiểu thấu trực giác nào đó về nó, bây giờ bạn biết một

mẹo nào đó. Tôn giáo không phải là khoa học, tôn giáo

không phải là nghệ thuật, nó là mẹo. Nhưng mẹo tới thông

qua nếm trải, thông qua kinh nghiệm.

Ấn thời gian samaya là vô thuỷ, song song với vô thuỷ:

anutpanna. Thế thì tâm trí không chỉ ngủ, tâm trí đã bị vứt

bỏ. Nhưng với trạng thái thứ hai, tâm trí sẽ quay lại; nó mới

ngủ. Với trạng thái thứ ba, tâm trí sẽ không trở lại dễ dàng

nữa, nhưng vẫn còn khả năng đem nó trở lại. Với trạng thái

thứ hai nó sẽ quay trở lại, nó sẽ xảy ra; với ấn hiểu biết

gyana nó sẽ quay lại theo cách riêng của nó. Với trạng thái

thứ ba, ấn thời gian samaya, nếu bạn muốn đem nó thì bạn

có thể đem nó được, nhưng nếu không thì nó sẽ không đến

theo cách của riêng nó.

Với trạng thái thứ tư, ấn đại biểu tượng mahamudra,

cho dù bạn muốn đưa nó lại, điều đó không thể được. Bạn

đã vượt ra ngoài, bạn đã siêu việt lên. Giai đoạn thứ tư này,

chính là sự bắt đầu của sự tồn tại, là mục tiêu của Mật tông.

Thêm ba điều nữa, thế thì chúng ta có thể đi vào lời

kinh...

Từ kí ức tới vô kí ức bạn sẽ cần 'nhận biết một'. Bạn sẽ

phải trở nên quan sát nhiều hơn về các ý nghĩ, giấc mơ, kí

ức khởi lên, bay lượn quanh bạn. Bạn sẽ phải tập trung chú

ý nhiều hơn vào các ý nghĩ. Ý nghĩ là các đối tượng và bạn

sẽ phải trở nên nhận biết về chúng. Đây là nhận biết đầu

tiên: 'nhận biết một'.

Krishnamurti nói về điều này. Ông ấy gọi điều đó là

'nhận biết vô chọn lựa'. Đừng chọn lựa. Dù bất kì ý nghĩ

nào thoáng qua cũng đừng có đánh giá, chỉ quan sát nó; chỉ

thấy rằng nó đi qua. Nếu bạn tiếp tục quan sát, một ngày

nào đó ý nghĩ sẽ không đi nhanh nữa; tốc độ của chúng

chậm dần. Thế rồi một ngày nào đó lỗ hổng bắt đầu tới; ý

nghĩ này qua và ý nghĩ khác chưa tới trong một thời gian

dài. Thế rồi sau khoảng thời gian nào đó ý nghĩ đơn giản

biến mất trong hàng giờ, và con đường trống vắng giao

thông.

Thông thường bạn bao giờ cũng trong giờ cao điểm.

Các ý nghĩ chen chúc, cái nọ lấn cái kia, vệt nọ nối vệt kia.

Không chỉ có một vệt, có nhiều vệt tiếp diễn. Và người bạn

gọi là nhà tư tưởng có nhiều vệt hơn người thường. Nếu

bạn biết về cờ vua, bạn cũng biết rằng người chơi cờ vua

cần một tâm trí năm vệt. Người đó phải nghĩ trước ít nhất

năm nước đi: nếu người đó định đi nước này thì người kia

sẽ đi đi nước nào? - thế rồi người đó phải đi nước nào? - rồi

người kia phải đi nước nào...? Người đó phải tính như vậy,

ít nhất tính trước là năm nước. Chừng nào người đó còn

chưa tính được năm nước đi trước trong tâm trí thì người

đó không thể là người chơi cờ lớn.

Người bạn gọi là nhà tư tưởng đó có tâm trí nhiều vệt,

một tâm trí rất phức tạp, và tất cả các vệt đều chen chúc

nhau. Từ mọi hướng bao giờ cũng có xô đẩy, và nó bao giờ

cũng vào giờ cao điểm, kể cả trong đêm. Khi bạn đi ngủ

tâm trí vẫn tiếp tục, nó vẫn tiếp tục làm việc. Nó là công

nhân làm việc hai mươi tư tiếng, nó chẳng đòi hỏi ngày

nghỉ nào. Ngay cả Thượng đế cũng phải mệt sau sáu ngày

và phải nghỉ vào chủ nhật, nhưng tâm trí chẳng cần chủ

nhật. Trong bảy mươi, tám mươi năm nó cứ làm việc, làm

việc và làm việc. Nó đang phát điên. Không nghỉ...

Bạn chắc hẳn phải đã thấy bức ảnh tượng của Rodin,

Người Suy ngẫm. Ở phương Đông chúng ta cười về bức

tượng đó... nó lo âu làm sao! Người suy ngẫm của Rodin...

bạn có thể thấy cái đầu của ông ấy ngay cả trong tượng đá

cẩm thạch, bạn có thể cảm thấy lo âu của ông ta; đó là nghệ

thuật của Rodin. Bạn có thể hình dung Aristotle giống như

thế, hay Bertrand Russel, hay Friedrich Nietzsche - và

chẳng có gì đáng ngạc nhiên khi Nietzsche phát điên. Đấy

là cách thức, bức tượng của Rodin này nhất định sẽ phát

điên một ngày nào đó vì cứ suy nghĩ, suy nghĩ, suy nghĩ

mãi...

Ở phương Đông chúng ta chẳng bận tâm nhiều về

những người suy nghĩ, chúng ta yêu mến những người vô

suy nghĩ. Phật là người vô suy nghĩ, Mahavira cũng vậy,

Sahara cũng vậy, đây là những người vô suy nghĩ. Cho dù

họ có nghĩ, họ chỉ nghĩ tới việc chuyển sang vô suy nghĩ.

Họ dùng suy nghĩ làm bàn nhảy sang vô suy nghĩ.

Cây cầu từ kí ức sang vô kí ức là 'nhận biết một'; nó là

việc nhận biết về đối thể. Từ vô kí ức tới vô thuỷ bạn sẽ

cần nhận biết thứ hai: đó là cái mà Gurdijieff gọi là 'tự nhớ'.

Công trình của Krishnamurti hoàn toàn dựa trên 'nhận biết

một'; công trình của Gurdjieff hoàn toàn dựa trên 'nhận biết

hai'. Với nhận biết một bạn nhìn vào đối thể, nhìn vào ý

nghĩ. Bạn trở nên chú ý tới đối thể. Với 'nhận biết hai' bạn

trở nên chú ý kép - tới đối thể và cả tới chủ thể nữa. Mũi

tên tâm thức của bạn có hai đầu. Một mặt bạn phải trở nên

nhận biết về ý nghĩ, và mặt khác bạn phải nhận biết về

người suy nghĩ: đối thể, chủ thể - cả hai đều dưới ánh sáng

của nhận biết. Công trình của Gurdjieff đi sâu hơn công

trình của Krishnamurti. Ông gọi nó là 'tự-nhớ'.

Một ý nghĩ thoáng qua tâm trí bạn - chẳng hạn một

đám mây giận dữ đang chuyển qua. Bạn có thể quan sát

đám mây giận dữ mà không quan sát người quan sát, thế thì

đấy là 'nhận biết một'. Nếu bạn quan sát đám mây và đồng

thời bạn liên tục nhớ người đang quan sát - 'Tôi đang quan

sát' - thì đấy là 'nhận biết hai': điều Gurdjieff gọi là 'tự nhớ'.

Từ kí ức tới vô kí ức, nhận biết một sẽ có ích. Nhưng từ

vô kí ức bạn có thể rất dễ dàng rơi trở lại trong kí ức, bởi vì

tâm trí chỉ đi ngủ. Với nhận biết thứ nhất bạn đơn giản làm

mê tâm trí, bạn đánh thuốc mê cho tâm trí; tâm trí đi vào

giấc ngủ. Đấy là việc nghỉ ngơi lớn và là sự bắt đầu tốt,

nhưng chưa phải là kết thúc; là cần nhưng không đủ.

Với nhận biết thứ hai, tâm trí rơi vào trong vô thuỷ,

anutpanna: Bây giờ sẽ rất khó khăn để đưa nó . Bạn có thể

đưa nó lại, nhưng nó sẽ không đến theo cách riêng nó.

Không phải là không thể nào đưa nó lại, nhưng điều ấy

không dễ dàng.

Với Gurdjieff công việc còn đi sâu hơn. Và Mật tông

nói rằng còn có nhận biết thứ ba: 'nhận biết ba'. 'Nhận biết

ba' này là gì vậy? Khi bạn quên mất đối thể và bạn quên

mất chủ thể và chỉ còn nhận biết thuần khiết. Bạn không

tập trung vào bất kì vật nào - chỉ là nhận biết thuần khiết lơ

lửng, không chú ý vào bất kì vật gì, chỉ là sự chú ý, không

tập trung, không tụ hội. Với nhận biết thứ nhất bạn còn tập

trung vào đối thể. Với nhận biết thứ hai bạn còn tập trung

vào đối thể và chủ thể nữa. Với nhận biết thứ ba bạn vứt bỏ

mọi sự tập trung, bạn đơn giản tỉnh táo. Nhận biết thứ ba

này dẫn bạn tới trạng thái vô trí.

Bây giờ đến lời kinh:

Vô trí là chân lí của qui ước

và tâm trí đã trở thành vô trí là chân lí tối thượng.

Mật tông chia chân lí theo hai ngả: ngả đầu nó gọi là

chân lí giả tưởng, vyavharika; ngả thứ hai nó gọi là chân lí

tối thượng, parmarthika. Chân lí giả tưởng được gọi là

chân lí chỉ bởi cái tên, nó được gọi là chân lí bởi vì nó có

vẻ như chân lí. Trong thực tế nó là vậy; nó có một thoáng

nào đó của chân lí.

Nó gần giống như thế này: nếu ai đó cho bạn xem bức

tranh về tôi và bạn nói, "Đúng, đấy là bức tranh thật," bạn

ngụ ý gì về 'bức tranh thật'? Làm sao bức tranh có thể là

thật? Phát biểu bức tranh là thật đơn giản có nghĩa là nó

giống với nguyên bản. Bức tranh bản thân nó là không thật

- mọi bức tranh đều không thật, nó chỉ là giấy. Làm sao tôi

có thể ở trên giấy được, làm sao tôi có thể là tờ giấy được,

làm sao tôi có thể là nét vẽ được? Ngay cả bức ảnh thật

cũng chỉ là bức ảnh. Nhưng bằng cách nói rằng, "Đó là bức

ảnh thật," chúng ta nói rằng, đúng đấy, nó giống như

nguyên bản.

Tôi đã từng nghe một giai thoại...

Một người đàn bà rất đẹp nhưng lắm mồm một lần tới

thăm Pablo Picasso, và bà ấy nói quá nhiều. Pablo Picasso

chán ngán, nhưng bà ấy rất giầu cho nên ông không thể

tống khứ bà ấy được. Bà ấy là một khách hàng lớn mua

tranh của ông, cho nên ông phải nghe. Và bà ấy cứ lải nhải

mãi.

Rồi cuối cùng bà ấy nói, "Mới hôm nọ tôi có thấy bức

ảnh ông ở nhà người bạn. Bức ảnh sống động thế và tôi yêu

nó quá đến mức tôi đã hôn nó."

Picasso nói, "Khoan đã! Nó có hôn lại không?"

Người đàn bà nói, "Ông nói cái gì thế? Ông có điên

không đấy? Làm sao bức tranh biết hôn được?"

Picasso nói, "Thế thì nó không phải là tôi. Nó chắc

chắn không phải là tôi!"

Một bức tranh là thật bởi vì nó giống. Nó là không thật

bởi vì nó là bức tranh. Đây là điều Mật tông gọi là chân lí

vyavharika.

Vô trí là chân lí của qui ước... nó cũng đại loại như

vậy, nó chỉ được gọi là chân lí theo qui ước. Kí ức bạn đã

biết, vô kí ức đôi khi xảy ra trong sự hiện diện của thầy,

hay trong khi thiền hay cầu nguyện. Nhưng ngay cả vô kí

ức cũng chỉ là chân lí giả tưởng; nó là bức ảnh. Vâng, nó

giống như vô trí thật, nhưng chỉ giống thôi. Nó vẫn chưa là

vô trí thật.

Để làm cho bạn nhận biết về nó và để giữ nó trong tâm

trí, Mật tông nhắc đi nhắc lại rằng điều này phải không

được coi như mục tiêu; nó chỉ mới là sự bắt đầu. Nhiều

người trở nên bị mắc kẹt khi họ đạt tới vô kí ức. Khi họ có

thể có vài thoáng nhìn về vô trí, họ nghĩ rằng họ đã đạt tới.

Nó cực kì đẹp đẽ, nó rất sống động; nếu so với kí ức thì nó

thật cực lạc. Nhưng nó chẳng là gì nếu so với trạng thái vô

trí thực, bởi vì kí ức vẫn còn đó, đang ngủ say, đang ngáy;

nó có thể thức dậy bất kì lúc nào. Tâm trí vẫn còn đó đang

đợi cơ hội quay trở lại. Vâng, giao thông đã dừng lại trong

thoáng chốc, nhưng giao thông sẽ bắt đầu .

Việc có được thoáng nhìn này là điều tốt bởi vì chúng

sẽ đưa bạn đi xa hơn, nhưng bị mắc kẹt vào đó thì không

tốt. Đây là điều xảy ra cho việc dùng thuốc - LSD, cần sa,

ma tuý - đây là điều xảy ra, trạng thái thứ hai này, vô kí ức.

Trong thoáng chốc, dưới tác động của thuốc, kí ức biến

mất. Đó là trạng thái do hoá chất gây ra; trong cơn sốc do

hoá chất gây ra, kí ức biến mất.

Đây là điều xảy ra qua sốc điện. Chúng ta gây sốc điện

cho người điên, người có kí ức đã trở thành gánh nặng với

họ đến mức họ không thể tự mình thoát ra được. Chúng ta

gây sốc điện cho họ hay sốc insulin. Tại sao? - bởi vì qua

cơn sốc - điện truyền qua sóng não của họ, gây cho họ cơn

sốc - trong khoảnh khắc họ trở nên bị bật gốc rễ. Họ mất

dấu vết, họ quên điều đang nghĩ, điều đang có đó. Trong

khoảnh khắc họ bị sững sờ bởi cơn sốc và khi họ trở lại họ

không thể nắm lại nó. Đó là lí do tại sao sốc điện có ích.

Nhưng sốc điện hay sốc hoá học không cho bạn điều thực,

chúng chỉ cho bạn bức ảnh.

Vô trí là chân lí của qui ước

và tâm trí đã trở thành vô trí là chân lí tối thượng

Cho nên đừng có mãn nguyện chừng nào bạn còn chưa

đạt tới vô trí, trạng thái thứ tư.

Đây là hoàn thành, Saraha nói, đây là điều tốt lành cao

nhất.

Các bạn, trở nên nhận biết về điều tốt lành cao nhất

này.

Vô trí này là sự hoàn thành, bởi vì bạn đã đạt tới chính

ngọn nguồn của cuộc sống và sự tồn tại. Và chừng nào nó

còn chưa xảy ra, vẫn không có mãn nguyện và không có

hoàn thành. Đây là nở hoa thực sự, đây là sahasrar, hoa sen

một nghìn cánh đã nở. Cuộc sống của bạn toả ra trong

hương thơm ngát, lễ hội và vui vẻ.

Đây chính là Thượng đế là gì. Đây chính là điều tốt

lành cao nhất, thượng đỉnh. Không còn cái gì cao hơn điều

này nữa. Đây là niết bàn.

Các bạn, trở nên nhận biết về điều tốt lành cao nhất

này, Saraha nói. Nhớ lấy, có ba loại nhận biết: 'nhận biết

một' về đối thể, 'nhận biết hai' về đối thể và chủ thể, 'nhận

biết ba', nhận biết thuần khiết. Đi vào trong ba giai đoạn

nhận biết này để bạn có thể đạt tới thượng đỉnh.

Và Saraha nói với nhà vua và những người khác,

người phải tụ tập để nghe bài nói vĩ đại này: "Các bạn..."

Ông ấy gọi họ là các bạn; điều này phải được hiểu. Từ phía

thầy thì đệ tử là bạn, nhưng không từ phía đệ tử. Đôi khi

một vài sannyasin viết thư cho tôi; mới hôm nọ đã có câu

hỏi... Một sannyasin đã viết, "Thưa Osho, tôi không thể coi

thầy là người thầy, mà con coi thầy là như bạn mình. Có gì

sai trong đó không?" Chẳng có gì về phía tôi, điều ấy hoàn

toàn tốt. Nhưng cái gì đó đang lỡ ở phía bạn và bạn sẽ lúng

túng. Tại sao lại như thế?

Từ phía thầy bạn là người bạn, bởi vì thầy có thể thấy

rằng chỉ có vấn đề thời gian; bằng không thì bạn đã đạt

chứng ngộ. Đấy chỉ là vấn đề thời gian và một ngày nào đó

bạn sẽ trở nên thức tỉnh. Tất cả các bạn đều là các vị phật!

Từ phía thầy toàn bộ sự tồn tại đã là chứng ngộ. Tảng đá và

cây cối, các ngôi sao và các con vật, chim chóc, đàn ông và

đàn bà - toàn bộ sự tồn tại đã chứng ngộ từ phía thầy. Chỉ

còn vấn đề thời gian, mà thời gian thì chẳng can hệ. Tất cả

bạn vẫn có đó. Bạn không biết điều đó, điều đó đúng,

nhưng thầy biết.

Cái ngày tôi biết về bản thân tôi, tôi cũng biết về chính

cái ta của sự tồn tại. Từ đó tôi không nhìn thấy ai là chưa

chứng ngộ; tôi không thể nhìn khác được, điều ấy là không

thể được. Vâng, bạn không nhận ra sự kiện của mình,

nhưng tôi không thể phủ nhận điều đó. Từ phía tôi, bạn là

bạn, bạn là tôi. Nhưng từ phía bạn, nếu bạn nghĩ rằng bạn

không thể chấp nhận tôi như thầy của bạn và bạn chỉ có thể

nghĩ về tôi như một người bạn, đấy là tuỳ ở bạn. Nhưng

biết rằng bạn sẽ lỡ.

Khác biệt là thế nào? Khi bạn chấp nhận một người là

bạn, bạn ngụ ý rằng bạn chấp nhận người đó bình đẳng với

bạn; người bạn là bình đẳng với bạn. Quả thế, bạn là bạn

với tôi bởi vì tôi thấy rằng bạn bình đẳng với tôi, không có

gì khác biệt. Nhưng nếu bạn coi tôi bình đẳng với bạn thì

việc trưởng thành của bạn sẽ dừng lại.

Khi tôi coi bạn bình đẳng với tôi, tôi đang nâng bạn lên

bản thể tôi. Khi bạn coi tôi là bình đẳng với bạn, bạn đang

kéo tôi thấp xuống mức của bạn. Thấy khác biệt này đi. Khi

tôi nói rằng bạn là bình đẳng với tôi tức là tôi đang cố gắng

kéo bạn lên với tôi. Khi bạn nói, "Osho, thầy bình đẳng với

chúng tôi," bạn kéo tôi xuống mức bạn. Một cách tự nhiên

bạn không thể kéo được đến bất kì nơi đâu khác, bạn không

biết mức nào khác. Và tại sao chấp nhận ai đó làm thầy bạn

lại khó khăn thế? Bản ngã... nhiều nhất thì bản ngã cũng

muốn bạn chấp nhận tôi như người bạn.

Vấn đề ở bạn quyết định, đó là chọn lựa của bạn. Nếu

đấy là cách bạn muốn nó phải thế, cứ để cho nó theo cách

ấy - nhưng thế thì tôi không có trách nhiệm nếu chẳng có gì

xảy ra cho bạn. Thế thì đấy là trách nhiệm của bạn, hoàn

toàn là trách nhiệm của bạn, nếu không có gì xảy ra cho

bạn, bởi vì bạn đã tạo ra rào chắn. Tôi có thể chảy về phía

bạn chỉ khi bạn nhìn lên tôi, bởi vì luồng năng lượng chỉ có

thể chảy xuống.

Tôi chẳng mất gì nếu bạn nghĩ về tôi như người bạn

của bạn, tôi chẳng mất gì ngay cả nếu bạn nghĩ về tôi như

kẻ thù của bạn - điều đó chẳng thành vấn đề. Bạn mới đang

mất. Người nghĩ rằng tôi là kẻ thù của người đó và người

nghĩ rằng tôi là bạn của người đó, cả hai đều nghĩ về tôi

theo cùng một cách. Người nghĩ rằng tôi là kẻ thù của

người đó làm cho tôi ngang hàng với người đó, còn người

nghĩ rằng tôi là bạn của người đó cũng làm cùng điều như

thế. Họ không phải là những người khác biệt. Khi bạn nhìn

lên bạn có thể được móc lên bởi năng lượng đi lên, bạn có

thể được kéo lên.

Saraha nói:

Các bạn, trở nên nhận biết về điều tốt lành cao nhất

này.

Từ phía thầy, mọi người đều là bạn. Những người nghĩ

họ là bạn thì họ là bạn; còn những người nghĩ họ là kẻ thù,

họ cũng là bạn.

Trong vô kí ức tâm trí bị hấp thu;

chính điều này là hoàn hảo và thuần khiết đa

cảm. Nó không bị ô nhiễm bởi cái tốt cái xấu trần

tục

tựa như hoa sen vươn lên từ bùn không bị ảnh hưởng

bởi bùn

Trong vô kí ức tâm trí bị hấp thu... Kí ức được quan sát

sẽ bị hấp thu vào trong vô kí ức. Trong vô kí ức tâm trí bắt

đầu biến mất. Và khi tâm trí bắt đầu biến mất, nảy sinh một

loại mới, một phẩm chất năng lượng mới trong bạn - năng

lượng trái tim. Chính điều này là hoàn hảo và thuần khiết

đa cảm. Thế thì trái tim bắt đầu vận hành. Khi tâm trí đã

tan biến, năng lượng đã tham dự với tâm trí trở thành tình

yêu. Nó phải trở thành cái gì đó - năng lượng không thể bị

huỷ diệt. Không năng lượng nào đã từng bị huỷ diệt được,

nó chỉ được biến đổi; nó thay đổi hình dạng.

Tâm trí lấy đi tám mươi phần trăm năng lượng của bạn,

chẳng cho bạn cái gì, chẳng trả lại cái gì; nó hấp thụ tám

mươi phần trăm năng lượng của bạn. Nó giống như sa mạc.

Con sông cứ chảy còn sa mạc thì cứ hấp thu nó, và chẳng

có gì quay lại. Mà sa mạc thì thậm chí cũng chẳng trở nên

xanh tươi, thậm chí cỏ cũng chẳng mọc được, thậm chí cây

cũng chẳng mọc nổi, thậm chí nó cũng chẳng trở thành một

vũng nước con - chẳng có gì cả! Nó vẫn cứ khô khốc và

chết, và nó vẫn cứ bòn rút năng lượng sống. Tâm trí là kẻ

bóc lột vĩ đại. Chính tại nơi đó, trong sa mạc của tâm trí,

trong vùng hoang mạc của tâm trí mà bạn bị lạc.

Saraha nói: Khi điều này xảy ra - tức là kí ức tan biến

đi và bạn đạt tới vô kí ức - bỗng nhiên toàn bộ phẩm chất

của bạn thay đổi. Bạn trở nên đáng yêu hơn: từ bi nảy sinh

trong bạn. Cùng năng lượng đã đi vào sa mạc nay đi vào

mảnh đất mầu mỡ. Trái tim là mảnh đất của sự mầu mỡ ấy.

... chính điều này là hoàn hảo và thuần khiết đa

cảm. Nó không bị ô nhiễm bởi cái tốt cái xấu trần

tục

Và trong trái tim không có sự phân biệt giữa tốt và xấu.

Trái tim không biết phân biệt; mọi phân biệt đều thuộc về

tâm trí. Trái tim đơn giản chỉ yêu không phân biệt gì. Trái

tim đơn giản tuôn chảy không phân chia, không đánh giá.

Trái tim hồn nhiên: Nó không bị ô nhiễm bởi cái tốt cái xấu

trần tục... tựa như hoa sen vươn lên từ bùn không bị ảnh

hưởng bởi bùn.

Nó vươn lên từ cùng năng lượng tâm trí, từ cùng lớp

bùn ý nghĩ, suy nghĩ, ham muốn, thèm khát, nhưng nó là

hoa sen. Nó mọc lên từ bùn, nhưng vẫn không bị ô nhiễm

bởi bùn.

Mọi điều đều cần phải được xem xét

dường như chúng là câu thần chú kì diệu...

Nếu không phân biệt bạn có thể

chấp nhận hay bác bỏ luân hồi hay niết bàn,

tâm trí bạn kiên định, tự do khỏi màn đêm.

Trong bạn sẽ là tự tại, vượt ra ngoài ý nghĩ và gốc

gác...

... Saraha nói với nhà vua. Ông ấy đang trao cho nhà

vua một kĩ thuật vĩ đại! Lắng nghe nó, suy ngẫm về nó và

thử nó.

Bạn biết rõ rằng bạn đã mơ hàng triệu giấc mơ nhưng

trong giấc mơ, lần nào bạn cũng quên rằng đó chỉ là giấc

mơ; lần nào nó cũng trở thành thực tại. Đêm nay bạn lại

đang vào một giấc mơ nữa. Đấy là loại vô ý thức nào vậy?

Mỗi đêm bạn mơ và sáng dậy bạn thấy nó giả; nó không có

đó, nó chỉ là hình ảnh, chỉ là tưởng tượng. Lần nữa bạn lại

là nạn nhân. Lần nữa bạn lại mơ và lần nữa bạn lại nghĩ

rằng đấy là thực. Tại sao bạn không thể thấy rằng điều ấy

không thực trong giấc mơ? Điều gì ngăn cản bạn không

thấy được? Biết bao kinh nghiệm về bao nhiêu giấc mơ như

vậy và biết bao kết luận, và tất cả, không ngoại lệ nào, đều

chỉ ra một điều, rằng giấc mơ không phải là thực. Lần nữa

đêm nay bạn sẽ là nạn nhân; giấc mơ sẽ có đó và bạn sẽ

nghĩ rằng nó là thực, bạn sẽ sống với nó dường như nó

đúng là thực.

Mật tông phát triển một kĩ thuật. Kĩ thuật đó là: trong

khi bạn đang tỉnh thức, nghĩ về thế giới như giấc mơ.

Chẳng hạn, ngay bây giờ bạn đang lắng nghe tôi - coi nó

như giấc mơ đi. Rất dễ dàng nghĩ điều ấy ngay bây giờ, hơn

là trong giấc mơ. Nhiều lần bạn sẽ lắng nghe tôi trong giấc

mơ của bạn, thế thì sẽ quá khó khăn; bạn sẽ ngủ say. Ngay

bây giờ điều đó có thể được thực hiện dễ dàng. Ngay bây

giờ bạn có thể nghĩ rằng bạn đang trong mơ: Osho là giấc

mơ của bạn, ông ấy đang nói trong giấc mơ của bạn, những

cây cối này là cây cối mơ, những hoa gulmohar này là hoa

mơ, chim chóc này đang líu lo trong giấc mơ của bạn - tất

cả chỉ là một câu thần chú kì diệu. Nghĩ về nó trong khi bạn

đang tỉnh thức đi. Liên tục suy nghĩ về nó trong ít nhất hai

hay ba tháng và bạn sẽ ngạc nhiên: một ngày nào đó, bởi vì

bạn đã thực hành nó, bỗng nhiên trong giấc mơ bạn sẽ nhận

ra nó như một giấc mơ. Và khi các cây cối thực cũng trông

giống mơ qua thực hành, thì nói gì về cây không thực bây

giờ? Chúng trông sẽ không thực.

Và Mật tông nói: Ngay cả những cây này về cơ bản

cũng chỉ là mơ; chúng không phải là chất liệu thực. Mật

tông muốn nói gì về thực tại? Mật tông muốn nói cái bao

giờ cũng còn lại. Cái mà tới rồi đi thì không thật. Cái được

sinh ra rồi chết đi thì không thật. Đây là định nghĩa về cái

không thật trong Mật tông: cái chỉ có trong thời khắc là cái

không thật, cái gì vĩnh hằng mới là thật.

Những cây cối này mấy ngày trước không có ở đây và

chúng cũng sẽ không có ở đây sau vài năm nữa. Vài năm

trước chúng ta đã không có ở đây và chúng ta sẽ không ở

đây sau vài năm nữa. Cho nên đấy là một giấc mơ dài.

Trong đêm giấc mơ kéo dài chỉ trong một, hai hay sáu tiếng

đồng hồ, còn giấc mơ này kéo dài sáu mươi năm hay bẩy

mươi năm. Nhưng khoảng thời gian cũng không tạo ra khác

biệt nhiều lắm. Dù giấc mơ là một giờ hay một trăm năm

cũng không có nhiều khác biệt lắm, khác biệt chỉ là ở

khoảng thời gian kéo dài - nhưng nó rồi cũng biến mất.

Bao nhiêu người đã sống trên trái đất, bạn có biết

không? Họ đang ở đâu? Nếu họ không tồn tại, điều đó tạo

ra khác biệt gì? Dù họ có tồn tại hay không cũng chẳng có

nhiều khác biệt lắm; tất cả họ đã biến mất. Cái mà xuất hiện

ra rồi lại tan biến đi thì chỉ là giấc mơ.

Saraha nói:

Mọi điều đều cần phải được xem xét

dường như chúng là câu thần chú kì diệu...

Ông ấy đang cho một kĩ thuật. Coi mọi thứ dường như

là câu thần chú kì diệu, dường như là nhà ảo thuật đã thôi

miên bạn; tất cả đều giả, và bạn đang thấy điều đó qua thôi

miên.

Nếu không phân biệt

bạn có thể chấp nhận hay bác bỏ luân hồi hay niết

bàn...

Nếu đấy chỉ là giấc mơ, chẳng có gì cần phải chấp nhận

hay bác bỏ cả. Thế thì ai bận tâm? Bạn bận tâm quá nhiều

bởi vì bạn nghĩ nó là thực. Dù bạn nghèo hay giầu, điều đó

cũng không tạo ra nhiều khác biệt lắm. Dù bạn đẹp hay

xấu, điều đó cũng chẳng tạo ra nhiều khác biệt lắm. Dù bạn

được kính trọng hay không, cũng chẳng có nhiều khác biệt

lắm. Nếu đấy chỉ là không thực, thế giới mơ, ảo vọng

maya, thế thì có gì ở đó để chọn lựa? và có gì ở đó để mà

bác bỏ? Thế thì chấp nhận và bác bỏ cả hai đều nên vứt bỏ

đi. Thế thì người ta sống thuần khiết, không vướng mắc,

không rối loạn, không trên con đường nào xa trung tâm.

Thế thì người ta lắng đọng, thế thì mọi thứ đều ổn thoả.

Nếu không phân biệt

bạn có thể chấp nhận hay bác bỏ luân hồi hay niết bàn,

tâm trí bạn kiên định...

Thế thì dù bạn chấp nhận hay bác bỏ cũng chẳng khác

biệt nhiều gì. Thế thì bạn có thể từ bỏ thế giới hoặc bạn có

thể sống trong thế giới. Nếu bạn biết điều này - rằng tất cả

chỉ là giấc mơ; nếu bạn vẫn còn trong không khí này rằng

tất cả chỉ là giấc mơ...

Tại sao Saraha nói điều này cho nhà vua? Saraha đang

nói: Tâu bệ hạ, ngài sống trong cung điện, tôi sống trong

khu nghĩa địa; ngài sống với những người đẹp đẽ, tôi sống

với người dân thường xấu xí; ngài sống trong giầu có, tôi

sống trong nghèo khó; ngài sống tại thủ đô, tôi sống ở đây

trên mảnh đất nghĩa địa này... nhưng tất cả đều như nhau.

Cung điện đó là giấc mơ và mảnh đất nghĩa địa này cũng là

giấc mơ. Hoàng hậu đẹp tuyệt vời của ngài là giấc mơ và

người đàn bà thợ rèn của tôi cũng là giấc mơ. Vậy thì khác

biệt gì?

Nếu trong mơ bạn trở nên giầu có hay bạn trở nên

nghèo khó, có gì khác biệt vào sáng hôm sau không? Bạn

có cảm thấy rất hạnh phúc vào buổi sáng bởi vì bạn đã rất

giầu trong giấc mơ không? Bạn có cảm thấy rất bất hạnh

vào buổi sáng vì bạn đã là kẻ ăn mày trong giấc mơ không?

Điều ấy chẳng thành vấn đề; khi bạn thức, điều ấy chẳng

thành vấn đề gì cả.

Saraha nói: Tâu bệ hạ, tôi đang tỉnh thức. Tâm thức thứ

ba đã xảy ra; với tôi tất cả đều là giấc mơ - giấc mơ và tất

cả. Với tôi mọi thứ đều là mơ... mơ bên trong mơ bên trong

mơ. Bây giờ tôi không phân biệt chút nào, tôi đã vượt ra

ngoài phân biệt. Vô trí đã nảy sinh. Cho nên dù mọi người

có kính trọng tôi hay xúc phạm tôi - dù họ nghĩ Saraha là

một brahmin vĩ đại, một nhà huyền môn vĩ đại, nhà hiểu

biết vĩ đại, hay họ nghĩ rằng hắn ta là kẻ hư hỏng, hắn ta

điên khùng, mất trí, không lành mạnh - điều đó hoàn toàn

được.

Đây là hiểu biết đúng. Thế thì chẳng ý kiến của ai có

thể làm sao lãng bạn. Thế thì chẳng có gì có thể làm bạn

sao lãng - cả thành công lẫn thất bại, cả kính trọng lẫn

khinh bỉ, cả sống lẫn chết. Đây chính là trạng thái vô sao

lãng là gì. Người ta đã về nhà.

Thế rồi, một khi tâm trí đã kiên định... tự do khỏi màn

đêm. Trong bạn sẽ là tự tại... Tôi đã về nhà, Saraha nói.

Con người đích thực của tôi đã nảy sinh, tôi có trung tâm

của mình bây giờ. Tôi đã mất mọi thứ, ngoại trừ một thứ:

bản tính của tôi, con người tôi. Bây giờ tôi biết nguyên bản

của mình, bây giờ tôi biết chính ngọn nguồn mình, bây giờ

tôi biết thực tại của mình.

... vượt ra ngoài ý nghĩ và gốc gác.

Tôi đã vượt ra ngoài ý nghĩ. Những điều này không còn

làm tôi sao lãng, thưa bệ hạ. Mọi thứ đều tốt như nó vẫn

thế. Đây là thái độ của sannyasin thực sự: mọi thứ đều hoàn

toàn tốt đẹp như nó vẫn thế.

Câu kinh cuối:

Thế giới bên ngoài này

đến từ sự toả chiếu của nó chẳng bao giờ rõ căn

nguyên;

không mẫu hình, nó đã vứt bỏ mẫu hình.

Hiểu theo cách thông thường

nó là việc thiền liên tục và duy nhất;

nó là vô tâm trạng, sự trầm ngâm không tì vết, và vô trí

Thế giới bên ngoài này đến từ sự toả chiếu của nó

chẳng bao giờ rõ căn nguyên... Saraha nói: Thế giới này mà

bệ hạ đang thấy chưa bao giờ có đó; nó chỉ có vẻ như vậy

thôi. Chỉ như giấc mơ nảy sinh từ không đâu và biến mất

trở lại vào cái không ở đâu cả, thế giới này cũng vậy.

Thế giới bên ngoài này đến từ sự toả chiếu của nó

chẳng bao giờ rõ căn nguyên... Từ ngay lúc bắt đầu chỉ có

cái không - chỉ là gợn sóng trên mặt hồ yên tĩnh... và gợn

sóng biến mất. Mà ngài thì không thể nào nắm giữ được

gợn sóng... hệt như thoáng ý nghĩ, hệt như rung động.

... không mẫu hình, nó đã vứt bỏ mẫu hình.

Và không có mẫu hình nào trong nó cả. Nó không vững

chắc - làm sao nó có thể có bất kì mẫu hình nào được? Nó

chính là chất lỏng, nó rất hay thay đổi; nó không có mẫu

hình. Chẳng ai biết được cái gì là tốt và cái gì là xấu.

Chẳng ai biết được ai là thánh nhân và ai là tội nhân. Chẳng

ai biết được đức hạnh là gì và tội lỗi là gì. Điều đó không

được tạo theo mẫu hình.

Đây là cách hiểu của Mật tông về chính cốt lõi của thực

tại: nó không được tạo theo mẫu hình. Đó là hỗn độn sáng

tạo. Chung cuộc, cuối cùng, chẳng cái gì bị kết án và chẳng

cái gì được ca ngợi.

không mẫu hình, nó đã vứt bỏ mẫu hình.

Hiểu theo cách thông thường

nó là việc thiền liên tục và duy nhất...

Đây là cái hay của bài kinh. Saraha nói: Nhưng quên

thực tại đi - quên cái vô thực của nó đi - Hiểu theo cách

thông thường nó là việc thiền liên tục và duy nhất... Sự tồn

tại này, tất cả bao quanh... cây cối này, chim chóc này,

tiếng cúc cu phát điên này - đấy chính là thiền liên tục và

duy nhất. Nếu bạn có thể trở nên nhận biết về nó, nó có thể

giúp bạn trở về nhà; đó là việc thiền liên tục và duy nhất.

... nó là vô tâm trạng...

Đừng đưa tâm trí bạn vào. Lắng nghe nó, thấy nó,

chạm vào nó. Đừng đưa tâm trí bạn vào.

... nó là vô tâm trạng, trầm ngâm không tì vết...

Suy tư nhưng không qua suy nghĩ, chỉ qua sự trong

suốt. Quan sát, nhìn, hiện hữu - không phải qua phân tích,

không phải qua logic. Hiểu qua im lặng; đó là suy tư không

tì vết. Hiểu qua im lặng, hiểu qua tình yêu. Hiểu... hiểu

tiếng cúc cu này, hiểu cái cây này, mặt trời này, nhưng

đừng nghĩ về chúng. Đừng trở thành người suy nghĩ...

... và vô trí.

Cho nên đầu tiên nghĩ về thế giới này như giấc mơ, và

rồi nghĩ về người mơ cũng là giấc mơ. Trước hết đối thể là

giấc mơ, rồi chủ thể cũng là giấc mơ. Khi chủ thể và đối

tượng cả hai đều bị vứt bỏ, khi giấc mơ biến mất và cả

người mơ cũng biến mất, có vô trí.

Vô trí này là chính khởi thuỷ của tất cả.

Đây là điều Udallaka đã nói với con trai. Ông đã hỏi

con: "Con đã học cái một đó chưa, với việc học nó mà mọi

thứ đều được biết, và với việc quên nó mà mọi thứ đề bị

quên? Con đã thấy cái một đó chưa? Con đã đi tới cái một

đó chưa?"

Còn người con bối rối và anh ta nói: "Con đã biết được

tất cả. Nhưng bố đang nói về cái gì vậy? Thầy con chưa

bao giờ nói về cái một này."

Thế là Udallaka nói, "Thế thì con quay lại thầy đi, bởi

vì mọi thứ con đã mang theo đều chỉ là rác rưởi. Con phải

quay lại đi! Trong gia đình ta, chúng ta bao giờ cũng là

những người brahmin thực sự." Bởi chữ brahmin 'thực sự'

ông ta ngụ ý: Chúng ta đã biết tới Brahma, chúng ta đã biết

chân lí; chúng ta không chỉ là người brahmin chỉ do sinh ra

từ gia đình brahmin.

"Con phải quay lại đi. Con phải quay lại ngay lập tức!"

Chào mừng đã dừng lại, âm nhạc đã dừng lại. Nước mắt

dàn dụa... nhưng Udallaka đã gửi con quay lại. Đứa con

mới về từ nhà thầy sau nhiều năm lại ngay lập tức bị gửi trở

về trường - thậm chí không có lấy một ngày nghỉ ngơi.

Rất bối rối, cậu thanh niên quay trở về chỗ thầy. Anh ta

nói, "Nhưng tại sao thầy không dạy con về cái một mà bố

con cứ hỏi đến? Tại sao? Phí hoài biết bao nhiêu năm qua!

Mà bố con thì cứ nghĩ rằng tất cả những cái đó đều vô

nghĩa - con không biết về chính mình. Bố con nói, "Nếu

con không biết về chính mình, mọi hiểu biết của con còn có

giá trị gì? Chúng ta phải là gì với mớ hiểu biết kinh Veda

của con? Con có thể trích dẫn kinh Veda, nhưng chúng ta

làm gì với nó? Và trong gia đình ta," bố con nói, "Chúng ta

bao giờ cũng là người brahmin thực sự. Quay lại đi, và

trước khi bố chết con phải trở thành người brahmin thực sự.

Chớ có quay về chừng nào con còn chưa trở thành người

brahmin thực sự." Vậy thưa thầy, xin thầy hãy dạy cho con

về cái một đó."

Thầy cười ngất. Ông nói, "Cái một đó không thể dạy

được. Ừ, người ta có thể lĩnh hội được nó nhưng không thể

dạy được nó. Đó là lí do tại sao ta đã không dạy nó. Nhưng

nếu con cứ khăng khăng muốn biết thì một tình huống có

thể được tạo ra."

Đó là điều mà tất cả các bậc thầy đều làm: họ chỉ tạo ra

tình huống.

Giao cảm là tình huống.

Tôi không thể dạy bạn về chân lí, nhưng tôi có thể tạo

ra tình huống trong đó bạn có thể bắt đầu có được cái

thoáng nhìn về nó.

Bản thể tôi ở đây là một tình huống, việc tôi nói chuyện

liên tục với các bạn là một tình huống. Không phải là tôi có

thể dạy các bạn về chân lí qua việc nói mà đấy chỉ là một

tình huống trong đó đôi khi một chấn động đi vào trong

bạn; trong đó đôi khi bạn bắt được một rung động, và nó

làm bạn xúc động và đưa bạn đi xa trong cuộc hành trình

dài vào trong.

Cho nên thầy nói, "Ta có thể tạo ra tình huống. Và đây

là tình huống: con hãy mang đi tất cả các con bò cái trong

đạo tràng" - có bốn trăm con bò cái - "và con hãy đem

chúng vào trong rừng thẳm. Đi xa nhất có thể được, đi thật

xa sao cho con hoàn toàn không thể nào gặp được mọi

người khác. Rồi con chỉ quay lại khi đàn bò đã lên đến một

nghìn con bò cái và bò đực. Sẽ mất nhiều năm đấy, nhưng

con cứ đi đi. Và nhớ, đừng gặp bất kì người nào. Bò sẽ là

bạn của con và gia đình con; con có thể nói với chúng nếu

con muốn." Rồi Swetketu đi vào trong rừng thẳm nơi

không con người nào đã từng tới và anh ta sống với đàn bò

nhiều năm trời.

Câu chuyện này cực kì hay. Một cách tự nhiên, bạn có

thể nói gì với bò? Ban đầu anh ta phải cố gắng, và dần dần

hiểu ra rằng điều đó là vô nghĩa: bò chỉ nhìn vào anh ta,

mắt chúng trống rỗng. Không có đối thoại. Vâng, ban đầu,

theo thói quen, anh ta có thể trích đọc Veda, và bò thì vẫn

tiếp tục gặm cỏ. Chúng chẳng quan tâm gì tới Veda chút

nào mà chúng cũng chẳng ca ngợi anh ta là người hiểu biết

vĩ đại. Anh ta phải đã nói về chiêm tinh và những vì sao,

nhưng bò cũng chẳng quan tâm. Bạn có thể làm gì với thính

giả bò này? Dần dần anh ta dừng việc nói. Dần dần anh ta

bắt đầu quên. Dần dần việc dỡ bỏ bắt đầu.

Nhiều năm trôi qua. Và, chuyện kể rằng, một khoảnh

khắc tới khi số bò đã lên tới nghìn con. Nhưng vào lúc đó

Swetketu đã quên hoàn toàn việc quay về. Anh ta đã thực

sự quên cách đếm - anh ta đã không đếm sau bao nhiêu

năm trời.

Đàn bò trở nên bối rối; khoảnh khắc đã tới. Thế rồi một

con bò cái mạnh dạn và nó nói, "Các bạn nghe đây, bây giờ

chúng ta đã là một nghìn rồi, bây giờ là lúc quay về. Thầy

phải đang đợi. Chúng ta phải về nhà thôi, bây giờ đã đến

lúc." Cho nên khi bò nói rằng đã đến lúc quay về thì

Swetketu đi theo chúng.

Khi anh ta về đến nhà thầy cùng với một nghìn con bò,

thầy chạy ra đón anh ta và nói với các đệ tử khác, "Hãy

nhìn một nghìn lẻ một con bò này!"

Nhưng các đệ tử nói, "Chỉ có một nghìn con bò và một

Sweketu."

Thầy nói, "Anh ta đã biến mất, anh ta không còn đó

nữa. Anh ta là một con bò - hồn nhiên thế; nhìn vào mắt

anh ta mà xem."

Đây là trạng thái của vô trí. Và đây đã từng là mục tiêu

ở phương Đông - trạng thái này nơi bạn không có, và trong

thực tế lần đầu tiên bạn mới hiện hữu.

Trạng thái này của cái chết và trạng thái này của cuộc

sống, trạng thái này của biến mất của bản ngã và cái giả, và

sự xuất hiện của cái thật và chân thực - đây là trạng thái mà

ta gọi là chứng ngộ, chứng ngộ Thượng đế, tự chứng ngộ.

Đây là trạng thái Saraha gọi là tự mình, bên ngoài ý nghĩ,

bên ngoài tâm trí.

Mật tông có nghĩa là sự trải rộng. Đây là trạng thái khi

bạn đã trải rộng ra tột độ. Biên giới của bạn và biên giới

của sự tồn tại không còn tách biệt nữa, chúng là một. Ít hơn

sẽ không thoả mãn.

Khi bạn trở thành vũ trụ, bạn đã về nhà.

Khi bạn trở thành tất cả, khi bạn trở thành một với tất

cả, khi bạn khổng lồ như vũ trụ này, khi bạn chứa đựng tất

thảy; khi các ngôi sao bắt đầu chuyển động bên trong bạn

và trái đất sinh ra trong bạn rồi biến đi; khi bạn có sự trải

rộng vũ trụ này, công việc đã hoàn tất.

Bạn đã về tới nhà. Đây là mục tiêu của Mật tông.

Đủ cho hôm nay.

************************************************************

#6 Tôi một mình là đủ

Điều gì xảy ra khi thầy nói với tôi?

Tôi có tưởng tượng không? Làm sao tôi có

thể tin cậy điều tôi cảm thấy với thầy?

Thầy có cái gì mà tôi không có?

Thầy muốn ngụ ý gì khi nói rằng con người

là cái máy?

Tôi có tất cả những cái tôi muốn và tôi cảm

thấy trái tim tôi đang tan vỡ.

Tại sao tôi luôn luôn sợ ý kiến người khác?

Khi thầy cho tôi tên... để phục vụ tình yêu.

Lời cầu nguyện có thể có hại không?

#6Câu hỏi thứ nhất - câu hỏi của Somendra:

Osho kính yêu, điều gì xảy ra cho tiếng nói

của tôi khi thầy nói với tôi? Ý đồ là gì?

Khi bạn thực sự trong giao cảm với tôi, bạn không thể

nói được. Khi bạn thực sự lắng nghe tôi, bạn sẽ mất tiếng

nói của mình, bởi vì trong khoảnh khắc đó tôi là tiếng nói

của bạn. Giao cảm xảy ra giữa tôi và bạn không phải là

giữa hai người. Đấy không phải là thảo luận, đấy không

phải là tranh luận, đấy không phải là biện luận, đấy thậm

chí không phải là đối thoại. Giao cảm xảy ra chỉ khi bạn đã

mất đi, khi bạn không có đó. Tại đỉnh cao nhất đấy thậm

chí không phải là mối quan hệ "tôi-bạn". Đấy không phải là

mối quan hệ chút nào. Tôi không có đó, và với bạn cũng sẽ

đến một khoảnh khắc bạn không có đó. Trong khoảnh khắc

đó hai cái không biến mất vào trong nhau.

Đó là lí do tại sao, Somendra này, bất kì khi nào bạn

đến tôi, bạn đều mất tiếng nói của bạn. Và điều ấy không

chỉ xảy ra cho bạn đâu, nó xảy ra cho tất cả những ai thực

sự tới gần tôi hơn. Làm sao bạn có thể tới gần tôi hơn mà

vẫn giữ tiếng nói của bạn được? Làm sao bạn có thể ở gần

tôi mà vẫn là chính bạn được? Tiếng nói của bạn là tiếng

nói của bạn. Khi cái 'bạn' bắt đầu biến mất thì tự nhiên

tiếng nói cũng bắt đầu biến đi.

Thứ hai là, có gì để nói đâu. Khi bạn đang trong tình

yêu với tôi thì bạn biết rằng nếu có gì đó cần nói, tôi sẽ

biết. Và nếu tôi không biết điều đó, thế thì nó không đáng

nói ra, thế thì nó chẳng cần; thế thì nó phải là ý nghĩ không

liên quan, ý nghĩ vẩn vơ. Nó thậm chí không cần thốt ra, nó

sẽ là lãng phí năng lượng.

Tâm trí cuốn theo cả nghìn lẻ một ý nghĩ từ mọi chốn,

từ mọi nguồn. Tất cả các ý nghĩ của bạn đều không phải

của bạn; các ý nghĩ cứ nhảy từ đầu người này sang đầu

người khác; ngay cả không nói gì, ngay cả không được

chuyển vận, các ý nghĩ vẫn liên tục nhảy từ đầu người này

sang đầu người khác. Bạn chộp bắt chúng, và trong một

chốc bạn bị ý nghĩ đó sở hữu và bạn nghĩ đấy là cái gì đó

bản chất. Khi bạn đến với tôi, bỗng nhiên những ý nghĩ mà

bạn đã chộp bắt từ người khác bị tan biến đi.

Điều đó xảy ra cho nhiều sannyasin. Họ đến sẵn sàng

với nhiều câu hỏi, và rồi, chỉ có ngồi trước tôi, họ đâm lúng

túng, các câu hỏi đó biến mất. Điếu đó là có ý nghĩa lắm,

có nghĩa. Nó chứng tỏ rằng những câu hỏi đó không phải là

của bạn, chúng không thực sự của bạn. Khi bạn ở trước tôi

- thực sự ở trước tôi - khi bạn đang nhìn vào tôi, chỉ có

những cái là bản chất mới còn lại; cái không bản chất sẽ ra

đi. Đôi khi tất cả các ý nghĩ của bạn có thể biến mất: không

chỉ việc bạn mất tiếng nói, bạn mất cả tâm trí mình nữa. Và

đấy là cách duy nhất để ở quanh thầy. Cứ mất đi tâm trí của

bạn. Ý nghĩ chùng xuống, thảnh thơi, không căng thẳng.

Chẳng có gì để nói cả. Có nhiều thứ để nghe nhưng chẳng

có gì để nói cả.

Và rồi, điều thứ ba, mọi thứ vẫn ổn thoả với Somendra.

Chúng ta chỉ nói những thứ mà chúng không ổn thoả. Tôi

đã từng nghe...

Người mẹ cứ phàn nàn với nhiều bác sĩ về việc không

nói được của đứa con năm tuổi của mình. Các xét nghiệm

đều cho thấy đứa trẻ rất khoẻ mạnh và người ta bảo bà mẹ

đừng có lo lắng. Thế nhưng bà ấy cứ lo lắng không yên.

Một hôm, trong lúc vội vã, bà làm cháy món cháo yến

mạch nhưng vẫn dọn cho cậu con ăn. Nó nếm thử món

cháo, phun phì phì ra rồi nói, "Úi trời, món này kinh quá.

Mẹ làm cháy nó rồi."

Thích quá, bà mẹ nói, "Con nói đấy! Sao trước đây con

chẳng nói gì cả?"

Đứa trẻ khinh khỉnh nhìn mẹ và nói, "Ồ, mọi thứ đều

ổn thoả từ trước tới giờ!"

Và mọi thứ cũng ổn thoả cả cho tới nay đối với

Somendra. Chẳng có gì cần nói cả.

#6Câu hỏi thứ hai:

Osho kính yêu, trong khi thăm một viện bảo

tàng nghệ thuật ở Frankfurt gần đây, tôi đã

vào một phòng chẳng có gì ngoài tượng và

hình khắc Phật. Tôi hoàn toàn không tin vào

các thần tượng bằng đá, nhưng tôi ngạc

nhiên cảm thấy một luồng năng lượng rất

mạnh trong phòng, tương tự như điều tôi

cảm thấy ở đây trong bài giảng này. Tôi có

tưởng tượng ra điều ấy không? Và nếu có thì

làm sao tôi có thể tin cậy điều tôi cảm thấy ở

đây với thầy?

Câu hỏi này là từ Anand Samagra. Điều đầu tiên cần

được hiểu: tượng Phật chẳng có gì liên quan gì đến Phật

Gautam cả, bạn sẽ ngạc nhiên mà biết; chúng tất cả đều là

giả. Chúng không giống Phật chút nào, nhưng chúng có cái

gì đó liên quan tới phật tính - không với Phật Gautam, con

người đó, chúng có cái gì đó liên quan tới phật tính.

Bạn có thể đi vào một đền Jaina giáo và bạn sẽ thấy hai

mươi bốn bức tượng tirthankaras, những người sáng lập

đạo Jaina, và bạn sẽ không thể nào phân biệt được khác biệt

giữa chúng; tất cả chúng đều giống nhau. Để phân biệt,

người Jaina tạo ra các biểu tượng nhỏ trên họ để biết ai là

ai, bởi vì tất cả họ đều giống nhau. Cho nên nếu biểu tượng

của ai đó là một hình nét thì ngay ở mặt dưới bàn chân là

hình nét đó; thế thì họ biết được đấy là tượng của ai. Biểu

tượng của ai đó là con rắn, họ biết đấy là tượng của ai. Nếu

những biểu tượng này được giấu kín, ngay cả người Jaina

cũng không thể phân biệt được ranh giới - đây là tượng của

ai? Của Mahavira? Của Parswanatha? Của Adinatha? Và

bạn cũng sẽ ngạc nhiên khi biết rằng chúng đều giống hệt

Phật - không khác biệt.

Lúc ban đầu, khi người phương Tây trở nên quen biết

với Mahavira, họ nghĩ đấy chẳng là gì ngoài cùng một câu

chuyện về Phật, bởi vì bức tượng là một, triết lí là một,

cách hiểu là một, giáo huấn là một. Cho nên đấy chỉ là cùng

một thứ, chẳng có gì khác với Phật; họ nghĩ Mahavira là cái

tên khác của Phật. Và tất nhiên cả hai đều được gọi là phật

- 'phật' có nghĩa là 'người thức tỉnh'. Cho nên Phật đã được

gọi là Phật còn Mahavira cũng được gọi là Phật. Và cả hai

đều được gọi là jina - 'jina' có nghĩa là 'người chinh phục',

người đã chinh phục được bản thân mình. Phật được gọi là

'người chinh phục' còn Mahavira cũng được gọi là 'người

chinh phục', cho nên họ nghĩ đấy là cùng một người. Và

bức tượng là bằng chứng lớn; chúng tuyệt đối giống nhau.

Chúng không phải là ảnh chụp của nhau, chúng không biểu

thị cho một người; chúng biểu thị cho trạng thái nào đó.

Bạn sẽ phải hiểu điều này, thế thì mọi việc sẽ được giải

thích.

Trong tiếng Ấn Độ ba từ sau rất quan trọng: một là mật

tông tantra, từ chúng ta đang nói tới, từ thứ hai là mật chú

mantra, và từ thứ ba là mật hình yantra. Mật tông có nghĩa

là các kĩ thuật để trải rộng tâm thức của bạn. Mật chú có

nghĩa là tìm ra âm thanh bên trong của bạn, nhịp điệu bên

trong của bạn, rung động bên trong của bạn. Một khi bạn

đã tìm được câu mật chú của mình, nó sẽ cực kì có ích: chỉ

một lần thốt ra câu mật chú là bạn đã trong một thế giới

hoàn toàn khác. Điều đó trở thành chìa khoá, thành bước

chuyển, bởi vì một khi thốt ra câu mật chú đó, bạn rơi vào

rung động tự nhiên của mình. Và từ thứ ba là mật hình.

Những bức tượng này là các mật hình. Mật hình có nghĩa là

một hình nào đó có thể tạo ra một trạng thái nào đó trong

bạn. Một hình nào đó, nếu bạn nhìn vào nó, nhất định sẽ

tạo ra một trạng thái nào đó trong bạn.

Bạn chưa quan sát điều đó sao? Khi nhìn vào bức tranh

của Picasso bạn sẽ bắt đầu cảm thấy một chút không thoải

mái. Tập trung vào bức tranh của Picasso khoảng nửa giờ

và bạn sẽ cảm thấy rất lạ kì - cái gì đó đang trở thành điên

dại. Bạn không thể nhìn vào bức tranh của Picasso trong

nửa giờ. Nếu bạn để bức tranh của Picasso trong phòng ngủ

bạn sẽ gặp cơn ác mộng, bạn sẽ có những giấc mơ rất nguy

hiểm: bị ma ám, bị Adolf Hitler tra tấn và những thứ đại

loại như vậy; nạn nhân chiến tranh trong trại tập trung -

những thứ đại loại như vậy.

Khi bạn ngắm cái gì đó, đấy không chỉ là hình ảnh bên

ngoài; khi bạn ngắm cái gì đó, hình này tạo ra một tình

huống nào đó trong bạn. Gurdjieff quen gọi điều này là

'nghệ thuật mục đích'. Và bạn biết nó: lắng nghe nhạc pop

hiện đại, cái gì đó xảy ra trong bạn; bạn trở nên bị kích

động dục. Chẳng có gì ngoài âm thanh bên ngoài, nhưng

âm thanh này dội vào bên trong, tạo ra cái gì đó trong bạn.

Lắng nghe nhạc cổ điển bạn trở nên ít dục tình hơn, ít kích

động hơn. Trong thực tế với nhạc cổ điển vĩ đại bạn gần

như quên mất dục; bạn trong yên tĩnh, im lặng, một chiều

hướng hoàn toàn khác của bản thể bạn. Bạn tồn tại trên một

bình diện khác.

Ngắm tượng Phật là nhìn vào một mật hình. Hình của

bức tượng, hình học của bức tượng, tạo ra một hình bên

trong bạn. Và hình bên trong đó tạo ra một rung động nào

đó. Đấy không phải là tưởng tượng xảy ra cho bạn,

Samagra này, trong bảo tàng ở Frankfurt; những bức tượng

Phật đó đã tạo ra rung động nào đó bên trong bạn.

Ngắm bức tượng Phật đang ngồi im lặng đến thế trong

tư thế yoga mà xem: nếu bạn tiếp tục ngắm bức tượng đó,

bạn sẽ thấy cái gì đó tựa như cái đang xảy ra bên trong bạn

nữa. Nếu bạn ở trong một toán mà có mười người đang

buồn và bạn là người thứ mười một, bạn có thể duy trì niềm

hạnh phúc được bao lâu? Mười người kia sẽ vận hành tựa

như một mật hình, một mật hình buồn; chẳng chóng thì

chầy bạn sẽ rơi vào buồn. Nếu bạn bất hạnh mà bạn nhập

vào một nhóm mọi người đang vui đùa cười nói, bạn giữ

được nỗi buồn trong bao lâu? Những người cười nói này sẽ

tạo ra tiếng cười trong bạn. Họ sẽ thay đổi sự tập trung của

bạn, họ sẽ sang số cho bạn; bạn sẽ bắt đầu chuyển sang

chiều hướng khác. Điều này xảy ra hàng ngày - dù có chủ ý

hay không chủ ý.

Khi bạn ngắm trăng tròn, điều gì xảy ra cho bạn? Hay

khi bạn lắng nghe chim hót và nhìn cây xanh, điều gì xảy ra

cho bạn? Khi bạn đi vào rừng và nhìn cây cỏ, điều gì xảy ra

cho bạn? Cái gì đó xanh tươi bên trong bắt đầu xảy ra. Mầu

xanh lá cây là mầu của tự nhiên, mầu xanh ấy là mầu của

thanh thoát, mầu xanh ấy là mầu của cuộc sống; cái gì đó

xanh tươi bắt đầu xảy ra bên trong bạn. Mầu bên ngoài

phản ánh cái gì đó bên trong, làm rung động cái gì đó bên

trong, tạo ra cái gì đó bên trong. Nhìn lên cây xanh bạn trở

nên sống động hơn... bạn trở nên trẻ trung hơn!

Khi bạn đi lên đỉnh Himalayas và bạn thấy núi non,

chóp núi tuyết phủ... tuyết vĩnh viễn chẳng bao giờ tan

chảy, tuyết thuần khiết nhất nơi không người nào bước tới,

không bị nhiễm bẩn bởi sự đụng chạm của xã hội và con

người; khi bạn nhìn lên đỉnh Himalayas, tuyết trong trắng

và không bụi bặm tạo ra cái gì đó trong trắng trong bạn. An

bình tinh tế bắt đầu xảy ra bên trong.

Bên ngoài không phải là bên ngoài và bên trong cũng

chẳng chỉ là bên trong, chúng đang gắn với nhau. Cho nên

nhận biết điều bạn thấy, nhận biết điều bạn nghe, nhận biết

điều bạn đọc, nhận biết nơi bạn đi - bởi vì tất cả đều tạo ra

bạn.

Đó là điều đã xảy ra ở Frankfurt. Các bức tượng Phật,

nhiều bức tượng quanh bạn đã tạo ra một hình học tinh tế.

Bạn sẽ ngạc nhiên: đó là lí do cơ bản tại sao tượng được

tạo ra; chúng không phải là thần tượng như bạn vẫn nghĩ.

Tư tưởng của người Ki tô giáo, người Mô ha mét giáo và

người Do Thái đã cho một khái niệm rất sai về thế giới.

Tượng không phải là thần tượng, tượng rất khoa học.

Tượng không phải là các vật để thờ phụng, tượng là hình

học để được hấp thụ. Đó là một điều hoàn toàn khác.

Ở Trung quốc có một đền thờ Phật với mười nghìn

tượng Phật - tất cả đều là tượng Phật; bất kì khi nào bạn

nhìn, đều cùng một khuôn mặt. Trần cũng cùng khuôn mặt,

tất cả các phía đều cùng khuôn mặt, tường cũng có cùng

khuôn mặt. Mười nghìn tượng Phật! Hình dung xem, ngồi

bắt chéo chân theo tư thế Phật và bạn còn được mười nghìn

Phật bao quanh! Điều ấy tạo ra hình học. Từ mọi nơi Phật

đều tác động vào bạn. Từ mọi xó xỉnh và ngóc ngách ông

ấy đều bao trùm quanh bạn. Bạn mất đi; hình học bình

thường của bạn không còn đó nữa, cuộc sống bình thường

của bạn không còn đó nữa. Trong vài khoảnh khắc bạn

đang chuyển lên những bình diện cao hơn, ở các vĩ độ cao

hơn.

Đó cũng là điều đang xảy ra ở đây. Trong khi bạn lắng

nghe tôi, cái gì đó được tạo ra - bởi sự hiện diện của tôi, bởi

lời nói của tôi, bởi thái độ của bạn, bởi bao nhiêu người áo

da cam quanh bạn. Đấy là tình huống, đấy là ngôi đền.

Ngôi đền là một tình huống; nó không chỉ là chỗ bạn ngồi

trong thính phòng này. Bao nhiên người đang lắng nghe tôi

với tình yêu, lòng biết ơn đến thế, với im lặng đến thế, với

thông cảm đến thế, với hoà hợp đến thế... chỗ này trở nên

linh thiêng. Chỗ này trở thành tirtha; nó là chỗ thiêng liêng.

Khi bạn tới chỗ này là bạn đang cưỡi trên một con sóng,

bạn không cần nỗ lực nhiều. Bạn có thể đơn giản cho phép

nó xảy ra. Bạn sẽ được đưa đi xa, xa sang bờ bên kia.

Một bà mối đã dàn xếp với một gia đình để thuyết phục

một cô gái mà bà ta cho là xứng đôi phải lứa nhất với đứa

con trai của họ. Sau bữa tối người con gái cáo từ ra về và cả

gia đình bắt đầu xúm vào chất vấn bà mối.

"Bà đưa đứa con gái kiểu gì vậy hả? Một con quỉ cái!

Một mắt giữa trán, tai trái vểnh lên, tai phải cụp xuống,

cằm thì vẹo ra sau!"

Bà mối ngắt lời, "Này, các ông bà thích Picasso hay

không thích!"

Hội hoạ hiện đại biểu diễn cái xấu trong sự tồn tại. Cái

xấu trở thành trội hơn bởi một lí do nào đó. Thế kỉ này là

một trong những thế kỉ xấu nhất: hai cuộc chiến tranh thế

giới trong vòng năm mươi năm, hàng triệu người bị giết, bị

tiêu diệt... tàn bạo thế, hung tợn thế, bạo hành thế, điên rồ

thế. Thế kỉ này là thế kỉ ác mộng. Con người đã lạc lối

nhân đạo. Con người đã làm biết bao điều tàn ác với con

người! Một cách tự nhiên điên khùng này bùng ra mọi nơi -

trong hội hoạ, trong âm nhạc, trong điêu khắc, trong kiến

trúc - mọi nơi tâm trí xấu xa của con người đã tạo ra xấu xí.

Xấu xí đã trở thành giá trị thẩm mĩ. Bây giờ các nhà

nhiếp ảnh đi tìm cái gì đó xấu xí. Không phải vì cái đẹp đẽ

không còn tồn tại nữa; nó vẫn tồn tại nhiều như trước,

nhưng nó bị lãng quên. Cây xương rồng đã thay thế cho

hoa hồng. Không phải vì xương rồng là cái gì đó mới mẻ;

nó bao giờ cũng tồn tại, nhưng thế kỉ này đã đi tới biết rằng

gai dường như thật hơn hoa hồng. Hoa hồng dường như là

giấc mơ; nó không thích hợp với chúng ta, do đó hoa hồng

đã bị trục xuất. Xương rồng đã bước vào phòng khách của

bạn. Mới chỉ một trăm năm trước đây chẳng ai nghĩ tới việc

đem xương rồng về nhà. Bây giờ nếu bạn là người hiện đại

vườn bạn phải đầy những xương rồng. Hoa hồng trông hơi

tư sản; hoa hồng trông hơi cổ hủ; hoa hồng trông như thành

viên đảng Bảo thủ, chính thống, truyền thống. Xương rồng

trông có vẻ cách mạng. Vâng, xương rồng là cách mạng -

giống Adolf Hitler, Josef Stalin, Mao Trạch Đông và Fidel

Castro. Vâng, xương rồng dường như gần gũi với thế kỉ

này hơn.

Nhà nhiếp ảnh đi tìm một vật gì đó xấu xí; người đó sẽ

đi và chụp ảnh người ăn mày. Không phải vì người ăn mày

trước đây chưa từng có; người đó đã tồn tại từ trước; người

đó là thật, chắc chắn thật, nhưng không ai làm nghệ thuật

về người đó. Chúng ta cảm thấy khiêm tốn trước người ăn

mày, chúng ta cảm thấy biết lỗi trước người ăn mày, chúng

ta cảm thấy rằng cái gì đó không nên có vẫn còn đó; chúng

ta muốn không còn có người ăn mày nữa. Nhưng thế kỉ này

vẫn cứ đi tìm cái xấu xí.

Mặt trời vẫn chiếu xuyên qua rặng thông và mỗi sáng.

Tia sáng xuyên qua lá thông tạo ra cái đẹp kì ảo... Nó vẫn

tồn tại, nhưng chẳng nhà nhiếp ảnh nào quan tâm; nó

không còn quyến rũ nữa. Cái xấu quyến rũ bởi vì chúng ta

đã trở thành xấu xí. Cái hấp dẫn chúng ta chứng tỏ cái gì đó

về chúng ta.

Phật là một bông hoa hồng, đó là khả năng cao nhất.

Và nhớ, Phật không giống hoàn toàn như trong ảnh ông ấy;

chẳng ai biết Phật trông như thế nào. Nhưng đấy không

phải là vấn đề. Trong những ngày ấy chúng ta đã không

quan tâm - ít nhất ở phương Đông không quan tâm - chúng

ta không quan tâm tới cái 'thực' chút nào, chúng ta quan

tâm tới cái thực tối thượng. Chúng ta không quan tâm tới

sự kiện, chúng ta quan tâm tới bản thân chân lí.

Có thể Phật có mũi dài hơn một chút, nhưng nếu người

nghệ sĩ nghĩ rằng mũi nhỏ hơn một chút sẽ hài hoà hơn với

thiền, người đó sẽ vứt cái mũi dài đó của Phật, người đó

làm cho nó bé đi chút xíu. Có thể Phật có bụng to, ai mà

biết được? Tượng Phật ở Nhật bản có bụng phệ, nhưng

Phật ở Ấn Độ không có bụng phệ - các thái độ thật khác

nhau.

Ở Nhật người ta nghĩ rằng thiền nhân phải thở từ bụng,

từ rốn. Và khi bạn thở từ bụng dĩ nhiên bụng phải lớn hơn

một chút. Thế thì ngực không nhô ra như bụng, ngực được

thảnh thơi. Cho nên Phật ở Nhật có bụng phệ. Điều đó nữa

cũng bởi một lí do nào đó: để chỉ cho bạn rằng thở bụng

mới là thở đúng. Điều đó chẳng có liên quan gì tới Phật cả;

chẳng ai biết được ông ấy có bụng phệ hay không.

Các tượng Phật ở Ấn Độ không có bụng phệ, bởi vì

yoga Ấn Độ không nhấn mạnh vào thở bụng: bụng phải

lép. Điều ấy nữa cũng có một lí do khác nào đó. Nếu bạn

muốn năng lượng dục chuyển lên, tốt hơn cả là đừng thở

bụng. Khi bụng được lép vào năng lượng bị hút lên dễ dàng

hơn - các kĩ thuật khác.

Việc thở bụng cũng tốt cho thiền nhân nào đó; nó rất

thảnh thơi. Nhưng rồi năng lượng không thể chuyển theo

cùng cách như nó vẫn chuyển khi bụng lép vào. Các tượng

Phật ở Ấn Độ đều có bụng lép - gần như không có bụng.

Chẳng ai biết đích xác Phật trông như thế nào. Các tượng

đều rất nữ tính, rất tròn trĩnh; chúng không có vẻ gì nam

tính cả.

Bạn đã bao giờ thấy bức tượng nào có ria và râu

không? - không. Người vẽ Jesus thực tế hơn. Người vẽ Phật

không quan tâm nhiều tới hiện thực, họ chỉ quan tâm tới

chân lí tối thượng. Họ không quan tâm tới việc Phật được

trông như thế nào, họ chỉ quan tâm tới việc phật nên trông

như thế nào. Nhấn mạnh không phải là vào Phật mà là vào

người sẽ nhìn vào các bức tượng đó - làm sao cho tượng

này sẽ giúp được cho những người đó.

Cho nên Phật không được vẽ như ông già. Ông ấy đã

phải trở nên già yếu, ông ấy đã đến tám mươi hai... chắc

chắn là ông ấy rất già, rất già và ốm yếu. Một thầy lang đã

phải liên tục đi theo ông ấy. Nhưng chẳng có tượng nào

được sơn vẽ về ông ấy lúc già, lúc ốm, bởi vì rằng đấy

không phải là vấn đề. Chúng ta không quan tâm tới thân thể

vật lí của Phật, chúng ta chỉ quan tâm tới hình học bên

trong của ông ấy; phẩm chất bên trong đó của Phật bao giờ

cũng trẻ trung, nó không bao giờ già cỗi. Và nó chẳng bao

giờ ốm yếu, nó bao giờ cũng trong trạng thái mạnh khoẻ;

bởi chính bản chất của nó, nó không thể ốm yếu được.

Thân thể trẻ, thân thể già, thân thể trở nên hư hỏng, thân

thể chết. Phật không sinh, không bao giờ diệt; Phật vẫn còn

trẻ vĩnh viễn. Khi nhìn vào bức tượng trẻ trung cái gì đó

của tuổi trẻ sẽ nảy sinh trong bạn và bạn sẽ cảm thấy cái gì

đó tươi tắn.

Bây giờ người Ấn Độ chẳng bao giờ thích Jesus được

chụp ảnh, được vẽ, được tạc tượng trên cây thánh giá. Điều

đó xấu, điều đó buồn bã. Cho dù điều đó mang tính lịch sử

thì điều đó cũng chẳng đáng nhớ, bởi vì bất kì cái gì bạn

nghĩ tới thì đã xảy ra rồi, bạn định giúp cho nó xảy ra lần

nữa. Chẳng có gì bắt buộc phải hướng về sự kiện: chúng ta

không mắc nợ điều gì với quá khứ, chúng ta không cần

phải nhớ quá khứ hệt như nó đã xảy ra. Vấn đề trong tay

chúng ta để chọn quá khứ - chọn quá khứ theo cách để

tương lai tốt hơn có thể được tạo ra.

Vâng, Jesus đã bị đóng đinh, nhưng nếu ông ấy bị đóng

đinh ở Ấn Độ thì chúng ta sẽ không vẽ điều đó. Ngay cả

trên cây thánh giá chúng ta cũng sẽ vẽ một thứ hoàn toàn

khác. Bức vẽ phương Tây về Jesus trong đau đớn, trong

buồn thảm - một cách tự nhiên thôi, ông ấy đã bị giết chết.

Khi bạn ngắm nhìn, khi bạn tập trung, thiền về Jesus, bạn

sẽ cảm thấy buồn.

Không phải ngẫu nhiên mà người Ki tô giáo nói rằng

Jesus chẳng bao giờ cười. Và cũng không phải ngẫu nhiên

mà bạn không được phép nhảy múa, cười đùa vui vẻ trong

nhà thờ. Nhà thờ là công việc nghiêm chỉnh: bạn phải rất

nghiêm chỉnh... mặt dài ra. Trong thực tế khi Jesus bị đóng

đinh ở đó trên ban thờ, làm sao bạn có thể cười và hát

được? Ở Ấn Độ bạn có thể hát và cười, vui vẻ. Tôn giáo là

hớn hở, lễ hội.

Toàn bộ vấn đề là ở chỗ tâm trí phương Tây mang tính

lịch sử, tâm trí phương Đông mang tính tồn tại. Phương

Tây chú trọng quá mức vào các sự kiện trần tục, phương

Đông chẳng bao giờ để ý tới lịch sử. Bạn sẽ ngạc nhiên mà

biết rằng mãi cho tới khi người phương Tây đến Ấn Độ,

người Ấn Độ đã chẳng biết gì đến những cái như lịch sử.

Chúng ta chưa bao giờ viết sử, chúng ta chưa bao giờ bận

tâm về nó. Đó là lí do tại sao chúng ta không biết đích xác

khi nào Phật ra đời, đích xác khi nào ông ấy chết. Chúng ta

chẳng bao giờ đặt nhiều kính trọng vào sự kiện. Sự kiện là

trần tục: có thành vấn đề gì liệu ông ấy được sinh ra vào

ngày thứ hai hay thứ ba hay thứ năm? Vấn đề là gì, vấn đề

như thế nào? Trong thực tế điều đó chẳng thành vấn đề

chút nào; ngày nào cũng được và năm nào cũng được. Đấy

không phải là điểm chính yếu. Điều chính yếu là: Ai được

sinh ra? Ai là con người này trong cốt lõi bên trong nhất?

Lịch sử nghĩ về ngoại vi, huyền môn nghĩ về cốt lõi

bên trong nhất. Ấn Độ đã viết về huyền môn nhưng không

viết về lịch sử. Chúng ta có puranas; puranas là huyền

môn, chúng không phải là lịch sử. Chúng là thơ ca, cách

nhìn huyền bí về mọi thứ nên là thế nào, không phải là việc

chúng là thế nào. Chúng là cái nhìn tới điều tối thượng. Và

Phật là cái nhìn tới samadhi tối thượng.

Những bức tượng Phật đó bạn thấy ở bảo tàng

Frankfurt là những bức tượng về im lặng bên trong. Khi

một người tuyệt đối im lặng, người đó sẽ trong trạng thái

đó. Khi mọi thứ yên tĩnh và im lặng, bình thản bên trong -

không một ý nghĩ khởi lên, không một ngọn gió thoảng

qua; khi mọi thứ đã dừng lại, thời gian đã dừng lại - bạn sẽ

cảm thấy việc ngồi tựa vị phật. Cái gì đó cùng kiểu hình

học sẽ xảy ra cho bạn. Đó là nghệ thuật mục đích - ít liên

quan tới thực tại của Phật, nhưng liên quan nhiều tới những

người sẽ tới và sẽ tìm kiếm phật tính. Nhấn mạnh là khác

nhau: điều gì sẽ xảy ra cho những người ngắm bức tượng

và sẽ quì xuống trước những bức tượng đó và sẽ suy tư về

những bức tượng này?

Ở Ấn Độ có những đền như Khajuraho trong đó có đủ

loại tư thế làm tình được tạc tượng. Nhiều tư thế ngớ ngẩn

đến mức ngay cả de Sade hay von Sacher-Masoch cũng

không thể nào tưởng tượng ra được chúng. Người truỵ lạc

nhất cũng không thể tưởng tượng được ra như thế. Chẳng

hạn, đàn ông và đàn bà đứng trên đầu và làm tình - dường

như là chẳng có ai định thử hay tưởng tượng ra điều đó.

Tại sao họ vẽ những bức tranh này? Chúng là điển hình

cho nghệ thuật mục đích.

Những đền đài này ở Khajuraho không phải là các đền

đài thông thường; chúng là một kiểu trị liệu, chúng tồn tại

như một cách trị liệu. Bất kì khi nào một ai đó đang bị suy

đồi dục đều được gửi tới Khajuraho. Người đó phải ngắm

nhìn và thiền về tất cả những thứ dị thường, quái chiêu này.

Người đó có cái gì đó suy đồi trong tâm trí; cái suy đồi đó

ở bên trong vô thức. Phân tâm học làm được gì? Nó cố đem

mọi điều từ vô thức ra ý thức, có thế thôi. Và phân tâm học

nói rằng một khi cái gì đó từ vô thức tới ý thức thì nó được

thoát ra, bạn tự do với nó.

Bây giờ đây là phân tâm học vĩ đại, các đền ở

Khajuraho này. Người suy đồi bất thường được đưa tới.

Người đó đã kìm nén suy đồi của mình - đôi khi chúng

bùng phát, nhưng người đó cứ kìm nén. Người đó biết rằng

cái gì đó đang có đấy tựa như một vết thương, nhưng người

đó chẳng bao giờ có thể thấy được nó mặt đối mặt. Người

đó được đưa đến Khajuraho. Người đó đi chậm rãi, suy tư

về từng bức tượng, về từng tư thế kì quái. Rồi một hôm,

bỗng nhiên một tư thế khớp với suy đồi bên trong của

người đó. Bỗng nhiên từ vô thức sự suy đồi tràn ra bề mặt

tới ý thức, và nó được thoát ra mà chẳng cần Freud hay

Jung hay Adler có đó - chỉ có ngôi đền gây ra tác dụng.

Người đó được bỏ lại trong đền. Trong một vài tuần người

đó có thể ở đó. Với mỗi thiền nhân, người thực sự muốn đi

vào thiền sâu trong những ngày ấy, điều nên làm là tới

thăm một ngôi đền kiểu như Khajuraho.

Trên các bức tường của ngôi đền tất cả đều là những

bức tượng ấy - rất bất thường, rất quái dị, rất suy đồi. Bên

trong ngôi đền không có các tranh vẽ dâm dục, không có

tượng dâm dục chút nào, không dâm dục chút nào. Bên

trong thì hoặc là tượng Phật, tượng Shiva hay tượng

Krishna.

Ý nghĩa của nó là gì? Tại sao dục chỉ có trên tường bên

ngoài mà bên trong thì không có dục? Đấy là một kĩ thuật.

Đầu tiên bạn phải đi tới phần ngoại vi để cho bạn có thể trở

nên thoát khỏi dục. Khi một người cảm thấy rằng bây giờ

các tượng dâm dục này không hấp dẫn người đó chút nào

nữa - bây giờ người đó cứ ngồi trước chúng và không có gì

xảy ra bên trong nữa, người đó giữ được bình tĩnh và lặng

yên, không gợi dục, không kích động; trong vài tuần người

đó chờ đợi, và không cảm thấy gợi dục - thế thì người đó

có khả năng đi vào bên trong ngôi đền.

Đấy là biểu tượng. Bây giờ dục của người đó có thể

vượt ra ngoài. Ngôi đền này là ngôi đền Mật tông, một

trong những thực nghiệm vĩ đại nhất đã được thực hiện.

Chúng không khiêu dâm, chúng không gợi dục, chúng là

tâm linh - một thực nghiệm vĩ đại trong tâm linh, một thực

nghiệm vĩ đại trong việc biến đổi năng lượng con người

hướng lên các mức cao hơn.

Nhưng đầu tiên năng lượng phải được giải phóng khỏi

mức thấp hơn. Và để giải phóng nó chỉ có một cách: làm

cho nó hoàn toàn thành ý thức, đưa mọi tưởng tượng của

tâm trí vô thức thành ý thức. Khi vô thức hoàn toàn không

còn bị nặng gánh nữa, bạn được tự do. Thế thì bạn không

còn các khối chắn nữa, thế thì bạn có thể chuyển vào trong.

Thế thì bạn có thể đi vào bên trong ngôi đền, thế thì bạn có

thể thiền về Phật, về Shiva, về Krishna.

Đó không phải là điều tưởng tượng, Samagra này, đó là

nghệ thuật mục đích mà bạn vô tình gặp đấy.

#6Câu hỏi thứ ba:

Osho kính yêu, thầy có cái gì mà tôi không

có? (Và tôi không nói về đạo tràng, ô tô, bàn

viết và mọi loại chất liệu đó.)

Bạn phải đang nói về 'mọi loại chất liệu đó', bằng

không tại sao bạn ngụ ý nó là tất cả? Chính việc nói tới nó

chỉ ra tâm trí. Bạn phải đã lo sợ, ý tưởng này phải thoáng

qua tâm trí bạn... và tôi chẳng có đạo tràng, chẳng có ô tô,

chẳng có bàn viết; trong thực tế tôi chẳng có gì cả. Việc có

không phải là vấn đề duy nhất. Hiện hữu... tôi chỉ ở đây;

hiện hữu là của cải của tôi, không phải là việc có. Nếu đạo

tràng là ở đây, nó là để dành cho bạn chứ không phải cho

tôi. Nếu có bàn viết thì cũng là để dành cho bạn, không

phải cho tôi. Tất cả những cái tồn tại ở đây là để dành cho

bạn. Nó chẳng liên quan gì tới tôi cả.

Tôi một mình là đủ.

Nhưng ở đâu đó, sâu trong tâm trí bạn, bạn phải quá

gắn bó với mọi thứ. Khi bạn hình thành nên một câu hỏi,

bạn hãy nhớ, nó biểu lộ rất nhiều điều về bạn. Câu hỏi

không chỉ là câu hỏi, nó cũng chính là biểu tượng nữa.

Một số người trong phòng hút thuốc lá đang tranh luận

xem ai là nhà phát minh vĩ đại nhất. Một người bằng lòng

với Stevenson, người đã phát minh ra đường sắt, người

khác thì nói tới Edison, người nữa thì nói tới Marconi, còn

một người nữa thì cho là anh em nhà Wright. Cuối cùng

một người trong số họ quay sang một người đàn ông nhỏ

bé, người vẫn đang lắng nghe mà chẳng nói gì cả. "Ông

nghĩ thế nào, ông bạn?"

"Này," câu trả lời đưa ra với một nụ cười hiểu biết,

"người đã phát minh ra 'lợi tức' là kẻ khôn hơn cả.”

Và người Do Thái đang ẩn trong mọi người; người Do

thái cứ chỉ nghĩ đến tiền, đến lợi tức, đến mọi thứ... đến

việc có.

Điều thứ nhất: Thay đổi tập trung của bạn từ việc có

sang sang việc hiện hữu đi. Bạn có thể có cả thế giới mà

điều đó cũng chẳng ích gì; bạn vẫn còn là kẻ ăn mày. Và tôi

không nói tới việc từ bỏ thế giới, tôi nhắc bạn. Tôi không

nói từ bỏ thế giới - bạn đừng nhảy sang kết luận đối lập.

Tôi đang nói bạn có thể có cả thế giới mà bạn sẽ chẳng có

gì cả, đấy là tất cả những gì tôi đang nói. Tôi không nói từ

bỏ nó... bởi vì những người từ bỏ, tâm trí họ vẫn còn tập

trung vào việc có. Bạn đếm tiền, họ cũng đếm tiền. Bạn

nói, "Tôi đã kiếm được nhiều nghìn đô la này"; họ nói "Tôi

đã từ bỏ nhiều nghìn đô la kia" - nhưng việc đếm vẫn tiếp

tục. Bạn là kế toán viên họ cũng là kế toán viên. Và việc

ghi sổ sách là thế giới.

Biết được bạn là ai chính là trở thành hoàng đế. Hiện

hữu là trở thành hoàng đế. Việc có chỉ là nghèo khó.

Có hai loại người nghèo trên thế giới: những người có

và những người không có. Nhưng cả hai đều nghèo, bởi vì

những người có thì họ không có gì, còn những người không

có, tất nhiên họ cũng chẳng kiếm được gì. Nhưng cả hai

đều nghèo. Những người có, họ phân vân: "Phải làm gì với

nó đây?" Họ bị mắc kẹt với nó; họ đã phí cả đời để có nó,

bây giờ nó có đấy và họ chẳng biết phải làm gì với nó cả.

Nó không thoả mãn cho bất kì cái gì, nó không đem lại bất

kì hoàn thành nào, nó không đem lại bất kì nở hoa nào. Họ

vẫn chưa đi đến mở hội cuộc sống. Thượng đế còn chưa

xảy ra qua điều đó. Điều đó chưa bao giờ xảy ra qua việc

có cả.

Bạn hỏi: "Thầy có gì mà tôi không có...?"

Nếu bạn cứ khăng khăng nói dưới dạng có thì bạn còn

có nhiều hơn là tôi có. Bạn có vô hạn thứ nhiều hơn: tham

lam, giận dữ, thèm khát, tham vọng, bản ngã - và cả nghìn

lẻ một thứ nữa.

Tôi đã có gì? - chỉ cái không. Chính xác, chỉ cái không.

Nếu bạn nghĩ theo quan điểm về việc có, thì tôi là người

nghèo nhất, bởi vì tôi chỉ có cái không. Nhưng nếu bạn

nghĩ theo quan điểm của hiện hữu, thì tôi là người giầu có

nhất - bởi vì một khi bạn vứt bỏ được bản ngã, bạn không

mất cái gì, bạn chỉ mất đi tật bệnh. Khi bạn vứt bỏ tham

lam, bạn không mất cái gì nữa, bạn chỉ mất tật bệnh. Khi

bạn vứt bỏ giận dữ, bạn không mất gì, bạn được. Mỗi lần

bạn vứt bỏ những thứ như thế mà bạn có, bạn trở nên giầu

hơn.

Khi tham lam biến mất việc chia sẻ đi vào sự tồn tại.

Khi giận dữ biến mất từ bi đi vào sự tồn tại. Khi ghen ghét,

ghen tị, sở hữu biến mất tình yêu đi vào hiện hữu.

Tôi chỉ có bản thân tôi. Nhưng cái ta đó diễn tả chính

nó theo nhiều, nhiều chiều hướng - trong chia sẻ, trong tình

yêu, trong từ bi. Cho nên tôi có thể nói bạn còn có nhiều,

nhiều hơn, vậy mà tôi sẽ nói bạn chưa hiện hữu. Tôi hiện

hữu, còn bạn không hiện hữu.

#6Câu hỏi thứ tư:

Osho kính yêu, thầy ngụ ý gì khi thầy nói

rằng con người là cái máy?

Con người kia là cái máy đấy! Có ba cảnh - thứ nhất là:

"Xin chào, ông bạn già Bernie!" Charlie lên tiếng chào,

cái gì đó bắn ra. "Chúng ta hãy vào quán và ăn mừng thói

quen hút xì gà."

"Bác đang nói gì vậy?" Bernie hỏi.

"Nghe đây," Charlie tiếp tục, "Vợ tôi muốn tôi thôi hút

thuốc. Và phương pháp của vợ tôi là, khi tôi cảm thấy thích

xì gà thì thế vào đó là ăn một thanh kẹo O' Henry."

“Bác làm như thế thật à?" Bernie hỏi.

"Có đấy! Và đó là lí do tại sao tôi ăn mừng. Tôi trở lại

hút xì gà - ý tưởng thanh kẹo đó không có tác dụng; tin tôi

đi, tôi đã thử nó. Mỗi lần tôi muốn hút thuốc tôi lại mua

một thanh kẹo O' Henry. Nhưng bác có biết điều gì không?

Tôi không thể châm thuốc được."

Khi tôi nói người kia là cái máy, tôi muốn nói người đó

vận hành qua thói quen, không qua nhận biết. Khi tôi nói

người đó là cái máy, tôi muốn nói người đó vận hành qua

quá khứ không phải qua tính tự phát của mình.

Cảnh thứ hai...

Một công nhân làm đêm đã để râu tóc dài cho đến khi

nào đội bóng rổ anh ta ưa thích đoạt được cờ, dài đến độ

chị vợ xinh xắn và trẻ trung của anh ta thấy ghê tởm.

Một hôm đội bóng của anh ta đoạt được cờ thế là anh ta

nghỉ việc, cạo đầu tóc nhẵn nhụi, về sớm và lẻn vào

giường. Trong bóng tối anh ta nắm lấy tay vợ và đặt nhẹ

nhàng lên khuôn mặt nhẵn nhụi của mình.

Cô vợ quay nhẹ đi trong khi vẫn lần ngón tay qua chiếc

cằm nhẵn thín và nói, "Làm nhanh lên, trẻ! Lão Whikers

sắp về đến nơi rồi."

Khi tôi nói rằng con người là máy, tôi muốn nói con

người không thấy cái gì là hoàn cảnh, con người không

nhìn vào khoảnh khắc hiện tại, con người không đáp ứng

với thực tại. Con người cứ sống trong các ý tưởng cũ, con

người sống qua thói quen.

Cảnh thứ ba...

Một hôm Mulla Nasruddin đọc một bài thở nhỏ trong

một tạp chí. Anh ta thích bài thơ này lắm. Bài thơ đó là:

Thưa ông ấy, sao ông ấy không mua một hay hai bó

hoa,

Nhân phiên chợ hoa mùa xuân?

Và đem chúng về nhà trong một ngày vui vẻ,

Nhưng nhớ giữ gìn cẩn thận.

Rồi trao chúng tận tay vợ ông ấy và nói,

"Hôm nay anh nghĩ về em trong thành phố."

Mulla Nasruddin làm hệt như thế. Anh ta mua vài bông

hoa, nhưng thay vì đi vào nhà như thường lệ thì anh ta lại

gõ cửa. Và khi vợ anh ta mở cửa ra, anh ta trao ngay hoa

cho vợ. Anh ta ngạc nhiên khi chị vợ buột khóc. "Sao, cái

gì thế vậy?" anh ta hỏi.

"Ôi trời," chị ta đáp, "em gặp phải một ngày khủng

khiếp. Em làm vỡ mất ấm trà, con trẻ thì kêu khóc, cơm

chưa nấu mà anh thì say khướt về nhà!"

Đấy chính là điều tôi ngụ ý khi tôi nói con người là cái

máy. Và bạn không trở nên nhận biết về nó, bởi vì làm sao

cái máy có thể trở thành nhận biết được? Bạn cần ai đó liên

tục gõ búa vào đầu bạn, với hi vọng rằng đôi khi búa sẽ

thực sự gõ trúng bạn, làm chấn động bạn ra khỏi thói quen

và trong thoáng chốc bạn sẽ tỉnh thức.

Đó là toàn bộ mục đích của thầy: cứ gõ vào bạn từ phía

này, từ phía kia, từ mọi phía, và cứ thay đổi kĩ thuật, tình

huống, phương cách để cho một ngày nào đó bạn bị lôi

cuốn ra khỏi vô nhận biết.

Cho dù chỉ cần một thoáng chốc bạn trở nên nhận biết

bạn sẽ hiểu ngay rằng toàn bộ quá khứ của bạn đều đã là

quá khứ máy móc. Chỉ thế bạn sẽ biết - nhưng không phải

bởi lời nói của tôi về nó - rằng con người là cái máy. Chỉ

thế thì bạn sẽ biết, khi bạn đã nếm trải một khoảnh khắc

nhận biết. Thế thì toàn bộ cuộc đời bạn sẽ đơn giản được

biết tới, được nhìn nhận, được nhận ra như cái máy. Bởi vì

cho dù biết nó là máy móc, bạn vẫn cần cái gì đó để so sánh

với nó. Bạn không có gì để so sánh với nó cả, bạn sống

giữa các cái máy. Bố bạn là một cái máy, mẹ bạn là một cái

máy, vợ bạn là một cái máy, bạn của bạn, ông chủ bạn -

bạn sống giữa các cái máy. Bạn cũng là một cái máy. Làm

sao trở nên nhận biết được?

Có lần vợ Mulla Nasruddin bảo với tôi rằng cô ấy chưa

bao giờ biết rằng chồng mình lại say rượu mãi cho tới đêm

hôm ấy anh ta về nhà say khướt cò bợ. Nếu một người liên

tục say rượu thì rất khó để biết rằng anh ta đang say; bạn

trở nên quen thấy anh ta theo cách đó.

Bạn là cái máy. Điều đó gây tổn thương - đó là mục

đích của việc gọi bạn là máy. Để cho nó bị tổn thương đi.

Nếu nó không tổn thương bạn đã vào tình thế không thể

chữa được rồi. Nếu nó tổn thương, còn có khả năng. Nếu

nó tổn thương, điều đó có nghĩa là bằng cách nào đó, sâu

trong vô thức, bạn cũng cảm thấy rằng, đúng, quả có như

vậy.

Bạn có sống trong khoảnh khắc hiện tại không? Bạn có

nhận ra mọi thứ như chúng ngay bây giờ không? Hay bạn

chỉ cứ nhìn chúng qua con mắt cũ, tâm trí cũ... kí ức? Bạn

có sáo rỗng không đấy? Bạn ngay lập tức đặt mọi thứ vào

trong những cái hộp nào đó, những cái hộp làm sẵn. Chẳng

hạn, nếu bạn là người Hindu và bạn gặp một người và bạn

rất quan tâm đến người đó... người đó trông đẹp đẽ và rất

tốt, bạn thích rung động của người đó. Rồi bạn hỏi mọi

điều về người đó và người đó trả lời, "Tôi là người Mô ha

mét giáo." Kết thúc. Tất cả những rung động đẹp không

còn nữa, bạn đã co lại. Bạn có một cái hộp, một cái hộp cố

định rằng người Mô ha mét giáo không tốt. Bạn là người

Hindu; người Mô ha mét giáo là xấu. Bạn lập tức phân loại

người đó, bạn ấn người đó vào một lỗ tổ chim. Bây giờ bạn

không còn quan tâm tới thực tại của người ấy. Thực tại vừa

nói điều gì đó khác, nhưng nó đi ngược với phân loại và lí

thuyết của bạn.

Tôi đã từng nghe...

Một phụ nữ trẻ đi tới một thành phố lớn gần đó để làm

việc. Họ đều là những người rất nghèo còn người mẹ thì

già, khi người phụ nữ trẻ còn bé cô ấy đã phải đi làm để

kiếm thêm chút tiền. Sau vài tháng cô ấy quay trở về với rất

nhiều tiền. Người mẹ rất hạnh phúc; bà ta hỏi, "Bây giờ nói

cho mẹ biết con đã làm gì ở đó?"

Người con gái rất thật thà và trả lời, "Con đã trở thành

gái mãi dâm."

"Gì thế!" người mẹ kêu thất thanh - và ngất xỉu. Khi bà

tỉnh lại sau nửa giờ bà lại hỏi, "Kể cho mẹ con đã trở thành

người gì?"

Còn người con gái thì đáp, "Con đã bảo mẹ, là con làm

gái mãi dâm."

Người mẹ nói, "Lạy trời! Mẹ cứ nghĩ con nói con đã

trở thành người theo đạo tin lành!"*

[* Hai chữ tiếng Anh phát âm gần giống nhau "prostitute" - mãi dâm và

"Protestant" người tin lành nên gây ra sự hiểu lầm.]

Tất nhiên họ đều là người Ki tô giáo.

Phân loại liên tục tiếp diễn trong tâm trí. Quan sát: khi

bạn làm điều gì đó, bạn có phản ứng với sự kiện ở đây bây

giờ không, hay bạn tuân theo các lí thuyết quá khứ nào đó?

Khi bạn làm điều gì đó, bạn có làm điều ấy với chú tâm,

nhận biết hay bạn chỉ làm như người máy?

Hôm trước tôi đã nói về ba nhận biết: nhận biết một,

nhận biết hai, nhận biết ba. Đây là nhận biết đầu tiên: quan

sát chính bản thân bạn, quan sát hành động của bạn, quan

sát phản ứng của bạn, quan sát đáp ứng của bạn. Bạn đang

đối xử như thế nào - như một con người hay như một cái

máy? Và trong một trăm trường hợp, có tới chín mươi chín

lần bạn sẽ thấy rằng bạn đang đối xử giống như cái máy.

Nhưng nếu bạn bắt đầu trở nên tỉnh táo hơn chút xíu thế thì

bạn đang trở thành cái gì đó hơn cái máy; điểm thêm đó

đang nảy sinh trong bạn. Nhận biết đó sẽ giúp cho bạn trở

thành con người. Chỉ khi bạn nhận biết bạn mới là con

người. Hoàn toàn nhận biết, bạn là con người đầy đủ. Hoàn

toàn vô nhận biết, bạn là cái máy.

#6Câu hỏi thứ năm:

Osho kính yêu, từ khi tôi ở đây, mọi thứ tôi

ước mong đều xảy ra cho tôi. Bây giờ tôi có

mọi thứ có thể muốn mà tôi cảm thấy giống

như tim tôi tan vỡ. Điều gì xảy ra vậy?

Bạn đã hiểu lầm. Tim vỡ ra vì vui mừng, tim vỡ ra vì

sung sướng, cực kì sung sướng. Trong một khoảnh khắc

nào đó vui mừng trở thành không thể chịu đựng nổi. Khi

vui mừng thành không thể chịu đựng nổi, bạn mới thực sự

là vui mừng. Thế thì vui mừng lên đến cực điểm, thế thì vui

mừng đạt tới điểm một trăm độ. Nếu bạn có thể chịu được

vui mừng vô bờ này, chẳng chóng thì chầy bạn sẽ bắt đầu

bay hơi qua vui mừng đó, bạn sẽ bắt đầu tan biến vào trong

điều thiêng liêng. Đừng sợ hãi, chẳng có gì sai đang xảy ra

cho bạn; bạn đang được phúc lành đó.

Nhưng nó xảy ra, ý tưởng của ta... Nếu bạn thấy ai đó

đang kêu khóc, bạn nghĩ rằng người đó đang buồn, người

đó phải đang khổ. Bạn bắt đầu an ủi. Bạn có nghe nói tới

cách nói 'nước mắt vui mừng' không? Có cả nước mắt vì

quá đỗi vui mừng nữa. Cho nên đừng vội an ủi - có thể

người ấy đang vui mừng. Nhưng chúng ta chỉ biết về những

người khóc khi họ bất hạnh; chúng ta không biết về những

người khóc khi họ hạnh phúc bởi vì mọi người thường

không hạnh phúc chút nào. Cho nên nước mắt vui mừng

chỉ có trong thơ ca, chỉ tìm thấy được trong thơ ca - không

có trong đôi mắt.

Nhưng nước mắt chẳng có liên quan gì với nỗi buồn cả.

Đấy là trạng thái xấu của nhân loại, trạng thái buồn thảm về

công việc, người ta kêu khóc chỉ khi họ buồn, khổ. Nước

mắt chẳng liên quan tới khổ như thế, nước mắt chỉ trào ra

khi cái gì đó tràn đầy. Đấy có thể là nỗi buồn, đấy có thể là

vui vẻ, đấy có thể là tình yêu, đấy có thể là giận dữ. Bạn có

thể quan sát phụ nữ: khi họ trở nên quá giận, họ bắt đầu

khóc. Đấy là giận dữ, không phải là buồn rầu. Quan sát một

đứa nhỏ: nếu nó cười quá nhiều, nó bắt đầu khóc. Quá

nhiều rồi, không thể chịu đựng được nữa; nó bắt đầu tràn

ngập trong nước mắt. Nước mắt chỉ là một chỉ báo rằng cốc

nước đã đầy - chúng bắt đầu trào.

Bạn nói: "Từ khi tôi ở đây mọi thứ tôi mong ước đều

xảy ra cho tôi..."

Đó là lí do tại sao vui mừng đang trở thành không chịu

đựng nổi; bạn đang về gần hơn tới nhà. "Bây giờ tôi đã có

mọi thứ có thể muốn và tôi cảm thấy giống như tim tôi tan

vỡ. Điều gì xảy ra vậy?"

Câu hỏi này là từ Anand Pratima.

Điều gì đó cực kì đẹp đẽ đang xảy ra. Đừng cố phân

tích nó và đừng cố nghĩ về nó. Đừng cố diễn giải nó, bằng

không tâm trí có thể phá huỷ toàn bộ sự việc. Chính tâm trí

đang cố can thiệp vào trái tim. Câu hỏi này đến từ tâm trí.

Trái tim tràn đầy vui vẻ, đó là lí do tại sao nó đang vỡ ra;

nó không thể chứa đựng được điều đó; vui vẻ quá lớn. Để

cho nó tan vỡ ra. Đó chính là điều để tôi có ở đây, đó là lí

do tại sao bạn đến với tôi.

Để cho nó tan vỡ, để cho nó tan thành từng mảnh.

Từ vui vẻ, để cho nó bùng nổ.

Để cho nó biến mất vào cái vô hạn.

#6Câu hỏi thứ sáu:

Osho kính yêu, tại sao tôi bao giờ cũng sợ ý

kiến người khác?

Bởi vì bạn không có đó, bởi vì bạn chưa có đó. Bạn

chẳng là gì khác hơn là một hiện tượng chồng chất ý kiến

của người khác. Bạn là ai? Ai đó nói bạn đẹp, thế là bạn

đẹp, rồi ai đó nói bạn xấu, thế là bạn xấu, rồi ai đó nói bạn

tuyệt vời thế là bạn tuyệt vời. Còn ai đó nói, " Tôi chưa bao

giờ thấy một con người kinh tởm đến thế," thế là bạn lại là

người kinh tởm. Mà mọi người cứ nói, còn bạn thì cứ cóp

nhặt đủ mọi thứ ấy, và đó là hình ảnh của bạn. Đó là lí do

tại sao hình ảnh của bạn rất mâu thuẫn, tham vọng: người

này nói bạn đẹp, người kia nói bạn xấu. Bạn muốn quên ý

tưởng của người nói bạn xấu, nhưng bạn không thể quên

được điều đó, nó vẫn còn đó. Nếu bạn giữ ý kiến rằng bạn

đẹp, bạn sẽ phải giữ cả ý kiến rằng bạn xấu nữa.

Hình ảnh của bạn rất tham vọng, bạn không biết đích

xác mình là ai. Bạn là món hẩu lốn, điều chúng ta ở Ấn Độ

gọi là kedgeree, một món hỗn hợp bao nhiêu thứ. Bạn chưa

có linh hồn. Bạn không có tính cá nhân nào, bạn không có

trung tâm tích hợp, bạn chỉ là kẻ nghiện ngập ý kiến người

khác. Đó là lí do tại sao bạn sợ, bởi vì nếu ý kiến người

khác thay đổi thì bạn sẽ thay đổi; bạn bị giữ chặt trong tay

họ.

Và đây cũng chính là thủ đoạn xã hội đã dùng. Xã hội

có một kĩ thuật: nó làm cho bạn rất tham vọng về tôn kính

của xã hội. Qua đó, nó thao túng bạn. Nếu bạn tuân theo

những qui tắc của xã hội, nó kính trọng bạn, nếu bạn không

tuân theo các qui tắc của xã hội, nó sỉ nhục bạn khủng

khiếp, nó làm tổn thương bạn rất nặng nề. Và tuân theo các

qui tắc của xã hội là trở thành nô lệ. Vâng, nó trả cho bạn

tôn kính lớn lao để là một nô lệ, nhưng nếu bạn muốn là

người tự do, xã hội trở nên giận dữ, nó không muốn có bất

kì cái gì liên quan tới bạn.

Là người thực sự tự do và tồn tại trong xã hội là điều

rất khó khăn. Và tôi nói điều đó cho bạn là từ kinh nghiệm

riêng của tôi. Gần như không thể nào tồn tại được bởi vì xã

hội không muốn có người tự do. Người tự do là nguy hiểm

cho sự tồn tại của xã hội. Xã hội thích người sống dở chết

dở, máy móc, người máy - bao giờ cũng sẵn sàng đứng xếp

hàng ở bất kì đâu. Chỉ cần hô to với họ, "Chú ý!" và thế là

họ đứng ngay vào hàng một cách máy móc. Họ không hỏi

tại sao, họ là kẻ bắt chước.

Bây giờ xã hội chú trọng tới họ lắm: nó cho họ kính

trọng, nó cho họ giải thưởng, phần thưởng, vinh dự - nó

phải làm như thế, đây là thủ đoạn. Nó chưa bao giờ trao

phần thưởng nào cho những người tự do, nó chưa bao giờ

tôn kính họ. Làm sao nó có thể tôn kính họ được? - họ là kẻ

thù. Người tự do là kẻ thù trong xã hội không tự do, người

đạo đức là kẻ thù trong xã hội vô đạo đức, người tôn giáo là

kẻ thù trong xã hội phi tôn giáo. Trong thế giới của chủ

nghĩa duy vật người tâm linh bao giờ cũng khó khăn; người

đó không hợp được vào đâu hết.

Để hợp được với người khác, xã hội cho bạn thật nhiều

thứ bạn muốn; nó cho bạn hình ảnh tốt, nó chống đỡ cho

bạn. Nhưng nếu bạn không chịu nghe thì nó bắt đầu thay

đổi ý kiến của nó. Nó có thể đánh đổ bạn trong vài giây,

bởi vì hình ảnh của bạn là trong tay xã hội. Cho nên đây là

điều đầu tiên cần được hiểu.

Bạn hỏi: "Tại sao tôi bao giờ cũng sợ ý kiến người

khác?" Bởi vì bạn còn chưa có đó, bạn chẳng là gì ngoài ý

kiến của người khác, do đó có nỗi sợ: họ có thể rút lại ý

kiến của họ. Tu sĩ đã nói rằng bạn là người rất tốt. Bây giờ,

nếu bạn hành xử theo ông ta, bạn sẽ vẫn còn là người tốt.

Nếu bạn không hành xử theo ông ta - và bản thân ông ta có

thể thần kinh, nhưng bạn phải hành xử theo ông ta - nếu

bạn không hành xử, nếu bạn làm điều gì đó theo cách riêng

của mình, tu sĩ sẽ nhìn vào bạn và nói, "Bây giờ anh đang

chống lại đạo đức, anh đang chống lại tôn giáo, anh đang

chống lại truyền thống. Anh đang rơi vào tội lỗi!" Ông ta sẽ

thay đổi ý kiến về bạn - còn bạn thì đã là 'tốt' vì theo ý kiến

ông ấy.

Là chính bản thân mình đi. Không ai có thể làm bạn

thành tốt mà cũng chẳng ai làm bạn thành xấu được. Trừ

chính bạn, không ai có thể làm bạn thành tốt và không ai có

thể làm bạn thành xấu được. Những hình ảnh giả này chỉ là

sống trong mơ.

Bác sĩ bảo với một người, "Anh đang tạo ra lịch sử

ngành y đấy, anh bạn. Anh là người đàn ông duy nhất được

ghi nhận đã trở thành mang thai!"

Người này trả lời, "Khủng khiếp quá! Hàng xóm tôi sẽ

nói thế nào đây? Tôi vẫn còn chưa lấy vợ."

Bây giờ người đó chẳng quan tâm gì đến lịch sử và kỉ

lục ngành y cả, người đó chỉ lo lắng về việc hàng xóm sẽ

nói thế nào vì người đó còn chưa lấy vợ.

Chúng ta liên tục sợ hãi. Nỗi sợ này sẽ tiếp tục nếu bạn

không vứt bỏ việc thu thập các ý kiến. Vứt chúng đi - mọi ý

kiến. Ai đó tin rằng bạn là thánh nhân? Vứt điều đó đi, bởi

vì người đó nguy hiểm; người đó sẽ thao túng bạn qua ý

tưởng của người đó. Một khi bạn nghe lời người đó và bạn

tin người đó, người đó sẽ trở thành người chủ còn bạn trở

thành nô lệ.

Đôi khi mọi người đến tôi và nói, "Thầy là thánh nhân

vĩ đại." Tôi nói, "Rất tiếc, tôi xin lỗi. Xin đừng bao giờ thốt

ra những lời như vậy với tôi, bởi vì tôi không định bị bất kì

ai thao túng. Tôi chỉ là bản thân mình thôi - thánh nhân hay

tội nhân, điều đó chẳng thành vấn đề gì!" Người đó đang

nghĩ rằng người đó đang cố gắng ca tụng tôi. Có thể người

đó thậm chí không nhận biết về điều người đó đang làm.

Bất kì khi nào bạn ca ngợi một người, bạn cũng đều trở nên

mạnh mẽ. Bất kì khi nào bạn ca ngợi một người và người

đó chấp nhận ca ngợi của bạn, người đó đã rớt xuống thành

nạn nhân. Bây giờ bạn sẽ kiểm soát được người đó. Bây giờ

bất kì khi nào người đó muốn làm gì, bất kì một việc hồn

nhiên nào...

Nghĩ mà xem: bạn gọi một người nào đó là thánh nhân,

là mahatma, là hiền giả vĩ đại. Rồi một hôm nào đó người

đó muốn hút thuốc - phải làm sao đây? Người đó không thể

hút thuốc được, bởi vì điều gì sẽ xảy ra cho cái danh tiếng

thánh nhân của người đó? Bây giờ dường như người đó

phải chú trọng quá nhiều đến cái danh tiếng thánh nhân của

mình ngay cả trong hút thuốc nữa; người đó không thể hút

thuốc được bởi vì quá nhiều người gọi người đó là thánh

nhân. Hay người đó sẽ trở thành một kẻ đạo đức giả. Người

đó có thể bắt đầu hút thuốc sau cánh cửa và người đó vẫn

nói rằng mình không hút thuốc, rồi người đó lên án việc hút

thuốc giống như bất kì cái gì khác khi người đó ra trước

công chúng. Thế thì người đó sẽ có hai mặt, mặt ra trước

công chúng và mặt riêng tư. Thế thì người đó sẽ bị chia

chẻ.

Bạn đừng bao giờ chấp nhận ý kiến của người khác, dù

tốt hay xấu. Bảo họ, "Rất tiếc. Xin bạn hãy giữ ý kiến đó

cho chính bạn. Tôi chỉ là chính bản thân tôi." Nếu bạn có

thể còn duy trì tỉnh táo đó, chẳng ai có thể thao túng được

bạn, bạn vẫn còn tự do. Và tự do là vui vẻ. Nhớ lấy, tự do

là khó khăn, bởi vì xã hội bao gồm các nô lệ. Tự do là khó

khăn, nhưng tự do là vui vẻ duy nhất có đó. Tự do là điệu

vũ duy nhất có đó, và tự do là cánh cửa duy nhất hướng tới

Thượng đế. Nô lệ chẳng bao giờ đạt tới Thượng đế, người

đó không thể đạt tới được.

#6Câu hỏi thứ bảy:

Osho kính yêu, người ta đã từng nói rằng người

Anh làm người phục vụ giỏi nhất thế giới. Khi

thầy đặt tên cho tôi, thầy đã dịch nó là 'trong

phục vụ tình yêu.' Bây giờ tôi biết rằng cũng có

thể dịch là 'người phục vụ tình yêu'. Tôi phân

vân về điều này. Đôi khi dường như là tôi gần

như trong phục vụ tình yêu khi còn là chính mình

mà chẳng có ý định phục vụ gì cả. Ngược lại thì

dường như chỉ giống phục vụ nhưng tôi phải

chịu đựng bệnh tật văn hoá tiếng Anh về lễ phép,

thân phận nô lệ và bất lực. Xin thầy bình luận về

điều này.

Câu hỏi này là từ Ma Prem Dasi. Prem Dasi thực tế

nghĩa là 'người phục vụ tình yêu'. Nhưng trong khi trao tính

sannyas cho cô ấy, tôi đã chủ ý dịch nó là 'trong phục vụ

tình yêu'. Cách dịch chính xác là 'người phục vụ tình yêu'.

Tôi đã dịch nó là 'trong phục vụ tình yêu' vì có lí do đấy.

Tôi muốn bạn trở nên càng phục vụ nhiều hơn, nhưng

tôi không muốn bạn trở thành người phục vụ. Người phục

vụ không phục vụ, chỉ có thầy mới phục vụ; người phục vụ

chỉ làm bổn phận của họ. Bổn phận là từ không hay, có hai

âm. Người ta phải làm điều đó; không có cái đẹp trong đó,

không có vui vẻ trong đó. Cho nên làm việc phục vụ nhưng

đừng bao giờ là người phục vụ; đấy là một điều.

Điều thứ hai: Khi bạn trở thành người phục vụ, bạn học

các thói quen. Phục vụ là quá trình tiếp diễn; trở thành

người phục vụ là đạt tới tính cách, tính cách chết cứng. Mọi

người biết bạn là người phục vụ quần chúng, mọi người

biết rằng người đó là người phục vụ.

Chẳng hạn, bạn đang đi qua đường, và bạn thấy một

ngôi nhà bốc cháy rồi bạn chạy xô tới, bạn cứu trẻ con sắp

chết. Nhưng bạn không phải làm việc đó; bạn không tìm

kiếm việc phục vụ công chúng nào đó. Bạn chỉ đi dạo sáng

sớm và ngôi nhà cháy. Bạn chẳng nghĩ gì về nó cả; chỉ có

tình huống và đáp ứng... Bạn đang trong phục vụ. Nhưng

người phục vụ thì nguy hiểm, bởi vì nếu người đó không

thể tìm được ai đó để phục vụ thì người đó sẽ buộc ai đó

phải được phục vụ.

Tôi đã từng nghe về một nhà truyền giáo Ki tô giáo,

người dạy học trò mình, những học trò ngày chủ nhật,

những đứa nhỏ con trai và con gái... ông ta dạy chúng làm

việc thiện, điều thiện, ít nhất thì cũng một tuần một lần.

Chủ nhật sau ông hỏi xem chúng đã làm được việc tốt nào

chưa, chúng đã phục vụ nhân dân chưa, chúng đã giúp đỡ

được ai chưa? Ba đứa trai đứng dậy và thầy rất hoan hỉ.

Trong ba mươi đứa ít nhất cũng có ba đứa... nhưng thế

cũng là phần trăm khá lớn rồi, bởi vì ai lắng nghe?

Thế là ông hỏi đứa thứ nhất, "Con đã làm gì? Kể cho

cả lớp nghe đi."

Còn đứa nhỏ đáp, "Thưa thầy, con đã giúp một bà già

qua đường ạ."

Nhà truyền giáo nói, "Tốt lắm. Bao giờ cũng phải chăm

sóc cho bà già."

Rồi ông hỏi đứa thứ hai, và đứa này trả lời, "Con cũng

giúp một bà già qua đường ạ."

Linh mục hơi phân vân... nhưng ông chẳng thấy có gì

đáng phân vân vì có biết bao bà già; có thể ông cũng gặp

một bà già nữa là.

Cho nên ông lại hỏi đứa thứ ba, và đứa thứ ba nói,

"Con cũng giúp một bà già qua phố ạ."

Thế là linh mục nói, "Nhưng thế thì dường như nhiều

quá - cả ba con đều giúp ba bà già sao?"

Chúng trả lời, "Dạ không ạ, không phải ba bà già mà

chỉ có một bà già thôi ạ. Chỉ có một bà ở đấy, tất cả chúng

con đều giúp bà ấy.

Rồi thầy nói, "Nhưng... phải cần tới cả ba đứa sao? Các

con nói rằng cần cả ba trò để giúp bà già đó sao?"

"Ngay cả có đến sáu đứa chúng con vẫn cảm thấy khó

khăn bởi vì bà ấy không muốn đi qua đường. Rất khó thưa

thầy nhưng chúng con đã làm được điều đó, bởi vì phải làm

cái gì đó! Bà ấy quả là rất giận dữ!"

Đừng bao giờ là người phục vụ, bằng không bạn sẽ

phải đi tìm kiếm. Và nếu bạn không thể tìm thấy một nơi

nào đó để phục vụ thì bạn sẽ rất giận dữ. Những người này

có khắp trên thế giới, những người phục vụ quần chúng; họ

là những người gây tác hại nhất. Họ tạo ra rất nhiều tác

hại... bởi vì khi mọi người không muốn được phục vụ thì

thế nữa họ vẫn cứ áp đặt phục vụ của họ. Họ phải áp đặt,

họ có đầu tư ở đó. Họ không thể cho phép một thế giới đẹp

đẽ tồn tại bởi vì điều gì sẽ xảy ra cho họ?

Thử nghĩ mà xem: không còn người hủi nữa, không

còn người ốm nữa, thì cũng không cần bệnh viện. Và tất cả

đều trở nên chứng ngộ - không cần trường học, không cần

trường cao đẳng và không cần tới đại học... Điều gì sẽ xảy

ra cho những người phục vụ quần chúng? Họ sẽ bắt đầu tự

tử. Chẳng còn ai để phục vụ nữa! Họ cần, họ sẽ xoay sở

cách nào đó để tạo ra tình huống mà họ còn có thể còn

phục vụ; toàn bộ uy tín của họ phụ thuộc vào điều đó. Đấy

là trò bản ngã.

Đó là lí do tại sao, bạn biết rõ... Tôi nhớ đích xác khi

tôi đặt tên sannyasin cho Prem Dasi: Tôi đã định dịch là

'người phục vụ tình yêu', thế rồi tôi nghĩ như thế sẽ sai. Từ

này có nghĩa như thế, và tôi đổi lại tôi gọi cô ấy là 'trong

phục vụ tình yêu'.

Hãy trong phục vụ, nhưng đừng làm cho phục vụ trở

thành tính cách của bạn. Tôi yêu những người sống không

có tính cách, những người sống hết khoảnh khắc nọ đến

khoảnh khắc kia, những người chỉ đáp ứng lại tình huống.

Bằng không bạn sẽ trong tù túng.

Và bạn cũng phải, Prem Dasi này. Bạn nói: "Tôi gần

như trong phục vụ tình yêu khi còn là chính mình mà

chẳng có ý định phục vụ gì cả." Hoàn toàn đúng. Đấy chính

là cách nó phải như thế. Khi bạn có ý định phục vụ, điều đó

không còn đẹp nữa, điều đó không còn là tình yêu nữa. Khi

bạn là chính bạn, hoàn toàn là bản thân bạn... từ độc lập đó,

từ con người đó nảy sinh ra tình yêu và bạn phục vụ mọi

người. Và không có cảm giác rằng bạn là người phục vụ

còn họ là chủ. Bạn đơn giản phục vụ bởi vì bạn có nhiều để

cho đến độ bạn phải chia sẻ; bạn tuôn chảy trong chia sẻ,

trong tình yêu, trong từ bi của bạn.

#6Câu hỏi cuối:

Osho kính yêu, lời nguyện đôi khi có hại

không?

Tôi chưa từng nghe nói về điều đó, chỉ trừ trong một

trường hợp. Đây là câu chuyện.

Hai cô gái cưới trong cùng một ngày và đưa chồng mới

cưới vào cũng một khách sạn tuần trăng mật. Bốn người

ngồi trong phòng đợi nghĩ vơ vẩn thấy mọi việc tầm

thường làm sao nếu tất cả họ đều lên giường vào giờ sớm

thế, nhưng sau một lúc họ quyết định rằng con gái nên đi ra

theo hướng 'Quí bà' và rồi vào buồng mình, còn đàn ông sẽ

uống chén cuối tại quầy. Sau khoảng mười đến mười lăm

phút đàn ông sẽ ngẫu nhiên rời quầy theo cùng cách đó và

hội ngộ với cô dâu.

Tuy nhiên, ngay khi họ định đi theo các cô gái thì đèn

trong khách sạn vụt tắt - điều này làm họ bối rối trong toà

nhà lạ. Dầu vậy, mỗi người đều tin chắc mình có thể tìm

thấy phòng và thế là họ lên đường.

Harry mò mẫm lên cầu thang và đi dọc hành lang, đếm

cửa một cách cẩn thận theo cách của mình - vì anh ta là

người rất cẩn thận - và tìm thấy căn phòng. Để cho chắc

chắn, anh ta bật diêm và thấy một chút giấy rắc trên đầu

cầu thang. Rồi anh ta im lặng bước vào: anh ta cẩn thận cởi

quần áo, mặc bộ đồ ngủ, quì xuống và đọc lời nguyện, trèo

lên giường và bắt đầu làm tình.

Vào đúng lúc đó mọi đèn bật sáng và anh ta thấy rằng

mình đang trong 'đúng' phòng nhưng sai tầng, và đây là cô

dâu của người kia! Anh ta vồ lấy quần áo và vội vã chạy về

buồng mình - chỉ thấy rằng người đàn ông kia là một kẻ vô

thần!

Đủ cho hôm nay.

************************************************************

#7 Thông minh là thiền

Tâm trí, trí năng và những nội dung đã hình thành của

tâm trí đó đều là Cái đó, cho nên nó cũng là thế giới

và tất cả dường như chỉ khác biệt từ Cái đó, mọi thứ

đều có thể được cảm thấy và người cảm nhận cũng trì

trệ, ác cảm, ham muốn và chứng ngộ.

Giống như ngọn đèn chiếu sáng trong bóng tối của

dốt nát tâm linh, nó vứt bỏ sự mờ tối của tâm trí khi

đạt tới việc phân đoạn trí năng. Ai có thể tưởng tượng

bản thân vô ham muốn?

Không cái gì bị phủ định, không cái gì được khẳng

định hay hiểu thấu; vì Cái đó chẳng bao giờ quan

niệm được. Bằng cách phân đoạn trí năng sự lừa dối

bị cùm ; không phân chia và thuần khiết vẫn còn tự

nhiên.

Nếu bạn hỏi điều tối thượng với định đề về cái nhiều

và cái một thì tính một không được nêu ra vì bằng

cách siêu việt lên tri thức loài hữu tình được tự do. Sự

toả chiếu có hiệu lực tiềm tàng trong trí năng, và điều

này được thể hiện thành thiền; Tâm trí kiên định là

bản chất đúng đắn của chúng ta.

Tầm nhìn Mật tông là cách tiếp cận trực tiếp hướng về

Thượng đế, hướng tới thực tại, hướng tới cái đang đó. Nó

không có người giữa, không có người trung gian, nó không

có tu sĩ. Và Mật tông nói khoảnh khắc tu sĩ bước vào, tôn

giáo bị biến chất. Không phải là quỉ làm biến chất tôn giáo

mà chính là tu sĩ. Tu sĩ phụng sự cho quỉ.

Thượng đế chỉ có thể được tiếp cận tới theo cách trực

tiếp. Không thông qua trung gian. Bạn không thể đi qua

người khác bởi vì Thượng đế là sự tức khắc, Thượng đế là

ở đây bây giờ, đã bao quanh bạn. Bên trong, bên ngoài chỉ

Thượng đế hiện hữu.

Không cần phải tìm ai đó giúp cho bạn tìm thấy

Thượng đế. Bạn đã ở bên trong nó rồi, bạn chưa bao giờ xa

rời nó. Cho dù bạn muốn đi chăng nữa, bạn cũng không thể

xa rời được điều đó. Cho dù bạn hết sức cố gắng vẫn không

thể đi ra xa được. Chẳng có chỗ nào khác để đi, và chẳng

có gì khác để hiện hữu.

Mật tông không phải là tôn giáo theo nghĩa thông

thường bởi vì nó không có nghi lễ, nó không có tu sĩ, nó

không có kinh sách. Nó là cách tiếp cận cá nhân hướng tới

thực tại. Nó mang tính cực kì nổi dậy. Tin cậy của nó

không phải vào tổ chức, tin cậy của nó không phải vào

cộng đồng; tin cậy của nó là vào cá nhân. Mật tông tin vào

bạn.

Tôi đã từng nghe...

Sự việc xảy ra trong một cuộc họp gây quĩ cho Bily

Graham - một anh chàng đi thu số tiền công đức rồi anh ta

bắt đầu chia chác số tiền đó. Hai cảnh sát bắt quả tang anh

ta; họ đem anh ta tới Bily Graham. Tự nhiên Bily Graham

rất giận và nói với người này, "Món tiền này thuộc về

Thượng đế, còn anh định làm gì? Định lừa Thượng đế à?"

Người này đáp, "Thưa ông ấy, tôi lấy món tiền này

trong cố gắng để được tới gần Thượng đế hơn - tất nhiên

bằng cách vứt bỏ người trung gian."

Người trung gian chẳng cần chút nào. Thầy thực sự

chẳng bao giờ cố trở thành người trung gian; thầy không

phải như thế. Thầy không giúp bạn đạt tới Thượng đế, thầy

chỉ giúp bạn trở nên nhận biết về điều đã có đó. Thầy

không phải là cây cầu giữa bạn và Thượng đế, thầy chỉ là

cây cầu giữa chưa nhận biết và nhận biết của bạn. Khoảnh

khắc bạn trở nên nhận biết là bạn đã hội nhập trực tiếp với

Thượng đế, ngay lập tức, không có bất kì ai đứng giữa bạn

và Thượng đế.

Tầm nhìn Mật tông này là một trong những tầm nhìn vĩ

đại nhất mà con người đã từng mơ ước: tôn giáo không tu

sĩ, tôn giáo không đền đài, tôn giáo không tổ chức; tôn giáo

không phá huỷ cá nhân mà tôn trọng cá nhân vô biên, tôn

giáo tin cậy vào đàn ông và đàn bà thông thường. Và tin

cậy này đi rất sâu. Mật tông tin cậy vào thân thể bạn; không

tôn giáo nào khác tin cậy vào thân thể bạn. Và khi các tôn

giáo không tin cậy vào thân thể bạn, họ tạo ra chia chẻ giữa

bạn và thân thể bạn. Họ làm cho bạn trở thành kẻ thù của

thân thể mình, họ bắt đầu phá huỷ trí huệ của thân thể.

Mật tông tin cậy vào thân thể bạn. Mật tông tin cậy vào

giác quan của bạn. Mật tông tin cậy vào năng lượng của

bạn. Mật tông tin cậy vào bạn - trong toàn bộ. Mật tông

không phủ nhận điều gì mà biến đổi mọi thứ.

Làm sao đạt tới tầm nhìn Mật tông này? Đây là bản đồ

để mở bạn ra, để chuyển bạn vào trong và chuyển bạn vượt

ra ngoài.

Điều đầu tiên là thân thể. Thân thể là căn cứ của bạn,

nó là nền tảng của bạn, nó là nơi bạn tiếp đất. Làm cho bạn

đối kháng với thân thể là phá huỷ bạn, là làm cho bạn tinh

thần phân liệt, là làm cho bạn khổ, là tạo ra địa ngục. Bạn

là thân thể. Tất nhiên bạn còn là nhiều hơn thân thể, nhưng

cái 'nhiều hơn" đó sẽ theo sau. Điều đầu tiên, bạn là thân

thể. Thân thể là chân lí cơ sở của bạn, cho nên đừng bao

giờ chống thân thể. Bất kì khi nào bạn chống thân thể, bạn

đang chống Thượng đế. Bất kì khi nào bạn không tôn kính

thân thể mình bạn đều bị mất tiếp xúc với thực tại, bởi vì

thân thể bạn là nơi tiếp xúc của bạn, thân thể bạn là cây cầu

của bạn. Thân thể bạn là ngôi đền của bạn.

Mật tông dạy tôn kính thân thể, yêu thương, tôn trọng

thân thể, biết ơn thân thể. Thân thể là tuyệt diệu, nó là bí ẩn

vĩ đại nhất trong các bí ẩn.

Nhưng bạn đã được dạy chống lại thân thể. Cho nên

đôi khi bạn bị quá bối rối bởi cây cối, bởi cây xanh; đôi khi

bạn bị bối rối bởi mặt trăng và mặt trời, đôi khi bị bối rối

bởi bông hoa - nhưng chưa bao giờ bị bối rối bởi thân thể

riêng của mình. Và thân thể bạn là hiện tượng phức tạp

nhất trong sự tồn tại. Không hoa nào, cây nào có thân thể

đẹp như thân thể bạn; không mặt trăng, không mặt trời

không vì sao nào có cơ cấu tiến hoá như bạn có.

Bạn đã được dạy thấy rõ bông hoa, vốn là một vật đơn

giản. Bạn đã được dạy thấy rõ cái cây, cũng là một vật đơn

giản. Bạn cũng đã từng được dạy để hiểu thấu hòn đá, tảng

đá, núi non, sông ngòi, nhưng bạn chưa bao giờ được dạy

để kính trọng thân thể mình, chưa bao giờ bối rối về nó.

Vâng, nó rất gần gũi, cho nên rất dễ dàng quên mất nó. Nó

rất hiển nhiên, cho nên dễ dàng bỏ qua nó. Nhưng đấy là

hiện tượng đẹp đẽ nhất.

Nếu bạn ngắm hoa, mọi người sẽ nói, "Thẩm mĩ làm

sao!" Còn nếu bạn nhìn vào khuôn mặt đẹp của một phụ nữ

hay khuôn mặt đẹp của một đàn ông, mọi người sẽ nói,

"Đấy là thèm khát." Nếu bạn đi tới cái cây và đứng đó rồi

nhìn đắm đuối bông hoa - mắt bạn mở to, giác quan bạn mở

to để cho phép cái đẹp của hoa đi vào trong bạn - mọi

người sẽ nghĩ bạn là nhà thơ hay hoạ sĩ hay nhà huyền

môn. Nhưng nếu bạn đi tới người đàn bà hay đàn ông và

chỉ đứng đó với tôn kính và ngưỡng mộ, rồi nhìn người đàn

bà hay đàn ông đó bằng đôi mắt mở to và giác quan bạn

uống lấy cái đẹp của người đó, cảnh sát sẽ tóm cổ bạn.

Chẳng ai sẽ nói rằng bạn là nhà huyền môn, nhà thơ; chẳng

ai sẽ đánh giá cao điều bạn đang làm.

Cái gì đó đã đi sai. Nếu bạn đi tới người lạ trên phố và

bạn nói, "Mắt em đẹp làm sao!" bạn sẽ cảm thấy ngượng,

người đó cũng cảm thấy ngượng. Người đó sẽ không thể

nói cám ơn bạn được. Thực tế người đó sẽ cảm thấy đề

phòng. Người đó sẽ cảm thấy cần đề phòng, bởi vì bạn là ai

mà can thiệp vào cuộc đời riêng của người đó? Bạn là ai

mà dám làm việc đó? Nếu bạn tới và chạm vào cây, cây sẽ

cảm thấy sung sướng. Nhưng nếu bạn tới và chạm vào một

người, người đó sẽ cảm thấy đề phòng. Điều gì đã đi sai?

Cái gì đó đã bị phá hỏng rất lớn lao và rất sâu sắc.

Mật tông dạy bạn giành lại tôn trọng cho thân thể, tình

yêu cho thân thể. Mật tông dạy bạn nhìn vào thân thể như

sáng tạo vĩ đại nhất của Thượng đế. Mật tông là tôn giáo

của thân thể. Tất nhiên nó còn đi cao hơn, nhưng nó chưa

bao giờ rời bỏ thân thể; nó tiếp đất ở đấy. Nó là tôn giáo

duy nhất thực sự bắt rễ vào mặt đất: nó có gốc rễ. Các tôn

giáo khác là cây đã bị bật gốc rễ - chết, mờ đục, chết dần;

nhựa sống không chảy trong chúng. Mật tông là nhựa sống

thật, rất sinh động.

Điều đầu tiên là phải học tôn trọng thân thể, dỡ bỏ mọi

điều vô nghĩa bạn đã từng được học về thân thể. Bằng

không bạn sẽ chẳng bao giờ mở được nó, chẳng bao giờ đi

vào được nó và chẳng bao giờ vượt ra ngoài nó.

Bắt đầu từ đầu. Thân thể là chỗ bắt đầu của bạn. Thân

thể cần được làm thuần khiết khỏi nhiều kìm nén. Thanh

tâm lớn lao là cần cho thân thể, một rechana lớn. Thân thể

đã bị đầu độc bởi vì bạn đã từng chống lại nó, bạn đã kìm

nén nó theo nhiều cách. Thân thể bạn tồn tại ở mức tối

thiểu, đó là lí do tại sao bạn khổ.

Mật tông nói: Phúc lạc có thể có chỉ khi bạn tồn tại ở

mức tối đa, chưa bao giờ có trước đó. Phúc lạc là có thể có

chỉ khi bạn sống thật mãnh liệt. Làm sao bạn có thể sống

thật mãnh liệt nếu bạn đang chống lại thân thể? Bạn bao

giờ cũng hờ hững, ngọn lửa đã lạnh dần. Qua nhiều thế kỉ,

ngọn lửa đã bị lụi tàn. Cần phải nhen nhóm lại ngọn lửa.

Mật tông nói: Trước hết là phải làm thuần khiết thân

thể - làm thuần khiết nó khỏi mọi kìm nén. Cho phép năng

lượng thân thể được tuôn chảy, vứt bỏ mọi khối chắn. Rất

khó bắt gặp người không có khối chắn, rất khó bắt gặp

người có thân thể không bị kiềm chế. Nới lỏng kiềm chế

này ra; căng thẳng này đang ngăn cản năng lượng của bạn,

tuôn chảy không thể có được trong căng thẳng đó. Tại sao

mọi người phải bồn chồn đến thế? Tại sao bạn không thể

thảnh thơi được? Bạn có thấy mèo ngủ không, đang mơ

màng buổi trưa? Con mèo thảnh thơi đơn giản và đẹp đẽ

làm sao. Bạn không thể thảnh thơi theo cùng cách được

sao? Bạn xoay và lật mình trên giường; bạn không thể

thảnh thơi được. Và cái đẹp của thảnh thơi ở con mèo là ở

chỗ nó thảnh thơi hoàn toàn và vẫn tỉnh táo hoàn hảo. Một

thoáng chuyển động trong phòng nó sẽ mở mắt, nó sẽ nhổm

lên và sẵn sàng. Đấy không đơn giản ngủ. Giấc ngủ của con

mèo là cái gì đó cần phải học; con người đã quên mất.

Mật tông nói: Học mèo - cách nó ngủ, cách nó thảnh

thơi, cách nó sống không căng thẳng. Và toàn bộ thế giới

con vật cũng đều sống theo cách thức không căng thẳng

như thế. Con người phải học điều này, bởi vì con người đã

bị huấn luyện sai, con người đã bị lập chương trình sai.

Ngay từ thời trẻ thơ bạn đã được lên chương trình rất

chặt chẽ. Bạn không thở... vì sợ. Vì sợ dục nên mọi người

không thở, bởi vì khi bạn thở sâu, nhịp thở của bạn đi thẳng

tới trung tâm dục và tác động vào nó, cọ sát nó ở bên trong,

kích động nó. Vì bạn đã được dạy rằng dục là nguy hiểm

nên mỗi đứa trẻ bắt đầu thở nông, trì hoãn hơi thở trong

lồng ngực. Nó chẳng bao giờ vượt ra ngoài điều đó bởi vì

nếu nó vượt ra thì bỗng nhiên sẽ có kích động; dâm dục nảy

sinh và nỗi sợ nảy sinh. Khoảnh khắc bạn thở sâu, năng

lượng dục được thả ra. Năng lượng dục phải được thả ra,

nó phải chảy khắp con người bạn. Thế thì thân thể bạn sẽ

trở nên cực kì sảng khoái. Nhưng sợ thở, sợ đến mức gần

như một nửa phổi bạn đầy khí các bô níc...

Có nhiều, nhiều nghìn lỗ nhỏ trong phổi và thông

thường năm mươi phần trăm lỗ này chẳng bao giờ được

sạch, chúng bao giờ cũng vẫn còn đầy khí các bô níc. Đó là

lí do tại sao bạn uể oải, đó là lí do tại sao bạn không có vẻ

tỉnh táo, đó là lí do tại sao nhận biết lại khó khăn. Không

phải ngẫu nhiên mà Yoga và Mật tông cả hai đều dạy về

thở sâu, pranayama, để dỡ bỏ khí các bô níc ra khỏi phổi

bạn. Khí các bô níc không phải là dành cho bạn; nó phải bị

tống ra liên tục. Bạn phải hít khí trong lành mới; bạn phải

hít vào nhiều ô xi. Ô xi sẽ tạo ra ngọn lửa bên trong của

bạn, ô xi sẽ làm cho bạn thành ngọn lửa. Nhưng ô xi cũng

làm bùng lên dục của bạn. Cho nên chỉ có Mật tông mới có

thể cho phép bạn thực sự thở sâu; ngay cả Yoga cũng

không cho phép bạn thực sự thở sâu. Yoga cho phép bạn đi

tới rốn - không được vượt quá nơi đó, không được vượt qua

trung tâm hara, không được vượt qua swadhishthan, bởi vì

một khi bạn vượt qua swadhishthan, bạn sẽ nhảy vào trong

muladhar.

Chỉ Mật tông mới cho phép bạn là toàn bộ bản thể và

toàn bộ luồng chảy. Mật tông cho bạn tự do vô điều kiện;

dù bạn là bất kì cái gì và dù bạn có thể là bất kì cái gì, Mật

tông không đặt giới hạn nào lên bạn. Nó không xác định

bạn, nó đơn giản cho bạn tự do toàn bộ. Hiểu biết là ở chỗ

khi bạn được hoàn toàn tự do nhiều điều là có thể.

Điều này đã là quan sát của tôi, rằng những người kìm

nén dục trở thành không thông minh. Chỉ những người sinh

động rất, rất nhiều tính dục mới là người thông minh. Bây

giờ ý tưởng rằng dục là tội lỗi làm hư hoại thông minh, làm

hư hoại nó tồi tệ lắm. Khi bạn thực sự tuôn chảy và dục của

bạn không phải tranh đấu và xung khắc với bạn, khi bạn

hợp tác với nó, tâm trí bạn sẽ vận hành ở mức tối đa. Bạn

sẽ thông minh, tỉnh táo và sống động.

Thân thể cần phải được đối xử tốt, Mật tông nói vậy.

Bạn đã có lần nào chạm vào thân thể mình chưa? Bạn

đã bao giờ cảm thấy thân thể riêng của mình chưa, hay bạn

vẫn còn dường như được đóng hộp trong một thứ chết

cứng? Đó chính là điều vẫn xảy ra: người ta gần như đông

cứng; họ đang mang thân thể tựa như cái quan tài. Nó nặng

nề, nó vướng víu, nó chẳng giúp gì cho bạn liên lạc với

thực tại. Nếu bạn cho phép điện của thân thể chạy từ ngón

chân cái tới đầu, nếu bạn cho phép năng lượng của thân thể

- sinh năng - được tự do hoàn toàn, bạn sẽ trở thành dòng

sông và bạn sẽ không cảm thấy thân thể chút nào. Bạn sẽ

cảm thấy gần như vô thân thể. Không phải tranh đấu với

thân thể, bạn trở thành vô thân thể. Tranh đấu với thân thể,

thân thể trở thành gánh nặng, và với việc mang thân thể

như gánh nặng bạn chẳng bao giờ đến được Thượng đế.

Thân thể phải trở thành vô trọng lượng để cho bạn gần

như bắt đầu bước trên đất; đó là cách Mật tông bước. Bạn

vô trọng lượng đến mức không còn trọng lực nữa, bạn đơn

giản có thể bay. Nhưng điều đó chỉ đến từ chấp nhận lớn

lao. Nhưng điều khó là chấp nhận được thân thể bạn. Bạn

lên án nó, bạn bao giờ cũng thấy lỗi ở nó. Bạn chưa bao giờ

đánh giá cao nó, bạn chưa bao giờ yêu nó, và rồi bạn muốn

một phép màu - rằng ai đó sẽ tới và yêu thân thể bạn. Nếu

bản thân bạn không thể yêu được nó, làm sao bạn tìm được

ai khác yêu thân thể bạn? Nếu bản thân bạn không thể yêu

được nó thì chẳng ai sẽ yêu được thân thể bạn, bởi vì rung

động của bạn sẽ làm cho mọi người bị đẩy ra.

Bạn yêu một người, người đó yêu bản thân mình, chẳng

bao giờ có điều ngược lại. Tình yêu đầu tiên phải hướng về

chính mình; chỉ có từ trung tâm đó mà các loại tình yêu

khác mới có thể nảy sinh. Bạn không yêu thân thể mình,

bạn che giấu nó theo cả nghìn lẻ một cách. Bạn giấu mùi

thân thể mình, bạn giấu thân thể mình trong quần áo, bạn

giấu thân thể mình trong cách trang điểm. Bạn cố tạo ra cái

đẹp nào đó mà bạn liên tục cảm thấy mình đang mất đi, và

trong đó chính mọi nỗ lực của bạn trở thành giả tạo.

Bây giờ nghĩ về người đàn bà với son dầy bự trên

môi... điều đó cực kì xấu xí. Môi nên có mầu đỏ bắt nguồn

từ vẻ sống động, chúng không nên bị tô vẽ loè loẹt. Chúng

nên sinh động từ tình yêu, chúng nên sinh động bởi vì bạn

sinh động. Bây giờ chỉ vẽ lên môi, và bạn nghĩ rằng bạn

làm mình đẹp lên. Chỉ những người rất ý thức về cái xấu

của mình mới đi tới mĩ viện, bằng không thì họ đã chả cần.

Bạn đã bao giờ đi qua một con chim xấu chưa? Bạn đã

bao giờ đi qua một con hươu xấu chưa? Điều ấy chưa bao

giờ xảy ra. Chúng chẳng bao giờ đi tới mĩ viện nào, và

chúng cũng chẳng tư vấn chuyên gia; chúng đơn giản chấp

nhận bản thân chúng và chúng đẹp trong chấp nhận của

chúng. Chính trong chấp nhận đó mà chúng tự phô bầy cái

đẹp.

Khoảnh khắc bạn chấp nhận bản thân mình bạn trở

thành đẹp. Khi bạn vui thích với thân thể của chính mình

bạn sẽ vui thích người khác nữa. Nhiều người sẽ yêu bạn

bởi vì bản thân bạn đang yêu chính mình. Bây giờ bạn giận

với chính mình; bạn biết rằng bạn xấu, bạn biết rằng bạn

kinh tởm, đáng ghét. Ý tưởng này sẽ đẩy mọi người ra xa; ý

tưởng này sẽ không giúp cho họ yêu bạn, nó sẽ làm cho họ

xa lánh bạn. Cho dù họ đang đến gần bạn hơn, khoảnh khắc

họ cảm thấy rung động của bạn, họ sẽ lảng ra xa. Chẳng

cần phải săn đuổi ai, việc săn đuổi chỉ nảy sinh bởi vì

chúng ta không yêu chính mình. Bằng không thì mọi người

đã tới... họ gần như không thể nào không yêu bạn được nếu

bạn đang yêu chính mình. Tại sao bao nhiêu người đến với

Phật, và tại sao bao nhiêu người đến với Saraha, và tại sao

bao nhiêu người đến với Jesus? Những người này đang

trong tình yêu với chính họ. Họ đã trong tình yêu lớn và họ

vui thích với bản thể họ đến mức tự nhiên bất kì ai đi qua

cũng đều bị kéo vào họ; giống như lực hút họ sẽ kéo lại. Họ

say mê với bản thể của chính họ, làm sao bạn có thể tránh

được say mê đó? Chỉ cần ở đấy là cũng đủ phúc lạc lớn lao

thế.

Mật tông dạy điều đầu tiên: Yêu lấy thân thể bạn, thân

thiết với thân thể bạn, tôn kính thân thể bạn, tôn trọng thân

thể bạn, chăm sóc thân thể bạn. Nó là món quà của Thượng

đế: đối xử tốt với nó và nó sẽ để lộ những bí ẩn lớn cho

bạn. Mọi trưởng thành đều phụ thuộc vào cách bạn quan hệ

với thân thể mình.

Và rồi điều thứ hai Mật tông nói tới là giác quan. Lần

nữa, các tôn giáo đều chống giác quan; họ cố làm cùn các

giác quan và tính nhạy cảm. Còn các giác quan là cửa ngõ

cảm nhận của bạn, các giác quan là cửa sổ mở vào thực tại.

Mắt bạn là gì? Tai bạn là gì? Mũi bạn là gì? Là cửa sổ mở

vào thực tại, cửa sổ mở vào Thượng đế. Nếu bạn nhìn

đúng, bạn sẽ thấy Thượng đế ở mọi nơi. Cho nên mắt

không được nhắm, mắt phải mở đúng; mắt phải không bị

phá huỷ. Tai phải không bị phá huỷ, bởi vì mọi âm thanh

đều thiêng liêng.

Những con chim này đang hót mật chú. Những cây này

đang cho các bài thuyết pháp trong im lặng. Mọi âm thanh

đều là của ngài, mọi hình dạng đều là của ngài. Cho nên

nếu bạn không có nhạy cảm trong mình, làm sao bạn biết

Thượng đế? Và bạn phải đi nhà thờ, đến đền đài để tìm

ngài... còn ngài ở mọi chỗ. Trong ngôi đền nhân tạo, trong

nhà thờ nhân tạo, bạn đi tìm thấy Thượng đế sao? Con

người dường như quá đần độn. Thượng đế ở mọi nơi, sống

động và khoẻ mạnh khắp nơi. Nhưng để có được điều đó

bạn cần giác quan sạch sẽ, giác quan được thuần khiết.

Cho nên Mật tông dạy rằng giác quan là cửa ngõ của

cảm nhận. Chúng đã bị mờ đục, bạn phải vứt bỏ mờ đục

đó; giác quan của bạn phải được lau sạch. Giác quan của

bạn giống như tấm gương đã trở nên mờ xỉn bởi vì biết bao

bụi bặm đã tụ đọng lên đó; cần phải lau sạch bụi đi.

Nhìn vào cách tiếp cận của Mật tông về mọi điều. Tôn

giáo khác nói: Làm cùn giác quan đi, giết việc nếm của

bạn! Còn Mật tông nói: Nếm trải Thượng đế theo mọi

hương vị. Tôn giáo khác nói: Giết chết khả năng sờ của

bạn. Còn Mật tông nói: Tuôn chảy toàn bộ trong việc sờ

của bạn, bởi vì bất kì cái gì bạn chạm tới đều thiêng liêng

cả. Điều này hoàn toàn ngược lại với cái gọi là các tôn

giáo, nó là cuộc cách mạng triệt để - từ tận gốc rễ.

Sờ, ngửi, nếm, nhìn, nghe toàn bộ nhất có thể được đi.

Bạn sẽ phải học ngôn ngữ này bởi vì xã hội đã lừa phỉnh

bạn, nó làm cho bạn quên mất. Mỗi đứa trẻ được sinh ra

đều có giác quan đẹp. Quan sát đứa trẻ... khi nó nhìn vào

cái gì đó, nó hoàn toàn bị cuốn hút theo vật đó, khi nó chơi

với đồ chơi, nó hoàn toàn bị cuốn hút theo đồ chơi. Khi nó

nhìn, nó trở thành chỉ còn đôi mắt. Nhìn vào đôi mắt đứa

trẻ ấy. Khi nó nghe, nó trở thành chỉ còn đôi tai. Khi nó ăn

cái gì đó, nó chỉ còn đó trên đầu lưỡi, nó trở thành việc

nếm. Xem đứa trẻ ăn táo - khoái trá làm sao! tràn đầy năng

lượng làm sao! thích thú làm sao! Nhìn đứa trẻ tung tăng

đuổi bướm trong vườn... cuốn hút đến độ cho dù Thượng

đế có đấy, ngài cũng không chạy được theo cách đó. Một

trạng thái thiền, mênh mông làm sao - chẳng phải cố gắng

gì. Nhìn đứa trẻ đi nhặt vỏ sò trên bãi biển cứ như là nó đi

nhặt kim cương. Mọi thứ đều quí giá khi các giác quan

sống động, mọi thứ đều rõ ràng khi giác quan sống động.

Về sau trong cuộc đời cũng đứa trẻ đó sẽ nhìn vào thực

tại dường như bị ẩn đằng sau tấm kính tối. Biết bao khói và

bụi đã tụ đọng lên tấm kính và bạn ẩn đằng sau nó rồi bạn

nhìn. Bởi điều này, mọi thứ trông xám xịt và chết. Bạn nhìn

vào cây và cây có vẻ xám xịt bởi vì mắt bạn chỉ thấy lờ mờ.

Bạn nghe bài hát, nhưng chẳng thấy quyến rũ trong đó bởi

vì tai bạn nghễnh ngãng. Bạn có thể nghe Saraha và bạn sẽ

không thể nào đánh giá cao được ông ấy, bởi vì trí thông

minh của bạn bị ù lì.

Giành lại ngôn ngữ bị lãng quên của bạn đi. Bất kì khi

nào bạn có thời gian, dành nhiều hơn cho giác quan của

bạn. Khi ăn, đừng chỉ ăn; cố học lại ngôn ngữ bị lãng quên

của vị giác - cố đi. Sờ vào bánh mì, cảm thấy đường viền

của nó; cảm thấy với đôi mắt mở, cảm thấy với đôi mắt

nhắm. Trong khi ăn, nhai nó - bạn đang nhai Thượng đế.

Nhớ điều đó! Nếu không nhai kĩ, nếu không nếm kĩ, đó sẽ

là không kính trọng. Để cho nó thành lời nguyện, và bạn sẽ

bắt đầu làm nảy sinh tâm thức mới trong bạn. Bạn sẽ học

được cách luyện kim đan của Mật tông.

Chạm nhiều vào mọi người. Chúng ta đã trở nên rất

nhạy cảm về việc chạm. Nếu ai đó đang nói về bạn và đến

quá gần, bạn bắt đầu lùi lại. Chúng ta bảo vệ lãnh thổ của

mình. Chúng ta không chạm và chúng ta cũng không cho

phép người khác được chạm; chúng ta không nắm tay,

chúng ta không ôm ghì. Chúng ta không tận hưởng con

người của nhau.

Đi đến cây, chạm vào cây. Chạm vào tảng đá. Đi ra

sông, để cho sông luồn qua tay bạn. Cảm lấy nó! Bơi, và

cảm thấy nước như cá cảm thấy nước. Đừng bỏ lỡ bất kì cơ

hội nào làm sống lại giác quan của bạn. Và có cả nghìn lẻ

một cơ hội trong cả ngày. Chẳng cần phải có thời gian tách

biệt cho nó. Cả ngày là huấn luyện trong nhạy cảm. Dùng

tất cả các cơ hội. Ngồi dưới vòi hoa sen, dùng cơ hội này -

cảm thấy cái chạm của từng giọt nước rơi lên bạn. Nằm dài

trên mặt đất, trần trụi, cảm thấy đất. Nằm trên bãi biển, cảm

thấy cát. Lắng nghe âm thanh của cát, lắng nghe âm thanh

của biển. Dùng mọi cơ hội; chỉ thế thì bạn mới có khả năng

học lại được ngôn ngữ của các giác quan. Và Mật tông

cũng chỉ có thể được hiểu khi thân thể bạn sống động và

giác quan bạn cảm lại được.

Giải phóng các giác quan của bạn khỏi thói quen. Thói

quen là một trong những nguyên nhân gốc rễ của trì trệ; tìm

ra các cách thức mới để làm mọi điều. Phát minh ra những

cách thức mới để yêu. Người ta chúa hay sợ...

Tôi đã từng nghe...

Bác sĩ nói với người đang làm việc rằng anh không thể

hoàn tất xét nghiệm nếu thiếu một mẫu nước tiểu. Một đứa

nhỏ được sai đem ống mẫu nước tiểu đi xét nghiệm nhưng

nó đã đánh đổ phần lớn mẫu này trong khi chạy lăng xăng.

Sợ bị ăn trận đòn nên thân, nó đổ đầy ắp ống đựng bằng

nước tiểu bò trên cánh đồng.

Bác sĩ vội vàng cho mời người nông dân tới. Người này

trở về nhà với vợ trong tâm trạng giận dữ và nói, “Tại em

và cái thói đồng bóng của em! Em bao giờ cũng trên hết,

phải không? Và bây giờ tôi sắp có một đứa bé!"

Mọi người thường có thói quen cố định. Nay cả khi làm

tình họ bao giờ cũng làm theo một tư thế - tư thế truyền

giáo. Tìm ra cách thức cảm giác mới đi. Mỗi kinh nghiệm

đều phải được tạo ra với sự nhạy cảm lớn. Khi bạn làm tình

với người đàn bà hay đàn ông, làm cho điều đó trở thành lễ

hội lớn, và mỗi lần lại đem đôi chút sáng tạo mới vào trong

nó. Đôi khi nhảy múa trước khi bạn làm tình, đôi khi cầu

nguyện trước khi làm tình, đôi khi chạy vào trong rừng, rồi

làm tình. Đôi khi đi bơi và rồi làm tình. Thế thì mỗi kinh

nghiệm yêu sẽ tạo ra ngày càng nhiều nhạy cảm trong bạn

và tình yêu sẽ chẳng bao giờ buồn tẻ và chán ngắt.

Tìm ra những cách thức mới để khám phá người khác,

đừng gắn cố định vào thói quen. Mọi thói quen đều phản

cuộc sống: thói quen chỉ phục vụ cho cái chết. Và bạn bao

giờ cũng có thể phát minh - không có giới hạn nào cho phát

minh cả. Đôi khi chỉ một thay đổi nhỏ bạn cũng đã cực kì

được lợi. Bạn bao giờ cũng ăn tại bàn - đôi khi nên đi ra bãi

cỏ, ngồi trên bãi cỏ và ăn ở đấy, và bạn sẽ rất đỗi ngạc

nhiên: đấy là một kinh nghiệm hoàn toàn khác. Mùi vị cỏ

tươi mới cắt, chim chóc nhảy nhót và hót xung quanh,

không khí trong lành và tia nắng mặt trời, và cảm thấy cỏ

ẩm bên dưới... đấy không thể cùng là kinh nghiệm như khi

bạn ngồi trên ghế và ăn trên bàn. Đấy là một kinh nghiệm

hoàn toàn khác, tất cả các hợp phần đều khác.

Đôi khi bạn cũng nên thử ăn và cởi trần, và bạn sẽ ngạc

nhiên. Chỉ một thay đổi nhỏ - chẳng có gì nhiều, bạn đang

ngồi trần trụi - nhưng bạn sẽ có một kinh nghiệm hoàn toàn

khác, bởi vì cái gì đó mới đã thêm vào đó. Nếu bạn vẫn ăn

bằng thìa và dĩa, đôi khi ăn bốc đi và bạn sẽ có một kinh

nghiệm khác; cái chạm sẽ đem hơi ấm mới cho thức ăn.

Thìa là vật chết; khi bạn ăn bằng thìa hay dĩa, bạn còn ở xa.

Đấy cũng là nỗi sợ chạm vào mọi thứ - ngay cả thức ăn

cũng không thể được chạm vào. Bạn sẽ lỡ mất hình khối

chúng, cái chạm, cái cảm giác về nó. Thức ăn có nhiều cảm

giác cũng như nó có hương vị.

Nhiều thực nghiệm đã được tiến hành ở phương Tây về

sự kiện là khi chúng ta đang thưởng thức thứ gì đó, có rất

nhiều thứ khác mà chúng ta không nhận biết cũng đang góp

phần cho kinh nghiệm đó. Chẳng hạn, nhắm mắt và bịt cả

mũi nữa rồi ăn hành. Bảo ai đó đưa hành cho bạn khi bạn

không biết người đó đưa gì - hành hay táo. Và bạn sẽ thấy

rất khó phân biệt nếu mũi đã hoàn toàn bị bịt kín, mắt thì

nhắm tịt, bị che đi. Bạn sẽ không thể nào xác định được đấy

là hành hay táo, bởi vì nếm không chỉ là nếm; năm mươi

phần trăm nếm đến từ mũi, và phần lớn thì đến từ mắt. Đấy

không chỉ là nếm, mọi giác quan đều có đóng góp vào. Khi

bạn ăn bốc, cái chạm của bạn cũng đóng góp vào. Nó sẽ

thêm vị, nó sẽ thêm nhân tính, thêm tự nhiên.

Tìm ra những cách thức mới trong mọi thứ. Để cho nó

là một trong những sadhanas của bạn. Mật tông nói: Nếu

bạn có thể cứ phát hiện ra những cách thức mới hàng ngày

cuộc đời bạn sẽ vẫn còn là xúc động, phiêu lưu. Bạn sẽ

không bao giờ chán. Người chán là người phi tôn giáo. Bạn

bao giờ cũng sẽ tò mò để biết, bạn bao giờ cũng ở ven bờ

tìm kiếm cái chưa biết, cái không quen thuộc. Mắt bạn sẽ

vẫn còn trong trẻo, các giác quan của bạn vẫn còn trong

trẻo, bởi vì khi bạn bao giờ cũng ven bờ tìm kiếm, thám

hiểm, phát hiện, dò tìm, bạn không thể trở thành trì trệ

được, bạn không thể trở thành ngu xuẩn được. Chẳng đứa

trẻ con nào ngu xuẩn cả; chỉ về sau mọi người mới trở nên

ngu xuẩn.

Các nhà tâm lí nói rằng đến bẩy tuổi ngu xuẩn bắt đầu

có. Nó bắt đầu quãng bốn tuổi nhưng đến năm thứ bẩy nó

mới rất, rất rõ ra. Trẻ con bắt đầu trở nên ngu ở bẩy tuổi.

Trong thực tế trẻ con học được năm mươi phần trăm của tất

cả những gì học được trong toàn bộ cuộc đời trước lúc nó

bẩy tuổi. Nếu nó sống bẩy mươi năm, trong sáu mươi ba

năm còn lại nó sẽ chỉ học được năm mươi phần trăm - năm

mươi phần trăm kia nó đã học rồi. Điều gì xảy ra? Nó trở

thành trì trệ, nó dừng việc học. Nếu bạn nghĩ dưới dạng

thông minh, đến bẩy tuổi đứa trẻ bắt đầu trở nên già.

Khoảnh khắc đứa trẻ nghĩ, "mình biết," nó đã bắt đầu trở

nên già. Về thể chất nó sẽ trở nên già muộn hơn - khoảng

từ độ tuổi ba lăm nó sẽ bắt đầu suy giảm - nhưng về mặt

tinh thần, nó đã trên đường suy giảm.

Bạn sẽ ngạc nhiên biết rằng tuổi tinh thần của bạn, tuổi

tinh thần trung bình, là mười hai tuổi. Mọi người không

trưởng thành bên ngoài tuổi đó, họ mắc kẹt ở đó. Đó là lí

do tại sao bạn thấy có nhiều tính trẻ con đến thế trên thế

giới. Cứ thử xúc phạm một người sáu mươi mà xem, trong

giây lát ông ta chỉ như đứa trẻ mười hai tuổi. Và ông ta sẽ

đối xử theo cách mà bạn không thể nào tin được rằng người

lớn như thế mà lại có thể đối xử theo cách trẻ con đến thế.

Mọi người bao giờ cũng sẵn sàng rút lui. Tuổi tinh thần của

họ chỉ hời hợt ngoài da, bị che giấu đằng sau; chỉ cạo sơ

qua một chút xíu là tuổi tinh thần của họ lòi ra ngay. Tuổi

thể chất của họ không quan trọng lắm. Người ta chết đi mà

vẫn còn trẻ con; họ chưa bao giờ trưởng thành.

Mật tông nói: Học cách thức mới khi làm mọi điều và

giải phóng tối đa bản thân bạn khỏi các thói quen. Và Mật

tông còn nói: Đừng bắt chước, bằng không các giác quan

của bạn sẽ bị cùn đi. Đừng bắt chước! Tìm ra cách thức làm

mọi điều theo cách riêng của bạn; đặt dấu ấn của bạn vào

mọi thứ bạn làm.

Mới đêm hôm nọ một cô sannyasin, vừa quay lại, đã

nói rằng tình yêu giữa cô ta và chồng cô ta đã biến mất.

Bây giờ họ bám vào nhau chỉ vì con cái. Tôi bảo cô ấy suy

tư, thân thiện với chồng đi. Nếu tình yêu đã biến mất, tất cả

mọi thứ không biến mất đâu; tình bạn vẫn là có thể - cứ

thân thiện đi. Còn cô ấy nói, "Khó lắm. Khi cái cốc đã vỡ

thì nó vỡ rồi còn đâu."

Tôi bảo cô ấy rằng dường như là cô ấy còn chưa nghe

chuyện thiền nhân ở Nhật bản hay mua cốc ở siêu thị, đem

về nhà và trước tiên đập vỡ nó ra, rồi dán nó lại để làm cho

nó có tính cá thể và đặc biệt - bằng không nó vẫn chỉ là thứ

đồ chợ. Và nếu một người bạn tới và bạn mời người đó

uống trà trong chiếc cốc và đĩa lót thông thường, như thế là

không tốt; như thế là xấu, như thế là không kính trọng. Cho

nên họ sẽ đem một chiếc cốc mới ra và đập vỡ nó. Tất

nhiên không có cái cốc nào nữa trên thế gian này hoàn toàn

giống nó, không thể có được. Được dán lại với nhau, bây

giờ nó có tính cá thể, có dấu ấn. Và khi thiền nhân đến nhà

nhau hay đến đạo tràng của nhau, họ sẽ không chỉ nhấm

nháp trà. Trước tiên họ sẽ đánh giá chiếc cốc, họ sẽ nhìn

vào nó. Cách thức nó được gắn với nhau là một tác phẩm

nghệ thuật - cách thức các mảnh đã bị vỡ ra và rồi được gắn

lại lần nữa.

Người đàn bà đã hiểu, cô ta bắt đầu cười. Cô ấy nói,

"Thế thì điều ấy là có thể."

Đem tính cá thể vào trong mọi điều đi, đừng chỉ là

người bắt chước. Bắt chước là làm lỡ cuộc đời.

Tôi đã từng nghe...

Mulla Nasruddin có một con vẹt rất động cỡn. Con vẹt

luôn nói những điều xuẩn ngốc, đặc biệt bất kì khi nào có

khách, và Mulla rất lo lắng; sự việc ngày càng khủng khiếp.

Cuối cùng ai đó gợi ý anh ta rằng anh ta nên đem nó tới bác

sĩ thú y. Thế là anh ta đem con vẹt tới nhà bác sĩ thú y. Bác

sĩ khám toàn diện con vẹt và nói, "Này, Nasruddin, anh có

một con vẹt động cỡn. Tôi có một con chim cái xinh xắn,

trẻ trung. Anh chỉ cần mất mười lăm rupi là con vẹt của anh

có thể sang lồng con chim tôi được."

Con vẹt của Mulla dỏng tai nghe trong lồng. Còn Mulla

thì nói, "Lạy trời, tôi không biết... những mười lăm rupi cơ

à?"

Con vẹt liền nói, "Làm đi, làm đi, Nasruddin. Đồ chết

tiệt!"

Cuối cùng Mulla nói, "Thôi được," và trao cho bác sĩ

thú y mười lăm rupi. Bác sĩ lấy con vẹt ra, cho nó vào trong

lồng cùng với con chim cái và khép rèm lại. Hai người ra

ngoài ngồi nói chuyện. Có một thoáng chốc im lặng rồi

bỗng nhiên, "Quạ! Quạ! Quạ" Lông chim bay tung toé ra

khỏi bức màn.

Bác sĩ thú y nói, "Cứ thế được đấy!" rồi chạy lại mở

màn ra. Con chim đực đã đè con chim cái xuống bằng một

chân - còn chân kia thì đang dứt lông con chim cái ra và

kêu lên thích thú, "Với mười lăm rupi mà tao muốn mày

trần như nhộng, trần truồng!" Rồi thấy bác sĩ thú y và ông

chủ của nó, Mulla Nasruddin, nó thích thú the thé lên và

nói, "Này Nasruddin, đấy chẳng phải là cách ông cũng

thích người đàn bà của ông sao?"

Ngay cả vẹt cũng học được cách thức của con người,

cũng có thể trở thành kẻ bắt chước, cũng có thể trở thành

kẻ dễ bị kích thích thần kinh. Bắt chước là dễ bị kích thích

thần kinh. Cách duy nhất để lành mạnh trên thế giới này là

trở thành cá nhân, cá nhân chân chính. Là bản thể riêng của

bạn đi.

Điều thứ ba Mật tông nói là: Trước hết, thân thể phải

được làm thuần khiết khỏi mọi kìm nén. Thứ hai, các giác

quan phải được làm sống động trở lại. Thứ ba, tâm trí phải

vứt bỏ suy nghĩ kích thích thần kinh, suy nghĩ ám ảnh, và

phải học cách im lặng. Bất kì khi nào có thể được, thảnh

thơi đi. Bất kì khi nào có thể được, gạt tâm trí sang bên.

Bây giờ bạn sẽ nói, "Nói thì dễ nhưng làm sao mà gạt

được tâm trí sang bên? Nó cứ tiếp tục hoài." Có cách đấy.

Mật tông nói: Quan sát ba nhận biết này. Nhận biết một:

Quan sát. Cứ để tâm trí chạy, cứ để tâm trí chất đầy với

những ý nghĩ - bạn chỉ quan sát, tách rời. Chẳng cần phải lo

lắng về nó, chỉ quan sát. Chỉ là người quan sát, và dần dần

bạn sẽ thấy rằng lỗ hổng im lặng bắt đầu tới với bạn. Thế

rồi nhận biết hai: Khi bạn đã trở nên nhận biết rằng lỗ hổng

đó bắt đầu tới, trở nên nhận biết về người quan sát. Bây giờ

quan sát người quan sát và thế thì những lỗ hổng mới sẽ bắt

đầu tới - người quan sát sẽ bắt đầu tan biến, giống hệt như

ý nghĩ. Một ngày nào đó người nghĩ cũng bắt đầu tan biến

đi; thế thì cái im lặng thực sự nảy sinh. Với nhận biết ba, cả

đối thể và chủ thể đều ra đi; bạn đã đi vào cõi bên kia.

Khi ba điều này được đạt tới - thân thể được thuần

khiết khỏi các kìm nén, giác quan được thoát khỏi u ám,

tâm trí được giải phóng khỏi suy nghĩ ám ảnh - tầm nhìn

mới nảy sinh trong bạn, tự do với mọi ảo tưởng. Đấy là tầm

nhìn của Mật tông.

Bây giờ đến lời kinh.

Tâm trí, trí năng và những nội dung đã hình thành của

tâm trí đó đều là Cái đó, cho nên chúng cũng là thế giới

và tất cả dường như chỉ khác biệt từ Cái đó, mọi thứ

đều có thể được cảm thấy và người cảm nhận, cùng trì

trệ, ác cảm, ham muốn và chứng ngộ.

Khi bạn đã tới trạng thái im lặng lúc mà cả người quan

sát và cái được quan sát đã tan biến đi, bạn sẽ đi tới biết

điều lời kinh này ngụ ý gì:

Tâm trí, trí năng và những nội dung đã hình thành của

tâm trí đó đều là Cái đó...

Sự tồn tại là một, nó tất cả là một đơn vị. Không có hai

điều trong sự tồn tại - nó là cái một, nó là một đại dương.

Mọi phân chia có đó bởi vì chúng ta bị phân chia từ bên

trong; cái bên trong phân chia của chúng ta được phóng

chiếu ra bên ngoài, và mọi vật đều có vẻ bị phân chia. Khi

thân thể thuần khiết, các giác quan mở và tâm trí im lặng,

phân chia bên trong biến mất; bên trong có không gian

thuần khiết. Khi có không gian thuần khiết bên trong, bạn

trở nên có khả năng biết rằng bên ngoài cũng là cùng một

không gian thuần khiết. Chính là cùng một bầu trời cho cả

bên trong và bên ngoài. Trong thực tế không có 'ngoài' và

không có 'trong' nữa, nó tất cả là một.

Tâm trí, trí năng và những nội dung đã hình thành của

tâm trí đó đều là Cái đó... Bây giờ bạn sẽ nhận ra rằng ngay

cả ý nghĩ cũng không phải là kẻ thù, ngay cả ham muốn

cũng không phải là kẻ thù. Chúng cũng đều là những dạng

của cùng điều thiêng liêng, của cùng một sự tồn tại. Bây

giờ bạn sẽ nhận ra rằng niết bàn và luân hồi không phải là

hai. Bây giờ bạn sẽ có tiếng cười rất, rất sâu sắc, khi nhận

ra rằng chẳng có gì khác biệt giữa tù túng và chứng ngộ;

rằng hiểu biết và dốt nát chẳng khác gì nhau, bởi vì phân

chia là không thể được; rằng giữa vị phật và người chưa

chứng ngộ không có khác biệt.

Nhưng điều này chỉ vị phật mới biết. Với người chưa

chứng ngộ có khác biệt rất lớn. Vị phật không thể suy nghĩ

bởi vì qua suy nghĩ bao giờ cũng có phân chia; qua vô suy

nghĩ phân chia biến mất.

cho nên nó cũng là thế giới và tất cả dường như chỉ

khác biệt từ Cái đó, mọi thứ đều có thể được cảm thấy

và người cảm nhận, cũng trì trệ, ác cảm, ham muốn và

chứng ngộ.

Tất cả đều là Cái đó. Đây là Cái đó! Cái toàn bộ này là

cái Mật tông gọi là Cái đó.

Bây giờ Saraha đang nói với nhà vua: Xin bệ hạ đừng

lo nghĩ. Dù trong cung điện hay trên mảnh đất hoả táng, dù

được biết tới như một brahmin có học hỏi hay được biết tới

như chó điên, cũng chẳng thành vấn đề: Nó là Cái đó. Tôi

đã đi tới kinh nghiệm không phân chia được ấy, nơi người

cảm nhận và vật được cảm nhận đều là một, nơi người quan

sát và vật được quan sát là một. Tôi đã tới nơi. Bây giờ tôi

có thể thấy rằng phân chia đó về cái tốt và cái xấu, về tội

nhân và thánh nhân, đều vô nghĩa. Chẳng có gì khác biệt

giữa tội lỗi và thánh thiện cả.

Đấy là lí do tại sao tôi gọi Mật tông là thái độ nổi dậy

vĩ đại nhất trong toàn bộ lịch sử tâm thức con người.

Saraha đang nói: Tâu bệ hạ, với bệ hạ phân chia tồn tại.

Đây là mảnh đất hoả táng và nơi hoàng thượng sống là

cung điện. Đối với tôi không có phân chia. Trên mảnh đất

hoả táng này đã từng có biết bao cung điện trong quá khứ

nay đã biến mất, và cung điện của bệ hạ chẳng chóng thì

chầy cũng sẽ trở thành mảnh đất hoả táng. Nhưng xin bệ hạ

chớ lo nghĩ, đấy chỉ là vấn đề thời gian. Và nếu bệ hạ có

thể thấy, chẳng có gì khác biệt cả. Chính là vẫn cùng một

thực tại, ở đâu đó trở thành thánh nhân và ở đâu đó trở

thành tội nhân; đấy chính là cùng Cái đó.

Giống như ngọn đèn chiếu sáng trong bóng tối

của dốt nát tâm linh, nó vứt bỏ sự mờ tối của tâm

trí khi đạt tới việc phân đoạn trí năng. Ai có thể

tưởng tượng bản thân vô ham muốn?

Giống như ngọn đèn... Saraha nói: bây giờ, nhận biết ba

được sinh ra trong tôi. Nó giống như ngọn đèn chiếu sáng

trong bóng tối của dốt nát tâm linh. Bây giờ lần đầu tiên tôi

có thể thấy rằng vật chất và tâm trí là một, rằng ngoài và

trong là một, rằng thân thể và linh hồn là một, rằng thế giới

này và thế giới kia là một, rằng điều này cũng chứa cả điều

kia nữa. Vì ánh sáng này đã xảy ra cho tôi, Saraha nói, từ

giờ không có vấn đề gì. Bất kì cái gì hiện hữu, đều tốt cả.

Giống như ngọn đèn chiếu sáng trong bóng tối của

dốt nát tâm linh, nó vứt bỏ sự mờ tối của tâm trí

Mọi mờ tối của tôi, mọi trở lực của tôi - mọi thứ ngăn

cản tầm nhìn của tôi - đều bị vứt bỏ hết. Tôi có thể thấy

thực tại một cách trực tiếp. Không còn kìm nén nữa, năng

lượng của tôi đang trong một dòng chảy. Tôi không chống

thân thể mình, tôi không thù địch với thân thể mình, tôi là

một với thân thể. Phân chia bị vứt bỏ. Các giác quan tôi tất

cả đều mở và làm việc ở mức tối đa. Tâm trí tôi im lặng,

không có suy nghĩ ám ảnh. Khi tôi cần tôi nghĩ, còn khi tôi

không cần tôi không nghĩ. Tôi là chủ của ngôi nhà mình.

Ánh sáng được sinh ra trong tôi, và với ánh sáng đó, mọi

mờ tối đều biến mất. Bây giờ chẳng còn gì ngăn cản tôi,

tầm nhìn của tôi là toàn bộ. Bức tường bao quanh tôi đã

biến mất.

Bức tường đó bao gồm ba thứ: kìm nén trong thân thể,

bụi trong giác quan, và ý nghĩ trong tâm trí. Đấy là ba viên

gạch mà bức Trường Thành Trung Quốc bao quanh bạn đã

được dựng nên. Vứt bỏ những viên gạch đó và bức tường

biến mất. Và khi bức tường đã mất đi, bạn đi tới biết cái

Một.

... khi đạt tới việc phân đoạn trí năng.

Ai có thể tưởng tượng bản thân vô ham muốn?

Và thưa bệ hạ, bệ hạ đã tới hỏi tôi kinh nghiệm của tôi

là gì? Thật khó để bệ hạ hình dung nổi. Thật khó cho tôi để

nói ra, mà cũng khó cho bệ hạ hiểu được. Nhưng tôi có thể

chỉ cho bệ hạ con đường để bệ hạ cũng kinh nghiệm được

điều đó - đó là con đường duy nhất. Khi bệ hạ đã nếm trải

nó, chỉ thế thì bệ hạ mới biết.

Không có gì bị phủ định,

không có gì được khẳng định hay hiểu thấu;

vì Cái đó chẳng bao giờ quan niệm được.

Bằng cách phân đoạn trí năng sự lừa dối bị cùm ;

không phân chia và thuần khiết vẫn còn tự nhiên.

Saraha nói: Tôi không thể nói Cái đó không có, tôi

không thể nói Cái đó có. Tôi không thể phủ định Cái đó, tôi

không thể thừa nhận Cái đó. Tôi không thể dùng không, tôi

cũng không thể dùng có, bởi vì cả hai đều thiếu sót. Cái đó

lớn hơn cả hai - Cái đó hàm chứa cả hai, và quả là Cái đó

còn hơn thế, nó siêu việt trên cả hai. Những người nói có

Thượng đế, đã hạ thấp Thượng đế - họ đã lôi Thượng đế

xuống. Những người nói không có Thượng đế, chắc chắn

họ chẳng hiểu chút nào. Cả hai loại người này đều như

nhau: một phủ định và một khẳng định.

Khẳng định và phủ định đều thuộc về cùng tâm trí,

cùng tâm trí suy nghĩ. Có và không cả hai đều là bộ phận

của ngôn ngữ, của ý nghĩ. Saraha nói: Tôi không thể nói có

Thượng đế, tôi không thể nói không có Thượng đế. Tôi chỉ

có thể chỉ ra cho bệ hạ con đường... Cái đó ở đâu, Cái đó là

gì, Cái đó như thế nào. Bệ hạ có thể kinh nghiệm Cái đó.

Bệ hạ có thể mở con mắt của riêng mình và thấy Cái đó.

Ngày xưa chuyện xảy ra là một người mù được đưa tới

gặp Phật. Và người mù này không phải là người mù

thường, ông ta là một hàn lâm viện sĩ lớn, ông ta là một học

giả lớn, rất giỏi tranh biện. Ông ta bắt đầu tranh luận với

Phật. Ông ta nói, "Mọi người nói ánh sáng tồn tại còn tôi

nói không. Họ nói tôi mù còn tôi nói họ bị lừa. Nếu ánh

sáng tồn tại thì thưa ông, xin ông làm cho nó thành có sẵn

đối với tôi để cho tôi có thể sờ vào nó. Nếu tôi có thể sờ

được vào nó hay ít nhất thì nếu tôi có thể nếm được nó hay

tôi có thể ngửi được nó, hay nếu ông có thể đánh ánh sáng

kêu như cái trống để cho tôi có thể nghe được nó... Đấy là

bốn giác quan của tôi, và giác quan thứ năm mọi người nói

tới chỉ là tưởng tượng. Mọi người bị lừa, chẳng ai có mắt

cả."

Thật rất khó mà thuyết phục người này rằng ánh sáng là

tồn tại, bởi vì ánh sáng không thể được sờ, không thể được

nếm, không thể được ngửi, không thể được nghe. Còn

người này cứ nhất mực nói rằng mọi người khác đều bị lừa

cả. "Họ dứt khoát không có mắt." Ông ta là người mù,

nhưng là một nhà logic lớn. Ông ta nói, "Hãy chứng minh

rằng họ có mắt đi. Ông có chứng minh gì?"

Phật nói, "Ta sẽ chẳng nói gì cả, nhưng ta biết một ông

lang và ta sẽ gửi ông tới ông lang đó. Ta biết ông ta có thể

chữa được mắt cho ông."

Nhưng người đàn ông này cứ khăng khăng, "Tôi phải

đến tranh luận về điều đó!"

Còn Phật thì nói, "Đây là luận cứ của ta: Tới ông lang

đi."

Người đó được chuyển tới ông lang; mắt ông ấy được

chữa khỏi, trong vòng sáu tháng ông ấy đã có thể thấy

được. Ông ta không thể tin được điều đó; ông ta quá đỗi

cực lạc, ông ta đến nhảy múa với Phật. Ông ta phát điên.

Ông ta cảm thấy bước chân Phật và nói, "Luận cứ của ông

có tác dụng lắm."

Phật nói, "Nghe đây, đấy không phải là luận cứ. Nếu ta

tranh luận, ta sẽ thua, bởi vì có những điều không thể tranh

luận được mà chỉ có thể kinh nghiệm được."

Thượng đế không phải là luận cứ, không phải là suy

luận. Niết bàn không phải là luận cứ, nó không phải là kết

luận; nó chỉ là kinh nghiệm. Chừng nào bạn chưa kinh

nghiệm nó, chẳng có cách nào để hiểu được nó - nó là gì.

Nếu bạn không kinh nghiệm nó, nó chỉ là điều vô lí, vô

nghĩa.

Không có gì bị phủ định,

không có gì được khẳng định hay hiểu thấu;

vì Cái đó chẳng bao giờ quan niệm được.

Trong thực tế chẳng có gì để hiểu thấu và chẳng ai hiểu

thấu được Cái đó; chẳng có gì để quan niệm và chẳng ai

quan niệm về Cái đó. Đối thể và chủ thể cả hai đều biến

mất trong Cái đó. Người biết và cái được biết cả hai đều

biến mất trong Cái đó. Thế thì đấy là việc kinh nghiệm về

cái toàn bộ, về cái Một, về Cái đó.

Bằng cách phân đoạn trí năng sự lừa dối bị cùm ;

không phân chia và thuần khiết vẫn còn tự nhiên.

Saraha nói với nhà vua: Tâu bệ hạ, mọi người đều bị

định kiến về thực tại. Họ có ý tưởng về thực tại, còn thực

tại không phải là ý tưởng. Thượng đế không phải là ý

tưởng. Thượng đế không phải là ngôn từ thượng đế; đấy

không phải là lí thuyết, đấy không phải là giả thuyết. Đấy

là nếm trải thực tại, đấy là kinh nghiệm cực điểm với cái

toàn bộ.

Mọi người bị giam cầm bởi tâm trí mình. Họ có những

ý tưởng, thái độ nào đó, những triết lí cố định; họ nhìn qua

những triết lí đó. Đó là lí do tại sao họ nói Saraha đã phát

điên. Họ có ý tưởng nào đó về việc lành mạnh phải như thế

nào, phải lành mạnh ra sao. Đó là lí do tại sao họ nghĩ

Saraha đã phát điên: họ nhìn qua những định kiến nào đó.

...không phân chia và thuần khiết vẫn còn tự phát.

Nhưng tự phát là không phân chia và là thuần khiết; nó

là hồn nhiên nguyên thuỷ. Xin hãy nhìn vào tôi đây, Saraha

nói. Xin hãy nhìn vào tự phát của tôi. Xin đừng nghĩ về

những điều mọi người nói, đừng nghĩ qua những định kiến

tốt và xấu nào đó, đức hạnh và tội lỗi, phải và trái. Chỉ nhìn

vào tôi thôi! Tôi đang ở đây, Cái đó đang ở đây. Tôi đang

sẵn có; xin bệ hạ hãy có kinh nghiệm sâu sắc về sự hiện

diện của tôi.

Nếu bạn có thể cảm thấy tự phát, hồn nhiên, thuần

khiết, chỉ điều đó mới giúp cho bạn đi vào bên trong trên

hành trình của Mật tông.

Nếu bạn hỏi điều tối thượng

với định đề về cái nhiều và cái một

thì tính một không được nêu ra

vì bằng cách siêu việt lên tri thức loài hữu tình được tự

do.

Sự toả chiếu có hiệu lực tiềm tàng trong trí năng,

và điều này được thể hiện thành thiền;

Tâm trí kiên định là bản chất đúng đắn của chúng ta.

Nếu bạn hỏi điều tối thượng với định đề về cái nhiều và

cái một thì tính một không được nêu ra. Nếu bạn hỏi, bạn

lỡ; thực tại không thể được biến thành câu hỏi. Vâng, nó có

thể biến thành cuộc truy tìm, nhưng không biến thành câu

hỏi.

Và không ai có thể trả lời được, chỉ có bạn mới có thể

kinh nghiệm. Đó là lí do tại sao tôi nói nó có thể là cuộc

truy tìm nhưng nó không bao giờ có thể được biến thành

câu hỏi. Câu hỏi là điều có thể được trả lời. Cuộc truy tìm

là điều chỉ có thể được kinh nghiệm. Chỉ khi bạn đạt tới

việc làm, bạn mới đạt tới, không có cách nào khác. Không

có cách thức vay mượn. Mọi tri thức đều là vay mượn.

Do đó Saraha nói:

...vì bằng cách vượt lên tri thức loài hữu tình được tự

do.

Người ta phải được giải phóng khỏi tri thức.

Tri thức không giải phóng bạn; nó là tù túng sâu sắc

nhất, tinh vi nhất của bạn. Qua tri thức bạn không sẵn có

cho thực tại. Vứt mọi tri thức đi. Vứt mọi tri thức, việc biết

trở thành thuần khiết, thế thì bạn không còn bị vẩn đục nữa.

Không biết tới bất kì cái gì được vay mượn, thuần khiết của

bạn còn nguyên vẹn; thế thì tấm gương của bạn không bị

bụi bặm phủ lên. Thế thì bạn bắt đầu phản xạ. Thế thì thực

tại được phản xạ như nó vẫn thế. Đừng bao giờ đi cùng tri

thức, bằng không bạn sẽ không di chuyển được. Đừng bao

giờ tin vào kinh nghiệm vay mượn.

Cái gì đó đã xảy ra cho Phật, nhưng cái đó không phải

là kinh nghiệm của bạn. Cái gì đó đã xảy ra cho Christ,

nhưng cái đó không phải là kinh nghiệm của bạn. Cái gì đó

đã xảy ra cho tôi, nhưng cái đó không phải là kinh nghiệm

của bạn. Điều tôi nói là ở chỗ, nếu bạn tích trữ nó, nó sẽ trở

thành tri thức. Chớ có tích trữ nó trong kí ức bạn. Tích trữ

tri thức trong kí ức chỉ làm nặng gánh cho bạn; đấy không

phải là giải thoát.

...vì bằng cách siêu việt lên tri thức loài hữu tình được

tự do.

Sự toả chiếu có hiệu lực tiềm tàng trong trí năng...

Và bạn có quyền năng đó, cái có thể nở hoa trong niết

bàn, cái có thể trở thành chứng ngộ. Từng trí năng đều

không là gì cả nhưng thông minh ẩn bên dưới nó. Nếu bạn

tin vào trí năng mình quá nhiều, bạn sẽ lỡ mất thông minh

của mình. Bây giờ hai từ này cần phải được hiểu rõ; chúng

bắt nguồn từ cùng nguồn gốc nhưng nghĩa của chúng khác

nhau. Không nhất thiết là nhà trí thức phải thông minh.

Không nhất thiết là người thông minh phải là nhà trí thức.

Bạn có thể tìm thấy những người không trí thức nhưng cực

kì thông minh.

Christ không phải là nhà trí thức, Kabir không phải là

nhà trí thức, Meera không phải là nhà trí thức, nhưng họ là

những người cực kì thông minh. Trí năng là cái thay thế giả

tạo cho thông minh. Trí năng được vay mượn, thông minh

là của bạn. Thông minh là khả năng thuần khiết của bạn để

thấy, thông minh là khả năng hồn nhiên của bạn để hiểu.

Trí năng là tri thức vay mượn; trí năng là đồng tiền giả, sự

giả mạo.

Bạn thu thập thông tin từ mọi nơi, bạn thu thập nhiều

tri thức, và bạn trở nên hiểu biết. Nhưng thông minh của

bạn lại không phát triển, thông minh của bạn không thực sự

bùng nổ. Trong thực tế bởi vì nỗ lực trí năng này mà thông

minh của bạn sẽ còn bị nặng gánh; tri thức sẽ tụ lại tựa như

bụi bặm trên chiếc gương. Trí năng là bụi bặm. Thông

minh là phẩm chất thuần khiết của gương để phản xạ.

Saraha nói: Sự toả chiếu có hiệu lực tiềm tàng trong trí

năng... trong mỗi trí năng đều có thông minh tiềm năng;

bạn chớ có chất quá nặng nó với những tri thức vay mượn...

và điều này được thể hiện thành thiền. Nếu bạn không chất

nặng nó bằng tri thức thì thông minh của bạn trở thành

thiền của bạn. Định nghĩa lớn về thiền: Thông minh là

thiền. Sống cách thông minh là sống theo thiền. Định nghĩa

này mang ý nghĩa vô cùng lớn lao; nó thực sự thai nghén ý

nghĩa vĩ đại. Và sống cách thông minh chính là điều thiền

là gì. Thiền không thể được 'thực hiện' theo cách nào đó.

Bạn phải đem thông minh vào cuộc sống của mình.

Hôm qua bạn vừa giận dữ, bạn đã giận dữ hôm kia.

Bây giờ lần nữa tình huống tới và bạn sắp sửa nổi giận -

bạn định làm gì đây? Bạn có định lặp lại nó theo cách

không thông minh, theo cách máy móc, hay bạn sẽ đem

thông minh vào cho nó? Bạn đã giận dữ cả nghìn lẻ một lần

rồi - bạn không thể học được điều gì từ nó sao? Bạn không

thể ứng xử cách thông minh bây giờ sao? Bạn không thể

thấy được cái vô tích sự của nó sao? Bạn không thể thấy

rằng mọi lần bạn đều bị thất vọng bởi nó sao? Mỗi lần giận

dữ lại làm tiêu phí năng lượng, phân tán năng lượng của

bạn, tạo ra vấn đề cho bạn mà chẳng giải quyết được gì.

Nếu bạn nhìn vào nó, chính trong việc nhìn đó là thông

minh. Thế thì ai đó xúc phạm bạn và không có giận dữ.

Trong thực tế, thay vì giận dữ lại có từ bi với người này.

Người đó giận dữ, người đó bị tổn thương, người đó đau

khổ. Từ bi sẽ nảy sinh. Bây giờ thông minh này là thiền:

nhìn vào cuộc sống của mình, học từ kinh nghiệm, học từ

kinh nghiệm tồn tại, tiếp tục học, không vay mượn.

Phật nói giận dữ là xấu. Bây giờ nhìn vào khác biệt đi:

nếu bạn là phật tử bạn sẽ tin ông ấy. Phật nói giận dữ là

xấu, vậy giận dữ phải là xấu rồi; làm sao mà Phật sai được?

Bây giờ bất kì khi nào cơn giận dữ nảy sinh bạn sẽ kìm nén

nó bởi vì Phật nói rằng giận dữ là sai. Điều này đang vận

hành qua tri thức, vận hành qua trí năng. Nhưng ngu làm

sao! Bạn đã từng giận dữ biết bao nhiêu lần rồi - có cần gì

hỏi Phật xem liệu giận dữ có là sai không? Bản thân bạn

không thể tự nhìn vào kinh nghiệm của riêng mình được

sao?

Nếu bạn nhìn vào kinh nghiệm của riêng mình, bạn biết

giận dữ nghĩa là gì. Và với việc nhìn vào đó mà bạn được

tự do với giận dữ. Đây là thông minh. Từ thông minh của

mình, bạn sẽ trở thành nhân chứng cho Phật; bạn sẽ nói,

"Vâng, Phật là phải. Kinh nghiệm của tôi chứng minh điều

đó." Không phải là điều ngược lại. Không phải: "Phật là

đúng nên tôi phải kinh nghiệm điều đó" - điều đó là ngu

xuẩn. Nhưng đúng hơn, nếu từ kinh nghiệm của tôi, tôi trở

thành nhân chứng cho Phật, thế thì tôi có thể nói, "Vâng,

ông ấy phải đấy, bởi vì đây cũng là kinh nghiệm của tôi

nữa. Nhưng ông ấy là thứ yếu; kinh nghiệm của tôi đến

trước, nó là chủ yếu. Tôi là nhân chứng cho ông ấy, không

phải là người đi theo."

Bạn là sannyasin của tôi ở đây, xin trở thành nhân

chứng của tôi, đừng làm người theo tôi. Xin để những điều

tôi đang nói được chứng minh qua kinh nghiệm của bạn.

Thế thì bạn đã ở cùng tôi, thế thì bạn đã yêu tôi. Thế thì

bạn đã sống với tôi. Nếu bạn đơn giản tích trữ những điều

tôi nói và bạn trở thành các nhà lí thuyết lớn về điều đó,

bạn học triết lí về nó, thế thì bạn đã lỡ rồi. Thế thì bạn sẽ

trở thành nhà trí thức. Và trở thành nhà trí thức là tự tử

chừng nào có liên quan tới thông minh.

Xin chớ trở thành nhà trí thức. Đồng tiền thật có sẵn;

tại sao bạn cứ khao khát đồ giả? Cuộc sống có sẵn cho bạn

phong phú như nó có sẵn cho Phật, như nó có sẵn cho tôi;

tại sao không học qua nó?

Trở nên thông minh là mang tính thiền. Vâng, đây là

trong những định nghĩa vĩ đại nhất về thiền mà tôi đã bắt

gặp. Và tôi là nhân chứng cho nó. Đó là cách người ta tiến

hoá về tâm linh.

Sự toả chiếu có hiệu lực tiềm tàng trong trí năng,

và điều này được thể hiện thành thiền;

Tâm trí kiên định là bản chất đúng đắn của chúng ta.

Và bạn càng trở nên thông minh hơn, bạn càng thấy

tâm trí mình không còn là tâm trí cũ nữa.

Mật tông dùng từ 'tâm trí' với hai nghĩa: tâm trí với chữ

t nhỏ - tức là tâm trí của bạn. Còn Tâm trí với chữ T hoa,

lớn - đó là Tâm trí tinh tuý, Tâm trí Phật.

Tâm trí nhỏ bé này bao hàm trong tri thức, trong biên

giới, trong định kiến - tâm trí mà chúng ta gọi là Hindu,

tâm trí mà chúng ta gọi là Hồi giáo, tâm trí mà chúng ta gọi

là Do Thái giáo, Ki tô giáo; tâm trí đó, tâm trí nhỏ bé, tí

hon, tâm trí đã được vun bồi bởi các trường cao đẳng và đại

học; tâm trí đó, tâm trí nhỏ bé đó, tâm trí mà đã được xã hội

lập chương trình - tâm trí đó Mật tông gọi là tâm trí nhỏ bé.

Khi những rào chắn bị phá vỡ, khi những tăm tối đó bị

vứt bỏ, bạn đạt tới Tâm trí vĩ đại, Tâm trí Phật - Tâm trí với

chữ T hoa. Nó cũng lớn như bản thân vũ trụ. Nó là vũ trụ...

Tâm trí kiên định là bản chất đúng đắn của chúng ta. Và đó

là tâm trí, chính là tinh tuý thực sự của chúng ta. Gọi nó là

Thượng đế, gọi nó là niết bàn, hay bất cứ cái gì bạn thích,

nhưng đây là tinh tuý của chúng ta: đi tới trạng thái nghỉ

tuyệt đối - kiên định, không dao động; đi tới trạng thái của

vĩnh hằng nơi thời gian đã biến mất, nơi mọi phân chia đã

biến mất, nơi chủ thể và đối thể không còn nữa, nơi người

biết và cái được biết không còn nữa, nơi chỉ có nhận biết

thuần khiết - nhận biết ba.

Nhưng bạn không nên bị nhồi nhét bởi những lời kinh

này, bằng không bạn sẽ phản bội Saraha, bạn sẽ phản bội

tôi. Những lời kinh này chỉ nên được thiền và rồi quên đi.

Thế thì dù bất kì thông minh nào nảy sinh trong bạn khi

thiền về những lời kinh này, dùng nó trong cuộc sống đi.

Khoảnh khắc nọ sang khoảnh khắc kia để cho thông minh

đó được mài sắc bén thêm mãi qua bao nhiêu kinh nghiệm.

Và thông minh đó sẽ trở thành cánh cửa tới điều thiêng

liêng. Thông minh đó là cánh cửa.

Đủ cho hôm nay.

************************************************************

#8 Yêu không tạo hình bóng

Khi thầy nói về thông minh và thiền, có nhiều ẩn ý

bên trong. Xin thầy nói kĩ thêm!

Phục vụ mọi người theo bổn phận có phải là điều

không tốt không?

Tại sao ghen tuông bao giờ cũng theo sau tình yêu?

Kìm nén là gì?

Tại sao tôi lấy người đàn bà ghét tôi?

#8Câu hỏi thứ nhất:

Osho kính yêu, hôm qua khi thầy nói về thông

minh trở thành thiền, có luồng chẩy lớn bên

trong. Tôi cảm thấy dường như trái tim tôi sắp

nổ tung. Dường như thầy đã nói điều gì đó tôi

đang nóng lòng chờ nghe. Xin thầy nói kĩ hơn.

Câu hỏi này là từ Krishna Prem. Thông minh là bản

chất cố hữu của cuộc sống. Thông minh là phẩm chất tự

nhiên của cuộc sống. Giống như lửa nóng và không khí

không thấy được còn nước chảy xuống, thông minh cuộc

sống cũng vậy.

Thông minh không phải là thành tựu; bạn thông minh

từ khi được sinh ra. Cây cối thông minh theo cách riêng của

chúng, chúng có đủ thông minh cho cuộc đời riêng của

chúng. Chim chóc thông minh, các loài vật cũng vậy.

Trong thực tế điều các tôn giáo ngụ ý về Thượng đế chỉ là

thế này: vũ trụ thông minh, có thông minh ẩn trong mọi

nơi, và nếu bạn có mắt để nhìn, bạn có thể thấy điều đó ở

mọi nơi.

Cuộc sống là thông minh. Chỉ con người mới trở nên

không thông minh. Con người làm hỏng dòng chảy tự

nhiên của cuộc sống. Ngoại trừ trong con người, không có

không thông minh. Bạn đã bao giờ nhìn thấy một con chim

bạn gọi là ngu si chưa? Bạn đã bao giờ nhìn thấy một con

vật bạn có thể gọi là xuẩn ngốc không? Không, những điều

như thế chỉ xảy ra cho con người thôi. Cái gì đó đã sai rồi.

Thông minh của con người đã bị làm hỏng, bị biến chất, đã

bị làm què quặt. Và thiền không là gì khác hơn việc hoàn

tác hỏng hóc đó.

Thiền sẽ chẳng cần chút nào nếu con người bị bỏ lại

đơn độc. Nếu tu sĩ và chính khách không can thiệp vào

thông minh của con người, sẽ không có nhu cầu thiền.

Thiền là thuốc. Trước tiên bạn phải tạo ra bệnh tật, rồi thiền

mới được cần tới. Nếu bệnh không có đó, thiền cũng chẳng

được cần tới. Và không phải ngẫu nhiên mà các từ 'thuốc'

và 'thiền' có cùng gốc. Đó là thuốc.

Mỗi đứa trẻ sinh ra đều thông minh. Và khoảnh khắc

đứa trẻ được sinh ra chúng ta liền chộp lấy nó và bắt đầu

phá huỷ thông minh của nó, bởi vì thông minh là nguy

hiểm cho cấu trúc chính trị, cho cấu trúc xã hội, cho cấu

trúc tôn giáo. Nó là nguy hiểm cho giáo hoàng, nó là nguy

hiểm cho shankaracharya của Puri, nó là nguy hiểm cho tu

sĩ. Nó là nguy hiểm cho lãnh tụ, nó là nguy hiểm cho địa vị,

cho thể chế.

Thông minh mang tính nổi dậy một cách tự nhiên.

Thông minh không thể bị bó buộc theo bất kì tình trạng nô

lệ nào. Thông minh là rất quyết đoán, cá nhân. Thông minh

không thể bị chuyển thành việc bắt chước máy móc.

Người ta phải bị biến thành các bản sao; tính nguyên

bản của họ phải bị phá huỷ, bằng không tất cả những điều

vô nghĩa lí vẫn còn tồn tại trên trái đất này sẽ là không thể

được. Bạn cần lãnh tụ, bởi vì trước hết bạn phải bị làm cho

không thông minh; bằng không sẽ không có nhu cầu về bất

kì lãnh tụ nào. Tại sao bạn phải theo ai đó? Bạn sẽ theo

thông minh của mình. Nếu ai đó muốn trở thành lãnh tụ thì

một điều cần phải làm: thông minh của bạn cần phải bị phá

huỷ bằng cách nào đó. Bạn phải bị làm rung chuyển từ

chính gốc rễ của bạn, bạn phải bị làm cho sợ hãi. Bạn phải

bị làm cho không còn tin tưởng vào chính mình, đó là điều

phải làm. Chỉ có thế thì lãnh tụ mới tới được.

Nếu bạn thông minh, bạn sẽ tự mình giải quyết vấn đề

của mình. Thông minh là đủ để giải quyết mọi vấn đề.

Trong thực tế, dù bất kì vấn đề gì được tạo ra trong cuộc

sống, bạn cũng đều có nhiều thông minh hơn những vấn đề

đó. Đó là đồ cung cấp, đó là món quà của Thượng đế.

Nhưng có những người tham vọng, người muốn cai trị,

chi phối; có những người điên tham vọng - họ tạo ra sợ hãi

trong bạn. Sợ hãi giống như gỉ sắt: nó phá huỷ mọi thông

minh. Nếu bạn muốn phá huỷ thông minh của ai đó, điều

cần thiết đầu tiên là tạo ra sợ hãi; tạo ra địa ngục và làm

cho mọi người sợ. Khi mọi người sợ địa ngục, họ sẽ đến

với tu sĩ và cúi đầu trước tu sĩ, họ sẽ lắng nghe tu sĩ. Nếu

họ không nghe tu sĩ... có ngọn lửa địa ngục. Tự nhiên là họ

sợ. Họ phải tự bảo vệ mình khỏi ngọn lửa địa ngục, và phải

cần tới tu sĩ, tu sĩ trở thành điều cần phải có.

Tôi đã nghe nói về hai người vốn là đối tác trong làm

ăn. Công việc kinh doanh của họ rất đặc biệt và họ thường

phải đi khắp cả nước. Một người đến một thành phố. Trong

đêm anh ta đi khắp thành phố và ném hắc ín lên cửa sổ nhà

mọi người, rồi biến mất vào sáng sớm. Sau đó hai hay ba

ngày người kia sẽ tới. Anh ta đi lau hết các vết hắc ín; anh

ta sẽ lau cửa sổ cho mọi người và tất nhiên mọi người phải

trả tiền - họ phải trả. Họ là đối tác trong cùng một nghề.

Một người thì phá hỏng còn người kia tới sửa chữa lại như

cũ.

Nỗi sợ cần phải được tạo ra và tham lam cũng cần phải

được tạo ra. Thông minh không tham lam. Bạn sẽ ngạc

nhiên mà biết rằng người thông minh chẳng bao giờ tham

lam. Tham lam là một phần của không thông minh. Bạn

dành dụm cho ngày mai bởi vì bạn không tin rằng ngày mai

bạn sẽ có khả năng giải quyết cuộc sống mình; bằng không

sao phải tích trữ? Bạn trở nên keo kiệt, bạn trở nên tham

lam, bởi vì bạn không biết liệu ngày mai thông minh của

mình có khả năng bao quát cuộc sống hay không. Ai biết

được? Bạn không tin vào thông minh của mình cho nên bạn

tích trữ, bạn trở nên tham lam. Người thông minh không sợ

hãi, không tham lam. Tham lam và sợ hãi đi cùng nhau. Đó

là lí do tại sao thiên đường và địa ngục đi kèm nhau. Địa

ngục là nỗi sợ, thiên đường là tham lam.

Tạo ra nỗi sợ trong mọi người và tạo ra lòng tham

trong mọi người - làm cho họ tham hết mức. Làm cho họ

tham đến mức cuộc sống không thể thoả mãn họ được; thế

thì họ sẽ đến với tu sĩ và đến với lãnh tụ. Thế thì họ sẽ bắt

đầu tưởng tượng về cuộc sống tương lai nào đó nơi mà ham

muốn ngu si, tưởng tượng đần độn của họ sẽ được đáp ứng.

Quan sát điều đó. Đòi hỏi điều không thể có chính là không

thông minh.

Người thông minh hoàn toàn thoả mãn với cái có thể.

Người đó làm việc vì cái có thể, người đó chẳng bao giờ

làm việc vì cái không thể và cái không có thể, không.

Người đó nhìn vào cuộc sống cùng với những giới hạn của

nó, người đó không phải là người cầu toàn. Người cầu toàn

là kẻ thần kinh. Nếu bạn là người cầu toàn thì bạn sẽ bị

bệnh thần kinh.

Chẳng hạn, nếu bạn yêu người đàn bà và và bạn yêu

cầu tuyệt đối trung thành thì bạn sẽ phát điên và cô ấy cũng

phát điên. Điều ấy là không thể được: tuyệt đối trung thành

có nghĩa là cô ấy thậm chí không nghĩ nữa, cô ấy thậm chí

không mơ mộng về người đàn ông khác. Điều này là không

thể được. Bạn là ai? Tại sao cô ấy yêu bạn? - bởi vì bạn là

một đàn ông. Nếu cô ấy có thể yêu bạn, tại sao cô ấy không

thể nghĩ đến những người khác? Khả năng đó vẫn còn để

mở. Và cô ấy sẽ xoay sở thế nào nếu cô ấy thấy một người

đẹp trai đang đi bên cạnh và nếu ham muốn dậy lên trong

cô ấy? Ngay cả việc nói, "Người đàn ông này đẹp thế,"

cũng là ham muốn - ham muốn đã vào. Bạn chỉ có thể nói

rằng cái gì đó đẹp khi bạn cảm thấy đáng sở hữu, đáng tận

hưởng. Bạn không dửng dưng.

Bây giờ nếu bạn yêu cầu trung thành tuyệt đối, như mọi

người vẫn hay đòi hỏi như vậy, thế thì nhất định bị xung

khắc và bạn sẽ vẫn còn nghi ngờ. Và bạn sẽ vẫn còn nghi

ngờ bởi vì bạn cũng biết tâm trí mình nữa: bạn cũng nghĩ

về người phụ nữ khác, cho nên làm sao bạn có thể tin cậy

rằng người đàn bà của bạn không nghĩ về người đàn ông

khác? Bạn biết bạn đang nghĩ tới, cho nên bạn biết cô ấy

cũng đang nghĩ tới. Bây giờ... ngờ vực, xung khắc, đau

khổ. Tình yêu đã có thể có nay trở thành không thể có bởi

vì một ước muốn không thể có.

Mọi người hay đòi hỏi những cái không thể làm được.

Bạn muốn an toàn cho tương lai, điều không thể có được.

Bạn muốn tuyệt đối an toàn cho ngày mai. Điều ấy không

thể nào được bảo đảm, nó không phải là bản chất của cuộc

sống. Người thông minh biết rằng điều đó không phải là

bản chất của cuộc sống - tương lai vẫn còn để mở. Ngân

hàng có thể phá sản, vợ có thể trốn đi với ai đó, chồng có

thể chết, trẻ con có thể tỏ ra lếu láo. Ai biết được về ngày

mai? Bạn có thể ốm, bạn có thể bị què... ai biết được về

ngày mai đây?

Yêu cầu an toàn cho ngày mai nghĩa là vẫn còn trong

sợ hãi thường xuyên; đấy là điều không thể được, cho nên

nỗi sợ không thể bị phá huỷ. Sợ vẫn sẽ có có đó, bạn sẽ run

rẩy; và trong khi đó, khoảnh khắc hiện tại lại bị lỡ đi. Với

ham muốn an toàn trong tương lai bạn đang phá huỷ hiện

tại, cái chính là cuộc sống duy nhất có sẵn. Và bạn thì ngày

càng trở nên run rẩy, sợ hãi, tham lam.

Đứa trẻ được sinh ra. Đứa trẻ là một hiện tượng rất, rất

phóng khoáng, thông minh hoàn toàn, nhưng chúng ta vồ

lấy nó, chúng ta bắt đầu phá huỷ thông minh của nó. Chúng

ta bắt đầu tạo ra sợ hãi trong nó. Bạn gọi điều ấy là dạy dỗ,

bạn gọi điều ấy là làm cho đứa trẻ có khả năng đương đầu

với cuộc sống. Bạn tạo ra sợ hãi trong nó. Nó vốn không sợ

hãi gì. Và trường phổ thông, cao đẳng, đại học - tất cả

những cái đó làm cho nó ngày càng không thông minh. Họ

đòi hỏi những điều ngu ngốc... họ đòi hỏi phải nhồi nhét

cho đứa trẻ những điều xuẩn ngốc mà đứa trẻ và thông

minh tự nhiên của nó chẳng thấy vấn đề gì cả - để làm gì?

Đứa trẻ đó không thể thấy được vấn đề: tại sao phải nhồi

nhét những thứ này? Nhưng đại học nói, cao đẳng nói, gia

đình, họ hàng, những người thiện chí nói, "Cứ nhồi thêm

vào! Cháu không biết bây giờ, nhưng về sau cháu sẽ thấy

tại sao lại cần."

Nhồi nhét lịch sử - tất cả những cái vô nghĩa này mà

con người đã làm cho người khác, tất cả những cái điên rồ -

cứ nhồi nhét nó! Và đứa trẻ không thể thấy được vấn đề:

quan trọng gì khi một ông vua nào đó cai trị nước Anh, từ

ngày nào đó đến ngày nào đó? Nó phải nhồi nhét những thứ

đần độn ấy. Thế là tự nhiên thông minh của nó ngày càng

bị chồng chất nặng gánh, què cụt, ngày càng nhiều bụi bặm

đọng lên thông minh của nó. Trước lúc con người ra khỏi

trường đại học người đó thành người không thông minh;

đại học đã hoàn thành công việc của nó. Rất hiếm người tốt

nghiệp đại học mà vẫn còn thông minh, vẫn còn giữ được

thông minh. Rất ít người có khả năng thoát khỏi đại học,

tránh được đại học, vượt qua đại học mà vẫn gìn giữ được

thông minh của mình - rất hiếm. Đấy là một cỗ máy vĩ đại

để phá huỷ bạn. Khoảnh khắc bạn trở nên được giáo dục,

bạn đã trở thành không thông minh. Bạn không thấy được

điều này sao? Những người có giáo dục ứng xử rất không

thông minh. Trở về với người nguyên thuỷ, người chưa bao

giờ được giáo dục và bạn sẽ thấy thông minh thuần khiết

vận hành.

Tôi đã từng nghe...

Một người đàn bà cố gắng mở đồ hộp và cô ta không

thể nào tìm ra cách mở nó. Cho nên cô ta đi đọc sách dạy

nấu ăn. Vào lúc cô ấy đang đọc sách thì người nấu bếp đã

mở được nó. Cô ấy quay lại và cô ấy ngạc nhiên. Cô ấy hỏi

người nấu bếp, "Làm sao anh mở được nó vậy?"

Anh ta trả lời, "Thưa cô, khi người ta không biết đọc

thì người ta phải dùng trí thông minh của mình."

Đúng đấy, thế là phải. Khi bạn không biết cách đọc bạn

phải dùng thông minh của mình, bạn còn có thể dùng được

cái gì khác nữa? Khoảnh khắc bạn bắt đầu đọc... những chữ

đó nguy hiểm đó, khi bạn đã có khả năng đọc, bạn không

cần thông minh nữa; sách sẽ chăm lo cho.

Bạn đã bao giờ quan sát điều đó chưa? Khi một người

bắt đầu gõ máy, việc viết tay của người đó bị mất đi, thế thì

việc viết tay của người đó không còn đẹp nữa. Không có

nhu cầu, máy chữ chăm lo việc này. Nếu bạn mang máy

tính tay trong túi, bạn sẽ quên luôn mọi vấn đề toán học,

không có nhu cầu. Chẳng chóng thì chầy sẽ có máy tính

nhỏ và mọi người sẽ mang chúng. Chúng sẽ chứa mọi

thông tin của cuốn Bách khoa toàn thư, và thế thì chẳng cần

bạn phải thông minh chút nào nữa; máy tính sẽ chăm lo

cho.

Trở về với người nguyên thuỷ, người chưa được giáo

dục, người dân quê, và bạn sẽ tìm thấy thông minh tinh tế.

Vâng, họ không được thông tin nhiều, điều đó đúng, họ

không là người hiểu biết, điều đó đúng, nhưng họ cực kì

thông minh. Thông minh của họ giống như ngọn lửa không

khói quanh nó.

Xã hội đã làm điều gì đó sai với con người - vì những lí

do nào đó. Nó muốn bạn là nô lệ, nó muốn bạn bao giờ

cũng sợ hãi, nó muốn bạn bao giờ cũng tham lam, nó muốn

bạn bao giờ cũng tham vọng, nó muốn bạn bao giờ cũng

tranh giành. Nó muốn bạn vô tình, nó muốn bạn đầy những

giận dữ và hận thù, nó muốn bạn vẫn còn yếu đuối, bắt

chước - những bản sao. Nó không muốn bạn trở thành chư

phật nguyên bản, Krishna hay Christ nguyên bản, không.

Đó là lí do tại sao thông minh của bạn bị phá huỷ. Thiền là

cần thiết chỉ để hoá giải điều xã hội đã làm. Thiền là phủ

định: nó đơn giản phủ định hỏng hóc, nó phá huỷ ốm yếu.

Và một khi ốm yếu qua đi, con người mạnh khoẻ của bạn

tự khẳng định chính nó theo ý muốn của nó.

Và trong thế kỉ này điều này đã đi qua quá xa; giáo dục

phổ cập đã thành tai hoạ. Và nhớ lấy, tôi không chống giáo

dục, tôi đang chống nền giáo dục này. Còn có khả năng về

một loại giáo dục khác, sẽ có ích trong việc mài sắc thông

minh của bạn, không phá huỷ nó, không chất nặng nó với

những sự kiện không cần thiết, không chất nặng nó với

những thứ rác rưởi vô dụng - tri thức - không làm nặng

gánh nó chút nào mà thay vì thế sẽ giúp cho nó trở nên toả

sáng, tươi tắn, trẻ trung hơn.

Giáo dục này chỉ làm cho bạn có khả năng ghi nhớ;

giáo dục kia sẽ làm cho bạn có khả năng sáng tỏ hơn. Giáo

dục này phá huỷ tính sáng tạo của bạn; giáo dục kia sẽ giúp

bạn trở thành sáng tạo hơn.

Chẳng hạn, giáo dục mà tôi thích có trong thế giới sẽ

không yêu cầu đứa trẻ phải trả lời theo kiểu sáo rập cũ kĩ.

Nó không cổ vũ câu trả lời có sẵn trong sách, nó không cổ

vũ việc lặp lại, học vẹt, nó sẽ khuyến khích tính sáng tạo.

Cho dù câu trả lời được sáng tác ra không hệt như câu trả

lời chép sẵn, vẫn nên đánh giá cao đứa trẻ đã đưa ra câu trả

lời mới cho vấn đề cũ. Chắc chắn câu trả lời của nó không

thể đúng như câu trả lời của Socrates. Cũng tự nhiên thôi,

một đứa trẻ nhỏ... câu trả lời của nó không thể hệt như câu

trả lời của Albert Einstein, điều đó là tự nhiên. Nhưng đòi

hỏi rằng câu trả lời của nó phải đúng như câu trả lời của

Albert Einstein là điều ngu xuẩn. Nếu nó mang tính sáng

tác thì nó đang theo đúng hướng: một ngày nào đó nó sẽ trở

thành một Albert Einstein. Nếu nó cố gắng tạo ra cái gì đó

mới - một cách tự nhiên nó có những giới hạn riêng, nhưng

chỉ với nỗ lực của nó để cố tạo ra cái gì đó mới mẻ cũng

đáng đánh giá cao, nên ca ngợi rồi.

Giáo dục không nên mang tính ganh đua, mọi người

không nên bị đưa ra đánh giá lẫn nhau. Ganh đua mang tính

rất bạo hành và rất huỷ diệt. Ai đó không giỏi về toán và

bạn gọi người đó kém. Người đó có thể giỏi trong nghề

mộc, nhưng chẳng ai nhìn vào việc đó. Ai đó không giỏi về

văn chương và bạn gọi người đó là ngu - thế mà người đó

giỏi về nhạc, về vũ.

Giáo dục thực sự sẽ giúp cho con người tìm ra cuộc

sống của họ, nơi họ có thể sống tràn đầy: nếu một người

được sinh ra để là thợ mộc, đó là đúng điều cho người đó

làm, không ai ép buộc làm cái gì khác. Thế giới này có thể

trở thành thế giới vĩ đại, thông minh nếu con người được

phép là chính mình, được giúp là chính mình, được hỗ trợ

theo mọi cách để là chính mình, và không ai tới và can

thiệp - trong thực tế không ai thao túng đứa trẻ. Nếu nó

muốn trở thành vũ công thế thì điều đó là tốt; vũ công là

cần thiết, nhiều điệu vũ được cần tới trên thế giới. Nếu nó

muốn trở thành nhà thơ, tốt; nhiều thơ đang được cần tới,

chẳng bao giờ đủ cả. Nếu nó muốn trở thành thợ mộc hay

ngư phủ, hoàn toàn tốt. Nếu nó muốn trở thành tiều phu,

hoàn toàn tốt. Nó không cần phải trở thành tổng thống hay

thủ tướng; trong thực tế nếu ít người trở nên quan tâm tới

những mục tiêu này thì đó sẽ là phúc lành.

Ngay bây giờ mọi thứ đều loạn xạ. Người muốn trở

thành thợ mộc đã trở thành bác sĩ, người muốn trở thành

bác sĩ đã trở thành thợ mộc... mọi người đều ở vào vị trí

của ai đó khác. Do đó quá nhiều không thông minh - mọi

người đều đang làm việc của ai đó khác. Một khi bạn bắt

đầu thấy điều đó, bạn sẽ cảm thấy tại sao mọi người đang

ứng xử không thông minh.

Ở Ấn Độ chúng ta đã suy tư sâu sắc và chúng ta đã tìm

ra một từ - swadharma, tự tính - cái chuyển tải ẩn ý vĩ đại

nhất cho thế giới tương lai. Krishna đã nói: Swadharme

nidhanam shreyah - điều hay là được chết trong tự tính

riêng của bạn, theo đuổi tự tính của bạn. Para dharmo

bhayavah baha - bản tính của ai đó khác là rất nguy hiểm.

Bạn chớ trở thành kẻ bắt chước. Chỉ là chính bạn.

Tôi đã từng nghe...

Bill luôn luôn muốn đi săn nai sừng tấm, cho nên anh

ta để dành đủ tiền rồi đi lên Rừng Bắc. Anh ta trang bị đủ

thứ cần thiết ở đó và người chủ hiệu còn khuyên anh ta

thuê anh chàng Pierre, người gọi nai sừng tấm giỏi nhất tại

vùng đó.

"Đúng đấy," người chủ hiệu nói, "thuê Pierre thì đắt

lắm, nhưng anh ta tạo ra dục tính trong lời gọi đến mức

không con nai nào cưỡng nổi."

"Việc ấy làm như thế nào nhỉ?" Bill hỏi.

"Thế này," người kia nói, "Pierre sẽ phát hiện ra con

nai ở khoảng cách ba trăm yard, rồi khum tay tạo ra lời gọi

thứ nhất. Khi con nai nghe thấy thế nó sẽ bị kích động với

ham muốn và lại gần hai trăm yard. Thế rồi Pierre sẽ gọi

lần nữa, nhấn thêm một chút âm oomp trong đó, và con nai

sẽ hăng hái nhảy tới với niềm hân hoan vui vẻ còn cách

một trăm yard. Lần này Pierre thực sự đưa ra lời gọi có dục

tính, kéo dài lời gọi hơn chút ít, thúc ép con nai, khuấy

động ý định nhục dục, để nó tiến tới điểm chỉ còn cách anh

có hai mươi nhăm yard. Và đấy là khoảnh khắc cho anh,

anh bạn ạ, nhằm và bắn."

"Thế lỡ tôi bắn trượt thì sao?" Bill tò mò hỏi.

"Ô, thế thì khủng khiếp lắm!" người kia nói.

"Nhưng làm sao?" Bill hỏi

"Bởi vì thế thì anh Pierre đáng thương sẽ ăn nằm với

con nai."

Điều đó đã xảy ra cho con người - bắt chước, bắt chước

mãi. Con người đã hoàn toàn mất cái nhìn về thực tại của

riêng mình. Thiền nhân nói: Tìm khuôn mặt nguyên thuỷ

của bạn (bản lai diện mục).

Mật tông cũng nói như thế. Mật tông nói: Tìm ra cái

đích thực của bạn. Bạn là ai? Nếu bạn không biết bạn là ai,

bạn bao giờ cũng trong ngẫu nhiên nào đó - bao giờ cũng

thế. Cuộc đời bạn sẽ là một chuỗi dài những ngẫu nhiên, và

bất kì cái gì xảy ra cũng chẳng bao giờ thoả mãn cả. Bất

mãn sẽ là hương vị duy nhất của cuộc đời bạn.

Bạn có thể quan sát điều đó quanh bạn. Tại sao bao

nhiêu người trông đờ đẫn, chán chường đến thế, chỉ bằng

cách nào đó sống qua ngày, bỏ qua thời gian cực kì quí giá

mà họ không thể nào lấy lại được - và trôi qua với vẻ đờ

đẫn thế, dường như chỉ chờ chết. Điều gì đã xảy ra với bao

nhiêu người như thế? Tại sao họ không có cùng tươi tắn

như cây cối? Tại sao con người không có cùng bài ca như

chim chóc? Điều gì đã xảy ra cho con người?

Một điều đã xảy ra: Con người đã bắt chước, con người

đã cố gắng để trở thành ai đó khác. Không ai ở tại nhà riêng

của mình cả, mọi người đều đang gõ cửa nhà ai đó khác; do

đó bất mãn, đờ đẫn, chán chường, khổ não...

Khi Saraha nói rằng thông minh là phẩm chất chính của

thiền, ông ấy ngụ ý điều này: Người thông minh sẽ cố gắng

chỉ là chính bản thân mình, với bất kì giá nào. Người thông

minh sẽ không bao giờ sao chép, không bao giờ bắt chước,

người đó không bao giờ là vẹt cả. Người thông minh sẽ

lắng nghe lời gọi thực chất riêng của mình. Người đó sẽ

cảm thấy bản thể riêng của mình và đi theo tương ứng, bất

kể mạo hiểm nào. Có mạo hiểm! Khi bạn sao chép người

khác, ít mạo hiểm hơn. Khi bạn không sao chép ai bạn một

mình, có mạo hiểm!

Nhưng cuộc sống chỉ xảy ra cho những ai sống một

cách hiểm nguy. Cuộc sống chỉ xảy ra cho những người

mang tính phiêu lưu, những người dũng cảm, gần như liều

lĩnh - chỉ với họ cuộc sống mới xảy ra. Cuộc sống không

xảy ra cho những người hờ hững.

Và người thông minh tin cậy vào mình, tin cậy của

người đó là tuyệt đối vào chính mình. Làm sao bạn có thể

tin cậy vào ai khác nếu bạn thậm chí không thể tin cậy vào

bản thân mình được?

Mọi người đến tôi và họ nói, "Chúng tôi muốn tin cậy

vào thầy." Tôi hỏi họ, "Bạn có tin cậy vào bản thân mình

không? Nếu bạn tin vào bản thân mình thì có khả năng để

tin cậy tôi nữa, bằng không thì chẳng có khả năng nào."

Làm sao bạn có thể tin cậy vào tôi nếu bạn không tin cậy

vào bản thân bạn? Bạn là người gần gũi nhất với bản thân

mình. Bạn có thể tin tôi nữa nếu bạn tin vào bản thân bạn.

Nếu bạn tin vào bản thân mình, thế thì bạn sẽ tin vào tin

cậy của bạn đối với tôi; bằng không chẳng có khả năng nào

cả.

Thông minh là tin cậy vào bản thể của riêng bạn.

Thông minh là phiêu lưu, xúc động, vui vẻ.

Thông minh là sống trong khoảnh khắc này, không

khao khát tương lai.

Thông minh là không suy nghĩ về quá khứ và không

bận tâm tới tương lai. Quá khứ không còn nữa, tương lai

còn chưa tới. Thông minh là sử dụng tối đa khoảnh khắc

hiện tại đang có sẵn. Tương lai sẽ tới từ nó. Nếu khoảnh

khắc này đã được sống trong thích thú và vui vẻ, khoảnh

khắc tiếp sẽ được sinh ra từ đó. Nó sẽ đem tới nhiều vui vẻ

một cách tự nhiên, nhưng chẳng cần phải bận tâm về nó.

Nếu hôm nay của tôi đã vàng son thì ngày mai của tôi sẽ

còn vàng son hơn nữa. Nó sẽ đến từ đâu vậy? Nó trưởng

thành từ hôm nay. Nếu kiếp này đã là phúc lành, kiếp sau

của tôi sẽ là phúc lành cao hơn. Nó có thể đến từ đâu? Nó

sẽ trưởng thành từ tôi, từ kinh nghiệm đã sống qua của tôi.

Cho nên người thông minh không bận tâm về thiên đường

và địa ngục, cũng chẳng bận tâm về kiếp sau, thậm chí

cũng chẳng bận tâm về Thượng đế, cũng chẳng bận tâm về

linh hồn. Người thông minh đơn giản sống một cách thông

minh, và Thượng đế cùng linh hồn và thiên đường và niết

bàn - tất cả đều theo tới một cách tự nhiên.

Bạn sống trong việc tin; tin là không thông minh. Sống

qua việc biết đi; việc biết là thông minh. Và Saraha hoàn

toàn phải: Thông minh là thiền. Người không thông minh

cũng thiền, nhưng chắc chắn họ thiền theo cách không

thông minh. Họ nghĩ rằng bạn phải đi đến nhà thờ mỗi chủ

nhật trong một giờ; điều đó được dành cho tôn giáo. Đây là

cách không thông minh để có quan hệ với tôn giáo. Nhà thờ

liên quan gì tới điều đó? Cuộc sống thực của bạn là trong

sáu ngày, chủ nhật không phải là ngày thực của bạn. Bạn sẽ

sống phi tôn giáo trong sáu ngày và rồi bạn đến nhà thờ chỉ

trong một hay hai giờ - bạn đang định lừa ai vậy? Định lừa

Thượng đế rằng bạn là người đi nhà thờ đều đặn chăng?

Hay nếu bạn cố vất vả thêm một chút thì mỗi ngày hai

mươi phút buổi sáng và hai mươi phút buổi tối bạn làm

Thiền siêu việt. Bạn ngồi nhắm mắt và lẩm nhẩm mật chú

theo một cách rất ngu xuẩn - Om, Om, Om - còn làm mụ

mẫm tâm trí hơn nữa. Việc lẩm nhẩm mật chú một cách

máy móc lấy đi thông minh của bạn; nó không cho bạn

thông minh. Nó tựa như lời ru con.

Trong suốt nhiều thế kỉ các bà mẹ đã biết về điều này.

Bất kì khi nào đứa trẻ bất ổn và không muốn ngủ, người mẹ

tới và cất lên lời ru. Đứa trẻ cảm thấy chán; rồi đứa trẻ

không thoát được - thoát đi đâu đây? Người mẹ đang ôm nó

trên giường. Cách duy nhất để trốn thoát là vào trong giấc

ngủ, cho nên nó đi vào giấc ngủ; nó đơn giản đầu hàng. Nó

nói, "Thật ngu mà thức bây giờ, vì mẹ đang làm cái việc

chán ngắt thế. Có mỗi một câu mà mẹ cứ lặp đi lặp lại

mãi!"

Có những câu chuyện mà mẹ và bà đều đem ra kể cho

đứa trẻ khi chúng không chịu ngủ. Nếu bạn nhìn vào trong

những câu chuyện này, bạn sẽ thấy một mẫu hình nào đó về

việc lặp lại thường xuyên. Mới ngày hôm nọ tôi mới đọc

một câu chuyện do bà kể cho đứa cháu nhỏ không chịu

ngủ, vì nó không cảm thấy buồn ngủ ngay lúc đó. Thông

minh của nó nói rằng nó hoàn toàn tỉnh thức, nhưng bà thì

đang buộc nó ngủ. Bà có các việc khác cần làm, đứa trẻ

không quan trọng.

Trẻ con rất lấy làm khó hiểu - mọi thứ dường như rất

ngớ ngẩn. Khi chúng muốn ngủ vào buổi sáng, mọi người

muốn đánh thức chúng dậy. Khi chúng không muốn đi ngủ

thì mọi người buộc chúng phải ngủ. Chúng trở nên rất bối

rối: đâu là vấn đề với mọi người đây? Khi giấc ngủ tới, tốt -

đó là thông minh. Khi nó không tới thì cũng hoàn toàn tốt

để tỉnh thức.

Cho nên bà già này bèn kể chuyện. Lúc đầu đứa trẻ còn

thích thú, nhưng dần dần... Bất kì đứa trẻ thông minh nào

cũng đều cảm thấy chán; chỉ có đứa ngu mới không cảm

thấy chán.

Câu chuyện là...

Một người đi ngủ và mơ rằng người đó đang đứng

trước một lâu đài lớn, và trong lâu đài có một nghìn lẻ một

phòng. Cho nên người đó đi hết phòng nọ đến phòng kia -

một nghìn phòng - rồi người đó đi tới phòng cuối cùng. Và

có một cái giường đẹp đẽ trong đó, thế là người đó lăn lên

giường, chìm vào giấc ngủ và mơ thấy mình đang đứng

trước một cánh cửa của một toà lâu đài lớn có một nghìn lẻ

một phòng. Thế là người đó lại đi vào một nghìn phòng, rồi

người đó lại tới phòng thứ một nghìn lẻ một... rồi có một

chiếc giường đẹp, thế là người đó lại ngủ và lại mơ rằng

người đó đang đứng trước một lâu đài... Câu chuyện cứ thế

mà tiếp diễn! Bây giờ thì đứa trẻ hỏi còn tỉnh táo được bao

lâu nữa? Chỉ có từ sự tẻ ngắt đó mà đứa trẻ rơi vào giấc

ngủ. Nó đang nói "Thôi kết thúc đi!"

Mật chú cũng làm điều tương tự. Bạn lẩm nhẩm Ram,

Ram, Om, Om, Allah, Allah - hay bất kì thứ gì cũng vậy.

Bạn cứ lẩm nhẩm, bạn cứ lặp lại. Bây giờ bạn đang làm hai

việc, cả việc của bà và việc của cháu. Thông minh của bạn

tựa như cháu, và việc học mật chú của bạn tựa như bà. Đứa

trẻ cố dừng bạn lại, đòi quan tâm đến việc khác, nghĩ đến

những cái đẹp đẽ - phụ nữ đẹp, cảnh trí đẹp - nhưng bạn

tóm giữ nó và đưa nó lại với Om, Om, Om. Dần dần đứa

trẻ bên trong của bạn cảm thấy rằng vô ích mà tranh đấu;

đứa trẻ bên trong đi ngủ.

Thế đấy, mật chú có thể cho bạn giấc ngủ nào đó, nó là

giấc ngủ tự thôi miên. Chẳng có gì sai trong việc này nếu

bạn đang thấy khó ngủ - nếu bạn đang phải chịu chứng mất

ngủ nó là tốt. Nhưng nó chẳng có liên quan gì tới tâm linh

cả, nó là cách thiền rất không thông minh. Thế thì cách

thiền thông minh là gì?

Cách thức thông minh là đem thông minh vào mọi thứ

bạn đang làm. Bước đi, bước cho thông minh, với nhận

biết; ăn, ăn cho thông minh, với nhận biết. Bạn có nhớ cứ

mỗi khi ăn một cách thông minh, nên nghĩ về bạn đang ăn

cái gì không? Đấy là chất bổ dưỡng, nó có giá trị bổ dưỡng

nào không? Hay bạn chỉ đang tọng vào họng mà chẳng có

chất bổ dưỡng gì?

Bạn đã bao giờ quan sát điều bạn làm chưa? Bạn hút

thuốc... Thế thì thông minh là cần thiết: bạn đang làm gì

đây? Chỉ hít khói thuốc vào rồi nhả nó ra - và đồng thời phá

huỷ luôn cả phổi của bạn nữa? Và bạn đang thực sự làm

điều gì vậy? Lãng phí tiền bạc, lãng phí sức khoẻ. Đem

thông minh vào trong khi bạn đang hút thuốc, trong khi bạn

đang ăn đi. Đem thông minh vào trong khi bạn đi và làm

tình với người đàn bà hay đàn ông của mình. Bạn đang làm

gì, bạn có yêu thực sự không? Đôi khi bạn làm tình theo

thói quen - thế thì đó là xấu, thế thì đó là vô đạo đức.

Yêu phải rất có ý thức, chỉ thế thì nó mới trở thành lời

nguyện. Trong khi làm tình với người đàn bà của bạn, bạn

đang đích xác làm gì vậy? Dùng thân thể người đàn bà chỉ

để tống bớt một số năng lượng đã trở thành quá nhiều với

bạn sao? Hay bạn đang đền đáp sự kính trọng... bạn có yêu

người đàn bà ấy không, bạn có kính trọng nào đó với người

đàn bà này không? Tôi không thấy điều đó. Chồng không

tôn trọng vợ mình, họ dùng vợ; vợ dùng chồng mình, họ

không tôn trọng nhau. Nếu tôn kính không nảy sinh từ tình

yêu, thì thông minh đang bị mất ở đâu đó. Bằng không bạn

sẽ cảm thấy cực kì biết ơn người kia, và việc làm tình của

bạn sẽ trở thành việc thiền lớn.

Dù bạn đang làm bất kì cái gì, đem phẩm chất của

thông minh vào trong đó. Làm điều đó một cách thông

minh - đó chính là điều thiền là gì. Và phát biểu của Saraha

cực kì có ý nghĩa: Thông minh là thiền.

Thông minh phải lan toả khắp toàn bộ cuộc sống bạn,

nó không phải là việc ngày chủ nhật. Và bạn không thể làm

nó trong hai mươi phút rồi quên nó - thông minh phải giống

như việc thở. Dù bạn đang làm bất kì cái gì - nhỏ, lớn, bất

kì cái gì... lau nhà - cũng đều có thể làm một cách thông

minh hay không thông minh. Và bạn biết rằng khi bạn làm

nó một cách không thông minh, không có vui vẻ; bạn thi

hành bổn phận, mang nó bằng cách nào đó.

Tôi đã từng nghe một câu chuyện minh hoạ về cách

thức tình yêu có thể bị thu lại thành bổn phận và bị phá

huỷ...

Chuyện xảy ra trong một lớp học trường dòng cho con

gái lớp chín. Lớp đang học về tình yêu của người Ki tô giáo

và ý nghĩa của nó đối với họ và cuộc sống của họ. Cuối

cùng họ quyết định rằng tình yêu người Ki tô giáo nghĩa là

'làm việc gì đó đáng yêu cho một ai đó bạn không thích'.

Trẻ con rất thông minh. Kết luận của chúng hoàn toàn phải.

Nghe lại điều đó đi. Cuối cùng chúng quyết định rằng tình

yêu người Ki tô giáo nghĩa là 'làm việc gì đó đáng yêu cho

người mà bạn không thích'.

Thầy giáo gợi ý rằng trong tuần chúng có thể kiểm

nghiệm khái niệm của chúng. Khi chúng trở lại lớp sau một

tuần, thầy yêu cầu báo cáo . Một đứa con gái giơ tay và nói,

"Con đã làm được điều gì đó!"

Thầy giáo nói, "Tuyệt vời! Con đã làm gì vậy?"

"Thế này," đứa con gái trả lời, "trong lớp học toán của

con có một đứa bé ngốc nghếch..."

Thầy giáo nói, "Ngốc nghếch à...?"

Còn đứa con gái trả lời, "Đúng đấy, thầy biết... ngốc

nghếch. Nó có bốn mắt, nó rất vụng về, và nó cao có gần

một mét, và khi nó xuống phòng họp trong trường thì mọi

người đều nói, "Đây rồi, đứa nhỏ ngốc nghếch tới rồi." Nó

chẳng có bạn bè nào và chẳng ai mời nó tham dự nhóm

nào, và ... thầy biết đấy, nó chỉ là ngốc nghếch."

Thầy giáo nói, "Thầy nghĩ thầy biết điều con định nói.

Con đã làm gì vậy?"

"Thế này, con bé ngốc nghếch đó trong lớp toán của

con và nó gặp lúc không may. Con thì khá toán trong lớp

nên con giúp nó làm bài tập về nhà."

"Tuyệt quá!" thầy giáo nói, "Rồi điều gì xảy ra?"

"Thế này, con đã giúp đỡ nó, và buồn cười là nó chẳng

cám ơn con cho đủ, nhưng bây giờ con không thể tống khứ

được nó!"

Nếu bạn đang làm điều gì đó như bổn phận - bạn không

yêu, bạn không yêu nó và bạn đang làm nó chỉ như bổn

phận - chẳng chóng thì chầy bạn sẽ bị nó bắt giữ và bạn sẽ

khó gạt bỏ nó. Quan sát ngày hai mươi bốn giờ của bạn:

bao nhiêu thứ bạn đang làm mà bạn không có hài lòng từ

đó, bạn không trưởng thành lên được từ đó? Trong thực tế

bạn muốn gạt bỏ chúng đi. Nếu bạn đang làm quá nhiều thứ

trong cuộc đời mình mà bạn thực sự muốn tống khứ đi thì

bạn đang sống không thông minh.

Người thông minh sẽ làm cuộc đời mình theo cách thức

nó là bài thơ của tính tự phát, của tình yêu, của vui vẻ. Nó

là cuộc sống của bạn và nếu bạn không đủ tốt với chính

mình, ai sẽ đủ tốt với bạn? Nếu bạn để phí hoài nó, đấy

không phải là trách nhiệm của ai đó khác. Tôi dạy bạn phải

có trách nhiệm với chính mình. Đó là trách nhiệm đầu tiên;

mọi thứ khác sẽ đến sau - mọi thứ khác! Ngay cả Thượng

đế cũng đến sau, bởi vì ngài chỉ có thể tới khi bạn có đấy.

Bạn là chính tâm điểm của thế giới của bạn, của sự tồn tại

của bạn.

Cho nên hãy thông minh, đem phẩm chất của thông

minh vào. Và bạn càng trở nên thông minh hơn, bạn càng

có khả năng đem nhiều thông minh hơn vào cuộc sống của

bạn. Từng khoảnh khắc riêng lẻ có thể trở thành chói sáng

đến thế với thông minh... Thế thì không cần đến tôn giáo

nào nữa, không cần đến thiền, không cần đến nhà thờ,

không cần đến bất kì đền đài nào, không cần bất kì cái gì

phụ thêm. Cuộc sống trong thực chất của nó đã là thông

minh.

Sống một cách toàn bộ, hài hoà, trong nhận biết, và

mọi thứ theo sau một cách đẹp đẽ. Cuộc sống của lễ hội đi

theo chói sáng của thông minh.

#8Câu hỏi tiếp - cũng có liên quan:

Osho kính yêu, phục vụ mọi người theo bổn

phận có phải là điều không tốt không?

Không, chẳng tốt tí nào, nó là xấu. Khi bạn làm việc gì

đấy chỉ theo bổn phận, không có tình yêu, bạn đang làm hại

bản thân bạn và bạn đang làm hại cả người khác nữa, bởi vì

nếu bạn không làm việc đó từ tình yêu bạn sẽ cảm thấy

rằng người khác phải biết ơn, bạn sẽ cảm thấy rằng bạn đã

làm ơn cho người khác. Bạn sẽ đợi trả ơn - trong thực tế

bạn sẽ tạo ra yêu cầu, thô thiển hay tinh vi: "Bây giờ, anh

phải làm cái gì đó cho tôi, tôi đã làm quá nhiều cho anh

rồi."

Khi bạn làm cái gì đó xuất phát từ tình yêu, bạn làm

việc đó mà chẳng có ý nghĩ nào về đền đáp cả. Đấy không

phải là mặc cả, bạn làm điều đó bởi vì bạn hạnh phúc khi

làm nó; người kia không phải biết ơn. Không phải vì tình

yêu không có đền đáp, tình yêu được đền đáp hàng nghìn

lần - nhưng duy nhất tình yêu được đền đáp, không bao giờ

có bổn phận. Trong thực tế nếu bạn đang thực thi bổn phận

với ai đó, người ấy sẽ chẳng bao giờ có khả năng tha thứ

cho bạn. Bạn có thể thấy điều ấy ở con trẻ: chúng chẳng

bao giờ có thể tha thứ được cho bố mẹ chúng. Bố mẹ chúng

phải làm bổn phận lớn. Thật khó mà tha thứ cho những

người đang thực thi bổn phận.

Kính trọng nảy sinh với những người đã yêu bạn,

không theo bất kì nghĩa bổn phận nào mà chỉ từ vui vẻ tột

đỉnh. Thấy khác biệt này. Mẹ yêu bạn chỉ bởi vì bà ấy cảm

thấy tình yêu với bạn; dù bạn có đền đáp hay không thì

cũng chẳng can hệ gì. Không có mặc cả trong đó; đấy

không phải là hợp đồng, đấy không phải là việc kinh

doanh. Nếu bạn không đền đáp, bà ấy cũng chẳng bao giờ

nói tới, bà ấy sẽ chẳng bao giờ nghĩ tới việc đó. Trong thực

tế bà ấy đã đạt tới nhiều vui vẻ trong khi yêu bạn đến mức

còn gì nữa đâu để bà ấy trông đợi?

Người mẹ bao giờ cũng cảm thấy rằng bà ấy không thể

làm được nhiều như bà ấy muốn làm. Nhưng nếu người mẹ

đang làm việc đó theo bổn phận, bà ấy cảm thấy rằng bà ấy

đã làm quá nhiều và bạn đã phản bội bà ấy, bạn đã không

đền đáp tình yêu của bà ấy. Và bà ấy sẽ thường xuyên nhồi

nhét vào đầu bạn rằng bà ấy đã làm cái này cái kia, và rằng

bà ấy đã cưu mang bạn suốt chín tháng mười ngày trong

bụng... rồi bà ấy còn kể đi kể bao nhiêu chuyện. Điều đó

chẳng giúp tạo ra được tình yêu, nó đơn giản giúp cho li

tán. Trẻ con trở nên rất, rất giận.

Tôi biết một đứa trẻ... Tôi đã ở với gia đình đó, và

người mẹ lôi đứa con trai ra trước tôi. Họ muốn tôi dạy cho

thằng bé đôi điều bởi vì nó rất vô ơn. Tôi biết rất rõ gia

đình này; tôi biết cả người bố và người mẹ, cho nên tôi biết

tại sao nó vô ơn. Họ đã làm tất cả những gì họ có thể làm

nhưng bao giờ cũng xuất phát từ cảm giác nghĩa vụ.

Tôi bảo họ, "Các bạn chịu trách nhiệm. Các bạn chưa

bao giờ yêu thằng bé cả, nó cảm thấy bị tổn thương. Các

bạn chưa bao giờ cho phép nó cảm thấy có giá trị. Tình yêu

của các bạn không phải là tình yêu, nó chỉ tựa như tảng đá

cứng đè lên trái tim thằng bé. Bây giờ nó lớn lên và có khả

năng nổi dậy chống các bạn, đó là lí do tại sao nó nổi dậy."

Đứa bé nhìn tôi với lòng biết ơn... rồi oà khóc. Nó nói,

"Bất kì ai đến gia đình này, bất kì vị khách nào, bất kì bạn

bè nào, con cũng đều bị đem ra trước toà án - mọi người

đều phải dạy cho con. Thầy là người đầu tiên... Đây đúng là

trường hợp như thế. Những người này đã tra tấn con còn

mẹ con thì suốt ngày ca cẩm, "Tao cưu mang mày trong

bụng suốt chín tháng mười ngày". Còn con thì bảo với mẹ,

"Nhưng con có yêu cầu mẹ làm như thế đâu. Điều ấy chẳng

liên quan gì với con cả, đấy là việc của mẹ, mẹ quyết định

thế. Thế sao mẹ không phá thai đi? Con đâu có can thiệp

vào. Tại sao trước hết mẹ đã mang thai? Con có xin vào vị

trí ấy đâu!" Và tôi biết nó đang giận, nhưng nó phải.

Bây giờ bạn hỏi: "Phục vụ mọi người theo bổn phận có

phải là điều không tốt không?" Không, trong thực tế nếu

bạn phục vụ mọi người theo bổn phận, bạn sẽ trở thành kẻ

tra tấn họ, bạn sẽ trở thành rất chi phối họ. Đấy là cách chi

phối, đấy là chính trị.

Bắt đầu từ việc xoa bóp chân họ, chẳng mấy chốc bạn

sẽ leo lên cổ họ, chẳng mấy chốc bạn sẽ giết họ. Và cũng tự

nhiên, khi bạn bắt đầu xoa bóp chân họ, họ sẽ duỗi chân ra,

họ nói "tốt lắm" - rồi họ chẳng biết cái gì sẽ xảy ra.

Mọi công bộc chẳng chóng thì chầy cũng đều trở thành

chính khách. Đấy là đúng cách để bắt đầu cuộc đời chính trị

của bạn: trở thành người phục vụ quần chúng. Phục vụ mọi

người theo nghĩa bổn phận và thế thì chẳng chóng thì chầy

bạn có thể nhảy lên đầu họ, thế thì bạn có thể khai thác họ.

Thế thì bạn có thể chà nát họ, và họ thậm chí chẳng thể thốt

ra một tiếng kêu nào bởi vì bạn là công bộc. Để trở thành

thầy của nhân dân, việc bắt đầu là từ phục vụ quần chúng.

Toàn bộ cách tiếp cận của tôi ở đây là để làm cho bạn

tỉnh táo với những cái bẫy này. Đấy là các trò, trò bản ngã.

Nhân danh khiêm tốn, khiêm nhường, phục vụ, bạn đang

tiến hành trò bản ngã. Hãy làm, nhưng chỉ làm từ tình yêu;

bằng không thì đừng làm. Xin chớ có làm. Tốt hơn cả là

bạn đừng làm gì cả.

Bạn sẽ có khả năng làm, bởi vì chẳng ai có thể không

làm một cách liên tục. Năng lượng được tạo ra, và bạn phải

đem cho nó - nhưng cho từ tình yêu. Khi bạn cho từ tình

yêu, bạn cảm thấy biết ơn người khác bởi vì người đó đã

chấp nhận tình yêu của bạn, người đó đã chấp nhận năng

lượng của bạn, người đó đã chia sẻ với bạn, người đó đã đỡ

gánh nặng cho bạn.

Làm chỉ khi bạn có thể cảm thấy biết ơn người mà bạn

đã làm cho, không vì cái gì khác.

#8Câu hỏi thứ ba:

Osho kính yêu, tại sao ghen bao giờ cũng

theo sau yêu như cái bóng?

Ghen chẳng liên quan gì với yêu. Trong thực tế cái gọi

là yêu của bạn cũng chẳng liên quan gì với yêu cả. Đấy là

những lời lẽ hoa mĩ bạn dùng mà chẳng biết chúng nghĩa là

gì, chẳng kinh nghiệm được chúng nghĩa là gì. Bạn cứ dùng

từ yêu: bạn dùng nó nhiều đến mức bạn quên mất sự kiện là

bạn còn chưa kinh nghiệm nó. Đấy là một trong những

nguy hiểm của việc dùng những lời đẹp đẽ: 'Thượng đế',

'tình yêu', 'niết bàn', 'lời nguyện' - toàn những lời đẹp. Bạn

vẫn cứ dùng chúng, bạn vẫn cứ lặp lại chúng, và dần dần

bởi chính việc lặp lại đó mà làm cho bạn có cảm giác

dường như bạn biết về chúng.

Bạn biết gì về yêu? Nếu bạn biết điều gì đó về yêu, bạn

không thể hỏi câu hỏi này, bởi vì ghen chẳng bao giờ hiện

diện trong yêu. Và bất kì khi nào ghen hiện diện, thì yêu

không hiện diện. Ghen không phải là một phần của yêu,

ghen là một phần của sở hữu. Sở hữu chẳng liên quan gì

với yêu cả. Bạn muốn sở hữu; qua sở hữu bạn cảm thấy

mạnh, lãnh thổ của bạn lớn hơn. Và nếu ai đó khác định

xâm lấn vào lãnh thổ của bạn, bạn giận dữ. Hay nếu ai đó

có ngôi nhà lớn hơn ngôi nhà của bạn, bạn ghen tị. Hay nếu

ai đó định tước quyền sở hữu tài sản của bạn, bạn ghen và

giận dữ. Nếu bạn yêu, ghen là không thể được, điều ấy

không thể có một chút nào.

Tôi đã từng nghe...

Cao trên vùng lạnh cóng Yukon có hai người đánh bẫy

đang dừng lại ở nơi dân cư cuối cùng để lấy lương thực

chuẩn bị cho mùa đông tối tăm lâu dài. Sau khi họ đã chất

đầy các cỗ xe trượt tuyết với bột mì, đồ hộp, dầu lửa, diêm

và đạn dược, họ đã sẵn sàng cho chuyến đi bằng xe chó kéo

trong sáu tháng trong vùng hoang vu.

"Đợi một chút anh bạn," người giữ kho gọi họ, "Sao

các anh không lấy một trong những thứ này?" Và ông ta chỉ

cho họ một cái bàn lớn cong như chiếc đồng hồ cát.

"Cái gì thế này?" Một trong những người đánh bẫy hỏi.

Người giữ kho nháy mắt. "Nó được gọi là cái bàn tình

yêu. Các anh có thể ôm ấp nó khi các anh đơn độc."

"Chúng tôi sẽ lấy hai chiếc!" Bọn họ kêu lên.

Sáu tháng sau một trong những người đánh bẫy, râu ria

tua tủa, mặt mũi hốc hác trở .

"Bạn thân của anh đâu rồi?" người chủ kho hỏi.

"Phải bắn nó rồi," người đánh bẫy lầm bầm, "tôi bị

nhiễm lộn xộn từ nó xung quanh cái bàn tình yêu của tôi."

Ghen chẳng liên quan gì với yêu cả. Nếu bạn yêu người

đàn bà của mình, làm sao bạn có thể ghen được? Nếu bạn

yêu người đàn ông của mình, làm sao bạn có thể ghen

được? Nếu người đàn bà của bạn cười với ai đó khác, làm

sao bạn có thể ghen được? Bạn sẽ hạnh phúc; chính là

người đàn bà của bạn đang hạnh phúc. Hạnh phúc của cô

ấy là hạnh phúc của bạn - làm sao bạn có thể nghĩ những

điều chống hạnh phúc của cô ấy?

Nhìn, quan sát đi. Bạn cười câu chuyện này nhưng nó

đang xảy ra ở mọi nơi, trong mọi gia đình. Vợ thậm chí còn

ghen cả với tờ báo nếu chồng chúi mũi vào đọc báo nhiều

quá. Cô ấy tới và vò nó đi, cô ấy trở nên ghen. Tờ báo đang

thay thế cô ấy. Trong khi cô ấy hiện diện, làm sao bạn dám

đọc báo? Đấy là xúc phạm! Khi cô ấy có đấy, bạn phải bị

cô ấy sở hữu hoàn toàn, thậm chí một tờ báo cũng không

được... Tờ báo trở thành kẻ tình địch, cho nên nói gì về

người khác? Nếu vợ hiện diện và chồng bắt đầu nói tới

người đàn bà khác và trông có vẻ hơi hạnh phúc - điều này

cũng tự nhiên... mọi người đều mệt mỏi với nhau; bất kì cái

gì mới và người ta cảm thấy một chút xúc động - bây giờ

người vợ giận dữ. Bạn có thể biết rõ rằng nếu một đôi đang

đi bên nhau và người đàn ông trông có vẻ buồn thì người

đó là người chồng đã cưới người đàn bà đó. Nếu người đó

trông có vẻ sung sướng thì người đó không cưới người đàn

bà đó, cô ấy không phải là vợ anh ta.

Có lần tôi đi trong một chuyến xe lửa và có một người

đàn bà trong cùng khoang. Cứ tại mỗi ga một người đàn

ông tới... khi thì anh ta mang chuối, khi thì anh ta mang trà

và kem rồi thứ này thứ nọ.

Tôi hỏi cô ấy, "Người đàn ông này là ai vậy?"

Cô ấy nói, "Anh ấy là chồng cháu."

Tôi nói, "Tôi không thể tin cậy được điều đó, tôi không

thể tin điều đó. Anh chị cưới nhau đã lâu chưa?"

Cô ấy trở nên hơi lúng túng, cô ấy nói, "Vì bác cứ

khăng khăng như thế, chúng cháu chưa cưới nhau. Nhưng

làm sao bác biết được việc ấy?"

Tôi nói, "Tôi chưa bao giờ thấy bất kì anh chồng nào

ga nào cũng tới như thế cả. Một khi anh chồng tống khứ

được cô vợ thì anh ta sẽ chỉ tới ở ga cuối với hi vọng rằng

cô ấy đã biến mất ở đâu đó giữa đường. Mỗi ga lại đem

một thứ gì tới... thứ này thứ nọ... rồi chạy đi chạy lại từ toa

của anh ta..."

Cô ấy nói, “Bác phải đấy, anh ấy không phải là chồng

cháu. Anh ấy chỉ là bạn của chồng cháu."

"Thảo nào - thế thì không có vấn đề gì...!"

Bạn không thực sự trong tình yêu với người đàn bà của

mình, hay với người đàn ông của mình, hay với bạn bè của

bạn. Nếu bạn đang trong tình yêu, hạnh phúc của người kia

là hạnh phúc của bạn. Nếu bạn đang yêu thì bạn sẽ không

tạo ra bất kì sở hữu nào.

Yêu có khả năng đem cho tự do hoàn toàn. Chỉ yêu mới

có khả năng cho tự do hoàn toàn. Và nếu tự do không được

cho, nó là một cái gì khác, không phải yêu. Nó là một kiểu

trò bản ngã nào đó. Bạn có người đàn bà đẹp; bạn muốn

trưng cho mọi người trong khắp thành phố rằng bạn có

người đàn bà đẹp - hệt như thứ của cải. Hệt như khi bạn có

chiếc xe hơi và bạn đang trong xe muốn cho mọi người biết

rằng không ai có chiếc xe đẹp như thế, hệt như trường hợp

với người đàn bà của bạn. Bạn đeo nhẫn kim cương cho cô

ấy - nhưng không phải từ tình yêu. Cô ấy là vật trang điểm

cho bản ngã của bạn. Bạn mang cô ấy hết câu lạc bộ này

đến câu lạc bộ khác, nhưng cô ấy vẫn còn bám vào bạn và

liên tục trưng ra rằng cô ấy thuộc về bạn. Bất kì xâm phạm

nào vào quyền của bạn đều làm bạn giận dữ, bạn có thể giết

người đàn bà... người bạn nghĩ là bạn yêu.

Có bản ngã rất lớn vận hành ở mọi nơi. Chúng ta muốn

mọi người đều giống như đồ vật. Chúng ta sở hữu họ giống

như đồ vật, chúng ta thu con người thành đồ vật. Đấy cũng

là thái độ chung về mọi vật.

Tôi đã từng nghe...

Một giáo sĩ Do Thái và một linh mục là hàng xóm nhau

và có một chút ít "ganh đua" giữa họ. Nếu Cohens có chiếc

xe ngựa mới làm thì Cha O'Flynn có xe với tốp ngựa... và

sự việc cứ sánh đôi như vậy. Một hôm linh mục đem về xe

Jaguar mới, cho nên giáo sĩ phải mua xe Bentley. Khi giáo

sĩ nhìn ra cửa sổ thì thấy rằng linh mục đang tưới nước lên

trên nóc máy ô tô. Ông ta mở cửa sổ ra và nói to, "Bác

cũng biết đấy không phải là cách đổ đầy bộ toả nhiệt."

"A ha!" linh mục nói, "tôi đang làm lễ rửa tội cho nó

bằng nước thánh - như thế còn nhiều hơn cả việc bác làm

cho chiếc xe của bác."

Một chút sau đó linh mục sửng sốt nhìn thấy giáo sĩ

đang nằm trên đường, cưa sắt trong tay, đang cưa đoạn cuối

cùng của ống xả xe ông ấy.

Đó là tâm trí - liên tục trong đua tranh. Bây giờ ông ta

đang cắt bao qui đầu. Ông ta phải làm việc gì đó. Đó là

cách thức chúng ta đang sống, cách thức của bản ngã. Bản

ngã không biết tình yêu, bản ngã không biết tình bạn, bản

ngã không biết từ bi. Bản ngã chỉ gây hấn, bạo hành.

Và bạn hỏi: "Tại sao ghen luôn bám lấy yêu như cái

bóng?"

Chẳng bao giờ như thế cả. Yêu không tạo ra hình bóng

chút nào. Yêu trong suốt đến độ nó không tạo ra hình bóng.

Yêu không phải là vật rắn, nó trong suốt. Không có hình

bóng nào được tạo ra từ yêu cả. Yêu là hiện tượng duy nhất

trên trái đất không tạo ra hình bóng.

#8Câu hỏi thứ tư:

Osho kính yêu, kìm nén là gì?

Kìm nén là sống một cuộc sống mà bạn không định

sống, kìm nén là làm những điều bạn chẳng bao giờ muốn

làm; kìm nén là trở thành người mà bạn không muốn thế.

Kìm nén là cách phá huỷ bản thân bạn, kìm nén là tự tử -

rất chậm dĩ nhiên, nhưng rất chắc chắn, sự đầu độc chậm

chạp. Diễn đạt là cuộc sống; kìm nén là tự tử.

Đây là thông điệp của Mật tông: Đừng sống cuộc sống

kìm nén, bằng không bạn không sống chút nào cả. Sống

một cuộc sống diễn đạt, sáng tạo, vui vẻ. Sống theo cách

Thượng đế mong muốn bạn sống; sống một cách tự nhiên.

Và chớ có sợ các tu sĩ. Lắng nghe bản năng mình, lắng

nghe thân thể mình, lắng nghe trái tim mình, lắng nghe

thông minh của bạn. Phụ thuộc vào chính bạn, và đi bất kì

đâu mà tự phát của bạn đưa tới, bạn sẽ chẳng bao giờ lúng

túng cả. Và đi một cách tự phát với cuộc sống tự nhiên của

bạn, một ngày nào đó bạn chắc chắn sẽ tới cánh cửa của

điều thiêng liêng.

Bản tính bạn là Thượng đế bên trong bạn. Sức kéo của

bản tính đó là sức kéo của Thượng đế bên trong bạn. Chớ

nghe những kẻ đầu độc, lắng nghe sức kéo của tự nhiên.

Vâng, tự nhiên cũng chưa đủ: còn có cả tự nhiên cao hơn -

nhưng cái cao hơn đến từ cái thấp hơn, hoa sen trưởng

thành từ bùn. Qua thân thể mà linh hồn trưởng thành. Qua

dục mà samadhi trưởng thành.

Nhớ lấy, qua thức ăn mà tâm thức trưởng thành. Ở

phương Đông chúng ta thường nói: Annam Brahma - thức

ăn là Thượng đế. Kiểu khẳng định gì thế này, rằng thức ăn

là Thượng đế? Thượng đế trưởng thành từ thức ăn: cái thấp

nhất được gắn với cái cao nhất, cái nông nhất được gắn với

cái sâu nhất.

Bây giờ các tu sĩ vẫn đang dạy bạn kìm nén phần thấp.

Và họ rất logic. Họ chỉ quên mỗi một điều - rằng Thượng

đế phi logic. Họ rất logic và điều đó hấp dẫn bạn, đó là lí

do tại sao bạn đã lắng nghe suốt bao nhiêu thời đại và đi

theo họ. Điều đó hấp dẫn bạn bởi lí do nếu bạn muốn đạt

tới cái cao hơn thì đừng nghe lời cái thấp hơn. Điều đó

dường như logic: nếu bạn muốn lên cao, bạn không thể đi

xuống thấp được. Thế thì đừng đi xuống thấp, hãy đi lên

cao - điều ấy rất hợp lí. Chỉ có mỗi điều rắc rối là Thượng

đế không hợp lí.

Mới hôm nọ Dhruva vừa nói chuyện với tôi. Trong

nhóm Sahaj của anh ta đôi khi có một số khoảnh khắc mà

toàn thể nhóm rơi vào im lặng - im lặng không từ đâu cả,

im lặng đến từ trời xanh. Và những khoảnh khắc im lặng đó

cực kì đẹp đẽ làm sao. Và anh ta nói, "Những khoảnh khắc

này bí ẩn thế. Chúng tôi không chế ngự chúng, chúng tôi

không nghĩ về chúng, chúng chỉ thỉnh thoảng tới. Nhưng

khi chúng tới toàn thể nhóm lập tức cảm thấy sự hiệu diện

của cái gì đó thiêng liêng, hay cái gì đó cao cả, cái gì đó

còn lớn hơn mọi người khác. Và mọi người lập tức trở nên

nhận biết rằng cái gì đó đang hiện diện, cái gì đó bí ẩn. Và

mọi người đều đi vào im lặng trong những khoảnh khắc

đó."

Bây giờ tâm trí logic của anh ta nghĩ, "Như vậy sẽ tốt

nếu mình có thể làm cho toàn thể nhóm trở thành im lặng."

Anh ta phải bắt đầu nghĩ, "Nếu những khoảnh khắc đó -

một đôi lần thôi - đẹp đẽ đến thế thì tại sao không làm cho

toàn thể nhóm im lặng?" Tôi nói, "Cách bạn nghĩ là như thế

đấy - logic, mà Thượng đế không logic. Nếu bạn cứ giữ im

lặng những khoảnh khắc đó sẽ chẳng bao giờ quay lại nữa."

Có một cực trong cuộc sống. Cả ngày bạn làm việc vất

vả, bạn chẻ củi, rồi đến đêm bạn đi vào giấc ngủ say nhất.

Bây giờ điều logic là - bạn có thể nghĩ một cách logic, đó là

toán học - sáng hôm sau bạn có thể nghĩ, "Cả ngày mình đã

làm việc nhiều thế và mệt mỏi, thế mà vẫn có giấc ngủ say

đến thế. Nếu mình thực hiện nghỉ cả ngày thì mình sẽ còn

có giấc ngủ say hơn nữa." Cho nên hôm sau bạn cứ nằm dài

trong ghế nghỉ, bạn thực hành nghỉ. Bạn có nghĩ là bạn sẽ

có giấc ngủ say không? Bạn sẽ mất ngay cả giấc ngủ thông

thường. Đấy là cách thức người giầu phải chịu đựng chứng

mất ngủ.

Thượng đế phi logic. Thượng đế đem giấc ngủ cho

người ăn xin, người đã làm việc cả ngày, đi hết chỗ nọ chỗ

kia trong mùa hè nóng bức, đi ăn xin. Thượng đế đem giấc

ngủ say cho người lao động, cho người đẽo đá, cho tiều

phu. Cả ngày họ đã mệt mỏi... từ mệt mỏi đó họ đi vào giấc

ngủ say.

Đây là một cực. Bạn càng cạn kiệt năng lượng, bạn

càng cần ngủ, bởi vì bạn chỉ có thể thu được nhiều năng

lượng từ giấc ngủ say. Nếu bạn dùng hết năng lượng của

mình, bạn tạo ra tình huống để cho bạn chìm vào giấc ngủ

say; Thượng đế phải cho bạn giấc ngủ say. Nếu bạn không

làm việc chút nào thì không có nhu cầu. Bạn đã không

dùng hết năng lượng được trao cho bạn, cho nên phỏng có

ích gì cho bạn thêm? Năng lượng chỉ được trao cho những

người dùng nó.

Bây giờ Dhruva mang tính logic. Anh ta nghĩ, "Nếu

chúng ta làm cho cả nhóm im lặng..." Nhưng ngay cả một

vài khoảnh khắc ấy rồi cũng sẽ bị lỡ, và toàn thể nhóm sẽ

trở thành rất, rất hay tán gẫu bên trong. Tất nhiên nhìn bên

ngoài họ vẫn còn im lặng, nhưng tâm trí của họ chạy phát

rồ bên trong. Ngay bây giờ họ đang làm việc vất vả, họ

đang bầy tỏ các xúc động, đang thanh tâm, đang đem mọi

thứ lên, tống mọi thứ ra; họ đang trở nên bị cạn kiệt. Thế

rồi tới vài khoảnh khắc khi họ bị cạn kiệt đến mức chẳng

còn gì để tống ra nữa. Trong khoảnh khắc đó, bỗng nhiên

có tiếp xúc; im lặng giáng xuống.

Nghỉ ngơi bắt nguồn từ lao động, im lặng bắt nguồn từ

biểu lộ. Đấy là cách Thượng đế làm việc. Cách thức của

ngài rất phi lí. Bây giờ nếu bạn thực sự muốn được an toàn

bạn sẽ phải sống một cuộc sống bất an. Nếu bạn thực sự

muốn sống, bạn sẽ phải sẵn sàng chết vào bất kì lúc nào.

Đấy là cái phi logic của Thượng đế! Nếu bạn thực sự muốn

đúng đắn chân thực, bạn sẽ phải mạo hiểm. Kìm nén chỉ là

cách tránh mạo hiểm.

Chẳng hạn, bạn đã được dạy đừng bao giờ giận dữ và

bạn nghĩ rằng người không bao giờ giận dữ nhất định là

người rất đáng yêu. Bạn lầm. Người không bao giờ giận dữ

sẽ không thể nào yêu được. Chúng đến cùng nhau, chúng

thường trong cùng một bọc. Người thực sự yêu đôi khi

cũng thực sự giận dữ. Nhưng cái giận của người đó là đẹp,

nó xuất phát từ tình yêu. Năng lượng của người đó nóng, và

bạn sẽ không cảm thấy tổn thương bởi giận dữ của người

đó. Trong thực tế, bạn sẽ cảm thấy biết ơn là người đó đã

giận dữ.

Bạn đã bao giờ quan sát điều đó chưa? Nếu bạn yêu ai

đó và bạn làm việc gì đó rồi người kia thực sự giận dữ, giận

dữ thẳng thắn, bạn cảm thấy biết ơn bởi vì người đó đã yêu

bạn nhiều đến mức người đó có thể đảm đương được giận

dữ. Bằng không tại sao...? Khi bạn không muốn đảm đương

giận dữ bạn vẫn còn lễ phép. Khi bạn không muốn đảm

đương điều gì đó bạn không muốn nhận bất kì mạo hiểm

nào, bạn cứ mỉm cười; điều ấy chẳng thành vấn đề. Nếu

con bạn định nhảy xuống vực thẳm liệu bạn vẫn còn không

giận được không? Bạn sẽ không kêu to lên chứ, bạn sẽ

không trở thành một năng lượng sôi sục chứ? Bạn có tiếp

tục mỉm cười được không? Điều ấy là không thể được.

Có một câu chuyện...

Ngày xưa câu chuyện đã xảy ra ở toà án Solomon, có

hai người đàn bà đánh nhau kịch kiệt để giành một đứa trẻ.

Cả hai đều lu loa rằng đứa trẻ là của mình. Thật rất khó

phân xử - quyết định thế nào đây? Đứa trẻ quá nhỏ nên nó

chưa nói được điều gì.

Solomon nhìn sự việc và nói, "Có một điều ta sẽ làm để

phân xử - ta sẽ chặt đôi đứa trẻ này và chia cho mỗi người

một nửa. Đấy là cách duy nhất. Ta phải công bằng và vô tư;

cả hai bên đều chẳng có bằng chứng nào chứng tỏ đứa trẻ

thuộc về A hay B. Cho nên với tư cách nhà vua ta quyết

định: Chặt đôi đứa trẻ và chia đều cho mỗi bên một nửa.

Người đàn bà đang ôm đứa trẻ tiếp tục mỉm cười, bà ta

rất vừa ý. Nhưng người đàn bà kia thì trở thành điên dại

dường như bà ấy muốn giết chết nhà vua! Bà ấy nói, "Bệ hạ

nói gì vậy? Bệ hạ điên à?" Bà ấy đang trong cơn cuồng nộ.

Bà ấy không còn là người đàn bà bình thường nữa, bà ấy là

hiện thân của giận dữ, bà ấy là ngọn lửa! Và người đàn bà

này nói, "Nếu đấy là công bằng thì tôi xin dẹp lời yêu cầu

của mình; hãy để cho đứa trẻ ở với người đàn bà kia. Đứa

trẻ thuộc về bà ấy, nó không phải là con tôi!" Giận dữ,

nước mắt dàn dụa khắp khuôn mặt bà ta.

Còn nhà vua thì nói, "Đứa trẻ thuộc về bà. Bà hãy giữ

lấy nó. Người đàn bà kia chỉ là giả dối, không thật." Người

đàn bà kia không thể biểu lộ được cái gì - và đứa trẻ sẽ bị

giết chết! Thực tế bà ta vẫn tiếp tục cười, chẳng thành vấn

đề gì với bà ta cả.

Khi bạn yêu bạn có thể giận. Khi bạn yêu bạn có thể

đảm đương được điều đó. Nếu bạn yêu chính mình - và

phải như thế trong cuộc sống, bằng không bạn sẽ bỏ lỡ

cuộc sống của mình - bạn sẽ không bao giờ kìm nén, bạn sẽ

bầy tỏ bất kì cái gì cuộc sống đem lại. Bạn sẽ bầy tỏ nó - cả

vui vẻ, nỗi buồn, đỉnh điểm, đáy điểm, cả ngày, cả đêm.

Nhưng bạn đã được nuôi dưỡng để trở nên giả dối, bạn

đã được nuôi dưỡng theo cách để trở thành kẻ đạo đức giả.

Khi bạn cảm thấy giận bạn vẫn cứ nở nụ cười tô vẽ. Khi

bạn đang cuồng nộ bạn kìm nén cơn cuồng nộ đó. Khi bạn

cảm thấy dâm dục bạn kìm nén nó và bạn cứ tụng mật chú.

Bạn chẳng bao giờ đúng với cái bên trong bạn.

Chuyện xảy ra...

Joe và con gái nhỏ của anh ta Midge làm một chuyến đi

tới công viên giải trí; trên đường họ dừng lại ăn một bữa

thịnh soạn. Tại công viên họ tới một gian hàng bánh mì kẹp

thịt và Midge kêu ầm lên, "Bố ơi, con muốn..." Joe dừng

con lại và mua cho con một chiếc bánh với đủ rau thơm.

Đến quầy ngô rang Midge lại la hét, "Bố ơi, con muốn..."

Joe cắt lời con và mua cho nó ngô rang.

Khi họ đến hàng kem, cô bé Midge lần nữa lại kêu lên,

"Bố ơi, con muốn..." Joe lại dừng con nhưng lần này nói,

"Con muốn, con muốn! Bố biết cái con muốn - kem chứ

gì!"

"Không, bố ạ," nó đoan chắc, "Con muốn nôn."

Đấy là điều nó muốn ngay từ ban đầu - nhưng ai nghe?

Kìm nén là không chịu nghe bản tính của bạn. Kìm nén

là thủ đoạn để phá huỷ bạn.

Mười hai gã trọc đầu, lũ quấy rối, bước vào một tiệm

rượu với áo vét Levi cài kín và đủ mọi trang bị. Chúng

bước tới chủ quán và nói, "Mười ba cốc bia đắng, mau lên."

"Nhưng các cậu chỉ có mười hai người."

"Này, chúng tao muốn mười ba cốc bia đắng."

Thế là chủ quán đưa bia cho chúng và tất cả chúng ngồi

xuống. Có một ông già nhỏ bé đang ngồi trong góc và tên

trưởng nhóm trọc đầu bước tới ông lão và nói, "Ông đấy à,

cha nội, đây là cốc bia cho ông."

Ông già nhỏ bé đáp, "Cám ơn, cám ơn - cậu thực hào

phóng, cậu bạn trẻ."

"Được thôi, chúng tôi không băn khoăn khi giúp đỡ

người què cụt."

"Nhưng tôi đâu có què."

"Ông sẽ què nếu ông không mua lượt bia tiếp."

Đấy là điều kìm nén là gì: nó là thủ đoạn làm què quặt

bạn. Nó là thủ đoạn phá huỷ bạn, nó là thủ đoạn làm yếu

bạn. Nó là thủ đoạn để đặt bạn chống lại chính mình: nó là

cách tạo ra xung khắc bên trong bạn, và bất kì khi nào một

người trong xung khắc với mình, tất nhiên người đó rất

yếu.

Xã hội đã chơi một trò chơi lớn: nó đẩy mọi người

chống lại chính mình. Cho nên bạn liên tục tranh đấu bên

trong với chính mình, bạn không còn năng lượng nào để

làm cái gì khác. Bạn không thể thấy nó đang xảy ra cho bạn

đấy sao? Liên tục tranh đấu... Xã hội đã phân chia bạn

thành một con người chia chẻ, nó làm cho bạn thành tinh

thần phân liệt và nó làm bạn lẫn lộn. Bạn đã trở thành khúc

gỗ trôi giạt: bạn không biết mình là ai, bạn không biết bạn

đang đi đâu. Bạn không biết bạn đang làm gì ở đây, bạn

không biết tại sao bạn lại ở đây ngay chỗ đầu tiên. Nó đã

làm bạn thực sự lẫn lộn. Và từ lẫn lộn này mới sinh ra các

lãnh tụ lớn: Aldolf Hitler, Mao Trạch Đông, Josef Stalin.

Và từ lẫn lộn này nảy sinh giáo hoàng Vatican, từ lẫn lộn

này cả nghìn lẻ một thứ nảy sinh ra. Nhưng bạn bị phá huỷ.

Mật tông nói cần phải diễn đạt - nhưng nhớ, diễn đạt

không có nghĩa vô trách nhiệm. Mật tông nói: diễn đạt một

cách thông minh và không hại gì xảy ra cho bất kì ai từ

bạn. Một người không thể làm hại chính mình thì sẽ chẳng

bao giờ làm hại bất kì ai. Còn người làm hại bản thân mình

thì là người nguy hiểm theo cách nào đó. Nếu người đó

thậm chí không yêu bản thân mình, người đó là nguy hiểm,

người đó có thể làm hại bất kì ai. Trong thực tế người đó sẽ

làm hại.

Khi bạn buồn, khi bạn thất vọng, bạn sẽ làm cho những

người xung quanh bạn cũng buồn và thất vọng. Khi bạn

hạnh phúc bạn sẽ tạo ra xã hội hạnh phúc, bởi vì hạnh phúc

chỉ tồn tại trong thế giới hạnh phúc. Nếu bạn sống vui vẻ

bạn cũng muốn mọi người được vui vẻ. Đấy mới là tôn

giáo đúng đắn: từ vui vẻ của chính bạn, bạn ban phúc cho

toàn bộ sự tồn tại.

Nhưng kìm nén làm cho bạn thành giả. Không phải là

bằng kìm nén mà giận, dục, tham bị phá huỷ, không. Chúng

vẫn còn đấy - chỉ có cái nhãn được thay đổi. Chúng đi vào

trong vô thức, chúng bắt đầu làm việc từ đó, chúng đi

ngầm. Và tất nhiên khi chúng đi ngầm chúng mạnh hơn.

Toàn bộ phong trào phân tâm học đang cố đem những cái

đi ngầm đó lên bề mặt. Một khi nó trở thành ý thức, bạn có

thể được tự do khỏi nó.

Một người Pháp đang ở Anh và bạn bè hỏi anh ta sống

thế nào. Anh ta nói anh ta làm việc rất tốt, trừ mỗi một

điều. "Khi tôi đến dự tiệc, bà chủ ấy, bà ấy chẳng nói cho

tôi biết 'buồng tiểu' ở đâu."

"A, anh George, anh muốn nói bà ấy không nói cho anh

toa lét ở đâu chứ gì. Đấy chỉ là tính thận trọng của người

Anh thôi. Thực tế bà ấy sẽ nói, "Ông có muốn rửa tay

không?" và điều đó mang cùng nghĩa."

Người Pháp ghi nhớ trong dạ điều này, và lần sau khi

anh ta đến một bữa tiệc khách khứa đang đứng đầy xung

quanh nghe bà chủ dặn dò, "Xin chào, thưa ông Du Pont,

ông có cần rửa tay không ạ?"

"Không thưa bà, cám ơn bà, tôi vừa mới rửa tay trước

cái cây trong vườn trước rồi ạ."

Đấy là điều vẫn xảy ra... chỉ cái tên là đổi. Bạn trở nên

lẫn lộn, bạn không biết cái gì là cái gì. Mọi thứ vẫn đấy -

chỉ cái nhãn thay đổi, và điều đó tạo ra một loại người

không lành mạnh. Bố mẹ bạn, xã hội bạn đã phá huỷ bạn;

bạn đang phá huỷ con bạn. Bây giờ đây là cái vòng luẩn

quẩn. Ai đó phải bước ra ngoài cái vòng luẩn quẩn này.

Nếu bạn hiểu đúng tôi thì tính chất sannyas của tôi là

nỗ lực để đem bạn ra ngoài cái vòng luẩn quẩn đó.

Chớ có giận bố mẹ bạn - họ không thể nào làm tốt hơn

những gì họ đã làm. Nhưng bây giờ trở nên ý thức nhiều

hơn, và đừng làm cũng những việc đó với con cái bạn. Để

cho chúng được diễn đạt nhiều hơn, dạy chúng diễn đạt

nhiều hơn. Giúp chúng để cho chúng trở nên chân thực

hơn, để cho chúng có thể đưa ra bất kì cái gì bên trong

chúng. Và chúng sẽ cực kì biết ơn bạn mãi, bởi vì sẽ không

có xung khắc bên trong chúng. Chúng sẽ là một khối,

chúng sẽ không trong phân mảnh. Và chúng sẽ chẳng bao

giờ bị lẫn lộn, chúng bao giờ cũng biết điều chúng muốn.

Và khi bạn biết đích xác điều mình muốn, bạn có thể

làm việc vì nó. Khi bạn không biết bạn thực sự muốn gì,

làm sao bạn làm việc vì nó được? Thế thì bất kì ai ảnh

hưởng tới bạn, bất kì ai nêu cho bạn bất kì ý tưởng nào... và

bạn bắt đầu theo người ấy. Bất kì lãnh tụ nào tới, bất kì ai

có thể thuyết phục bạn một cách có luận cứ, bạn đều bắt

đầu theo người đó. Bạn phải theo nhiều người, và họ tất cả

đều phá huỷ bạn.

Theo bản tính của mình thôi.

Thế hệ nọ phá huỷ thế hệ kia. Chừng nào ai đó còn

chưa trở nên rất tỉnh táo, nhận biết, việc phá huỷ nhất định

xảy ra.

#8Câu hỏi cuối cùng:

Osho kính yêu, tại sao tôi đã lấy người đàn

bà ghét tôi? Tôi cũng ghét cô ấy nữa?

Làm sao tôi biết được tại sao bạn lấy người đàn bà bạn

ghét và người đó ghét bạn? Có thể - đây chỉ là phỏng đoán

- các bạn đã lấy nhau bởi vì các bạn ghét nhau.

Có hai loại hôn nhân: hôn nhân vì yêu và hôn nhân vì

ghét. Hôn nhân vì yêu rất hiếm hoi; trong thực tế chúng

không xảy ra. Cái gọi là hôn nhân thường là hôn nhân vì

ghét. Chí ít về phần đàn bà điều đó rất đúng. Nếu họ muốn

tra tấn bạn, họ sẽ lấy bạn, bởi vì không có cách nào chắc

chắn hơn để tra tấn bạn. Đấy là cách tốt nhất.

Tôi đã từng nghe...

Mulla Nasruddin đã tự đẩy mình vào một tình thế rất

khó xử. Anh ta đã tán tỉnh ba cô một lúc, hứa hẹn với mỗi

người rằng anh ta sẽ lấy cô ấy. Sau đó họ gây sức ép lên

anh ta để buộc anh ta thực hiện lời hứa. Vô phương kế, anh

ta đến tư vấn luật sư của mình.

"Tôi gợi ý," luật sư nói, "rằng anh hãy để tôi thông báo

cho tất cả các báo rằng anh đã tự tử. Sau đó ta sẽ tổ chức

một đám tang giả... điều đó sẽ giải quyết rắc rối cho anh."

Họ lập tức bắt tay vào hành động. Trong khi luật sư

điện thoại đi khắp các toà báo thì Mulla thu xếp mọi sự cần

thiết với người làm dịch vụ lễ tang. Đó là một đám tang rất

ấn tượng. Vào đúng giờ mọi người sắp hàng trọng thể xung

quanh quan tài để nói lời vĩnh biệt cuối cùng với người đã

quá cố. Và rồi ba cô bạn của anh ta tới.

"Nasruddin đáng thương ơi," cô gái thứ nhất thở dài khi

nhìn vào cái xác, "anh ấy là một kẻ đáng khinh, nhưng em

chắc chắn là lỡ anh."

"Tạm biệt, Nasruddin," cô gái thứ hai khóc, "những

điều quá tồi tệ chẳng làm được tốt hơn."

Nhưng cô gái thứ ba thì phát rồ. "Anh là đồ chó dơ

dáy! - chết trước em sau khi đã hứa hẹn cưới nhau. Vì thế

em phải bắn anh, cho dù anh đã chết! Ít nhất điều đó mới

làm em hả giận." Nói rồi cô ta rút khẩu súng lục ra khỏi ví

và chĩa vào hình dáng người đang nằm sấp.

"Hượm đã! Đừng có quá kích động!" cái xác kêu lên,

lồm cồm bò dậy. "Em, anh sẽ cưới em!"

Tôi không biết tại sao bạn lại lấy người đàn bà ghét bạn

và bạn cũng ghét người đó. Nhưng quan sát xem: bạn phải

đang trong tình trạng lộn xộn ghê lắm. Nhưng mọi người

đều thế, cho nên đừng lo nghĩ. Điều này là tự nhiên, điều

kiện thông thường của nhân loại. Mọi người đều trong lộn

xộn. Không ai biết tại sao người ta định làm cái gì đó. Đôi

khi bạn lấy người đàn bà bởi khuôn mặt cô ta quyến rũ.

Nhưng hôn nhân liên quan gì tới khuôn mặt? Sau hai hay

ba ngày tuần trăng mật sẽ chấm dứt và bạn sẽ chẳng bao

giờ nhìn lại vào khuôn mặt đó nữa. Và bạn chẳng bao giờ

lấy được người đàn bà thực, bạn chỉ lấy được khuôn mặt,

hình dáng nào đó, và hình dáng chẳng liên quan gì cả. Hoặc

bạn có thể thích giọng nói của người đàn bà, giọng hát, rồi

bạn lấy... mọi người lấy nhau chỉ bởi các lí do ngu xuẩn.

Bây giờ thì giọng hát chẳng liên quan gì tới hôn nhân;

giọng hát không chuẩn bị thức ăn cho bạn, nó không dọn

giường cho bạn. Sau vài ngày bạn sẽ quên giọng hát đó.

Thực tại mà bạn phải sống với thì chẳng liên quan gì

tới những điều này. Người đàn bà nào đó có thân hình nào

đó, đường cong nào đó - nhưng đường cong đó làm gì cho

cuộc sống? Người đàn bà nào đó có dáng đi uyển chuyển

nào đó và điều đó quyến rũ bạn. Nhưng bạn có thể phí hoài

cuộc đời mình, cuộc đời gia đình của mình, chỉ vì những

thứ tầm thường nhỏ mọn thế thôi sao? Điều ấy không thể

được.

Cuộc sống cần nhiều cách tiếp cận thực tế, các nền tảng

thực tế hơn. Nhưng bạn vẫn cứ làm những điều hời hợt như

thế này. Lí do là ở chỗ bạn không nhận biết. Đấy không chỉ

là vấn đề hôn nhân, đấy là vấn đề của toàn bộ cuộc sống

của bạn. Đó là điều bạn vẫn cứ làm... bạn vẫn cứ làm do

thôi thúc của tình thế, không thấy sâu sắc rằng cuộc sống

cần nhiều nhận biết hơn, nhiều trách nhiệm hơn, nhiều hiểu

biết hơn, nhiều thông minh hơn.

Bắt đầu hiện hữu thông minh hơn đi, và bạn sẽ càng

ngày càng ít bị rắc rối hơn.

Quan sát nhiều vào.

Trở thành nhân chứng.

Đủ cho hôm nay.

************************************************************

#9 Vô trí là cánh cửa

Một khi trong cõi tràn đầy vui vẻ

tâm trí hiểu biết trở nên giàu có

và theo cách đó điều nọ hay điều kia trở thành

ích lợi nhất

ngay cả khi tâm trí bám theo sự vật nó cũng

không xa lánh chính mình.

Nụ của vui vẻ và hoan lạc cùng lá của niềm vinh

quang lớn lên.

Dù không có gì chảy tràn ra bất kì đâu

thì sung sướng không thể tả được cũng vẫn kết

quả.

Điều đã được làm cùng nơi và cái bản thân nó

trở thành đều là không có gì:

nhưng theo cách đó nó đã có ích cho cái này cái

kia.

Dù say mê hay không, hình mẫu cũng là cái

không.

Nếu tôi giống con lợn đam mê vũng bùn thế gian

ông phải bảo tôi sai lầm nào nằm trong tâm trí

không tì vết.

Bởi cái không ảnh hưởng đến người ta làm sao

mà người ta hiện bị tù túng?

Có hai cách tiếp cận tới thực tại: cách của trí năng và

cách của thông minh. Cách của trí năng là lí thuyết hoá về

nó, là nghĩ về nó, là suy xét về nó. Và tất cả mọi suy xét

đều vô nghĩa bởi vì làm sao bạn có thể suy xét về cái bạn

không biết? Làm sao bạn thậm chí có thể nghĩ về cái mà

bạn không biết?

Cái không biết không thể được nghĩ tới, không có cách

nào nghĩ về cái không biết; tất cả những điều bạn suy nghĩ

đều là cái đã biết cứ lặp lại trong tâm trí bạn. Vâng, bạn có

thể tạo ra những tổ hợp mới của những ý nghĩ cũ, nhưng

chỉ bằng cách tạo ra tổ hợp mới, bạn không đi vào khám

phá được cái thực. Bạn sẽ thành lừa dối.

Trí năng là kẻ lừa dối lớn nhất trên thế giới. Thông qua

trí năng con người đã tự lừa dối mình qua bao nhiêu thời

đại. Qua trí năng bạn giải thích lan man thực tại, bạn không

giải thích nó. Qua trí năng bạn tạo ra lớp bụi dầy quanh

mình đến độ bạn không thể thấy được thực tại chút nào;

bạn bị cắt rời khỏi thực tại, và bạn bị khép kín trong lời của

mình, trong ý nghĩ của mình, trong biện luận của mình.

Bạn bị lạc trong kinh sách của mình - không ai bị lạc ở bất

kì đâu khác. Chính trong rừng kinh sách con người mới bị

lạc.

Mật tông là con đường của thông minh, không của trí

năng. Nó không trả lời bất kì câu hỏi nào; nó không giải

thích bất kì cái gì chút nào, nó là không giải thích. Nó

không phải là việc hỏi, nó là cuộc truy tìm. Nó không phải

là hỏi về chân lí, nó là hỏi trong chân lí. Nó thấm đầy thực

tại. Nó cố phá huỷ mọi đám mây bao quanh bạn để cho bạn

có thể nhìn thấy thực tại như nó vốn thế.

Mật tông đi ra ngoài suy nghĩ. Đó là lí do tại sao yêu đã

được những người mật tông ca ngợi nhiều đến thế. Đó là lí

do tại sao cực thích yêu lại trở thành một biểu tượng cho

thực tại tối thượng: lí do là ở chỗ chỉ có trong cực thích yêu

bạn mới mất đi tâm trí trong vài khoảnh khắc. Đó là trạng

thái vô trí duy nhất có sẵn cho người thường, đó là khả

năng duy nhất cho bạn để có một thoáng nhìn vào thực tại.

Do đó, cực thích dục đã trở thành cực kì quan trọng

trên con đường Mật tông. Không phải nó cho bạn thực tại

tối thượng, nhưng ít nhất nó cho bạn cơ hội ra ngoài tâm

trí. Nó cho bạn cánh cửa sổ nhỏ... rất tạm thời; nó không

kéo dài lâu nhưng dầu vậy nó vẫn là khả năng duy nhất cho

bạn có tiếp xúc nào đó với thực tại. Bằng không bạn bao

giờ cũng bị bao quanh bởi ý nghĩ của mình và ý nghĩ chẳng

giải thích cái gì cả. Mọi giải thích đều đơn giản vô nghĩa.

Bây giờ tôi kể cho bạn một chuyện cười. Bạn biết tôi

không kể nhiều chuyện cười lắm...

Chuyện cười xảy ra cho một nông dân Ai cập đang

đứng ở góc phố - một người da mầu. Và anh ta thì đứng ở

góc phố nhìn lên rồi nói, "Trời ơi!" - anh ta có quan điểm

cá nhân - anh ta nói, "Thưa Trời, sao trời làm cho con có

mầu sẫm thế này?"

Và Trời nghĩ, rồi Trời nghiền ngẫm và Trời cố triết lí -

câu trả lời nào đó là cần - và rồi Trời nói, "Anh bạn trẻ, lí

do ta làm cho con sẫm mầu như vậy là để cho khi con chạy

trong rừng rậm thì mặt trời sẽ không làm cho con say nắng

được."

Chàng trai da mầu nói, "Ấy, ấy, con có như thế. Nhưng

thưa Trời, sao Trời làm cho tóc con thô như vậy?

Trời trả lời, "Này, lí do ta đã làm điều ấy, anh bạn trẻ ạ,

là để cho khi con chạy trong rừng rậm đi tìm thú hoang hay

hà mã và sư tử thì tóc con không bị mắc vào bụi cây."

"Đúng, đúng... nhưng thưa Trời, sao Trời làm cho chân

con dài thế?"

Trời trả lời, "Lí do ta làm cho chân con dài, con ạ, là để

cho khi con nhảy trong rừng rậm đi tìm con vật hoang, tê

giác, trâu và voi, con sẽ chạy rất nhanh. Con còn câu hỏi

nào nữa không?"

Cậu thanh niên da mầu nói, "Có, thưa Trời! Con đang

làm cái chết tiệt gì tại Poona đây?"

Chẳng lời giải thích nào có ích cả. Chẳng lời giải thích

nào giải thích được mọi điều. Bây giờ Trời cũng phải lúng

túng...

Thực tại của con người là bí ẩn. Không câu trả lời nào

có thể trả lời được nó, bởi vì ngay chỗ đầu tiên nó không

phải là câu hỏi. Nó là bí ẩn cần được sống, không phải là

vấn đề cần giải quyết.

Và nhớ phân biệt giữa vấn đề và bí ẩn: bí ẩn mang tính

tồn tại, vấn đề mang tính trí năng. Bí ẩn không do tâm trí

tạo ra, cho nên tâm trí không thể giải quyết được nó. Vấn

đề do tâm trí tạo ra, cho nên tâm trí có thể giải quyết nó,

không có vấn đề gì trong đó. Nhưng bí ẩn của cuộc sống -

bí ẩn của sự tồn tại này bao quanh bạn, những cây cối này,

những vì sao này, chim chóc này, mọi người, bản thân

bạn... làm sao bạn có thể giải quyết chúng qua tâm trí

được?

Tâm trí là kẻ vừa mới tới rất gần đây. Sự tồn tại đã

sống không có tâm trí từ lâu, rất lâu rồi... Tâm trí chỉ là một

cái phụ thêm, nó mới vừa xảy ra. Các nhà khoa học nói

rằng nếu chúng ta chia lịch sử con người thành 24 giờ,

trong một ngày, thì tâm trí chỉ mới tới có hai giây trước

đây... chỉ mới có hai giây trước đây! Nếu tiếp tục đo kiểu

như thế này - hai mươi tư giờ, toàn bộ lịch sử - tâm trí mới

chỉ tới có hai giây trước đây. Làm sao nó có thể giải quyết

được? Nó có thể giải quyết được cái gì? Nó không biết cái

bắt đầu, nó không biết cái kết thúc; mới chỉ đến ở khoảng

lưng chừng. Nó chẳng có cảnh quân gì.

Nếu người ta thực sự muốn biết điều chưa biết này là

gì, người ta phải vứt bỏ tâm trí, người ta phải biến mất

trong sự tồn tại. Đó là cách thức Mật tông. Mật tông không

phải là triết lí, Mật tông hoàn toàn mang tính tồn tại. Và

nhớ lấy, khi tôi nói rằng Mật tông mang tính tồn tại, tôi

không ngụ ý chủ nghĩa hiện sinh của Sartte, Camus, Marcel

và những người khác. Chủ nghĩa hiện sinh đó lại là triết lí,

triết lí về sự tồn tại, nhưng không phải là con đường của

Mật tông. Và khác biệt là bao la.

Các nhà triết học hiện sinh ở phương Tây chỉ tìm vào

cái tiêu cực: khổ não, dằn vặt, chán nản, buồn rầu, lo âu, vô

hi vọng, vô nghĩa, vô mục đích - tất cả mọi thứ tiêu cực.

Mật tông chỉ tìm đến tất cả những cái đẹp đẽ, vui vẻ, phúc

lạc. Mật tông nói: Sự tồn tại là cực thích, cực thích vĩnh

hằng cứ tiếp tục, tiếp tục mãi. Nó mãi mãi và mãi mãi là

cực thích, cực lạc.

Họ phải đi theo các hướng khác nhau. Sattre cứ nghĩ về

sự tồn tại. Mật tông nói: Suy nghĩ không phải là cánh cửa.

Nó chẳng dẫn đến đâu cả, nó là ngõ hẻm mù quáng; nó chỉ

đem bạn đến ngõ cụt. Triết học là vĩ đại - nếu bạn chỉ làm

trò hề thì triết học là vĩ đại; bạn có thể việc bé xé ra to và

bạn có thể thích thú ngón trò. Giống như hôm nọ tôi vừa

đọc một mẩu chuyện rất, rất triết lí. Suy ngẫm về nó mà

xem...

Một điều đặc biệt nhất xuất hiện với tôi, và tôi định kể

nó cho bạn nhân cơ hội nó có thể xuất hiện cho bạn nữa

vào một khoảnh khắc này khác, và khi nghe tôi, bạn sẽ xử

trí tình huống này tốt hơn khi nó xuất hiện trở .

Hôm qua tôi đến một nhà hàng và gọi bữa trưa. Tôi

ngồi cùng một nhóm vài người quanh chiếc bàn có chút ít

đồ ăn trưa. Bạn biết đấy, không đến... chỉ có khoảng sáu

hay bảy người ngồi quanh bàn... Tôi không biết nữa, tám

người...chín... quãng độ bốn mươi người đang ăn trưa ở

đấy... một nhóm nhỏ người.

Tôi gọi món ăn trưa là một cốc sữa. Bây giờ tôi thích

sữa. Bạn cũng biết tôi cảm giác thế nào về nước sữa bơ,

nhưng tôi thì thích sữa. Sữa là món tôi ưa chuộng. Tôi thích

sữa tươi, lạnh. Nếu nó âm ấm... thì khiếp quá! Nếu tôi nếm

nó thì tôi chẳng ưa.

Cuối cùng thì sữa cũng được đem ra. Và tôi vừa định

uống thì tôi nhận thấy nổi lềnh bềnh trên sữa là đốm bẩn

nhỏ đen tí xíu. Và tôi đang ở đây để nói với các bạn rằng

chẳng có gì trên thế giới này thành vấn đề với tôi như cái

vật đen đen tí xíu ấy! Nó trở thành điều quan trọng nhất

trong cuộc đời tôi trong vài phút tiếp. Trước hết tôi không

để cái thứ đáng nguyền rủa ấy làm hại sức khoẻ tôi, tôi sẽ

nói cho bạn! Bạn biết đấy, trong những ngày này ai mà biết

được nó là cái gì? Nó có thể là một mẩu cứng của chất

Stronium 90, bạn cũng biết. Hay có thể là một bầy vi trùng

thương hàn. Dẫu sao thì tôi cũng không muốn nuốt cái của

nợ ấy.

Bây giờ tôi đã thấy cái đốm đen đen đó trước - tôi là

người phức tạp, tôi sống như vậy - và tôi chắc chắn bạn

cũng thấy được chúng nữa. Bạn có thể thấy chúng ở bất kì

chỗ nào. Tuy nhiên, tôi nghĩ bạn sẽ thấy chúng có hầu hết

trong các bát đường. Đôi khi bạn có thể nhặt ra một thứ lẫn

trong bát bột mì. Bột yến mạch bị lẫn với hạt đen đen; tôi

nghĩ bột yến mạch hầu hết đều có các hạt đen đó, nếu bạn

muốn biết sự thật. Nhưng điều đó không xảy ra chỗ nọ thì

cũng xảy ra chỗ kia... Bây giờ điều làm tôi bận tâm về cái

đốm đen đen này là ở chỗ tôi không biết nó từ đâu tới. Đấy

là điều làm tôi băn khoăn. Tôi biết sữa được làm từ đâu -

và điều đó nữa cũng làm tôi bận tâm, bạn cũng biết, nhưng

ít nhất thì tôi biết nó bắt nguồn từ đâu. Cho nên tôi quyết

định vớt cái đốm đen đó ra khỏi sữa.

Bạn có biết làm việc đó khó khăn như thế nào không?

Cái đốm đen đen đó ranh như quỉ, chúng có thể cảm thấy

được cái thìa từ xa! Lúc bạn định múc cái thìa lên thì chúng

bắt đầu chạy quanh cốc, phải không? Bạn múc chúng lên và

chúng nhảy ra... và bạn càng rất cẩn thận thì chúng lại càng

khôn lên rồi chúng chìm xuống đáy cốc, và bạn phải ngồi

đợi đó như thằng khờ để cho nó nổi lên lần nữa.

Bây giờ một điều bạn có thể làm: nếu bạn lấy đầu ngón

tay chạm nhẹ vào cái đốm đó rất từ tốn, nó sẽ bám vào

ngón tay bạn cùng một giọt sữa lớn - và bạn sẽ vứt được nó

ra. Nhưng bạn biết đấy, khi bạn đang ngồi với một nhóm

người, bạn không muốn thò ngón tay vào trong sữa. Bạn

biết, một cậu láu cá chắc chắn sẽ nói, "Này! Sao bác thò tay

vào sữa thế?” Bạn sẽ nói gì nào, "Tôi định lấy cái đốm đen

đó ra" chăng? Bạn biết đấy, bạn không có câu trả lời.

Bây giờ một điều khác bạn có thể làm được. Bạn có thể

uống sữa rất cẩn thận, luôn để mắt tới cái đốm đen vào mọi

lúc. Lúc nó bắt đầu lại gần bạn thì bạn rời xa! Bạn lừa con

quỉ nhỏ! Nhưng điều đó chỉ có thể có nếu đốm nhỏ ở phía

cốc bên kia. Trong trường hợp nó lại gần hơn thì phải đợi...

vậy bạn sẽ làm gì? Bạn khuấy cốc... và những thứ đáng

nguyền rủa ấy dồn ngay vào giữa!

Này, tôi định bảo bạn điều tôi đã làm, cho nên khi điều

đó xảy ra cho bạn thì bạn có thể xử lí tình huống theo cách

tương tự. Tôi đứng dậy và bước vòng qua phía bên kia bàn,

và tôi uống ở đó! Anh ta chẳng bao giờ biết về nó!

Triết học từ bé xé ra to. Bạn có thể cứ tiếp tục mãi,

không có kết thúc cho điều đó. Trong ít nhất năm nghìn

năm con người đã triết lí hoá về từng thứ và mọi thứ: về cái

bắt đầu, về cái kết thúc, về cái ở giữa - về từng thứ và mọi

thứ. Và không một câu hỏi nào đã được giải quyết; không

một câu hỏi, không một câu hỏi nhỏ nhất đã được giải

quyết hay biến mất. Triết học đã chứng tỏ là một thứ nỗ lực

vô ích nhất... nhưng con người vẫn cứ tiếp tục, mặc dầu

biết rõ rằng nó chẳng bao giờ cho được cái gì. Tại sao? Nó

cứ hứa hẹn, nhưng chẳng bao giờ đưa ra cái gì cả. Thế thì

tại sao con người cứ tiếp tục nỗ lực này?

Việc ấy rẻ mạt. Nó chẳng đòi hỏi sự tham dự gì, nó

không phải là cam kết. Bạn có thể ngồi trên ghế và cứ nghĩ.

Nó là giấc mơ. Nó không yêu cầu bạn phải thay đổi để thấy

thực tại. Đấy mới là nơi cần đến dũng cảm, cần đến dũng

cảm phiêu lưu. Để biết được chân lí bạn phải đi vào cuộc

phiêu lưu lớn nhất có đấy. Bạn có thể bị lạc, ai mà biết

được? Bạn có thể chẳng bao giờ quay lại, ai mà biết được?

Hay bạn có thể quay lại được thay đổi hoàn toàn, và ai mà

biết được liệu nó là tốt hay xấu?

Cuộc hành trình này là không biết trước, hành trình là

không biết trước đến mức bạn thậm chí không thể lập kế

hoạch cho nó. Bạn phải nhảy vào nó. Bị bịt mắt, bạn phải

nhảy vào trong nó, trong bóng đêm, không bản đồ, không

biết bạn đi đâu, không biết đi làm gì. Chỉ có một vài người

liều lĩnh mới đi vào cuộc truy tìm sự tồn tại này. Cho nên

Mật tông chỉ hấp dẫn được rất ít người, nhưng những người

đó là muối trên trái đất này. Saraha là một trong số họ.

Bây giờ đến lời kinh. Đây là bốn câu kinh cuối của Bài

thơ hoàng đế của Saraha.

Một khi trong cõi tràn đầy vui vẻ

tâm trí hiểu biết trở nên giàu có

và theo cách đó điều nọ hay điều kia trở thành ích lợi

nhất

ngay cả khi nó bám theo sự vật thì nó cũng không xa

lánh chính mình.

Nhà vua phải đã bảo Saraha điều mọi người đang bàn

tán về ông. Họ đang nói về ông ấy là ông ấy đang si mê

trong các giác quan, ông ấy đang say mê hoan lạc. Ông ấy

không còn là sannyasin nữa; từ bỏ của ông ấy là giả, ông ấy

đã sa ngã.

Ông ấy đã xin phép nhà vua được trở thành sư Phật

giáo, và ông ấy đã trở thành sư Phật giáo. Ông ấy đã sống

một cuộc sống có kỉ luật và có kiểm soát của sư Phật giáo.

Và rồi người đàn bà cách mạng này tới, người đàn bà thợ

rèn tên này, và cô ấy làm biến đổi toàn bộ con người ông

ấy, toàn bộ cuộc đời ông ấy và toàn bộ phong thái của ông

ấy. Cô ấy đã phá huỷ cá tính của ông ấy. Cô ấy cho phép

ông ấy được tự do - tự do sống, tự do từ khoảnh khắc này

sang khoảnh khắc khác, không quá khứ, không tương lai.

Lẽ tự nhiên người thường, người bình thường bắt đầu

nghĩ rằng ông ấy đã sa ngã khỏi ân huệ, ông ấy đã phản

bội. Còn ông ấy đã từng là một brahmin vĩ đại và là một

học giả lớn; người ta đã hi vọng quá nhiều vào ông ấy, rằng

ông ấy sẽ đem lại tri thức cho đất nước, thế mà bây giờ ông

ấy giống như chó điên. Cả nghìn lẻ một câu chuyện đã lan

truyền khắp đất nước về ông ấy, và nhà vua phải nói cho

ông ấy điều mọi người đang nghĩ về Saraha. Nhà vua bị tổn

thương; nhà vua đã yêu con người này, nhà vua đã kính

trọng con người này - nhưng nhà vua cũng trong cùng một

thế giới với mọi người, cách nghĩ của nhà vua cũng tương

tự như cách nghĩ của mọi người. Nhà vua không có sáng

suốt nào khi nhìn vào thực tại hay vào chính mình.

Saraha nói với nhà vua: Một lần, chỉ một lần thôi, nếu

bệ hạ biết vui vẻ là gì, bệ hạ sẽ quên tất cả những câu

chuyện này. Một lần, thậm chí chỉ một lần thôi, nếu bệ hạ

biết được hương vị cuộc sống là gì, bệ hạ sẽ quên tất cả

những điều vô nghĩa này về tính cách, đức hạnh, sự tôn

kính.

Bạn có thể tiếp tục sống một cuộc sống đáng kính chỉ

nếu bạn chết, bạn có thể sống theo cách đáng kính trọng

nếu bạn chưa tiếp xúc với cuộc sống. Cuộc sống là hiện

tượng gốc rễ. Nó là hỗn độn - hỗn độn rất sáng tạo, nhưng

dẫu sao nó vẫn là hỗn độn.

Saraha nói:

Một khi trong cõi tràn đầy vui vẻ

tâm trí hiểu biết trở nên giàu có...

Nhưng vấn đề là việc kinh nghiệm nó.

Saraha nói: Tôi không thể giải thích cái gì đã xảy ra

cho tôi, nhưng tôi có thể nói về điều này: nếu bạn nếm trải

nó dù chỉ một lần thì bạn sẽ được biến đổi. Việc nếm trải

tạo ra biến đổi. Tôi không định thuyết phục bạn theo bất kì

cách thức biện luận nào, tôi không có triết lí, Saraha nói.

Tôi có kinh nghiệm chắc chắn, tôi có thể chia sẻ kinh

nghiệm đó với bạn, nhưng việc chia sẻ đó không thể chỉ ở

phía tôi. Bạn sẽ phải thay đổi quan điểm giáo điều của

mình, bạn sẽ phải cùng tôi đi vào cái chưa biết. Tôi có thể

đưa bạn tới cánh cửa sổ đó mà tại đó sự tồn tại là rõ ràng,

trong suốt, nhưng bạn sẽ phải nắm tay tôi và đi tới cửa sổ

đó.

Đó chính là điều thầy định làm: thầy nắm tay của đệ tử

và đưa người đó tới chỗ mở từ đó người đó có thể nhìn vào

Thượng đế. Theo một cách biểu dụ, thầy cho bạn mượn đôi

mắt của thầy. Một khi bạn đã nếm trải, thế thì không có vấn

đề gì nữa, thế thì chính việc nếm trải đó sẽ cứ lôi kéo bạn.

Thế thì việc lôi kéo sẽ lớn lao đến mức bạn không thể còn

nguyên tại chỗ bạn đã từng ở và sống tẻ nhạt nữa.

Một khi trong cõi tràn đầy vui vẻ

tâm trí hiểu biết trở nên giàu có...

Nhưng cần phải có tâm trí hiểu biết để nếm trải vui vẻ

đó - tâm trí không bị trĩu nặng với việc che mắt quá nhiều,

tâm trí cởi mở.

Bây giờ đây là vấn đề với những người đang quá gắn

bó với triết học, tôn giáo, kinh sách, lí thuyết, giáo điều:

vấn đề là ở chỗ họ có quá nhiều tấm che mắt, hết tầng nọ

đến tầng kia. Mắt họ bị che kín sau biết bao lớp màn và lớp

màn và lớp màn. Những lớp màn này phải được cởi bỏ hết

như bạn bóc củ hành. Tất cả những lớp màn này phải bị vứt

bỏ hết; thế thì bạn có tâm trí xét thấy.

Ngay bây giờ đây, bất kì cái gì bạn biết đều chỉ là tâm

trí không thấy. Nó chỉ giả vờ là nó thấy; nó chỉ nói, chỉ tin

rằng nó thấy. Mắt bạn không thấy, tai bạn không nghe, và

tay bạn không chạm - bởi vì bạn đã đánh mất nhạy cảm đó,

dòng chảy đó có thể làm cho mắt bạn thấy mắt, có thể làm

cho tai bạn nghe tai. Đó là lí do tại sao Jesus cứ phải nói đi

nói lại với các đệ tử của mình: nếu các ông có thể nhìn,

nhìn nó đi! Nếu các ông có mắt, nhìn nó đi! Nếu các ông có

tai, hãy nghe nó, nghe nó đi! Ông ấy đang nói cho những

người không mù và những người không điếc. Họ có khả

năng để thấy như bạn, họ có khả năng nghe như bạn; họ là

những người bình thường.

Nhưng tại sao ông ấy cứ phải nhấn mạnh đi nhấn mạnh

lại: Nếu các ông có mắt...? Ông ấy có luôn nói với người

mù như bạn không? Nhưng ông ấy ngụ ý gì khi ông ấy nói:

Nếu các ông có mắt...? Tại sao lại 'nếu' này? Đấy là một cái

'nếu' vĩ đại, bởi vì mọi người dường như có mắt vậy mà họ

không có. Và cái dường như ấy là rất nguy hiểm, bởi vì họ

cứ tin rằng họ có mắt.

Bạn đã bao giờ nhìn vào bất kì vật gì mà không có ý

nghĩ chen vào, can thiệp vào, làm sao lãng, diễn giải

không? Bạn đã bao giờ thấy một bông hồng mà ngôn ngữ

không tới không, tâm trí bạn không lập tức cất tiếng, "Bông

hồng đấy, hoa hồng đẹp"... thế này thế nọ không? Khoảnh

khắc bạn nói nó là bông hồng thì bạn không thấy bông hoa

này nữa. Thế thì tất cả các hoa hồng mà bạn đã từng thấy

và đã nghe thấy nói đều đang đứng xếp hàng, và bông hoa

thực này xếp ở cuối. Khoảnh khắc bạn nói đấy là bông

hồng, bạn đang phủ thêm một lớp màn lên mắt mình.

Ngôn ngữ là bức màn lớn nhất. Bạn không thể thấy

được bông hoa hồng này như nó vẫn thế nếu không gọi nó

là hoa hồng sao? Cần gì ở đây nào? Bạn không thể chỉ nhìn

vào thực tại này mà không có ý tưởng nào, không có đám

mây nào bay quanh bạn sao? Bạn không thể hiện hữu, trong

một khoảnh khắc, mà không có ngôn ngữ được sao? Nếu

bạn không có ngôn ngữ trong một khoảnh khắc, bạn sẽ có

tâm trí thấy. Đôi khi bắt đầu thử điều ấy đi. Ngồi cạnh một

cái cây, chỉ nhìn vào cây và không nghĩ nó là cây gì. Và

đừng nghĩ rằng đấy là cây, mà cũng đừng nghĩ rằng nó đẹp

hay xấu; đừng đem tâm trí bạn vào chút nào. Chỉ quan sát.

Dù nó là bất kì cái gì - X, Y, Z - cứ để cho nó là bất kì cái

gì. Đừng đánh giá.

Jesus nói: Không phán xét. Ngôn ngữ là phán xét. Với

phán xét mọi định kiến kéo tới. Với phán xét toàn bộ quá

khứ của bạn kéo tới. Và bất kì khi nào quá khứ tới, bạn bị

loại khỏi hiện tại.

Tôi đã đọc...

Có một người làm chủ một ga ra và anh ta có một con

mèo. Một hôm anh ta đổ xăng vào xe của khách hàng và vô

ý làm tràn một ít xăng vào sữa của mèo. Con mèo uống sữa

đó và bắt đầu chạy vòng quanh chỗ đó với tốc độ sáu mươi

cây số một giờ. Rồi bỗng nhiên nó dừng sững .

Người khách hàng nói, "Con mèo chết rồi sao?"

"Không," ông chủ ga ra nói, "Tôi nghĩ đấy là hết xăng

thôi."

Ông chủ ga ra có ngôn ngữ của mình, quá khứ của

mình, định kiến của mình. Ông ta hiểu mọi thứ theo một

cách nào đó. Ông ta nói, "Không tôi nghĩ đấy là hết xăng

thôi." Và điều này thì xảy ra thường xuyên.

Chuyện xảy ra...

Chuyện xảy ra trong khi Sarvesh, một sannyasin có tài

nói tiếng bụng với một con búp bê nói, đang ở đó và anh ta

đang biểu diễn trong thính phòng Radha. Con búp bê đang

kể một chuyện cười về các tôn giáo và nòi giống khác nhau

và về mọi thứ. Thế rồi nó nói, "Được rồi bây giờ ta hãy kể

một câu chuyện cười về người Đức."

Thế là một sannyasin người Đức - không phải Haridas,

bạn nhớ đấy - đứng dậy và nói, "Tôi sẽ không cho anh kể

chuyện cười về người Đức! Chúng tôi không ngu đần như

anh nghĩ đâu, anh biết chứ?"

"Bình tĩnh đã thưa ông ấy," Sarvesh nói, "Xin hãy bình

tĩnh và ngồi xuống. Đây không có chuyện cá nhân nào cả."

"Tôi không nói với anh nhé," người Đức nói, "Tôi đang

nói với con bé trên đầu gối anh kia!"

Tâm trí bạn là tâm trí bạn. Nó bao giờ cũng có đó - dầy

hay mỏng, tốt hay xấu, nó bao giờ cũng có đó. Thông minh

hay không thông minh, nó bao giờ cũng có đó. Người hiểu

biết hay người dốt nát, nó bao giờ cũng có đó. Có giáo dục,

không giáo dục, nó bao giờ cũng có đó. Người Đức, người

Ấn Độ, người Mĩ, nó bao giờ cũng có đó. Và thực tại

không phải là người Đức, thực tại không phải là người Mĩ

và thực tại cũng chẳng phải là người Ấn Độ, cho nên khi

bạn tới với con mắt người Đức, con mắt người Ấn Độ, con

mắt người Mĩ, con mắt người Hindu, con mắt người Mô ha

mét giáo, con mắt người Ki tô giáo, bạn đều bỏ lỡ thực tại.

Hãy bắt đầu... Điều này sẽ cho bạn chuẩn bị lớn cho

bước nhảy vào trong Mật tông. Hãy bắt đầu... bất kì khi nào

bạn ngồi, đi, bước, nói, cố gắng duy trì đi duy trì lại với cái

thực, cái không diễn giải, không phán xét. Và dần dần, dần

dần cánh cửa mở ra. Dần dần, dần dần một vài khoảnh khắc

bắt đầu đến với bạn mà đấy không phải là khoảnh khắc của

tâm trí - cái nhìn phi ngôn ngữ về thực tại, cái nhìn phi tâm

trí về thực tại - và những cái đó sẽ chuẩn bị cho bạn.

Saraha nói:

Một khi trong cõi tràn đầy vui vẻ

tâm trí hiểu biết trở nên giàu có...

Cho nên điều đầu tiên là tâm trí thấy, và điều thứ hai là,

đừng tránh vui vẻ. Tiến lại gần chúng với trái tim cởi mở,

với cảm nhận, với bản thể đón chào; hấp thu chúng. Bất kì

đâu vui vẻ hiện hữu, Thượng đế hiện hữu. Đó là thông điệp

rút gọn của Mật tông: Bất kì đâu vui vẻ hiện hữu, Thượng

đế hiện hữu.

Và vui vẻ có ba bình diện. Bình diện thứ nhất là cái

chúng ta gọi là hoan lạc. Hoan lạc là của thân thể. Bình

diện thứ hai là hạnh phúc. Hạnh phúc là của tâm trí. Bình

diện thứ ba là phúc lạc. Phúc lạc là của tâm hồn, tâm linh.

Nhưng cả ba bình diện này đều chia sẻ một thực tại và thực

tại đó là vui vẻ. Vui vẻ được chuyển thành ngôn ngữ của

thân thể trở thành hoan lạc, vui vẻ nhận được qua thân thể

trở thành hoan lạc. Vui vẻ nhận được qua tâm trí trở thành

hạnh phúc. Vui vẻ nhận được không qua tâm trí lẫn không

qua thân thể - nhận được không có thân thể, không có tâm

trí - trở thành phúc lạc. Đó là ba tầng của vui vẻ.

Vui vẻ là thực tại duy nhất.

Vui vẻ là Thượng đế!

Vui vẻ là chất liệu tạo nên sự tồn tại.

Saraha nói: Sẵn có cho vui vẻ dù nó tới từ bất kì đâu.

Chớ bao giờ từ chối nó. Đừng kết án nó. Khi nó là từ thân

thể, thì sao? Thế thì Thượng đế đang gõ vào thân thể bạn

đấy. Khi bạn đang ăn và bạn cảm thấy vui vẻ nào đó thì bạn

hãy tận hưởng thức ăn, đấy là Thượng đế; bạn đang nuốt

ông ấy. Khi bạn ôm trong tay người đàn bà hay đàn ông

hay người bạn hay bất kì ai, với tình yêu mênh mông và có

xúc động trong năng lượng thân thể bạn, có điệu vũ, điệu

vũ sâu sắc trong năng lượng thân thể bạn; khi bạn đang

được kích động - một thứ gì đó giống như điện rung động,

đổi mới, làm tươi tắn bạn, cái gì đó làm cho bạn sinh động

hơn bạn đã từng như trước đây - đó là vui vẻ, đó là Thượng

đế đang đến qua thân thể. Khi nghe nhạc bạn cảm thấy cực

kì hạnh phúc, đấy là vui vẻ qua tâm trí. Nhìn bông hoa mà

không chạm vào nó và không đem tâm trí vào trong nó,

một khoảnh khắc tới khi có niềm phúc lạc - phúc lành tinh

tế, im lặng, sâu lắng. Nhưng tất cả những cái đó đều là biểu

lộ khác nhau của vui vẻ.

'Vui vẻ' là một trong những từ đẹp đẽ nhất trong tiếng

Anh. Nó bao quát toàn bộ phạm vi của mọi loại hạnh phúc.

Mật tông nói rằng điều đầu tiên là sẵn có cho vui vẻ. Bạn sẽ

ngạc nhiên: tại sao nhấn mạnh điều này? Chúng ta không

sẵn có cho vui vẻ hay sao? Vâng, đáng buồn phải nói,

nhưng nó là vậy: bạn không sẵn có. Chẳng ai sẵn có cả.

Chúng ta nhạy cảm với đau khổ hơn; chúng ta sẵn sàng

chịu đau khổ hơn là chúng ta sẵn sàng vui vẻ; chúng ta sẵn

có cho khổ hơn là cho vui vẻ. Có cái gì đó trong nó.

Vui vẻ lấy đi bản ngã của bạn, còn khổ cho bạn bản

ngã theo một cách thức rất mạnh. Khổ tạo ra bản ngã, còn

vui vẻ lấy đi bản ngã. Bất kì khoảnh khắc vui mừng nào

bạn đều bị mất trong nó. Khoảnh khắc vui mừng không

phải là khoảnh khắc của bản ngã; khoảnh khắc khổ chính là

khoảnh khắc bản ngã cô đặc . Khi bạn khổ, bạn có đấy; khi

bạn vui vẻ, bạn không có.

Cho nên để tôi nhắc : Bởi vì chúng ta đều là những bản

ngã chúng ta sẵn có cho đau khổ, khổ, buồn bã, bất hạnh

hơn. Chúng ta tạo ra cuộc sống không vui vẻ xung quanh

mình. Chúng ta chuyển đổi mọi cơ hội vui vẻ thành buồn

khổ bởi vì đó là cách duy nhất cho bản ngã tồn tại. Bản ngã

chỉ có thể tồn tại trong địa ngục. Trên thiên dường bản ngã

không thể tồn tại được.

Bạn đã được dạy bảo suốt bao nhiêu thế kỉ rằng nếu

bạn trở thành vô ngã, bạn sẽ vào thiên đường. Tôi nói cho

bạn: Nếu bạn trở thành vô ngã, thiên đường đi vào trong

bạn. Thiên đường không phải là nơi chốn địa lí ở đâu đó,

không phải là bạn đi tới đó. Khi bạn vô ngã, bạn là thiên

đường. Khi bạn bản ngã, bạn là địa ngục. Không phải địa

ngục là một nơi nào đó dưới đáy của sự tồn tại và thiên

đường là đâu đó trên đỉnh của sự tồn tại - đấy chỉ là những

biểu dụ. Thiên đường và địa ngục là những trạng thái của

con người.

Khi bạn có đó, bạn trong địa ngục. Khi bạn không có

đó, bạn trong thiên đường. Và đó là lí do tại sao bạn quá

gắn bó với bản ngã của mình và bạn muốn cảm thấy bản

thân mình - rằng bạn là tách biệt, khác biệt, duy nhất, thế

này thế nọ... bạn sẽ vẫn còn khổ. Bây giờ điều ngược đời

là: bản ngã tạo ra khổ - và bản ngã muốn vui vẻ. Bản ngã

tìm kiếm, rất tham lam vui vẻ; nó muốn có mọi vui vẻ có

thể có - và bản ngã tạo ra khổ. Bây giờ bạn mắc bẫy. Bản

ngã càng tạo ra khổ, bản ngã lại càng quan tâm hơn đến

việc được vui vẻ. Nhưng nó chẳng bao giờ tạo ra vui vẻ;

vui vẻ không phải là chức năng của nó. Sáng suốt này là

sáng suốt của Mật tông.

Và một khoảnh khắc của vui vẻ.. cho dù một lần,

Saraha nói, cũng đủ làm thay đổi bệ hạ, thưa bệ hạ, ông ấy

nói với nhà vua. Một khoảnh khắc, chỉ một lần, cũng sẽ đủ

luận cứ và chứng minh cho mọi kiểu cuộc sống mà tôi đang

sống, dù tôi là kiểu người nào.

Một khi trong cõi tràn đầy vui vẻ

tâm trí hiểu biết trở nên giàu có...

Và tâm trí chẳng bao giờ được giầu có bằng cách triết

lí. Bằng lí thuyết nó không thể giầu lên được, bằng tri thức

nó không thể giầu lên được - chỉ có bằng kinh nghiệm thôi.

Tâm trí giầu có nghĩa là tâm trí đã kinh nghiệm điều gì đó

của cái thực, điều gì đó của chân lí. Chỉ có một cái giầu có

- đó là về chân lí. Và chỉ có một cái nghèo khó, đó là dối

trá. Nếu bạn không biết chân lí, bạn sống trong dối trá, ảo

tưởng, phóng chiếu, mơ mộng.

...và theo cách đó điều nọ hay điều kia trở thành ích lợi

nhất

ngay cả khi nó bám theo sự vật thì nó cũng không xa

lánh chính mình.

Tại sao người thường đuổi theo các sự vật? Ai đó muốn

có chiếc xe hơi, ai đó muốn ngôi nhà và ai đó muốn có tiền

và ai đó muốn quyền lực - tại sao mọi người đều đuổi theo

các sự vật? Lí do cơ bản, nền tảng cho khao khát của họ và

các hoạt động cuồng nhiệt là gì? Bạn sẽ ngạc nhiên... Mật

tông nói: Họ muốn chạy xa khỏi chính họ. Họ không chạy

hướng về các sự vật, họ đơn giản muốn chạy khỏi chính họ.

Sự vật là cái cớ, chúng giúp bạn quay lưng lại bản thân

mình. Bạn sợ bản thân mình; có nỗi sợ lớn về bản thân

mình.

Điều ấy xảy ra hàng ngày: bất kì khi nào một người đến

gần hơn với thiền, người đó đều trở nên hoảng sợ. Tại sao?

- bởi vì khi bạn nhìn vào bản thân mình bạn sẽ không tìm

thấy ai ở đó cả. Cái không thuần khiết, vực thẳm - cái

không như vực thẳm. Bạn bắt đầu run rẩy, bạn đang đứng

chênh vênh trên vách đá... chỉ một bước sai lầm là bạn kết

thúc. Người ta bắt đầu chạy khỏi bản thân mình. Mọi người

đều chạy - chẳng vì cái gì, mọi người đang chạy khỏi bản

thân mình. Họ không chạy vì cái gì đó, họ đang chạy khỏi

cái gì đó. Và cái gì đó là bản thể riêng của họ.

Cho nên bất kì khi nào bạn bận bịu, bạn cảm thấy tốt.

Bất kì khi nào bạn không bận bịu, bạn cảm thấy rất bất ổn,

rất bất ổn. Chẳng có gì để làm, bạn bắt đầu rơi về bản thân

mình. Nếu có cái gì đó cần phải làm, bạn tham gia ngay;

được tham gia bạn có thể quên cái vực thẳm đó, cái vẫn cứ

gọi bạn từ bên trong. Vực thẳm đó là điều Thượng đế là gì.

Chấp nhận vực thẳm đó, trở nên thân thiện với vực

thẳm đó là bước đầu tiên hướng tới thực tại.

...và theo cách đó điều nọ hay điều kia trở thành ích lợi

nhất

ngay cả khi nó bám theo...

Saraha nói những người thường đang đuổi theo các sự

vật bởi vì họ muốn tránh bản thân họ. Nhưng người đã đi

tới biết chân lí là gì, cho dù người đó có tiếp tục hướng tới

các sự vật, người đó vẫn không bị lừa, bởi vì người đó cũng

sẽ tận hưởng. Trong thực tế người đó là người duy nhất sẽ

tận hưởng.

Bạn đang đuổi theo sự vật bởi vì bạn muốn tránh bản

thân mình. Người đó chẳng có đâu, chẳng có gì để tránh cả,

người đó không trốn thoát khỏi đâu cả - người đó có thể tận

hưởng mọi thứ. Trong thực tế chỉ người đó mới có thể tận

hưởng mọi thứ. Làm sao bạn có thể tận hưởng được mọi

thứ? - bởi vì bạn thường xuyên sợ bản thể của riêng mình.

Saraha nói: Nếu bạn thấy người mật tông tận hưởng

đàn bà hay tận hưởng bữa ăn ngon hay uống rượu, chớ

phán xét người đó bởi vì người đó trông giống như bất kì

người thường nào khác; người đó không phải vậy. Khác

biệt là rất sâu sắc, khác biệt là rất bản chất. Trên bề mặt họ

cả hai trông giống nhau. Làm sao bạn có thể phân biệt được

người đang theo đuổi người đàn bà là người thường hay

người mật tông? Từ bên ngoài rất khó phân biệt, bởi vì từ

bên ngoài họ trông gần như nhau.

Lấy vài thí dụ: Hai vũ công đang nhảy múa. Một vũ

công đang nhảy chỉ để biểu diễn, để cảm thấy bản ngã -

rằng mình là vũ công lớn. Đấy chỉ là biểu diễn. Người đó

nhìn vào mắt mọi người để xem họ đang nghĩ gì. Người đó

chờ đợi tán thưởng của họ, người đó hi vọng họ sẽ tán

thưởng mình. Họ sẽ giúp cho bản ngã người đó mạnh thêm

một chút ít. Và rồi còn vũ công nữa cũng trên cùng sàn

diễn, nhảy múa bởi vì người đó tận hưởng việc múa. Người

đó không biểu diễn. Người đó thậm chí không bận tâm về

việc mọi người có tán thưởng hay không, mọi người có đó

hay không. Người đó bị cuốn hút, hoàn toàn bị cuốn hút

trong điệu vũ của mình. Bạn có thể phân biệt được hai

người đó từ bên ngoài không? Điều đó sẽ rất khó khăn. Khả

năng nhiều hơn là bạn không thể phân biệt nổi. Thậm chí

bạn có thể nghĩ rằng người biểu diễn là vũ công vĩ đại, bởi

vì người đó nói cùng ngôn ngữ của bản ngã mà bạn hiểu.

Người không biểu diễn trông có vẻ hơi kì dị. Người không

biểu diễn sẽ tự phát đến độ chừng nào bạn chưa biết ngôn

ngữ của tự phát, bạn không thể hiểu được người đó.

Để hiểu bất kì cái gì, ít nhất bạn phải biết ngôn ngữ.

Người mật tông ngồi bên cạnh người đàn bà, cầm tay cô ta,

và người thường cầm tay người đàn bà - làm sao bạn phân

biệt được giữa hai người? Người thường đang cố gắng

thoát khỏi bản thân mình. Người đó muốn được biến mất

vào trong người đàn bà này để cho người đó có thể quên

được mình. Bản thân người đó không yêu chính mình, đó là

lí do tại sao người đó yêu người đàn bà này - để cho thực

tại của người đó có thể bị quên đi. Người đó dùng người

đàn bà này tựa như một thứ giải khát có cồn: người đàn bà

này làm cho người đó say và người đó quên mất bản thân

mình. Điều đó có ích, nó cho người đó thảnh thơi nào đó.

Trong một vài khoảnh khắc ít nhất người đó cũng không

còn trong lo âu thông thường của mình.

Còn người mật tông, cầm tay người đàn bà trong vui vẻ

vô biên... Không phải là người đó muốn trốn thoát - chẳng

có chỗ nào mà trốn cả, và cũng chẳng có ai để mà trốn.

Người đó cầm tay người đàn bà chỉ để chia sẻ điều gì đó

cực kì có giá trị với cô ấy.

Bạn không thể chia sẻ mọi thứ với mọi người được. Có

vài thứ bạn chỉ có thể chia sẻ trong tình yêu, có vài thứ bạn

chỉ có thể chia sẻ trong tin cậy.

Mọi người hay hỏi tôi tại sao tôi không nói với đông

đảo quần chúng. Tôi không nói với họ bởi vì tôi có cái gì

đó để chia sẻ, và cái đó chỉ có thể được chia sẻ trong tin cậy

sâu sắc, cái đó chỉ có thể được chia sẻ trong tình yêu sâu

sắc. Tôi chỉ có thể nói với những người đang yêu tôi. Bằng

không điều đó là vô nghĩa: họ sẽ không hiểu, họ sẽ hiểu

lầm. Không có cách nào để làm cho điều đó thành hiểu

được. Nó có thể được trao đổi chỉ khi bạn đã sẵn sàng đáp

ứng.

Khi trái tim bạn sẵn sàng, cởi mở, tôi có thể chơi trên

trái tim bạn và bản nhạc vĩ đại có thể sinh ra. Nhưng nếu

bạn đến với sự đóng kín, không tin cậy, hoài nghi, tôi

không thể tạo ra được bản nhạc đó. Điều đó là không thể

được, bởi vì bạn sẽ không cho phép tôi đi vào cốt lõi sâu

kín nhất của con người bạn và chơi trên trái tim bạn. Nếu

bạn không cho phép tôi, bản nhạc sẽ không tạo ra được.

Và rồi bạn muốn biết liệu bản nhạc có tồn tại hay

không... và cách duy nhất để làm cho bạn nhận biết rằng nó

tồn tại là tạo ra nó trong bạn. Bạn nói, "Có chứ, tôi sẽ tin

cậy nếu tôi có thể kinh nghiệm được bản nhạc." Vấn đề là ở

chỗ bạn không thể kinh nghiệm được bản nhạc chừng nào

bạn còn chưa tin cậy. Nó phải được tạo ra, chỉ thế thì bạn

mới có thể biết rằng nó hiện hữu. Nhưng trước khi nó có

thể được biết, tin cậy là yêu cầu cơ bản.

Người mật tông cầm tay người đàn bà. Người đó có thể

cầm tay của bất kì ai, nhưng người đó sẽ không thể nào

truyền được năng lượng đã xảy ra cho mình; người đó có

thể truyền nó rất dễ dàng cho ai đó yêu người đó. Và điều

đó có thể được truyền chỉ trong những khoảnh khắc nào

đó...

Có những khoảnh khắc nhất định khi hai người đến gần

nhau đến mức năng lượng có thể nhảy từ người nọ sang

người kia. Bạn biết về những khoảnh khắc này - nếu bạn đã

từng yêu ai, bạn sẽ biết - chúng không có đó hai mươi bốn

giờ một ngày. Cho dù bạn yêu người đàn bà... vợ bạn hay

con bạn, chồng bạn, thì thế nữa bạn cũng biết rằng trong

hai mươi bốn giờ một ngày những khoảnh khắc ấy không

có đó; chúng hiếm khi mới xảy ra. Đôi khi chúng xảy ra...

đôi khi, cái gì đó... và bạn rơi vào nhau. Đôi khi bạn cảm

thấy rằng người kia đã tới rất, rất gần, phần ngoại vi của

các bạn lấn lên nhau. Đó là khoảnh khắc khi cái gì đó có

thể được truyền đạt.

Bây giờ Saraha nói: Nếu bệ hạ nhìn từ bên ngoài, tâu

bệ hạ, bệ hạ sẽ thấy những người mật tông chúng tôi chỉ hệt

như người bình thường khao khát mọi thứ, vui vẻ bình

thường của cuộc sống. Chúng tôi không phải như vậy.

Và ông ấy nói:

Một khi trong cõi tràn đầy vui vẻ

tâm trí hiểu biết trở nên giàu có

và theo cách đó điều nọ hay điều kia trở thành ích lợi

nhất...

Đây là luân hồi, và kia là niết bàn. Saraha nói: Tâm trí

giầu có này - giầu có bởi vui vẻ - trở thành có ích cho cả cái

này và cái kia, cho cả luân hồi lẫn niết bàn, cho bên ngoài

và bên trong, cho cả thân thể và tâm hồn, cho cả cái thấy

được và không thấy được. Nó trở thành có khả năng và có

ích cho cả cái này và cái kia. Đây là một tuyên bố vĩ đại.

Cái gọi là những người tâm linh thông thường nghĩ

rằng tâm trí của bạn có thể có ích trong thế giới này hay

trong Thượng đế. Suy nghĩ của họ là ở chỗ chỉ có một

trong hai điều đó. Mật tông nói: Suy nghĩ này phân chia

cuộc sống ra thành phần thấp và phần cao, thành vật chất

và tâm linh, thành luân hồi và niết bàn. Phân chia này là sai

bởi vì cuộc sống là không thể phân chia được. Và thực tế,

nếu bạn thông minh bạn sẽ không chỉ có khả năng tận

hưởng Thượng đế, bạn sẽ có khả năng tận hưởng ngay cả

những điều bình thường nữa. Bạn sẽ có khả năng tận hưởng

tảng đá hệt như bạn sẽ có khả năng tận hưởng Thượng đế.

Nhìn vào trong tuyên bố sâu sắc, vĩ đại này: Khi tâm trí

thực sự thông minh và được làm giầu bởi vui vẻ, bạn sẽ có

khả năng tận hưởng phúc lạc, bạn sẽ có khả năng tận hưởng

hạnh phúc, bạn sẽ có khả năng tận hưởng hoan lạc nữa bởi

vì chúng tất cả đều thuộc vào Thượng đế - phần thấp nhất

cũng như phần cao nhất.

...và theo cách đó điều nọ hay điều kia trở thành ích lợi

nhất

ngay cả khi nó bám theo sự vật thì nó cũng không xa

lánh chính mình.

Và Saraha nói: Cho dù bệ hạ có thấy tôi chạy, việc đuổi

theo các sự vật chỉ là cách diễn giải của hoàng thượng.

Thần không đuổi theo, bởi vì không có đâu để chạy và

không có ai chạy.

Trạng thái một người đã đạt tới sự sáng tỏ bên trong

của mình là ở chỗ người đó có thể tận hưởng mọi thứ từ

thức ăn cho tới Thượng đế, từ dục cho tới samadhi. Không

có phân chia: không nên có, không cần có phân chia.

Mật tông cho bạn cả hai thế giới. Mật tông không phải

là quan điểm hoặc cái nọ hoặc cái kia, nó là cả hai thế này

và thế nọ; nó rất thấu đáo. Mọi tôn giáo đều có vẻ nghèo

nàn theo cách đó, bởi vì họ trốn khỏi thế giới và họ buộc

bạn phải chọn lựa không cần thiết. Họ nói: Hoặc chọn thế

giới hoặc chọn Thượng đế. Họ đặt Thượng đế đối lập với

thế giới. Mật tông là tôn giáo toàn bộ duy nhất - tôn giáo

toàn bộ duy nhất. Không tôn giáo nào sinh ra trên trái đất

này có tầm nhìn toàn bộ đến như thế.

Mật tông nói, cả hai, không có vấn đề chọn lựa; tất cả

đều là của bạn. Bạn có thể ở giữa bãi chợ, và bạn có thể tận

hưởng bãi chợ; và vậy mà bạn có thể vượt ra ngoài nó, bạn

có thể tận hưởng cả phần bên ngoài nó nữa. Nó không buộc

bạn phải chọn lựa. Mọi chọn lựa đều là huỷ diệt. Và bởi vì

những tôn giáo này theo quan điểm "hoặc cái nọ hoặc cái

kia" nên thế giới vẫn còn là trần gian.

Ai bận tâm về Thượng đế? Thượng đế xa xôi thế,

không thật thế. Và rồi người ta nghĩ, "Để sau hẵng hay...

Mình có thể hoãn Thượng đế lại, nhưng cuộc sống vẫn

đang tiếp diễn - phải tận hưởng nó trước đã." Những tôn

giáo nào buộc con người phải lựa chọn, chúng sẽ buộc

người ta phải lưu lại trần gian. Trong một triệu người, một

người sẽ trở thành mang tính tôn giáo. Một lựa chọn khó

khăn không cần thiết - người đó phải từ bỏ thế giới, người

đó phải rời bỏ gia đình, xa rời bạn bè; người đó phải chống

lại mọi tình yêu của mình. Bạn bó buộc người đó một cách

không cần thiết.

Và rồi vấn đề khác nảy sinh. Những người đã sẵn sàng

chọn Thượng đế không chọn thế giới thì ít nhiều là những

người hư hỏng, những người đã thất bại trong cuộc sống

theo cách nào đó; những người bằng cách nào đó chưa đủ

thông minh để hiểu cuộc sống; những người thế nào đó vẫn

còn ngu ngốc, những người bạo ác; những người bằng cách

nào đó bị thần kinh, bản ngã. Họ có thể trốn khỏi thế giới,

họ có thể bắt đầu hành hạ mình; đó chính là điều mà chủ

nghĩa khổ hạnh vẫn làm cho tới nay. Tự hành hạ mình, bạo

hành với chính mình, tự huỷ hoại mình. Dần dần đầu độc

bản thể bạn. Những người này không phải là những người

lành mạnh.

Cho nên trong số một triệu người, một người trở nên

quan tâm tới việc chọn Thượng đế. Và trong hàng trăm cái

gọi là người tôn giáo thì có đến chín mươi chín người

dường như thần kinh. Cho nên trong một trăm triệu người,

một người trở thành một Phật hay một Christ hay một

Krishna. Đây là lãng phí cực kì.

Bạn hãy nghĩ về khu vườn có mười triệu cây đang mọc

và chỉ một cây nở hoa. Bạn có gọi người làm vườn đó là

người làm vườn được không? Trong thực tế bạn sẽ đi đến

kết luận tự nhiên về điều đó rằng không phải bởi vì người

làm vườn mà cây nở hoa; cây phải nở hoa bất kể có người

làm vườn hay không. Mười triệu cây ông ấy đã trồng và chỉ

một cây nở hoa và kết quả. Điều đó không thể vì người làm

vườn được; nó phải vì một cái gì đó đã thoát khỏi người

làm vườn, người làm vườn không thể phá huỷ được nó.

Bằng cách nào đó người làm vườn đã lãng quên nó, một

cách nào đó người làm vườn đã quên mất nó. Có thể...

mười triệu cây, và ông ta đã quên mất về nó. Cho nên nó đã

bị lỡ và đã nở hoa. Từng cây đều mang tiềm năng cho quả,

đều mang tiềm năng nở hoa; và mỗi người đều có khả năng

trở thành một thượng đế.

Mật tông tạo ra một tôn giáo hoàn toàn mới. Nó nói

rằng không cần phải chọn: dù bạn ở đâu, đích xác ở đó có

thể kinh nghiệm Thượng đế. Nó không chống lại thế giới,

nó vì Thượng đế. Và Thượng đế của nó bao la đến độ cả

thế giới có thể được bao hàm.

Và đối với tôi điều dường như rất, rất có liên quan là sự

sáng tạo nên được bao hàm trong đấng sáng tạo. Nó không

nên chống nhau. Đây là kiểu logic gì mà nói rằng sự sáng

tạo chống đấng sáng tạo? Nếu Thượng đế là người tạo ra

bạn, nếu Thượng đế là người tạo ra thân thể bạn, dục tính

của bạn, cảm giác của bạn, những cái đó không thể chống

Thượng đế được.

George Grurdjieff hay nói rằng tất cả các tôn giáo đều

chống Thượng đế. Và ông ấy cũng phải - ngoại trừ Mật

tông, ông ấy là phải. Tất cả các tôn giáo đều chống

Thượng đế. Nếu bạn chống lại sự sáng tạo của Thượng đế,

bạn đang chỉ ra rằng bạn chống lại Thượng đế. Nếu bạn

chống lại bức hoạ, liệu bạn có nói rằng bạn không chống lại

người vẽ không? Nếu bạn đang chống một bài thơ, liệu bạn

có nói rằng, theo một cách gián tiếp, bạn không chống lại

nhà thơ không?

Nếu Thượng đế là đấng sáng tạo, việc sáng tạo là của

ông ấy và phải có dấu ấn của ông ấy ở mọi nơi. Vâng, nó

có đó, và Mật tông nói rằng dấu ấn của Thượng đế ở khắp

nơi. Bạn chỉ cần đôi mắt thấy, tâm trí thấy và một chút cảm

nhận vui vẻ, và điều đó sẽ bắt đầu xảy ra.

Nụ của vui vẻ và hoan lạc

cùng lá của niềm vinh quang lớn lên.

Dù không có gì chảy tràn ra bất kì đâu

thì niềm sung sướng không thể tả được cũng vẫn kết

quả.

Chìa khoá... bí mật. Đây là những câu kinh cuối của

Saraha. Ông ấy đang trao cho chúng ta sự động chạm cuối

cùng tới bất kì cái gì ông ấy đã nói cho tới nay. Ông ấy

đang trao lời tuyên bố cuối cùng.

Ông ấy nói: Hoan lạc là của thân thể. Hoan lạc đi ra

ngoài - hoan lạc cần tới người khác, hoan lạc khao khát sự

vật, hoan lạc là cuộc hành trình hướng ngoại. Tốt! Chẳng

có gì sai trong đó cả. Và rồi: Vui vẻ là cuộc hành trình

hướng nội. Vui vẻ quan tâm nhiều tới bản thân mình, vui

vẻ mang tính chủ quan hơn. Với hoan lạc, người khác là

cần có; với vui vẻ, bạn là đủ.

Hoan lạc mang tính thân thể, vui vẻ mang tính tâm lí.

Nhưng chúng cả hai đều vẫn chỉ là nụ chừng nào cái thứ

ba, điều tối thượng trong vui vẻ, chưa xảy ra: phúc lạc.

Phúc lạc đó là hoa sen một nghìn cánh, đỉnh cao nhất của

tâm thức bạn. Khi điều đó mở ra thì tất cả nụ đều nở hoa.

Bây giờ điều này cần được hiểu. Người thường chỉ có

thể có vui vẻ rất giới hạn qua thân thể, nhưng người mật

tông sẽ có vui vẻ mênh mông qua thân thể mình. Nó sẽ

không chỉ là nụ, nó sẽ là việc nở hoa. Người thường có thể

có vui vẻ nào đó trong âm nhạc, trong thiền, trong nhảy

múa, nhưng người mật tông sẽ có vui vẻ vô hạn. Khi bạn đã

biết vui vẻ vô hạn này thì vui vẻ đó bắt đầu được phản xạ

trong mọi thứ bạn làm.

Nếu bạn đã biết Thượng đế thì dù bạn bước đi đâu, bạn

cũng đang bước trên mảnh đất thiêng liêng. Thế thì dù bạn

thấy bất kì cái gì, bạn cũng đang thấy Thượng đế. Thế thì

dù bạn gặp bất kì ai, bạn cũng đang gặp Thượng đế.

Luôn nhớ lấy: kinh nghiệm cao nhất của bạn được phản

xạ trong kinh nghiệm thấp nhất của bạn. Không có kinh

nghiệm cao nhất thì phần thấp sẽ rất trần tục. Đó là vấn đề.

Đó là lí do tại sao mọi người không thể hiểu được những

người mật tông khi họ nói rằng ngay cả trong dục vẫn có

thể có samadhi. Họ không thể hiểu được, và có thể hiểu

được tại sao họ lại không thể hiểu được. Họ không biết

samadhi. Họ biết dục xấu xí, rất bình thường. Họ chỉ biết

thất vọng qua nó. Họ chỉ biết thèm khát qua nó.

Từ 'yêu' trong tiếng Anh rất có ý nghĩa. Nó bắt nguồn

từ gốc tiếng Phạn lobha. Lobha nghĩa là tham lam, thèm

khát. Yêu thông thường chẳng là gì ngoài thèm khát và

tham lam. Làm sao người thường hiểu được rằng trong yêu

điều tối thượng cũng có thể được phản xạ? Nhưng khi bạn

đã biết về điều tối thượng, điều cao nhất, thì cái thấp nhất

được móc nối với nó. Thế thì bất kì cái gì cũng đều khuấy

động nó, thế thì bất kì cái gì cũng đều trở thành thông điệp

từ nó.

Điều ấy giống như thế này. Bạn bắt gặp chiếc khăn tay

rơi trên đường; đấy là chiếc khăn tay bình thường, chẳng

đáng giá hơn một rupi. Nhưng một hôm bạn yêu người đàn

bà, và bạn bắt gặp chiếc khăn tay rơi trên phố - cũng là một

chiếc khăn tay, đáng giá một rupi - nhưng bây giờ nó thuộc

về người đàn bà bạn yêu. Bây giờ nó cực kì có giá trị, bây

giờ nó không chỉ là một rupi nữa. Nếu ai đó định tặng bạn

một nghìn rupi bạn sẽ không sẵn lòng cho đi chiếc khăn tay

này - nó thuộc về người đàn bà mà bạn yêu. Bây giờ chiếc

khăn tay bình thường này có cái gì đó không có trước đây:

nó nhắc nhở bạn về người yêu của mình.

Sự việc đích xác giống như vậy. Khi bạn đã biết

samadhi, ngay cả cực thích dục cũng chỉ nhắc nhở bạn về

samadhi, thế thì mọi thứ đều nhắc nhở bạn về samadhi. Thế

thì toàn bộ sự tồn tại đều trở thành đầy và đông đảo

Thượng đế...

Nụ của vui vẻ và hoan lạc

cùng lá của vinh quang lớn lên.

Nụ là của vui vẻ và hoan lạc, còn lá là của vinh quang.

Nhưng thông thường bạn sẽ chỉ thấy lá chừng nào điều cao

nhất chưa xảy ra. Khi điều cao nhất xảy ra bạn thấy rằng

ngay cả những chiếc lá bình thường của cuộc sống bạn

cũng không phải là chiếc lá thường: chính qua chúng mà

việc nở hoa tối thượng xảy ra. Và bây giờ bạn biết rằng

cùng dòng nhựa cây chảy tới bông hoa tối thượng đó, tới nụ

của vui vẻ và hoan lạc; và dòng nhựa cây đó cũng chảy tới

cả tới lá nữa. Tất cả chúng đều cùng giúp cho hoa sen một

nghìn cánh nở ra.

Lá của vinh quang nghĩa là lá của ân huệ, của lòng biết

ơn. Bạn bắt đầu cảm thấy niềm vinh quang của sự tồn tại;

cuộc sống của bạn là vinh quang. Nó không còn bình

thường nữa, nó rực sáng với Thượng đế.

Dù không có gì chảy tràn ra bất kì đâu...

Và khi nào thì bông hoa sen một nghìn cánh này mở?

Nó mở ra khi chẳng có gì chảy ra.

Bây giờ nhìn xem: Trước hết, hoan lạc là khi năng

lượng bạn đang chảy ra - hoan lạc của thân thể. Vui vẻ là

khi năng lượng bạn chảy vào trong - vui vẻ chủ quan, tâm

lí. Và khi nào phúc lạc xảy ra? - khi năng lượng của bạn

không chảy đi đâu nữa, nó đơn giản ở đấy. Bạn không đi

đâu cả, bạn đơn giản ở đấy; bạn chỉ là sự hiện hữu.

Bây giờ bạn không có mục tiêu nào, bây giờ bạn không

có bất kì ham muốn nào phải hoàn thành, bạn không có

tương lai nào. Bạn chỉ ở đây bây giờ. Khi năng lượng đã

đọng thành vũng, không chảy đi đâu, không tràn đi đâu;

không có mục tiêu nào phải đạt tới, không có gì phải tìm

kiếm; bạn chỉ ở đây, hoàn toàn ở đây, toàn bộ ở đây; cái

bây giờ này là tất cả thời gian còn lại cho bạn, và cái ở đây

là toàn bộ không gian. Thế thì bỗng nhiên sự thu thập năng

lượng này, không chuyển đi đâu hết, không bị phân tán bởi

thân thể hay tâm trí, sẽ trở thành một xô đẩy lớn trong bạn.

Và... hoa sen một nghìn cánh nở.

Dù không có gì chảy tràn ra bất kì đâu

thì niềm phúc lạc không thể tả được cũng vẫn kết quả.

Và rồi kết quả tới. Cho nên vui vẻ và hoan lạc là nụ, ân

huệ và biết ơn và vinh quang là lá, còn việc nở hoa tối

thượng của niềm phúc lạc là sự hoàn thành, kết quả. Bạn đã

về nhà.

Điều đã được làm cùng nơi

và cái bản thân nó trở thành đều là cái không...

Và bây giờ bạn biết rằng bất kì cái gì đã từng được làm

hay không được làm đều chỉ là giấc mơ. Bây giờ bạn biết

rằng nghiệp, hành động, đều chẳng có nghĩa gì. Bạn chỉ vẽ

hình trên nước; chúng cứ biến đi. Chẳng có gì còn lại.

Chẳng có gì thực sự xảy ra. Tất cả hiện hữu. Chẳng có gì

xảy ra cả.

Điều đã được làm cùng nơi

và cái bản thân nó trở thành đều là cái không...

Saraha nói: Bệ hạ, xin bệ hạ hãy nhìn. Điều tôi đang

làm và điều tôi đã làm và điều tôi đã từng làm tất cả đều vô

nghĩa vì bây giờ tôi biết nó chỉ là giấc mơ.

... nhưng theo cách đó nó đã có ích cho cái này cái nọ.

Nhưng ông ấy nói, điều đó đúng - nó có ích cho cái này

cái nọ. Ngay cả khi nó là giấc mơ thì nó cũng có ích - nó

đưa tôi tới thực tại này. Tôi đã bước qua giấc mơ đó, nhưng

bây giờ tôi biết nó là giấc mơ, bây giờ tôi biết nó là giả. Tôi

chẳng làm gì, bởi vì chẳng có gì đã được làm; nó tất cả chỉ

là giấc mơ, nhưng nó có ích - nó đã mang tôi tới kết quả tối

thượng này.

Luân hồi này và niết bàn kia cả hai đều được làm cho

phong phú thêm bởi có giấc mơ. Giấc mơ không chỉ là vô

ích, nó cũng có ích, tiện dụng. Nhưng không đúng.

Để tôi kể cho bạn một giai thoại...

Một thợ săn đang rảo bước trong rừng rậm và anh ta

gặp một con hổ đang gầm gừ tiến về phía anh ta trên con

đường. Anh ta giương súng lên... nhưng khiếp hãi vì anh ta

thấy súng hết đạn. Con hổ tới ngày một gần hơn, nó sắp sửa

tấn công.

"Phải làm gì đây? Mình sắp bị ăn thịt mất," người thợ

săn nghĩ thầm, khiếp đảm làm anh ta cứng ngắc tại chỗ.

Ngay khi con hổ sắp nhảy tới người thợ săn có một cảm

giác kì lạ. "Mình tin là mọi thứ này đều chỉ là giấc mơ,"

anh ta tự nhủ. "Nếu mình cố gắng thật mạnh thì chắc chắn

mình sẽ tỉnh dậy." Thế là anh ta tự véo vào mình thật đau

và giật mình chớp mắt. Trong khoảnh khắc con hổ biến

mất; con hổ đã đi mất, người thợ săn thấy an toàn trên

giường. Thật nhẹ nhõm! Anh ta vẫn run rẩy vì sợ hãi,

nhưng bây giờ anh ta đã cười to. Con hổ dường như thực

làm sao! May quá nó chỉ là giấc mơ.

Khi anh ta cảm thấy bình tĩnh lại, anh ta ngồi dậy và

pha một cốc nước chè. Anh ta vẫn còn cảm thấy mệt, cho

nên anh ta ngồi bên ngoài lều trong chiếc ghế bành và thỉnh

thoảng hút thuốc. Anh ta thực sự cảm thấy rất buồn ngủ,

cho nên anh ta lấy mũ đậy lên mặt và nhắm mắt. "Mình có

thể ngủ cả ngày," anh ta nói.

Sau một chốc anh ta nghe thấy tiếng gầm gừ. "Chao

ôi," người thợ săn nói, "mình phải bỏ giấc ngủ lần nữa. Lại

con hổ đó quay lại. Cút đi, đồ con hổ ngu, tao phát mệt vì

mơ thấy mày!"

Con hổ gầm lên và tới gần hơn.

"Tao không sợ mày. Mày chỉ trong giấc mơ," người thợ

săn nói. Rồi anh ta đứng dậy khỏi chiếc ghế, bước tới con

hổ và đấm thật mạnh vào mũi con hổ.

"Thằng cha kì quái này!" con hổ nghĩ, "Người thường

chạy trốn trước ta." Và tất nhiên khi thấy người kì lạ này,

con hổ trốn biệt.

Khi con hổ trốn mất người này mới trở nên tỉnh táo về

sự kiện là anh ta hoàn toàn tỉnh thức và con hổ không phải

trong mơ, nó là một thực tại.

Nhưng điều gì đã xảy ra? Giấc mơ giúp cho người đó

khắc phục được con hổ thật. Một cách tự nhiên con hổ phải

trở nên rất phân vân. Điều này chưa từng bao giờ xảy ra!

Đây là kiểu người nào mà đứng dậy và đấm cho mình một

quả vào mặt như thế?

Tất cả đều là giấc mơ, nhưng giấc mơ có thể giúp cho

việc hiểu thực tại - thậm chí để vượt qua thực tại.

Saraha nói:

Điều đã được làm thì nơi chốn và cái

nó trở thành trong chính nó, đều là cái không

nhưng theo cách đó nó đã có ích cho cái này cái nọ.

Dù đam mê hay không thì hình mẫu cũng là cái không.

Saraha nói: Dù bạn đang sống cuộc sống đam mê hay

cuộc sống không đam mê, những người biết vẫn biết rõ

rằng sâu bên dưới cả đam mê lẫn không đam mê đều không

có gì khác nhau. Sâu trong nó là cái không thuần khiết.

Nó cũng tựa như một cuốn phim được chiếu lên màn

ảnh rỗng không. Cảnh đẹp được chiếu lên và bạn bị xúc

động bởi cảnh đẹp đó; cảnh khủng khiếp được chiếu lên và

bạn bắt đầu run rẩy. Nhưng Saraha nói: Cái ngày bạn hiểu

ra thì chẳng còn gì ngoài hình bóng trên màn ảnh rỗng

không. Tội nhân là phóng chiếu, thánh nhân cũng vậy. Điều

tốt là phóng chiếu, điều xấu cũng vậy. Trên màn ảnh rỗng

không của thực tại mọi thứ đều do tâm trí phóng chiếu ra.

Cho nên Saraha nói: Tâu bệ hạ, xin chớ phân vân quá

nhiều bởi điều mọi người nói. Tôi biết nó chỉ là màn ảnh

rỗng không. Liệu Saraha là người với tính cách rất vĩ đại

hay là một kẻ vô công rồi nghề phi tính cách, liệu Saraha có

được mọi người kính trọng hay bị kết án và sỉ vả thì cũng

chẳng thành vấn đề - nó chỉ là màn ảnh rỗng không, người

ta đang phóng chiếu các ý tưởng của mình lên đó.

Tôi đã đi tới nhận ra cái không này. Và kinh nghiệm

này về cái không này, và kinh nghiệm về hoa sen một

nghìn cánh này là hai khía cạnh của cùng một hiện tượng.

Một mặt bạn đạt tới phúc lạc tối thượng, mặt khác bạn bây

giờ bạn biết mọi thứ chỉ là giấc mơ rỗng không. Chẳng có

gì để bỏ đi và chẳng có đâu mà đi; không ai rời đi và không

ai đi đâu cả. Không chỉ mọi thứ đều rỗng mà cả bạn cũng

rỗng không. Nó là tất cả là rỗng không - bên trong, bên

ngoài - hệt như giấc mơ. Cái gì xảy ra trong giấc mơ? Bạn

tạo ra... nó là tưởng tượng.

Câu kinh cuối:

Nếu tôi giống con lợn đam mê vũng bùn thế gian

thì bạn phải bảo tôi sai lầm nào trong tâm trí không tì

vết.

Bởi cái không ảnh hưởng đến người ta

làm sao mà người ta hiện bị tù túng?

Saraha nói: nếu tôi giống con lợn thì cũng được. Nếu

mọi người nói rằng Saraha đã trở thành con lợn, con chó

điên, điều đó hoàn toàn được. Chẳng có gì khác biệt dù cho

người ta có nói rằng Saraha đã trở thành vị thánh vĩ đại hay

họ nói rằng ông ấy đã trở thành con lợn đam mê vũng bùn

thế gian.

... thì ông phải bảo tôi sai lầm nào nằm trong tâm trí

không tì vết.

Điều tôi làm không có gì khác biệt; bên trong tôi biết

cái không, bên ngoài tôi chỉ biết cái không. Thuần khiết của

tôi là không bị ô uế bởi điều tôi làm; việc làm không ảnh

hưởng đến con người tôi chút nào. Cho nên bệ hạ bảo tôi,

thưa bệ hạ:

...sai lầm nào trong tâm trí không tì vết.

Bởi cái không ảnh hưởng đến người ta

làm sao người ta hiện bị tù túng?

Và những điều này không ảnh hưởng tới tôi theo cách

nọ hay cách kia. Tôi không buông bỏ mà cũng chẳng níu

bám. Tôi để mọi thứ xảy ra - bất kì cái gì xảy ra. Tôi không

có kế hoạch nào và tôi không có bất kì kiểu áp đặt nào lên

cuộc sống. Tôi sống tự nhiên - bất kì cái gì xảy ra thì cứ

xảy ra, còn tôi không phán xét. Và tôi không nói, "Nó nên

theo cách này." Tôi không có từ 'nên', tôi không có từ

'không nên'.

Suy tư về trạng thái này: Không có cái 'nên', không có

cái 'không nên'; không kế hoạch, không thất vọng, không

hối hận - bởi vì chẳng có gì xảy ra sai cả. Làm sao có cái

gì sai được khi bạn không có bất kì ý tưởng nào về cái

đúng?

Đây là tự do tối thượng, giải thoát tối thượng.

Làm sao mọi việc thành sai được? Cái sai có thể xảy ra

chỉ khi bạn có khái niệm nào đó về cái đúng. Nếu bạn

không có bất kì khái niệm nào, bạn không có bất kì hệ tư

tưởng nào, bạn không có bất kì ý tưởng nào, Saraha nói,

"bởi cái không ảnh hưởng đến người ta thì làm sao người ta

hiện bị tù túng được?"

Và câu kinh cuối là câu rất hay. Khi bạn thực sự về nhà

và bạn thấy cái đang đó, bạn sẽ không cảm thấy rằng bạn

đã trở nên được giải thoát. Ngược lại bạn sẽ cảm thấy: Thật

buồn cười mà mình đã nghĩ rằng mình chưa được giải

thoát! Khác biệt là lớn lao.

Nếu khi bạn về nhà, khi bạn đi tới biết cái đang đấy,

bạn bắt đầu cảm thấy rất, rất được nâng cao và bạn đang

trong trạng thái lâng lâng rất lớn lao, và bạn nói, "Bây giờ

ta đã trở nên được giải thoát," điều đó có nghĩa là bạn chưa

được giải thoát. Điều đó có nghĩa là bạn vẫn còn nghĩ tù

túng là thực, điều đó nghĩa là bạn vẫn đang trong mơ... bây

giờ trong giấc mơ khác. Giấc mơ này là cảnh tù túng, giấc

mơ khác là về giải thoát - nhưng giấc mơ khác lại bắt đầu.

Saraha nói: Khi bạn thực sự trở thành được giải thoát -

được giải thoát khỏi mọi cái đúng và cái sai, được giải thoát

khỏi mọi cái tốt và cái xấu - bạn không chỉ được giải thoát

khỏi cảnh tù túng, bạn còn được giải thoát khỏi bản thân sự

giải thoát. Thế thì bỗng nhiên bạn bắt đầu cười: Kì cục làm

sao! Tù túng không thể xảy ra ngay chỗ bắt đầu, tù túng

chưa bao giờ xảy ra cả! Đấy chỉ là tin; mình đã tin vào nó,

và mình đã tạo ra nó qua việc tin của mình. Nó đã là giấc

mơ, bây giờ giấc mơ đã chấm dứt."

Đó là lí do tại sao câu kinh cuối kết thúc bằng dấu

chấm hỏi. Bạn đã bao giờ thấy bất kì bản kinh nào kết thúc

bằng dấu chấm hỏi chưa? Đây là bản kinh duy nhất như

thế. Tôi không bắt gặp bất kì cái gì khác.

Kinh sách bắt đầu bằng dấu chấm hỏi và kết thúc bằng

câu trả lời. Đấy là cách mọi bản thuyết luận logic đều phải

theo. Phần giới thiệu có thể là câu hỏi, không phải là phần

kết. Nhưng bài thơ hay này của Saraha kết thúc với một

dấu chấm hỏi.

Nếu tôi giống con lợn đam mê vũng bùn thế gian

thì bạn phải bảo tôi sai lầm nào trong tâm trí không tì

vết.

Bởi cái không ảnh hưởng đến người ta

làm sao người ta hiện bị tù túng?

Ông ấy không tuyên bố rằng ông ấy đã chứng ngộ, ông

ấy không tuyên bố rằng ông ấy đã được giải thoát, ông ấy

không tuyên bố rằng mình đã về nhà. Ông ấy đơn giản nói:

tôi cười vào chính cái ý tưởng là tôi đã đi đâu. Tôi chưa bao

giờ đi bất kì đâu cả. Tôi bao giờ và bao giờ cũng ở nhà. Tôi

bao giờ cũng ở đây và bây giờ, tôi chỉ đã mơ cho nên giấc

mơ đã tạo ra ảo tưởng là tôi đã đi đâu đó. Bây giờ giấc mơ

đã biến mất, và tôi ở vào nơi tôi vẫn đang ở. Đó là lí do tại

sao ông ấy nói: Làm sao người ta hiện bị tù túng?

Chẳng ai có đó để mà bị tù túng cả, chẳng có gì ở đó để

giam cầm cả. Cảnh giam cầm đã biến mất, cho nên người

đã bị giam cầm cũng biến mất. Khi thế giới biến mất, bản

ngã biến mất - cùng nhau; chúng là bộ phận của cùng một

trò chơi. Bên trong là bản ngã, bên ngoài là thế giới. Chúng

không thể sống xa nhau, chúng bao giờ cũng sống với

nhau. Khi thứ nọ biến mất thì thứ kia cũng đồng thời biến

đi. Bây giờ bản ngã không có đó và thế giới cũng không có

đó.

Saraha đang dẫn chứng sự sáng suốt vĩ đại nhất của

Phật. Phật nói không có chất liệu và không có cái ta. Chất

liệu không có đó, tất cả đều rỗng không. Và cái ta cũng

không có bên trong bạn, tất cả chỉ có cái rỗng không. Đi tới

thấy cái rỗng không này... nhận biết bồng bềnh trong rỗng

không - nhận biết thuần khiết, nhận biết không bị chặn...

Nhận biết này là bản thân cái rỗng không, hay cái rỗng

không này là bản thân nhận biết. Cái rỗng không này chói

sáng với nhận biết, tràn đầy nhận biết.

Mật tông là tầm nhìn vĩ đại vào trong mọi vật như

chúng thực sự như thế. Nhưng nhớ, điều cuối cùng: nó

không phải là triết lí, nó là sự sáng suốt. Và nếu bạn muốn

đi vào trong nó, bạn sẽ phải đừng đi qua tâm trí, không có

tâm trí.

Vô trí là cánh cửa vào Mật tông. Vô suy nghĩ là con

đường tới Mật tông. Kinh nghiệm là chìa khoá vào Mật

tông.

Đủ cho hôm nay.

************************************************************

#10 Chỉ việc nhớ

Tôi không thể nào sống theo những lí tưởng

thầy đã nêu ra

Làm sao Mật tông phát triển từ Phật giáo

mà lại coi dục như cản trở cho thiền?

'Tuần trăng mật qua đi' nghĩa là gì?

Đây có phải là ước mơ cuối cùng tốt đẹp hay

không?

Tôi muốn làm sannyasin nhưng tôi sợ sẽ gặp

rắc rối.

Thầy có phải tuyệt đối cần thiết không?

Niết bàn là gì?

#10Câu hỏi thứ nhất:

Osho kính yêu, tại sao bất kì khi nào tôi rời

bài giảng của thầy, tôi nhanh chóng trở nên

bị vỡ mộng với bản thân mình bởi vì tôi

không thể nào sống theo những lí tưởng mà

thầy đã nêu ra trong bài giảng?

Bạn đang nói về điều gì vậy? Lí tưởng sao?... đấy đích

xác là điều tôi định phá huỷ đấy! Tôi không đưa ra bất kì lí

tưởng nào trước bạn cả. Tôi không định cho bạn bất cứ

tưởng tượng nào về tương lai; tôi không định cho bạn bất kì

tương lai nào hết cả, bởi vì tương lai là thủ đoạn để trì hoãn

hiện tại. Nó là thủ đoạn để tránh bản thân bạn, cách trốn

thoát khỏi bản thân bạn. Ham muốn là trò lừa dối, và lí

tưởng tạo ra ham muốn. Tôi không định cho bạn bất kì cái

'phải' hay bất kì cái 'không phải' nào, cả khẳng định lẫn phủ

định. Tôi đơn giản bảo bạn vứt bỏ mọi lí tưởng và hãy hiện

hữu.

Nhưng tôi có thể hiểu được câu hỏi của bạn. Bạn tạo ra

lí tưởng từ nó, bạn bắt đầu nghĩ, "Mình nên thế nào đây?"

Bạn bắt đầu nghĩ, "Mình phải làm gì để hiện hữu?" Tôi

đang cố gắng lấy đi lí tưởng và bạn tạo ra lí tưởng từ nó:

cách vứt bỏ mọi lí tưởng. Bạn hiểu lầm tôi rồi, bạn diễn

giải sai tôi rồi. Bạn không nghe điều tôi đang nói, bạn cứ

nghe điều tôi không nói chút nào. Nghe cẩn thận vào.

Điều đó bao giờ cũng xảy ra. Chúng ta không biết Phật

đích xác nói gì, bởi vì những người nói lại là những người

như bạn. Chúng ta không biết điều Jesus đã nói, bởi vì

những người kể cũng lại là những người giống như bạn.

Lời thuật chắc chắn nói điều họ đã nghe, nhưng nó chẳng

nói điều gì về điều người nói nói. Và những điều này có thể

là những điều hoàn toàn đối lập nhau.

Tôi nói một ngôn ngữ hoàn toàn khác. Bạn thu nó lại

thành một thứ gì đó khác - theo ngôn ngữ của bạn; bạn

bước vào và bạn bắt đầu can thiệp.

Bạn hỏi: "Tại sao bất kì khi nào tôi rời bài giảng của

thầy tôi nhanh chóng trở nên bị vỡ mộng với bản thân

mình...?"

Bạn trở nên bị vỡ mộng với bản thân mình bởi vì bạn

không biết bạn là ai, và bạn có hình ảnh nào đó về bản thân

mình. Hình ảnh đó không phải là bạn, hình ảnh đó không

thể là bạn được; hình ảnh đó là một kết cấu tâm trí. Bạn đã

tạo ra một hình ảnh về chính mình - bạn nghĩ đấy là điều

mình là như thế. Còn khi bạn lắng nghe tôi và tôi bắt đầu

diễu cợt bạn, bạn trở nên vỡ mộng; hình ảnh bạn bị đập vỡ,

hình ảnh bạn không còn nguyên vẹn như trước nữa.

Nhưng bạn không bị đập vỡ. Trong thực tế hình ảnh

này không cho phép bạn có không gian, nó không cho phép

bạn hiện hữu. Hình ảnh này phải bị vứt đi để cho bạn có thể

có đủ không gian trưởng thành. Hình ảnh này đã trở nên

quá khổng lồ, quá mạnh mẽ; nó đã choán toàn bộ ngôi nhà

của bạn và bạn thì đang sống trong hành lang, nó không

cho phép bạn đi vào nhà. Còn hình ảnh mà bạn đã tạo ra từ

các lí tưởng thì cứ tiếp tục kết án bạn, sự bịa đặt cứ tiếp tục

kết án người bịa đặt.

Nhìn vào sự xuẩn ngốc của nó, cái lố bịch của nó. Bạn

tạo ra một hình ảnh, rất đẹp - một cách tự nhiên khi bạn tạo

ra thì bạn tạo ra hình ảnh đẹp - và thế rồi bởi vì hình ảnh đó

mà bạn bắt đầu trông xấu đi khi so sánh với nó. Bạn tạo ra

một hình ảnh rất, rất vĩ đại rằng bạn là thánh nhân, và thế

rồi bạn thấy mình làm những việc không thật là thánh lắm.

Bây giờ bạn cảm thấy bị kết án. Hình ảnh này là của bạn,

và chống hình ảnh này thì hành động của bạn có vẻ rất tồi

tệ.

Điều tôi đang nói ở đây, điều Saraha đang nói với nhà

vua, là ở chỗ hình ảnh đó phải hoàn toàn bị vứt bỏ. Khoảnh

khắc bạn vứt bỏ hình ảnh này và bạn quên hình ảnh này, cái

gì là đúng và cái gì là sai? Thế thì ai là tội nhân và ai là

thánh nhân? Thế thì bạn không có gì để so sánh cả. Thế thì

bỗng nhiên bạn thấy thoải mái. So sánh biến mất... và kết

án biến mất. So sánh biến mất... và bản ngã biến mất, bản

ngã của tội nhân và bản ngã của thánh nhân. Không có lí

tưởng, bản ngã không thể tồn tại chút nào. Nó tồn tại qua lí

tưởng, thông qua lí tưởng. Lí tưởng là điều phải có cho bản

ngã.

Hoặc bạn nghĩ rằng bạn là tội nhân - bạn tạo ra bản

ngã, căn cước - hoặc bạn nghĩ bạn là thánh nhân; thế thì

bạn tạo ra bản ngã, căn cước. Nhưng cả hai chỉ đi vào tồn

tại thông qua lí tưởng. Nếu lí tưởng không có đó, bạn là ai?

thánh nhân hay tội nhân? tốt hay xấu? xấu hay đẹp? Bạn là

ai? Bạn đơn giản là bản thân mình, không phán xét nào,

không biện giải nào, không kết án nào. Bạn đơn giản có đó

trong thực tại của mình; đó là điều tôi gọi là 'hiện hữu'.

Bây giờ bạn phải trở nên bị vỡ mộng lặp đi lặp lại, bởi

vì sự nắm giữ của bạn vào hình ảnh này trở nên lỏng ra một

chút. Bất kì khi nào sự nắm giữ của bạn vào hình ảnh này

lỏng ra một chút, bạn trở nên sợ hãi. Lí tưởng tạo ra ảo

tưởng, và bất kì khi nào tôi bắt đầu lấy đi lí tưởng, bạn cảm

thấy vỡ mộng. Hoàn toàn vỡ mộng đi, và đừng tạo ra ảo

tưởng lần nữa - ảo tưởng về lí tưởng - và thế rồi xem cuộc

sống đạt tới im lặng uy nghi như thế nào. Thế rồi xem sự

chấp nhận mênh mông nảy sinh như thế nào, phúc lành lớn

lao bao quanh bạn như thế nào mà chẳng có lí do gì hết cả.

Nó là của bạn, chỉ cần hỏi. Bạn không làm gì cả.

Bạn được Thượng đế chấp nhận như bạn đang thế.

Đây là toàn bộ thông điệp của tôi, và đây là toàn bộ về

Mật tông: Bạn được chấp nhận như bạn đang thế!

Nhưng bạn cứ bác bỏ mình. Lí tưởng tạo ra khả năng

cho bạn bác bỏ, lí tưởng làm cho bạn có thể thành nghiệt

ngã với chính mình, thành độc ác, hung hăng - trở thành kẻ

tự hành hạ mình. Nỗ lực của tôi ở đây là để giúp bạn trở

nên lành mạnh. Chủ nghĩa lí tưởng tạo ra điên khùng, nó

biến toàn bộ trái đất thành nhà thương điên.

Và bạn nói: "Tôi trở nên vỡ mộng với chính mình bởi

vì tôi không thể nào sống theo những lí tưởng mà thầy nêu

ra trong bài giảng."

Bạn đang nói điều gì vậy? Lí tưởng nào? Tôi không

nói, "Bạn phải làm cái này." Tôi không nói, "Bạn phải

giống thế này." Tôi chỉ nói, "Dù bạn là bất kì cái gì, hãy là

cái đó." Tôi đang cố lấy đi mọi cái 'trở thành' từ bạn. Tôi

đang cố giúp bạn thấy vấn đề là bạn đã ở nhà; bạn chưa bao

giờ đi đâu và bạn cũng chẳng có đâu để mà đi. Đấy đã là

cảnh ngộ - Thượng đế đang mưa lên bạn. Samadhi đã là

cảnh ngộ. Dù bạn đang ở đâu bạn vẫn đang trong niết bàn.

Đây là chứng ngộ... khoảnh khắc này - không lí tưởng,

không ham muốn, không đâu mà đi. Khoảnh khắc này -

được hoàn toàn thảnh thơi trong nó, ở đây bây giờ - là

khoảnh khắc của Thượng đế, khoảnh khắc của chân lí.

Nhưng bạn nghe tôi và bạn bắt đầu nói như vẹt, bạn

nghe tôi và bạn bắt đầu lặp lại từng lời. Bạn không theo

được ý nghĩa, bạn theo từng câu chữ chứ không theo tinh

thần.

Tôi đã từng nghe...

Một thuyền trưởng đại dương già rắn rỏi mua một con

vẹt non tại một bến cảng nước ngoài, được đảm bảo nó là

một con vẹt biết học nói tuyệt vời, và ông ta treo nó trên

đài chỉ huy. Trở về qua Vịnh Biscay, một đám mây đen dữ

tợn kéo tới và người hoa tiêu nhận xét, "Sắp tối sầm hết cả

bây giờ đây!"

Chẳng bao lâu sau đó đám mây bột phát thành một cơn

mưa dữ dội và thuyền trưởng nói với thuyền phó, "Trời

đang nổi cơn thịnh nộ đây!" Cơn bão càng hung dữ hơn,

con tầu tròng trành và vỡ ra một lỗ thủng, cho nên một

người gọi lên, "Chúng ta phải làm gì để được cứu đây?"

Anh ta nhận được câu trả lời, "Bơm đi, đồ trưng bầy tệ hại!

Bơm đi, đồ ăn mày phát khiếp! Bơm đi!"

Con tầu và mọi người đều bị lạc. Chỉ còn mỗi con vẹt

ướt sũng, luôn chửi thề là còn sống, và sau một số cuộc

phiêu lưu thì về tay một người phụ nữ không chồng, đang

đợi cha xứ. Vì là người thận trọng nên bà ấy che vải lên cái

lồng, để cho cha xứ được đón chào, con vẹt liền nói, "Sắp

tối sầm hết cả bây giờ!" Bà này giận tím gan và đặt con vẹt

ngay dưới vòi nước lạnh, nó hét đinh tai "Trời đang nổi cơn

thịnh nộ đây!"

"Không, không, Cô Fantigh! Cô không nên ác độc với

sinh linh của Thượng đế. Tốt hơn là hãy đem nó tới nhà thờ

vào ngày thờ phụng chúa và để cho nó nhiễm ảnh hưởng

tốt." Điều này được thực hiện ngay và con vẹt hành xử hệt

như một thiên thần, thậm chí còn tham gia hát thánh ca.

Cha xứ, rạng rỡ với thành công của mình, tô hồng thêm cho

bản thông báo của mình, "Thưa các thầy dòng, hôm nay

chúng ta hỏi: Chúng ta phải là gì để được cứu rỗi?", và lẫn

trong tiếng vỗ cánh là âm thanh the thé của con vẹt, "Bơm

đi, đồ trưng bầy tệ hại! Bơm đi, đồ ăn mày phát khiếp!

Bơm đi!"

Bạn đừng trở thành con vẹt. Bạn có thể lặp lại những

điều tôi đang nói nhưng đấy không phải là vấn đề chút nào.

Hiểu điều tôi đang nói. Việc lặp lại chỉ gây rắc rối cho bạn.

Chỉ một chút thay đổi thanh điệu, sự nhấn mạnh, hơi đổi

một dấu phẩy, một dấu chấm và mọi thứ mất đi. Lắng nghe

ý nghĩa đi.

Và có những cách khác để nghe. Một cách là lắng nghe

từ tâm trí; thế thì bạn ghi nhớ. Và bạn đã được dạy cách

lắng nghe qua tâm trí, bởi vì mọi trường phổ thông, cao

đẳng, đại học đều dạy cho bạn cách nhồi nhét. Họ cho bạn

những khái niệm sai - dường như ghi nhớ là tri thức. Ghi

nhớ không phải là tri thức, ghi nhớ đơn giản là học vẹt. Bạn

sẽ biết văn chương, bạn sẽ biết câu chữ, nhưng nó sẽ trống

rỗng; bên trong chẳng có ý nghĩa gì, không ý nghĩa nào

trong nó. Và câu chữ đó là nguy hiểm mà chẳng có nghĩa

nào trong đó cả.

Còn có một cách khác để lắng nghe, và đấy là từ trái

tim. Lắng nghe qua trái tim đi. Lắng nghe dường như là

bạn không nghe biện luận mà nghe bài ca. Lắng nghe

dường như là bạn không nghe triết lí mà là bài thơ. Lắng

nghe như bạn nghe nhạc. Ngắm tôi như bạn ngắm một vũ

công. Cảm thấy tôi như bạn cảm thấy người yêu. Thế thì

văn chương sẽ có đó; nó sẽ được dùng như phương tiện,

nhưng nó sẽ không phải là vật thực. Phương tiện sẽ bị quên

lãng, còn ý nghĩa sẽ đi vào trong trái tim bạn và sẽ còn lại ở

đó. Và nó sẽ thay đổi bản thể bạn, nó sẽ thay đổi cách nhìn

cuộc đời của bạn.

#10Câu hỏi thứ hai:

Osho kính yêu, làm sao Mật tông phát triển

từ Phật giáo nhưng như tôi biết, Phật giáo

coi dục như cản trở cho thiền?

Điều đó có quan hệ với câu hỏi thứ nhất.

Điều Phật nói phải đã bị hiểu lầm. Vâng, ông ấy đã nói

rằng đi vào trong thiền người ta phải vượt ra ngoài dục.

Bây giờ những người nghe lời ông ấy lại nghĩ ông ấy chống

dục - một cách tự nhiên vậy: ông ấy nói bạn phải vượt ra

ngoài dục. Họ bắt đầu nghĩ rằng thế thì dục phải là chướng

ngại, bằng không tại sao bạn phải vượt ra ngoài dục? Họ

bắt đầu tranh đấu với dục thay vì vượt ra ngoài nó; toàn bộ

nhấn mạnh của họ đã thay đổi. Họ bắt đầu tranh đấu với

dục, và Phật giáo trở thành một trong những tôn giác khổ

hạnh nhất trên thế giới.

Bạn không thể quan sát thấy vẻ duyên dáng mênh

mông trong các bức tượng hay tranh về Phật hay sao - nó

có thể bắt nguồn từ khổ hạnh được không? Có khả năng

con người đẹp đẽ này, khuôn mặt duyên dáng này, tình yêu

này, từ bi này có thể bắt nguồn từ khổ hạnh được chăng?

Những người khổ hạnh là những người tự hành hạ mình, và

khi người ta tự hành hạ mình thì người ta bắt đầu hành hạ

những người khác nữa, ở mức độ cao hơn bình thường. Khi

một người tự mình trong khổ, người đó không thể nhìn bất

kì ai khác trong hạnh phúc được; người đó bắt đầu phá huỷ

hạnh phúc của người khác. Đó là điều cái gọi là mahatmas

của bạn cứ làm: họ không thể thấy bạn hạnh phúc được,

cho nên bất kì khi nào bạn hạnh phúc, họ lập tức tới và nói,

"Phải có cái gì đó sai rồi, người hạnh phúc ngụ ý tội nhân."

Bạn có thể quan sát điều đó trong chính mình nữa, bởi

vì qua nhiều thế kỉ cái gọi là những mahatmas và các thánh

nhân đã ước định bạn để cảm thấy mặc cảm bất kì khi nào

bạn cảm thấy hạnh phúc. Bất kì khi nào bạn đang khổ, mọi

sự đều tốt. Nhưng nếu bạn cảm thấy vui vẻ lớn, bạn bắt đầu

cảm thấy có đôi chút không thoải mái - bằng cách nào đó

điều ấy dường như không phải. Bạn chưa quan sát điều đó

trong bản thân mình sao? Nó đến từ đâu vậy? Hạnh

phúc...và không đúng sao? Còn khổ thì được. Cái gì đó rất

đối kháng với cuộc sống - rất phủ định cuộc sống, rất chối

bỏ cho cuộc sống - đã đi vào trong dòng máu nhân loại. Và

nó đã tới qua cái gọi là người khổ hạnh. Những người khổ

hạnh này là những người thần kinh: họ là những kẻ tự bạo,

họ tra tấn mình. Vui vẻ duy nhất của họ là trong việc tạo ra

ngày càng nhiều khổ.

Phật không phải là kẻ tự bạo - không thể thế được. Phật

trông đẹp thế, vui vẻ thế, hạnh phúc thế, cực kì phúc lạc

thế. Những người đã nghe ông ấy nói chắc phải hiểu lầm ở

đâu đó. Vâng, ông ấy nói vượt ra ngoài dục - người ta phải

vượt ra ngoài nó bởi vì nó chỉ là bậc thang đầu tiên của

chiếc thang. Nhưng ông ấy không nói chống lại nó. Vượt ra

ngoài không nhất thiết là chống lại. Trong thực tế điều

tương phản lại mới là hoàn cảnh: nếu bạn chống dục, bạn

sẽ chẳng bao giờ có thể vượt ra ngoài nó được. Vượt ra

ngoài chỉ tới thông qua việc đi qua nó. Bạn phải hiểu dục,

bạn phải thân thiết với dục.

Cái gì đó, ở đâu đó, đã bị hiểu sai. Saraha tới như việc

diễn giải đúng về Phật. Và Saraha phải đã quan sát tai hoạ

gì đã xảy ra cho hàng nghìn người đi theo Phật: thay vì

vượt ra ngoài dục họ lại bị nó ám ảnh. Khi bạn liên tục

tranh đấu với cái gì đó, bạn trở nên bị nó ám ảnh.

Bạn có thể quan sát nó: người tin vào nhịn ăn trở nên bị

ám ảnh bởi thức ăn. Mahatma Gandhi bị thức ăn ám ảnh,

liên tục suy nghĩ về thức ăn - ăn cái gì và không ăn cái gì.

Dường như là chỉ có mỗi một điều quan trọng nhất trong

cuộc sống - ăn cái gì và không ăn cái gì. Người thường ít bị

ám ảnh, họ không nghĩ về điều đó quá nhiều. Bạn cứ thử

nhịn ăn ba ngày và nghĩ xem cái gì xảy ra trong tâm trí bạn.

Bạn sẽ nghĩ về thức ăn liên tục. Bây giờ vượt ra ngoài thức

ăn là tốt, nhưng nhịn ăn không thể là cách thức, bởi vì nhịn

ăn tạo ra ám ảnh về thức ăn. Làm sao nó có thể là con

đường để vượt ra ngoài được? Nếu bạn thực sự muốn vượt

ra ngoài thức ăn thì bạn phải ăn cho đúng. Bạn phải ăn

đúng thức ăn, bạn phải ăn đúng cách và đúng giờ. Bạn phải

tìm ra cái gì phù hợp cho thân thể bạn, cái gì nuôi dưỡng.

Vâng, điều đó sẽ đưa bạn vượt ra ngoài thức ăn, bạn sẽ

chẳng bao giờ nghĩ đến thức ăn nữa. Khi thân thể được

nuôi dưỡng đầy đủ bạn không nghĩ về thức ăn. Biết bao

người nghĩ về thức ăn bởi vì theo cách này cách khác họ

đều đang nhịn ăn. Bạn sẽ ngạc nhiên khi tôi nói điều đó.

Bạn có thể ăn quá nhiều kem - đấy cũng là một loại nhịn ăn

bởi vì nó không đủ chất dinh dưỡng, bạn đơn giản tống

những thứ vô giá trị vào bên trong bạn. Chúng không thoả

mãn bạn; chúng trút đầy bụng bạn nhưng chúng không đáp

ứng cho bạn. Bạn cảm thấy có chất liệu nhưng không có

nội dung.

Thức ăn sai sẽ tạo ra không hài lòng, và cơn đói của

bạn sẽ không được thoả mãn bởi vì cơn đói cần chất dinh

dưỡng, không phải là thức ăn. Nhớ lấy, cơn đói cần chất

dinh dưỡng, không phải thức ăn. Và cơn đói không bận tâm

nhiều lắm đến ngon miệng. Điều cơ bản là liệu nó có phù

hợp cho thân thể bạn hay không, liệu nó có cho thân thể

bạn năng lượng cần thiết hay không. Nếu nó cho đủ năng

lượng cần thiết thì thế là được. Nếu ngon miệng đi cùng với

dinh dưỡng, bạn sẽ được cực kì thoả mãn.

Và nhớ, tôi không chống ngon miệng, tôi hoàn toàn

ủng hộ nó. Nhưng chỉ có ngon miệng thì không thể đủ dinh

dưỡng. Và chỉ có thức ăn mà không ngon miệng cũng là

không thông minh, đần độn. Khi bạn có thể có cả hai điều

đó, sao không nhận? Người thông minh sẽ tìm thấy thức ăn

đủ dinh dưỡng, thức ăn ngon miệng. Đấy không phải là vấn

đề quá lớn. Con người có thể lên đến mặt trăng mà chẳng lẽ

không thể tìm ra được thức ăn đủ dinh dưỡng cho mình

sao? Con người đã làm bao nhiêu việc diệu kì mà chẳng lẽ

không thể thoả mãn cơn đói của mình hay sao? Điều này

dường như không phải là tình huống đúng đắn. Không, con

người đã không nhìn vào đó.

Có những người tin vào việc nhịn ăn - họ phá huỷ thân

thể. Và rồi lại có những người cứ tọng đủ mọi thứ rác vào

bụng - họ cũng phá huỷ thân thể. Cả hai đều trên cùng một

con thuyền: cả hai đều đang nhịn ăn, và cả hai đều liên tục

bị ám ảnh. Một đằng thì bị ám ảnh qua thèm ăn, một đằng

thì bị ám ảnh qua kìm nén. Chỉ ở giữa mới là điều siêu việt.

Cho nên đấy cũng là trường hợp cho dục, và đấy cũng

là trường hợp cho mọi thứ trong cuộc sống. Saraha phải đã

trở nên nhận biết rằng những người nói rằng Phật đã nói

phải vượt ra bên ngoài dục thì thực tế họ lại không vượt ra

ngoài dục chút nào. Thay vì thế họ ngày càng trở nên bị

dục ám ảnh nhiều hơn và rơi sâu hơn vào trong vũng lầy

của nó.

Có một ni cô trẻ tới gặp Mẹ bề trên trong tâm trạng đau

buồn, và sau một hồi quanh co lòng vòng mới dám thú thật

đã có mang.

"Ai gây ra chuyện này? Ai là thằng đàn ông đồi bại, tội

lỗi này?" Mẹ bề trên hỏi.

"Ôi, Mẹ tôn kính, con không phạm vào tội lỗi nhục dục

với đàn ông đâu," ni cô than thở.

"Thôi được, đàn bà chắc không thể làm bố được chứ?"

Mẹ bề trên nói, bắt đầu bực tức.

"Không, thực mà! Mẹ tôn kính. Bố nó là một trong

những thiên thần thiêng liêng," ni cô bẽn lẽn mỉm cười.

"Thiên thần thiêng liêng! Điều vô nghĩa ấy là gì vậy?"

"Dạ, thưa Mẹ tôn kính, người ấy giáng xuống con vào

nửa đêm trong giấc ngủ và khi con hỏi người ấy là ai thì

người ấy nói, "Thánh Michael," và cho con xem tên người

ấy trên áo lót để chứng minh."

Một khi bạn đang chống cái gì đó, bạn sẽ tìm ra cách để

thoát ra nó, bạn sẽ tìm thấy cửa sau nào đó. Con người rất

tinh ranh. Nếu bạn kìm nén cái gì đó, tâm trí ranh mãnh sẽ

tìm ra cách khác nào đó. Đó là lí do tại sao bạn mơ về dục...

thánh nhân của bạn mơ quá nhiều về dục, họ phải mơ như

thế. Ban ngày họ có thể chối bỏ, nhưng ban đêm... khi họ

có ý thức họ có thể kìm nén, nhưng khi họ ngủ, thế thì

trong giấc mơ dục thành lớn, đầy mầu sắc rực rỡ, nó trở

thành ảo giác. Và rồi vào buổi sáng họ thấy mặc cảm, và

bởi vì họ thấy mặc cảm nên họ lại kìm nén nhiều hơn. Và

khi họ kìm nén nhiều hơn thì đêm sau họ lại có giấc mơ

đẹp hơn nữa về dục - mà theo họ thì thật khủng khiếp. Điều

đó phụ thuộc vào cách bạn diễn giải nó là đẹp hay khủng

khiếp.

Một cô học trò 'khó tính' mười lăm tuổi được gửi tới

một nhà tâm lí, người đang hỏi cô ta một số câu hỏi rất cá

nhân. Ông ta chắc chắn rằng vấn đề dục là nền tảng cho rắc

rối và hỏi cô ấy, "Cháu có phải chịu đựng vì dục hay những

giấc mơ gợi tình không?"

"Chắc chắn là không!"

"Cháu có chắc không?"

"Hoàn toàn chắc," cô gái nói. "Trong thực tế cháu tận

hưởng chúng."

Vấn đề tuỳ thuộc vào bạn liệu bạn gọi chúng là đẹp đẽ

hay khủng khiếp. Trong đêm chúng đẹp đẽ, ban ngày

chúng trở thành khủng khiếp. Trong đêm bạn hưởng thú

chúng, ban ngày bạn chịu đựng. Cái vòng luẩn quẩn được

tạo ra, và cái gọi là thánh nhân của bạn cứ đi trong cái vòng

luẩn quẩn này: ban ngày chịu đựng, ban đêm tận hưởng;

ngày ông ta chịu đựng, đêm ông ta tận hưởng - và ông ta bị

xẻ làm đôi giữa hai điều này.

Và nếu bạn nhìn sâu vào trong bản thân mình bạn sẽ

thấy điều ấy một cách dễ dàng. Bất kì cái gì bạn kìm nén

đều sẽ còn lại đó, bạn không thể gạt bỏ nó đi được. Cái bị

kìm nén còn lại, chỉ cái được bày tỏ mới biến mất. Cái

được bày tỏ thăng hoa, cái bị kìm nén còn lại - và không

chỉ còn lại, nó sẽ ngày càng trở nên mạnh hơn. Khi thời

gian trôi qua nó sẽ ngày càng trở nên mạnh hơn.

Saraha phải đã nhìn vào điều đã xảy ra hai trăm năm

sau Phật: diễn giải sai, và mọi người gần như bị dục ám

ảnh. Từ ám ảnh đó của các sư và ni Phật giáo, Mật tông đã

được sinh ra như sự nổi dậy - sự nổi dậy chống Phật giáo,

không chống Phật. Qua nổi dậy đó mà Saraha đã mang

tinh thần của Phật trở lại. Vâng, người ta phải siêu việt trên

dục, nhưng siêu việt lên xảy ra qua hiểu biết.

Mật tông tin vào hiểu biết. Hiểu biết sự vật một cách

toàn bộ và bạn sẽ thoát khỏi nanh vuốt nó. Bất kì thứ gì

không được hiểu đúng sẽ vẫn còn như một vết tích.

Cho nên bạn phải đấy. Bạn hỏi, "Làm sao Mật tông

phát triển từ Phật giáo nhưng như tôi biết thì lại coi dục

như cản trở cho thiền?" Chính xác bởi vì điều đó. Nó là sự

nổi dậy chống lại Phật giáo, và nó là vì Phật. Nó chống lại

những người theo sau, nhưng không chống lại thầy. Những

người đi theo đã mang theo câu chữ, còn Saraha đem linh

hồn.

Saraha là hoá thân của cùng chứng ngộ như Phật.

Saraha là vị phật.

#10Câu hỏi thứ ba:

Osho kính yêu, 'Tuần trăng mật qua đi' nghĩa là

gì?

Tuần trăng mật qua đi nghĩa là phần tưởng tượng của

tình yêu của bạn đã kết thúc. Tuần trăng mật là tưởng

tượng. Nó là phóng chiếu, nó không phải là thực tại; nó là

một giấc mơ được phóng chiếu. "Tuần trăng mật qua đi"

nghĩa là giấc mơ đã qua, và bây giờ bắt đầu hôn nhân, thực

tại. Tuần trăng mật càng cao, tan vỡ ảo tưởng càng lớn. Đó

là lí do tại sao hôn nhân vì yêu không thành công. Hôn

nhân thành công nhưng không có hôn nhân vì yêu.

Hôn nhân vì yêu không thể thành công được; thất bại là

bản chất cho nó. Hôn nhân vì yêu là tưởng tượng, và điều

tưởng tượng không thể thắng được thực tại. Chỉ có một

cách còn lại trong tưởng tượng và bao giờ cũng còn lại

trong tuần trăng mật, và đó là không bao giờ gặp người bạn

yêu. Thế thì điều ấy là có thể: bạn có thể có nó trong cả

cuộc đời mình - nhưng đừng bao giờ gặp người mình yêu,

chớ bao giờ gặp người tình của mình.

Những người tình vĩ đại nhất trong lịch sử là những

người không được phép gặp nhau: Laila và Majnu, Shiri và

Farihad - đó là những người tình vĩ đại. Họ không được

phép gặp nhau; xã hội đã tạo ra quá nhiều chướng ngại đến

mức họ bao giờ cũng vẫn còn trong trạng thái tuần trăng

mật. Hệt như khi thức ăn có đấy nhưng bạn không được

phép ăn, cho nên tưởng tượng tiếp tục. Nếu bạn được phép

ăn, tưởng tượng biến mất.

Hôn nhân vì yêu không thể thành công được. Điều tôi

ngụ ý 'không thành công' nghĩa là gì? Theo nghĩa là mọi

người muốn nó thành công, nó không thể thành công được.

Hôn nhân thành công, nhưng thế thì không có yêu. Đó là lí

do tại sao trong quá khứ tất cả các xã hội trên thế giới, theo

kinh nghiệm, đều quyết định nghiêng về hôn nhân và chống

tình yêu. Xã hội Ấn Độ là một trong những xã hội cổ đại

nhất trên thế giới. Nó đã tồn tại ít nhất năm nghìn năm nay,

hay nhiều hơn thế nữa. Từ kinh nghiệm lâu dài này Ấn Độ

đã quyết định theo hôn nhân mà không theo tình yêu, bởi vì

hôn nhân không có tình yêu có thể thành công do chỗ nó

không có tuần trăng mật trong đó; ngay từ ban đầu nó đã

rất thực tế, ngay trên đất bằng. Nó không cho phép bất kì

mơ mộng nào.

Tại Ấn Độ, bản thân các đôi trai gái không được phép

lựa chọn. Con trai không được phép chọn con gái, con gái

không được phép chọn con trai; bố mẹ chọn cho chúng.

Một cách tự nhiên chúng sẽ thực tế hơn, kinh nghiệm hơn.

Và cũng tự nhiên là chúng không thể rơi vào tình yêu.

Chúng nghĩ về các thứ khác: tài chính, danh vọng, kính

trọng, gia đình. Chúng nghĩ tới hàng nghìn thứ, nhưng

chúng không nghĩ về một thứ - tình yêu. Tình yêu không

được mang vào trong thế giới vật chất chút nào. Chúng đến

nhà chiêm tinh, chúng hỏi nhà chiêm tinh về mọi thứ -

nhưng không hỏi về tình yêu. Tình yêu không trở thành

chất liệu trong đó.

Hai người không quen biết, đàn ông và đàn bà, được bố

mẹ, xã hội gắn với nhau và được để ở với nhau. Một cách

tự nhiên khi bạn sống với một người, có thích thú nào đó

nảy sinh. Nhưng thích thú đó cũng chỉ là thích thú bạn có

với người em gái, đấy không phải là tình yêu. Bởi vì bạn

được sinh ra trong một gia đình nào đó - bạn đã không

chọn chị em mình, bạn cũng chẳng chọn anh em mình; bạn

không chọn họ, ngẫu nhiên mà bạn được sinh ra với cùng

bố mẹ - bạn có một thích thú nào đó. Sống với nhau thời

gian dài, cả nghìn lẻ một giao tiếp, và người ta bắt đầu

thích - hay không thích. Nhưng nó chẳng bao giờ là yêu và

chẳng bao giờ là ghét; nó chẳng bao giờ đi đến cực điểm,

nó rất cân bằng. Cùng trường hợp như thế cũng xảy ra cho

hôn nhân, hôn nhân được thu xếp. Chồng và vợ sống với

nhau, và dần dần họ bắt đầu có cảm tình lẫn nhau.

Một điều khác xã hội làm: xã hội không cho phép bất

kì quan hệ dục nào ngoài hôn nhân, cho nên một cách tự

nhiên chồng phải làm tình với vợ, và vợ phải làm tình với

chồng. Nếu bạn chỉ được phép ăn thức ăn này mà không

được ăn thức ăn khác, bạn có thể đợi được bao lâu? Bạn

phải ăn thôi. Đây là thủ đoạn của xã hội. Nếu dục ngoài

hôn nhân mà được phép, có mọi khả năng là chồng có thể

không muốn làm tình với vợ và vợ không muốn làm tình

với chồng. Chỉ để cho khao khát mãnh liệt mà không có lối

ra nào khác họ phải bắt đầu làm tình với nhau. Từ chỗ tuyệt

vọng họ bắt đầu trở nên liên kết với nhau. Rồi trẻ con được

sinh ra... và nhiều thứ ràng buộc nữa: các ràng buộc tôn

giáo, xã hội. Rồi trẻ con và trách nhiệm... và gia đình bắt

đầu lăn bánh.

Hôn nhân vì yêu chắc chắn thất bại bởi vì hôn nhân vì

yêu là hiện tượng thi vị hoá. Bạn yêu và bạn bắt đầu mơ

mộng về đàn bà hay đàn ông, rồi bạn đạt tới đỉnh, cực điểm

mơ mộng. Những mơ mộng này tiếp tục cho tới khi bạn

gặp người đàn bà, cho tới khi bạn gặp người đàn ông. Rồi

các bạn tới với nhau, các bạn được thoả mãn; những mơ

mộng này bắt đầu biến mất. Bây gì lần đầu tiên bạn bắt đầu

nhìn thấy người kia như con người thực của họ.

Khi bạn nhận thấy vợ mình như cô ta vẫn thế, khi bạn

nhận thấy chồng mình thực như anh ta vẫn thế, tuần trăng

mật trôi qua. Đấy là ý nghĩa của 'tuần trăng mật đã qua'. Và

điều đó xảy ra không chỉ trong hôn nhân, nó xảy ra trong

nhiều loại quan hệ. Nó xảy ra ở đây với tôi. Bạn đến tôi và

bạn có thể có tuần trăng mật, bạn có thể bắt đầu tưởng

tượng về tôi. Tôi chẳng có phần nào trong đó cả, tôi không

phải là một phần trong đó. Nó là cái gì đó bạn làm một

mình tất cả. Nhưng bạn bắt đầu tưởng tượng, ước muốn:

điều này sắp xảy ra và điều kia sắp xảy ra, rồi Osho sẽ làm

cái này và Osho sẽ làm cái kia. Thế rồi một hôm nào đó

tuần trăng mật qua đi. Trong thực tế tôi bao giờ cũng muốn

đợi cho tới khi tuần trăng mật qua đi, thế rồi tôi mới bắt

đầu làm việc, không bao giờ trước nó, bởi vì tôi không

muốn trở thành một phần trong tưởng tượng của bạn. Tôi

chỉ bắt đầu làm việc khi tôi thấy rằng bây giờ tuần trăng

mật đã qua và bạn đã quay trở về mặt đất. Bây giờ cái gì đó

thực có thể được làm.

Trong thực tế tôi bao giờ cũng muốn trao danh hiệu

sannyas khi tuần trăng mật đã qua. Trao danh hiệu sannyas

trong tuần trăng mật là nguy hiểm, rất nguy hiểm, vì

khoảnh khắc tuần trăng mật qua đi bạn sẽ bắt đầu cảm thấy

chống tôi, bạn sẽ bắt đầu nổi dậy chống tính chất sannyas,

bạn sẽ bắt đầu phản ứng. Tốt hơn cả là nên đợi.

Trong mọi quan hệ - trong tình bạn, trong quan hệ

thầy-đệ tử - trong bất kì kiểu quan hệ nào bao giờ cũng có

một phần tưởng tượng. Tưởng tượng đó chỉ là tâm trí bạn:

các ham muốn bị kìm nén đang bay lượn trong mơ mộng.

Trong một thế giới tốt hơn, với nhiều hiểu biết hơn, hôn

nhân sẽ biến mất, và cùng với hôn nhân cả tuần trăng mật

cũng biến mất.

Bây giờ lắng nghe xem. Đã từng có những xã hội...

chẳng hạn xã hội Hindu - xã hội này thủ tiêu tuần trăng mật

bởi việc thủ tiêu tình yêu, và chỉ có hôn nhân là tồn tại. Ở

Mĩ người ta lại đang thủ tiêu hôn nhân và cứu tình yêu và

tuần trăng mật; chỉ có tuần trăng mật tồn tại, không có hôn

nhân - nó đang biến mất. Nhưng với tôi cả hai đều dấn sâu

trong âm mưu. Tuần trăng mật có thể tồn tại được chỉ nếu

có kìm nén nào đó, bằng không thì chẳng có gì để phóng

chiếu cả. Và nếu có cái gì đó để phóng chiếu, thế thì tình

yêu cứ thất bại mãi. Thế thì các học giả Hindu về xã hội sẽ

tới và họ bắt đầu thu xếp cho hôn nhân bởi vì tình yêu thất

bại: nó làm cho người ta phát khùng và chẳng giúp gì cho

họ sống cuộc đời mình, nó làm cho họ phải tự tử, nó làm

cho họ thần kinh, tâm thần phân liệt, cuồng loạn. Cho nên

các học giả Hindu về xã hội phải tới, các tu sĩ và các chính

khách phải tới để thu xếp cho hôn nhân, bởi vì tình yêu quá

nguy hiểm. Và đấy chính là cách xã hội chuyển giữa hai

cực.

Đôi khi khi người ta phát chán với hôn nhân, như họ đã

phát chán ở Mĩ, họ bắt đầu nghĩ tới tình yêu. Khi người ta

phát chán với tình yêu, chẳng chóng thì chầy họ sẽ thấy -

họ đã tìm thấy nó như thế - thế thì họ bắt đầu chuyển sang

hướng về hôn nhân. Cả hai đều là các cực của cùng một trò

chơi.

Đối với tôi cần có một kiểu xã hội khác trong đó hôn

nhân và lãng mạn cả hai đều biến mất. Hôn nhân biến mất

bởi vì buộc hai người sống với nhau theo bó buộc pháp lí là

vô đạo đức. Buộc hai người sống với nhau khi họ không

muốn sống với nhau là chống tự nhiên và chống Thượng

đế. Chín mươi chín phần trăm bệnh tật xã hội sẽ biến mất

nếu mọi người không bị bó buộc.

Nghe điều này...

Một người tới cố vấn pháp luật của mình và nói, "Tôi

rất giầu, cho nên bao nhiêu tiền cũng không thành vấn đề,

nhưng tôi muốn tống khứ mụ vợ, cái mụ lẳng lơ mà tôi thì

không muốn giết người. Vậy ông bảo tôi phải làm sao bây

giờ?"

"Mua cho bà ta một con ngựa khoẻ mạnh và nó có thể

sẽ hất tung bà ta lên."

Một tháng sau người đó quay lại và nói vợ anh ta bây

giờ thành người đàn bà cưỡi ngựa giỏi nhất trong quận.

"Thử thế này vậy, " ông luật sư nói, "mua cho bà ta một

chiếc Hon đa, và để bà ấy đi lên núi bằng cái xe ấy."

Người đàn ông này làm theo lời, nhưng rồi bà ấy lái xe

như Stirling Moss, gây nguy hiểm cho mọi người trừ chính

bà ấy. Ông chồng bảo với vị cố vấn pháp luật rằng ông ấy

rất lấy làm thất vọng.

"Thế thì mua cho bà ta một con báo gấm vậy."

Người đàn ông quay lại sau một tuần, sung sướng.

"Ông nói giá phải trả cho ông đi," ông ta nói. "Được việc

đấy."

"Điều gì đã xảy ra vậy?"

"Thế này khi bà ấy mở cửa chuồng để cho con báo ăn

thì nó đã cắn đứt đầu bà ấy!"

Hôn nhân tạo ra cả nghìn lẻ một thứ phức tạp và chẳng

giải quyết được gì. Thế mà nó lại thành công đấy: nó thành

công trong việc làm cho mọi người thành nô lệ. Nó thành

công trong việc phá huỷ tính cá nhân của con người. Bạn

không thấy điều ấy tất cả xung quanh sao? Người không

gia đình có tính cá nhân nào đó còn người có gia đình bắt

đầu mất đi tính cá nhân của mình; người ấy bắt đầu ngày

càng trở nên kiểu cách. Người đàn bà chưa xây dựng gia

đình có vui vẻ, cái gì đó tuôn chảy. Người đàn bà đã có

chồng trở thành tẻ nhạt, thờ ơ, chán ngắt. Điều này là xấu,

buộc mọi người thành buồn tẻ. Mọi người ở đây để hạnh

phúc, mọi người ở đây để tận hưởng và lễ hội. Điều này là

xấu!

Hôn nhân phải ra đi. Nhưng nếu bạn chọn tưởng tượng

và tình yêu, bạn sẽ rơi vào cùng cái bẫy hôn nhân, bởi vì

tình yêu chẳng bao giờ thành công, chẳng bao giờ thành

công như hôn nhân thành công về mặt tài chính, an toàn, vì

trẻ con, vì xã hội, vì điều này điều nọ - yêu không bao giờ

thành công như hôn nhân thành công. Cho nên tình yêu

nhất định tạo ra một kiểu rắc rối khác. Và tình yêu tồn tại

bởi vì ham muốn bị kìm nén. Khi hôn nhân biến mất và

ham muốn không bị kìm nén thì tình yêu sẽ biến đi một

cách tự động.

Một xã hội thực của con người sẽ không biết tí gì về

hôn nhân và sẽ không biết gì về tuần trăng mật. Nó sẽ chỉ

biết vui vẻ, biết về chia sẻ với mọi người. Chừng nào bạn

còn có thể chia sẻ thì còn tốt; nếu bạn không thể chia sẻ

được nữa thì tạm biệt. Hôn nhân biến mất và với việc đó

cái li dị xấu xí cũng biến theo. Hôn nhân biến mất và với

nó cả tưởng tượng về tuần trăng mật cũng biến mất.

Khi bạn được tự do yêu đương, gặp gỡ, sống cùng với

mọi người, tuần trăng mật sẽ biến mất. Laila và Majnu, rồi

Shiri và Farihad đều không thể có - chẳng ai ngăn cản con

đường. Bạn có thể gặp bất kì người đàn bà nào và bạn có

thể gặp bất kì người đàn ông nào, bất kì ai bạn ham muốn

và bất kì ai ham muốn bạn; không ai ngáng đường cả. Thế

thì cần gì phải tưởng tượng nữa? Nếu mọi loại thức ăn đều

có sẵn, bất kì cái gì bạn muốn ăn cũng đều có cả và không

có ai đứng đó tựa như cảnh sát hay quan toà hay tu sĩ, làm

bạn sợ hãi và hoảng sợ rằng nếu bạn ăn thức ăn này bạn sẽ

phải xuống địa ngục, nếu bạn ăn thức ăn kia bạn có thể lên

cõi trời... rồi thức ăn bạn không muốn ăn lại dẫn lên cõi trời

còn thức ăn bạn muốn ăn dẫn xuống địa ngục. Bất kì cái gì

đem đến cho bạn vui vẻ đều dẫn tới địa ngục còn bất kì cái

gì làm cho bạn khổ sở đều dẫn tới thiên đường.

Khi không có ai đứng ở giữa bạn và ham muốn của

bạn, khi ham muốn được tự do, sẽ không có kìm nén.

Không có kìm nén, tuần trăng mật sẽ biến mất. Tuần trăng

mật là sản phẩm phụ: nó tồn tại với hôn nhân. Nó giống

như miếng mồi. Bạn đi câu cá, bạn dùng mồi. Tuần trăng

mật là miếng mồi, nó đưa bạn vào hôn nhân. Đó là lí do tại

sao đàn bà rất, rất nhấn mạnh về hôn nhân - bởi vì họ biết.

Họ gần thực tế hơn, kinh nghiệm hơn đàn ông. Đàn ông

vẫn còn là những tay mơ, họ nghĩ tới các vì sao và mặt

trăng, còn đàn bà chỉ cười vào cái ham muốn lố lăng của

họ. Đàn bà biết - cô ấy rất thực tế - cô ấy biết rằng trong

vòng mười, mười hai, mười lăm ngày, từ hai đến ba tuần lễ,

tuần trăng mật sẽ biến mất... rồi sao đây? Cô ấy cứ khăng

khăng phải có hôn nhân.

Người đàn ông hỏi người đàn bà - anh ta đang yêu - và

anh ta hỏi cô ấy trong đêm, "Tình yêu hay cái gì đó?"

Còn người đàn bà trả lời, "Hôn nhân hay không có gì."

Anh ta lại hỏi, "Tình yêu hay cái gì đó?"

Còn cô ấy nói, "Hôn nhân hay không có gì hết."

Tình yêu là không tin cậy được, nó tới rồi nó đi; nó là

một ý chợt nảy ra, một tâm trạng. Nếu tình yêu còn đấy,

điều đó chỉ đơn giản là kìm nén vẫn còn đấy.

Thế thì trong một xã hội khác sẽ có vui vẻ. 'Tình yêu'

sẽ không phải là một từ quan trọng như ''vui vẻ', 'lễ hội’.

Hai người muốn chia sẻ năng lượng của mình; nếu họ cả

hai đều sẵn lòng, chẳng có gì cản trở cả. Sẽ chỉ có giới hạn

là nếu người kia không sẵn lòng, điều đó kết thúc; thế thì

nó sẽ không bao giờ bắt đầu được. Tất cả những giới hạn

khác đều nên bị vứt bỏ.

Và bây giờ khoa học đã có thể làm cho vấn đề trẻ con

rất dễ giải quyết. Ngày xưa người ta không may mắn được

đến thế, bạn bây giờ được may mắn hơn nhiều; vấn đề trẻ

con có thể được giải quyết. Bạn có thể ở với người đàn bà

cho đến ngày bạn nghĩ rằng bây giờ bạn đã sống chung đủ

lâu và tình yêu của bạn, vui vẻ của bạn với người đàn bà đó

còn tăng lên, vui vẻ của bạn với người đàn ông còn tăng

lên, và bây giờ không thể có sự tách biệt nữa, bạn đã tìm

thấy người bạn đời tâm hồn của mình - cái ngày bạn cảm

thấy rằng bạn có thể có con. Bằng không thì chẳng cần phải

có con.

Và trong một xã hội tốt hơn, trẻ con nên thuộc về cộng

đồng. Gia đình phải tan biến. Nên có cộng đồng của mọi

người: cộng đồng các hoạ sĩ, nơi các hoạ sĩ - đàn ông và

đàn bà - sống với nhau và tận hưởng việc ở cùng nhau,

cộng đồng các nhà thơ, cộng đồng thợ mộc, cộng đồng thợ

vàng bạc; cộng đồng các loại người khác nhau, những

người sống cùng nhau, thay cho gia đình. Gia đình là một

tai hoạ. Nhiều người sống với nhau sẽ tốt hơn, họ có mọi

thứ chung và họ chia sẻ tình yêu cho nhau. Nhưng không

nên có bất kì hạn chế nào.

Tình yêu không bao giờ nên trở thành bổn phận, nghĩa

vụ; chỉ có thế thì nó mới là vui vẻ. Khoảnh khắc nó trở

thành nghĩa vụ nó chết, nặng nề, và nó tạo ra cả nghìn lẻ

một vấn đề không thể giải quyết trực tiếp được. Đó là toàn

bộ hiện trạng trong thế giới. Bạn có thể tới nhà phân tâm,

bạn có thể tới thầy, bạn có thể thiền, bạn có thể làm cái này

cái nọ - nhưng vấn đề cơ bản của bạn vẫn chẳng được động

chạm tới.

Vấn đề cơ bản của bạn còn lại có liên quan thế nào đó

tới năng lượng dục của bạn, và bạn cứ khắc phục nó ở đâu

đó. Bạn cứ cắt lá, tỉa lá mà bạn chẳng bao giờ cắt gốc rễ.

Mọi người khổ bởi vì họ chán lẫn nhau. Mọi người buồn

bởi vì họ không tận hưởng bạn bè lẫn nhau. Mọi người đơn

giản bị nặng gánh: họ thực thi bổn phận của mình, tình yêu

không có đó.

Hôn nhân và tuần trăng mật cả hai đến trong cùng một

bọc; chúng cả hai phải cùng ra đi. Thế thì mới có thể có

nhân loại không bị kìm nén, nhân loại diễn đạt đầy đủ, con

người diễn đạt đầy đủ, người không biết gì ngoài vui vẻ, và

người quyết định theo vui vẻ.

Vui vẻ nên trở thành tiêu chuẩn. Đó là điều toàn bộ

Mật tông là gì: Vui vẻ nên trở thành tiêu chuẩn.

#10Câu hỏi thứ tư:

Osho kính yêu, tôi yêu Ma Prem Savya. Tôi

muốn cô ấy sống với tôi đến chết. Đây có

phải là ham muốn cuối cùng tốt đẹp hay

không?

Câu hỏi này là từ Prem Aniket.

Điều đầu tiên: không ham muốn là điều cuối cùng nếu

bạn vẫn còn sống. Không ham muốn là ham muốn cuối

cùng nếu bạn vẫn còn sống - ai biết được về khoảnh khắc

tiếp? Và làm sao bạn có thể xoay xở để biết khoảnh khắc

tiếp? Bạn đã quen biết Savya bao lâu? Mới vài tuần... trước

vài tuần này bạn thậm chí đã không mơ về cô ấy. Nếu điều

này có thể xảy ra thì điều này có thể xảy ra nữa. Sau ba

tuần, bạn có thể gặp người đàn bà khác.

Cho đến khi nào bạn chết chẳng ham muốn nào là ham

muốn cuối cùng cả; mỗi ham muốn lại tạo ra các ham

muốn khác. Ham muốn là một dải liên tục. Chỉ có hai điều,

chết hay chứng ngộ, mới dừng các ham muốn. Và chắc

chắn cả hai điều này đều chưa xảy ra, Aniket này; cả cái

chết lẫn chứng ngộ đều chưa xảy ra đâu.

Hiểu được ham muốn là điều tốt. Mỗi ham muốn đem

đến những ham muốn mới, ham muốn nọ tạo ra mười ham

muốn kia. Nó cũng tựa như một hạt mầm nhỏ trở thành cái

cây lớn, hàng nghìn cành và hàng triệu lá. Từ một ham

muốn, hạt mầm đó, nhiều ham muốn khác nảy sinh.

Bạn không thể nói được điều gì về tương lai; bạn

không nên nói, tương lai vẫn còn để mở. Đây là một trong

những nỗ lực lớn nhất của con người - kì cục, nhưng con

người vẫn cứ tạo ra nó. Một: người đó muốn cải tạo quá

khứ, điều không thể làm được. Bất kì cái gì đã xảy ra đều

đã xảy ra rồi, không có cách nào làm lại được nó nữa; bạn

thậm chí không thể chạm vào nó chỗ này chỗ nọ được. Bạn

không thể làm cho nó tốt hơn lên, bạn cũng chẳng thể nào

làm cho nó tồi đi hơn. Nó đơn giản bên ngoài bạn. Nó đã

xảy ra, nó đã trở thành thực tại, và cái đã trở thành thực tại

không thể nào động chạm tới được. Quá khứ đã kết thúc,

nó đã hoàn thành con đường của nó; bạn không thể quay lại

và bạn cũng không thể thu xếp lại nó. Như thế là tốt; bằng

không, nếu bạn có thể thu xếp lại quá khứ, nếu bạn có thể

quay ngược lại, bạn sẽ phát điên. Thế thì bạn sẽ chẳng bao

giờ đến được hiện tại lần nữa, quá khứ quá dài.

Cũng tốt là cánh cửa quá khứ đã đóng lại. Nhưng con

người, tâm trí đần độn của con người, vẫn cứ nghĩ về cải

tiến, cải tạo, làm lại cái gì đó ở đây đó. Đôi khi bạn không

nghĩ về điều đó: bạn đã không nói điều gì đó, và bạn bắt

đầu nghĩ điều đó sẽ tốt hơn sao? Bạn đã không làm điều gì

đó - như thế sẽ tốt hơn chăng? Và trong tưởng tượng của

bạn, bạn cố nói điều đó và làm điều đó. Nhưng bạn chỉ làm

lãng phí thời gian; bây giờ chẳng cái gì có thể làm được

nữa, nó đã trượt khỏi tay bạn.

Quá khứ không thể sửa đổi được, và tương lai không

thể dự đoán trước được. Cả điều đó nữa con người cũng

vẫn cứ làm: con người muốn dự đoán tương lai. Tương lai

là cái còn chưa xảy ra. Tương lai vẫn còn để mở; tính mở là

điều tương lai là gì. Tương lai là không định trước. Nó

không phải là thực tại, nó chỉ là có thể; chẳng có gì chắc

chắn được về tương lai. Không có gì chắc chắn về tương lai

cả. Nhưng con người ngốc nghếch: lần nữa con người lại

đến các nhà chiêm tinh, tra cứu Kinh dịch, bói bài, điểm

báo. Con người ngốc nghếch đến mức cố gắng bằng cách

nào đó tìm ra cách thức để có thể biết trước tương lai sẽ

như thế nào. Nhưng nếu bạn có thể biết trước về nó thì nó

đã là quá khứ, nó không còn là tương lai nữa. Chỉ quá khứ

mới có thể được biết, tương lai vẫn còn là cái chưa biết.

Đấy là phẩm chất cố hữu của tương lai - chưa biết. Tất cả

đều là có thể và chẳng cái gì chắc chắn cả - đó chính là

tương lai. Tất cả đã xảy ra, không có gì thêm nữa có thể

xảy ra - đó là quá khứ. Và hiện tại chỉ là bước chuyển từ

thực tại tới tiềm năng, từ đóng tới mở, từ chết tới sống.

Bây giờ bạn hỏi: "Đây có phải là ham muốn tốt đẹp

cuối cùng không?" Bạn muốn rằng đấy là ham muốn cuối

cùng của bạn, nhưng rồi bạn sẽ phải tự tử, hoặc thực sự

hoặc biểu tượng. Bạn sẽ phải tự tử nếu bạn muốn nó là ham

muốn cuối cùng. Hoặc bạn phải đi và nhảy vào trước tầu

hoả, hoặc nhảy xuống biển, nhảy xuống vực - tự tử thực -

thế thì bạn có thể có ham muốn đó là ham muốn cuối cùng.

Hoặc tự tử về mặt về mặt tâm lí, điều nhiều người đã làm.

Không nhìn vào bất kì người đàn bà khác nào nữa; nhắm

mắt lại, trở nên sợ hãi. Bám vào bất kì ai bạn yêu và không

đi đâu hết, ở đấy, lạc lối; thậm chí không nghĩ, thậm chí

không mơ... đấy là tự tử về tâm lí.

Nhưng theo cả hai cách bạn sẽ không có khả năng

sống, bởi vì bạn sẽ không có tương lai nào để sống. Nếu

bạn thực sự muốn sống - và bạn muốn sống; trong thực tế

đấy là điều bạn đang hỏi: bạn muốn sống với Savya. Để

sống bạn phải sống động.

Bạn đừng nghĩ theo kiểu 'ham muốn cuối cùng'. Và tại

sao, tại sao bạn muốn nó là cái cuối cùng? Tại sao bạn

không thể chia sẻ năng lượng của mình một ngày nào đó

với người đàn bà khác nào đó? Tại sao keo kiệt thế? Tại

sao vô nhân đạo đến thế? Những người đàn bà khác không

thiêng liêng như Savya hay sao? Thượng đế chẳng đã xuất

hiện dưới nhiều, nhiều hình dạng, hàng triệu dạng quanh

bạn đó sao? Tại sao bám víu vào một hình dạng? Tại sao

có bám víu này?

Bám víu này đến từ kìm nén, bởi vì bạn đã kìm nén

ham muốn của mình. Rồi một hôm bạn tìm thấy người đàn

bà, người đang hướng tình yêu về bạn và bạn bám lấy. Bạn

sợ mất cô ấy, vì bạn biết tất cả những đêm dài khi bạn một

mình. Nếu bây giờ người đàn bà đó ra đi, lần nữa bạn lại

một mình. Bây giờ người đàn bà này cũng sợ đơn độc của

mình; cô ấy bám lấy bạn. Cô ấy sợ rằng một ngày nào đó

bạn có thể đi tới ai đó khác; bạn có thể không hướng về cô

ấy nữa, và cô ấy sẽ bị bỏ lại đơn độc. Đã trải qua biết bao

đêm dài đơn độc rồi, thôi bây giờ không thế nữa. "Chúng ta

đã tìm thấy nhau, chúng ta phải bám vào nhau; chúng ta

phải sở hữu lẫn nhau và chúng ta phải canh chừng cho

nhau, để cho không ai đi bất kì đâu nữa."

Nhưng từ canh chừng này, nhìn điều đã xảy ra: mọi

người đều chán. Bạn cần người yêu, không phải là người

gác; bạn cần người được yêu, không phải cai ngục. Bạn

muốn tuôn chảy, không bị cầm tù. Nhìn vào cái ước muốn

mâu thuẫn này đi: bạn muốn sống và yêu, nhưng bất kì cái

gì bạn làm cũng phá rối tình yêu của bạn, phá huỷ tình yêu

của bạn, tạo ra trở ngại cho dòng chảy. Bạn muốn yêu và

sống, và bạn muốn sống vui vẻ, nhưng bất kì cái gì bạn làm

cũng đều đi đến chống điều đó, đều chống điều đó.

Tại sao đây phải là ham muốn cuối cùng? Nhớ lấy, tôi

không nói rằng điều này không nên là ham muốn cuối

cùng. Chớ hiểu lầm tôi. Tôi không nói rằng điều này không

nên là ham muốn cuối cùng, tôi đang nói, đơn giản nói, tại

sao nó phải là ham muốn cuối cùng? Nếu sự việc xảy ra là

các bạn vẫn còn lại với nhau, nếu sự việc xảy ra là bạn

chẳng bao giờ tìm thấy người đàn bà đẹp hơn, người đàn bà

đáng yêu hơn - thì tốt, bạn là người may mắn. Nếu sự việc

xảy ra là Savya chẳng bao giờ tìm thấy người đàn ông khác

đáng yêu hơn, sinh động hơn bạn - thì thật may mắn.

Nhưng nếu cô ấy tìm được người đàn ông đáng yêu hơn,

người có thể làm cho cô ấy vui vẻ hơn, người có thể đem

đến cho cô ấy những đỉnh cao cực lạc lớn hơn, thì sao? Cô

ấy vẫn phải bám víu vào bạn sao? Thế thì cô ấy đang chống

chính cô ấy. Tại sao cô ấy phải bám víu vào bạn?

Và nếu cô ấy bám víu vào bạn, cô ấy sẽ chẳng bao giờ

có thể tha thứ cho bạn, bởi vì đấy sẽ là vì bạn mà cô ấy đã

phải bỏ lỡ người đàn ông tuyệt vời đó; cô ấy sẽ luôn luôn

giận dữ bạn. Đó là lí do tại sao vợ giận dữ, chồng giận dữ.

Giận dữ đó có cơ sở tự nhiên cho nó. Giận dữ đó không

phải là điều trần tục; đấy không phải vì trà không đủ nóng,

không phải vậy. Ai bận tâm khi bạn yêu người đàn bà dù

trà có nóng hay không? Khi tình yêu còn nồng, mọi thứ đều

nhiệt tình. Khi tình yêu đã lạnh lẽo, mọi thứ dường như

cũng lạnh theo. Vấn đề không phải là ở chỗ đôi dép lê của

bạn không có ở chỗ nó phải có khi bạn ngủ dậy. Khi bạn

yêu người đàn bà, ai bận tâm?

Nhưng khi tình yêu biến mất, nhiệt tình đó cũng biến

mất. Thế thì bạn giận dữ, và giận dữ đến nỗi bạn không thể

nói được điều đó và xã hội không cho phép điều đó. Giận

dữ đến mức bạn không thể còn đúng về nó nữa. Có thể bạn

đã kìm nén nó sâu sắc đến mức bạn thậm chí không trở nên

nhận biết được nó, bạn thậm chí không ý thức được về nó -

đến mức bạn giận dữ bởi vì bây giờ, bởi vì người đàn bà

này, nên những người đàn bà khác trở thành không sẵn có

cho bạn... bởi vì người đàn bà này cứ vây quanh bạn và

thường xuyên theo dõi bạn... bởi vì người đàn ông này cứ

theo dõi bạn và không cho phép bạn đi và có cuộc sống

theo cách riêng của bạn, cách thức bạn muốn nó bây giờ.

Những hứa hẹn quá khứ của bạn đã trở thành nhà tù.

Thế thì bạn giận dữ. Và giận dữ chẳng liên quan tới bất kì

cái gì nói riêng, nó là giận dữ nói chung, cho nên bạn thậm

chí không thể nói được nó ở đâu, tại sao có nó, nó như thế

nào. Thế rồi bất kì cớ nào cũng bật ra - trà không nóng,

thức ăn không có khi bạn muốn ăn.

Bám níu này tạo ra giận dữ. Và chúng ta không có ở

đây để bị thừa trong giận dữ. Tại sao? Để làm gì? Với mục

đích nào? Nếu Savya gặp người đẹp trai nào đó và bỗng

nhiên cảm thấy rằng bây giờ cô ấy đã tìm được đúng người,

cô ấy phải làm gì? Cô ấy có phải bám lấy bạn không? Có

ấy phải không phản bội bạn sao? Từ này thật xấu: 'phản

bội'... Trong thực tế nếu cô ấy vẫn còn với bạn, cô ấy đang

phản bội chính con người cô ấy, nếu cô ấy vẫn còn với

bạn, cô ấy đang phản bội tình yêu của mình, cô ấy đang

phản bội vui vẻ của mình, cô ấy đang phản bội Thượng đế.

Bây giờ Thượng đế đã kêu gọi từ một cánh cửa khác; cô ấy

đang phản bội Thượng đế. Và cô ấy sẽ chẳng bao giờ có thể

yêu bạn thêm nữa; điều đó là không thể có. Thượng đế đã

kêu gọi từ đâu đó khác. Đôi mắt khác nào đó đã trở thành

cánh cửa và cửa sổ, hình dạng khác đã trở nên sinh động và

hấp dẫn. Cô ấy có thể làm gì bây giờ? Cô ấy có thể tránh

nhìn người đó, nhưng làm sao cô ấy sẽ có thể tha thứ cho

bạn được? Bây giờ giận dữ sẽ bắt đầu bùng ra. Bây giờ cô

ấy sẽ giận dữ chẳng vì lí do nào, và giận dữ sẽ phá huỷ tình

yêu của bạn. Nó đã căng phồng ra.

Nhớ lấy, tình yêu là làn gió thoảng. Nhìn xem... chưa

có gió thoảng ngay bây giờ đâu, cây vẫn còn im ắng.

Chúng có thể làm gì? Chúng không thể tạo ra gió được. Bất

kì khi nào gió tới, thì nó tới. Khi gió tới cây sẽ đung đưa

với vui vẻ. Khi gió qua đi, tức là nó hết rồi. Cây phải đợi.

Tình yêu giống như làn gió thoảng. Khi nó tới là nó tới - ai

biết được nó tới từ phương nào, từ người nào, từ ai.

Đây là giải phóng của Mật tông. Mật tông là triết lí

nguy hiểm, nó là tôn giáo nguy hiểm. Nó còn chưa được

thử trên qui mô rộng hơn, loài người còn chưa có đủ dũng

cảm để thử nó trên qui mô rộng hơn - chỉ có vài cá nhân,

rất ít và thưa thớt, mới thử nó, và họ đã phải chịu đựng rất

nhiều bởi vì xã hội không cho phép... xã hội nghĩ đây hoàn

toàn là tội lỗi. Nhưng Mật tông nói phải sống với người đàn

bà mà dòng chảy tình yêu của bạn đã dừng, với người mà

bạn không còn vui vẻ nữa, là tội lỗi. Việc làm tình với

người đàn bà mà bạn không yêu là cưỡng hiếp. Việc làm

tình với người đàn ông mà bạn không yêu là cưỡng hiếp;

đấy là mãi dâm.

Đây là thái độ của Mật tông về cuộc sống. Mật tông tin

vào vui vẻ bởi vì Mật tông nói vui vẻ là Thượng đế. Vẫn

còn đúng cho vui vẻ và hi sinh mọi thứ cho vui vẻ. Để cho

vui vẻ là Thượng đế duy nhất, và hi sinh mọi thứ - bất kì

cái gì cần tới. Vẫn còn tuôn chảy.

Bạn nói: "Tôi yêu Ma Prem Savya. Tôi muốn cô ấy

sống với tôi đến khi tôi chết..." Bạn có nghĩ đến việc chết

rất sớm không? Ai biết được bạn có thể sống bao lâu? Ngay

chỗ đầu tiên tại sao bạn lại nghĩ về tương lai? Nghĩ về

tương lai là bỏ lỡ hiện tại. Bạn nghĩ rằng bạn đang nghĩ đến

những điều lớn lao... bạn đã đọc những thứ như thế của

những nhà thơ ngớ ngẩn. Các nhà thơ bao giờ cũng gần

như ngớ ngẩn; họ không có kinh nghiệm thực về cuộc

sống, họ chỉ mơ.

Bây giờ nhìn xem: bạn nghĩ đây là tình yêu lớn - rằng

bạn muốn sống với cô ấy cho tới khi bạn chết. Đây không

phải là tình yêu lớn, bạn sợ. Trong thực tế ngay bây giờ bạn

không tận hưởng nó, đó là lí do tại sao bạn đang lan toả

vào tương lai. Ngay bây giờ bạn đang bỏ lỡ nó, cho nên

bạn muốn có nó bằng mọi cách - có thể không phải hôm

nay, thì ngày mai, ngày kia - đó là lí do tại sao nỗi sợ nảy

sinh. Bạn muốn sống với cô ấy cả đời bạn, để cho bạn có

thể xoay xở theo cách nào đó.

Nhưng tại sao không bây giờ? Nếu nó có thể đã có, thì

nó có thể đã có từ ngay bây giờ. Bạn không biết cách sống

ngay bây giờ, cho nên bạn nghĩ về tương lai. Và thời gian

là ảo tưởng lớn. Chỉ có bây giờ là tồn tại. Ngày mai sẽ là

hôm nay. Ngày kia sẽ là hôm nay. Sau một năm lại sẽ là

hôm nay. Bao giờ cũng hôm nay. Thượng đế bao giờ cũng

trong hiện tại. Nếu bạn muốn sống, sống ngay bây giờ. Tại

sao nghĩ đến tương lai? Để cho tình yêu của bạn được

mạnh mẽ, như ngọn lửa, đến mức nó đốt cháy toàn bộ bạn

ngay bây giờ.

Và bây giờ bạn đang nghĩ "cho đến khi tôi chết..." Ai

có thể nói được? Ít nhất tôi không định nói gì về việc ấy cả,

bởi vì tôi muốn bạn vẫn còn tự do và tôi cũng muốn Savya

được tự do. Gặp gỡ nhau như hai cá nhân tự do đi, gặp gỡ

nhau như hai sự tự do đi. Và để cho việc gặp gỡ có đó trong

khi tự do kéo dài. Khi việc gặp gỡ của bạn bắt đầu phá hoại

tự do, tách ra ngay; thời điểm đã tới để nói lời chia tay.

Cảm thấy biết ơn những ngày bạn đã sống với người đàn bà

hay người đàn ông đó. Cảm thấy cực kì biết ơn những ngày

đó đã được làm thành sẵn có cho bạn qua người kia. Cảm

thấy biết ơn về tất cả những kinh nghiệm đó. Nhưng bạn có

thể làm được gì? Với nước mắt lưng tròng, với lòng biết

ơn, với tình yêu, với tình bạn, với lòng từ bi - tách ra. Cơn

gió thoảng không còn thổi theo cách này nữa. Bạn có thể

làm được gì? Cảm thấy bất lực, nhưng tách ra. Đừng níu

bám, bằng không các bạn sẽ phá huỷ lẫn nhau.

Nếu bạn thực sự yêu người kia, khoảnh khắc tình yêu

tan biến bạn sẽ làm cho người kia được tự do. Ít nhất thì thì

tình yêu nhiều nhặn này cũng vì... để làm cho người kia

được tự do, để cho ở đâu đó khác, ở cánh đồng cỏ nào đó,

tình yêu có thể đâm chồi, nở hoa. Ít nhất đây là điều bạn có

thể làm cho người kia, rằng tình yêu - nếu nó đã tan biến

giữa các bạn - vẫn có thể đâm chồi và nở hoa ở đâu đó khác

với ai đó đó khác. Tình yêu là Thượng đế. Nó xảy ra ở đâu,

nó xảy ra giữa ai - giữa A và B, hay C và D, hay E và G,

điều ấy chẳng can hệ gì. Nó xảy ra ở đâu chẳng can hệ gì.

Nếu nó xảy ra thì thế là tốt. Thế giới đã trở nên không có

tình yêu đến thế bởi vì chúng ta bám víu vào mọi người khi

tình yêu đã hết. Thế giới sẽ đầy tình yêu nếu mọi người

không bám víu và vẫn còn tự do.

Tự do trong tình yêu của bạn. Gặp gỡ từ tự do, và khi

tự do bị phá huỷ, để cho đó là một chỉ dẫn rằng tình yêu đã

biến mất - bởi vì tình yêu không thể phá huỷ tự do: tình yêu

và tự do là hai tên gọi cho cùng một điều. Tình yêu không

thể phá huỷ tự do. Nếu tự do bị phá huỷ, cái gì đó khác

đang giả làm tình yêu - ghen tuông, thù hận, chi phối, an

toàn, an ninh, danh vọng, tôn kính xã hội - cái gì đó khác

đã bước vào. Trước khi nó đi vào và làm hư hỏng bạn và

đầu độc bạn quá nhiều, thoát khỏi nó đi.

#10Câu hỏi thứ năm:

Osho kính yêu, tôi muốn làm sannyasin và

tôi đã chờ đợi điều ấy nhiều năm, nhưng tôi

sợ sẽ gặp rắc rối vì nó. Tôi phải làm gì đây?

Tôi chỉ có thể hứa rằng bạn sẽ gặp rắc rối thôi, tôi

không thể nói rằng bạn sẽ không gặp rắc rối. Trong thực tế,

đấy là một phương cách để tạo ra hỗn loạn trong cuộc sống

của bạn. Nhưng có hai loại rắc rối: rắc rối huỷ hoại và rắc

rối sáng tạo. Tránh rắc rối huỷ hoại, bởi vì chúng đơn giản

phá huỷ. Có rắc rối sáng tạo, cái sẽ sáng tạo, cái đưa bạn

lên bình diện tâm thức cao hơn. Bạn đã có đủ rắc rối rồi.

Chắc chắn tôi không định thêm rắc nào rối thuộc loại đó.

Chuyện xảy ra...

Có người đàn bà trong một toa xe lửa đi cùng với

người đàn ông với cả một bầy trẻ con nhếch nhác và kém

văn hoá. Trước khi họ đi thật xa ông này cho một trong

những đứa trẻ một trận đòn dữ tợn.

"Này," người đàn bà nói, "ông hãy dừng việc đánh

thằng bé lại ngay bằng không tôi sẽ làm cho ông bị rắc rối

đấy."

"Bà làm gì?"

"Tôi nói, tôi sẽ làm cho ông bị rắc rối đấy!" người đàn

bà hét to.

"Nghe đây, thưa bà, vợ tôi đã tẩu thoát cùng với một

thằng da đen cuỗm sạch từng đồng xu tôi đã dàng dụm; tôi

đang trên đường đưa những đứa trẻ này về nhà người họ

hàng, người này say mèn; đứa con gái ở góc kia mới mười

lăm và có mang tám tháng. Thằng bé đằng kia bị loạn nhịp

thở, đứa bé vừa ném chai rượu ra khỏi cửa sổ, và đứa tôi

vừa đánh đã nuốt hết vé của tôi. Vì nghỉ việc, tôi đã bị thải

hồi. Bà nói bà định làm cho tôi bị rắc rối hơn - còn rắc rối

nào hơn nữa đây?"

Không, tôi không định làm cho bạn bị rắc rối thêm

cùng kiểu như bạn đã sống trong toàn bộ cuộc đời mình.

Tôi sẽ giới thiệu những loại rắc rối mới trong cuộc sống

của bạn. Dũng cảm lên.

Và bạn đã phải đợi lâu - bạn nói bạn đã từng nghĩ về

điều đó trong nhiều năm...

Có một trận đá bóng giữa chuột và sâu bọ. Hiệp đầu tỉ

số là sáu đều, và đến cuối tỉ số là mười một-mười nghiêng

về phía chuột. Cho nên sâu bọ về hang của của rết và nói,

"Tại sao cậu không tham gia trận đấu?"

"Tớ còn bận xỏ giầy vào chân chưa xong," rết trả lời.

Đến bao giờ bạn mới xỏ xong chân vào giầy? Trận đấu

chẳng mấy chốc mà kết thúc! Xin hãy làm mọi thứ nhanh

hơn.

#10Câu hỏi thứ sáu:

Osho kính yêu, tôi có thể tự nhảy một mình

được không? Thầy có phải tuyệt đối cần thiết

không?

Hai anh chàng, Pete và Dave, đang làm việc trên giàn

giáo. Một người đi qua để tìm người làm việc cho câu lạc

bộ tạp kĩ, và người đó đứng ngay dưới ngôi nhà. Bỗng

nhiên người đó thấy Pete đang nhảy lộn ba vòng trên đỉnh

giàn giáo, tiếp đó là nhảy lộn ngược, rồi nhảy lộn vòng hai

lần, và hạ xuống đất cạnh chân mình.

Anh chàng trên mặt đất nghĩ rằng thật là phi thường

cho nên anh ta đến gần Pete và nói, "Anh có muốn tới và

làm xiếc cho tôi không?"

"Có chứ, được thôi."

"Anh muốn được trả bao nhiêu?"

"Một trăm đồng bảng."

"Những một trăm đồng bảng cơ à?"

"Thế này, năm mươi đồng cho tôi, còn năm mươi đồng

cho Dave, người nện vào chân tôi bằng búa."

Một mình bạn sẽ không có khả năng đi được. Bạn sẽ

cần thầy để thúc bạn. Cuộc hành trình không quen thuộc

thế, cuộc hành trình đi vào vực thẳm. Chừng nào ai đó chưa

thực sự đẩy mạnh bạn, bạn không định nhảy, bạn sẽ phải bị

gõ búa.

#10Và câu hỏi cuối cùng:

Osho kính yêu, niết bàn là gì?

Niết bàn là câu chuyện này... câu chuyện cổ của nhà

phật. Một người đàn bà trẻ trung xinh tươi ngoại lệ,

Enyadatta, chẳng thích gì ngoài việc ngắm mình trong

gương. Cô ấy cũng hơi lập dị nữa, như mọi người đều thế.

Một sáng khi đang ngắm nhìn mình trong gương thì hình

trong gương không có đầu. Enyadatta trở nên phát hoảng

và chạy lung tung kêu hét lên, "Tôi bị mất đầu rồi, đầu tôi

đâu? Ai lấy đầu tôi? Tôi sẽ chết nếu tôi không tìm thấy

đầu!"

Mặc cho mọi người bảo đảm với Enyadatta rằng đầu cô

ấy vẫn còn trên vai, cô ấy vẫn từ chối tin họ. Mỗi lần cô ấy

nhìn vào gương, đầu cô ấy đều không có đó, cho nên cô ấy

tiếp tục tìm kiếm điên cuồng, kêu la khóc lóc nhờ giúp đỡ.

Lo sợ về sự lành mạnh của cô, bạn bè và họ hàng của

Enyadatta lôi cô về nhà và buộc cô vào cột nhà để cho cô

không thể làm mình bị thương.

Bạn bè của Enyadatta tiếp tục tái bảo đảm với cô rằng

đầu cô vẫn còn trên vai và dần dần cô bắt đầu tự hỏi liệu họ

có nói đúng sự thật hay không. Bỗng nhiên một trong

những người bạn của cô cắm một chiếc đinh sắc trên đầu

cô. Cô kêu rú lên đau đớn, còn người bạn thì than thở, "Đấy

là đầu bạn đấy! Nó đây rồi!" Enyadatta lập tức hiểu ra rằng

bằng cách nào đó cô ấy đã tự lừa dối mình trong suy nghĩ

rằng cô không có đầu, trong khi thực tế cô ấy bao giờ cũng

có nó.

Niết bàn cũng vậy. Bạn chưa bao giờ ra khỏi nó, bạn

chưa bao giờ xa khỏi nó. Nó là trong bạn, bạn là trong nó.

Nó đã có đấy, bạn chỉ cần trở nên tỉnh táo hơn một chút.

Bạn cần một cái đinh trên đầu.

Cái đầu có đó: bạn không thể thấy được nó bởi vì bạn

đang nhìn sai hướng hay nhìn vào gương giả. Bạn không

thể thấy nó bởi vì bạn không có sáng tỏ để thấy. Bằng

không thì niết bàn chẳng phải là một mục tiêu nào đó ở đâu

đó, nó không phải là kiếp sau, nó là ở đây và bây giờ.

Niết bàn là chất liệu tạo nên bạn.

Nó là trong từng tế bào, nó là trong từng thớ thịt của

con người bạn.

Nó là bạn.

Chỉ việc nhớ là cần.

Chỉ việc nhớ ...

Đủ cho hôm nay.

END

Bạn đang đọc truyện trên: truyentop.pro