BIẾN CHUYỂN MẬT TÔNG
OSHO
BIẾN CHUYỂN MẬT TÔNG
Bài nói thêm về Bài thơ hoàng đế của Saraha
TANTRIC TRANSFOMATION
Further Discourses on the Royal Song of Saraha
1. Bản đồ mật tông
2. Tự do có giá trị hơn
3. Phá vỡ bốn lớp xi
4. Tin cậy không thể bị phản bội
5. Từ không tới không
6. Tôi một mình là đủ
7. Thông minh là thiền
8. Yêu không tạo hình bóng
9. Vô trí là cánh cửa
10. Chỉ việc nhớ lại
Về Osho
Những bài nói ngẫu hứng của Osho cho đệ tử và bạn bè tại Thính phòng Trang tử, Poona, Ấn Độ
************************************************************
Giới thiệu
Từ lâu Mật tông đã được coi hoặc như một hệ thống
luyện tập dục hoặc khác đi thì cũng như một ngôn ngữ uyên
bác khó hiểu đòi hỏi nhiều kiên nhẫn và học vấn vượt ra
ngoài khả năng người thường. Cả hai cách hiểu này đều
hoang đường.
Mật tông của Saraha - Mật tông của Osho - là có thực và
sinh động. Trong những bài nói này, Osho nói về một tầm
nhìn - tầm nhìn về cuộc đời được sống trong tự do toàn bộ,
cuộc sống của tình yêu vô biên, vô giới hạn - không phải như
ý tưởng mà như kinh nghiệm thực tế và hiện tại. Điều được
chứa đựng bên trong những trang này chính là tiếng vọng lại
của lời mời phát ra từ trái tim của bản thân sự tồn tại - không
'cách thức', không lí thuyết, không hệ thống - chỉ là lời mời
gọi.
Cái ngày tôi biết về bản thân mình, tôi cũng biết được
chính cái ta của sự tồn tại. Xin hãy nhìn tôi! Tôi đang đây.
Nó đang ở đây!
Tôi không có triết lí, tôi có kinh nghiệm chắc chắn. Tôi
có thể chia sẻ kinh nghiệm đó với bạn, nhưng chia sẻ không
thể chỉ từ phía tôi. Bạn sẽ phải đi từ quan điểm giáo điều của
mình. Bạn sẽ phải đi cùng với tôi vào cái chưa biết.
Tôi có thể đưa bạn tới cánh cửa sổ đó mà sự tồn tại là
trong trẻo, trong suốt. Nhưng bạn sẽ phải nắm tay tôi và
bước ...
Ma Prem Asha
************************************************************
#1 Bản đồ Mật tông
Với thích thú của việc hôn niềm ao ước dối
trá mà tuyên bố nó là điều có thực tối
thượng - thì cũng tựa như người đàn ông rời
khỏi nhà, đứng tại cửa yêu cầu người đàn bà
nói lại khoái lạc nhục dục.
Khích động của các lực sinh học trong ngôi
nhà không có gì làm nảy sinh nhân tạo hoan
lạc theo nhiều cách thức. Các nhà yoga ấy,
từ cơn ngất đau buồn, vì đã trượt khỏi chỗ
hạnh phúc tuyệt vời, bị dụ dỗ vào trong tật
xấu.
Như một brahmin, người, từ cơm và bơ, tạo
ra vật thiêu cúng tế trong ngọn lửa sáng
chói, tạo ra bình nước cam lồ từ chỗ hạnh
phúc tuyệt vời, coi điều này, qua suy nghĩ
ước ao là điều tối thượng.
Một số người đã nhóm lên sức nóng bên
trong và nâng nó lên đỉnh đầu, lấy lưỡi mơn
trớn cuống họng theo kiểu giao hoan và lầm
điều trói buộc với cái đem lại giải thoát, vẫn
tự hào tự gọi mình là nhà yoga.
Mật tông là tự do - tự do với mọi kết cấu tâm trí, với
mọi trò chơi tâm trí; tự do với mọi cấu trúc - tự do khỏi mọi
thứ khác. Mật tông là không gian hiện hữu. Mật tông là giải
thoát.
Mật tông không phải là tôn giáo theo nghĩa thông
thường. Tôn giáo cũng lại là trò chơi tâm trí, tôn giáo cho
bạn mẫu hình nào đó. Người Ki tô giáo có mẫu hình riêng,
người Hindu giáo cũng vậy, người Mô ha mét giáo cũng
vậy. Tôn giáo cho bạn phong cách nào đó, giới luật nào đó.
Mật tông vứt bỏ mọi giới luật.
Khi không còn giới luật nào nữa, khi không còn trật tự
bó buộc nào nữa, thì một loại trật tự hoàn toàn khác nảy
sinh trong bạn. Điều Lão Tử gọi là Đạo, điều Phật gọi là
pháp dhamma - cái nảy sinh trong bạn. Đó không phải là
điều gì do bạn tạo ra, nó xảy ra cho bạn; Mật tông đơn giản
chỉ tạo ra không gian cho điều đó xảy ra. Nó thậm chí
không chào mời, không chờ đợi; nó đơn giản tạo ra không
gian. Và khi không gian sẵn sàng, thì cái toàn thể tuôn
chảy.
Tôi đã từng nghe một câu chuyện rất hay, rất cổ ...
Trời đã lâu lắm rồi không mưa tại một tỉnh nọ. Mọi thứ
đều khô héo; cuối cùng dân chúng quyết định phải tìm
người cầu mưa. Một đại biểu đã được phái tới gặp người
này tại một thành phố xa xăm, nơi ông ta sống, với lời khẩn
cầu đến ngay tức khắc để làm mưa cho cánh đồng khô hạn
của họ.
Người cầu mưa, một ông già trí huệ, đã hứa cầu mưa
với điều kiện phải có cho ông một túp lều tranh nhỏ đơn
độc tại miền đồng quê, tại đó ông có thể tự mình rút lui
trong vòng ba ngày; không cần lương thực hay đồ uống nào
cả. Rồi ông sẽ xem điều gì có thể được làm. Yêu cầu của
ông được đáp ứng.
Vào tối ngày thứ ba một cơn mưa to đổ xuống, rồi một
đám đông những người cảm kích và tôn sùng hành hương
tới túp lều của ông và hỏi, "Xin ông hãy cho chúng tôi biết
ông đã cầu được mưa như thế nào?"
"Rất đơn giản," người cầu mưa trả lời. "Trong ba ngày
mọi việc tôi làm chỉ là tự đặt mình vào trật tự. Vì tôi biết
rằng một khi tôi trong trật tự thì thế giới sẽ trong trật tự, và
hạn hán phải nhường chỗ cho mưa rào."
Mật tông nói: Nếu bạn đang trong trật tự, toàn bộ thế
giới cũng trong trật tự cho bạn. Khi bạn đang hài hoà, toàn
bộ sự tồn tại cũng trong hài hoà cho bạn. Khi bạn trong hỗn
loạn, toàn bộ thế giới cũng hỗn loạn. Và trật tự này phải
không được là trật tự giả tạo, nó phải không được là trật tự
bị bó buộc. Khi bạn áp đặt trật tự nào đó lên mình, bạn đơn
giản trở nên chia chẻ; sâu bên dưới hỗn loạn vẫn tiếp diễn.
Bạn có thể quan sát nó: nếu bạn là người giận dữ, bạn
có thể khống chế cơn giận của mình, bạn có thể kìm nén nó
sâu trong vô thức; nhưng nó không định tan biến đi. Có thể
bạn trở thành hoàn toàn không hay biết gì về nó, nhưng nó
vẫn còn đó - và bạn biết rằng nó vẫn còn đó. Nó vẫn chạy
ngầm bên trong bạn, nó vẫn trong tầng hầm tối của bản thể
bạn, nhưng nó vẫn còn đó. Trên đỉnh của nó bạn có thể
ngồi đó mỉm cười, nhưng bạn biết nó có thể bùng nổ bất kì
lúc nào. Và nụ cười của bạn không thể rất sâu lắng, và nụ
cười của bạn không thể đúng, và nụ cười của bạn sẽ chỉ là
nỗ lực bạn tạo ra để chống lại chính mình. Người phải áp
đặt trật tự từ bên ngoài vẫn còn trong trạng thái hỗn loạn.
Mật tông nói: Có một loại trật tự khác. Bạn không áp
đặt bất kì trật tự nào, bạn không áp đặt bất kì giới luật nào;
bạn đơn giản vứt bỏ mọi cấu trúc, bạn đơn giản trở thành tự
nhiên và tự phát. Đó là bước tiến lớn nhất mà con người có
thể được yêu cầu thực hiện. Điều đó cần tới dũng cảm lớn
vì xã hội không thích điều đó; xã hội sẽ chống lại điều đó
đến cùng. Xã hội muốn một trật tự nào đó. Nếu bạn tuân
theo xã hội, xã hội sẽ hoan hỉ với bạn. Nếu bạn chỉ đi lạc
đây đó chút xíu, xã hội sẽ rất giận dữ. Và đám đông điên
khùng.
Mật tông là nổi dậy. Tôi không gọi nó là cách mạng, vì
không có chính trị trong đó. Mà tôi không gọi nó là cách
mạng còn vì nó không có kế hoạch thay đổi thế giới, nó
không có kế hoạch thay đổi quốc gia và xã hội. Nó là nổi
dậy, nó là nổi dậy cá nhân. Nó là việc cá nhân thoát ra khỏi
các cấu trúc và nô lệ. Nhưng khoảnh khắc bạn thoát ra khỏi
nô lệ, bạn đi tới cảm nhận được một loại tồn tại khác bao
quanh bạn mà bạn chưa bao giờ cảm thấy trước đó - dường
như bạn đang sống trong cảnh bị bịt mắt rồi bỗng nhiên
việc bịt mắt bị lỏng ra, mắt bạn mở ra và bạn có thể thấy
một thế giới hoàn toàn khác.
Sự bịt mắt này chính là cái bạn vẫn gọi là tâm trí mình -
suy nghĩ của bạn, định kiến của bạn, tri thức của bạn, kinh
sánh của bạn; tất cả chúng tạo thành tầng bưng bít dầy.
Chúng giữ bạn trong cảnh mù loà, chúng giữ bạn trong đờ
đẫn, chúng giữ bạn mất sinh khí.
Mật tông muốn bạn được sinh động - sinh động như
cây cối, sinh động như dòng sông, sinh động như mặt trời,
mặt trăng. Đó chính là quyền tập ấm của bạn. Bạn chẳng
được cái gì bởi việc mất nó; bạn mất tất cả. Và nếu như mọi
thứ phải mất đi để có được nó thì chẳng có gì bị mất đi cả.
Thậm chí chỉ một khoảnh khắc tự do hoàn toàn cũng đủ
thoả mãn. Còn cuộc sống dài cả trăm năm, dưới ách nô lệ,
cũng là vô nghĩa.
Sống trong thế giới Mật tông cần can đảm, đó là phiêu
lưu. Cho tới nay chỉ mới có rất ít người có khả năng đi trên
con đường đó. Nhưng tương lai đầy hi vọng. Mật tông sẽ
trở thành ngày càng quan trọng hơn. Con người đang ngày
càng hiểu ra nô lệ nghĩa là gì và con người cũng đang hiểu
rằng không có cuộc cách mạng chính trị nào chứng tỏ được
tính cách mạng cả. Mọi cuộc cách mạng chính trị cuối cùng
đều biến thành phản cách mạng. Một khi họ có quyền lực,
họ trở thành phản cách mạng. Quyền lực là phản cách
mạng. Cho nên có một cơ chế có sẵn trong quyền lực: trao
cho bất kì ai quyền lực, người đó trở thành phản cách
mạng. Quyền lực tạo ra thế giới riêng của nó. Cho nên mãi
tới nay đã có biết bao cuộc cách mạng trên thế giới và tất cả
đều thất bại, thất bại hoàn toàn; không cuộc cách mạng nào
có ích cả. Bây giờ con người mới đang trở nên nhận biết về
điều đó.
Mật tông đưa ra cảnh quan khác. Nó không phải là cách
mạng, nó là nổi dậy. Nổi dậy mang nghĩa cá nhân. Bạn có
thể nổi dậy một mình, bạn không cần tổ chức ra đảng phái
cho nó. Bạn có thể nổi dậy một mình, theo cách của riêng
bạn. Nhưng xin nhớ, nó không phải là đấu tranh chống lại
xã hội; nó chỉ là vượt ra ngoài xã hội. Nó không phải là
phản xã hội, nó là phi xã hội; nó chẳng liên quan gì tới xã
hội cả. Nó không chống lại cảnh nô lệ, nó là vì tự do - tự do
hiện hữu.
Nhìn vào cuộc đời bạn đi. Bạn có phải là người tự do
không? Không đâu: có cả nghìn lẻ một cảnh tù túng xung
quanh bạn. Bạn có thể không nhìn vào chúng, điều đó thật
gây bối rối; bạn có thể không thừa nhận chúng, điều đó làm
tổn thương bạn. Nhưng điều đó chẳng thay đổi được tình
huống: bạn vẫn là nô lệ. Để đi theo chiều hướng Mật tông
bạn sẽ phải nhận ra thân phận nô lệ của mình. Nó có gốc rễ
rất sâu xa; nó phải bị vứt bỏ, và nhận biết về nó giúp cho
bạn vứt bỏ nó.
Bạn đừng cứ tự làm nguôi mình, đừng cứ tự an ủi
mình, đừng cứ nói, "Mọi thứ ổn cả." Không phải thế: chẳng
cái gì ổn cả, toàn bộ cuộc đời bạn chỉ là ác mộng. Nhìn vào
nó mà xem! Chẳng có thơ ca, chẳng bài hát và chẳng điệu
vũ nào, cũng chẳng có tình yêu chẳng lời nguyện. Không
có lễ hội. Vui vẻ ư? - đấy chỉ là một từ trong từ điển. Phúc
lạc ư? - có, bạn đã nghe nói về nó, nhưng bạn vẫn chẳng
biết gì về nó cả. Thượng đế ư? - trong đền đài, trong nhà
thờ. Vâng, người ta vẫn nói về điều đó. Những người nói,
họ đâu có biết; những người nghe cũng đâu có biết. Mọi
thứ đẹp đẽ dường như vô nghĩa, còn mọi thứ vô nghĩa lại
dường như rất, rất quan trọng.
Con người cứ tích luỹ tiền và nghĩ rằng mình đang làm
điều gì đó rất có ý nghĩa. Đần độn của con người thật vô
hạn. Nhận biết về điều đó đi, nó sẽ phá huỷ toàn bộ cuộc
đời bạn; nó đã phá huỷ cuộc đời hàng triệu con người qua
bao nhiêu thời đại. Giữ lấy nhận thức của bạn - đó là khả
năng duy nhất để thoát ra khỏi đần độn.
Trước khi chúng ta vào lời kinh hôm nay, điều gì đó
phải được hiểu về bản đồ Mật tông của tâm thức bên trong.
Tôi đã nói cho các bạn đôi điều về nó; vài điều nữa cần
phải được nói.
Trước hết: Mật tông nói rằng không đàn ông nào chỉ là
đàn ông và không đàn bà nào chỉ là đàn bà. Mỗi đàn ông
đều là cả đàn ông và đàn bà, cũng như vậy với đàn bà - là
cả đàn bà và đàn ông. Adam có Eve trong anh ta, Eve có
Adam có trong cô ta. Trong thực tế không ai chỉ là Adam
và cũng không ai chỉ là Eve, chúng ta là Adam-Eve. Đây là
một trong những sáng suốt nhất đã từng được đạt tới.
Tâm lí chiều sâu hiện đại đã trở nên nhận biết về điều
đó, họ gọi nó là lưỡng dục. Nhưng trong ít nhất năm nghìn
năm Mật tông đã biết về điều đó, đã thuyết giảng về điều
đó. Đó là một trong những phát hiện lớn nhất của thế giới,
vì với hiểu biết này bạn có thể chuyển vào chiều hướng bên
trong của mình; bằng không thì bạn không thể chuyển
hướng vào trong được. Tại sao đàn ông lại yêu đàn bà? - vì
anh ta mang người đàn bà trong mình, bằng không anh ta
đã chẳng yêu. Rồi tại sao bạn lại yêu người đàn bà nào đó?
Có hàng nghìn đàn bà, nhưng tại sao, bỗng nhiên, người
đàn bà nào đó trở thành quan trọng nhất đối với bạn, dường
như mọi đàn bà khác đều biến mất và chỉ còn mỗi người
đàn bà đó trên thế giới? Tại sao? Tại sao người đàn ông nào
đó lại hấp dẫn bạn? Tại sao ngay từ cái nhìn đầu tiên cái gì
đó bỗng nhiên nhoáng lên? Mật tông nói: Bạn đang mang
hình ảnh về người đàn bà trong bạn, hình ảnh về người đàn
ông trong bạn. Mỗi đàn ông đều mang một đàn bà và mỗi
đàn bà đều mang một đàn ông. Khi ai đó bên ngoài khớp
với hình ảnh bên trong của bạn thì bạn yêu - đó là ý nghĩa
của tình yêu.
Bạn không hiểu về việc này, bạn đơn giản nhún vai nói,
"Việc xảy ra vậy." Nhưng quả có cơ chế tinh tế trong đó.
Tại sao điều đó đã xảy ra với người đàn bà nào đó, sao
không với người khác? Hình ảnh bên trong của bạn khớp
một cách nào đó, người đàn bà bên ngoài tương tự theo một
cách nào đó. Cái gì đó đụng vào hình ảnh bên trong của
bạn. Bạn cảm thấy, "Đây là người đàn bà của mình," hay
"Đây là người đàn ông của mình"; cảm giác này chính là
điều tình yêu là gì. Nhưng người đàn bà bên ngoài lại
không định thoả mãn, vì không người đàn bà bên ngoài nào
lại định hoàn toàn khớp với người đàn bà bên trong của
bạn. Thực tại không theo cách đó chút nào. Có thể cô ấy
khớp được một chút - có hấp dẫn, sức hút, nhưng sớm hay
muộn nó sẽ phôi phai. Chẳng mấy chốc bạn sẽ nhận ra rằng
có cả nghìn lẻ một thứ mà bạn không thích trong người đàn
bà này. Sẽ mất chút thời gian để đi tới biết về những điều
đó.
Trước hết bạn sẽ bị mê tít. Ban đầu tương tự sẽ quá
nhiều, nó sẽ tràn ngập bạn. Nhưng dần dần bạn sẽ thấy rằng
có cả nghìn lẻ một thứ, những vụn vặt đời thường, không
khớp; rằng các bạn là những người ngoại lai, xa lạ. Vâng,
bạn vẫn còn yêu cô ấy, nhưng tình yêu không còn mê đắm
nữa, cái nhìn lãng mạn mất dần. Rồi cô ấy cũng nhận ra
rằng điều gì đó hấp dẫn trong bạn, nhưng cái toàn bộ của
bạn thì không hấp dẫn. Đó là lí do tại sao mỗi người chồng
cố gắng thay đổi người vợ và mỗi người vợ cũng cố gắng
thay đổi người chồng. Họ cố gắng làm gì vậy? Tại sao? Tại
sao vợ cứ tiếp tục cố gắng thay đổi chồng? Để làm gì? Cô
ta đã yêu người đàn ông này, rồi lập tức cô ta bắt đầu tìm
cách thay đổi người đàn ông đó sao? Bây giờ cô ta đã nhận
ra những dị biệt. Cô ta muốn vứt bỏ những dị biệt đó; cô ta
muốn cắt bỏ vài mảnh ở người đàn ông này để anh ta hoàn
toàn khớp với người đàn ông lí tưởng của mình. Và người
chồng cũng cố gắng làm như vậy - không khó nhọc, không
ương bướng như đàn bà, bởi vì người chồng chóng trở nên
mệt mỏi - đàn bà hi vọng lâu hơn.
Đàn bà nghĩ, "Hôm nay hay ngày mai hay ngày kia -
một ngày nào đó ta sẽ thay đổi được ... " Phải mất gần hai
mươi, hai mươi nhăm năm để nhận ra được sự kiện là bạn
không thể thay đổi được người khác. Đến độ tuổi năm
mươi, khi đàn bà đã qua tuổi mãn kinh và đàn ông cũng
vậy, khi họ bắt đầu thực sự già thì họ trở nên tỉnh táo dần
dần rằng chẳng có gì thay đổi cả. Họ đã cố gắng vất vả, họ
đã thử đủ mọi cách... người đàn bà vẫn nguyên như vậy và
người đàn ông cũng nguyên như vậy. Chẳng ai có thể thay
đổi được ai. Đây là một kinh nghiệm lớn đạt tới, một hiểu
biết lớn.
Đó là lí do tại sao người già trở nên dễ tha thứ hơn: họ
biết rằng chẳng cái gì có thể được làm cả. Đó là lí do tại
sao người già trở nên thanh nhã hơn: họ biết rằng mọi thứ
là như chúng hiện hữu. Đó là lí do tại sao người già trở nên
dễ chấp nhận hơn. Người trẻ rất giận dữ, không chịu chấp
nhận; họ muốn thay đổi mọi thứ, họ muốn làm cả thế giới
theo cách họ thích. Cuộc vật lộn thật gian nan, nhưng điều
đó chẳng bao giờ xảy ra. Nó không thể xảy được, nó không
trong bản chất của mọi vật. Người đàn ông bên ngoài
không bao giờ khớp hẳn với người đàn ông bên trong của
bạn và người đàn bà bên ngoài cũng chẳng bao giờ tuyệt
đối giống như người đàn bà bên trong của bạn. Đó là lí do
tại sao tình yêu đem lại sự thích thú và cả nỗi đau nữa, tình
yêu đem lại niềm hạnh phúc và cả nỗi bất hạnh nữa. Mà bất
hạnh thì thường lại nhiều hơn là hạnh phúc.
Mật tông đề nghị gì về điều này, thế thì phải làm gì?
Mật tông nói: Không có cách nào thoả mãn được với người
bên ngoài; bạn phải quay vào bên trong. Bạn phải tìm ra
người đàn bà bên trong và người đàn ông bên trong, bạn
phải đạt tới hợp giao giới bên trong. Đó là đóng góp vĩ đại.
Điều này xảy ra như thế nào? Cố hiểu bản đồ này. Tôi
đã nói về bảy luân xa, sinh lí học Yoga-Mật tông. Trong
đàn ông, muladhar là nam tính và swadhishthan là nữ tính.
Trong đàn bà, muladhar là nữ tính còn swadhishthan là
nam tính, và cứ như vậy tiếp tục. Trong bảy luân xa, cho
tới luân xa thứ sáu đều có tính nhị nguyên; luân xa thứ bảy
là bất nhị.
Có ba cặp luân xa bên trong bạn: muladharswadhishthan
phải cặp đôi với nhau. Manipura-anahata
phải cặp đôi với nhau. Vishuddha-agya phải cặp đôi với
nhau.
Khi năng lượng chuyển ra bên ngoài, bạn cần người
đàn bà bên ngoài. Bạn có một thoáng nhìn trong khoảnh
khắc, bởi vì việc giao hợp với người đàn bà bên ngoài
không thể mãi mãi, nó chỉ có thể là tạm thời. Trong một
khoảng khắc bạn có thể làm mất bản thân mình vào nhau.
Rồi bạn lại bị ném trả về bản thân mình, bị ném trả lại với
mức độ cao hơn. Đó là lí do tại sao sau mỗi lần làm tình có
thất vọng nào đó: bạn lại trở nên yếu đi, nó đã không xảy ra
như cách bạn mong muốn nó phải xảy ra. Vâng, bạn đã đạt
tới đỉnh, nhưng thậm chí trước khi bạn trở nên nhận biết
được nó, sút giảm, đi xuống đã bắt đầu. Trước khi đạt tới
đỉnh là thung lũng. Trước khi bạn gặp người đàn bà hay
đàn ông ... đã có phân tách. Li dị đến cùng với hôn nhân
nhanh tới mức nó thành chán nản. Mọi người yêu đều là
những người chán nản: họ hi vọng quá nhiều, họ hi vọng
ngược với kinh nghiệm của mình, họ cứ thế hi vọng mãi -
nhưng chẳng có gì được thực hiện. Bạn không thể phá huỷ
qui luật của thực tại. Bạn phải hiểu những luật này.
Gặp gỡ bên ngoài chỉ là nhất thời, nhưng gặp gỡ bên
trong mới có thể trở thành vĩnh hằng. Và bạn càng chuyển
lên cao hơn thì gặp gỡ đó càng thành vĩnh hằng hơn. Trước
hết, muladhar trong đàn ông là nam tính. Ngay trong khi
làm tình với người đàn bà bên ngoài, Mật tông nói, nhớ tới
người đàn bà bên trong. Làm tình với người đàn bà bên
ngoài nhưng nhớ tới người đàn bà bên trong. Để tâm thức
bạn chuyển vào bên trong. Quên hoàn toàn người đàn bà
bên ngoài. Vào khoảnh khắc cực thích, quên hoàn toàn
người đàn bà hay đàn ông. Nhắm mắt lại và hiện hữu bên
trong, và để điều đó là thiền. Khi năng lượng được khuấy
động, đừng bỏ lỡ cơ hội này. Đó chính là khoảnh khắc mà
bạn có thể có sự tiếp xúc - hành trình hướng nội.
Thông thường rất khó nhìn vào trong, nhưng vào lúc
yêu, có khe hở nào đó, bạn không còn bình thường. Trong
khoảnh khắc yêu bạn đang ở cực đại của mình. Khi cực
thích xảy ra, toàn bộ năng lượng thân thể đập mạnh theo
điệu vũ; từng tế bào, từng thớ thịt nhảy múa theo nhịp, theo
một cách hài hoà mà bạn không biết tới trong cuộc sống
thông thường. Đây chính là khoảnh khắc, khoảnh khắc của
hài hoà; dùng nó như bước chuyển vào trong. Trong khi
làm tình, trở thành thiền, nhìn vào trong.
Một cánh cửa mở ra vào khoảnh khắc đó - đây là kinh
nghiệm Mật tông. Một cánh cửa mở ra vào khoảnh khắc đó,
và Mật tông nói rằng bạn cảm thấy hạnh phúc chỉ bởi vì
cánh cửa đó mở ra và cái gì đó của niềm phúc lạc bên trong
tuôn chảy cho bạn. Nó không đến từ người đàn bà bên
ngoài, nó không đến từ người đàn ông bên ngoài; nó đến từ
cốt lõi bên trong nhất của bạn. Bên ngoài chỉ là cái cớ.
Mật tông không nói rằng làm tình với người bên ngoài
là tội lỗi, nó chỉ đơn giản nói rằng việc đó không đi được
xa. Nó không lên án việc đó, nó chấp nhận tính tự nhiên
của việc này, nhưng nó nói rằng bạn có thể dùng đợt sóng
tình yêu đó để đi xa vào bên trong. Trong khoảnh khắc kích
động đó, mọi vật không còn trên mặt đất nữa, bạn có thể
bay. Mũi tên của bạn có thể đưa cánh cung hướng tới đích.
Bạn có thể trở thành một Saraha.
Nếu trong khi làm tình bạn trở nên thiền, bạn trở nên
im lặng, bạn bắt đầu nhìn vào trong, bạn nhắm mắt lại, bạn
quên người đàn ông hay đàn bà bên ngoài, thì điều đó xảy
ra. Muladhar, trung tâm nam tính bên trong của bạn, bắt
đầu di chuyển về trung tâm nữ tính - trung tâm nữ tính là
swadhishthan - và có hợp giao, có hợp giao bên trong.
Đôi khi điều này xảy ra mà không có việc biết của bạn.
Nhiều sannyasin đã viết thư cho tôi; trước đây tôi chưa bao
giờ trả lời vì không thể trả lời được. Bây giờ tôi có thể trả
lời, bạn sẽ có khả năng hiểu được. Một sannyasin cứ viết đi
viết lại cho tôi và anh ta lấy làm lạ tại sao tôi không trả lời
... Tấm bản đồ còn chưa có sẵn, cho tới nay còn chưa có,
bây giờ tôi mới trao cho bạn tấm bản đồ. Nghe tôi anh ta
bao giờ cũng cảm thấy dường như anh ta đang đi vào cực
thích. Toàn bộ thân thể anh ta bắt đầu rung lên và anh ta có
cùng kinh nghiệm như khi anh ta làm tình với đàn bà. Anh
ta trở nên rất phân vân - một cách tự nhiên thế. Anh ta mất
dấu vết về điều anh đã lắng nghe, anh ta quên ... và cơn
kích động mới mạnh mẽ và niềm hoan lạc mới mạnh mẽ
đến mức anh ta đâm lo nghĩ: Điều gì đang xảy ra vậy? Đây
là điều gì bên trong anh ta vậy?
Điều đã xảy ra là: muladhar đang gặp gỡ với
swadhishthan, trung tâm nam tính của bạn đang gặp gỡ với
trung tâm nữ tính của bạn. Đó là vui vẻ khi bạn chuyển vào
thiền, khi bạn chuyển vào lời nguyện; đây là cơ chế lễ hội
bên trong của bạn. Và khoảnh khắc muladhar và
swadhishthan gặp gỡ, năng lượng được thoát ra. Giống như
khi bạn yêu người đàn bà, năng lượng được thoát ra, khi
swadhishthan và muladhar gặp nhau, năng lượng thoát ra
và năng lượng đó đập vào trung tâm cao hơn, manipura.
Manipura là nam tính, anahat là nữ tính. Một khi bạn
đã trở nên hoà hợp với cuộc gặp gỡ thứ nhất của người đàn
ông và đàn bà bên trong thì một ngày nào đó bỗng nhiên
cuộc gặp gỡ thứ hai xảy ra. Bạn không phải làm gì về điều
đó cả; chỉ năng lượng thoát ra từ cuộc gặp gỡ thứ nhất tạo
ra khả năng cho cuộc gặp gỡ thứ hai. Và khi năng lượng
được tạo ra bởi cuộc gặp thứ hai, thì nó sẽ tạo ra khả năng
cho cuộc gặp thứ ba.
Cuộc gặp thứ ba là giữa vishuddha và agya. Và khi
cuộc gặp gỡ thứ ba xảy ra, năng lượng được tạo ra cho lần
thứ tư, vốn không phải là gặp gỡ, không phải là hợp nhất
mà là thống nhất. Sahasrar là một mình, không có nam
tính-nữ tính. Adam và Eve cuối cùng đã biến mất hoàn toàn
vào nhau. Đàn ông đã trở thành đàn bà, đàn bà đã trở thành
đàn ông; mọi phân chia biến mất. Đây là gặp gỡ vĩnh hằng,
tuyệt đối. Đây là điều người Hindu gọi là satchitananda.
Đây là điều Jesus gọi là "vương quốc của Thượng đế".
Trong thực tế số bẩy đã được mọi tôn giáo sử dụng.
Bẩy ngày là tượng trưng và ngày thứ bẩy là ngày nghỉ,
ngày linh thiêng. Sáu ngày Thượng đế làm việc đến ngày
thứ bẩy ông ấy nghỉ. Bạn phải làm việc trong sáu luân xa,
luân xa thứ bẩy trong trạng thái nghỉ lâu, nghỉ cuối cùng,
hoàn toàn thảnh thơi - bạn đã về nhà.
Với luân xa thứ bẩy bạn mất đi phần nhị nguyên, mọi
cực biến mất, mọi khác biệt biến mất. Đêm không còn là
đêm mà ngày cũng không còn là ngày. Mùa hè không còn
là mùa hè và mùa đông cũng không còn là mùa đông. Vật
chất không còn là vật chất và tâm trí không còn là tâm trí -
bạn đã vượt ra ngoài. Đây chính là không gian siêu việt mà
Phật gọi là niết bàn.
Ba cuộc gặp gỡ này xảy ra bên trong bạn, còn việc đạt
tới cái thứ tư có chiều hướng khác nữa. Tôi đã nói với các
bạn nhiều lần về bốn trạng thái: ngủ, mơ, tỉnh, turiya.
Turiya nghĩa là 'cái thứ tư', 'cái vượt ra ngoài'. Bẩy luân xa
này, và làm việc qua chúng, cũng có sự tương ứng với bốn
trạng thái đó.
Cuộc gặp gỡ thứ nhất giữa muladhar và swadhishthan
tựa như ngủ. Cuộc gặp gỡ xảy ra, nhưng bạn không thể rất
nhận biết về nó. Bạn sẽ tận hưởng nó, bạn sẽ cảm thấy tươi
tắn lớn lao nảy sinh trong bạn. Bạn sẽ cảm thấy sự nghỉ
ngơi lớn, dường như bạn đã ngủ rất say; nhưng bạn sẽ
không có khả năng thấy nó một cách chính xác, nó còn rất
mờ tối. Người đàn ông và người đàn bà đã gặp nhau trong
bạn nhưng họ đã gặp nhau trong vô thức; cuộc gặp gỡ
không phải trong ánh nắng ban ngày, nó là trong đêm tối.
Vâng, kết quả sẽ được cảm thấy, hậu quả sẽ được cảm thấy.
Bạn bỗng nhiên cảm thấy một năng lượng mới trong mình,
sự toả sáng mới, ngọn lửa mới. Bạn sẽ có hào quang. Ngay
cả những người khác cũng bắt đầu cảm thấy rằng bạn có
phẩm chất hiện diện nào đó, 'rung động'. Nhưng bạn sẽ
không chính xác tỉnh táo với điều đang xảy ra, cho nên
cuộc gặp gỡ đầu tiên tựa như giấc ngủ.
Cuộc gặp gỡ thứ hai tựa như giấc mơ: khi manipura và
anahata gặp nhau, cuộc gặp gỡ của bạn với người đàn bà
bên trong dường như là bạn đã gặp trong giấc mơ. Vâng,
bạn có thể nhớ được chút ít về điều đó, giống như vào buổi
sáng bạn có thể nhớ được giấc mơ bạn có đêm hôm trước -
chút ít đây đó, vài thoáng nhìn. Có thể điều gì đó đã bị
quên mất, có thể cái toàn thể không được nhớ, nhưng dẫu
sao thì bạn vẫn có thể nhớ. Cuộc gặp gỡ thứ hai tựa giấc
mơ. Bạn sẽ trở nên nhận biết nhiều hơn về nó; bạn sẽ bắt
đầu cảm thấy rằng cái gì đó đang xảy ra. Bạn sẽ bắt đầu
cảm thấy rằng bạn đang thay đổi, rằng biến chuyển đang
trên đường, rằng bạn không còn là con người cũ nữa. Và
với cuộc gặp gỡ thứ hai bạn bắt đầu trở nên nhận biết rằng
mối quan tâm của bạn với người đàn bà bên ngoài đang bớt
dần... mối quan tâm của bạn với người đàn ông bên ngoài
không còn say mê như nó đã thế.
Với lần gặp gỡ đầu tiên cũng sẽ có thay đổi, nhưng bạn
sẽ không nhận biết được nó. Với cuộc gặp gỡ đầu bạn có
thể bắt đầu nghĩ rằng bạn không còn quan tâm tới người
đàn bà của bạn, nhưng bạn sẽ không có khả năng hiểu được
rằng bạn không quan tâm tới bất kì người đàn bà nào hết
cả. Bạn có thể nghĩ rằng bạn chán người đàn bà của mình
và bạn sẽ hạnh phúc hơn với người đàn bà khác nào đó;
thay đổi nào đó sẽ là điều tốt, bầu không khí khác sẽ là điều
tốt, tính chất khác của người đàn bà sẽ là tốt. Đây chỉ là
phỏng đoán. Với lần gặp gỡ thứ hai bạn sẽ bắt đầu cảm
thấy rằng bạn không còn quan tâm tới người đàn bà hay
đàn ông nữa, rằng mối quan tâm của bạn đang chuyển vào
trong. Với lần gặp gỡ thứ ba bạn sẽ trở nên nhận biết hoàn
hảo; cũng tựa như tỉnh dậy. Vishuddha gặp agya ... bạn sẽ
trở nên nhận biết hoàn hảo, cuộc gặp gỡ xảy ra trong ánh
sáng ban ngày. Hay bạn có thể nói việc đó theo cách này:
cuộc gặp gỡ đầu xảy ra trong bóng tối nửa đêm, cuộc gặp
gỡ thứ hai xảy ra lúc tranh tối tranh sáng giữa ngày và đêm,
cuộc gặp gỡ thứ ba xảy ra vào giữa trưa - bạn tỉnh táo hoàn
toàn, mọi việc đều rõ ràng. Bây giờ bạn biết bạn đã kết thúc
với người bên ngoài. Điều đó không có nghĩa là bạn sẽ bỏ
vợ hay chồng mình, nó đơn giản có nghĩa là say đắm không
còn nữa. Bạn sẽ cảm thấy từ bi. Chắc chắn người đàn bà đã
giúp đỡ bạn cho tới giờ là người bạn lớn; người đàn ông đã
đưa bạn đi xa đến vậy là người bạn lớn; bạn biết ơn người
đó. Các bạn sẽ bắt đầu biết ơn và có lòng từ bi với nhau.
Bao giờ cũng như vậy: khi hiểu biết nảy sinh, nó đem
lại từ bi. Nếu bạn bỏ lại vợ mình để trốn vào rừng, điều đó
đơn giản chỉ chứng tỏ bạn là người độc ác và từ bi đã
không nảy sinh. Điều đó chỉ bắt nguồn từ không hiểu biết,
nó không thể bắt nguồn từ hiểu biết được. Nếu bạn hiểu
bạn sẽ có từ bi.
Khi Phật trở nên chứng ngộ, điều đầu tiên ông ấy nói
với các đệ tử là, "Ta muốn tới gặp Yashodhara và nói
chuyện với nàng" - vợ ông ấy.
Ananda rất bối rối. Ông ấy nói, "Phỏng có ích gì mà
quay trở về cung điện và nói chuyện với vợ thầy? Thầy đã
bỏ vợ - mười hai năm đã trôi qua." Và Ananda cũng bối rối
hơn chút ít, vì làm sao vị phật lại có thể nghĩ về vợ mình
được? Phật không được trông đợi nghĩ theo cách đó.
Khi mọi người đã bỏ đi hết, Anada nói với Phật, "Điều
này là không tốt. Mọi người sẽ nghĩ gì?"
Phật nói, "Mọi người nghĩ gì ư? Ta phải bày tỏ lòng
biết ơn của ta với nàng, và ta phải cám ơn nàng vì mọi sự
giúp đỡ mà nàng đã dành cho ta. Ta phải đem tặng cái gì đó
của điều đã xảy ra cho ta - Ta mắc nợ nàng rất nhiều. Ta sẽ
phải đi."
Ông ấy quay lại, ông ấy trở về cung điện, ông ấy gặp
lại vợ mình. Chắc chắn là Yashodhara phải phát khùng:
người đàn ông này vào một đêm đã trốn đi chẳng thèm nói
một lời với mình. Nàng nói với Phật, "Chẳng lẽ anh không
còn tin vào em nữa sao? Đáng ra anh nên nói rằng anh
muốn đi, và em sẽ là người phụ nữ cuối cùng trên thế giới
ngăn cản anh. Anh không thể tin cậy vào em đến mức thế
cơ à?" Rồi nàng khóc ... mười hai năm của giận hờn! Còn
người đàn ông này đã trốn đi tựa như tên kẻ cắp giữa đêm -
đột ngột, không một chỉ dẫn cho nàng.
Phật tạ lỗi. Rồi ông ấy nói, ""Điều đó bắt nguồn từ
không hiểu biết. Anh là kẻ dốt nát, anh đã không nhận biết.
Nhưng bây giờ anh nhận biết và anh biết, đó là lí do anh đã
quay lại. Em đã giúp anh vô cùng. Em quên những chuyện
cũ đi, bây giờ chẳng ích gì mà nghĩ đến sữa đổ nữa. Em
nhìn anh đây: cái gì đó lớn lao đã xảy ra. Anh đã trở về
nhà. Và anh cảm thấy trách nhiệm đầu tiên của mình là
hướng về em - về gặp em và chuyển trao, chia sẻ kinh
nghiệm của anh với em."
Giận hờn tiêu tan, phẫn nộ lắng xuống, Yashodhara
nhìn qua dòng nước mắt. Vâng, con người này đã thay đổi
thật lớn lao, đây không còn là cùng con người nàng vẫn
biết. Đây không còn là cùng con người ấy nữa, không một
chút nào; người này giống như một nguồn sáng chói ngời ...
nàng gần như có thể thấy được ánh hào quang, ánh sáng
bao bọc quanh ông ấy. Và ông ấy mới yên bình và im lặng
thế... ông ấy gần như biến mất, sự hiện diện của ông ấy gần
như thiếu vắng. Và rồi, không đếm xỉa đến bản thân mình,
nàng quên mất mình đang làm gì: nàng quì xuống và xin
được điểm đạo.
Khi bạn hiểu, nhất định có từ bi. Đó là lí do tại sao tôi
không bảo các sannyasin của mình rời bỏ gia đình họ. Vẫn
cứ ở đấy đi.
Rabindranath đã viết một bài thơ về sự việc này - khi
Phật tới. Yashodhara đã hỏi ông ấy một việc: "Xin anh nói
cho em một điều," nàng nói. "Dù anh đã đạt tới cái gì - em
có thể thấy anh đã đạt tới, dù nó là gì, em không biết nó là
gì - nhưng cho em biết một điều: anh không thể đạt được
điều đó ở đây, trong ngôi nhà này hay sao?"
Và Phật không thể nói không. Có thể đạt tới điều đó ở
đây trong ngôi nhà này, bây giờ thì ông ấy biết... bởi vì nó
chẳng liên quan với rừng thẳm hay với thành phố, với gia
đình hay với đạo tràng. Nó chẳng liên quan gì đến nơi chốn
cả; nó có cái gì đó liên quan tới cốt lõi bên trong nhất của
bạn. Nó có sẵn ở mọi nơi.
Lần thứ nhất, bạn sẽ bắt đầu cảm thấy rằng mối quan
tâm của mình vào người khác đang lỏng dần. Đó là hiện
tượng mờ nhạt, tối - như nhìn qua chiếc kính râm, nhìn qua
buổi sáng sương mù. Lần thứ hai, mọi thứ dần trở nên rõ
ràng hơn một chút, tựa giấc mơ; màn sương không còn dầy
đặc nữa. Lần thứ ba, bạn hoàn toàn tỉnh thức - nó đã xảy ra,
người đàn bà bên trong đã gặp người đàn ông bên trong.
Tính lưỡng cực không còn đó nữa, bỗng nhiên bạn là một.
Phân liệt đã biến mất, bạn không còn phân chia.
Với hội nhập này, bạn trở thành cá nhân. Trước đó bạn
không là cá nhân, bạn là đám đông, bạn là đám hỗn độn,
bạn là nhiều người, bạn mang tính cách đa tâm lí. Bỗng
nhiên bạn rơi vào trật tự. Đó chính là điều câu chuyện cổ
này nói lại.
Người đàn ông đó đã yêu cầu trong ba ngày... Nếu đôi
khi bạn nhìn vào các câu chuyện cổ này, bạn sẽ kinh ngạc;
tính biểu tượng của chúng thật lớn lao. Người đàn ông đó
đã yêu cầu ba ngày để ngồi im lặng. Tại sao lại ba ngày?
Đó chính là ba điểm: trong giấc ngủ, trong giấc mơ và khi
tỉnh thức, người đó muốn đặt bản thân mình vào trật tự.
Trước tiên điều đó xảy ra trong giấc ngủ, rồi điều đó xảy ra
trong giấc mơ, rồi xảy ra trong lúc tỉnh thức. Và khi bạn đã
trong trật tự, toàn bộ sự tồn tại cũng trong trật tự. Khi bạn
là một cá nhân, khi sự chia chẻ của bạn đã biến mất và bạn
được bắc cầu cùng nhau, mọi vật cũng được bắc cầu cùng
nhau.
Điều này dường như có vẻ ngược đời, nhưng phải nói
thế này: cá nhân là vũ trụ. Khi bạn trở thành cá nhân, bỗng
nhiên bạn thấy rằng bạn là vũ trụ. Từ trước cho tới nay bạn
vẫn coi rằng bạn tách rời khỏi sự tồn tại; từ nay bạn không
thể nghĩ được điều đó. Adam và Eve đã biến mất vào nhau.
Đây là mục tiêu mà mọi người đang cố gắng tìm ra bằng
cách này cách khác. Mật tông là khoa học chắc chắn nhất
để đạt đến điều đó; đó là mục tiêu.
Đôi điều thêm nữa: tôi đã nói với các bạn rằng
muladhar phải được thảnh thơi, chỉ thế thì năng lượng mới
có thể chuyển lên, vào trong. Và 'vào trong', 'chuyển lên' có
nghĩa như nhau; 'ra ngoài' và 'đi xuống' có nghĩa như nhau.
Năng lượng có thể chuyển vào trong hay đi lên chỉ khi
muladhar được thảnh thơi. Cho nên điều đầu tiên là thảnh
thơi muladhar.
Bạn giữ trung tâm dục của mình rất kín. Xã hội đã làm
cho bạn rất nhận biết về trung tâm dục; xã hội làm cho bạn
bị ám ảnh về nó; cho nên bạn giữ kín nó. Bạn có thể đơn
giản quan sát. Bạn bao giờ cũng giữ bộ phận dục rất kín,
dường như bạn sợ rằng cái gì đó sẽ sai nếu bạn thảnh thơi.
Toàn bộ ước định của bạn đã là phải giữ nó căng thẳng.
Thả lỏng nó ra, để cho nó là chính nó. Đừng e ngại gì - sợ
hãi tạo nên căng thẳng. Vứt bỏ sợ hãi. Dục là đẹp; nó
không phải là tội lỗi, nó là đức hạnh. Một khi bạn coi nó là
đức hạnh, bạn sẽ có khả năng thảnh thơi.
Tôi đã nói về cách thảnh thơi muladhar trước đây. Và
tôi cũng đã nói về cách thảnh thơi swadhishthan; nó là
trung tâm của cái chết. Đừng sợ chết. Có hai điều sợ hãi chi
phối loài người: sợ dục và sợ chết. Cả hai cái sợ đều nguy
hiểm, chúng không phép bạn trưởng thành. Vứt bỏ cả hai.
Luân xa thứ ba là manipura; nó bị tải nặng bởi các xúc
động tiêu cực. Đó là lí do tại sao dạ dầy bạn bị rối loạn -
khi bạn bị rối loạn về xúc động, manipura bị ảnh hưởng
ngay lập tức. Trong mọi ngôn ngữ trên thế giới chúng ta
đều có cách diễn đạt như, "Tôi không thể tiêu được nó."
Điều đó đúng theo từng từ. Đôi khi bạn không thể tiêu hoá
được thứ gì đó thì bạn bắt đầu cảm thấy buồn nôn, bạn
muốn mửa ra. Trong thực tế đôi khi điều đó xảy ra - nôn
mửa tâm lí. Ai đó đã nói điều gì đó và bạn không thể tiêu
hoá được điều ấy, rồi bỗng nhiên bạn cảm thấy buồn nôn ...
rồi mửa ra, sau khi mửa, bạn cảm thấy rất thảnh thơi.
Trong Yoga người ta có phương pháp cho điều đó. Nhà
yoga phải uống đủ nước vào buổi sáng - một bát nước pha
muối, nước phải hơi ấm - rồi ông ta phải nôn nó ra. Điều đó
sẽ giúp làm thảnh thơi manipura. Đó là một quá trình lớn,
quá trình tẩy rửa lớn.
Bạn sẽ ngạc nhiên ... bây giờ nhiều cách trị liệu hiện
đại cũng đã nhận biết về nó, rằng nôn mửa cũng có ích.
Cách Phân tích Hành động nhận biết về sự kiện việc mửa là
có ích. Cách Trị liệu nguyên thuỷ cũng nhận biết về sự kiện
việc mửa là có ích. Nó làm làm nhẹ manipura. Mật tông và
Yoga bao giờ cũng nhận biết về nó.
Các xúc động tiêu cực - giận dữ, hận thù, ghen tị vân
vân và vân vân - tất cả chúng đều bị kìm nén. Manipura của
bạn bị quá tải. Những xúc động bị kìm nén này không cho
phép năng lượng đi lên, những xúc động bị kìm nén này
vận hành tựa như tảng đá; lối đi của bạn bị bít lại. Trị liệu
đương đầu, Trị liệu động thái và những cách trị liệu giống
thế, tất cả đều vận hành không ý thức dựa trên manipura.
Họ cố gắng khêu ra giận dữ của bạn, họ cố gắng khêu ra
ghen tị của bạn, tham lam của bạn; họ khêu ra hùng hổ của
bạn, bạo hành của bạn, để cho nó phình lên, tràn ra bề mặt.
Xã hội đã làm một việc: nó đã huấn luyện cho bạn kìm nén
mọi thứ tiêu cực và giả bộ mọi thứ đều tích cực. Bây giờ cả
hai điều đó đều nguy hiểm. Giả bộ tích cực là giả dối, đạo
đức giả, còn kìm nén những điều tiêu cực cũng nguy hiểm;
đó chính là chất độc, nó đầu độc hệ thống của bạn.
Mật tông nói: Bày tỏ điều tiêu cực và cho phép điều
tích cực. Nếu cơn giận đến, đừng kìm nén nó; nếu hùng hổ
đến, đừng kìm nén nó. Mật tông không nói rằng cứ xông
tới giết người. Nhưng Mật tông nói rằng có đến nghìn lẻ
một cách bày tỏ những xúc động bị kìm nén. Bạn có thể đi
ra vườn và chặt cây. Bạn đã từng xem người chặt cây chưa?
Họ trông im lặng hơn bất kì ai. Đã bao giờ bạn quan sát thợ
săn chưa? Thợ săn là người rất tốt. Họ làm những việc rất
dơ bẩn, nhưng họ là người tốt. Đôi điều xảy ra với họ trong
khi họ đang săn mồi. Giết được con vật, nỗi giận của họ,
hùng hổ của họ tiêu biến đi. Những người được coi như bất
bạo lực là người xấu xa nhất trên thế giới. Họ không phải là
người tốt bởi vì họ đang giữ núi lửa. Bạn không thể cảm
thấy thoải mái với họ, có cái gì nguy hiểm hiện diện đây
đó; bạn có thể cảm thấy điều đó, bạn có thể động chạm đến
điều đó, nó đang rỉ ra từ họ. Bạn chỉ có thể vào rừng và kêu
lên, gào lên. Trị liệu nguyên thuỷ chỉ là trị liệu la hét, trị
liệu theo cơn giận bùng nổ. Và Đương đầu, Nguyên thuỷ,
Động thái đều có ích rất lớn cho việc làm thảnh thơi
manipura.
Một khi manipura được thảnh thơi, sẽ phát sinh cân
bằng giữa tiêu cực và tích cực. Và khi tiêu cực và tích cực
đã được cân bằng, lối đi để mở; thế thì năng lượng có thể
chuyển lên cao hơn. Manipura là nam tính. Nếu manipura
bị bịt kín, năng lượng không thể đi lên được. Nó phải được
thảnh thơi.
Cân bằng Cực có thể có ích rất nhiều trong việc đem lại
sự cân bằng giữa tích cực và tiêu cực. Đó là lí do tại sao tôi
cho phép mọi loại phương pháp trên khắp thế giới trong
khu trại này. Mọi thứ có thể có ích đều nên được làm thành
sẵn có, vì con người đã bị làm hỏng đến mức mọi nguồn trợ
giúp đều nên có sẵn. Bạn thậm chí có thể không có khả
năng hiểu tại sao tôi làm mọi phương pháp thành sẵn có
cho bạn: Yoga, Mật tông, Đạo, Sufi, Jaina, Phật, Hindu,
Động thái, Kịch tâm lí, Đương đầu, Trị liệu nguyên thuỷ,
Cân bằng Cực, Rolffing, Tích hợp Cấu trúc - tại sao tôi làm
cho tất cả những thứ đó có sẵn cho bạn. Bạn chưa bao giờ
nghe nói đến những điều này đã được thực hiện trong bất kì
trại nào ở bất kì đâu tại Phương Đông. Có lí do cho việc đó:
con người đã bị làm hỏng đến mức mọi nguồn đều nên
được dùng tới. Trợ giúp nên được lấy ra từ mọi nguồn có
thể, chỉ thế thì mới có hi vọng. Bằng không con người sẽ bị
diệt vong.
Luân xa thứ tư là anahata. Hoài nghi là vấn đề với luân
xa thứ tư; nếu bạn là người hoài nghi, luân xa thứ tư của
bạn vẫn còn chưa khai mở. Tin cậy khai mở nó. Cho nên
bất kì cái gì tạo nên hoài nghi đều phá huỷ trái tim bạn - nó
là luân xa trái tim, anahata. Logic, bắt bẻ logic, biện luận,
quá nhiều luận giải, quá nhiều Aristotle trong bạn phá huỷ
anahata. Triết lí, hoài nghi phá huỷ anahata.
Nếu bạn muốn khai mở anahata bạn phải tin cậy nhiều
hơn nữa. Thơ ca còn có ích hơn triết lí, và trực giác có ích
hơn lập luận, cảm giác có ích hơn suy nghĩ. Cho nên bạn sẽ
phải dịch chuyển từ hoài nghi sang tin cậy, chỉ có như vậy
thì anahata của bạn mới trở nên khai mở, anahata của bạn
mới trở nên có khả năng đón nhận năng lượng nam tính từ
manipura. Anahata là nữ tính; với hoài nghi nó đóng lại,
với hoài nghi nó trở nên lạnh nhạt; với hoài nghi nó trở
thành khô héo; nó không thể nhận được năng lượng nam
tính. Với tin cậy nó mở ra, với tin cậy những lỗ nhỏ được lộ
ra trong luân xa đó và nó có thể cho phép năng lượng nam
tính được tràn vào.
Rồi đến luân xa thứ năm: vishuddha. Phi sáng tạo, bắt
chước, như vẹt, như khỉ - tất cả những điều đó làm hỏng.
Mới hôm nọ tôi đọc một giai thoại nhỏ...
Một học sinh được hỏi, "Có mười con vẹt đang đậu
trên hàng rào. Một con nhảy xuống và đi mất. Còn lại mấy
con?
Và đứa trẻ trả lời "Chẳng còn con nào."
Thầy giáo nói "Không còn con nào à? Chỉ có một con
bỏ đi thôi mà!"
Còn đứa trẻ thì nói "Chúng là vẹt. Khi một con nhảy đi
thì cả bọn cũng nhảy theo."
Vishuddha bị phá huỷ bởi sao chép. Đừng là kẻ bắt
chước, đừng chỉ là bản sao nguyên si. Bạn đừng cố trở
thành một Phật mà cũng đừng cố trở thành một Christ.
Nhận biết về những cuốn sách như cuốn sách của Thomas
ở Kemplis Bắt chước Christ - nhận biết đi. Không bắt
chước nào có ích cả. Vishuddha bị phá huỷ bởi không sáng
tạo, bởi bắt chước; và vishuddha được giúp đỡ bởi sáng tạo,
diễn đạt, tìm ra phong cách sống riêng của bạn, đủ dũng
cảm để 'làm điều riêng của bạn'. Nghệ thuật, hát, nhạc,
múa, phát minh - tất cả đều có ích. Nhưng mang tính phát
minh - bất cứ cái gì bạn làm, cố gắng làm nó theo cách
mới. Cố đem tính cá nhân nào đó vào trong nó, đem dấu
hiệu đích thực nào đó. Ngay cả lau nhà, bạn cũng có thể
làm nó theo cách riêng của mình; ngay cả nấu cơm, bạn
cũng có thể làm nó theo cách của mình. Bạn có thể đem
tính sáng tạo vào mọi thứ bạn làm; điều đó nên được đem
vào. Bởi vì bạn sáng tạo - tốt, vishuddha sẽ khai mở. Và
khi vishuddha khai mở, chỉ thế thì năng lượng mới chuyển
vào trong agya, trung tâm con mắt thứ ba, trung tâm thứ
sáu.
Đây là quá trình đó: trước hết lau sạch mọi trung tâm,
làm thuần khiết nó, nhận biết cái gì làm hỏng nó, và giúp
nó để cho nó trở nên vận hành tự nhiên. Các khối chắn bị
vứt bỏ thì năng lượng xô vào.
Bên ngoài luân xa thứ sáu là sahasrar, turiya, hoa sen
một nghìn cánh. Bạn nở hoa. Vâng, điều đó đích xác là như
vậy. Con người là cái cây: muladhar là gốc và sahasrar là
việc nở hoa của nó. Hoa đã nở, hương thơm của bạn thoảng
ra theo gió. Đó là lời nguyện duy nhất; đó là cúng dường
duy nhất dưới chân của điều thiêng liêng. Hoa vay mượn
không có tác dụng, hoa hái từ cây không có tác dụng; bạn
phải nở hoa và cúng dường hoa của mình.
Bây giờ đến lời kinh. Lời kinh thứ nhất:
Với thích thú của việc hôn niềm ao ước dối trá
mà tuyên bố nó là điều có thực tối thượng -
thì cũng tựa như người đàn ông rời khỏi nhà,
đứng tại cửa
yêu cầu người đàn bà nói lại khoái lạc nhục dục
Hôn là biểu tượng - biểu tượng cho bất kì sự gặp gỡ
nào giữa âm và dương, giữa nam tính và nữ tính, giữa
Shiva và Shakti. Dù bạn có đang cầm tay người đàn bà -
đây là hôn, tay hôn lẫn nhau - hay bạn chạm vào môi cô ấy
bằng môi mình, đó cũng là hôn; hay các bộ phận sinh dục
của bạn tiếp xúc nhau - đó nữa cũng là cái hôn. Cho nên
hôn là biểu tượng trong Mật tông cho mọi sự gặp gỡ của
các cực đối lập. Đôi khi bạn có thể hôn chỉ qua việc nhìn
người đàn bà. Nếu mắt bạn gặp và chạm vào ánh mắt người
kia, cuộc gặp gỡ đã xảy ra.
Với thích thú của việc hôn niềm ao ước dối trá
mà tuyên bố nó là điều có thực tối thượng
Saraha nói rằng những người bị lừa dối - những người
không tỉnh táo chút nào với điều họ đang - cứ thèm khát, bỏ
lỡ người kia: đàn ông, ham muốn và bỏ lỡ đàn bà; đàn bà
ham muốn và bỏ lỡ đàn ông. Họ liên tục thèm khát gặp
nhau - và cuộc gặp gỡ chẳng bao giờ xảy ra. Điều ngớ ngẩn
của viêc đó là thế này: bạn cứ thèm khát và thèm khát, ham
muốn và ham muốn, và chẳng có gì ngoài chán nản lọt vào
tay bạn. Saraha nói đây không phải là cuộc gặp gỡ thực sự
tối thượng. Cuộc gặp gỡ thực sự tối thượng là điều xảy ra
trong sahasrar. Một khi nó đã xảy ra, nó đã xảy ra mãi mãi.
Đó là điều thực. Cuộc gặp gỡ xảy ra bên ngoài là không
thực, tạm thời, khoảnh khắc, chỉ là ảo tưởng. Nó là:
... thì cũng tựa như người đàn ông rời khỏi nhà,
đứng tại cửa yêu cầu người đàn bà nói lại khoái
lạc nhục dục
Một ví von hay. Saraha nói rằng cầm tay người đàn bà
bên ngoài, trong khi người đàn bà bên trong vẫn đang đợi
được là của bạn và của bạn mãi mãi, thì cũng thì cũng tựa
như người đàn ông rời khỏi nhà, đứng tại cửa yêu cầu
người đàn bà nói lại khoái lạc nhục dục.
Trước hết: rời khỏi nhà... Bạn đang rời khỏi ngôi nhà
mình, cốt lõi bên trong nhất, để đi tìm người đàn bà bên
ngoài - còn người đàn bà ở bên trong. Bạn sẽ lỡ cô ấy dù
bạn đi đâu; bạn có thể đi cùng trời cuối đất săn đuổi mọi
loại đàn bà và đàn ông. Đó là ảo tưởng; đó chỉ là chuyện đi
tìm cầu vồng, chẳng có gì đến trong tay bạn cả. Người đàn
bà là ở bên trong, còn bạn đang rời khỏi ngôi nhà mình.
Và rồi: đứng tại cửa. Điều đó nữa cũng là biểu tượng.
Bạn bao giờ cũng đứng ở cửa, theo nghĩa giác quan - đó là
các cửa. Mắt là cửa, tay là cửa, bộ phận sinh dục là cửa, tai
là cửa - tất cả những cái đó đều là cửa; chúng ta bao giờ
cũng đứng tại cửa. Nhìn qua mắt, nghe qua tai, thử chạm
bằng tay, con người liên tục vẫn còn ở cửa và quên mất
cách đi vào trong nhà. Và thế rồi cái ngớ ngẩn của việc đó -
bạn không biết tình yêu là gì, rồi bạn hỏi người đàn bà về
thích thú, về kinh nghiệm của cô ấy. Bạn nghĩ rằng bằng
cách nghe kinh nghiệm cô ấy, bạn sẽ trở nên phúc lạc. Việc
ấy cũng như đang lấy thực đơn đồ ăn vậy.
Saraha nói rằng trước hết bạn đi ra khỏi bản thân mình
- đứng ở cửa - rồi bạn hỏi người khác niềm thích thú là gì,
cuộc sống là gì, vui vẻ là gì, Thượng đế là gì. Còn Thượng
đế thì mọi lúc đều chờ đợi bên trong bạn. Ngài cư ngụ bên
trong bạn ... mà bạn lại đi hỏi những người khác. Và bạn có
nghĩ rằng bằng cách nghe họ bạn sẽ đi đến hiểu biết gì
chăng?
Khích động của các lực sinh học trong ngôi nhà
không có gì làm nảy sinh nhân tạo hoan lạc theo
nhiều cách thức. Các nhà yoga ấy, từ cơn ngất
đau buồn, vì đã trượt khỏi chỗ hạnh phúc tuyệt
vời, bị dụ dỗ vào trong tật xấu.
Trước hết: dục không phải là điều tối thượng trong
hoan lạc, nó chỉ là cái bắt đầu, alpha, ABC về điều đó; nó
không phải là omega. Dục không phải là cái thực tối
thượng, nó không phải là phúc lạc tối cao, mà chỉ là tiếng
vọng của điều đó; sahasrar còn xa lắm. Khi trung tâm dục
của bạn cảm thấy chút ít sướng thì đấy mới chỉ là tiếng
vọng xa xôi của sahasrar. Bạn càng tới gần hơn với
sahasrar, bạn càng hạnh phúc hơn...
Khi bạn chuyển từ muladhar sang swadhishthan, bạn
cảm thấy hạnh phúc hơn - cuộc gặp gỡ đầu tiên của
muladhar và swadhishthan là vui vẻ lớn. Thế thì cuộc gặp
gỡ thứ hai lại là vui vẻ còn lớn hơn. Thế thì cuộc gặp gỡ
thứ ba... bạn không thể tin được rằng lại có thể có nhiều vui
vẻ hơn nữa, nhưng nhiều hơn nữa vẫn có thể có bởi vì bạn
vẫn còn ở xa - không phải rất xa mà vẫn còn ở xa - với
sahasrar. Sahasrar thì thật không thể tin nổi. Phúc lạc nhiều
đến độ bạn không còn nữa, chỉ còn mỗi phúc lạc. Phúc lạc
nhiều đến độ bạn không thể nói "tôi đang phúc lạc," được
nữa, bạn chỉ biết rằng bạn là phúc lạc.
Tại luân xa thứ bảy bạn chỉ còn là cơn chấn động vui
vẻ - tự nhiên thế. Hoan lạc xảy ra trong sahasrar và thế thì
nó phải đi qua sáu tầng. Nhiều thứ bị mất đi, đấy chỉ là
tiếng vọng. Nhận biết đi, đừng lầm tiếng vọng với cái thực.
Vâng, ngay cả trong tiếng vọng cũng có cái gì đó thực ở đó.
Tìm ra sợi chỉ của thực tại xuyên qua đó. Nắm bắt lấy sợi
chỉ đó và bắt đầu chuyển vào trong.
Khích động của các lực sinh học trong ngôi nhà
không có gì làm nảy sinh nhân tạo hoan lạc theo
nhiều cách thức.
Và bởi vì lừa dối này rằng dục trở thành hoan lạc tối
thượng, cho nên bao nhiêu điều nhân tạo đã trở thành rất
quan trọng. Tiền bạc đã trở thành rất quan trọng bởi vì bạn
có thể mua mọi thứ bằng tiền, bạn có thể mua cả dục nữa...
Quyền lực đã trở thành quan trọng bởi vì thông qua quyền
lực bạn có thể thu được nhiều dục theo ý muốn; người
nghèo không thể đảm đương được điều đó. Vua thường có
tới hàng nghìn vợ - cho dù ở thế kỉ hai mươi này, vua
Nizam của Hyderabad có năm trăm vợ. Một cách tự nhiên,
người có quyền lực có thể có bao nhiêu dục tuỳ ý. Do lừa
dối này mà dục thành cái thực tối thượng, hàng nghìn vấn
đề khác nảy sinh: tiền bạc, quyền lực, danh vọng.
Khích động của các lực sinh học trong ngôi nhà không
có gì... Đấy chỉ là tưởng tượng... đấy chỉ là tưởng tượng mà
bạn đang nghĩ đó là hoan lạc. Đấy là tự thôi miên, tự gợi ý.
Và một khi bạn tự gợi ý cho chính mình thì nó lại tựa như
hoan lạc. Nghĩ xem: cầm tay người đàn bà, và bạn cảm
thấy hoan lạc thế... đấy chỉ là tự thôi miên, đấy chỉ là ý
tưởng của tâm trí.
Khích động của các lực sinh học... Bởi ý tưởng này mà
năng lượng sinh học của bạn bị khuấy động. Đôi khi nó bị
khuấy động khi bạn xem tranh khiêu dâm trong tạp chí
Playboy; chẳng có ai ở đó cả, chỉ có đường nét và mầu sắc
- và năng lượng của bạn bị khuấy động lên. Đôi khi chỉ một
ý tưởng trong tâm trí mà năng lượng của bạn có thể bị
khuấy động. Năng lượng tuôn theo tưởng tượng.
Khích động của các lực sinh học trong ngôi nhà không
có gì... bạn có thể tạo ra các mơ mộng, bạn có thể phóng
chiếu các giấc mơ lên màn ảnh của cái không... làm nảy
sinh nhân tạo hoan lạc theo nhiều cách thức.
Nếu bạn quan sát bệnh tật của con người bạn sẽ buồn
cười: người ta có các ý tưởng mà bạn không thể nào tin
được rằng điều này đang xảy ra. Người đàn ông nào đó
không thể làm tình với người đàn bà của mình trừ phi
người đó nhìn vào bức tranh khiêu dâm trước. Cái thực
dường như ít thực hơn là cái giả; người đó trở nên kích
động chỉ qua điều giả. Bạn chưa từng thấy điều đó lặp đi
lặp lại trong cuộc sống mình đó sao - rằng cái thực dường
như kém kích động hơn cái giả?
Rushma đang ngồi kia. Cô ấy tới từ Nairobi. Hôm nọ
cô ấy hỏi: "Tôi khao khát thầy, thưa Osho, nhiều thế ở
Nairobi. Tôi mơ về thầy, tôi tưởng tượng về thầy... và tôi
đã đến đây từ nơi xa xôi ấy. Còn bây giờ trái tim tôi không
còn xao xuyến theo cách đó nữa. Điều gì đã xảy ra vậy?"
Chẳng có gì xảy ra cả, chỉ là chúng ta đang yêu điều tưởng
tượng nhiều hơn là yêu điều có thực. Cái không thực đã trở
nên thực hơn. Cho nên ở Nairobi bạn có Osho 'của bạn' -
đấy là tưởng tượng của bạn, tôi chẳng có liên quan gì với
nó cả, đấy là ý tưởng của bạn. Nhưng khi bạn đến với tôi,
tôi đang ở đây... và thế rồi bỗng nhiên ý nghĩ tưởng tượng
của bạn không còn có liên quan nữa. Bạn đến với ước mơ
trong tâm trí bạn; thực tại của tôi sẽ phá huỷ ước mơ đó.
Nhớ thay đổi tâm thức của bạn từ tưởng tượng sang
hiện thực. Bao giờ cũng lắng nghe hiện thực. Chừng nào
mà bạn còn chưa rất, rất tỉnh táo thì bạn sẽ vẫn còn trong
bẫy của điều tưởng tượng.
Điều tưởng tượng dường như rất thoả mãn bởi nhiều lí
do. Nó nằm dưới kiểm soát của bạn. Bạn có thể làm cho
mũi của Osho dài như bạn muốn - trong tưởng tượng của
bạn ấy. Bạn có thể nghĩ bất kì điều gì bạn muốn nghĩ;
chẳng ai có thể cản trở nó, chẳng ai có thể đi vào trong
tưởng tượng của bạn, bạn hoàn toàn tự do. Bạn có thể vẽ tôi
như bạn muốn, bạn có thể hình dung về tôi, bạn có thể
trông đợi...bạn có thể làm bất kì cái gì bạn muốn về tôi, bạn
tự do; bản ngã cảm thấy rất thoải mái.
Đó là lí do tại sao khi thầy qua đời, thầy có nhiều đệ tử
hơn khi thầy còn sống. Với bậc thầy đã qua đời, đệ tử hoàn
toàn thoải mái; với thầy còn sống, họ gặp khó khăn. Phật
chưa bao giờ có nhiều đệ tử như ông ấy có hiện nay, sau
hai mươi nhăm thế kỉ. Jesus chỉ có mười hai đệ tử - bây giờ
thì nửa quả đất. Nhìn vào tác động của bậc thầy vắng mặt
đi: bây giờ Jesus là trong tay bạn, bạn có thể làm bất kì cái
gì bạn muốn làm với ông ấy. Ông ấy không còn sống nữa,
ông ấy không thể phá huỷ mơ mộng và tưởng tượng của
bạn. Nếu cái gọi là những người Ki tô giáo được thấy Jesus
thật, tim họ sẽ ngừng xao xuyến lập tức. Sao vậy? - bởi vì
họ sẽ không tin. Họ đã mường tượng mọi điều, còn Jesus là
người thật. Bạn có thể tìm thấy ông ấy trong tiệm rượu,
đang uống rượu với bạn bè và tán gẫu. Bây giờ điều này
chẳng có vẻ gì giống như 'đứa con duy nhất của Thượng
đế', điều đó có vẻ quá tầm thường. Có thể ông ấy chỉ là đứa
con của ông thợ mộc Joseph... Nhưng một khi Jesus đã qua
rồi, ông ấy không thể can thiệp vào tưởng tượng của bạn
được nữa. Thế thì bạn có thể hoạ và vẽ rồi tạo ra hình ảnh
về ông ấy theo ý bạn thích.
Xa xôi dễ dàng hơn - tưởng tượng có đầy quyền năng.
Bạn càng tới gần tôi thì tưởng tượng của bạn càng ít quyền
năng hơn. Và bạn sẽ chẳng bao giờ có thể thấy được tôi
chừng nào bạn còn chưa vứt bỏ được tưởng tượng của bạn.
Cho nên đấy cũng là trường hợp xảy ra đối với tất cả những
hoan lạc khác.
Khích động của các lực sinh học trong ngôi nhà
không có gì làm nảy sinh nhân tạo hoan lạc theo
nhiều cách thức.
Các nhà yoga ấy, từ cơn ngất đau buồn, vì đã trượt
khỏi chỗ hạnh phúc tuyệt vời, bị dụ dỗ vào trong tật
xấu.
Nếu bạn tưởng tượng quá nhiều, bạn sẽ làm mất chỗ
hạnh phúc tuyệt vời của mình. Tưởng tượng là luân hồi,
tưởng tượng là mơ mộng của bạn. Nếu bạn mơ mộng quá
nhiều, bạn sẽ đánh mất chỗ hạnh phúc tuyệt vời của mình,
bạn sẽ đánh mất điều thần thánh, bạn sẽ không thể là con
người có ý thức được. Tưởng tượng sẽ tác động tới bạn, nó
sẽ đè nặng bạn, bạn sẽ bị lạc trong tưởng tượng. Bạn có thể
ngất ngây trong tưởng tượng và bạn có thể nghĩ rằng đấy là
samadhi. Có những người ngất ngây và rồi họ nghĩ họ đang
trong samadhi. Phật đã gọi samadhi đó là 'samadhi giả’.
Cho nên Saraha nói: Đấy là samadhi giả. Hình dung về
Thượng đế, đi vào trong tưởng tượng của bạn, nuôi dưỡng
tưởng tượng của bạn, vun đắp cho nó ngày một nhiều,
tưởng tượng thêm nữa - bạn sẽ ngất ngây, bạn sẽ mất mọi ý
thức; bạn sẽ có những mơ mộng đẹp do chính bạn tạo ra.
Nhưng đấy là sa ngã từ chỗ hạnh phúc tuyệt vời. Và
Saraha nói rằng đấy là tật xấu duy nhất: sa ngã khỏi thuần
khiết của nhận biết của bạn. Ông ấy định nói gì về 'chỗ
hạnh phúc tuyệt vời'? Đấy là chỗ không có mơ mộng. Mơ
mộng là thế giới này; không mơ mộng bạn trong niết bàn.
Như một brahmin, người với cơm và bơ
tạo ra vật thiêu cúng tế trong ngọn lửa sáng chói,
tạo ra bình nước cam lồ từ chỗ hạnh phúc tuyệt vời,
coi điều này, qua suy nghĩ ước ao là điều tối thượng.
Ở Ấn Độ, người brahmin đã từng làm yagnas. Họ đã
từng cúng dường cơm và bơ cho ngọn lửa, ngọn lửa chói
sáng, và tưởng tượng rằng đồ cúng dường này dâng cho
Thượng đế. Ngồi quanh ngọn lửa, nhịn ăn nhiều ngày, thực
hiện một số nghi lễ, một số mật chú, lặp lại một số kinh
sách, bạn có thể tạo ra trạng thái tự thôi miên. Bạn có thể tự
dối mình và bạn có thể nghĩ rằng bạn đang đạt tới Thượng
đế.
Saraha nói: Những người thực sự muốn đi vào Thượng
đế, họ sẽ phải đốt lên ngọn lửa bên trong của mình; ngọn
lửa bên ngoài chẳng có tác dụng. Và những người thực sự
muốn đạt tới, họ sẽ phải thiêu đốt hạt mầm ham muốn riêng
của mình; gạo chẳng có tác dụng. Và những người thực sự
muốn đạt tới, họ sẽ phải thiêu đốt bản ngã của mình; bơ
chẳng có tác dụng gì. Bơ chỉ là phần tinh tuý nhất của sữa,
phần được làm thuần khiết nhất của sữa. Cũng vậy bản ngã
là giấc mơ được làm thuần khiết nhất; nó là ghee, bơ thuần
khiết. Cúng dường ghee cho ngọn lửa chẳng ích gì. Bạn
phải đốt lên ngọn lửa bên trong của mình.
Và năng lượng dục đi lên trở thành lửa, nó trở thành
ngọn lửa. Nó là lửa! Ngay cả khi nó đi ra ngoài thì nó cũng
đem sự sinh nở cho cuộc đời; năng lượng dục là điều kì
diệu nhất. Chính qua năng lượng dục mà cuộc sống được
sinh ra. Cuộc sống là lửa, nó là chức năng của lửa; không
có lửa cuộc sống không thể tồn tại. Không có mặt trời sẽ
không có cây cối, không con người, không chim chóc,
không muông thú. Nó là ngọn lửa đã được biến đổi để trở
thành cuộc sống.
Trong khi làm tình với người đàn bà, ngọn lửa đi ra.
Trong khi chuyển vào trong, ngọn lửa đi vào trong. Và khi
bạn ném những hạt mầm ham muốn, hạt mầm ý nghĩ, hạt
mầm tham vọng, hạt mầm tham lam vào trong ngọn lửa
này, chúng bị đốt cháy. Và thế rồi, cuối cùng bạn ném bản
ngã của mình - giấc mơ thuần khiết nhất; cái đó nữa cũng
bị thiêu cháy. Đây mới thực là yagna, nghi lễ thực, hi sinh
thực.
Như một brahmin, người với cơm và bơ
tạo ra vật thiêu cúng tế trong ngọn lửa sáng chói,
tạo ra bình nước cam lồ từ chỗ hạnh phúc tuyệt vời,
coi điều này, qua suy nghĩ ước ao là điều tối thượng.
Và người đó nghĩ, thông qua suy nghĩ ước ao, rằng đây
là điều tối thượng. Người đàn ông đang làm tình với người
đàn bà và nghĩ rằng đấy là điều tối thượng thì chính là đang
ném vào ngọn lửa bên ngoài theo đúng cùng cách thức;
người đó đang rót cái gì đó ra ngoài. Và người đàn bà cũng
vậy, người nghĩ cô ta đang làm tình hay đang đi vào chỗ
phúc lạc và ích lợi lớn lao chỉ bởi việc làm tình với người
đàn ông, chính là đang ném ngọn lửa của cô ta ra.
Ngọn lửa phải chuyển vào trong, thế thì nó cho bạn tái
sinh, nó làm trẻ lại bạn.
Một số người đã nhóm lên sức nóng bên trong
và nâng nó lên đỉnh đầu,
lấy lưỡi mơn trớn cuống họng theo kiểu giao hoan
và lầm điều trói buộc với cái đem lại giải thoát,
vẫn tự hào tự gọi mình là nhà yoga.
Và một điều rất quan trọng... Giống như tôi đã giải
thích cho bạn về bản đồ, bạn phải nhớ rằng vishuddha, luân
xa thứ năm, là ở cổ họng. Vishuddha, luân xa cổ họng, là
điểm cuối cùng từ đó bạn có thể rơi trở lại. Cho tới điểm đó
vẫn còn có khả năng rơi trở lại. Khi đạt tới luân xa thứ sáu,
con mắt thứ ba, không còn khả năng rơi trở lại nữa. Bạn đã
vượt ra ngoài điểm mà người ta có thể quay lại được. Điểm
không quay lại nữa là con mắt thứ ba. Nếu bạn chết tại
trung tâm con mắt thứ ba, bạn sẽ được sinh ra tại trung tâm
con mắt thứ ba. Nếu bạn chết tại sahasrar, bạn sẽ không
được sinh ra nữa. Nhưng nếu bạn chết tại vishuddha, bạn sẽ
trượt trở lại luân xa thứ nhất, muladhar. Trong kiếp sau bạn
sẽ phải bắt đầu lại từ muladhar.
Cho nên đến luân xa thứ năm vẫn còn không chắc
chắn; có hứa hẹn, nhưng không chắc chắn. Cho tới luân xa
thứ năm có mọi khả năng rơi trở lại. Và một trong những
khả năng lớn nhất đã giúp cho nhiều người ở Ấn Độ rơi trở
lại là bởi vì, theo lời kinh này nói:
Một số người đã nhóm lên sức nóng bên trong
và nâng nó lên đỉnh đầu,
Bạn có thể tạo ra sức nóng bên trong - ngọn lửa bắt đầu
chuyển lên và nó tới cổ họng; thế thì nảy sinh ham muốn
lớn mơn trớn họng bằng lưỡi. Nhận biết về điều đó đi. Ở
Ấn Độ người ta đã phát minh ra một kĩ thuật lớn để mơn
trớn nó bằng lưỡi. Họ thậm chí còn cắt cuống lưỡi để cho
lưỡi dài hơn và có thể dễ dàng chuyển lùi vào trong - bạn sẽ
thấy nhiều nhà yoga làm điều đó. Lưỡi có thể chuyển lùi
vào trong và nó có thể mơn trớn trung tâm thứ năm. Việc
mơn trớn đó là một loại thủ dâm bởi vì năng lượng dục đã
lên đến đó.
Như tôi đã nói với bạn, trung tâm thứ năm, vishuddha,
là nam tính. Khi năng lượng nam tính lên đến cổ họng thì
họng bạn trở thành gần như cơ quan sinh dục - có cao cấp
hơn, có tinh vi hơn cơ quan sinh dục thường. Chỉ cần một
chút mơn trớn bằng lưỡi và bạn rất khoái cảm. Nhưng đó là
thủ dâm, và một khi bạn bắt đầu làm điều ấy... và nó tạo ra
rất, rất nhiều hoan lạc thì dục không sao so sánh được với
nó. Nhớ điều ấy: dục chẳng là cái gì khi so sánh với nó.
Mơn trớn bằng lưỡi bạn... bạn có thể thích thú lắm lắm.
Cho nên trong Yoga có những phương pháp...
Saraha làm điều này rõ ràng mà chưa người mật tông
nào làm được như thế. Đấy là lừa dối và là sai lầm lớn bởi
vì năng lượng đã lên tới trung tâm thứ năm, và bây giờ ham
muốn lại nảy sinh để mơn trớn nó - đó là ham muốn cuối
cùng. Nếu bạn có thể giữ cho mình tỉnh táo và có thể vượt
ra ngoài ham muốn đó, bạn sẽ đạt tới trung tâm thứ sáu,
ayga; bằng không, bạn sẽ bắt đầu rơi trở lại. Đấy là quyến
rũ cuối cùng. Trong thực tế, trong Mật tông đấy là quyến rũ
mà bạn có thể nói rằng Jesus gặp khi quỉ Satan đến và
quyến rũ ông ấy, hay Phật đã gặp khi ma vương đến quyến
rũ ông ấy. Đây là quyến rũ cuối cùng, nỗ lực cuối cùng của
tâm trí-ham muốn của bạn, nỗ lực cuối cùng của thế giới
mơ mộng của bạn, nỗ lực cuối cùng của bản ngã trước khi
bị mất hoàn toàn. Nó tạo ra nỗ lực cuối cùng để quyến rũ
bạn. Và quyến rũ này thực sự lớn: rất khó tránh được nó.
Nó hoan lạc làm sao, còn hoan lạc hơn vô hạn lần so với
hoan lạc dục.
Khi người ta nghĩ rằng hoan lạc dục là tối thượng, làm
sao nói được về hoan lạc này? Mà nó chẳng mất năng
lượng gì. Trong dục bạn phải mất năng lượng; bạn cảm
thấy chán nản, mệt mỏi, yếu đi. Nhưng nếu bạn mơn trớn
năng lượng dục khi nó lên đến cổ họng thì chẳng mất năng
lượng gì. Và bạn có thể liên tục mơn trớn cả ngày - đó là
điều Delgado đã đạt tới qua những thiết bị máy móc.
Một số người đã nhóm lên sức nóng bên trong
và nâng nó lên đỉnh đầu,
lấy lưỡi mơn trớn cuống họng theo kiểu giao hoan
và lầm điều trói buộc với cái đem lại giải thoát...
Đây lại là luân hồi... rơi lại trong luân hồi.
...và lầm điều trói buộc với cái đem lại giải thoát,
vẫn tự hào tự gọi mình là nhà yoga.
Nhưng họ không phải là nhà yoga, họ đã lỡ. Trong thực
tế từ đúng dành cho họ là yogabrashta, giả yoga, 'người đã
sa ngã từ Yoga'.
Trung tâm thứ năm là trung tâm nguy hiểm nhất. Bạn
không thể mơn trớn bất kì trung tâm nào khác - đó là nguy
hiểm của nó. Bạn không thể mơn trớn swadhishthan, bạn
không thể mơn trớn manipura, bạn không thể mơn trớn
anahata; chúng ở bên ngoài bạn, không có cách nào đạt tới
chúng và mơn trớn chúng. Bạn không thể mơn trớn con
mắt thứ ba. Điểm duy nhất có thể mơn trớn được là
vishuddha, trung tâm cổ họng, bởi vì nó có sẵn. Miệng mở,
nó có sẵn và cách dễ nhất là quay lưỡi lùi vào và mơn trớn
nó. Trong các luận thuyết Yoga bạn sẽ thấy nó được mô tả
như cái gì lớn lao; không phải vậy đâu, nhận biết về nó đi.
Đây là bản đồ bên trong của thuật luyện kim đan Mật
tông. Năng lượng có thể bắt đầu chuyển vận bất kì lúc nào;
bạn chỉ phải đem vào việc làm tình của mình một chút
thiền, một chút hướng nội. Mật tông không chống lại làm
tình, nhớ lấy; cứ để cho việc đó được lặp đi lặp lại. Mật
tông ủng hộ việc đó, nhưng cũng không chỉ ủng hộ nó; đó
mới chỉ là bậc đầu tiên của chiếc thang, chiếc thang có bảy
bậc.
Con người là chiếc thang. Bậc thang đầu tiên là dục và
bậc thang thứ bảy là sahasrar - samadhi. Bậc đầu tiên gắn
bạn với luân hồi, với thế giới, còn bậc thang thứ bảy nối
bạn với niết bàn, với cõi bên kia. Với bậc thang đầu tiên,
bạn chuyển vào vòng sinh tử luẩn quẩn lặp đi lặp lại; nó cứ
thế lặp. Với bậc thang thứ bảy, bạn vượt ra ngoài sinh tử.
Cuộc sống vĩnh hằng là của bạn - vương quốc của Thượng
đế.
Đủ cho hôm nay.
************************************************************
#2 Tự do có giá trị hơn
Điều gì xảy ra cho tình yêu nếu không ai
thừa nhận nó?
Thầy là ai nếu không có đệ tử?
Tôi không đi đâu cả.
Tại sao lại phải cần tới bản đồ?
Đang ở đây bây giờ chẳng đủ sao?
Tôi yêu chồng nhưng ghét dục.
Dục có phải là thú tính không?
'Đừng hỏi,
hãy tự tìm lấy chính mình.'
Tiếng nói này từ đâu tới?
#2Câu hỏi thứ nhất:
Osho kính yêu, tình yêu trong tôi phụ thuộc
vào thế giới bên ngoài. Đồng thời tôi thấy
điều thầy nói về việc phải hoàn toàn ở bên
trong. Điều gì xảy ra cho tình yêu nếu không
có gì và không có ai thừa nhận và nếm trải
nó? Thầy là ai nếu không có đệ tử?
Điều đầu tiên: Có hai loại tình yêu... C.S. Lewis đã chia
tình yêu thành hai loại: "tình yêu-nhu cầu" và "tình yêu-ban
tặng". Abraham Maslow cũng chia tình yêu thành hai loại.
Loại thứ nhất ông ấy gọi là "tình yêu-khiếm khuyết" và loại
thứ hai ông ấy gọi là "tình yêu-hiện hữu". Phân biệt này là
có ý nghĩa và cần phải được hiểu.
Tình yêu-nhu cầu hay tình yêu-khiếm khuyết phụ thuộc
vào người khác; nó là tình yêu non nớt. Trong thực tế nó
không phải là tình yêu thực sự, nó là nhu cầu. Bạn sử dụng
người khác, bạn dùng người khác như phương tiện; bạn
khai thác, bạn thao túng, bạn chi phối. Nhưng người khác
bị thu lại, người khác gần như bị phá huỷ. Và đích xác cũng
điều này được người kia thực hiện. Người đó cố gắng thao
túng bạn, chi phối bạn, sở hữu bạn, sử dụng bạn. Việc dùng
người khác thật là điều rất phi tình nghĩa, cho nên nó chỉ có
vẻ giống tình yêu; nó là đồng tiền giả. Nhưng đây là điều
xảy ra cho gần chín mươi chín phần trăm mọi người, bởi vì
bài học đầu tiên về tình yêu mà bạn học được là trong tuổi
thơ của mình.
Đứa trẻ được sinh ra, nó phụ thuộc vào người mẹ. Tình
yêu của nó hướng về người mẹ là tình yêu-khiếm khuyết:
nó cần người mẹ, nó không thể tồn tại nếu không có mẹ.
Nó yêu mẹ bởi vì mẹ là cuộc sống của nó. Trong thực tế,
không có tình yêu, nó sẽ yêu bất kì người đàn bà nào - bất
kì ai bảo vệ nó, bất kì ai giúp nó tồn tại, bất kì ai đáp ứng
cho nhu cầu của nó. Người mẹ là một loại thức ăn mà nó
ăn. Nó không chỉ nhận sữa từ người mẹ, nó còn nhận cả
tình yêu nữa - và đó cũng là một nhu cầu.
Hàng triệu người vẫn còn ngây thơ trong các kiếp sống
của mình, họ chưa bao giờ trưởng thành. Họ lớn về tuổi tác,
nhưng họ chẳng bao giờ trưởng thành trong tâm trí mình;
tâm lí của họ vẫn còn hoang sơ, chưa chín chắn. Họ bao giờ
cũng cần tình yêu, họ khao khát tình yêu như thức ăn.
Con người trở nên chín chắn vào lúc người đó bắt đầu
yêu thay vì cần. Người đó bắt đầu tràn trề, chia sẻ; người
đó bắt đầu cho. Nhấn mạnh là hoàn toàn khác biệt. Với loại
tình yêu đầu, nhấn mạnh nhằm vào cách để được nhiều
hơn. Với loại tình yêu thứ hai, nhấn mạnh nhằm vào cách
cho - làm sao cho nhiều hơn và làm sao cho không điều
kiện. Đây là trưởng thành, chín chắn, xảy đến cho bạn.
Người chín chắn cho. Chỉ người chín chắn mới có thể
cho được, bởi vì chỉ người chín chắn mới có điều đó. Thế
thì tình yêu là không phụ thuộc, thế thì bạn có thể yêu dù
có người kia hay không. Thế thì tình yêu không phải là
quan hệ, nó là trạng thái.
Điều gì sẽ xảy ra nếu mọi đệ tử biến mất và chỉ còn
mình tôi ở đây? Bạn nghĩ sẽ có gì thay đổi ư? Điều gì xảy
ra khi một bông hoa nở trong rừng sâu mà không có ai tán
thưởng nó, không ai biết đến hương thơm của nó, không ai
buông ra lời bình luận và nói "đẹp lắm"; không ai thưởng
thức cái đẹp của nó, vui vẻ của nó, không ai chia sẻ - điều
gì xảy ra cho bông hoa đó? Nó chết ư? Nó đau khổ ư? Nó
trở nên hoang mang ư? Nó tự tử ư? Nó vẫn tiếp tục nở hoa
đấy, nó đơn giản cứ nở hoa. Nó đâu có phân biệt gì; dù có
ai đó đi qua hay không cũng chẳng can hệ gì. Nó vẫn cứ lan
toả hương thơm theo gió, nó cứ cúng dường vui vẻ của
mình cho Thượng đế, cho cái toàn thể.
Nếu tôi một mình, thế nữa tôi cũng sẽ yêu như khi tôi
đang ở cùng bạn. Không phải bạn là người tạo ra tình yêu
của tôi. Nếu bạn tạo ra tình yêu của tôi thì một cách tự
nhiên, khi bạn ra đi, tình yêu của tôi cũng sẽ ra đi. Bạn
không kéo tình yêu của tôi ra mà tôi đang trút nó lên bạn:
đó là tình yêu ban tặng, đó là tình yêu hiện hữu.
Và tôi cũng không thực sự đồng ý với C.S. Lewis và
Abraham Maslow bởi vì tình yêu đầu tiên mà họ gọi là
"tình yêu" thì lại không phải là tình yêu, nó là nhu cầu.
Làm sao nhu cầu lại có thể là tình yêu được? Tình yêu là
thứ xa hoa. Nó là thừa thãi, nó có nhiều cuộc sống đến độ
bạn không biết phải làm gì với nó, cho nên bạn chia sẻ. Nó
có nhiều bài ca trong lòng bạn đến mức bạn phải hát chúng
lên; dù có ai lắng nghe hay không cũng chẳng quan hệ gì.
Nếu không ai nghe, thế thì bạn cũng vẫn cứ phải hát nó,
bạn vẫn cứ phải nhảy điệu vũ của mình.
Người khác có thể được nó, người khác có thể bỏ lỡ nó,
nhưng khi có liên quan tới bạn thì nó vẫn tuôn chảy, nó vẫn
tràn ngập. Dòng sông đâu chảy vì bạn, chúng vẫn chảy dù
bạn có đó hay không. Chúng không chảy vì cơn khát của
bạn, chúng không chảy vì cánh đồng khô hạn của bạn;
chúng đơn giản chảy ở đó. Bạn có thể làm dịu cơn khát của
mình, bạn có thể lỡ, điều đó tuỳ vào bạn. Dòng sông không
thực sự chảy vì bạn, dòng sông chỉ chảy thôi. Ngẫu nhiên
bạn có thể lấy nước tưới cho cánh đồng, ngẫu nhiên bạn có
thể lấy được nước cho nhu cầu của mình.
Thầy là dòng sông, đệ tử là ngẫu nhiên. Thầy tuôn
chảy; bạn có thể dự phần, bạn có thể tận hưởng, bạn có thể
chia sẻ hiện hữu của thầy. Bạn có thể được tràn ngập bởi
thầy, nhưng thầy không dành cho bạn; thầy không tuôn
chảy cho bạn nói riêng, thầy đơn giản tuôn chảy. Nhớ lấy
điều này. Và điều này tôi gọi là tình yêu chín chắn, tình yêu
thực sự, tình yêu đích thực, tình yêu đúng đắn.
Khi bạn phụ thuộc vào người khác, bao giờ cũng khổ.
Khoảnh khắc bạn phụ thuộc, bạn bắt đầu cảm thấy khổ, bởi
vì phụ thuộc là nô lệ. Thế rồi bạn bắt đầu trả thù theo cách
tinh tế, bởi vì người bạn phải phụ thuộc vào đã trở thành có
quyền trên bạn. Không ai thích bất kì ai có quyền trên
mình, không ai muốn bị phụ thuộc, bởi vì phụ thuộc giết
chết tự do. Và tình yêu không thể nở hoa trong phụ thuộc
được, tình yêu là hoa của tự do; nó cần không gian, nó cần
không gian tuyệt đối. Người khác phải không được can
thiệp vào đó. Đấy là điều rất tế nhị.
Khi bạn phụ thuộc, chắc chắn người kia sẽ chi phối
bạn, và bạn sẽ cố chi phối người kia. Đó là tranh đấu cứ
diễn ra giữa cái gọi là những người yêu nhau: họ là những
kẻ thù thân thiết, liên tục đánh nhau. Chồng và vợ - họ
đang làm gì? Yêu thương rất hiếm hoi, đánh nhau là qui
tắc; yêu thương là ngoại lệ. Và họ cố chi phối nhau bằng đủ
mọi cách; ngay cả qua tình yêu họ cũng cố chi phối. Nếu
chồng đòi hỏi vợ, vợ từ chối, cô ấy bị miễn cưỡng, cô ấy rất
khổ sở. Cô ấy cho, nhưng rất miễn cưỡng; cô ấy muốn bạn
vẫy đuôi quanh cô ấy. Và điều cũng tương tự xảy ra cho
chồng. Khi vợ thấy cần và đòi hỏi chồng, chồng nói rằng
anh ta mệt. Có quá nhiều việc ở văn phòng - "thực sự quá
tải" - và anh ta muốn đi ngủ.
Tôi đã đọc bức thư do Mulla Nasruddin viết cho vợ.
Nghe xem...
Gửi người vợ yêu mến vô cùng của anh,
Trong năm qua anh đã thử làm tình với em 365 lần,
trung bình một lần một ngày, và sau đây là danh sách các lí
do em nêu ra để bác bỏ anh:
Sai tuần, 11 lần
Làm trẻ con thức giấc, 7 lần
Trời nóng quá, 15 lần
Trời lạnh quá, 3 lần
Quá mệt, 19 lần
Quá muộn, 16 lần
Quá sớm, 9 lần
Giả vờ ngủ, 33 lần
Cửa sổ mở, hàng xóm có thể nghe thấy, 3 lần
Đau lưng, 16 lần
Đau răng, 2 lần
Đau đầu, 6 lần
Không trong tâm trạng, 31 lần
Trẻ con quấy, có thể khóc, 18 lần
Xem phim muộn, 15 lần
Bùn bẩn, 8 lần
Mỡ trên mặt, 4 lần
Quá say, 7 lần
Quên đến hiệu hoá dược, 10 lần
Khách thăm ngủ phòng bên, 7 lần
Tóc mới làm, 28 lần
"Đấy là tất cả những gì anh nghĩ tới ư?", 62 lần
Em thân yêu, em có nghĩ rằng chúng ta có thể cải thiện
bản danh sách này cho năm sau không?
Chồng thân yêu của em,
Mulla Nasruddin
Có nhiều cách thao túng, nhiều cách làm cho người
khác phải khao khát - để làm cho người đó càng ngày càng
đói hơn đến mức người đó trở thành ngày càng bị phụ
thuộc.
Một cách tự nhiên, đàn bà thường có khả năng ngoại
giao về phụ thuộc này hơn đàn ông, bởi vì đàn ông vốn đã
có quyền. Anh ta không cần tìm những cách thức tinh tế và
tinh ranh để có quyền, anh ta đã có quyền rồi. Anh ta quản
lí tiền bạc - đó là quyền của anh ta. Anh ta khoẻ hơn về sức
vóc - đó là quyền của anh ta. Suốt trong nhiều thế kỉ anh ta
đã huấn luyện tâm trí của đàn bà rằng anh ta có quyền hơn
và cô ấy không có quyền. Trong mọi cách thức anh ta bao
giờ cũng cố tìm ra người đàn bà bao giờ cũng kém hơn anh
ta. Đàn ông không muốn lấy đàn bà có giáo dục hơn anh ta,
bởi vì thế thì quyền lực bị lâm nguy. Anh ta không muốn
lấy đàn bà cao hơn mình, bởi vì đàn bà cao có vẻ hơn anh
ta. Đàn ông không muốn lấy đàn bà quá nhiều trí tuệ, vì thế
thì cô ấy sẽ tranh cãi, và luận cứ thì có thể phá huỷ quyền
lực. Đàn ông không muốn lấy đàn bà rất nổi tiếng, vì thế thì
anh ta sẽ trở thành thứ yếu. Và suốt trong nhiều thế kỉ đàn
ông bao giờ cũng tìm đàn bà trẻ hơn anh ta. Tại sao? - tại
sao vợ không thể già hơn bạn? Cái gì sai đây? Nhưng
người đàn bà già hơn bạn sẽ nhiều kinh nghiệm hơn; điều
đó phá huỷ quyền thế.
Cho nên đàn ông bao giờ cũng đi tìm đàn bà kém hơn,
kém hơn theo mọi cách. Đó là lí do tại sao đàn bà bị mất
chiều cao. Không có lí do nào cho họ để phải thấp bé hơn
đàn ông, không có một chút lí do nào cả; họ phải mất chiều
cao chỉ bởi vì đàn bà nhỏ hơn bao giờ cũng được đàn ông
chọn lựa. Dần dà mọi thứ ăn sâu vào tâm trí họ đến mức họ
mất chiều cao. Họ mất cả trí thông minh bởi vì đàn bà
thông minh không được cần tới; đàn bà thông minh là điều
kì dị. Bạn sẽ ngạc nhiên khi biết rằng trong thế kỉ này chiều
cao của họ đang tăng lại. Và bạn sẽ ngạc nhiên ... ngay cả
xương của họ cũng trở nên lớn hơn, bộ khung xương của
họ đang trở nên lớn hơn. Mới chỉ có trong vòng năm chục
năm nay ... đặc biệt là ở Mĩ. Còn trí óc của họ cũng phát
triển và trở nên lớn hơn nó thường thế; xương sọ của họ
đang trở nên to dần ra. Với ý tưởng tự do, ước định sâu sắc
nào đó đã bị phá bỏ.
Đàn ông có quyền cho nên anh ta không cần phải rất
láu lỉnh, không cần phải rất quanh co. Đàn bà không có
quyền. Khi bạn không có quyền, bạn phải ngoại giao hơn -
đó là thay thế. Cách duy nhất họ có thể cảm thấy quyền thế
là họ được cần tới, là ở chỗ đàn ông liên tục cần họ. Đây
không phải là tình yêu, đây là mặc cả. Và họ vẫn đang liên
tục mặc cả về giá, đấy liên tục là cuộc vật lộn.
C.S. Lewis và Abraham Maslow chia tình yêu ra làm
hai. Tôi không chia thành hai. Tôi nói rằng loại thứ nhất chỉ
là cái tên, đồng tiền giả, nó không phải thực. Chỉ có loại
tình yêu thứ hai mới là tình yêu.
Tình yêu xảy ra chỉ khi bạn chín chắn. Bạn trở nên có
khả năng yêu chỉ khi bạn là người trưởng thành. Khi bạn
biết rằng tình yêu không phải là nhu cầu mà là sự tràn ngập
- tình yêu hiện hữu hay tình yêu ban tặng - thế thì bạn cho
vô điều kiện.
Loại thứ nhất, cái gọi là tình yêu, bắt nguồn từ nhu cầu
sâu xa của con người cần tới người khác, trong khi tình yêu
ban tặng hay tình yêu hiện hữu, thì tuôn chảy hay tràn ngập
từ người chín chắn sang người khác do thừa thãi; người ta
bị ngập lụt với nó. Bạn có nó và nó bắt đầu chuyển vận
xung quanh bạn, giống như khi bạn thắp sáng ngọn đèn,
các tia sáng bắt đầu lan toả vào trong bóng tối. Tình yêu là
sản phẩm phụ của hiện hữu. Khi bạn hiện hữu, bạn có hào
quanh của tình yêu quanh mình; khi bạn không hiện hữu,
bạn không có hào quang đó quanh mình. Và khi bạn không
có hào quang đó quanh mình, bạn xin người khác cho bạn
tình yêu.
Chúng ta nhắc lại điều đó: Khi bạn không có tình yêu,
bạn phải yêu cầu người khác đem nó cho bạn, bạn là kẻ ăn
mày. Và người kia cũng đang yêu cầu bạn đem nó đến cho
người đó. Bây giờ, hai kẻ ăn mày chìa tay ra cho nhau, cả
hai đều hi vọng rằng người kia có nó... lẽ tự nhiên cả hai
cuối cùng đều cảm thấy tiêu tan hi vọng và cả hai đều cảm
thấy bị lừa.
Bạn có thể hỏi bất kì người chồng và bất kì người vợ
nào, bạn có thể hỏi bất kì người yêu nào, cả hai người đều
cảm thấy bị lừa. Chính phóng chiếu của bạn là ở chỗ cho
rằng người kia có nó. Nếu bạn có phóng chiếu sai lầm,
người kia có thể làm gì được về điều đó? Phóng chiếu của
bạn đã bị tan vỡ; người kia tỏ ra không theo phóng chiếu
của bạn; có thế thôi. Nhưng người kia không có nghĩa vụ
phải chứng tỏ bản thể mình theo trông đợi của bạn.
Còn bạn đã lừa người kia ... đó là cảm giác của người
kia, bởi vì người kia đang hi vọng rằng tình yêu sẽ tuôn
chảy từ bạn. Các bạn cả hai đều hi vọng tình yêu sẽ tuôn
chảy từ người kia, và cả hai lại trống rỗng. Làm sao tình
yêu có thể xảy ra được? Nhiều nhất các bạn có thể cùng
khổ với nhau. Trước đây bạn đã quen khổ một mình, tách
biệt; nay bạn có thể cùng nhau khổ. Và nhớ, bất kì khi nào
hai người cùng khổ với nhau, đấy không phải là phép cộng
đơn giản, đấy là phép nhân.
Một mình bạn cảm thấy nản lòng, bây giờ bạn cảm thấy
cùng nản lòng. Một điều tốt về nó là: bây giờ bạn có thể
trút trách nhiệm vào người kia - rằng người kia gây ra khổ
cho bạn. Đấy là một điểm tốt. Bạn có thể cảm thấy dễ chịu,
rằng "Chẳng có gì sai với mình cả... tại người kia... Phải
làm gì với mụ vợ như vậy - cáu kỉnh, càu nhàu?" Người ta
phải bị khổ. "Phải làm gì với lão chồng như thế? - xấu xí,
keo kiệt" Bây giờ bạn có thể trút trách nhiệm lên người kia;
bạn đã tìm ra cái bung xung. Nhưng khổ vẫn còn, lại nhân
lên nữa.
Bây giờ đây là ngược đời: người đã từng yêu chẳng còn
tình yêu gì nữa, đó là lí do tại sao họ lại yêu nhau. Và bởi
vì họ không còn tình yêu nữa nên họ không thể cho được.
Thêm một điều nữa: người chưa chín chắn bao giờ cũng
yêu người chưa chín chắn khác, bởi vì chỉ họ mới có thể
hiểu được ngôn ngữ của nhau. Người chín chắn yêu người
chín chắn, người chưa chín chắn yêu người chưa chín chắn.
Bạn có thể tiếp tục đổi chồng hay vợ mình cả nghìn lẻ
một lần, nhưng bạn sẽ lại tìm thấy cùng kiểu đàn bà và
cùng nỗi khổ: được lặp lại dưới những dạng khác, nhưng
vẫn cùng nỗi khổ được lặp lại - bao giờ cũng gần như nhau.
Bạn có thể đổi vợ, nhưng bạn đâu có thay đổi. Bây giờ ai
định chọn người vợ khác đây? Bạn sẽ chọn. Chọn lựa sẽ lại
nảy sinh từ chưa chín chắn của bạn. Bạn sẽ chọn kiểu đàn
bà tương tự lần nữa.
Vấn đề cơ bản của tình yêu là trước hết phải trở nên
chín chắn; thế thì bạn sẽ tìm ra người bạn tình chín chắn,
thế thì những người chưa chín chắn sẽ không hấp dẫn được
bạn chút nào. Sự việc giống hệt thế này. Nếu bạn hai nhăm
tuổi, bạn không thể yêu đứa bé hai tuổi được ... bạn không
thể phải lòng nó được. Đích xác giống như vậy, khi bạn là
người chín chắn về mặt tâm lí, tâm linh, bạn không yêu đứa
bé con. Điều đó không xảy ra, nó không thể xảy ra được.
Bạn có thể thấy rằng điều đó là vô nghĩa.
Trong thực tế người chín chắn không bị đổ vì tình,
người đó đi lên trong tình yêu. Từ đổ không hợp lắm. Chỉ
những người chưa chín chắn mới đổ vì tình, họ loạng
quạng và đổ vì tình. Bằng cách nào đó họ đang xoay xở và
đứng lên. Họ không thể xoay xở và đứng lên được - họ tìm
thấy người đàn bà và rồi họ bị người đó bỏ đi, họ tìm thấy
người đàn ông và rồi họ bị người đó bỏ đi. Họ bao giờ cũng
chỉ chực ngã xuống đất và bò. Họ không có xương sống,
không có trục sống ... họ không có sự toàn vẹn để đứng
riêng một mình.
Người chín chắn có sự toàn vẹn để tồn tại một mình.
Và khi người chín chắn đem cho tình yêu, người đó cho mà
không có điều gì gắn với nó: người đó đơn giản cho. Và khi
người chín chắn cho tình yêu, người đó cảm thấy biết ơn là
bạn đã nhận tình yêu của người đó, không có điều ngược
lại. Người đó không trông đợi bạn phải biết ơn về điều đó -
không, không chút nào, người đó thậm chí còn không cần
đến cả lời cám ơn của bạn. Người đó cám ơn bạn vì bạn đã
chấp nhận tình yêu của người đó.
Và khi hai người chín chắn yêu, một trong những
ngược đời vĩ đại nhất của cuộc sống xảy ra, một trong
những hiện tượng đẹp đẽ nhất xảy ra: họ cùng nhau nhưng
vậy mà cực kì một mình, họ cùng nhau nhiều đến mức họ
gần như là một. Nhưng tính một của họ không phá huỷ tính
cá nhân của họ; trong thực tế, nó lại tôn cao tính cá nhân:
họ trở thành cá nhân nhiều hơn. Hai người chín chắn yêu
nhau sẽ giúp lẫn nhau để trở thành tự do hơn. Không có
chuyện chính trị bên trong, không có ngoại giao, không có
nỗ lực chi phối. Làm sao bạn có thể chi phối người bạn yêu
được? Nghĩ về điều đó mà xem.
Chi phối là một loại ghen ghét, giận dữ, thù hằn. Làm
sao bạn thậm chí có thể nghĩ đến việc chi phối người bạn
yêu? Bạn sẽ thích thấy người này được tự do hoàn toàn,
độc lập hoàn toàn; bạn sẽ cho người ấy nhiều tính cá nhân
hơn. Đó là lí do tại sao tôi gọi nó là điều ngược đời lớn
nhất: họ cùng nhau nhiều đến mức họ gần như là một,
nhưng dầu vậy trong tính một đó họ vẫn là các cá nhân.
Tính cá nhân của họ không bị xoá bỏ đi; chúng đã trở thành
được nâng cao hơn. Người kia đã làm phong phú thêm cho
chúng chừng nào còn có liên quan tới tự do.
Người chưa chín chắn khi yêu đương phá huỷ tự do của
nhau, tạo ra tù túng, làm thành nhà tù. Người chín chắn
trong tình yêu giúp lẫn nhau được tự do; họ giúp lẫn nhau
phá huỷ mọi loại tù túng. Và khi tình yêu tuôn chảy với tự
do, có cái đẹp. Khi tình yêu tuôn chảy với phụ thuộc, có cái
xấu.
Nhớ lấy, tự do có giá trị cao hơn tình yêu. Đó là lí do
tại sao ở Ấn Độ, điều tối thượng chúng ta gọi là moksha.
Moksha nghĩa là tự do. Tự do có giá trị cao hơn tình yêu.
Cho nên nếu tình yêu đang phá huỷ tự do thì nó không có
giá trị. Tình yêu có thể bị vứt bỏ, tự do phải được giữ lấy;
tự do có giá trị cao hơn. Và không có tự do, bạn chẳng bao
giờ hạnh phúc cả, điều đó là không thể được. Tự do là ước
muốn bản năng của từng đàn ông, từng đàn bà - tự do hoàn
toàn, tự do tuyệt đối.
Cho nên bất kì cái gì đưa tới phá huỷ tự do, người ta
đều bắt đầu ghét nó. Bạn không ghét người đàn ông bạn
yêu sao? Bạn không ghét người đàn bà bạn yêu sao? Bạn
có ghét; điều đó là cái xấu cần thiết, bạn phải dung thứ nó.
Vì bạn không thể một mình được nên bạn phải xoay xở để
ở với ai đó, và bạn phải điều chỉnh theo đòi hỏi của người
kia. Bạn phải dung thứ, bạn phải chịu đựng họ.
Tình yêu, là tình yêu thực sự, phải là tình yêu hiện hữu,
tình yêu ban tặng. Tình yêu hiện hữu nghĩa là trạng thái
yêu. Khi bạn đã về tới nhà, khi bạn đã biết mình là ai, tình
yêu nảy sinh trong sự hiện hữu của bạn. Thế thì hương
thơm sẽ toả ra và bạn có thể đem nó cho người khác.
Làm sao bạn có thể đem cho cái gì đó mà bạn không
có?
Để cho được nó, yêu cầu cơ bản đầu tiên là phải có nó.
Bạn hỏi: "Tình yêu trong tôi phụ thuộc vào thế giới bên
ngoài..." Thế thì đấy không phải là tình yêu; hay nếu bạn
muốn chơi chữ như kiểu C.S. Lewis và A.H. Maslow, gọi
nó là tình yêu-nhu cầu, tình yêu-khiếm khuyết. Nó cũng tựa
như việc gọi bệnh tật là bệnh-sức khoẻ - điều ấy là vô
nghĩa, nó mâu thuẫn ngay trong lời nói. Tình yêu-khiếm
khuyết là mâu thuẫn trong lời nói. Nhưng nếu bạn quá gắn
bó với từ tình yêu thì cũng được; bạn có thể gọi nó là tình
yêu-khiếm khuyết hay tình yêu-nhu cầu.
"Đồng thời tôi thấy điều thầy nói về hoàn toàn bên
trong ..."
Không, bạn chưa thể thấy nó được. Bạn nghe tôi, bạn
hiểu điều đó về mặt trí tuệ, nhưng bạn chưa thể thấy được
nó. Trong thực tế tôi đang nói ngôn ngữ này còn bạn hiểu
theo ngôn ngữ khác. Tôi đang hô lên ở bình diện này còn
bạn thì lắng nghe ở bình diện khác. Vâng, tôi đang dùng
cùng những từ như bạn dùng, nhưng tôi không giống bạn
cho nên làm sao tôi có thể cho những từ đó cùng nghĩa như
bạn cho chúng được? Về mặt trí năng bạn có thể hiểu và đó
sẽ là hiểu lầm.
Mọi hiểu biết trí tuệ đều là hiểu lầm.
Tôi kể cho bạn một vài giai thoại.
Một người Pháp đến thăm Ireland vào một toa xe lửa,
trong toa đã có hai người Ireland đều là du khách thương
mại. Một người nói với người kia, "Vừa mới đây anh đã ở
đâu?"
Câu trả lời vọng ra, "Chắc chắn, tôi chẳng vừa mới tới
Kilmary và bây giờ tôi tới Kilpatrick. Còn anh thì sao?"
Người kia trả lời, "Tôi đã tới Kilkenny và Kilmichael
còn bây giờ tôi tới Kilmore."
Người Pháp lắng nghe với sự kinh hoàng. "Toàn bọn
côn đồ giết người!" anh ta nghĩ rồi xuống luôn ga sau.
Bây giờ bạn hãy nghe: Kil-mary (giết mary), Kil-kennt
(giết Kenny), Kil-michael (giết Michael) và Kil-more ((giết
nhiều người nữa). Giết nhiều nữa ... người Pháp phải kinh
hoàng. "Toàn bọn côn đồ giết người!"
Cái gì đó hoàn toàn giống như thế này vẫn cứ xảy ra.
Tôi nói điều gì đó, bạn hiểu điều gì đó khác. Nhưng điều đó
là tự nhiên; tôi không lên án nó, tôi đơn giản làm cho bạn
nhận biết về nó.
Có ba đứa trẻ, một đứa tên là Rắcrối, một đứa tên là
Kiểucách, và đứa kia tên là Lolấyviệccủaông. Người bố là
triết gia cho nên ông ta đặt cho chúng các cái tên rất có ý
nghĩa. Bây giờ ta sẽ thấy rất nguy hiểm khi đặt tên người
bằng các cái tên có nghĩa...
Rắcrối bị lạc, cho nên Kiểucách và Lolấyviệccủaông
tới đồn cảnh sát. Lolấyviệccủaông nói với Kiểucách, "Bây
giờ em đợi ở đây bên ngoài," và nó đi vào đồn.
Bên trong nó nói với viên cảnh sát tại bàn, "Bạn cháu
bị lạc."
Viên cảnh sát nói, "Tên cháu là gì?"
"Lolấyviệccủaông."
"Cháu nói kiểu cách gì thế?" viên cảnh sát nói.
"Ở ngoài trên bậu cửa ấy."
"Cháu định gây rắc rối à?"
"Vâng, chú có thấy nó không?"
Điều này cứ tiếp diễn. Tôi nói rằng chừng nào bạn còn
chưa hoàn toàn bên trong mình, tình yêu sẽ không tuôn
chảy. Tất nhiên bạn hiểu các lời này, nhưng bạn cho những
lời này ý nghĩa riêng của mình. Khi tôi nói, "Chừng nào
bạn còn chưa hoàn toàn bên trong mình ..." tôi không đề
nghị lí thuyết, tôi không triết lí chút nào; tôi đơn giản chỉ ra
sự kiện của cuộc sống. Tôi đang nói: Làm sao bạn có thể
cho được nếu bạn không có? Làm sao bạn có thể tràn ngập
khi bạn trống rỗng? Và tình yêu là sự tràn ngập. Khi bạn có
nhiều hơn bạn cần, chỉ thế thì bạn mới có thể cho; do đó nó
là tình yêu ban tặng.
Làm sao bạn có thể cho món quà khi bạn không có?
Điều này bạn nghe và bạn hiểu, nhưng thế thì vấn đề nảy
sinh bởi vì việc hiểu mới là ở mặt trí tuệ. Nếu nó thấm
nhuần vào bản thể bạn, nếu bạn đã thấy tính sự kiện của nó,
thế thì câu hỏi sẽ không nảy sinh. Thế thì bạn sẽ quên hết
mọi mối quan hệ phụ thuộc của mình và bạn sẽ bắt đầu làm
việc với bản thể riêng của mình: lau sạch, chùi sạch, làm
cho cốt lõi bên trong của bạn được tỉnh táo hơn, nhận biết
hơn; bạn sẽ bắt đầu làm việc theo cách đó. Và bạn càng bắt
đầu cảm thấy rằng bạn đang đi tới sự toàn bộ nào đó thì bạn
sẽ càng thấy rằng tình yêu đang phát triển dần bên cạnh, nó
là sản phẩm phụ.
Tình yêu là vận hành của việc là toàn bộ... thế thì câu
hỏi sẽ không có đó. Nhưng câu hỏi lại có đó, cho nên bạn
chưa thấy được sự kiện. Bạn đã lắng nghe về nó như một lí
thuyết và bạn đã hiểu nó, bạn đã hiểu logic của nó. Việc
hiểu logic là chưa đủ, bạn sẽ phải nếm trải nó nữa.
"Tình yêu trong tôi phụ thuộc vào thế giới bên ngoài.
Đồng thời tôi thấy điều thầy nói về việc phải hoàn toàn ở
bên trong. Điều gì xảy ra cho tình yêu nếu không có gì và
không có ai thừa nhận nó và nếm trải nó?"
Nó không cần được nhận biết: nó không cần thừa nhận,
nó không cần xác nhận, nó không cần ai nếm trải nó. Việc
thừa nhận của người khác chỉ là điều ngẫu nhiên, đấy
không phải là bản chất của tình yêu; tình yêu sẽ cứ tuôn
chảy. Không ai nếm trải nó, không ai thừa nhận nó, không
ai cảm thấy hạnh phúc, thích thú vì nó - tình yêu sẽ cứ tuôn
chảy, bởi vì chính trong tuôn chảy đó bạn cảm thấy cực kì
phúc lạc, bạn cảm thấy cực kì sung sướng.
Chính trong tuôn chảy đó, khi năng lượng của bạn tuôn
chảy... Bạn đang ngồi trong căn phòng rỗng không và năng
lượng đang tuôn chảy và trút đầy căn phòng rỗng không
bằng tình yêu của bạn. Không có ai ở đó cả - bức tường sẽ
không nói "cám ơn bạn" - không ai thừa nhận, không ai
nếm trải nó. Nhưng điều đó không thành vấn đề chút nào.
Năng lượng của bạn toả ra, chảy ra... bạn sẽ cảm thấy hạnh
phúc. Bông hoa thấy hạnh phúc khi hương thơm toả ra theo
gió; dù gió có biết về điều đó hay không thì cũng không
thành vấn đề.
Và bạn hỏi: "Thầy là ai nếu không có đệ tử?"
Tôi vẫn là tôi đây. Dù đệ tử có đó hay không, điều đó
chẳng can hệ gì; tôi không phụ thuộc vào bạn. Và toàn bộ
nỗ lực của tôi ở đây chỉ là để cho bạn cũng có thể trở thành
độc lập với tôi.
Tôi ở đây để đem lại cho bạn tự do. Tôi không muốn áp
đặt bất kì điều gì lên bạn, tôi không muốn làm què quặt bạn
theo bất kì cách nào; tôi muốn bạn chỉ là chính bạn. Rồi
một ngày sẽ xảy ra là bạn độc lập với tôi, bạn sẽ có thể thực
sự yêu tôi - không trước điều đó.
Tôi yêu bạn. Tôi không thể đừng được điều đó. Vấn đề
không phải là liệu tôi có yêu bạn hay không, tôi đơn giản
yêu mến các bạn. Nếu các bạn không có ở đây, thính phòng
Trang Tử này vẫn tràn ngập tình yêu của tôi; không có gì
khác biệt cả. Những cây cối này vẫn đón nhận tình yêu của
tôi, những chim chóc này vẫn cứ đón nhận tình yêu của tôi.
Và cho dù như tất cả mọi cây cối và chim chóc có biến mất
đi, điều đó cũng chẳng tạo ra cái gì khác biệt; tình yêu vẫn
cứ tuôn chảy. Tình yêu hiện hữu, cho nên tình yêu tuôn
chảy.
Tình yêu là năng lượng động, nó không thể tù đọng
được. Nếu ai đó cùng chia sẻ, tốt. Nếu không ai chia sẻ,
điều ấy nữa cũng tốt. Thượng đế đã nói gì với Moses... bạn
có nhớ không? Khi Moses gặp Thượng đế, tất nhiên
Thượng đế trao cho ông ta vài thông điệp để chuyển lại cho
đồng bào của ông ta.
Và Moses là người Do thái thực sự, ông ta đã hỏi,
"Thưa Thượng đế, xin ngài nói cho tôi về tên ngài! Người
dân xứ tôi sẽ hỏi, "Ai trao cho ông những thông điệp này?"
- họ sẽ hỏi tên của Thượng đế. "Cho nên tên của Thượng đế
là gì?"
Và Thượng đế nói, "Ta là cái ta đang là. Ông cứ về gặp
người dân của mình và nói rằng 'Ta là cái ta đang là' nói
như vậy. Đó là thông điệp từ 'Ta là cái ta đang là.'"
Nghe có vẻ vô lí nhưng điều đó cực kì có ý nghĩa: Ta là
cái ta đang là. Thượng đế không có tên, không có định
nghĩa, chỉ là sự hiện hữu.
#2Câu hỏi thứ hai
Osho kính yêu, tôi không đi đâu cả. Tại sao
cần bản đồ? Cứ ở đây bây giờ không đủ rồi
sao?
Vâng, không có mục tiêu và không đâu mà đi cả. Còn
bản đồ thì chẳng cần thiết nếu bạn đã hiểu tôi. Nhưng bạn
đã không hiểu tôi và bản đồ là cần thiết. Và nhu cầu về bản
đồ không phải bởi vì có mục tiêu, không phải là để đi đâu
đó mà bản đồ được cần tới; bản đồ được cần tới bởi vì bạn
đã đi đâu đó và bạn phải quay lại ở đây bây giờ. Nó không
được cần để đi đâu đó, nhưng bạn đã mơ mộng rằng bạn đã
đi đâu đó; bản đồ là cần để quay về nhà. Bạn đã đi lạc
đường, bạn đã đi vào trong tưởng tượng của mình, trong
ham muốn của mình, trong tham vọng của mình; bạn không
nhìn vào bản thân mình. Bản thể bạn đang ở sau lưng bạn
và bạn đang chạy ra xa. Bản đồ là cần thiết để nhìn lại, để
gặp gỡ bản thể bạn, để gặp với chính bạn.
Nhưng nếu bạn hiểu tôi - rằng ở đây và bây giờ là tất cả
những cái đang hiện hữu - bạn có thể đốt bản đồ, bạn có thể
vứt bỏ bản đồ; thế thì bản đồ không còn cần cho bạn nữa.
Với người đã về tới nhà, bản đồ không còn cần thiết nữa.
Nhưng đừng đốt bản đồ chừng nào bạn còn chưa về tới
nhà.
Có bức tranh nổi tiếng về thiền sư đốt kinh phật. Ai đó
hỏi ông ta, "Thưa thầy, thầy đang làm gì vậy? Thầy bao giờ
cũng dạy về các kinh này, thầy bao giờ cũng bình giảng và
suy ngẫm về những kinh này - sao thầy lại đốt chúng đi?
Còn thiền sư cười vang và nói, "Bởi vì ta đã về đến nhà
cho nên không cần tới bản đồ nữa."
Nhưng bạn không nên đốt chúng trừ phi và chừng nào
bạn về đến nhà. Bạn mang bản đồ: nó có nghĩa khi bạn
đang ở xa; khi bạn đã về đến nhà bạn vứt nó đi. Nếu bạn
vứt nó trước khi về tới nhà bạn sẽ gặp nguy hiểm.
Vâng, ở đây và bây giờ còn đầy đủ hơn - không chỉ có
đủ, còn hơn việc đủ - nó là tất cả những cái đang có đó.
Nhưng bạn lại không ở đây bây giờ, cho nên tất cả những
bản đồ này đều cần thiết để đưa bạn về nhà. Bạn chưa đi
đâu thực sự cả, nhưng bạn đang mơ rằng bạn đã đi đâu đó.
Những bản đồ này cũng là những bản đồ mơ. Nhớ lấy,
những bản đồ này đều là những bản đồ mơ; những bản đồ
này đều giả như luân hồi của bạn, như thế giới của bạn.
Bản kinh tối thượng không có lời trong nó. Người Sufi
có một cuốn sách, Sách về các Sách. Nó đơn giản rỗng
không, không một lời được viết trong nó. Suốt trong nhiều
thế kỉ, nó đã được truyền từ bậc thầy nọ sang bậc thầy kia,
truyền tay từ thầy qua đệ tử, và đã được gìn giữ hết sức trân
trọng. Đó là tột đỉnh trong kinh sách. Kinh Veda không hay
được như vậy, Kinh Thánh không hay được đến vậy vì điều
gì đó đã được viết ra ở đó. Cuốn Sách về các Sách thực sự
mang giá trị vô biên, nhưng liệu bạn có đọc được nó
không? Khi lần đầu tiên ở phương Tây người Sufi muốn nó
được xuất bản, không nhà xuất bản nào sẵn sàng in cả. "Cái
gì vậy? Chẳng có gì để xuất bản cả!" họ sẽ nói vậy. "Nó chỉ
là cuốn sách rỗng không. Xuất bản nó để làm gì?"
Tâm trí phương Tây có thể hiểu được lời, mực đen trên
giấy trắng; nó không thể thấy được giấy trắng một cách
trực tiếp. Trang giấy trắng không tồn tại cho tâm trí phương
Tây, chỉ có mực đen. Mây tồn tại cho tâm trí phương Tây,
không có bầu trời: tâm trí tồn tại cho đầu óc phương Tây,
không có tâm thức. Nội dung tồn tại, nhưng họ đã hoàn
toàn quên mất bình chứa.
Ý nghĩ giống như mực đen trên giấy trắng; ý nghĩ chỉ là
thông điệp được viết ra. Khi ý nghĩ biến mất, bạn sẽ trở
thành cuốn Sách về các Sách - rỗng không. Nhưng đó chính
là tiếng nói của Thượng đế.
Bạn nói: "Tôi không đi đâu cả. Tại sao cần bản đồ? Cứ
ở đây bây giờ không đủ sao?"
Chính bởi vì bạn hỏi câu hỏi này mà bạn vẫn còn cần
tới bản đồ: câu hỏi là câu hỏi về bản đồ. Nếu bạn đã hiểu
tôi, không còn câu hỏi nào nữa. Thế thì cái gì có đó để
được hỏi? Bạn có thể hỏi gì về ở đây và bây giờ? Mọi việc
hỏi đều là hỏi về các mục tiêu ở đâu đó khác, lúc khác chỗ
khác.
#2Câu hỏi thứ ba:
Osho kính yêu, tôi đã xây dựng gia đình hai
mươi năm nay thế mà cảm giác "Tại sao cô
ấy không thể nào hiểu nổi?" vẫn cứ có đó.
Và thế rồi tôi chưa bao giờ thấy cô ấy trong
đời mình, và thế rồi tôi lại thấy mình đang
trong tuần trăng mật, và rồi... Tâm trí tôi trở
nên điên rồ!
Tâm trí bao giờ cũng trở nên điên rồ - đó là cách thức
của tâm trí. Tâm trí là một luồng, nó liên tục thay đổi; nó
không là một cho bất kì hai khoảnh khắc kế tiếp nào, mỗi
khoảnh khắc lại một khác. Vâng, khoảnh khắc này bạn cảm
thấy rằng bạn chưa từng gặp vợ mình trong cả cuộc đời,
bạn chưa hề gặp cô ấy, mặc dầu bạn đã sống cùng cô ấy cả
hai mươi năm ròng. Khoảnh khắc khác bạn lại thấy mình
đang trong kì trăng mật - bạn đã thấy vẻ đẹp của cô ấy, vẻ
duyên dáng của cô ấy, vui vẻ, cốt lõi bên trong nhất của cô
ấy - và rồi điều đó trôi qua. Và cảnh trí cứ thay đổi.
Tâm trí rất khó nắm giữ. Nó liên tục không tỉnh táo, nó
không thể dừng lại ở bất kì đâu. Nó không có khả năng
đứng lại; nó là một luồng. Với tâm trí mọi thứ đều giống
thế này: khoảnh khắc này bạn hạnh phúc, khoảnh khắc
khác bạn bất hạnh; khoảnh khắc này bạn vui vẻ thế, khoảnh
khắc khác bạn lại buồn bã thế... nó cứ như thế, bánh xe tâm
trí cứ liên tục chuyển vận. Khoảnh khắc này cái nan hoa
này đang trên đỉnh, khoảnh khắc khác nan hoa khác đã tới
đỉnh, và nó cứ tiếp diễn theo cách này. Đó là lí do tại sao ở
phương Đông chúng ta gọi nó là luân hồi, cái bánh xe. Thế
giới là cái bánh xe, nó cứ chuyển mãi - cùng một bánh xe,
quay mãi, quay mãi và nó không ổn định dù chỉ một
khoảnh khắc.
Nó tựa như cuốn phim: nếu phim dừng một thoáng
chốc, bạn có thể thấy được màn ảnh. Nhưng phim cứ
chuyển cảnh và nó chuyển nhanh đến mức bạn mê mải về
nó, bị bận tâm về nó đến mức bạn không thể thấy được
màn ảnh. Và màn ảnh là thực tại. Hình ảnh được chiếu lên
chỉ là giấc mơ. Tâm trí cứ phóng chiếu.
Tôi đã từng nghe...
Một triệu phú đi vào bưu điện và thấy đôi vợ chồng già
đang đứng tại quầy để rút tiền hưu tuổi già. Ông ta đang
trong tâm trạng phấn khởi; ông ta cảm thấy rất thương hại
cho đôi vợ chồng già và ông ta nghĩ họ đáng được hưởng
một tuần nghỉ ngơi để biết tới vẻ đẹp và vui vẻ cuộc sống...
ông ta đang trong tâm trạng từ thiện. Tiến tới chỗ họ ông
nói, "Hai ông bà có muốn nghỉ một tuần tại khu nhà tôi
không? Tôi sẽ tặng cả hai ông bà một thời gian tuyệt diệu."
Tốt, hai ông bà nhận lời, và thế là triệu phú đưa họ về
ngôi nhà mình trong chiếc xe Roll, và như đã hứa, ông ta
thấy rằng họ đã có một kì nghỉ sung sướng thực sự với đồ
ăn ngon, ti vi mầu và nhiều thứ đồ xa hoa mà họ chưa từng
bao giờ mơ ước có được. Đến cuối tuần ông ta bước vào
thư viện nơi ông già đang tận hưởng thời gian thanh bình
với một cốc rượu và hút xì gà. "Thế nào," ông ta hỏi, "ông
tận hưởng được chứ?"
"Quả là có," ông già đáp. "Nhưng tôi có thể hỏi ông
một điều được không?"
"Tất nhiên rồi," nhà triệu phú trả lời.
"Vậy thì," ông già nói, "người đàn bà già đã ngủ cùng
tôi cả tuần kia là ai vậy?"
Đây là tình huống của những người đã sống với vợ
mình, với chồng mình suốt cuộc đời. Ai là người đàn bà
bạn đã cùng đã ngủ trong suốt hai mươi năm qua? Có
những khoảnh khắc bạn cảm thấy bạn biết. Có những
khoảnh khắc bỗng nhiên có bức Trường thành Trung Quốc,
đen tối, mờ đục - bạn không thể thấy được cái gì, bạn
không biết người xa lạ này ở đây là ai cả.
Mọi hiểu biết của chúng ta đều hời hợt; chúng ta vẫn
còn là những người xa lạ. Bạn có thể ngủ với người đàn bà
trong suốt hai mươi năm - điều đó cũng chẳng gây khác
biệt gì lắm, các bạn vẫn còn là những người xa lạ. Và lí do
là ở chỗ bạn thậm chí không biết đến cả bản thân mình, làm
sao bạn có thể biết về người khác được? Đấy là điều không
thể được, bạn hi vọng vào điều không thể được. Bạn thậm
chí không biết về chính mình! Bạn không biết người mà
bạn đang là và bạn đã ở đây trong sự tồn tại từ vĩnh hằng.
Hàng triệu kiếp bạn đã từng ở đây mà bạn vẫn không biết
bạn là ai, vậy thì nói gì về hai mươi năm?
Và làm sao bạn có thể biết về người kia, người đàn bà
thật xa xôi với bạn? Bạn không thể đi vào trong giấc mơ
của cô ấy, bạn không thể đi vào trong ý nghĩ của cô ấy, bạn
không thể đi vào trong ham muốn của cô ấy - làm sao bạn
có thể biết về bản thể cô ấy? Thậm chí giấc mơ bạn cũng
không thể biết được. Bạn có thể ngủ cùng con người đàn bà
đó trong hai mươi năm nhưng cô ấy mơ giấc mơ của cô ấy,
bạn mơ giấc mơ của bạn; tính chủ quan của các bạn vẫn
còn là các thế giới tách biệt.
Ngay cả khi bạn làm tình với người đàn bà và ôm cô ấy
trong vòng tay, liệu bạn có thật sự ôm người đàn bà đang
có đó hay là bạn đang ôm giữ chỉ một tưởng tượng, một
phóng chiếu, một bóng hình? Bạn có thật sự ôm giữ người
đàn bà thật trong vòng tay mình hay chỉ là một hình ảnh
tâm trí, một bóng ma? Bạn có yêu người đàn bà hiện đang
có đó, hay bạn có ý tưởng nào đó rằng bạn yêu và bạn tìm
những ý tưởng ấy được phản ánh trong người đàn bà này?
Khi có hai người trên giường, cảm giác của tôi là bao giờ
cũng có bốn người: hai bóng ma nằm ngay giữa hai người -
sự phóng chiếu của người đàn bà về người chồng và sự
phóng chiếu của người chồng về người vợ.
Không phải ngẫu nhiên mà chồng cứ cố gắng thay đổi
vợ theo một lí tưởng nào đó, còn vợ thì cứ thay đổi - cố
gắng ít nhất cũng để thay đổi - chồng theo lí tưởng nào đó.
Đấy là hai bóng ma. Bạn không thể chấp nhận người đàn bà
như cô ấy đang thế, chứ gì? Bạn có nhiều cải biến cần làm,
nhiều thay đổi. Và nếu như điều đó thực sự có thể được...
nếu một ngày nào đó Thượng đế xuống thế giới này và nói,
"Thôi được. Bây giờ tất cả mọi người vợ đều được phép
thay đổi chồng theo ý mình," hay "Tất cả mọi người chồng
đều được phép thay đổi vợ theo ý mình," thì điều gì sẽ xảy
ra, bạn có biết không? Thế giới sẽ chỉ đi tới chỗ phát rồ.
Nếu đàn bà được phép thay đổi chồng mình thì bạn sẽ thấy
không còn đàn ông nào còn lại để bạn có thể nhận ra được.
Mọi người già sẽ biến mất. Nếu chồng được phép thay đổi
vợ mình thì không đàn bà nào ở đây còn như cô ấy hiện thế
nữa. Và bạn có cho là bạn sẽ hạnh phúc không? Bạn sẽ
không thể hạnh phúc được, bởi vì thế thì người đàn bà mà
bạn đã thay đổi và làm phù hợp với mẫu hình lí tưởng của
mình sẽ không còn hấp dẫn với bạn nữa; cô ấy sẽ không có
điều bí ẩn trong cô ấy nữa.
Nhìn vào cái ngớ ngẩn này của tâm trí, cái yêu cầu của
tâm trí - yêu cầu kiểu tự tử. Nếu bạn có thể thay đổi được
chồng mình và bạn thực sự trở thành đủ quyền năng để
thay đổi anh ta hoàn toàn thì bạn có còn yêu người đàn ông
đó nữa không? Anh ta sẽ chỉ là cái gì đó do bạn gắn lại.
Anh ta sẽ không còn gì bí ẩn nữa, anh ta sẽ không có tâm
hồn, anh ta sẽ không có bất kì sự toàn vẹn nào của riêng
mình, và anh ta sẽ không có gì để bạn khám phá nữa. Bạn
sẽ mất ham thích, bạn sẽ chán anh ta; đấy sẽ chỉ là "người
rởm." Còn thích thú gì? Thích thú nảy sinh chỉ vì có cái gì
đó chưa biết cần được khám phá, một bí ẩn, một khêu gợi
thách thức bạn đi vào cái chưa quen thuộc.
Điều đầu tiên: bạn còn chưa biết tới chính mình, làm
sao bạn có thể biết về vợ mình được? - không thể được. Bắt
đầu bằng việc biết về chính mình đi. Và đây là cái đẹp của
nó: cái ngày bạn biết về chính mình, bạn sẽ biết tất cả.
Không chỉ vợ bạn, bạn sẽ biết về toàn bộ sự tồn tại; không
chỉ con người, mà cả cây cối, chim chóc và muông thú, cả
từng hòn đá và dòng sông, rặng núi. Bạn sẽ biết tất cả bởi
vì bạn hàm chứa tất cả; bạn là tiểu vũ trụ.
Và một cái đẹp khác, một kinh nghiệm đáng ngạc nhiên
khác, là ở chỗ khoảnh khắc bạn biết về chính mình, điều bí
ẩn lại không kết thúc. Trong thực tế lần đầu tiên điều bí ẩn
trở thành mênh mông. Bạn biết, ấy vậy mà bạn biết rằng
nhiều thứ có đó để được biết. Bạn biết, ấy vậy mà bạn còn
biết rằng tri thức này chẳng là gì cả. Bạn biết, ấy vậy mà
biên giới lại xa ra. Bạn chỉ đi vào trong đại dương tri thức,
bạn chưa bao giờ đạt tới bờ bên kia.
Khoảnh khắc đó toàn bộ sự sống là điều bí ẩn: vợ bạn,
con bạn, bạn bè bạn. Và tri thức đó không phá huỷ điều kì
diệu, không phá huỷ bài thơ cuộc đời; tri thức đó làm tăng
thêm chất thơ cuộc đời, điều ảo thuật, điều kì diệu, điều bí
ẩn.
"Tôi đã xây dựng gia đình hai mươi năm nay thế mà
cảm giác "Tại sao cô ấy không thể nào hiểu nổi?" vẫn cứ
còn đó."
Bạn có hiểu bản thân mình không? Bạn có không làm
những việc để rồi sau đó lại hối hận về việc đó không? Và
bạn nói, "Tôi đã làm điều đó mặc dù tôi không muốn." Bạn
có hiểu bản thân mình không? Bạn có làm mọi thứ qua hiểu
biết không? Khi ai đó đánh bạn và bạn trở nên giận dữ, bạn
có trở nên giận dữ với hiểu biết không? Hay chỉ bởi vì
người đó đã nhấn vào một nút của bạn?
Tri thức của bạn về chính mình hời hợt làm sao... nó
cũng tựa như là người lái xe, người lái một chiếc xe. Vâng,
người đó có biết vài thứ: người đó có thể xoay tay lái,
người đó có thể điều chỉnh chân ga, người đó có thể đổi cần
số, người đó có thể chuyển khớp li hợp, người đó có thể
dùng phanh - có thế thôi. Bạn có cho là người đó biết mọi
điều về chiếc xe không? Cái ẩn dưới nắp ô tô là điều không
được biết tới chút nào, và đó mới là chiếc xe thật; đó là nơi
hành động xảy ra, đó là nơi sự việc thực xảy ra. Còn điều
người đó đẩy và kéo chẳng là gì khác hơn ngoài các nút
bấm. Chẳng chóng thì chầy mọi thứ đều biến mất khỏi
chiếc xe. Chúng phải biến mất, chúng rất nguyên thuỷ - tay
lái này, bộ li hợp này, bộ phanh này. Chúng phải biến mất,
chúng không còn cần nữa; máy tính có thể là mọi thứ. Và
rồi ngay cả đứa trẻ con cũng có thể lái xe - thực sự không
cần bằng nữa.
Nhưng bạn có hiểu điều gì xảy ra bên trong không? Khi
bạn nhấn vào một nút và đèn điện bật sáng, bạn có hiểu về
điện không? Bạn chỉ biết cách ấn vào nút, đấy là tất cả
những gì bạn biết.
Tôi đã nghe một câu chuyện ...
Khi lần đầu tiên thành phố Vienna có điện, một người
bạn của Sigmund Freud tới thăm ông ta. Anh này chưa bao
giờ thấy điện. Ban đêm Freud để người đó lại trong phòng
để nghỉ. Người bạn rất lo âu: người đó chưa bao giờ thấy
điện và người đó không thể tìm được cách tắt đèn. Người
đó đã thử rất nhiều cách - người đó đứng lên giường, người
đó cố thổi tắt ngọn đèn, nhưng người đó không thể tìm ra
được cách nào để thổi tắt nó. Mà người đó thì lại sợ phải
quay lại hỏi Freud bởi vì như thế thì hoá ra quá đần.
"Những người này sẽ nghĩ thế nào đây ... mình thậm chí
không thể thổi tắt được ngọn đèn à? Mình thậm chí lại
không biết đến cả điều ấy à?" Điều ấy có vẻ quá dốt nát.
Còn người đó thì mới từ một làng nhỏ tới cho nên người ta
sẽ cười, và như thế là không tốt. Cho nên người đó bọc
ngọn đèn lại bằng chiếc khăn rồi đi ngủ.
Người đó chẳng thể ngủ ngon được; chốc chốc người
đó lại nghĩ về điều đó: chắc phải có cách nào đây ... Người
đó nhỏm dậy; chốc chốc lại thử ... mà đèn vẫn cứ sáng và
thật khó mà ngủ được. Nhưng còn hơn cả ngọn đèn là điều
châm chọc, liên tục châm chọc, rằng "Mình không biết đến
cả một điều nhỏ nhặt như thế này sao?"
Sáng hôm sau, khi Freud hỏi anh ta, "Anh ngủ ngon
chứ?" thì người bạn trả lời, "Mọi sự tốt lành cả. Phải mỗi
tội tôi phải hỏi ông: làm sao tắt được ngọn đèn này?"
Còn Freud nói, "Dường như là anh không biết về điện
tí gì cả. Lại đây. Ngay trên tường là công tắc; anh ấn vào
công tắc và đèn sẽ tắt."
Thế rồi người dân làng này nói, "Đơn giản thế thôi à!
Bây giờ thì tôi biết điện là gì rồi."
Nhưng bạn có biết điện là gì không? Bạn có biết giận
dữ là gì không? Bạn có biết tình yêu là gì không? Bạn có
biết hạnh phúc là gì, vui vẻ là gì không? Bạn có biết buồn
là gì không? Bạn chẳng biết gì cả. Bạn không biết đến bản
thân mình. Bạn không biết về tâm trí mình. Bạn không biết
đến bản thể bên trong của mình. Bạn không biết cách toàn
bộ cuộc sống xảy ra. Từ đâu? Từ đâu cơn giận kéo tới? Từ
đâu vui vẻ kéo tới? Từ đâu...? Khoảnh khắc này bạn cảm
thấy lễ hội đến thế mà khoảnh khắc tiếp bạn lại sẵn sàng tự
tử.
"Tại sao cô ấy không thể nào hiểu nổi?" - cái cảm giác
đó ...
Về vợ bạn thì điều đó là tự nhiên. Làm sao bạn có thể
hiểu được cô ấy? Bạn thậm chí còn chưa hiểu được tâm trí
mình. Ngày bạn hiểu được tâm trí mình và bản thể mình thì
bạn cũng hiểu được mọi tâm trí và mọi người, bởi vì luật cơ
bản là một. Nếu bạn có thể hiểu chỉ một giọt nước biển, bạn
đã hiểu được tất cả biển khơi - quá khứ, hiện tại, tương lai -
trên trái đất này, trên các hành tinh khác, bởi vì một khi bạn
đã hiểu rằng đó là HO thì bạn đã hiểu được nước. Bất kì
đâu có nước, nó đều là HO. Một khi bạn đã hiểu được cơn
giận của mình, bạn hiểu được mọi cơn giận của mọi con
người, cả quá khứ, hiện tại lẫn tương lai. Nếu bạn đã hiểu
được bản năng dục của mình, bạn cũng hiểu được mọi dục.
Xin đừng có cố hiểu người khác, điều ấy không phải là
cách thức. Cố hiểu bản thân mình, đấy mới là cách thức.
Bạn là vũ trụ thu nhỏ. Trong bạn là toàn bộ bản đồ của sự
tồn tại.
#2Câu hỏi thứ tư
Osho kính yêu, tôi yêu chồng nhưng tôi
ghét dục, và điều đó tạo ra xung khắc.
Liệu dục có phải là thú tính không?
Có đấy. Nhưng con người cũng là con vật - nhiều phần
con vật như bất kì con vật nào khác. Nhưng khi tôi nói rằng
con người là con vật, tôi không hàm ý rằng con người kết
thúc với thú tính; người đó có thể nhiều hơn con vật, người
đó cũng có thể kém hơn con vật. Đó là niềm vinh quang
của con người, là tự do và nguy hiểm, phiền não và cực lạc.
Con người có thể thấp kém hơn con vật, và con người cũng
có thể cao hơn thiên thần. Con người có tiềm năng vô hạn.
Con chó vẫn là một con chó: nó luôn chỉ là một con chó.
Nó được sinh ra là chó và nó sẽ chết là chó. Con người có
thể trở thành một phật, và con người cũng có thể trở thành
một Adolf Hitler nữa. Cho nên con người rất mở về cả hai
phía - người đó có thể sa ngã. Bạn có thấy con vật nào nguy
hiểm hơn con người, điên dại hơn con người không?
Nghĩ về một cảnh: năm mươi nghìn con khỉ ngồi trong
sân vận động, giết trẻ con, ném chúng vào lửa. Bạn nghĩ gì
về chúng? Hàng nghìn trẻ con bị ném vào lửa... Một ngọn
lửa lớn đang bùng cháy ở giữa sân vận động, và năm mươi
nghìn con khỉ thích chí, nhảy múa, còn trẻ con đang bị ném
vào lửa - con cái của chính chúng. Bạn sẽ nghĩ gì về những
con khỉ này? Bạn không nghĩ rằng lũ khỉ này đã phát điên
à? Nhưng điều này đã xảy ra trong loài người. Ở Carthage
điều đó đã xảy ra: năm mươi nghìn người thiêu trẻ con. Họ
thiêu ba trăm đứa trẻ một lúc xem như đồ cúng cho thượng
đế của họ - những đứa con riêng của họ!
Nhưng quên Carthage đi, việc ấy lâu quá rồi. Adolf
Hitler đã làm gì trong thế kỉ này? Tất nhiên, đây là thế kỉ
tân tiến hơn nhiều, cho nên Adolf Hitler có khả năng làm
những việc lớn hơn những điều đã làm ở Carthage. Ông ta
đã giết hàng triệu người Do thái; hàng nghìn người bị tống
vào buồng hơi ngạt một lúc. Và hàng trăm người đứng
trông ở bên ngoài theo dõi thông qua các tấm gương phản
chiếu. Bạn nghĩ gì về những người này? Kiểu người nào
đây ...? Người ta đang bị đầu độc, bị thiêu cháy, hoá hơi,
còn những người khác thì đứng nhìn? Bạn có thấy loài vật
nào làm những điều như vậy không?
Trong suốt ba nghìn năm loài người đã trải qua năm
nghìn cuộc chiến tranh - giết chóc, giết chóc và giết chóc.
Và bạn gọi dục là thú tính? Con vật chưa bao giờ làm
những việc gì "thú tính" hơn con người. Và bạn nghĩ con
người không phải là con vật?
Con người là con vật. Và ý tưởng con người không
phải là con vật chỉ là một trong những chướng ngại cho
trưởng thành của bạn. Cho nên bạn cứ cho là mình không
phải là con vật, và rồi bạn dừng trưởng thành. Thừa nhận
đầu tiên phải là thế này, rằng "tôi là con vật và tôi phải tỉnh
táo và phải vượt ra ngoài nó."
Điều đó đã xảy ra ...
Một người viết thư cho một khách sạn thôn quê ở
Irland để hỏi liệu con chó của anh ta có được phép ở đó
không. Anh ta nhận được câu trả lời sau:
Thưa ông ấy,
Tôi đã từng kinh doanh khách sạn trên ba mươi năm
nay. Chưa bao giờ tôi phải mời cảnh sát tới để tống khứ
một con chó vô trật tự vào buổi sáng. Không con chó nào
dám gửi một cái séc giả tới tôi. Không bao giờ một con chó
dám để chăn màn cháy bởi hút thuốc. Tôi chưa bao giờ
thấy khăn tắm của khách sạn trong va li của một con chó.
Con chó của ông được hoan nghênh đấy.
T.B. Nếu nó có thể đảm bảo cho ông thì ông cũng có
thể tới được!
Con vật đẹp đẽ, dù chúng là gì; chúng hoàn toàn hồn
nhiên. Con người rất tinh ranh, rất tính toán, rất xấu xí. Con
người có thể còn xuống thấp hơn con vật, bởi vì con người
có thể vươn cao hơn con người, cao hơn cả thần.
Con người có tiềm năng vô tận: người đó có thể là
người thấp nhất mà người đó cũng có thể là người cao nhất.
Người đó có toàn bộ các bậc thang trong bản thể mình, từ
bậc đầu tiên tới bậc cuối cùng.
Cho nên điều đầu tiên tôi muốn nói với bạn: Đừng gọi
dục là thú tính, bởi vì dục có thể chỉ là thú tính - điều đó là
có thể - nhưng không nhất thiết là như vậy. Nó có thể vươn
cao hơn: nó có thể trở thành tình yêu, nó có thể trở thành
lời nguyện. Điều đó tuỳ thuộc ở bạn. Dục trong bản thân nó
chẳng là cái gì tựa như một thực thể cố định; nó chỉ là khả
năng. Bạn có thể tạo ra nó theo ý mình, như bạn muốn.
Đó chính là toàn bộ thông điệp của Mật tông: dục có
thể trở thành samadhi. Đó là tầm nhìn của Mật tông: dục có
thể trở thành samadhi, thông qua dục cực lạc tối thượng có
thể đi vào bạn.
Dục có thể trở thành cây cầu giữa bạn và điều tối
thượng.
Bạn nói: "Tôi yêu chồng nhưng tôi ghét dục, và điều đó
gây ra xung khắc."
Làm sao bạn có thể yêu chồng mình mà lại ghét dục?
Bạn lại chơi chữ rồi. Làm sao bạn có thể yêu chồng mình
mà lại ghét dục được?
Cố hiểu điều đó đi. Khi bạn yêu người đàn ông, bạn
cũng muốn cầm tay anh ta nữa. Khi bạn yêu người đàn ông
đôi khi bạn còn muốn ghì chặt anh ta nữa. Khi bạn yêu
người đàn ông bạn không chỉ muốn nghe tiếng anh ta, bạn
còn muốn thấy mặt anh ta nữa. Khi bạn chỉ nghe thấy tiếng
người mình yêu, người đó đang ở xa, âm thanh là không
đủ; khi bạn thấy anh ta bạn được thoả mãn hơn. Khi bạn
chạm vào anh ta, chắc chắn bạn còn được thoả mãn hơn
nữa. Khi bạn nếm trải anh ta, chắc chắn bạn còn được thoả
mãn hơn nữa. Dục là gì? Nó chỉ là sự gặp gỡ của hai năng
lượng sâu sắc.
Bạn phải mang điều kiêng kị nào đó trong tâm trí, điều
cấm đoán. Dục là gì? Chỉ là hai người gặp nhau ở điểm tối
đa - không chỉ cầm tay nhau, không chỉ ghì chặt thân thể
nhau, mà còn xâm nhập vào vương quốc năng lượng của
nhau. Tại sao bạn phải ghét dục? Tâm trí bạn chắc phải đã
bị ước định bởi những mahatma, cái gọi là những người tôn
giáo, người đã đầu độc toàn bộ loài người, đã đầu độc
chính nguồn gốc trưởng thành của bạn.
Tại sao bạn phải ghét? Nếu bạn yêu người đàn ông của
mình, bạn sẽ muốn chia sẻ toàn bộ con người mình với anh
ta; không có nhu cầu ghét. Còn nếu bạn ghét dục, bạn đang
nói điều gì vậy? Bạn đơn giản nói rằng bạn muốn người
đàn ông ấy lo chuyện tài chính của bạn, lo chuyện nhà cửa,
đem về cho bạn ô tô và áo lông. Bạn muốn dùng người đàn
ông ấy ... và bạn gọi đó là tình yêu sao? Còn bạn thì không
muốn chia sẻ cái gì với người ấy.
Khi bạn yêu, bạn chia sẻ tất cả. Khi bạn yêu, bạn không
có bất kì bí mật nào. Khi bạn yêu, bạn có trái tim để mở
hoàn toàn, bạn sẵn sàng với người kia. Khi bạn yêu, bạn
sẵn sàng đi với anh ta cả xuống địa ngục nếu anh ấy đi
xuống địa ngục.
Nhưng điều này xảy ra. Chúng ta đều là các chuyên gia
lão luyện trong dùng từ ngữ: chúng ta không muốn nói rằng
chúng ta không yêu, cho nên chúng ta làm cho có vẻ như là
mình yêu và mình ghét dục. Dục không phải là tất cả tình
yêu, điều đó đúng; tình yêu còn nhiều hơn dục, điều đó
đúng - nhưng dục lại chính là nền tảng của nó. Vâng, một
ngày nào đó dục sẽ tan biến đi, nhưng ghét dục thì không
phải là cách làm nó tan biến đi. Ghét nó chỉ là cách kìm nén
nó, và bất kì cái gì bị kìm nén đều sẽ tìm ra cách này hay
cách khác để thoát ra.
Xin đừng cố trở thành sư hay ni.
Nghe câu chuyện này.
Các ni cô coi sóc một trại trẻ mồ côi, một hôm Mẹ bề
trên triệu tập ba cô gái đẫy đà vừa mới bị bỏ rơi và nói,
"Bây giờ các con tất cả đều đang đi vào thế giới tội lỗi lớn
và ta phải cảnh báo trước các con chống lại một số tụi đàn
ông. Có những tên đàn ông sẽ mua đồ uống cho con, đưa
con vào phòng, cởi quần áo con và làm những điều không
thể nói ra được với con. Rồi chúng sẽ cho con hai hay ba
đồng và con bị đuổi đi, con bị hư hỏng!"
"Xin lỗi mẹ, Mẹ tôn kính," cô gái đẫy đà hơn cả nói,
"mẹ nói những người đàn ông độc ác đó làm điều ấy với
chúng con rồi lại còn cho chúng con những ba đồng nữa kia
à?"
"Đúng, con thân yêu ạ. Sao con lại hỏi vậy?
"Thế này mẹ ạ, các linh mục chỉ cho chúng con táo
thôi."
Nhớ lấy, dục là tự nhiên. Người ta có thể vượt ra bên
ngoài nó, nhưng không phải qua kìm nén. Và nếu bạn kìm
nén nó, chẳng chóng thì chầy bạn sẽ tìm ra cách khác để
bầy tỏ nó, một loại hư hỏng nào đó nhất định sẽ đi vào; bạn
sẽ phải tìm ra cái thay thế nào đó. Và cái thay thế đó thì
chẳng ích chút nào; chúng không có ích, chúng không thể
có ích được. Và một khi một vấn đề tự nhiên đã bị biến
chất theo cách mà bạn quên mất nó, và nó đã sủi bọt lên ở
đâu đó khác thành một thứ thay thế thì bạn có thể tiếp tục
tranh đấu với cái thay thế đó, nhưng điều đó cũng chẳng ích
lợi chi.
Tôi đã từng nghe ...
Một người lạ bước vào một toa tầu chạy ở vùng ngoại
ô, trong đó đã có sẵn hai người đang ngồi. Một trong họ có
cử chỉ rất kì cục - anh ta cứ gãi gãi mãi khuỷu tay mình.
Việc gãi khuỷu tay này thu hút người lạ cho đến khi người
gãi đó xuống tàu.
"Anh bạn anh chắc phải đau buồn lắm," anh ta nói với
người kia.
"Quả thế; anh ta đã uống quá liều thuốc."
"Tôi không nói về thuốc, tôi đang nói về việc gãi hiện
tại thôi."
"Đúng, phải đấy, thuốc mà. Anh thấy đấy, anh ta là
người rất tôn giáo và là người phục vụ quần chúng nữa, và
chính việc gãi khuỷu tay ấy chỉ là sự thay thế."
Nhưng thay thế chẳng bao giờ có ích cả; chúng chỉ tạo
ra hư hỏng, ám ảnh. Cứ tự nhiên nếu một ngày nào đó bạn
muốn vượt ra ngoài tự nhiên. Tự nhiên, đó là yêu cầu đầu
tiên. Tôi không nói rằng không có gì lớn hơn tự nhiên; có
cái tự nhiên còn cao hơn - đó là toàn bộ thông điệp của Mật
tông. Nhưng hãy thật sự ở trên đất bằng nếu bạn thực sự
muốn vươn cao trên bầu trời.
Bạn không thấy cây cối đó sao? Chúng bắt rễ trong đất,
và khi chúng càng bắt rễ sâu hơn thì chúng lại càng vươn
cao hơn. Chúng càng muốn vươn cao hơn, chúng càng phải
cắm rễ sâu hơn vào lòng đất. Nếu cây muốn chạm tới các vì
sao thì cây sẽ phải đi sâu xuống chạm tới chính địa ngục -
đó là con đường duy nhất.
Bắt rễ trong thân thể mình đi nếu bạn muốn trở thành
linh hồn. Bắt rễ trong dục nếu bạn thực sự muốn trở thành
người yêu. Vâng, năng lượng càng được chuyển vào trong
tình yêu, càng ít có nhu cầu về dục, nhưng bạn không ghét
nó.
Ghét không phải là mối quan hệ đúng với bất kì điều
gì. Ghét đơn giản chỉ chứng tỏ rằng bạn đang sợ hãi, ghét
đơn giản chỉ biểu lộ rằng đang có nỗi sợ lớn bên trong bạn.
Ghét đơn giản chỉ bày tỏ rằng sâu bên dưới bạn vẫn bị hấp
dẫn. Nếu bạn ghét dục, năng lượng của bạn sẽ bắt đầu
chuyển tới một chỗ nào đó khác. Năng lượng phải chuyển
đi.
Con người, nếu người đó kìm nén dục, trở thành nhiều
tham vọng hơn. Nếu bạn thực sự muốn là người tham vọng,
bạn phải kìm nén dục; chỉ thế thì tham vọng mới có năng
lượng, bằng không bạn sẽ không có năng lượng nào. Chính
khách phải kìm nén dục; chỉ thế thì người đó mới có thể xô
về New Delhi. Năng lượng dục là cần, năng lượng dục bị
kìm nén là cần, giận dữ lớn là cần. Bất kì khi nào bạn kìm
nén dục, bạn đều giận dữ với toàn thế giới; bạn có thể trở
thành nhà cách mạng vĩ đại. Mọi nhà cách mạng nhất định
đều bị kìm nén về dục.
Trong một thế giới tốt đẹp hơn, dục sẽ đơn giản, tự
nhiên, được chấp nhận không có kiêng kị, cấm đoán nào,
chính trị sẽ biến mất và sẽ không có các nhà cách mạng
nữa. Sẽ không có nhu cầu. Khi một người kìm nén dục,
người đó trở thành quá gắn bó với tiền bạc; người đó phải
đặt năng lượng dục của mình vào đâu đó. Bạn chẳng từng
thấy có những người giữ lệnh phiếu vài trăm rupi cứ như là
họ đang chạm vào người yêu của mình sao? Bạn chẳng
thấy cùng sự thèm khát trong mắt họ đó sao? Nhưng điều
này là xấu xí. Ôm người đàn bà với tình yêu sâu sắc là đẹp
đẽ; ôm giữ lệnh phiếu trăm rupi với thèm khát chỉ là điều
xấu xí. Đấy là sự thay thế.
Bạn không thể đánh lừa con vật.
Một người đàn ông vào vườn bách thú và mang theo
đứa con; anh ta muốn chỉ cho đứa con xem khỉ ở đó. Đứa
con rất thích thú, nó chưa bao giờ thấy khỉ. Họ đi vào đó -
nhưng chẳng có con khỉ nào cả. Cho nên anh ta mới hỏi
người coi vườn bách thú, "Có chuyện gì thế này? Khỉ đâu
hết cả rồi?"
Người coi vườn bách thú nói, "Bây giờ là mùa tình yêu,
cho nên chúng nó đã đi vào trong lều rồi."
Người đàn ông này rất thất vọng. Trong nhiều tháng
anh ta đã cố đem đứa con lại, họ đã du hành một chặng
đường xa - và bây giờ lại là mùa tình yêu! Cho nên anh ta
hỏi, "Nếu chúng tôi ném hạt dẻ, liệu chúng có ra không?"
Còn người coi vườn bách thú thì trả lời, "Ông cứ thử
xem sao"
Nhưng tôi nghĩ con người có thể đi ra đấy, nếu chúng
ta ném hạt dẻ. Con người phải đi ra. Người coi vườn bách
thú lầm. Khỉ sẽ không ra, điều đó là chắc chắn. Nếu bạn
cho chúng tiền, chúng sẽ không tới, chúng sẽ nói, "Ông cứ
giữ lấy tiền, mùa tình yêu đang diễn ra! Giữ lấy tiền ông ạ."
Còn nếu bạn nói, "Chúng tao có thể làm mày thành tổng
thống Ấn Độ," chúng sẽ nói, "Ông cứ giữ lấy cái chức tổng
thống của ông, mùa tình yêu đang diễn ra!"
Nhưng con người, nếu bạn làm cho người đó thành
tổng thống, người đó có thể giết cả người yêu của mình;
nếu phải thiêu sống, người đó cũng làm. Đó là những điều
thay thế. Bạn không thể lừa phỉnh được con vật.
Tôi đã từng nghe ...
Một bà cô có một con vẹt luôn luôn lặp lại, "Tôi muốn
chọc! Tôi muốn chọc!" Cô ta cảm thấy hơi khó chịu cho tới
khi một người bạn đã có gia đình giải thích cho cô điều đó
nghĩa là gì. Thế là cô ấy trở nên rất cảnh giác. "Mình yêu
quí con chim đó, nhưng mình sẽ phải tống khứ nó đi bằng
không cha xứ sẽ chẳng bao giờ ghé thăm nữa," cô ấy nói.
Nhưng người bạn nhiều kinh nghiệm hơn của cô thì lại
nói, "Thôi được, nếu bạn thực sự yêu quí nó thì bạn cho nó
cái mà nó mong mỏi nhất, một con vẹt cái; thế thì nó sẽ
không còn tiếp tục nói câu ấy mọi lúc nữa."
Thế là bà cô đi tới hiệu chim, nhưng người chủ hiệu lại
nói, "Không, tôi không thể làm gì ngay bây giờ được.
Không con vẹt cái nào lại tới vào mọi mùa cả, thưa cô.
Nhưng tôi có thể bán cho cô một con cú cái với giá rất hời."
Có cái gì đó còn hơn không, cho nên bà cô tống con cú
vào chiếc chuồng vẹt và mong đợi hồi hộp.
"Tôi muốn chọc! Tôi muốn chọc!" con vẹt vẫn nói.
"Ôôô -ôôô!" con cú cái nói.
"Không phải mày, mày là đồ quái vật lồi mắt!" con vẹt
nói. "Tao không thể đứng cạnh đứa đàn bà đeo kính!"
Cái thay thế sẽ không có tác dụng. Con người vẫn đang
sống với những thứ thay thế. Dục là tự nhiên, tiền là phi tự
nhiên. Dục là tự nhiên; quyền lực, danh vọng, kính trọng,
đều phi tự nhiên. Nếu bạn thực sự muốn ghét cái gì đó, ghét
tiền bạc, ghét quyền lực, ghét danh vọng đi. Tại sao lại ghét
tình yêu?
Dục là một trong những hiện tượng đẹp nhất trên thế
giới. Tất nhiên, là cái thấp nhất, điều đó đúng, nhưng cái
cao hơn phải đi qua cái thấp hơn: hoa sen nở ra từ bùn đen.
Bạn đừng ghét bùn; bằng không làm sao bạn có thể giúp
bùn làm lộ ra hoa sen? Giúp cho bùn, chăm sóc bùn để cho
hoa sen được lộ ra. Chắc chắn hoa sen vươn xa khỏi bùn
đến mức bạn thậm chí không thể quan niệm được có bất kì
mối quan hệ gì. Nếu bạn thấy bông sen, bạn không thể tin
được rằng nó nảy sinh từ bùn - nhưng thực nó sinh ra từ
bùn; đó là là một cách diễn đạt của bùn.
Linh hồn thoát ra từ thân thể, tình yêu thoát ra từ dục.
Dục là với thân thể, tình yêu là điều tâm linh. Dục giống
như bùn, tình yêu giống như hoa sen. Nhưng không có bùn
thì không thể có hoa sen được. Cho nên đừng ghét bùn.
Toàn bộ thông điệp của Mật tông thực đơn giản; nó rất
khoa học và nó rất tự nhiên. Thông điệp đó là nếu bạn thực
sự muốn vượt ra ngoài thế giới, hãy đi vào thế giới một
cách sâu sắc, hoàn toàn tỉnh táo, hoàn toàn nhận biết.
#2Và câu hỏi cuối cùng:
Osho kính yêu, tôi có nhiều câu hỏi, nhưng
mỗi lần lại có một tiếng nói bên trong tôi
bảo rằng, "Chớ có hỏi - tự tìm ra cho mình."
Nhưng bây giờ điều đó quá nhiều, bởi vì tôi
không biết tiếng nói này tới từ đâu.
Câu hỏi này là từ Dharma Chetana. Bạn không nhận ra
giọng nói của tôi sao?
Đủ cho hôm nay.
************************************************************
#3 Phá vỡ bốn lớp xi
Khi nhận biết cao hơn, họ dạy điều họ kinh
nghiệm bên trong. Điều giam hãm họ, họ sẽ gọi
là giải phóng. Món nữ trang thuỷ tinh mầu xanh,
đối với họ là viên ngọc vô giá. Bị ảo tưởng, họ
không biết phân biệt viên ngọc với cái họ cứ
tưởng là ngọc.
Họ coi đồng là vàng. Bị ràng buộc với suy nghĩ
lan man, họ tưởng ý nghĩ này là thực tại tối
thượng. Họ mong mỏi hoan lạc được kinh
nghiệm trong giấc mơ. Họ gọi thâm-tâm mau tàn
là niềm phúc lạc tối cao vĩnh viễn.
Bằng biểu tượng EVAM họ nghĩ việc tự tẩy rửa
được đạt tới. Theo những tình huống khác nhau
đòi hỏi bốn lớp xi họ gọi điều họ đã tưởng tượng
là tính tự phát. Nhưng đây là nhìn vào sự phản
xạ trong gương.
Như dưới sức mạnh của ảo tưởng bầy hươu xô
về nguồn nước trong ảo tưởng không nhận ra,
cho nên ảo tưởng không làm dịu đi cơn khát của
chúng, chúng bị gắn vào xiềng xích và tìm thấy
hoan lạc trong chúng, nói rằng tất cả đều là thực
tế tối thượng.
Mật tông là siêu việt. Nó không si mê mà cũng chẳng
kìm nén. Nó là việc đi trên dây, nó là một trong những sự
quân bình lớn nhất. Nó không dễ dàng như nó có vẻ thế, nó
cần có nhận biết rất tinh tế. Nó là sự hài hoà vĩ đại.
Rất dễ dàng để cho tâm trí si mê. Điều đối lập cũng rất
dễ dàng: từ bỏ. Việc chuyển sang cực đoan này là rất dễ
dàng đối với tâm trí. Duy trì được ở giữa, chính giữa, là
điều khó khăn nhất cho tâm trí, bởi vì đấy chính là việc tự
tử của tâm trí. Tâm trí chết đi ở giữa và vô trí nảy sinh. Đó
là lí do tại sao Phật đã gọi con đường của mình là majjhim
nikaya - trung đạo. Saraha là một đệ tử của Phật, theo cùng
dòng truyền thừa, với cùng hiểu biết, với cùng nhận biết.
Cho nên điều rất cơ bản này cần phải được hiểu rõ,
bằng không bạn sẽ hiểu lầm Mật tông. Lằn ranh là gì? Đích
xác ở giữa là gì? Si mê trong thế giới này chẳng cần nhận
biết. Kìm nén các ham muốn trần tục, cũng chẳng cần tới
nhận biết. Cái gọi là người thế giới này của bạn và cái gọi
là người thế giới khác cũng chẳng khác nhau nhiều lắm; họ
có thể đứng quay lưng vào nhau nhưng họ chẳng khác nhau
chút nào, họ đều y hệt cùng một kiểu tâm trí. Ai đó khát
khao tiền bạc, và ai đó chống lại tiền bạc đến độ người đó
thậm chí không thể nhìn được tờ giấy bạc; người đó trở
thành sợ hãi và run rẩy phát sinh trong người đó. Những
người ấy chẳng khác nhau; với cả hai tiền đều rất quan
trọng. Một đằng thì tham lam, một đằng thì sợ hãi, nhưng
tầm quan trọng của tiền bạc là như nhau: cả hai đều bị tiền
ám ảnh.
Một người cứ nghĩ về đàn bà, mơ ước, tưởng tượng.
Người khác lại trở nên sợ hãi đến độ người đó phải trốn
thoát lên Himalayas chỉ để tránh đàn bà. Nhưng cả hai là
như nhau: với cả hai, đàn bà là quan trọng, hay đàn ông -
người khác là quan trọng. Người này tìm kiếm người khác,
người này tránh người khác, nhưng người khác vẫn còn là
tiêu điểm của họ.
Mật tông nói: Người khác phải không được là tiêu
điểm, không theo cách này cũng chẳng theo cách nọ. Điều
này chỉ có thể xảy ra thông qua hiểu biết sâu sắc. Thèm
khát đàn bà phải được hiểu - không si mê mà cũng chẳng
né tránh, nhưng phải hiểu. Mật tông là rất khoa học.
Từ khoa học có nghĩa là hiểu, từ khoa học có nghĩa là
biết. Mật tông nói: Việc biết giải phóng. Nếu bạn biết đích
xác tham lam là gì thì bạn được tự do khỏi tham lam;
không có nhu cầu từ bỏ nó. Nhu cầu từ bỏ nảy sinh chỉ bởi
vì bạn đã không hiểu tham lam là gì. Nhu cầu lấy lời
nguyện chống dục là được cần tới chỉ bởi vì bạn đã không
hiểu dục là gì. Và xã hội không cho phép bạn hiểu nó.
Xã hội giúp bạn không hiểu. Xã hội đã né tránh ngay
chính chủ đề dục và chết trong suốt nhiều thế kỉ. Các chủ
đề này không được nghĩ tới, không được suy tư tới, không
được thảo luận, không được viết ra, không được nghiên
cứu; chúng bị né tránh. Qua né tránh đó mà dốt nát lớn lao
về chúng tồn tại và dốt nát đó là căn nguyên. Thế thì có hai
kiểu người phát sinh từ dốt nát đó: một kiểu người si mê
điên dại, còn một loại thì trở nên rất mệt mỏi và trốn chạy.
Mật tông nói: Loại người si mê điên dại sẽ chẳng bao
giờ hiểu được vì người đó sẽ đơn giản lặp lại thói quen, và
người đó sẽ chẳng bao giờ nhìn vào thói quen đó cùng căn
nguyên của nó; người đó sẽ chẳng bao giờ nhìn vào quan
hệ nhân quả của nó. Và người đó càng si mê, người đó
càng trở nên máy móc.
Bạn chưa từng quan sát điều đó sao? Tình yêu đầu tiên
của bạn có cái gì đó tuyệt vời, tình yêu thứ hai không được
tuyệt vời như thế, tình yêu thứ ba thậm chí còn bình thường
hơn, tình yêu thứ tư trần tục. Điều gì đã xảy ra? Tại sao
tình yêu đầu tiên lại được ca ngợi đến thế? Tại sao mọi
người bao giờ cũng nói rằng tình yêu chỉ xảy ra có một lần?
Tại sao?... Bởi vì lần đầu tiên nó không phải là máy móc,
cho nên bạn có chút tỉnh táo về nó. Lần tiếp bạn đã trông
đợi về nó, nên bạn không thật tỉnh táo. Lần thứ ba bạn nghĩ
bạn biết về nó cho nên chẳng còn thám hiểm trong nó. Lần
thứ tư nó quá trần tục; bạn đã lắng đọng vào thói quen máy
móc.
Thông qua si mê dục trở thành thói quen. Vâng, nó
đem lại một chút xả hơi - tựa như hắt hơi, nhưng không
nhiều hơn thế. Nó là việc xả ra năng lượng về mặt vật lí.
Bạn trở nên quá nặng gánh với năng lượng, bạn phải vứt
năng lượng đó. Bạn thu thập nó qua thức ăn, qua luyện tập,
qua ánh sáng mặt trời - cứ thu thập nó rồi lại vứt nó đi - đó
là điều người si mê tiếp tục làm. Người đó tạo ra năng
lượng lớn rồi vứt đi, chẳng mục đích gì, chẳng ý nghĩa gì.
Có nó, người đó chịu đựng căng thẳng về nó. Vứt nó đi,
người đó chịu đựng yếu đuối về nó. Người đó đơn giản
chịu đựng.
Đừng bao giờ nghĩ rằng người si mê là người hạnh
phúc - đừng bao giờ! Người đó là người khổ nhất trên thế
giới. Làm sao người đó có thể hạnh phúc được? Người đó
hi vọng, người đó ham muốn hạnh phúc, nhưng người đó
chẳng bao giờ đạt được nó.
Nhưng nhớ lấy, khi nói về những điều này Mật tông
không đề nghị rằng bạn chuyển sang cực đoan khác. Mật
tông không nói rằng bạn nên trốn khỏi thế giới si mê này.
Trốn sẽ lại trở thành thói quen máy móc. Ngồi trong hang
núi, đàn bà không có sẵn, nhưng điều đó chẳng tạo ra nhiều
khác biệt lắm. Nếu bất kì lúc nào đàn bà trở nên có sẵn,
người đàn ông, người đã từ bỏ, sẽ lại còn dễ sa ngã hơn
người đang si mê trong thế giới. Bất kì cái gì bạn kìm nén
đều trở thành rất mạnh bên trong bạn.
Tôi đã từng nghe...
Có một lính cứu hoả bủn xỉn khủng khiếp cả đối với vợ
và ông chủ nhà. Một đêm anh ta đem về một chiếc bánh
thịt lợn tuyệt ngon và ăn bữa tối hết nửa cái bánh. Vợ anh
ta và ông chủ thì phải ăn bánh mì khô và pho mát. Anh ta
cẩn thận cất kĩ nửa cái bánh còn lại và rồi tất cả lên giường.
Giữa đêm chuông báo cháy reo vang và ông chủ gia
đình phải chạy đi. Người vợ, trần như nhộng, vào phòng
người chủ, lay ông ta dậy và nói, "Nó vừa đi rồi. Nhanh
lên! Bây giờ là cơ hội cho anh."
"Cô có chắc mọi việc ổn thoả chứ?" người chủ hỏi lại.
"Tất nhiên! Mau lên, đừng mất thời gian!"
Thế là người chủ nhà đi xuống cầu thang và ăn nốt cái
bánh thịt lợn.
Bây giờ điều đó đã là kìm nén của ông ta - miếng bánh
thịt lợn. Ông ta phải mơ ước về nó, nghĩ về nó, tưởng
tượng về nó. Người đàn bà trần như nhộng chẳng còn hấp
dẫn gì anh ta, nhưng miếng bánh thịt lợn thì...
Nhớ lấy, bất kì cái gì bạn kìm nén đều sẽ trở thành hấp
dẫn, sẽ trở thành lôi kéo hấp dẫn với bạn. Cái bị kìm nén
trở thành mạnh mẽ; nó thu được sức mạnh theo mọi tỉ lệ.
Nghe giai thoại này...
Sâu trong khu công viên cây cối tươi đẹp có hai bức
tượng đồng đáng yêu đứng đó, một đứa con trai và một đứa
con gái đang trong tư thế yêu đương và khao khát mãnh
liệt. Chúng đã đứng đó ba trăm năm nay, cánh tay chúng
vươn tới nhau, khao khát nhưng chưa bao giờ chạm vào
nhau được. Một hôm, một nhà ảo thuật đi qua và động lòng
từ bi nói, "Ta có đủ quyền năng để cho chúng sống trong
một giờ, nên ta sẽ thực hiện việc này. Trong một giờ chúng
sẽ có thể hôn nhau, chạm vào nhau, ôm nhau, làm tình với
nhau."
Thế là nhà ảo thuật vẫy chiếc đũa thần và ngay lập tức
hai bức tượng nhảy phóc ra khỏi đế tượng tay nắm tay nhau
chạy tuốt vào bụi cây.
Những tiếng động lớn... tiếng đấm thùm thụp, tiếng hò
hét, tiếng kêu oai oái và tiếng vỗ cánh. Không cưỡng nổi tò
mò nhà ảo thuật nhón chân ngó sát qua lá cây. Đứa con trai
đang ấn dí một con chim xuống, còn đứa con gái đang ngồi
xổm lên con chim đó. Bỗng nhiên đứa con trai nhảy lên và
kêu ầm ĩ, "Bây giờ đến lượt đằng ấy giữ nó trong khi tớ ỉa
vào nó!"
Đã ba trăm năm nay chim tới ỉa lên chúng... thế thì còn
ai bận tâm tới việc làm tình nữa? Đó chính là kìm nén của
chúng.
Bạn có thể đi và ngồi trong hang núi và trở thành bức
tượng, nhưng cái mà bạn đã kìm nén sẽ lởn vởn quanh bạn,
sẽ là cái duy nhất bạn luôn luôn nghĩ tới.
Mật tông nói: Nhận biết... nhận biết về si mê và hãy
nhận biết về từ bỏ. Nhận biết cả hai, cả hai đều là bẫy. Và
bạn bị mắc bẫy theo cả hai cách trong tâm trí.
Thế thì đâu là con đường? Mật tông nói: Nhận biết là
con đường. Si mê là máy móc, kìm nén là máy móc, cả hai
đều là những điều máy móc. Cách duy nhất thoát ra khỏi
điều máy móc là trở nên nhận biết, tỉnh táo. Đừng đi lên
Himalayas, đem im lặng của Himalayas vào bên trong bạn.
Đừng trốn, trở nên tỉnh thức nhiều hơn. Nhìn sâu vào mọi
điều mà không sợ hãi... không sợ nhìn sâu vào mọi điều.
Đừng nghe điều những người vẫn được gọi là tôn giáo cứ
thuyết giảng. Họ làm cho bạn sợ, họ không cho phép bạn
nhìn vào dục, họ không cho phép bạn nhìn vào cái chết. Họ
đã khai thác nỗi sợ của bạn tối đa.
Cách duy nhất để khai thác một người là trước tiên làm
cho người đó sợ. Một khi bạn sợ, bạn đã sẵn sàng bị khai
thác. Sợ hãi là điều cơ bản, nó phải được tạo ra trước hết.
Bạn đã bị làm cho sợ hãi: dục là tội lỗi. Cho nên có nỗi sợ...
Ngay cả trong khi làm tình với người đàn bà hay người đàn
ông của mình bạn cũng chẳng bao giờ nhìn thẳng vào đó,
thậm chí trong khi làm tình bạn cũng đang tránh né. Bạn
đang làm tình và tránh né. Bạn không muốn nhìn vào trong
thực tại của nó - nó đích xác là cái gì, tại sao nó lại mê đắm
vậy, tại sao nó lại có lôi kéo hấp dẫn với bạn đến thế - tại
sao? Nó đích xác là gì, làm sao nó lại nảy sinh, làm sao nó
lại sở hữu bạn, nó cho cái gì và nó dẫn đến đâu? Điều gì
xảy ra trong nó và điều gì xảy ra từ nó? Bạn đi đến đâu khi
cứ làm tình đi làm tình lại như thế? Bạn có đến được bất kì
nơi nào không? Những điều này đều cần phải được đương
đầu.
Mật tông là đương đầu với thực tại cuộc đời. Và dục là
nền tảng, chết cũng vậy. Chúng là hai luân xa nền tảng, cơ
bản nhất - muladhar và swadhishthan. Hiểu chúng thì luân
xa thứ ba mở ra. Hiểu được luân xa thứ ba, luân xa thứ tư
mở ra, và cứ thế tiếp diễn. Khi bạn đã hiểu được sáu luân
xa, chính hiểu biết đó sẽ đụng vào luân xa thứ bảy và nó nở
thành hoa sen một nghìn cánh. Ngày đó là niềm vinh quang
huy hoàng. Ngày đó Thượng đế đến với bạn, ngày đó bạn
đến với Thượng đế; ngày đó là ngày hội ngộ. Ngày đó là
ngày của cực thích vũ trụ. Ngày đó bạn ôm choàng lấy điều
thiêng liêng và điều thiêng liêng ôm choàng lấy bạn. Ngày
đó dòng sông tan biến vào trong đại dương mãi mãi và mãi
mãi; thế thì không có việc quay lại nữa.
Nhưng từ mỗi trạng thái của tâm trí, bạn phải thu được
hiểu biết. Dù bạn ở bất kì đâu, chớ sợ hãi. Đó là thông điệp
của Mật tông: dù bạn ở bất kì đâu, chớ sợ hãi. Vứt bỏ chỉ
một điều - sợ hãi. Chỉ một thứ phải sợ thôi và đó là nỗi sợ.
Không sợ hãi, với lòng dũng cảm lớn, nhìn thẳng vào thực
tại, dù thực tại đó là gì đi chăng nữa. Nếu bạn là tên trộm,
nhìn vào điều đó. Nếu bạn là người giận dữ, nhìn vào điều
đó. Nếu bạn là kẻ tham lam, nhìn vào điều đó. Dù bạn ở bất
kì đâu, nhìn vào đó. Đừng trốn. Nhìn vào trong đó, đi vào
trong đó. Khi quan sát, đi vào vào nó. Nếu bạn có thể bước
trên con đường vào tham, vào dục, vào giận dữ, vào ghen
tị, với đôi mắt mở to, bạn sẽ được tự do với nó.
Đây là lời hứa của Mật tông: Chân lí đem lại giải
phóng. Hiểu biết đem lại tự do. Hiểu biết là tự do. Bằng
không, dù bạn có kìm nén hay bạn si mê, kết cục là như
nhau.
Chuyện đã xảy ra...
Có một người đàn ông với cô vợ rất hấp dẫn. Nhưng
anh ta bắt đầu nghi ngờ cô ấy... điều đó cũng tự nhiên. Bạn
có người vợ càng đẹp thì bạn càng có nhiều nghi ngờ.
Mulla Nasruddin đã cưới một trong những người đàn
bà xấu nhất. Tôi hỏi, "Mulla, sao vậy? Cái gì không ổn
chăng? Cái gì xâm chiếm bạn vậy?"
Anh ta đáp, "Chẳng có gì cả, chỉ là hiểu biết."
Tôi nói, "Đấy là kiểu hiểu biết gì vậy?"
Anh ta nói, "Bây giờ thì tôi sẽ không bao giờ ghen
tuông và tôi sẽ không bao giờ nghi ngờ vợ mình, bởi vì tôi
không thể tưởng tượng nổi người nào yêu được cô ấy nữa."
Người đàn ông này rất nghi ngờ về cô ấy. Cuối cùng
anh ta không thể kìm lâu hơn nữa. Ban đêm anh ta xin phép
quản đốc đi ra rồi trở về nhà lúc hai giờ sáng, thấy chiếc xe
của anh bạn thân nhất bên ngoài, y như anh ta đã sợ hãi.
Anh ta lẻn vào, bò lên cầu thang và xô vào trong phòng ngủ
của vợ. Trong đó cô ta đang nằm trên giường - trần như
nhộng nhưng hút thuốc và đọc sách.
Anh ta phát rồ và lục lọi dưới gầm giường, trong tủ
quần áo, cả trong tủ đứng thông gió, nhưng chẳng tìm thấy
người đàn ông nào. Anh ta cáu tiết và đập phá phòng ngủ.
Rồi anh ta nhìn sang phòng khách - ném ti vi ra ngoài cửa
sổ, đập vỡ ghế bành, lật đổ bàn và tủ bát đĩa. Rồi anh ta
chuyển sự chú ý sang nhà bếp, ở đó anh ta đập bát đĩa tan
thành từng mảnh rồi ném tủ lạnh qua cửa sổ. Rồi anh ta tự
bắn vào mình.
Khi anh ta lên đến cổng trời, người mà anh ta muốn
gặp đang đứng đợi để vào cửa và đó chính là người bạn
thân đã chết của anh ta, người đó nói, "Cậu đang làm gì ở
đây thế này?"
Thế là người chồng lầm lỗi giải thích tất cả về việc anh
ta đã mất tự chủ trong cơn giận và mọi chuyện về nó, rồi
anh ta nói thêm, "Nhưng việc xảy ra thế nào mà cậu lại
cũng đến đây thế?"
"A, tớ á? Tớ nằm trong tủ lạnh đấy."
Cả hai đều kết thúc theo cùng một cách - dù bạn trong
hang núi Himalayas hay trong thế giới thì cũng chẳng khác
nhau nhiều lắm. Cuộc sống si mê và cuộc sống kìm nén cả
hai đều kết thúc theo cùng cách bởi vì cơ chế của chúng là
không khác. Dáng vẻ bên ngoài của chúng có khác nhưng
phẩm chất bên trong thì như nhau.
Nhận biết đem đến phẩm chất khác cho cuộc sống của
bạn. Với nhận biết mọi thứ bắt đầu thay đổi, thay đổi vô
cùng lớn lao. Không phải là bạn thay đổi chúng, không,
hoàn toàn không chút nào. Con người của nhận biết chẳng
thay đổi điều gì còn con người của vô nhận biết thì liên tục
cố gắng thay đổi mọi thứ. Nhưng người vô nhận biết chẳng
bao giờ thành công trong việc thay đổi cái gì, còn người có
nhận biết đơn giản tìm thấy thay đổi xảy ra, thay đổi cực kì
lớn xảy ra.
Chính nhận biết đem lại thay đổi, không phải là nỗ lực
của bạn. Tại sao điều ấy lại xảy ra thông qua nhận biết? -
bởi vì nhận biết làm thay đổi bạn. Và khi bạn khác đi thì
toàn bộ thế giới cũng khác đi. Vấn đề không phải là việc
tạo ra một thế giới khác, vấn đề là tạo ra một bạn khác. Bạn
là thế giới của mình, cho nên nếu bạn thay đổi thì thế giới
này thay đổi. Nếu bạn không thay đổi, bạn có thể vẫn cứ
tìm cách thay đổi toàn bộ thế giới - nhưng chẳng có gì thay
đổi cả; bạn sẽ cứ tạo ra cũng thế giới cũ lặp đi lặp lại. Bạn
tạo ra thế giới của bạn. Chính là từ bạn mà thế giới của bạn
mới được phóng chiếu ra.
Mật tông nói: Nhận biết là chìa khoá, chìa khoá chủ mở
mọi cánh cửa cuộc đời. Cho nên nhớ lấy, đấy thực sự là
điều tinh tế... Nếu tôi nói về ngu xuẩn của kìm nén, bạn bắt
đầu nghĩ về si mê; nếu tôi nói về ngu xuẩn của si mê, bạn
lại bắt đầu nghĩ về kìm nén. Điều đó xảy ra hàng ngày: bạn
chuyển ngay sang cái đối lập. Và toàn bộ vấn đề không
phải là bị quyến rũ bởi cái đối lập. Bị quyến rũ bởi cái đối
lập tức là bị quyến rũ bởi quỉ. Đó là quỉ trong hệ thống Mật
tông, bị quyến rũ bởi cái đối lập. Không có quỉ nào khác;
quỉ duy nhất là ở chỗ tâm trí có thể chơi xỏ bạn, nó có thể
đề nghị cái đối lập.
Bạn chống lại si mê sao? Tâm trí nói, "Đơn giản thế...
bây giờ kìm nén đi. Đừng si mê nữa, trốn đi. Bỏ cả thế giới
này đi. Quên ráo mọi điều về nó." Nhưng làm sao bạn có
thể quên được tất cả về nó? Quên tất cả về nó đi đơn giản
vậy sao? Thế thì tại sao bạn lại trốn cho thật xa? Thế thì tại
sao bạn lại sợ hãi? Nếu bạn có thể quên tất cả về nó đơn
giản như vậy, cứ ở đây và quên mọi điều về nó đi. Nhưng
bạn không thể ở đây được, bạn biết thế giới này sẽ quyến rũ
bạn. Và hiểu biết tạm bợ này, hiểu biết giả tạm này mà bạn
nghĩ bạn đã thu được, sẽ chẳng có ích gì nhiều. Khi quyến
rũ tới từ ham muốn, bạn sẽ thành nạn nhân; bạn biết điều
đó. Trước khi nó xảy ra bạn muốn trốn đi, bạn muốn thoát
thật nhanh. Bạn muốn thoát khỏi cơ hội ấy. Tại sao? Tại
sao bạn muốn trốn thoát khỏi cơ hội ấy?
Ở Ấn Độ cái gọi là thánh nhân ấy sẽ không ở với bà
quản gia. Sao vậy? Nỗi sợ là gì? Ở Ấn Độ cái gọi là các
thánh nhân ấy sẽ không chạm tới đàn bà, thậm chí còn
không nhìn họ nữa. Sao vậy? Nỗi sợ là gì? Cái sợ này đến
từ đâu? Chỉ để tránh né cơ hội... Nhưng việc tránh né cơ
hội không phải là thành tựu lớn lao gì. Và bởi việc tránh né
cơ hội, nếu bạn đạt tới vô dục nào đó, vô dục đó cũng là
giả.
Tôi đã từng nghe...
Một người dân quê vào một quán rượu Luân đôn cùng
với một con chó. Người này gọi nửa lít sữa, con chó gọi
một cốc rượu nhẹ. "Cái chết tiệt gì đây...?" người chủ quán
hỏi.
"Vâng," chủ con chó nói, "nó là con chó thông minh
nhất trong khu miền tây này. Tôi đem nó đến đây để ngắm
cảnh thành phố."
"Nếu tôi đưa cho nó năm xu liệu nó có mua về cho tôi
một tờ báo được không?” người chủ quán nói - "bởi vì tôi
quên mất chưa mua tờ báo."
"Tất nhiên tôi có thể mua được," con chó ăng ẳng nói.
Thế rồi nhận lấy tiền, "Tôi về ngay đấy..."
Con chó chẳng quay lại, cho nên sau một giờ người chủ
lo lắng phải đi tìm. Cuối cùng ông ta tìm ra con chó của
mình ở sau ngõ hẻm đang đùa nghịch với con chó sói cái.
"Đồ chết dẫm!" người chủ nói. "Mày chưa bao giờ làm
việc đó trước đây à."
"Chưa," con chó nói, "trước đây tôi chưa bao giờ có
tiền cả."
Chỉ để tránh cơ hội thì cũng chẳng ích lợi gì nhiều, đấy
chỉ là bề ngoài giả; bạn có thể tin vào nó nhưng bạn không
thể lừa được Thượng đế. Trong thực tế bạn thậm chí không
thể lừa được chính mình. Liên tục trong giấc mơ của bạn,
điều bạn bỏ lại đằng sau theo cách kìm nén sẽ thòi ra hết
lần nọ tới lần kia. Nó sẽ làm cho bạn thành quá si mê. Cái
gọi là thánh nhân của bạn thậm chí còn không có khả năng
ngủ ngon, họ sợ giấc ngủ. Sao vậy? - bởi vì trong giấc ngủ,
thế giới mà họ đã kìm nén lại tự khẳng định chính nó trong
giấc mơ. Vô thức bắt đầu liên hệ, vô thức nói, "Mình làm gì
ở đây? Mình là đồ ngu." Vô thức trải tấm lưới của nó ra.
Trong khi bạn đang tỉnh thức bạn có thể kìm nén,
nhưng khi bạn đang ngủ thì làm sao bạn có thể kìm nén
được nó? Bạn mất mọi kiểm soát. Ý thức kìm nén, nhưng ý
thức lại đi ngủ. Đó là lí do tại sao trong mọi truyền thống
cổ các vị thánh bao giờ cũng sợ giấc ngủ. Họ cắt giấc ngủ
từ tám tiếng xuống bẩy, từ bẩy xuống sáu, từ sáu xuống
năm... bốn, ba, hai. Và người ngu nghĩ đấy là thành tựu lớn.
Họ nghĩ, "Ông thánh này là một thánh nhân vĩ đại, ông ta
chỉ ngủ có hai tiếng." Trong thực tế ông ta đơn giản chỉ bầy
tỏ mỗi một điều - rằng ông ta sợ vô thức của mình. Ông ta
không cho phép vô thức có thời gian liên hệ.
Khi bạn ngủ có hai tiếng, vô thức không thể có liên hệ
được, bởi vì hai tiếng đó là cần cho thân thể nghỉ ngơi. Bạn
mơ giấc mơ tốt hơn, giấc mơ hay, giấc mơ đẹp trước lúc
giấc ngủ của bạn đã hoàn tất - đó là lí do tại sao bạn mơ tốt
hơn vào buổi sáng, vào sáng sớm. Trước hết thân thể cần
phải được sang sửa, thân thể cần nghỉ ngơi. Một khi thân
thể đã nghỉ thì tâm trí cần nghỉ; đó là điều thứ hai.
Một điều là ở chỗ khi tâm trí cần nghỉ thì vô thức, trong
tâm trạng nghỉ ngơi, thả ra các ham muốn của nó và giấc
mơ nảy sinh. Điều thứ hai là ở chỗ nếu bạn chỉ nghỉ có hai
giờ trong đêm thì có thể có giấc mơ nhưng bạn sẽ không
thể nào nhớ được chúng. Đó là lí do tại sao bạn chỉ nhớ
những giấc mơ cuối cùng mà bạn mơ vào sáng sớm. Bạn
quên mất các giấc mơ khác của cả đêm vì bạn đã chìm sâu
vào trong giấc ngủ đến mức bạn không thể nhớ được. Cho
nên thánh nhân nghĩ ông ta đã không mơ về dục, ông ta đã
không mơ về tiền, ông ta đã không mơ về quyền lực, danh
vọng, kính trọng. Nếu ông ta ngủ có hai tiếng thì giấc ngủ
sẽ sâu, nó là sự cần thiết cho thân thể, điều ấy gần giống nh
hôn mê, cho nên ông ta không thể nhớ được. Bạn nhớ được
giấc mơ chỉ khi bạn nửa thức nửa ngủ. Thế thì giấc mơ có
thể được nhớ lại, bởi vì nó gần với ý thức; nửa ngủ, nửa
thức, cái gì đó của giấc mơ lọt vào ý thức bạn, chuyển vào
trong ý thức. Vào buổi sáng bạn có thể nhớ được một chút
ít về nó. Đó là lí do tại sao bạn sẽ ngạc nhiên rằng nếu bạn
đến hỏi người lao động đã làm việc vất vả cả ngày, "Anh có
mơ không?" thì anh ta sẽ nói, "Không."
Người nguyên thuỷ không mơ. Nói họ không mơ cũng
chưa đúng - họ không thể nhớ được, có vậy thôi. Mọi
người đều mơ, nhưng họ không thể nhớ được. Làm việc vất
vả cả ngày, chặt củi hay đào mương hay đập đá là những
việc nặng nhọc, tám tiếng, đến mức khi bạn chìm vào giấc
ngủ là bạn gần như trong cơn mê. Giấc mơ tới nhưng bạn
không thể nào nhớ được, bạn không thể nào nắm được
chúng.
Bây giờ cái gọi là các thánh nhân của bạn bao giờ cũng
sợ ngủ... Có một lần một thanh niên được đem tới tôi. Anh
ta sắp mất trí. Anh ta là tín đồ của Swami Sivananda ở
Rishikesh. Tôi hỏi anh ta, "Có chuyện gì với anh vậy?"
Anh ta đáp, "Chẳng có gì thành vấn đề cả. Tôi là người tâm
linh. Người ta nghĩ rằng tôi sắp mất trí."
Tôi hỏi bố mẹ anh ta - họ rất lo lắng; tôi đi vào chi tiết.
Chi tiết là thế này: anh ta tới gặp Swami Sivananda và
Sivananda nói, "Anh ngủ nhiều quá. Như thế không tốt cho
lành mạnh tâm linh, anh nên ngủ ít hơn." Thế là anh ta cắt
bớt giấc ngủ xuống ba tiếng - từ tám tiếng xuống còn ba!
Bây giờ anh ta bắt đầu cảm thấy buồn ngủ cả ngày,
cũng tự nhiên thôi. Cho nên Sivananda nói, "Anh là
tamasic, anh có năng lượng rất thấp, xấu trong mình. Hãy
thay đổi thức ăn đi. Anh phải đã ăn thức ăn làm cho anh
nặng nề và buồn ngủ." Thế là anh ta bắt đầu sống chỉ bằng
sữa. Bây giờ anh ta bắt đầu trở nên yếu ớt. Đầu tiên giấc
ngủ bị cắt bớt, rồi đến thức ăn cũng bị cắt bớt, bây giờ thì
anh ta đang trong trạng thái mà bất kì lúc nào anh ta cũng
có thể ngã đổ.
Không có thức ăn sẽ khó cho bạn đi vào giấc ngủ sâu
cho dù chỉ có ba tiếng; thức ăn là cái phải có cho giấc ngủ
ngon. Khi dạ dầy chẳng có gì để tiên hoá toàn bộ năng
lượng sẽ chuyển vào đầu. Đấy là lí do tại sao vào ngày nhịn
ăn bạn không thể ngủ say. Năng lượng không còn ở trong
dạ dầy, nó thoát lên đầu. Khi năng lượng được cần tới trong
dạ dầy thì đầu không thể lấy được nó bởi vì đầu là thứ yếu,
dạ dầy là chủ yếu.
Có một thứ bậc chắc chắn trong thân thể... những cái
đứng đầu phải được thoả mãn trước. Dạ dầy là cơ sở. Dạ
dầy có thể tồn tại không cần đầu, nhưng đầu không thể tồn
tại không có dạ dầy. Cho nên dạ dầy là cơ sở, nền tảng hơn;
khi dạ dầy cần năng lượng, nó sẽ kéo năng lượng từ mọi
nơi về.
Bây giờ anh ta thậm chí còn không thể ngủ được ba
tiếng nữa. Mắt anh ta trở nên đờ đẫn, chết; thân thể anh ta
mất mọi óng ả, sinh động và có run rẩy tinh vi. Cầm tay
anh ta, tôi có thể cảm thấy toàn bộ thân thể anh ta run rẩy;
trong nhiều tháng trời thân thể đã không được nghỉ ngơi.
Và bây giờ anh ta nghĩ rằng anh ta đang trở thành tâm linh.
Kiểu vô nghĩa này đã tiếp diễn đủ lâu để trở thành đáng
kính trọng. Khi một điều tiếp diễn đủ lâu, nó trở nên đáng
kính - chỉ bởi vì nó đã có đó khá lâu.
Trong thực tế, lắng nghe thân thể mình đi, nhu cầu của
thân thể mình. Lắng nghe tâm trí bạn, lắng nghe nhu cầu
của tâm trí bạn. Đừng lẩn tránh. Đi vào trong những nhu
cầu đó, thám hiểm những nhu cầu này với sự quan tâm trìu
mến. Thân thiện với thân thể bạn, thân thiện với tâm trí
bạn, nếu bạn muốn vượt ra ngoài chúng một ngày nào đó.
Thân thiện là điều rất bản chất. Đó là tầm nhìn Mật tông về
cuộc sống: Thân thiện với năng lượng cuộc sống. Đừng trở
thành đối kháng.
Bây giờ đến lời kinh. Những lời kinh này có ý nghĩa
lớn lao. Saraha nói với nhà vua:
Khi nhận biết cao hơn, họ dạy điều họ kinh nghiệm bên
trong.
Điều giam hãm họ, họ sẽ gọi là giải phóng.
Món nữ trang thuỷ tinh mầu xanh, đối với họ là viên
ngọc vô giá.
Bị ảo tưởng, họ không biết ngọc trong cái họ cứ tưởng
là ngọc.
Ông ấy đang nói về cái gọi là mahatmas, cái gọi là
những nhà yoga, theo cùng cách như tôi cứ nói đi nói lại về
cái gọi là các thánh nhân. Saraha đang nói:
Khi nhận biết cao hơn, họ dạy điều họ kinh nghiệm bên
trong.
Bây giờ đây là một phát biểu vĩ đại. Nó phải được giải
mã. Trước hết: kinh nghiệm tối thượng về thực tại không
phải là kinh nghiệm chút nào, bởi vì khi bạn kinh nghiệm
cái gì đó, bao giờ cũng có nhị nguyên - người kinh nghiệm
và cái được kinh nghiệm. Cho nên không thể có kinh
nghiệm tối thượng theo nghĩa là bạn kinh nghiệm bản thân
mình, không. Làm sao bạn có thể kinh nghiệm bản thân
mình được? Thế thì bạn sẽ bị phân chia thành hai, thế thì
nhị nguyên chủ thể-đối thể sẽ đi vào.
Mật tông nói: Bất kì cái gì bạn biết, biết rằng bạn
không phải là cái đó. Đây là một tuyên bố vĩ đại, một sự
sáng suốt rất thấu đáo. Nếu bạn thấy cái gì đó, biết rõ rằng
bạn không phải là cái đó, bởi vì bạn là người thấy. Bạn
chẳng bao giờ là cái được thấy. Bạn không thể bị thu lại
thành một vật. Bạn là tính chủ thể, chủ thể thuần tuý, chủ
thể không rút gọn lại được; không có cách nào biến bạn
thành một vật, thành một thứ. Bạn không thể đặt bản thân
mình ra trước chính mình, bạn làm được không? Bạn
không thể đặt chính mình ra trước bản thân mình bởi vì bất
kì cái gì bạn đặt ra đó đều sẽ không phải là bạn. Bạn bao
giờ cũng là người mà mọi thứ được đặt ra trước bạn.
Saraha nói: Chân lí không phải là kinh nghiệm - không
thể được. Chân lí là việc kinh nghiệm, không phải là kinh
nghiệm. Nó là việc biết, không phải là tri thức. Khác biệt là
lớn. Bạn kinh nghiệm một điều khi nó tách biệt với bạn.
Bạn không thể kinh nghiệm bản thân mình theo cùng cách.
Cho nên Mật tông đã đặt ra một từ khác: 'việc kinh
nghiệm'. Trong tiếng Phạn chúng ta có hai từ: anubhav,
anubhuti. Anubhav nghĩa là kinh nghiệm; anubhuti nghĩa là
việc kinh nghiệm. Chẳng có gì để kinh nghiệm. Chẳng có
gì ở phía trước bạn, chỉ có trống rỗng; nhưng bạn có đó,
hoàn toàn có đó, không có gì che khuất. Không có đối thể...
thuần tuý chủ thể: chỉ có bình chứa, không có nội dung.
Cuốn phim đã dừng... chỉ có màn ảnh, thuần tuý màn ảnh
trắng... Nhưng không ai nhìn vào màn ảnh trắng này: bạn là
màn ảnh trắng đó. Do dó có một từ mới: anubhuti, việc
kinh nghiệm.
Trong tiếng Anh không có từ tách biệt, cho nên tôi phải
dùng 'việc kinh nghiệm'. Để chỉ ra sự khác biệt: kinh
nghiệm trở thành sự vật, việc kinh nghiệm là quá trình,
không phải là sự vật. Tri thức là sự vật, việc biết là quá
trình. Tình yêu là sự vật; việc yêu là quá trình.
Và Mật tông nói: cốt lõi bên trong nhất của bạn bao
gồm các quá trình, không phải là các vật. Việc biết có đó,
không có tri thức. Việc yêu có đó, không có tình yêu. Danh
từ không tồn tại, chỉ có động từ! Đây là cái nhìn sâu sắc
vào thực tại. Chỉ động từ. Khi bạn nói, "Đây là cái cây,"
bạn đang thiết lập một sự vật rất sai: phải nói đây là việc
thành cây, không phải là cái cây, bởi vì nó đang lớn lên, nó
không phải là vật tĩnh tại. Khi bạn nói, "Đây là con sông,"
nhìn vào điều bạn đang nói - vô nghĩa. Đấy là sông đang
chảy, nó đang chuyển động, nó là năng động. Không một
khoảnh khắc nào nó như cũ, cho nên tại sao bạn lại gọi nó
là 'con sông'? Ngay cả tảng đá cũng không phải là tảng đá,
nó cũng là một quá trình.
Sự tồn tại bao gồm không chỉ các vật mà còn cả các
biến cố. Đừng nói với người đàn bà, "Anh yêu em." Nói,
"Anh đang trong trạng thái yêu." Tình yêu không phải là
vật; bạn chỉ có thể trong trạng thái yêu, bạn không thể yêu.
Có ngôn ngữ của các phật tử trong đó mọi thứ tồn tại
như quá trình. Khi lần đầu tiên Kinh thánh được dịch sang
một số nước theo Phật giáo - Miến điện, Thái lan - các nhà
truyền giáo Ki tô giáo lúng túng, họ không thể tìm ra được
từ chỉ Thượng đế. Bởi vì nếu bạn nói con sông là dòng
sông đang chảy thì vẫn được, cây là đang thành cây thì vẫn
được, đàn ông là đang thành đàn ông và đàn bà là đang
thành đàn bà thì vẫn được. Nhưng về Thượng đế - ngài
đang đấy! Không có việc trở thành Thượng đế. Nhưng
trong tiếng Miến điện mọi từ đều thực sự là động từ. Mỗi
động từ đều biểu lộ sự trở thành. Nhưng để gọi Thượng đế
là 'trở thành', là quá trình, thì thật khó khăn cho người Ki tô
giáo, rất khó. Thượng đế hiện hữu... bao giờ cũng như thế,
vĩnh viễn như thế. Chẳng có gì xảy ra cho Thượng đế cả.
Phật tử nói nếu không có gì xảy ra cho Thượng đế thì
ngài chết, thế thì làm sao ngài có thể sống được? Cuộc sống
là nơi mọi thứ xảy ra. Cuộc sống đang xảy ra. Và về kinh
nghiệm tối thượng... Nói điều này về thực tại trần tục thì
cũng được. Bạn có thể nói, "Đây là cái ghế," và chẳng cần
bận tâm nhiều về nó; điều ấy đơn giản. Bây giờ để nói về
mọi thứ, "Đây là việc thành cái ghế và đây là việc thành
cây," điều đó sẽ tạo ra khó khăn trong cách diễn đạt. Nhưng
về thực tại tối thượng người ta phải rất tỉnh táo. Ít nhất tại
đó người ta nên tỉnh táo.
Saraha nói:
Khi nhận biết cao hơn, họ dạy điều họ kinh nghiệm..
Bây giờ nếu bạn đã đọc sách của học giả Gopi Krishna,
ông ấy nói kundalini là kinh nghiệm tối thượng. Không thể
là như vậy được. Saraha sẽ không đồng ý, ông ấy sẽ cười
học giả Gopi Krishna.
Nếu bạn kinh nghiệm năng lượng nào đó dâng lên
trong cột sống mình, bạn là người đang thấy nó. Cột sống
là tách biệt, cho nên kundalini đang lên trong đó cũng là
tách biệt. Làm sao bạn có thể là nó được? Tôi có thể thấy
bàn tay này: chỉ bởi vì thấy bàn tay này mà tôi đã trở thành
tách biệt với bàn tay đó. Tôi không thể là bàn tay này. Tôi
đang dùng bàn tay này, nhưng tôi tách biệt với bàn tay này.
Có thể tôi đang bên trong bàn tay, nhưng tôi không thể là
bàn tay được.
Kundalini không phải là kinh nghiệm tâm linh. Kinh
nghiệm tâm linh đơn giản có nghĩa là khoảnh khắc khi
không có gì được kinh nghiệm. Mọi kinh nghiệm đều tan
biến, bạn ngồi một mình trong sự thuần khiết của mình.
Bạn không thể gọi nó là kinh nghiệm được.
Cho nên Saraha nói: Những người được gọi là nhà
yoga và thánh nhân cứ nói rằng họ đã đạt tới tâm thức cao
hơn. Và họ đã đạt tới cái gì vậy? Kundalini của ai đó đã
dâng lên, ai đó đã thấy ánh sáng xanh bên trong, và mọi thứ
đại loại như vậy. Ai đó đã thấy linh ảnh: ai đó đã thấy
Krishna và ai đó đã thấy Mohammed, và ai đó đã thấy
Mahavira và ai đó đã thấy Mẹ Kali - nhưng tất cả những cái
đó đều chỉ là hình dung.
Mọi kinh nghiệm đều là hình dung.
Từ hình dung cũng hay; nó bắt nguồn từ 'hình ảnh'.
Mọi kinh nghiệm đều chẳng là gì khác hơn là những hình
ảnh nổi lên trong tâm thức bạn. Khi không có gì nổi lên
trong tâm thức bạn - nhớ lây, thậm chí không có cả cái
'không có gì' nổi lên trong tâm thức bạn - khi tâm thức bạn
đơn giản có đó mà không có nội dung, cái thuần khiết phi
nội dung đó mới chính là cái mà Mật tông gọi là kinh
nghiệm thật. Bạn không thể gọi nó là kinh nghiệm được -
bởi chính bản chất của nó, nó không phải là kinh nghiệm.
Khi bạn chứng kiến người chứng kiến thì làm sao bạn có
thể gọi nó là việc chứng kiến? Khi bạn biết về người biết
thì làm sao bạn có thể gọi nó là hiểu biết?
Cho nên điều đầu tiên ông ấy nói là : Khi nhận biết cao
hơn, họ dạy điều họ kinh nghiệm bên trong.
Và điều thứ hai cần phải nhớ: phân biệt giữa bên trong
và bên ngoài cũng lại là giả. Trên bình diện nào đó phân
biệt ấy là tốt - bạn đang sống trong thế giới bên ngoài, cho
nên bạn phải được nhắc nhở đi vào bên trong. Nhưng bên
trong và bên ngoài là hai mặt của cùng một đồng tiền. Một
ngày nào đó bạn được bảo phải vứt bỏ cả hai; vì bạn đã vứt
bỏ bên ngoài, bây giờ vứt bỏ nốt bên trong nữa. Siêu việt
lên - không bên ngoài cũng chẳng bên trong.
Bên trong cũng chẳng có như bên ngoài: đó là sáng
suốt của Mật tông. Bên trong là gì? Tôi đang nhìn bạn, bạn
là bên ngoài. Thế rồi tôi nhắm mắt lại và tôi thấy kundalini
của mình - nó bên trong chăng? Bất kì cái gì tôi có thể thấy
đều là bên ngoài, là 'ngoài' tôi, nó không thể là 'trong' tôi
được. Thế rồi tôi thấy ánh sáng xanh; đấy là bên ngoài. Tất
nhiên tôi đang thấy nó với đôi mắt nhắm; nó ở gần tôi hơn,
nhưng vẫn là bên ngoài. Tôi đang thấy bạn với đôi mắt mở,
bạn là bên ngoài. Trong đêm tôi thấy giấc mơ, và bạn đến
trong giấc mơ của tôi - thế thì bạn có ở bên trong không?
Bạn cũng vẫn ở bên ngoài, mặc dầu mắt tôi nhắm; nhưng
tôi đang thấy bạn hệt như tôi đang thấy bạn ngay bây giờ.
Bất kì cái gì thấy được đều ở bên ngoài. Người thấy chẳng
ở bên ngoài cũng chẳng ở bên trong.
Cho nên Saraha nói: Những người này trước hết cứ nói
về kinh nghiệm bên ngoài của mình, và rồi họ bắt đầu nói
về kinh nghiệm bên trong của họ.
Giống như hôm nọ chúng ta đã thảo luận điều này: bạn
làm tình với người đàn bà - người đàn bà này là bên ngoài.
Bây giờ năng lượng, ngọn lửa của bản năng dục của bạn,
dâng lên trong bạn, đến cổ bạn, đến vishuddha, đến luân xa
cổ họng. Và tại đó bạn bắt đầu thủ dâm nó bằng lưỡi quay
vào trong. Bạn gọi nó là bên trong ư? Nó vẫn là bên ngoài.
Nhiều nhất thì nó cũng vẫn cứ là bên ngoài như nó vẫn thế
khi bạn đang làm tình với người đàn bà.
Mật tông là sáng suốt vĩ đại, sáng suốt sâu lắng đến độ
nó nói: Người ta phải vứt bỏ bên ngoài, người ta phải vứt
bỏ cả bên trong nữa. Người ta phải vào trạng thái mà có thể
nói là tôi chẳng ở ngoài cũng chẳng ở trong, chẳng hướng
ngoại cũng chẳng hướng nội, chẳng là đàn ông cũng chẳng
là đàn bà, chẳng là thân thể cũng chẳng là tâm trí. Người ta
phải đi đến điểm tại đó người ta có thể nói tôi chẳng trong
luân hồi mà cũng chẳng trong niết bàn. Đấy mới là vấn đề,
cánh cửa cho mọi sự nhị nguyên, điểm chính giữa cho mọi
sự nhị nguyên.
Cái giam hãm họ, họ sẽ gọi là giải phóng.
Bây giờ điều này sẽ là giam hãm mới, có thể đẹp hơn
một chút so với giam hãm bên ngoài - có thể giam hãm bên
ngoài được làm bằng sắt còn giam hãm này được làm bằng
vàng - nhưng giam hãm vẫn là giam hãm. Dù nó làm bằng
sắt hay bằng vàng thì cũng chẳng tạo ra khác biệt gì; bạn
vẫn bị giam hãm.
Bây giờ giam hãm mới này sẽ trở thành tù túng của
bạn. Kundalini đang lên, linh ảnh, linh ảnh tâm linh, linh
ảnh vũ trụ - bây giờ những điều này sẽ trở thành nơi giam
hãm bạn. Bây giờ bạn sẽ khát khao về chúng, bây giờ bạn
sẽ ham muốn về chúng. Ban đầu bạn ham muốn tiền bạc,
bây giờ bạn sẽ ham muốn những kinh nghiệm tâm linh này.
Ban đầu bạn đã ham muốn quyền lực, bây giờ bạn sẽ ham
muốn siddhis, quyền năng tâm linh - nhưng ham muốn vẫn
còn đó, và ham muốn là giam hãm. Chỉ trong vô ham muốn
thì mới có giải thoát.
Món nữ trang thuỷ tinh mầu xanh, đối với họ là viên
ngọc vô giá. Bị ảo tưởng, họ không biết phân biệt viên
ngọc với cái họ cứ tưởng là ngọc.
Nếu bạn không biết, nếu bạn không tỉnh táo và nhận
biết, bạn có thể bị lừa. Món nữ trang thuỷ tinh mầu xanh...
và bạn có thể nghĩ đây là viên ngọc quí. Vâng, mầu sắc như
nhau, hình dáng có thể cũng như nhau, thậm chí cả trọng
lượng cũng có thể như nhau, nhưng giá trị vẫn khác nhau -
và giá trị mới là vật đó.
Vâng, mọi người có quyền lực trong thế giới bên ngoài.
Tổng thống, thủ tướng có quyền lực nào đó, và thế rồi một
nhà yoga, một mahatma có những quyền năng nào đó khác
- về thế giới bên trong, nhưng chẳng có gì so sánh được với
viên ngọc thực cả. Bên ngoài là vật bằng thuỷ tinh và bên
trong cũng là đồ nữ trang rẻ tiền bằng thuỷ tinh: có mầu
sắc, được cắt theo cùng hình dáng, có cùng trọng lượng
dường như nó là vật tâm linh. Nó không phải vậy.
Tâm linh là bầu trời thuần khiết không có mây. Cho
nên con người tâm linh thực sự không thể nói gì về kinh
nghiệm tâm linh, bởi vì mọi kinh nghiệm tâm linh đều là
loại đồ nữ trang rẻ tiền bằng thuỷ tinh mầu xanh; chúng
không phải là viên ngọc.
Đó là lí do tại sao Phật vẫn im lặng. Khi mọi người hỏi
ông ấy, "Thầy đã chứng ngộ chưa?" ông ấy sẽ im lặng. Khi
mọi người hỏi, "Thầy có biết Thượng đế không?" ông ấy sẽ
chẳng nói gì, ông ấy sẽ mỉm cười hay cười phá lên. Sao
vậy? Tại sao ông ấy lại lảng tránh điều ấy?... Và những
người đần sẽ nghĩ ông ấy lảng tránh bởi vì ông ấy không
biết, ông ấy lảng tránh bởi vì ông ấy chưa kinh nghiệm.
Ông ấy lảng tránh bởi vì ông ấy đã kinh nghiệm. Ông ấy
lảng tránh bởi vì ông ấy biết rằng nói về điều đó sẽ không
tốt; điều đó sẽ là báng bổ.
Chân lí không thể luận bàn. Chúng ta có thể nói về con
đường nhưng chúng ta không thể nói về chân lí. Chúng ta
có thể nói về cách đạt tới nó nhưng chúng ta không thể nói
nó là gì khi ta đạt tới nó.
Saraha đang nói: Tất cả những người nói về kinh
nghiệm đều hư huyễn:
Bị ảo tưởng, họ không biết phân biệt viên ngọc với cái
họ cứ tưởng là ngọc.
Họ coi đồng là vàng.
Bị ràng buộc với suy nghĩ lan man,
họ tưởng ý nghĩ này là thực tại tối thượng.
Họ mong mỏi hoan lạc được kinh nghiệm trong giấc
mơ.
Họ gọi thâm-tâm mau tàn là niềm phúc lạc tối cao vĩnh
viễn.
Họ coi đồng là vàng... Cái cơ sở, cái khách quan họ
nghĩ là chủ quan. Người biết vẫn chưa được biết tới. Họ đã
biết cái gì đó khác và họ đã hiểu lầm; họ nghĩ họ đã biết
người biết. Họ có thể đã biết về kundalini, họ có thể đã biết
một vài linh ảnh tâm linh - những linh ảnh vĩ đại đầy thơ
ca, những linh ảnh vĩ đại rực rỡ và mênh mông - những
linh ảnh vĩ đại, phiêu diêu, nhưng
Họ coi đồng là vàng.
Bị ràng buộc bởi suy nghĩ lan man,
họ tưởng những ý nghĩ này là thực tại tối thượng
Và những người được gọi là thánh nhân và mahatmas
đều bị ràng buộc bởi logic, bị ràng buộc bởi suy nghĩ lan
man... Họ cứ biện minh; họ thậm chí còn cứ cố chứng minh
rằng Thượng đế tồn tại.
Trong Ki tô giáo, hai nghìn năm đã bị phí hoài để
chứng minh rằng Thượng đế tồn tại. Làm sao bạn có thể
chứng minh rằng Thượng đế tồn tại được? Và nếu điều đó
có thể chứng minh được thế thì nó cũng có thể bị bác bỏ
nữa. Logic là con dao hai lưỡi, logic là con đĩ. Nếu nó có
thể chứng minh rằng có Thượng đế thì nó cũng có thể
chứng minh rằng không có Thượng đế. Và trong thực tế cái
hay của nó là thế này: cùng một luận cứ có thể chứng minh
rằng có Thượng đế và cùng một luận cứ đó có thể chứng
minh rằng không có Thượng đế.
Bây giờ luận cứ lớn nhất mà những người được gọi là
thánh nhân đã từng đưa ra cho thế giới là ở chỗ thế giới cần
một đấng sáng tạo, bởi vì làm sao thế giới tồn tại được mà
không có đấng sáng tạo? Bây giờ điều đó có vẻ hấp dẫn, ít
nhất thì cũng đối với tâm trí ngây thơ; với tâm trí chưa chín
chắn nó có vẻ quyến rũ. Vâng, sự tồn tại mênh mông như
thế - làm sao nó có thể có đó mà không có đấng sáng tạo?
Một ai đó nhất định phải có đó, người đã tạo ra nó. Và rồi
chỉ một điều khó chịu nhỏ nhặt mà logic tiêu tan và quả
bóng nổ tung. Một ai đó hỏi, "Thế thì ai tạo ra đấng sáng
tạo?" Đấy cũng chính là cùng một logic ấy. Nếu bạn nói thế
giới cần đấng sáng tạo thì lần nữa đấng sáng tạo của bạn sẽ
cần một đấng sáng tạo, và cứ như thế mãi, phát buồn nôn.
Bạn có thể tiếp tục và bạn có thể nói số một đã tạo ra thế
giới, rồi số hai tạo ra số một, rồi số ba tạo ra số hai... bạn có
thể tiếp tục mãi. Nhưng câu hỏi chung cuộc vẫn còn như
cũ: Ai tạo ra cái đầu tiên, cái nguyên thuỷ?
Nếu bạn chấp nhận rằng cái nguyên thuỷ không được
tạo ra thế thì tất cả mọi sự nhặng sị này là về gì? Thế thì tại
sao không nói rằng thế giới này là không được tạo ra? Nếu
Thượng đế còn có thể không được tạo ra thì cái gì sai khi
đơn giản nói rằng thế giới vẫn có đó mà chẳng có ai tạo ra
nó cả? Điều đó dường như hợp lí hơn, hơn là cứ tiếp tục cái
logic ngu xuẩn này chẳng dẫn đến đâu cả.
Nhìn vào các luận cứ đã được nêu ra cho Thượng đế:
tất cả chúng đều ngu ngốc và đần độn. Đó là lí do tại sao
bạn không thể thuyết phục được dù chỉ một kẻ vô thần về
Thượng đế của bạn. Còn những người đã bị thuyết phục,
vâng, họ đã bị thuyết phục; thì đấy lại không phải là vấn đề.
Bạn không thể thuyết phục được một tâm trí nghi ngại, luận
cứ của bạn chẳng ích gì; trong thực tế luận cứ riêng của bạn
sẽ tạo ra khó khăn cho bạn.
Saraha đang nói gì? Saraha đang nói: Người đã biết về
thực tại bên trong mình thì biết rằng chẳng có chứng cớ nào
khác hơn việc hiểu biết nó. Người đó không tin vào các ý
nghĩ lan man. Người đó không nêu ra bất kì logic nào cho
nó; nó là phi logic, nó nằm ngoài lập luận. Nó là như vậy.
Bạn có thể kinh nghiệm nó hoặc bạn có thể bỏ mặc nó,
nhưng không có cách nào chứng minh nó hay bác bỏ nó.
Hữu thần và vô thần cả hai đều vô nghĩa. Tôn giáo chẳng
liên quan gì với họ; tôn giáo là việc kinh nghiệm về điều
đang hiện hữu. Gọi nó bằng bất kì cái tên nào bạn chọn để
gọi nó: gọi nó là Thượng đế, gọi nó là niết bàn, gọi nó là
XYZ, bất kì thứ gì, điều đó chẳng thành vấn đề - nhưng
kinh nghiệm nó đi. Mật tông tin vào kinh nghiệm; Mật tông
không phải là trí năng, nó mang tính chất tồn tại.
Họ coi đồng là vàng... và Thượng đế này được chứng
minh bằng luận cứ thì họ nghĩ là Thượng đế của mình. Rồi
họ tạo ra hình ảnh về Thượng đế, và rồi họ tôn sùng; họ tôn
sùng suy luận của riêng họ. Cái gì có trong nhà thờ, đền
đài, đền Mô ha mét giáo của bạn? - chẳng có gì ngoài suy
luận. Thế giới cần một đấng sáng tạo, cho nên bạn tin vào
một đấng sáng tạo. Đấy là niềm tin, và tất cả mọi niềm tin
đều là giả tạo. Niềm tin là một thứ nhân tạo. Vâng, nó an
ủi, nó cho bạn an ninh, thoải mái nào đó. Thật thuận tiện
mà tin rằng ai đó đang coi sóc thế giới, bằng không người
ta sẽ trở nên sợ hãi: chẳng ai chăm nom điều đó, vào bất kì
lúc nào, bất kì cái gì cũng có thể chạy sai. Điều đó cho bạn
niềm tin.
Cũng gần giống như khi bạn trong chiếc máy bay và
bạn biết rằng phi công đang có đó, người đó đang trông
nom mọi thứ. Rồi bỗng nhiên bạn tới nhìn vào buồng lái và
chẳng thấy có ai cả! Bây giờ điều gì sẽ xảy ra? Ngay
khoảnh khắc trước bạn còn đang nhấm nháp nước chè và
nói chuyện, rồi bạn quan tâm tới người đàn bà ngồi cạnh
bạn, bạn đang định chạm vào cô ấy, và mọi điều... Bây giờ
mọi thứ biến mất - phi công không có đó! Cho tới khoảnh
khắc này mọi thứ đều thuận tiện. Bạn sẽ trở nên rất bồn
chồn, bạn sẽ bắt đầu run rẩy; bạn sẽ mất mọi sự quan tâm
đến đàn ông và đàn bà, đến đồ ăn thức uống, mọi thứ đã
chấm dứt! Nhịp thở của bạn sẽ rối loạn, huyết áp sẽ rối
loạn, tim bạn sẽ bắt đầu đập không đều và bạn bắt đầu vã
mồ hôi... trong chiếc máy bay có điều hoà!
Thật thuận tiện mà tin rằng trong buồng lái có phi công
biết mọi thứ và mọi việc đều ổn thoả - Thượng đế lo tất cả.
Bạn có thể vẫn theo con đường của mình. Ngài là 'Cha',
ngài biết mọi người. Thậm chí chỉ một chiếc lá rơi cũng
theo ý chí của ngài, cho nên mọi thứ đều tốt lành. Thật là
thuận tiện. Tâm trí quả rất tinh ranh. Thượng đế này là một
phần của tâm trí tinh ranh.
Saraha nói: Niềm tin không phải là chân lí, và chân lí
không bao giờ là niềm tin cả. Chân lí là việc kinh nghiệm.
Họ tưởng ý nghĩ này là thực tại tối hậu.
Họ mong mỏi hoan lạc được kinh nghiệm trong giấc
mơ.
Đấy là những hoan lạc được kinh nghiệm trong giấc
mơ.
Họ gọi thâm-tâm mau tàn là phúc lạc tối cao vĩnh viễn.
Đôi khi bạn bị thân thể mình lừa dối và bằng cách nào
đó nếu bạn xoay xở vượt ra ngoài thân thể, bạn lại bị tâm
trí lừa dối, kẻ lừa dối hơn nữa. Ba luân xa đầu tiên thuộc về
thân thể. Ba luân xa tiếp sau thuộc về tâm trí. Và luân xa
thứ bảy vượt ra ngoài cả hai loại này.
Thông thường những người si mê vẫn còn trong ba
luân xa đầu, các luân xa thấp, họ lơ lửng ở đó. Ba luân xa
đầu đó - muladhar, swadhishthan và manipura - đều gắn
với đất. Chúng là các địa luân xa, chúng bị hấp dẫn bởi
trọng lực, chúng bị kéo xuống. Ba luân xa tiếp: anahata,
vishuddha và agya là gắn với trời; lực trọng trường không
ảnh hưởng tới chúng. Chúng chịu ảnh hưởng của luật khác
gọi là bay lên, chúng được kéo lên. Ba luân xa này gồm
tâm trí; thân thể bị kéo xuống, tâm trí bị kéo lên. Nhưng
bạn thì chẳng phải là cả hai; bạn là luân xa thứ bảy, chẳng
phải thân thể lẫn chẳng phải tâm trí.
Cho nên những người si mê sống trong ba luân xa đầu,
và những người kìm nén ba luân xa đầu bắt đầu sống trong
ba luân xa thứ hai. Nhưng họ tạo ra thế giới mơ... Nó gần
giống như thế này: một hôm bạn nhịn ăn và ban đêm bạn
mơ thấy rằng bạn được nữ hoàng nước Anh chiêu đãi, một
bữa tiệc linh đình được dọn cho bạn để tỏ lòng trân trọng,
và bạn ăn hết mọi món - tất cả mọi thứ bạn muốn ăn mà
bác sĩ thì không cho phép ăn. Việc nhịn ăn tạo ra giấc mơ
này, nhưng giấc mơ này không thể nuôi dưỡng được bạn.
Sáng dậy bạn vẫn đói như trước - còn đói hơn. Nhưng giấc
mơ này cũng giúp ích đôi chút. Nó giúp ích thế nào? Nó
giúp bạn tiếp tục ngủ. Bằng không, cơn đói sẽ đánh thức
bạn liên tiếp, bạn sẽ cứ tỉnh dậy. Giấc mơ này là thủ đoạn
của tâm trí. Tâm trí nói, "Không cần dậy; không cần đi
trong bóng tối và tìm tủ lạnh. Mình có thể ngủ ngon. Trông
này, nữ hoàng đã mời mình! Có biết bao thức ăn trên bàn,
sao mình lại không ăn?" - và bạn bắt đầu ăn. Đấy là thủ
đoạn của tâm trí, nó giúp bạn giữ yên giấc ngủ.
Điều đó xảy ra nhiều lần... bụng bạn đầy nước và bạn
bắt đầu mơ rằng bạn đang trong nhà vệ sinh. Điều này có
ích - không phải vì nó làm nhẹ bụng mà nó giữ bạn bị lừa
và giấc ngủ có thể tiếp tục. Niềm tin của bạn, tưởng tượng
của bạn, giấc mơ của bạn, ngôi đền của bạn, nhà thờ của
bạn, gurudwaras của bạn giúp bạn vẫn còn ngủ. Chúng là
thuốc an thần.
Họ gọi thâm-tâm mau tàn là phúc lạc tối cao vĩnh
viễn... Đôi khi họ nghĩ phúc lạc tối cao có đó trong thân
thể, và rồi họ bắt đầu nghĩ trong tưởng tượng của tâm trí
rằng kundalini đang dâng lên... ánh sáng, và cả nghìn lẻ
một linh ảnh và kinh nghiệm. Nhận biết về những linh ảnh
này đi.
Người hướng tâm linh thực sự không quan tâm đến bất
kì nội dung nào của tâm thức. Người đó quan tâm tới chính
bản thân tâm thức.
Bằng biểu tượng EVAM họ nghĩ việc tự tẩy rửa được
đạt tới. Theo những tình huống khác nhau đòi hỏi bốn
lớp xi
họ gọi điều họ đã tưởng tượng là tính tự phát.
Nhưng đây là nhìn vào sự phản xạ trong gương.
Qua mật chú, qua âm thanh, người ta có thể đạt tới sự
thanh bình tâm thần nào đó. Vâng qua TM* người ta có thể
đạt tới ảo giác nào đó. Nếu bạn lẩm nhẩm một âm nào đó
liên tục, nó sẽ làm dịu bạn; nó cho bạn nhịp điệu nào đó
trong tâm trí, nó mang tính nhịp điệu. Nếu bạn lẩm nhẩm,
"Om, Om, Om," hay "Evam, Evam, Evam," hay bất kì mật
chú nào... "Coca-Cola" cũng có tác dụng; nếu bạn lẩm
nhẩm, "Coca-Cola, Coca-Cola, Coca-Cola," rất đáng yêu và
tôn kính, điều đó sẽ có ích. Bạn cũng có thể đặt một chai
Coca-Cola phía trước mình rồi đặt thêm vài bông hoa, vài
trái cây trước nó; điều đó sẽ có ích. Bạn phải tạo ra bầu
không khí... bạn có thể đốt vài nén hương trước chai Coca-
Cola và lẩm nhẩm câu mật chú. Nếu bạn làm việc đó đủ
lâu, sẽ có mọi khả năng bạn cảm thấy dễ chịu. Bạn đã tự
thôi miên mình, bạn đã gợi ý điều gì đó cho chính mình;
bạn đã gợi ý rằng thanh bình sẽ đến, im lặng sẽ đến, hạnh
phúc sẽ đến. Đấy chẳng là gì khác hơn tự gợi ý, tự gợi ý rất
gián tiếp.
Emile Coué đề nghị những gợi ý trực tiếp. Nghĩ: Mình
đang khoẻ lên, mình đang mạnh khoẻ, mình đang hạnh
phúc hơn - những gợi ý trực tiếp. Emile Coué là người
phương Tây - lương thiện, thật thà và trực tiếp hơn.
Maharishi Mahesh Yogi gợi ý rằng bạn lẩm nhẩm, Om,
Om, Ram, Ram - điều này là gián tiếp, nhiều tâm trí
phương Đông hơn; không trực tiếp, nhưng gián tiếp.
Nhưng mọi gợi ý ấy đều được đưa ra - rằng nếu bạn lẩm
nhẩm câu mật chú này hai lần mỗi ngày trong hai mươi
phút vào buổi sáng và hai mươi phút vào buổi tối bạn sẽ trở
nên mạnh khoẻ hơn, bạn sẽ trở nên im lặng hơn, bạn sẽ trở
nên phúc lạc hơn... thế này thế nọ. Mọi thứ đều được hứa
hẹn - thậm chí cả lương của bạn cũng sẽ tăng lên. Bạn sẽ
được đề bạt và toàn bộ thế giới sẽ hợp tác với bạn trong
tham vọng của bạn.
Điều này được cho một cách gián tiếp. Và rồi bạn
chẳng còn quan tâm đến mật chú nữa, bạn đang quan tâm
đến những thứ này: sức khoẻ, của cải, quyền lực, danh
vọng, im lặng, vui vẻ - bạn đang quan tâm tới những thứ
ấy. Vì mối quan tâm này mà bạn lẩm nhẩm mật chú. Nhưng
mỗi lần bạn nhẩm "Om," bạn biết rằng những thứ ấy sắp
xảy ra. Và những câu mật chú này linh nghiệm trong phạm
vi mà bạn tin vào chúng; nếu bạn không tin chúng sẽ không
linh nghiệm. Nếu bạn không tin, chúng không có tác dụng.
Nếu bạn không tin, Mahesh Yogi sẽ nói, "Làm sao chúng
linh nghiệm được? Bạn phải tin vào chúng, thế thì chúng
mới có tác dụng."
Chân lí vận hành chẳng cần niềm tin của bạn; chân lí
không cần niềm tin về phần bạn. Chỉ phi chân lí mới vận
hành qua niềm tin. Phi chân lí cần niềm tin về phần bạn,
bởi vì chỉ nếu bạn tin thì bạn mới có thể tạo ra thái độ tâm
trí, tự gợi ý, bầu khí hậu mà trong đó nó vận hành.
Bằng biểu tượng EVAM họ nghĩ việc tự tẩy rửa đã đạt
được.
Và Saraha đang nói rằng điều này là vô nghĩa. Bằng
cách lẩm nhẩm một âm nào đó, không sáng tỏ nào được đạt
tới, bạn chỉ trở nên u ám hơn. Không phải là bạn trở nên
thông minh và nhận biết hơn mà bạn trở nên buồn ngủ hơn.
Tất nhiên bạn sẽ có giấc ngủ ngon hơn, đó là phần tốt của
nó. Và không phải là ngẫu nhiên mà kĩ thuật thiền TM của
Mahesh Yogi đã trở nên có ảnh hưởng tại Mĩ, bởi vì Mĩ là
nước đang phải chịu đựng rất nhiều về chứng mất ngủ. Mọi
người không thể ngủ được, họ cần thủ thuật nào đó để ngủ;
TM có thể giúp giấc ngủ tốt. Và tôi không phản đối TM
nếu bạn chỉ dùng nó cho ngủ ngon - tôi ủng hộ tất cả những
gì giúp cho giấc ngủ ngon. Nhưng nhớ cho, nó không thể
dẫn bạn tới bất kì cõi giới nào khác, nó không thể trở thành
cuộc hành trình tâm linh của bạn; nó là an ủi thôi.
Bởi những tình huống khác nhau đòi hỏi bốn lớp xi...
Bốn lớp xi này phải được hiểu rõ. Mật tông nói về bốn
lớp xi, bốn mudras - ấn. Để đạt tới điều tối thượng, người
ta đi qua bốn cánh cửa, người đó phải mở bốn cái khoá.
Bốn cái khoá này được gọi là bốn lớp xi, bốn ấn. Chúng rất
quan trọng.
Ấn đầu tiên được gọi là ấn nghiệp. Nó là cánh cửa bên
ngoài nhất, chính phần ngoại vi của bản thể bạn. Nó ở bên
ngoài nhất thế... tựa như hành động, đó là lí do tại sao nó
được gọi là ấn nghiệp. Nghiệp có nghĩa là hành động. Hành
động là cốt lõi bên ngoài nhất của bản thể bạn, là phần
ngoại vi của bạn; điều bạn làm là phần ngoại vi của bạn.
Bạn yêu ai đó, bạn ghét ai đó, bạn giết ai đó, bạn bảo vệ ai
đó - cái bạn làm là phần ngoại vi của bạn. Hành động là
phần bên ngoài nhất của bản thể bạn.
Lớp xi thứ nhất được mở ra thông qua việc trở thành
toàn bộ trong hành động của bạn... toàn bộ trong hành động
của bạn. Bất kì điều gì bạn làm, làm một cách toàn bộ, và
sẽ nảy sinh vui vẻ lớn - không phải bằng cách lẩm nhẩm
mật chú nào đó mà bằng cách thực hiện nó một cách toàn
bộ. Nếu bạn giận dữ, hãy giận dữ toàn bộ; bạn sẽ học rất
nhiều từ giận dữ toàn bộ đó. Nếu bạn giận dữ toàn bộ và
tràn đầy nhận biết về giận dữ của bạn, một ngày nào đó
giận dữ sẽ biến mất. Sẽ không còn vấn đề giận dữ chút nào
nữa; bạn đã hiểu nó, nó có thể bị vứt bỏ bây giờ.
Bất kì cái gì được hiểu đều có thể bị vứt bỏ dễ dàng.
Chỉ những gì không được hiểu mới tiếp tục lơ lửng quanh
bạn. Cho nên hãy là toàn bộ, dù nó là bất kì cái gì. Cố là
toàn bộ và tỉnh táo: đây là chiếc khoá đầu tiên cần phải mở.
Bao giờ cũng nhớ, Mật tông rất khoa học. Nó không
nói phải lẩm nhẩm mật chú. Nó nói: Trở nên nhận biết
trong hành động của bạn.
Lớp xi thứ hai được gọi là ấn hiểu biết gyana - sâu hơn
một chút so với lớp xi đầu, vào bên trong hơn một chút so
với lớp xi đầu: tựa như tri thức. Hành động là thứ bên ngoài
nhất, tri thức có sâu hơn một chút. Bạn có thể quan sát điều
tôi đang làm nhưng bạn không thể quan sát điều tôi đang
biết. Biết là bên trong hơn. Hành động có thể được quan
sát, biết không thể được quan sát, chúng là bên trong hơn.
Lớp xi thứ hai là lớp xi của việc biết - ấn hiểu biết.
Bây giờ bắt đầu biết điều bạn thực sự biết đi và dừng
việc tin vào những thứ bạn thực sự không biết. Ai đó hỏi
bạn, "Có Thượng đế không?" và bạn nói, "Có chứ, có
Thượng đế." Nhớ lấy, bạn có thực biết không? Nếu bạn
không biết, xin đừng nói rằng bạn biết. Hãy nói, "tôi không
biết." Nếu bạn là người thật thà và bạn chỉ nói điều bạn
biết, và bạn chỉ tin điều bạn biết, cái khoá thứ hai sẽ bị phá
vỡ. Nếu bạn vẫn cứ biết mọi thứ, tin mọi thứ mà bạn không
thực sự biết, cái khoá thứ hai sẽ không bao giờ bị phá vỡ.
Tri thức giả là kẻ thù của tri thức thật. Và mọi niềm tin đều
là tri thức giả; bạn đơn giản tin chúng. Và những người
được gọi là thánh nhân của bạn vẫn cứ bảo bạn: Trước hết
hãy tin tưởng rồi bạn sẽ biết.
Mật tông nói: Trước hết hãy biết, rồi niềm tin có đó.
Nhưng đó là loại niềm tin hoàn toàn khác; đó là tin cậy.
Bạn tin vào Thượng đế, bạn biết về mặt trời. Mặt trời mọc,
bạn không cần phải tin vào điều đó; nó đơn giản có đó, bạn
biết nó. Thượng đế thì bạn tin. Thượng đế là hư ảo; Thượng
đế của bạn là hư ảo.
Còn có Thượng đế khác - Thượng đế tới qua hiểu biết.
Nhưng điều đầu tiên được rút ra là, vứt bỏ tất cả những gì
bạn không biết mà chỉ tin vào những gì bạn đã biết. Bạn
bao giờ cũng tin và bạn bao giờ cũng mang tải trọng. Vứt
bỏ tải trọng đi. Trong một trăm thứ bạn sẽ dỡ đi gần như
chín mươi tám thứ - dỡ đi. Chỉ vài thứ sẽ còn lại đó mà bạn
thực sự biết. Bạn sẽ cảm thấy tự do lớn lao; đầu bạn sẽ
không còn nặng nề nữa. Và với tự do cùng phi trọng lượng
đó bạn đi vào ấn thứ hai. Cái khoá thứ hai bị phá vỡ.
Ấn thứ ba được gọi là ấn thời gian samaya. Samaya
nghĩa là thời gian. Tầng đầu tiên, tầng bên ngoài nhất là
hành động, tầng thứ hai là việc biết, tầng thứ ba là thời
gian. Tri thức đã biến mất, bạn chỉ còn trong bây giờ; chỉ
sự thuần khiết nhất của thời gian là còn lại. Quan sát, thiền
về nó. Trong khoảnh khắc bây giờ, không có tri thức. Tri
thức bao giờ cũng là về quá khứ. Trong khoảnh khắc bây
giờ không có tri thức, nó hoàn toàn tự do khỏi tri thức.
Ngay khoảnh khắc này, nhìn vào tôi, bạn biết gì? Chẳng cái
gì được biết cả. Nếu bạn bắt đầu nghĩ rằng bạn biết cái này
cái nọ, điều đó sẽ đến từ quá khứ. Điều đó sẽ không đến từ
khoảnh khắc này, không đến từ bây giờ. Tri thức là từ quá
khứ, hay phóng chiếu vào tương lai. Bây giờ là sự thuần
khiết của tri thức.
Cho nên lớp xi thứ ba là ấn thời gian samaya - trong
khoảnh khắc này. Tại sao Saraha lại gọi nó là samaya, thời
gian? Thông thường bạn nghĩ rằng quá khứ, hiện tại và
tương lai là ba phân chia của thời gian. Đó không phải là
cách hiểu của Mật tông. Mật tông nói: chỉ hiện tại mới là
thời gian. Quá khứ là kí ức, tương lai là tưởng tượng. Chỉ
hiện tại mới là thời gian; quá khứ không hiện hữu, nó đã
qua rồi. Tương lai không hiện hữu; nó còn chưa tới. Chỉ
hiện tại mới hiện hữu.
Hiện hữu trong hiện tại là thực sự trong thời gian.
Ngoài ra bạn hoặc là trong kí ức hoặc bạn trong mơ mộng,
cả hai đều giả - đều là ảo giác. Cho nên lớp xi thứ ba bị phá
vỡ bởi việc hiện hữu trong bây giờ. Thứ nhất, là toàn bộ
trong hành động của bạn - lớp xi thứ nhất bị phá vỡ. Thứ
hai, thật thà trong việc biết của bạn - lớp xi thứ hai bị phá
vỡ. Bây giờ, chỉ ở đây và bây giờ - lớp xi thứ ba bị phá vỡ.
Và lớp xi thứ tư được gọi là ấn đại biểu tượng
mahamudra, điệu bộ lớn... bên trong nhất, tựa không gian.
Bây giờ chỉ còn lại không gian thuần khiết nhất. Hành
động, việc biết, thời gian, không gian - đây là bốn lớp xi.
Không gian là cốt lõi bên trong nhất của bạn, cái trục của
bánh xe, hay trung tâm của cơn xoáy lốc. Trong cái trống
rỗng bên trong nhất của bạn là không gian, bầu trời. Đây là
ba tầng: tầng thứ nhất là thời gian, rồi tầng thứ hai là việc
biết, rồi đến tầng thứ ba là hành động. Đây là bốn lớp xi
cần phải bị phá vỡ. Bằng cách trích dẫn mật chú, điều đó
không xảy ra. Bạn đừng tự lừa mình. Công việc lớn được
cần tới là đi vào trong thực tại của bạn.
Bằng biểu tượng EVAM họ nghĩ việc tự tẩy rửa đã đạt
được.
Bởi những tình huống khác nhau đòi hỏi bốn lớp xi ...
Việc tẩy rửa không được đạt tới nếu không có việc phá
vỡ bốn lớp xi đó. Sáng tỏ chỉ được đạt tới khi bạn đã đi vào
không gian thuần khiết của mình.
...họ gọi điều họ đã tưởng tượng là tự phát.
Nhưng đấy chỉ là nhìn vào sự phản xạ trong gương.
Vâng, bạn có thể tạo ra gương bằng cách tụng niệm
mật chú, và trong tấm gương đó bạn có thể thấy mọi thứ.
Đấy là cái nhìn qua tinh thể, không nhiều giá trị lắm. Hệt
như nhìn vào mặt hồ và nghĩ rằng mặt trăng có đó; mặt
trăng không có đó, nó chỉ phản xạ ở đấy thôi. Đấy là việc
nhìn vào trong gương và nghĩ rằng bạn đang trong đó; bạn
không có trong đó. Đừng ngây thơ - trẻ nhỏ mới nghĩ như
thế. Bạn đã quan sát đứa nhỏ lần đầu tiên được đưa tới
trước gương chưa? Nó cố gắng đi vào trong gương... nó cố
tóm lấy gương và cố tìm cách đi vào trong đó và gặp đứa
trẻ trong đó. Khi nó thấy điều đó khó khăn, nó cố đi qua
phía sau của tấm gương: có thể có một chỗ và đứa trẻ ngồi
ở đó. Đây là điều chúng ta vẫn đang làm.
Tâm trí là tấm gương. Vâng, bằng cách lặp lại câu mật
chú TM bạn có thể làm cho tấm gương này rất, rất rõ.
Nhưng nhìn vào trong tấm gương đó bạn sẽ không đạt tới
được. Trong thực tế cần phải vứt bỏ hoàn toàn tấm gương
đó, ném nó đi. Bạn phải chuyển vào trong. Và điều này rất
thực tế: hành động đầu tiên, rồi việc biết, rồi thời gian, rồi
đến không gian.
Như dưới sức mạnh của ảo tưởng bầy hươu xô về
nguồn nước trong ảo tưởng không nhận ra, cho nên ảo
tưởng không làm dịu đi cơn khát của chúng, chúng bị
gắn vào xiềng xích và tìm thấy hoan lạc trong chúng,
nói rằng tất cả đều là thực tế tối thượng.
Đây là câu kinh cuối.
Saraha nói: Nhìn vào trong gương, bạn đang nhìn vào
ảo ảnh. Bạn đang mơ. Bạn đang giúp cho ảo tưởng được
tạo ra xung quanh mình, bạn đang hợp tác trong giấc mơ.
Như dưới sức mạnh của ảo tưởng bầy hươu xô về
nguồn nước trong ảo tưởng không nhận ra, cho nên ảo
tưởng không làm dịu đi cơn khát của chúng, chúng bị
gắn vào xiềng xích.
Chúng ta bị lừa dối bởi sự phản xạ vốn xảy ra trong
tâm trí ta.
Tôi đã từng nghe một câu chuyện hay...
Một người muốn đi dạo trong vùng núi xứ Wales đã đặt
tổng hành dinh của mình ở một quán rượu trong một thị
trấn thôn quê. Anh ta thấy các buổi tối đều chán ngắt, vì
chẳng có gì xảy ra, và chuyện ở quán rượu thì gần như chỉ
về cừu, gần như chỉ về xứ Wales.
Anh ta hỏi người chủ cách bắt đầu tìm phụ nữ trong thị
trấn, và điều đó mới đáng gây chấn động.
"Này ông bạn, đây là xứ Wales. Chúng tôi không thể có
gái mãi dâm được - nhà thờ không bao giờ cho phép điều
đó."
Ông khách có vẻ buồn và người chủ tiếp tục, "Tất
nhiên chúng tôi cũng có bản tính con người hệt như mọi
nơi khác, nhưng điều ông định nói tới thì bị giữ cho khuất
mắt." Ông ta tiếp tục giải thích rằng trên núi, sau lưng núi,
có nhiều hang động, trang bị đồ đạc đầy đủ và với mọi điều
kiện thuận lợi. Điều người khách lạ phải làm là lên núi lúc
chạng vạng tối và hô to, "Yoo-hoo!" và nếu có giọng phụ
nữ vọng lại "Yoo-hoo" thì có thể thương lượng các điều
khoản. Nếu cô ấy đã ước hẹn thì không có câu trả lời.
Tối hôm đó chàng người Anh hô lên yoo-hoo trên
đường từ hang nọ sang hang kia, nhưng chẳng gặp may
chút nào; cuối cùng anh ta quyết định quay lại và uống
rượu. Nhưng ở chân núi anh ta tìm ra một cái hang tươi
mát. Anh ta hô to "Yoo-hoo!" Tiếng vọng "Yoo-hoo! Yoohoo!"
dội lại thật rõ ràng.
Anh ta chạy xô vào trong hang - và bị tầu hoả chẹt
chết.
Đó chính là điều ảo giác là gì: bạn hình dung, bạn
tưởng tượng, rồi bạn bắt đầu thấy. Và rồi bất kì cớ nào
cũng được. Khi người khát trong sa mạc, bị lạc, và cơn khát
cháy bỏng như ngọn lửa bên trong và người đó chỉ nghĩ
đến nước - chỉ nước và không gì khác - có mọi khả năng là
người đó sẽ bắt đầu thấy nước ở đâu đó. Người đó sẽ phóng
chiếu nó; ham muốn của người đó nhiều đến mức người đó
sẽ phóng chiếu nó. Người đó sẽ bắt đầu thấy hồ ảo giác,
người đó sẽ nghĩ tới gió mát đã tới. Người đó sẽ nghĩ mình
đã thấy một vài con chim bay qua, người đó thậm chí còn
sẽ nghĩ rằng mình có thể thấy vài cây xanh - không chỉ có
cây xanh mà còn sự phản xạ của chúng trong nước. Người
đó sẽ chạy xô tới.
Đấy chính là cách chúng ta cũng chạy xô tới trong hàng
triệu kiếp sống... kêu lên yoo-hoo hết hang nọ đến hang kia.
Và bạn vẫn không thấy rằng mỗi lần bạn đi bạn chẳng tìm
thấy nước gì cả, cơn khát chẳng dịu đi. Nhưng bạn chẳng
học được gì.
Vấn đề lớn nhất với con người là ở chỗ người đó không
học. Bạn yêu người đàn bà hay người đàn ông, bạn nghĩ
rằng cơn khát của bạn sẽ dịu đi - nó chẳng dịu đi cho.
Nhưng bạn cũng chẳng học được điều gì, bạn bắt đầu
hướng sang hang khác. Bạn không có tiền và bạn nghĩ rằng
nếu bạn có mười nghìn ru pi mọi sự sẽ ổn thoả. Và rồi
mười nghìn đồng cũng có, nhưng bạn chẳng học được gì.
Trước lúc đó bạn bắt đầu nghĩ, "Chừng nào mình còn chưa
có một chục vạn ru pi thì làm sao mình hạnh phúc được?"
Một chục vạn rồi cũng xảy ra, nhưng bạn vẫn chưa học
được điều gì; bây giờ bạn nghĩ rằng chừng nào chưa có đó
trăm vạn làm sao bạn sung sướng được? Và rồi cứ như thế
mãi bạn đi... hết hang này đến động kia, từ lần sinh này
sang lần sinh khác, từ cái chết này đến cái chết khác. Con
người dường như gần như không có khả năng học hỏi.
Những người học, chỉ họ mới biết.
Bắt đầu học đi. Tỉnh táo thêm chút nữa; để cho từng
kinh nghiệm đem lại cho bạn việc biết nào đó. Bạn đã hỏi
bao nhiêu lần về bao nhiêu thứ mà chẳng có gì xảy ra. Bây
giờ dừng việc hỏi lại. Bạn đã ham muốn bao nhiêu thứ và
mỗi ham muốn đều dẫn bạn đến thất vọng. Bạn vẫn cứ ham
muốn sao? Bạn đã làm cùng một việc ngày hôm qua và
ngày hôm kia, và bạn sẽ làm cùng việc ấy ngày hôm nay và
ngày mai nữa - mà chẳng cái gì đến từ nó. Và bạn cứ di
chuyển và làm cùng một thứ lặp đi lặp lại.
Học là trở thành mang tính tôn giáo. Từ đệ tử - disciple
- thật hay, nó có nghĩa là người có khả năng học. Nó xuất
xứ từ một gốc có nghĩa là 'việc học'; người có khả năng học
là đệ tử.
Trở thành đệ tử... đệ tử của cuộc sống riêng của bạn.
Cuộc sống là thầy thực của bạn. Và nếu bạn không thể học
được từ cuộc sống, bạn còn có thể học được từ đâu nữa?
Nếu như người thầy cuộc sống vĩ đại bị thất bại với bạn và
không thể dạy được bạn điều gì, thế thì ai sẽ có khả năng
dạy bạn điều gì?
Vũ trụ này là trường đại học. Mỗi khoảnh khắc đều là
một bài học, mỗi thất vọng là một bài học. Mỗi lần bạn thất
bại, học điều gì đó đi! Dần dần, tia sáng hiểu biết đi vào.
Từng li một người ta trở nên tỉnh táo; từng li một người ta
trở nên có khả năng không lặp lại sai lầm cũ. Khoảnh khắc
bạn bắt đầu học, bạn đang tới gần hơn với Thượng đế.
Và đừng tin vào chút xíu hiểu biết, đừng nghĩ rằng bạn
đã tới nơi. Một sự học hỏi nho nhỏ đôi khi làm cho mọi
người thoả mãn lắm lắm... rồi họ dừng lại, rồi họ dừng
chuyển động. Đây là cuộc hành trình vĩ đại, đây là cuộc
hành trình vô tận. Bạn càng học nhiều, bạn càng có khả
năng học thêm. Bạn càng học nhiều, bạn càng có khả năng
trở nên nhận biết rằng nhiều thứ nữa cần phải học. Bạn
càng biết nhiều, bí ẩn lại càng trở nên mãnh liệt hơn. Bạn
càng biết nhiều, bạn càng cảm thấy mình biết ít. Với việc
biết, những cánh cửa mới mở ra. Với việc biết, những bí ẩn
mới được lộ ra.
Cho nên đừng thoả mãn với đôi chút tri thức. Chừng
nào Thượng đế còn chưa tự hiển lộ mình cho bạn, đừng bao
giờ bằng lòng. Hãy để có không bằng lòng lớn về tâm linh.
Chỉ những người đủ may mắn mới có sự không bằng
lòng thiêng liêng này trong họ - rằng không cái gì ngoài
Thượng đế mới thoả mãn cho họ - chỉ họ mới đạt tới.
Không ai khác.
Đủ cho hôm nay.
************************************************************
#4 Tin cậy không thể bị phản bội
Tại sao bao giờ tôi cũng quan tâm tới đàn bà
đã có chồng?
Làm sao tôi có thể có giúp đỡ của người đàn
bà bên ngoài để được hợp nhất với người
đàn bà bên trong?
Tại sao người ta lại bỏ lỡ thầy? Tôi có thể
thấy ngu si của họ - tại sao họ lại không thấy
điều đó?
Tại sao dục lại trở thành điều kiêng kị trong
bao nhiêu thời đại?
#4Câu hỏi thứ nhất:
Osho kính yêu, tại sao bao giờ tôi cũng quan
tâm tới đàn bà đã có chồng?
Chẳng có gì đặc biệt về điều ấy cả, đấy là tật bệnh rất
thông thường đã tồn tại gần như theo qui mô dịch bệnh.
Nhưng có lí do cho nó đấy. Hàng triệu người, cả đàn ông
lẫn đàn bà, đều quan tâm tới người đã có gia đình. Trước
tiên, người chưa xây dựng gia đình chứng tỏ rằng chưa ai
ham muốn người đó cả; người có gia đình chứng tỏ rằng có
ai đó đã ham muốn về người ấy. Còn bạn hay bắt chước
đến độ bạn thậm chí không thể yêu được chính mình. Bạn
nô lệ đến độ khi ai đó khác đang yêu ai đó, chỉ thế thì bạn
mới theo sau. Nhưng nếu một người một mình và không ai
yêu họ, bạn đâm ra hoài nghi. Có thể là người này chẳng có
giá trị gì, bằng không thì tại sao người ấy phải đợi cho
mình? Người đã có gia đình có sức hấp dẫn lớn đối với
người hay bắt chước.
Thứ hai là, những người ít yêu - những người trong
thực tế không biết yêu là gì; họ hay ganh đua nhau nhiều
hơn. Người đàn ông đã có vợ này... và bạn trở nên quan
tâm, hay người đàn bà đã có chồng này... bạn trở nên quan
tâm, bởi vì bây giờ có khả năng ganh đua. Cuộc chiến tay
ba là có thể. Người đàn bà không phải dễ gì có sẵn, sẽ có
giằng co ganh đua.
Trong thực tế bạn đâu có quan tâm tới người đàn bà,
bạn quan tâm tới việc giằng co. Bây giờ người đàn bà gần
như là món hàng; bạn có thể tranh đấu vì cô ấy và bạn có
thể chứng tỏ khí khái của mình. Bạn có thể thế chỗ người
chồng và bạn sẽ cảm thấy khoái chí... một trò bản ngã, nó
không phải là hành trình tình yêu. Nhưng nhớ, một khi bạn
thành công trong việc phế bỏ người chồng, bạn cũng sẽ
không còn quan tâm tới người đàn bà chút nào nữa. Bạn đã
quan tâm tới người đàn bà có chồng; làm sao bạn có thể
quan tâm tới người đàn bà không chồng bây giờ được? -
bạn lại sẽ bắt đầu tìm sự giằng co đâu đó lần nữa. Bạn bao
giờ cũng tạo ra tay ba. Đấy không phải là yêu.
Nhân danh tình yêu có ghen tuông, có ganh đua, có gây
hấn, có bạo hành. Bạn muốn chứng tỏ bản thân mình, bạn
muốn chứng tỏ mình hơn người kia: Trông đây, ta đã chiếm
được người đàn bà của anh. Một khi bạn đã chiếm người
đàn bà, bạn sẽ không còn quan tâm tới người đàn bà đó
chút nào nữa, bởi vì cô ấy không còn là điều ham muốn
nữa; điều ham muốn là một loại chiến thắng.
Tôi đã từng nghe...
Một nhà doanh nghiệp nổi tiếng có vợ bị chết và đám
tang trở thành một sự kiện công chúng rất quan tâm. Mọi vị
chức sắc của thành phố đều đến dự và gần như tất cả đều
quen biết với người mất vợ này. Tuy nhiên lại có người lạ
tới và anh ta dường như đau khổ hơn mọi người khác.
Trước khi đám tang kết thúc anh ta bị suy sụp hoàn toàn.
Người chồng mất vợ hỏi, "Người lạ khóc nhiều này là
ai vậy?"
"A!" Một ai đó thì thào, "Ông không biết à? Ông ấy là
người yêu của người vợ cuối cùng của ông đấy."
Người mất vợ đi thẳng tới người đàn ông đang nức nở,
vỗ nhẹ vào lưng anh ta và nói, "Hãy vui lên, anh bạn cũ,
hãy vui lên. Có lẽ tôi sẽ cưới vợ lần nữa."
Cẩn thận đấy. Đây là bệnh, yêu đàn bà đã có chồng hay
đàn ông đã có vợ. Tìm các lí do đi. Đấy không phải là tình
yêu, còn có một cái gì khác vận hành bên ngoài tâm trí bạn,
trong vô thức của bạn.
Một điều nữa: đàn bà đã có chồng không dễ có sẵn.
Điều đó nữa cũng tạo ra ham muốn. Việc dễ có sẵn giết
chết ham muốn. Người đàn bà càng khó tiếp cận, càng khó
với tới, càng nhiều ham muốn hơn; bạn có thể mơ ước về
cô ấy. Và trong thực tế chẳng có mấy khả năng là điều đó
trở thành thực tại. Có mọi khả năng để lãng mạn về người
đàn bà đã có chồng; bạn có thể đùa với tưởng tượng của
mình. Nhưng không dễ dàng gì làm cho cô ấy sẵn có với
bạn. Bạn không quan tâm đến những người đàn bà chưa
chồng bởi vì họ sẽ không cho phép có nhiều cơ hội lãng
mạn; nếu bạn quan tâm, họ đều sẵn sàng, không có không
gian trống còn lại. Không phải chờ đợi lâu, rất lâu nữa.
Nhiều người quan tâm không phải tới tình yêu mà là
chờ đợi; họ nói rằng chờ đợi còn đẹp hơn tình yêu nhiều.
Theo một cách nào đó điều đó quả là như vậy, bởi vì khi
bạn đang chờ đợi, bạn đơn giản đang phóng chiếu, bạn
đang mơ mộng. Tất nhiên giấc mơ của bạn là giấc mơ của
bạn và bạn có thể làm cho nó đẹp tuỳ thích. Người đàn bà
thực sẽ làm tan nát mơ mộng của bạn. Mọi người đều sợ
người đàn bà thực. Và người đàn bà đã có chồng trở thành
không thực hơn là thực. Điều tương tự cũng xảy ra cho
người đàn ông đã có vợ; anh ta ở xa xa. Không còn mấy
khả năng anh ta sẽ thực sự đi vào quan hệ yêu đương với
bạn.
Tôi đã từng nghe...
Một thanh niên tới gặp một cụ già rất thông thái, anh
thanh niên này nói, "Cháu đang ốm tương tư, thưa bác. Bác
có thể giúp cháu được không?"
Cụ già thông thái suy nghĩ rồi nói, "Chỉ có mỗi một
cách chữa lành bệnh tương tư, đó là hôn nhân. Còn nếu hôn
nhân không thể nào chữa được nó thì chẳng có gì có thể
chữa được nó cả! Nếu cháu cưới vợ, cháu sẽ lành bệnh; rồi
đừng bao giờ nghĩ về tình yêu nữa nhé!"
Vâng, hôn nhân chắc chắn chữa lành nó, chắc chắn
tuyệt đối đến mức nếu hôn nhân không thể chữa được bệnh
tương tư của bạn thì chẳng cái gì có thể chữa được nó. Thế
thì bạn vô phương cứu chữa. Tương tư người đàn bà đã có
chồng cũng tốt bởi vì thế thì không thể nào chữa được nữa;
bạn sẽ ốm tương tư suốt đời.
Có những người cực kì thích thú tương tư: khóc lóc,
kêu gào, chờ đợi, tưởng tượng, thi vị hoá, đọc, viết thơ, vẽ
tranh, soạn nhạc - mọi cách thay thế. Người đàn bà thực là
nguy hiểm. Người đàn bà thực chỉ giống như âm nhạc từ
nơi xa xa. Lại gần thì cô ấy trở thành người đàn bà thực. Cô
ấy không còn là tiên nữa, không còn là hư cấu nữa; thực tại
của cô ấy phải được nhận ra. Và khi người đàn bà tới gần
bạn, cô ấy không chỉ là thực mà cô ấy còn kéo bạn rớt từ
tháp ngà của mình xuống đất.
Trong mọi nền văn hoá trên thế giới, đàn bà đều được
biểu thị như đất còn đàn ông thì như trời. Đàn bà rất hướng
về đất; cô ấy toả sức hút về đất. Cô ấy nhiều tính đất hơn
đàn ông, thực tế hơn, thực dụng hơn đàn ông. Đó là lí do tại
sao bạn không tìm thấy được nữ thi hào vĩ đại nào, bạn
không tìm thấy được nữ hoạ sĩ vĩ đại hay nữ nhạc sĩ vĩ đại
nào, không. Họ không bay bổng trên trời nhiều thế. Họ bám
chặt với đất, họ ăn sâu vào đất với gốc rễ của mình và đứng
đó tựa như cây cối vững chãi. Đàn ông giống như chim.
Khi đàn ông có gia đình, đàn bà đưa anh ta về đất, về thế
giới thực tế. Các nhà thơ không thích xây dựng gia đình.
Họ muốn vẫn còn mãi tình yêu, họ không muốn chữa bệnh
tương tư đó.
Mọi người hay tương tư với người đàn bà đã có chồng -
đây là ngôi nhà nửa vời, đây là thủ đoạn. Họ có thể tin rằng
họ đang yêu và họ cũng có thể né tránh nó. Tình yêu tạo ra
nỗi sợ lớn bởi vì tình yêu là thách thức, thách thức lớn. Bạn
sẽ phải trưởng thành. Bạn không thể vẫn còn là thiếu niên
và chưa chín chắn được; bạn sẽ phải vật lộn với thực tại của
cuộc sống. Cái gọi là nhà thơ lớn của bạn gần như bao giờ
cũng vẫn còn là người rất thơ ngây, chưa chín chắn, vẫn
còn sống trong cảnh thần tiên của tuổi thơ. Họ không biết
thực tại là gì, họ không cho phép thực tại được tràn vào
trong mơ mộng của mình.
Đàn bà chắc chắn là kẻ phá huỷ những hư cấu. Cô ấy
không mang tính hư cấu, cô ấy là sự kiện, sự thật. Cho nên
nếu bạn muốn tin rằng bạn đang yêu và bạn vẫn muốn lẩn
tránh tình yêu, thì tương tư với người đàn bà đã có chồng
hay người đàn ông đã có vợ là tốt, là an toàn. Điều này rất
thủ đoạn, điều này là lừa dối, tự lừa dối.
Đàn bà cũng sợ tương tư với người đàn ông tự do, bởi
vì với người đàn ông tự do hay người đàn bà tự do sẽ có
quấn quít - quấn quít hai mươi tư tiếng. Với đàn bà có
chồng việc quấn quít không lớn đến thế. Bạn có thể được
vài cái hôn vụng trộm, bạn có thể gặp cô ấy ở đâu đó trong
góc tối, bao giờ cũng sợ rằng người chồng có thể tới, ai đó
có thể thấy. Việc ấy bao giờ cũng nửa vời, bao giờ cũng vội
vã, và bạn không thể nhận ra người đàn bà thực như cô ấy
trong cuộc đời hai mươi tư tiếng. Bạn chỉ nhận ra khuôn
mặt son phấn của cô ấy, bạn chỉ biết vẻ tô điểm của cô ấy
chứ không phải là con người thực của cô ấy.
Khi người đàn bà ra khỏi nhà để đi chợ, cô ấy không
còn cùng là người đàn bà đó. Cô ấy gần như là người khác:
bây giờ cô ấy là người đàn bà biết kiềm chế, bây giờ cô ấy
là người biểu diễn. Đàn bà là các nữ nghệ sĩ lớn. Trong nhà
họ trông không đẹp được đến như thế; ngoài nhà họ bỗng
nhiên trở thành cực kì xinh tươi, vui vẻ, hớn hở, thích thú.
Họ trở thành cô bé nhỏ nhắn, khúc khích cười trong tình
yêu cuộc sống. Khuôn mặt của họ khác hẳn, rạng ngời: mắt
họ khác hẳn, cách hoá trang, cách tô điểm của họ...
Nhìn người đàn bà trên bãi biển hay trong cửa hàng,
bạn đang thấy một loại thực tại hoàn toàn khác. Sống với
người đàn bà hai mươi tư giờ trong ngày là điều rất trần
tục, nó phải là như thế. Nhưng nếu bạn thực sự yêu người
đàn bà, bạn sẽ muốn biết về thực tại của cô ấy, không phải
là điều hư cấu của cô ấy, bởi vì tình yêu chỉ có thể tồn tại
với thực tại. Và tình yêu có đủ khả năng biết về thực tại và
vẫn còn yêu cô ấy, biết tất cả những nhược điểm và vẫn yêu
cô ấy. Tình yêu là sức mạnh vô biên.
Khi bạn sống với một người hai mươi bốn giờ một
ngày, dù đàn ông hay đàn bà, bạn sẽ đi tới nhận ra mọi
nhược điểm: tất cả những cái tốt và tất cả những cái xấu
nữa, tất cả những gì xinh đẹp và cả những gì xấu xí, tất cả
những gì tựa như tia sáng và những gì tựa như đêm tối. Bạn
sẽ nhận ra toàn bộ con người đó. Tình yêu đủ mạnh để vẫn
cứ yêu người khác trong khi biết rõ mọi nhược điểm, giới
hạn, nhu nhược mà con người phạm phải. Nhưng tình yêu
hư cấu này thì không đủ mạnh. Nó chỉ có thể yêu người
đàn bà trên màn ảnh. Nó chỉ có thể yêu người đàn bà trong
tiểu thuyết, nó chỉ có thể yêu người đàn bà trong thơ ca. Nó
chỉ có thể yêu người đàn bà tựa ngôi sao xa xăm. Nó chỉ có
thể như yêu người đàn bà không thật.
Tình yêu là chiều hướng hoàn toàn khác: đó là yêu thực
tại. Vâng, thực tại có nhược điểm, nhưng những nhược
điểm này chính là những thách thức cho trưởng thành. Mỗi
nhược điểm đều là một thách thức để siêu việt trên nó. Và
khi hai người thực sự yêu nhau, họ giúp đỡ lẫn nhau để
trưởng thành. Họ nhìn vào nhau, họ trở thành tấm gương
cho nhau, họ phản ánh lẫn nhau. Họ giúp lẫn nhau, họ ảnh
hưởng lẫn nhau. Những lúc sung sướng, những lúc gian
nan, những khoảnh khắc của hạnh phúc, những khoảnh
khắc của buồn rầu, họ đều cùng nhau, họ quấn quít với
nhau. Đó chính là điều từ quấn quít muốn nói lên.
Nếu tôi chỉ cùng bạn khi bạn hạnh phúc và tôi không
cùng bạn khi bạn bất hạnh, đó không phải là quấn quít; đó
là khai thác. Nếu tôi chỉ cùng bạn khi bạn tuôn chảy và tôi
không ở bên bạn khi bạn không tuôn chảy, tôi không cùng
bạn chút nào. Thế thì tôi không yêu bạn, tôi chỉ yêu bản
thân tôi và tôi chỉ yêu hoan lạc của mình. Khi bạn thích thú,
tốt; khi bạn trở nên đau buồn tôi sẽ vứt bỏ bạn. Đây không
phải là tình yêu, đây không phải là quấn quít, đây không
phải là cam kết. Đây không phải là tôn trọng người khác.
Dễ dàng yêu vợ của ai đó bởi vì anh chồng phải chịu
đựng thực tại còn bạn tận hưởng hư cấu; đấy là cách phân
chia lao động rất tốt. Nhưng điều này vô nhân đạo. Tình
yêu nhân đạo là sự đương đầu lớn lao. Và tình yêu chỉ hiện
hữu nếu trưởng thành xảy ra trong nó, bằng không thì nó là
kiểu tình yêu gì vậy?
Những người yêu nhau nâng cao lẫn nhau, theo mọi
cách. Những người yêu nhau đạt tới đỉnh cao hơn của hạnh
phúc khi họ cùng nhau, và họ cũng đạt tới các chiều sâu sâu
hơn của nỗi buồn khi họ cùng nhau. Miền hạnh phúc và
buồn khổ của họ trở nên mênh mông: đó chính là tình yêu
là gì. Một mình, nếu bạn kêu khóc, nước mắt của bạn
không có nhiều chiều sâu. Bạn đã bao giờ quan sát điều đó
chưa? Một mình, họ nông cạn. Khi bạn khóc cùng với ai
đó, có chiều sâu, chiều hướng mới cho nước mắt của bạn.
Một mình bạn có thể cười, nhưng tiếng cười của bạn sẽ
nông cạn. Trong thực tế nó sẽ là cái gì đó không lành mạnh
- chỉ có người điên mới cười một mình. Khi bạn cười cùng
ai đó, có chiều sâu trong đó, có lành mạnh trong đó. Một
mình bạn có thể cười, nhưng cái cười sẽ không đi thật sâu -
không thể đi sâu được. Cùng nhau, nó đi vào chính cốt lõi
bản thể bạn. Hai người cùng nhau, cùng nhau trong mọi khí
hậu - ngày và đêm, mùa hè và mùa đông - trong mọi tâm
trạng, trưởng thành.
Cây cối cần mọi khí hậu và mọi mùa. Vâng, nó cần
mùa hè nóng bỏng và nó cần mùa đông băng giá. Nó cần
ánh sáng ban ngày, mặt trời trút lên nó, và nó cũng cần cái
yên tĩnh của ban đêm để nó có thể khép mình và chìm vào
giấc ngủ sâu. Nó cần những ngày yên tĩnh, vui vẻ, sung
sướng, nó cần cả những ngày ảm đạm, u ám nữa. Nó
trưởng thành qua tất cả những biện chứng này.
Tình yêu là biện chứng. Một mình bạn không thể
trưởng thành được. Bao giờ cũng nhớ rằng nếu bạn đang
yêu, đừng né tránh cam kết, đừng né tránh quấn quít. Thế
thì đi toàn bộ vào trong đó. Thế thì đừng đứng ở phần
ngoại vi mà chực chuồn nếu mọi sự trở thành quá rắc rối.
Và tình yêu cũng còn là hi sinh nữa đấy. Bạn phải hi
sinh nhiều... bản ngã của bạn. Bạn phải hi sinh tham vọng
của mình; bạn phải hi sinh cái riêng tư của mình, bạn phải
hi sinh bí mật của mình; bạn phải hi sinh nhiều thứ. Cho
nên chỉ trong tình yêu lãng mạn mới không cần có hi sinh
nào cả. Nhưng khi không có sự hi sinh, cũng chẳng có
trưởng thành được.
Tình yêu làm bạn thay đổi gần như hoàn toàn; đó là
sinh thành mới. Bạn không bao giờ còn là con người cũ
như trước khi bạn yêu người đàn ông hay đàn bà. Bạn đã đi
qua lửa, bạn đã được thuần khiết. Nhưng dũng cảm là cần.
Bạn hỏi: "Tại sao bao giờ tôi cũng quan tâm tới đàn bà
đã có chồng?" Bởi vì bạn không dũng cảm. Bạn muốn né
tránh quấn quít. Bạn muốn điều đó với giá rẻ, bạn không
muốn trả giá cho nó.
#4Câu hỏi thứ hai:
Thưa thầy kính yêu, không phải là làm tình
chút nào nữa... Tôi cảm thấy tôi đang
trong ngôi đền với thầy ở khắp nơi. Và tại
khoảnh khắc này tôi nhận biết - điều tôi
chưa bao giờ biết tới trước khi được gặp
thầy. Mọi thứ đều khác mọi lúc - đối với
tôi và với nửa kia. Việc cám ơn thầy chẳng
bao giờ thích hợp vào khoảnh khắc đó. Và
vậy mà tôi lùi lại. Làm sao chúng tôi có
thể cất cánh được? Làm sao tôi có thể
nhận sự giúp đỡ của người đàn bà bên
ngoài để được hợp nhất với người đàn bà
bên trong tôi?
Câu hỏi này cũng của Anand Kul Bhushan. Điều đầu
tiên: Đừng bao giờ nghĩ về đàn bà như 'nửa kia'; cô ấy
không phải thế, bạn cũng không phải là như vậy. Bạn là
một tổng thể, cô ấy là một tổng thể. Cô ấy là một cá nhân
và bạn cũng là một cá nhân. Bạn là đầy đủ và cô ấy cũng là
đầy đủ. Thái độ cũ cho rằng đàn bà là nửa kia đã chứng tỏ
là thảm hoạ lớn. Khoảnh khắc bạn bắt đầu sở hữu - đấy là
một loại sở hữu - khoảnh khắc bạn bắt đầu phá huỷ tính cá
nhân của người kia, bạn đang phá huỷ cái gì đó có giá trị
lớn. Đó là không sáng tạo. Đừng bao giờ nghĩ về đàn bà
như nửa kia - cô ấy không phải như thế!
Hai người yêu nhau giống như hai cột trụ trong ngôi
đền: đó là cách Kahlil Gibran nói về điều đó. Họ nâng đỡ
cho cùng một cái mái, nhưng họ tách rời, họ không gắn với
nhau. Nếu hai cột trụ của ngôi đền ở thật gần nhau, ngôi
đền sẽ sụp đổ, mái sẽ không được nâng đỡ chút nào nữa.
Nhìn các cột trụ trong thính phòng Trang Tử này: chúng
đứng cách xa nhau - chúng đỡ cho cùng một mái. Cho nên
những người yêu nhau phải là: tách rời, cá nhân, vậy mà
vẫn cùng nâng đỡ cái gì đó chung.
Vợ không phải là một nửa của chồng và chồng không
phải là một nửa của vợ. Chồng không buông xuôi theo vợ
mà vợ cũng chẳng buông xuôi theo chồng; họ cả hai cùng
buông xuôi theo thượng đế tình yêu. Nhớ điều đó; điều
ngược lại đã chứng tỏ làm tê liệt thực sự. Chắc chắn đàn
ông không phải chịu đựng nhiều lắm... bởi vì chính ý tưởng
của đàn ông về đàn bà là cô ấy là nửa kia của mình. Anh ta
không nghĩ rằng bản thân anh ta cũng là nửa kia, không;
chính ý tưởng của đàn ông là đàn bà là nửa kia. Đàn ông
vẫn còn là tổng thể còn đàn bà thì trở thành nửa kia.
Đó là lí do tại sao sau đám cưới đàn bà mang họ của
chồng, không phải là chồng mang họ của vợ. Cô ấy biến
mất, cô ấy bị phá huỷ; cô ất không còn là đàn bà nữa, cô ấy
là vợ. Vợ là một thể chế. Đàn ông vẫn còn là đàn ông như
anh ta trước đây. Cái gì đó đã được thêm vào đàn ông,
nhưng cái gì đó đã bị tước đi khỏi đàn bà. Điều này là xấu.
Một hôm tôi đã đọc một áng thơ hay về đàn bà:
"Đừng nói với em về tình yêu của anh," cô ấy nói với
người yêu...
Đừng nói với em về tình yêu của anh,
Em biết nó quá rõ.
Em cảm nhận nó trong cái liếc nhìn của anh,
Em cảm thấy nó như ngọn roi quất
Còn tệ hơn nữa
từ miệng lưỡi anh.
Đừng nói với em về tình yêu của anh;
Nó hay thay đổi đến thế
Nó dìm chết em và tình yêu của em
trong lửa tình hừng hực
Có những chỗ không thành sẹo -
Sức nóng tình yêu anh đã thiêu đốt tất cả tâm trí em,
Sự yên ổn của tình yêu anh không đưa em đi xa thêm,
Món quà tình yêu anh đã ghi dấu hoang tàn trong em.
Lời chứng thực tình yêu anh đã giam cầm em,
Bài hát tình yêu anh đã làm em câm lặng.
Em không hát được nữa.
Em không còn nữa.
Anh đã yêu em trong lãng quên.
Tôi xin nhắc : "Anh đã yêu em trong lãng quên."
Thế thì tình yêu không còn chứng tỏ nhiều là tình yêu
nữa; đó là cách chi phối tinh vi. Và khi đã có chi phối tình
yêu biến mất. Khi có sở hữu tình yêu biến mất.
Xin đừng sở hữu đàn bà và đừng sở hữu đàn ông. Sở
hữu, tính sở hữu không phải là tình yêu. Nhớ lấy, đàn bà
phải vẫn còn nguyên như một cá nhân. Tự do của cô ấy
phải không được bị phá huỷ, tự do của cô ấy phải được tôn
trọng - dù điều đó nghĩa là gì. Đây là tầm nhìn Mật tông:
Dù điều đó nghĩa là gì - một cách vô điều kiện - tự do của
cô ấy phải được giữ nguyên. Nếu bạn thực sự yêu cô ấy,
bạn phải yêu cả tự do của cô ấy nữa, và cô ấy sẽ yêu tự do
của bạn. Nếu bạn yêu một người, làm sao bạn có thể phá
huỷ tự do của người ấy được? Nếu bạn tin cậy vào một
người, bạn cũng phải tin cậy vào tự do của người đó nữa.
Một hôm chuyện xảy ra, một người đàn ông lạichỗ tôi,
anh ta thực sự đang trong trạng thái rối tung, rất khổ. Và
anh ta nói, "Tôi phải tự tự thôi."
Tôi hỏi, "Sao vậy?"
Anh ta nói, "Tôi đã tin cậy vào vợ mình thế mà nó
phản bội tôi. Tôi đã tin cậy hoàn toàn vào nó, còn nó thì đi
dan díu với một thằng cha khác, mà tôi thì chẳng hề hay
biết gì về việc đó mãi cho tới bây giờ. Tôi đã tóm được một
vài lá thư... rồi tôi dò hỏi, rồi con ráo riết truy hỏi, và bây
giờ thì nó thú nhận rằng nó đã dan díu suốt từ trước tới nay.
Tôi phải tự tử thôi," anh ta nói.
Tôi nói, "Bạn nói rằng bạn tin cậy cô ấy à?"
Anh ta nói, "Vâng, tôi đã tin cậy vào nó mà nó thì
phản bội tôi."
"Bạn ngụ ý tin cậy là gì? Quan niệm sai về tin cậy... tin
cậy dường như chính trị vậy. Bạn đã tin cậy cô ấy để cho
cô ấy không phản bội bạn. Tin cậy của bạn là thủ đoạn; bây
giờ bạn muốn làm cho cô ấy mặc cảm nữa. Đấy không phải
là tin cậy."
Anh ta rất phân vân. Anh ta nói, "Vậy thầy ngụ ý tin
cậy là gì nếu điều này không phải là tin cậy? Tôi tin cậy cô
ấy vô điều kiện."
Tôi nói, "Nếu tôi ở vào địa vị bạn thì tin cậy đối với tôi
có nghĩa là tôi tin cậy vào tự do của cô ấy và tôi tin cậy vào
thông minh của cô ấy, tôi tin cậy vào khả năng yêu của cô
ấy. Nếu cô ấy yêu người khác, tôi cũng tin cậy cả vào điều
đó. Cô ấy thông minh, cô ấy có thể chọn lựa. Cô ấy tự do,
cô ấy có thể yêu. Tôi tin cậy vào hiểu biết của cô ấy."
Bạn ngụ ý tin cậy là gì? Khi bạn tin cậy vào thông
minh của cô ấy, vào hiểu biết của cô ấy, vào nhận biết của
cô ấy thì bạn tin cậy vào điều đó. Và nếu như cô ấy thấy
rằng cô ấy thích chuyển sang yêu ai đó, điều đó cũng hoàn
toàn được chứ sao. Cho dù cho bạn có cảm thấy đau đớn,
đó là vấn đề của bạn, đâu phải là vấn đề của cô ấy?
Và nếu bạn cảm thấy đau đớn, đấy không phải bởi vì
tình yêu, đấy là vì ghen tuông. Đây là kiểu tin cậy gì, mà
bạn nói nó đã bị phản bội? Cách hiểu về tin cậy của tôi là ở
chỗ nó không thể bị phản bội được. Bởi chính bản chất của
nó, bởi chính định nghĩa của nó, tin cậy không thể bị phản
bội được. Không thể nào phản bội được tin cậy. Nếu tin cậy
có thể bị phản bội, nó không phải là tin cậy.
Nghĩ về việc này đi. Nếu tôi yêu người đàn bà, tôi tin
cậy vô hạn vào thông minh của cô ấy, và nếu trong khoảnh
khắc nào đó cô ấy muốn yêu ai đó khác, điều đó hoàn toàn
tốt. Tôi bao giờ cũng tin cậy vào thông minh của cô ấy; cô
ấy phải cảm thấy giống như thế. Cô ấy tự do; cô ấy không
phải là nửa kia của tôi, cô ấy là độc lập. Và khi hai người là
hai cá nhân độc lập, chỉ thế mới có tình yêu. Tình yêu có
thể tuôn chảy chỉ giữa hai sự tự do.
Tôi hiểu câu hỏi của Kul Bhushan. Anh ta đã dùng từ
'nửa kia' một cách vô ý thức. Tôi đã thấy tình yêu của anh
ta đối với vợ, tôi đã thấy tình yêu của vợ anh ta đối với anh
ta. Họ không phải là các nửa của nhau, không phải thế chút
nào; đấy chỉ là thói quen vô ý thức trong dùng từ. Nhưng
tôi muốn làm cho điều này rõ ràng.
Điều thứ hai: " Không còn làm tình chút nào nữa..."
Khi tình yêu phát triển sâu nó trở thành cái gì đó khác.
Khi tình yêu không phát triển, nó trở thành cái gì đó khác.
Yêu là điều rất tinh tế. Nếu nó không phát triển, nó sẽ trở
thành cay đắng, nó trở thành chất độc; nó trở thành ghét.
Nó thậm chí còn rơi xuống thấp hơn ghét - nó có thể trở
thành lãnh đạm, cái đi xa nhất khỏi tình yêu.
Yêu là năng lượng nóng. Ghét cũng là năng lượng
nóng. Nhưng lãnh đạm là lạnh, đông cứng. Bạn có thể nghĩ
về yêu, ghét và lãnh đạm theo thang đo này. Chính giữa
ghét và yêu là một điểm không - tựa như trong nhiệt biểu
có điểm không; phía dưới nó là lạnh lẽo, trên nó là ấm áp.
Yêu là ấm áp. Điểm không là ghét; dưới nó bạn trở thành
lạnh lùng hơn, lạnh lẽo hơn, bạn có thể trở thành lạnh tựa
băng giá - lãnh đạm. Nếu yêu không lớn lên, nó bắt đầu tụt
xuống. Nó phải chuyển động.
Tình yêu là năng lượng; năng lượng chuyển vận. Nếu
nó di chuyển, chẳng mấy chốc bạn sẽ thấy nó không còn là
tình yêu nữa; nó đã trở thành thiền, nó đã trở thành lời
nguyện
Đó là toàn bộ cách tiếp cận của Mật tông - rằng nếu
tình yêu trưởng thành đúng hướng, nếu tình yêu được chăm
nom cẩn thận, nó trở thành lời nguyện. Cuối cùng nó trở
thành kinh nghiệm tối thượng về Thượng đế.
Tình yêu là ngôi đền của Thượng đế.
Cho nên những người sống lãnh đạm không thể biết tới
được Thượng đế. Lãnh đạm là vô thần thực sự. Những
người sống theo cách sống lạnh lẽo... ngay cả toà án cũng
hiểu điều này. Nếu ai đó đã giết người theo cách nóng nảy,
toà án không coi đó là quá nghiêm trọng; nếu ai đó đã giết
người vì đam mê, toà án còn xem xét khoan dung về điều
đó. Thế thì kẻ giết người không phải bị trừng phạt quá
nghiêm khắc. Đấy chỉ là hành động đam mê; cơn cuồng dại
bất thình lình xảy ra.
Nhưng toà án rất cứng rắn khi đó là kẻ sát nhân với tính
toán lạnh lùng. Kẻ sát nhân lạnh lùng là người nguy hiểm
nhất. Hắn chuẩn bị mọi thứ thật chi li; hắn suy nghĩ, nghiền
ngẫm, dự liệu về điều đó, hắn tính toán. Hắn di chuyển theo
một cách rất, rất máy móc và hiệu quả; hắn đi vào công
việc rất lành nghề. Hắn không có trái tim, hắn chỉ là sự lạnh
lùng.
Trái tim lạnh lùng là trái tim chết. Trái tim lạnh lùng là
trái tim chết, khô héo, hoá đá. Nếu tình yêu không đi lên
cao hơn, nó sẽ đi xuống thấp hơn, nhớ lấy; nó không thể
dừng tĩnh tại, đó là điểm cần được hiểu. Tình yêu không
thể còn trong trạng thái ứ đọng; hoặc nó đi xuống hoặc nó
đi lên, nhưng nó di chuyển. Cho nên nếu bạn thực sự muốn
sống cuộc sống nồng nhiệt, giúp cho tình yêu phát triển đi.
Hai người yêu nhau... nếu tình yêu của họ không lập
tức bắt đầu trở thành tình bạn, chẳng chóng thì chầy sẽ dẫn
tới li dị. Tình bạn nên phát triển từ tình yêu; bằng không
thù hằn sẽ phát triển. Cái gì đó nhất định sẽ xảy ra. Tình
yêu là sự mở đầu. Lập tức bắt đầu trưởng thành trong tình
bạn đi; bằng không thù hằn sẽ lớn lên. Cái gì đó nhất định
sẽ lớn lên.
Tình yêu có khả năng sinh sôi. Nếu bạn không gieo hạt
mầm hoa đẹp, cỏ dại sẽ mọc - nhưng cái gì đó nhất định sẽ
phát triển. Khi tình yêu thực sự chuyển vào sâu sắc hơn, nó
trở thành lời nguyện. Thế thì toàn bộ phẩm chất là phi dục,
thế thì phẩm chất là phi giác quan. Thế thì bạn có cảm giác
chắc chắn về kính nể người kia - không có chút nào thèm
khát dục cả, nhưng đôi chút kính nể. Chính trong sự hiện
diện của người kia bạn bắt đầu cảm thấy cái gì đó thiêng
liêng, cái gì đó linh thiêng. Người yêu của bạn trở thành
thượng đế của bạn.
"Không còn làm tình chút nào nữa... Tôi cảm thấy tôi
đang trong ngôi đền với thầy ở khắp nơi." Phải đấy, bạn
đang được ân huệ. "Tại khoảnh khắc này tôi nhận biết -
điều tôi chưa bao giờ biết tới trước khi được gặp thầy."
Tình yêu càng trở thành lời nguyện, nhận biết sẽ càng xảy
ra, giống như cái bóng.
Đây là nhấn mạnh của tôi: nếu nhận biết xảy ra, thế thì
tình yêu đến - tình yêu đến như cái bóng. Nếu tình yêu xảy
ra, thế thì như cái bóng nhận biết đến. Hoặc bạn trưởng
thành trong tình yêu, hoặc bạn trưởng thành trong thiền,
nhưng kết quả chung cuộc là như nhau. Cả hai đến cùng
nhau: bạn thử cái này, cái kia tới. Điều đó tuỳ thuộc bạn.
Nếu bạn cảm thấy hoà hợp hơn với tình yêu, thế thì
tình yêu là con đường của bạn - con đường của người sùng
kính, bhakta. Nếu bạn cảm thấy hoà hợp hơn với nhận biết
thế thì con đường thiền, dhyana. Đó là hai con đường cơ
bản duy nhất; mọi con đường khác đều chỉ là tổ hợp của hai
con đường này. Nếu tình yêu phát triển, bạn sẽ trở thành
ngày càng nhận biết nhiều về nó tại mọi khoảnh khắc. Nó
càng lên cao, sáng suốt của bạn trong mọi vật càng trở
thành cao hơn.
"Việc cám ơn thầy chẳng bao giờ thích hợp vào mọi
lúc..."
Điều ấy không thể và cũng chẳng cần. Trong thực tế
nhiều lần khi chúng ta nói cám ơn, ta không hàm ý về nó.
Ai đó đưa lọ muối trên bàn cho bạn và bạn nói cám ơn -
bạn ngụ ý gì? Bạn không định nói điều đó, đấy chỉ là hình
thức. Giữa thầy và đệ tử không nên có hình thức; không
cần thiết, tôi đâu có đưa lọ muối cho bạn.
'Cám ơn' là thói kiểu cách phương Tây; ở phương Đông
điều ấy gần như không thể được. Tôi chẳng bao giờ cám ơn
bố mình, tôi không thể cám ơn bố được. Làm sao tôi có thể
cám ơn bố tôi được? Tôi không cám ơn mẹ tôi. Tôi có mọi
thứ để phải cám ơn mẹ nhưng tôi chẳng cám ơn mẹ. Tôi có
thể làm như nào? Điều ấy quá là không thích hợp, điều ấy
quá là lúng túng, ngay cả để nói lời cám ơn. Như thế quá
hình thức, như thế sẽ thiếu tình yêu. Tốt hơn cả là im lặng
về nó. Mẹ hiểu.
Giữa thầy và đệ tử không có khả năng hình thức, mọi
hình thức bao giờ cũng là điều không thích hợp. Nhưng
không có nhu cầu. Tôi hiểu, Kul Bhushan. Tôi có thể thấy
trái tim bạn đầy lòng biết ơn. Chỉ trong im lặng điều đó
mới có thể được nói ra. Nó có thể được nói ra. Nó có thể
được nói ra mà không bằng việc nói nó; nếu bạn cố gắng
nói điều đó, nó sẽ chẳng bao giờ có vẻ phải.
"Việc cám ơn thầy chẳng bao giờ thích hợp vào khoảnh
khắc đó. Và vậy mà tôi lùi lại. Làm sao chúng tôi có thể cất
cánh được? Làm sao tôi có thể nhận sự giúp đỡ của người
đàn bà bên ngoài để được hợp nhất với người đàn bà bên
trong?"
Lùi lại là tự nhiên. Quá khứ lớn thế còn khoảnh khắc
hiện tại nhỏ thế. Lực kéo của quá khứ lớn thế còn nhận biết
này chỉ giống như chiếc lá mới nhú ra từ cây - tươi tắn, trẻ
trung, thanh thoát, mong manh. Còn quá khứ thì tựa như
dãy núi Himalayas vĩ đại - toàn những đá là đá. Chiếc lá
nhỏ này và đá Himalayas vĩ đại này... chiếc lá này phải
tranh đấu với dãy Himalayas của quá khứ hàng nghìn kiếp
sống trong máy móc, sống vô ý thức. Nhưng dầu vậy chiếc
lá nhỏ này sẽ chứng tỏ còn mạnh hơn cả dãy Himalayas
toàn những đá và đá. Sao vậy? - bởi vì chiếc lá này sống
động... sống động với tình yêu, bừng cháy với tình yêu.
Chiếc lá này là chiếc lá của nhận biết. Nó đang đi tới chiến
thắng.
Nhưng nhiều lần bạn sẽ cảm thấy rằng bạn đã tụt lùi -
điều đó là tự nhiên. Đừng lo nghĩ về điều đó, đừng cảm
thấy mặc cảm về điều đó. Bất kì khi nào nhớ, bắt đầu
trưởng thành đi. Luôn luôn giữ chiếc lá mới trong tâm thức
của bạn. Rót toàn bộ tâm thức của bạn vào sáng suốt mới
đang lớn lên trong bạn. Ban đầu những khoảnh khắc này
nhất định là còn ít và xa nhau. Nhưng cho dù chỉ thỉnh
thoảng một lần khoảnh khắc này tới khi tình yêu không còn
là tình yêu mà đã trở thành lời nguyện, bạn là trong khoảnh
khắc Mật tông rồi. Đừng lo nghĩ về những đêm tối, không
cần phải lo nghĩ. Di chuyển từ ngày nọ sang ngày kia. Nhớ
ngày nọ tới ngày kia.
Sẽ có đêm - đôi khi đêm rất dài. Nghĩ về những đêm
này giống như đường hầm tối đen. Tại đầu này là ánh sáng,
tại đầu kia là ánh sáng; ở giữa là đường hầm đen tối. Và
điều đó nữa cũng là tốt bởi vì nó chuẩn bị cho đôi mắt bạn
thấy ánh sáng rõ ràng hơn. Nó đem lại nghỉ ngơi, nó đem
lại thảnh thơi. Bạn đừng nghĩ dưới dạng hết đêm này tới
đêm kia và ngày thì ở giữa, đừng. Cho dù những khoảnh
khắc rất ít và xa nhau - và những khoảnh khắc rất nhỏ -
chúng đều là những đồ châu báu quí giá, sáng loáng. Nghĩ
về những khoảnh khắc đó. Một khoảnh khắc đã xảy ra hôm
nay, và một khoảnh khắc có thể xảy ra một năm sau. Đừng
lo lắng về một năm đó, điều ấy chẳng can hệ gì; từ khoảnh
khắc này tới khoảnh khắc khác để cho mắt bạn được tập
trung. Cả năm chỉ là một đường hầm từ ngày này sang ngày
khác, từ ánh sáng này tới ánh sáng khác, từ khoảnh khắc
yêu đương này tới khoảnh khắc yêu đương khác, từ nhận
biết này sang nhận biết khác. Chẳng bao lâu việc tụt lùi sẽ
ít đi, và chẳng bao lâu việc tụt lùi sẽ biến mất. Nhưng
không cần phải cảm thấy mặc cảm, không cần cảm thấy ăn
năn về nó. Nó là điều tự nhiên, chấp nhận nó.
"Làm sao tôi có thể nhận sự giúp đỡ của người đàn bà
bên ngoài để được hợp nhất với người đàn bà bên trong?"
Đừng nghĩ tới 'làm sao'; nếu tình yêu có đó, điều đó sẽ
xảy ra. Và tình yêu không phải là 'làm sao', tình yêu không
có cách thức. Chỉ yêu không vì lí do nào hết cả. Chỉ yêu
với tôn kính, với kính nể. Yêu đi: thấy trong người kia
không phải là thân thể mà là linh hồn, thấy trong người kia
không phải là tâm trí mà là vô trí. Nếu bạn có thể thấy vô
trí trong trong người đàn bà của mình, bạn sẽ có thể tìm
thấy người đàn bà bên trong rất dễ dàng. Thế thì người đàn
bà bên ngoài sẽ chỉ là trung gian: qua người đàn bà bên
ngoài, thông qua người đàn bà bên ngoài bạn sẽ được ném
về người đàn bà bên trong. Nhưng nếu người đàn bà bên
ngoài kia chỉ là thân thể, thế thì bạn bị chặn lại. Nếu người
đàn bà kia chỉ là linh hồn, trống rỗng, chỉ là số không, chỉ
là bước chuyển, chẳng có gì ngăn cản bạn cả, năng lượng
của bạn sẽ chuyển lùi lại và sẽ đi vào và sẽ tìm thấy người
đàn bà bên trong của bạn.
Mỗi người đàn bà và đàn ông đều có thể có ích từ bên
ngoài để tìm ra người đàn bà và người đàn ông bên trong.
Nhưng không có 'làm sao' cho việc đó. Sùng kính là cần.
Nghĩ theo, suy tư theo sự thiêng liêng của người khác.
Người khác là thiêng liêng; để thái độ đó tràn ngập, để khí
hậu đó bao quanh bạn. Và điều đó sẽ xảy ra! Nó đang trên
đường rồi đó.
#4Câu hỏi thứ ba:
Osho kính yêu, tại sao mọi người bỏ lỡ
thầy? Từ khi tôi nhận tính chấtsannyas, tôi
có thể thấy rất rõ ngu si của họ. Tại sao họ
không thể thấy được điều đó?
Đừng quá nghiêm khắc với mọi người. Mà đấy cũng
không phải là việc của bạn. Nếu họ không muốn thấy điều
đó, đấy là quyết định của họ và là tự do của họ. Thậm chí
đừng gọi điều đó là ngu si, bởi vì nếu bạn gọi điều đó là
ngu si, bản ngã tinh vi sẽ ló ra trong bạn rằng bạn có thể
thấy được mà họ thì không thể thấy được, rằng bạn thông
minh và họ là ngu đần. Không, điều này là không tốt.
Có lần chuyện xảy ra...
Mohammed đi tới nhà thờ Mô ha mét giáo để nói lời
nguyện buổi sáng và ông ta đem theo một thanh niên,
người trước đây chưa bao giờ đi tới nhà thờ cả. Khi quay về
- lúc ấy là sáng mùa hè và mọi người vẫn còn đang ngủ -
khi quay về, chàng thanh niên nói với Mohammed, "Hazrat,
trông những kẻ tội lỗi này vẫn còn đang ngủ. Đây mà là lúc
ngủ sao? Đây là lúc cầu nguyện chứ!" Và đây là lần đầu
tiên bản thân anh ta đi cầu nguyện.
Bạn có biết Mohammed nói gì không? Nhìn lên trời,
ông ta nói, "Thật đáng tiếc."
Chàng thanh niên nói, "Thầy đang nói điều này với ai
vậy?"
Mohammed nói, "Với Thượng đế. Và ta sẽ phải quay
lại nhà thờ... và xin cậu đừng đến lần này. Cũng tốt là trước
đây cậu chưa từng tới nhà thờ; ta đã làm điều sai lầm là
đem cậu đi. Đáng ra cậu cũng ngủ thì tốt hơn - ít nhất thì
cậu cũng sẽ không tụ hội bản ngã này. Bây giờ cậu là thánh
nhân chỉ bởi vì cậu đã đọc lời nguyện, còn những người
này đều là tội nhân. Và bởi vì ta đã mang cậu theo mình
nên lời nguyện của ta cũng bị hư hoại, cho nên ta sẽ quay
về. Và xin cậu đừng đến lần nữa. Ít nhất thì ta cũng không
định đem cậu đi với ta nữa."
Và ông ta quay lại cầu nguyện và xin Thượng đế tha
thứ. Ông ta kêu khóc, nước mắt ròng ròng trên khuôn mặt.
Vài ngày trước đây bạn đã nhận tính chất sannyas - hay
vài tuần trước đây - và bạn nghĩ rằng những người khác
đều ngu si cả sao? Điều đó là không phải, điều đó không
phải chút nào. Trong thực tế sannyasin là người chấm dứt
việc can thiệp vào cuộc sống của người khác. Đây là can
thiệp, cái thái độ này. Tại sao? Nếu họ không muốn gặp tôi,
nếu họ không muốn nghe tôi, nếu họ không muốn hiểu điều
đang xảy ra ở đây, thì đó là tự do của họ. Họ không ngu si,
đấy đơn giản là tự do của họ; họ phải là chính họ.
Nếu bạn thu thập những thái độ như vậy, đó là cách
cuồng tín được sinh ra; thế thì một ngày nào đó bạn có thể
trở thành kẻ cuồng tín, thế thì bạn có thể buộc họ phải tới...
"Các anh phải tới." Xuất phát từ lòng từ bi bạn phải ép
buộc họ. Đó chính là điều tôn giáo đã làm trong suốt bao
nhiêu thế kỉ: người theo Mô ha mét giáo giết người Hindu,
người Hindu giết người Mô ha mét giáo, người Ki tô giáo
giết người Mô ha mét giáo, người Mô ha mét giáo giết
người Ki tô giáo. Để làm gì? - do từ bi. Họ nói, "Chúng ta
sẽ đưa anh về con đường đúng. Anh đang đi lầm lạc, chúng
ta không thể cho phép anh lầm lạc."
Tự do có nghĩa là tự do toàn bộ. Tự do có nghĩa là đi
lầm lạc nữa. Nếu bạn không cho phép một người được lầm
lạc thì đây là kiểu tự do gì vậy? Nếu bạn bảo đứa trẻ, "Cháu
được tự do chỉ để làm điều phải và ta quyết định cái gì là
phải; cháu không được tự do làm điều sai và ta quyết định
cái gì là sai" - đây là kiểu tự do gì vậy? Bạn là ai để quyết
định cái gì là phải? Để mọi người tự quyết định cho chính
mình đi.
Thật rất dễ dàng thu thập những thái độ như vậy. Đó là
lí do tại sao, trong suốt các thời đại, ngu xuẩn này đã xảy
ra: hàng triệu người đã lao vào chém giết nhau nhân danh
tình yêu, nhân danh Thượng đế. Làm sao điều này có thể
xảy ra được? Người Ki tô giáo nghĩ rằng họ đang thực thi
một nghĩa vụ vĩ đại, bởi vì họ nghĩ, "Chừng nào bạn chưa
tới qua Jesus, bạn chẳng bao giờ tới được Thượng đế." Nếu
bạn nhìn vào logic của họ, có vẻ như rất rất từ bi. Nếu đây
thực sự là trường hợp xảy ra - tức là bạn có thể tới Thượng
đế chỉ qua Jesus - thì những người đang đốt phá và giết
chóc và trừng phạt người khác quả thực là các thánh nhân
vĩ đại.
Nhưng đấy là vấn đề. Người Mô ha mét giáo nghĩ rằng
bạn chỉ có thể tới được thông qua Mohammed; Mohammed
là nhà tiên tri gần đây nhất, Jesus đã lạc hậu rồi. Thượng đế
đã gửi một thông điệp khác - được nâng cao hơn; một ấn
bản mới đã tới. Cho nên tại sao phải băn khoăn về Jesus khi
Mohammed đã tới? Chắc chắn bản mới nhất là bản tốt nhất,
cho nên bạn phải đến qua Mohammed. Bây giờ chỉ có một
Thượng đế và chỉ có một nhà tiên tri về Thượng đế, và đó
là Mohammed. Và nếu bạn không chịu nghe thì họ sẵn
sàng giết bạn - xuất phát từ tình yêu, vì điều tốt lành của
riêng bạn.
Rồi hãy nghe người Hindu - họ nói rằng tất cả những
điều này là vô nghĩa, bản đầu tiên mới là bản tốt nhất, kinh
Veda. Tại sao? - bởi vì Thượng đế không thể phạm phải bất
kì sai lầm nào, cho nên ông ấy không thể cải tiến được. Bản
đầu là tốt nhất! Ông ấy không thể phạm phải bất kì sai lầm
nào, cho nên làm sao ông ấy có thể cải tiến được? Bản đầu
cũng là bản cuối, alpha là omega. Thượng đế đã cho một
lần là cho mãi mãi; thế thì tại sao có các bản khác này?
Những bản này là để dành cho người ngu, người không thể
hiểu được bản gốc. Nếu bạn có thể hiểu được Veda, chẳng
cần phải hiểu Kinh thánh hay kinh Koran làm gì; chúng là
vô nghĩa. Bản đầu là tốt nhất; Thượng đế tin cậy rằng con
người sẽ hiểu. Nhưng rồi ngài nhận ra là con người rất ngu,
chỉ vài người trí huệ mới có thể hiểu nổi. Thế là ngài phải
hạ thấp mình xuống một chút. Đấy không phải là việc cải
tiến thêm, đấy chỉ là hạ thấp xuống mức con người, cho
nên ngài đã cho Kinh thánh. Thế mà vẫn không hiểu, cho
nên ngài lại cho kinh Koran. Lại vẫn chưa hiểu được, cho
nên ông ấy cho Guru Grantha. Đấy là cách con người sa
ngã.
Theo khái niệm của người Hindu thì hoàn hảo là trong
quá khứ; từ đó con người đã sa ngã, đây là thời đại ngu
muội nhất. Con người đã không tiến hoá lên, con người đã
sa ngã xuống. Đấy không phải là tiến hoá, người Hindu nói,
đấy là thoái hoá. Cho nên sách càng mới, nó càng phải tầm
thường bởi vì điều đó có nghĩa là chỉ dành cho người bình
thường. Người hoàn hảo chỉ có trong những ngày của
Veda.
Bây giờ có tới ba trăm tôn giáo trên trái đất, và mỗi tôn
giáo đều cho là mình là đúng, và mỗi tôn giáo đều sẵn sàng
giết tôn giáo khác. Họ liên tục chẹn họng nhau. Một cái gì
cơ sở đã đi sai. Đây là điều đã đi sai: bạn yêu cầu tôi cho
phép bạn được trở thành kẻ cuồng tín. Không, ít nhất thì
điều này không xảy ra với tôi - ít nhất là trong lúc tôi còn ở
đây. Những người khác được tự do làm bất kì điều gì họ
thích, thấy như họ thích, diễn giải như họ thích. Bạn đừng
coi họ là ngu si. Họ có tâm trí riêng của họ, điều đó là đẹp.
Một đứa bé da đen về nhà với sơn trắng phết đầy người
và nói, "Tụi trẻ tại trường sơn trắng người con." Thế là mẹ
nó đánh nó vì làm lộn xộn.
Bố nó về nhà và nói, "Cái gì thế này?" Thế là mẹ nó
mách rằng bọn trẻ ở trường đã sơn trắng thằng Sam của
chúng ta. Thế là bố nó lại cho nó một trận nên thân không
đứng dậy được.
Giây phút sau đó người ta nghe thấy một giọng nói yếu
ớt, "Mình mới chỉ làm đứa trẻ da trắng có hai giờ nhưng
mình đã ghét bọn chó chết da đen!"
Và bạn mới làm người da cam có vài tuần... Xin hãy
kiên nhẫn, hãy thông minh và tôn trọng tự do của người
khác, bản thể của người khác, cách thức của họ, phong cách
của họ.
#4Câu hỏi thứ tư:
Osho kính yêu, tại sao dục là điều kiêng
kị trong mọi xã hội trong suốt các thời
đại?
Đây là một câu hỏi rất phức tạp, nhưng rất quan trọng
nữa - đáng đi vào. Dục là bản năng mạnh mẽ nhất trong con
người. Chính khách và tu sĩ đã hiểu ngay từ đầu rằng dục là
năng lượng điều khiển mạnh nhất trong con người. Nó phải
bị tước đi, nó phải bị cắt bỏ đi; nếu con người được phép tự
do hoàn toàn trong dục, sẽ không còn khả năng nào chi
phối người đó: sẽ không thể nào làm cho người đó thành nô
lệ được.
Bạn chưa từng thấy điều này đã được thực hiện như thế
nào sao? Khi bạn muốn đóng ách con bò để kéo chiếc xe,
bạn làm gì? Bạn thiến nó, bạn phá huỷ năng lượng dục của
nó. Và bạn có thấy sự khác biệt giữa con bò thường và con
bò thiến không? Thật là khác lắm! Con bò thiến là hiện
tượng nghèo nàn, một nô lệ. Con bò thường đẹp đẽ; con bò
thường là hiện tượng vinh quang, lộng lẫy lớn lao. Nhìn
con bò thường đang bước đi, nó bước giống hoàng đế làm
sao! Và nhìn con bò thiến đang kéo xe... Cùng điều đó cũng
được thực hiện cho con người: bản năng dục đã bị cắt bỏ,
bị làm què quặt. Bây giờ con người không tồn tại như con
bò thường, con người tồn tại như con bò thiến. Và mỗi
người đều đang kéo cả nghìn lẻ một xe.
Nhìn đi, và bạn sẽ thấy đằng sau bạn cả nghìn lẻ một
chiếc xe, và bạn bị đóng ách vào chúng. Tại sao bạn không
thể đóng ách con bò thường? Con bò thường quá mạnh mẽ.
Nếu nó thấy một con bò cái đi ngang qua, nó sẽ hất cả bạn
lẫn chiếc xe và phi về phía con bò cái. Nó chẳng bận tâm tí
gì về bạn là ai và nó sẽ không chịu nghe lời. Không thể nào
kiểm soát được con bò thường.
Năng lượng dục là năng lượng sống; nó là không kiểm
soát được. Và các chính khách và các tu sĩ chẳng quan tâm
gì tới bạn, họ chỉ quan tâm tới việc chuyển năng lượng của
bạn vào các hướng khác. Cho nên có một cơ chế nào đó
đằng sau điều đó; nó phải được hiểu.
Kìm nén dục, kiêng kị dục, là chính nền móng cơ bản
cho sự nô lệ của con người. Và con người không thể tự do
chừng nào dục chưa được tự do. Con người không thể thực
sự tự do chừng nào năng lượng dục của người đó còn chưa
được phép trưởng thành tự nhiên.
Có năm thủ đoạn qua đó con người đã bị biến thành nô
lệ, thành một hiện tượng xấu xí, kẻ què quặt. Thủ đoạn thứ
nhất là: Giữ cho con người yếu đuối nhất có thể được nếu
bạn muốn chi phối người đó. Nếu tu sĩ muốn chi phối bạn
hay chính khách muốn chi phối bạn, bạn phải bị giữ cho
thật yếu đuối. Vâng, trong một số trường hợp, vài ngoại lệ
là được phép: tức là, khi việc phục vụ chiến đấu với kẻ thù
được cần tới; chỉ thế thôi, ngoài ra thì không. Quân đội
được phép làm nhiều điều mà người khác không được
phép. Quân đội đang phục vụ cho cái chết, nó được phép
mạnh mẽ. Nó được phép duy trì mạnh nhất có thể được; nó
cần cho việc tiêu diệt kẻ thù.
Người khác bị phá huỷ. Họ bị buộc phải yếu ớt theo cả
nghìn lẻ một cách. Và cách tốt nhất để giữ con người trong
yếu đuối là không cho tình yêu được tự do toàn bộ. Tình
yêu là sự nuôi dưỡng. Bây giờ các nhà tâm lí đã phát hiện
ra điều đó, rằng nếu đứa trẻ không được cho tình yêu, nó sẽ
co về chính nó và trở thành yếu đuối. Bạn có thể cho nó
sữa, bạn có thể cho nó thuốc, bạn có thể cho nó mọi thứ...
chỉ không cho nó tình yêu, không ôm ghì nó, không hôn
nó, không ôm ấp nó gần với hơi ấm thân thể bạn, và thế là
đứa trẻ sẽ bắt đầu yếu dần, yếu dần và yếu dần đi. Và nó có
nhiều cơ hội chết hơn là sống sót. Điều gì xảy ra? Tại sao?
Chỉ có ôm ghì, hôn, truyền cho nó hơi ấm, bằng cách nào
đó đứa trẻ cảm thấy được nuôi dưỡng, được chấp nhận,
được yêu mến, được cần tới. Đứa trẻ bắt đầu cảm thấy
xứng đáng, đứa trẻ bắt đầu cảm thấy ý nghĩa nào đó trong
cuộc đời nó.
Bây giờ ngay từ thời trẻ thơ, chúng ta bỏ đói chúng,
chúng ta không cho chúng tình yêu nhiều như chúng cần
tới. Rồi chúng ta buộc nam thanh niên và nữ thanh niên
không được yêu nhau chừng nào họ chưa xây dựng gia
đình. Đến độ tuổi mười bốn họ trở nên chín muồi về dục.
Nhưng giáo dục có thể cần nhiều thời gian hơn - mười năm
nữa, hai mươi bốn, hai mươi lăm năm; rồi họ còn phải nhận
bằng thạc sĩ hay tiến sĩ, bác sĩ cho nên chúng ta buộc họ
không được yêu.
Năng lượng dục tới đỉnh điểm của nó trong khoảng độ
tuổi mười tám. Đàn ông sẽ không bao giờ đạt được lần nữa
khả năng dục như thế, đàn bà không bao giờ có khả năng
cực thích lớn hơn điều cô ấy có thể có khả năng ở độ tuổi
gần mười tám. Nhưng chúng ta buộc họ không được làm
tình. Chúng ta buộc con trai phải sống trong kí túc xá tách
biệt riêng - con gái và con trai sống tách biệt - và giữa hai
người là toàn bộ cơ chế cảnh sát, quan toà, hiệu phó, hiệu
trưởng, chủ nhiệm khoa. Họ tất cả đứng đó, ngay giữa, để
giữ cho con trai không đi sang phía con gái, con gái không
đi sang phía con trai. Tại sao? Tại sao phải nhiều quan tâm
đến thế? Họ đang cố giết chết con bò thường và tạo ra con
bò thiến.
Vào lúc bạn mười tám tuổi bạn ở vào đỉnh năng lượng
dục, năng lượng tình yêu. Vào lúc bạn xây dựng gia đình,
hai nhăm, hai sáu, hai bẩy... và độ tuổi này cứ tăng lên mãi,
quốc gia càng văn hoá, bạn càng phải đợi thêm, bởi vì thêm
nhiều thứ phải học, phải tìm việc - thế này thế nọ. Vào lúc
bạn xây dựng gia đình bạn gần như suy giảm năng lực của
mình.
Rồi bạn yêu, nhưng tình yêu chẳng bao giờ trở thành
nóng bỏng thực sự; nó chưa bao giờ lên tới điểm tại đó con
người thăng hoa, nó còn hững hờ. Và khi bạn không thể
nào yêu được hoàn toàn, bạn không thể yêu con trẻ được
bởi vì bạn không biết cách. Khi bạn không còn khả năng
biết được đỉnh của nó, làm sao bạn có thể dạy cho con trẻ
của bạn được? Làm sao bạn có thể giúp cho con trẻ có được
đỉnh điểm của nó. Cho nên suốt nhiều thời đại con người đã
từ chối tình yêu đến mức con người vẫn còn yếu đuối.
Thủ đoạn thứ hai là: giữ cho con người dốt nát và bị
lừa gạt nhiều nhất có thể được để cho người đó có thể dễ
dàng bị lừa gạt. Và nếu bạn muốn tạo ra một loại ngu si -
vốn là điều cần thiết cho tu sĩ và chính khách và âm mưu
của họ - điều tốt nhất là đừng cho phép con người được đi
vào tình yêu một cách tự do. Không có tình yêu, thông
minh của con người tụt xuống. Bạn chưa từng quan sát điều
này sao? Khi bạn đang yêu bỗng nhiên tất cả các khả năng
của bạn đều lên đỉnh điểm, tới cao trào. Mới khoảnh khắc
trước đây bạn còn trông đờ đẫn, và rồi bạn gặp người đàn
bà của mình... và bỗng nhiên vui vẻ lớn bùng nổ trong con
người bạn, bạn là ngọn lửa. Khi người ta đang trong yêu,
họ biểu lộ mình ở mức tối đa. Khi tình yêu biến mất hay
khi tình yêu không có đó, họ biểu lộ ở mức tối thiểu.
Những người vĩ đại nhất, thông minh nhất là những
người dục nhiều nhất. Điều này cần phải được hiểu rõ, bởi
vì năng lượng yêu về cơ bản là thông minh. Nếu bạn không
thể yêu bạn bị khép lại, lạnh lẽo theo một cách nào đó; bạn
không thể tuôn chảy. Trong yêu người ta tuôn chảy. Trong
yêu người ta cảm thấy tự tin đến mức người ta có thể chạm
tới các vì sao. Đó là lí do tại sao người đàn bà trở thành
niềm hứng khởi lớn, người đàn ông trở thành niềm hứng
khởi lớn. Khi người đàn bà được yêu, cô ấy lập tức trở nên
đẹp hơn, ngay lập tức! Chỉ mới khoảnh khắc trước cô ấy
còn là người đàn bà bình thường... và tình yêu đã mưa lên
cô ấy, cô ấy được tắm trong năng lượng mới hoàn toàn, hào
quang mới nảy sinh quanh cô ấy. Cô ấy bước duyên dáng
hơn, điệu vũ tới theo bước chân cô. Mắt cô bây giờ cực kì
long lanh, khuôn mặt rạng ngời, cô ấy toả sáng. Và cùng
điều đó cũng xảy ra cho người đàn ông.
Khi người ta đang yêu, họ biểu lộ những điều tuyệt vời
nhất. Không cho phép yêu thì họ sẽ còn ở mức tối thiểu.
Khi ở mức tối thiểu họ đần độn, họ dốt nát, họ không bận
tâm tới hiểu biết. Và khi người ta dốt nát, ngu muội và bị
lừa, họ có thể dễ dàng bị lừa dối. Khi người ta bị kìm nén
về dục, bị kìm nén về yêu, họ bắt đầu khao khát đến cuộc
sống khác; họ nghĩ về cõi trời, thiên đường, nhưng họ
không nghĩ tới việc tạo ra cõi trời ngay ở đây và bây giờ.
Khi bạn đang yêu, cõi trời là ở đây và bây giờ. Thế thì
bạn không băn khoăn, thế thì ai tới các tu sĩ? Thế thì ai băn
khoăn rằng phải có cõi trời? Bạn đã ở đấy rồi, bạn chẳng
quan tâm. Nhưng khi năng lượng yêu của bạn bị kìm nén,
bạn bắt đầu nghĩ, "Tại đây chẳng có gì cả. Bây giờ là sự
trống rỗng. Thế thì phải có ở đâu đó mục tiêu nào đó..."
Bạn tới tu sĩ và hỏi về cõi trời, rồi ông ta vẽ lên bức tranh
đẹp đẽ về cõi trời.
Dục đã bị kìm nén cho nên bạn có thể trở nên quan tâm
tới cuộc sống khác. Và khi người ta quan tâm tới cuộc sống
khác, tự nhiên người ta không quan tâm tới cuộc sống này.
Còn Mật tông nói: Cuộc sống này là cuộc sống duy nhất.
Cuộc sống khác ẩn nấp trong cuộc sống này. Nó không
chống cuộc sống này, nó không xa với cuộc sống này; nó là
bên trong cuộc sống này. Đi vào trong nó đi.
Đây là nó!
Đi vào trong nó và bạn sẽ tìm thấy cả cuộc sống khác
nữa. Thượng đế ẩn trong thế giới, đó là thông điệp Mật
tông. Thông điệp vĩ đại, cao cả, vô song.
Thượng đế ẩn trong thế giới, Thượng đế ẩn ngay ở đây
và bây giờ.
Nếu bạn yêu, bạn sẽ có khả năng cảm thấy điều đó.
Bí mật thứ ba: Giữ con người sợ hãi nhiều nhất có thể
được. Và cách chắc chắn là không cho phép người đó được
yêu, bởi vì yêu phá tan sợ... "Yêu gạt bỏ sợ." Khi bạn đang
yêu bạn không sợ. Khi bạn đang yêu bạn có thể tranh đấu
chống toàn thế giới, khi bạn đang yêu bạn cảm thấy có khả
năng vô hạn về mọi thứ. Nhưng khi bạn không yêu, bạn sợ
cả những điều nhỏ nhặt. Khi bạn không yêu bạn trở nên
quan tâm nhiều hơn tới an ninh, an toàn. Khi bạn đang yêu
bạn quan tâm nhiều hơn tới phiêu lưu, tới thám hiểm.
Mọi người không được phép yêu bởi vì đó là cách duy
nhất làm cho họ sợ. Và khi họ sợ và run rẩy, họ bao giờ
cũng quì xuống, cúi đầu trước các tu sĩ, cúi đầu trước các
chính khách. Đó là mưu đồ lớn chống lại loài người. Đó là
mưu đồ lớn chống lại bạn. Chính khách và tu sĩ là kẻ thù
của bạn, nhưng họ giả bộ rằng họ là đầy tớ của quần chúng.
Họ nói, "Chúng tôi ở đây để phục vụ các bạn, để giúp các
bạn đạt tới cuộc sống tốt hơn. Chúng tôi ở đây để tạo ra
cuộc sống tốt lành cho bạn." Và họ là những kẻ phá huỷ
chính bản thân cuộc sống.
Điều thứ tư: Giữ con người khổ nhất có thể được - bởi
vì người khổ bị lẫn lộn, người khổ không có giá trị riêng,
người khổ tự lên án mình, người khổ cảm thấy rằng mình
phải đã làm điều gì đó sai. Người khổ không có nền tảng;
bạn có thể đẩy người ấy hết chỗ nọ sang chỗ kia, người ấy
có thể bị biến thành mẩu gỗ trôi giạt rất dễ dàng. Và người
khổ thì bao giờ cũng sẵn sàng bị chỉ huy, bị ra lệnh, bị kỉ
luật, bởi vì người ấy biết, "Về phần tôi, tôi chỉ là kẻ khổ.
Có thể ai đó khác có lẽ áp đặt kỉ luật vào đời tôi chăng?"
Người ấy là một nạn nhân sẵn sàng.
Và điều thứ năm: Giữ con người bị xa lánh khỏi người
khác nhiều nhất có thể được, để cho họ không thể tập hợp
với nhau theo mục đích nào đó mà các tu sĩ hay chính
khách không thể chấp thuận được. Giữ con người tách biệt
khỏi lẫn nhau không cho phép họ quá thân mật với nhau.
Khi người ta tách biệt, đơn độc, xa lánh lẫn nhau, họ không
thể tụ hội với nhau được. Và có cả nghìn lẻ một thủ đoạn
để giữ họ xa nhau.
Chẳng hạn: nếu bạn đang khoác tay người cùng giới -
bạn là đàn ông và bạn khoác tay người đàn ông, rồi bước đi
trên đường vừa hát - bạn sẽ cảm thấy mặc cảm bởi vì mọi
người sẽ bắt đầu nhìn vào bạn: bạn đồng tính luyến ái nam
hay cái gì đó chăng? Hai người đàn ông không được phép
hạnh phúc cùng nhau. Họ không được phép khoác tay
nhau, họ không được phép ôm ghì nhau; họ bị kết án là
đồng tính luyến ái. Nỗi sợ phát sinh.
Nếu bạn của bạn tới và khoác tay bạn trong tay anh ấy,
bạn phải nhìn quanh: liệu có ai đó nhìn thấy hay không? Và
bạn vội vã bỏ tay ra. Bạn bắt tay một cách vội vã. Bạn có
quan sát đến điều đó không? Bạn mới chỉ chạm vào tay
người kia và bắt tay rồi bạn phải kết thúc ngay; bạn không
giữ tay lâu, bạn không ôm ghì nhau. Bạn sợ.
Bạn có nhớ, bố bạn có bao giờ ôm ghì bạn không? Bạn
có nhớ mẹ bạn có ôm ghì bạn sau khi bạn đã trưởng thành
về dục không? Sao lại không? Nỗi sợ đã được tạo ra. Một
thanh niên và mẹ anh ta ôm ghì nhau ư? Có thể dục nào đó
sẽ nảy sinh giữa họ, ý tưởng nào đó, tưởng tượng nào đó.
Nỗi sợ đã được tạo ra: bố và con trai, không; bố và con gái,
không; anh và chị, không; anh trai và em trai - không!
Người ta bị giữ trong các hộp nhỏ tách biệt với các bức
tường lớn bao quanh họ. Mọi người đều bị phân loại và có
cả nghìn lẻ một rào chắn. Vâng, rồi một ngày nào đó, sau
hai mươi nhăm năm của đủ loại huấn luyện, bạn mới được
phép làm tình với vợ mình. Nhưng bây giờ việc huấn luyện
đã đi vào bạn quá sâu và bỗng nhiên bạn không biết phải
làm gì nữa. Yêu thế nào nhỉ? Bạn còn chưa học ngôn ngữ
này.
Cứ dường như là một người còn chưa được nói trong
suốt hai mươi nhăm năm. Nghe đấy: trong hai mươi nhăm
năm người đó chưa từng được phép nói một lời và rồi bỗng
nhiên bạn đẩy người đó lên bục và bảo người đó, "Hãy đọc
bài giảng lớn cho chúng tôi." Điều gì sẽ xảy ra? Hơn nữa,
người đó sẽ sụp đổ đây đó. Người đó có thể ngất, người đó
có thể chết... hai mươi nhăm năm im lặng và bỗng nhiên
bây giờ người đó được trông đợi đưa ra một bài giảng lớn.
Điều ấy không thể được.
Đây là điều đang xảy ra: hai mươi nhăm năm chống
yêu, sợ hãi, và rồi bỗng nhiên bạn được phép một cách hợp
pháp - bạn được cấp giấy chứng nhận, và bây giờ bạn có
thể yêu người đàn bà này. Đây là vợ bạn, bạn là chồng cô
ấy, và bạn được phép yêu. Nhưng hai mươi lăm năm huấn
luyện sai lầm đâu cả rồi? Chúng sẽ vẫn còn đó.
Vâng, bạn sẽ 'yêu'... bạn sẽ cố gắng, làm động tác. Nó
sẽ không mang tính bùng nổ, nó không lên tới cực đỉnh: nó
sẽ rất tí hon. Đó là lí do tại sao bạn thất vọng sau khi làm
tình. Chín mươi chín phần trăm mọi người đều thất vọng
sau khi làm tình, còn thất vọng hơn là họ đã thất vọng trước
đó. Và họ cảm thấy, "Gì thế nhỉ?... Chẳng có gì cả! Điều đó
không đúng!"
Bây giờ lần đầu tiên tu sĩ và chính khách mới dạy bảo
rằng bạn không nên có khả năng yêu và rồi họ tới và họ
thuyết giáo rằng chẳng có gì trong yêu cả. Và chắc chắn
thuyết giảng của họ có vẻ phải, thuyết giảng của họ có vẻ
hoà hợp đúng với kinh nghiệm của bạn. Đầu tiên họ tạo ra
kinh nghiệm về tính vô ích, về thất vọng, rồi... đến giáo lí
của họ. Và cả hai có vẻ gắn với nhau một cách logic thành
một vở kịch.
Đây là một thủ đoạn lớn, lớn nhất đã từng được áp
dụng cho con người. Năm điều này có thể được sử dụng
qua một việc đơn giản, và đó là kiêng kị yêu. Có thể thực
hiện được tất cả các mục tiêu này bằng cách nào đó ngăn
cản người ta khỏi yêu lẫn nhau. Và điều kiêng kị đó đã
được dùng theo cách rất khoa học... Điều kiêng kị này là vở
kịch lớn; tài năng lớn và tinh ranh lớn đã đi vào trong đó,
nó thực sự là kiệt tác. Điều kiêng kị này cần phải được
hiểu.
Trước hết: nó là gián tiếp, nó ẩn giấu. Nó là không rõ
ràng, bởi vì bất kì khi nào điều kiêng kị thành quá hiển
nhiên nó sẽ không có tác dụng. Điều kiêng kị phải được che
giấu để cho bạn không biết cách nó vận hành. Điều kiêng kị
phải được che giấu để cho bạn thậm chí không thể tưởng
tượng được rằng có thể có cái gì chống lại nó. Điều kiêng
kị phải đi vào vô thức, không đi vào ý thức. Làm sao làm
cho nó thật tinh vi và thật gián tiếp? Thủ đoạn của họ là:
trước hết cứ thuyết giảng rằng tình yêu là vĩ đại cho nên
người ta chẳng bao giờ nghĩ rằng các tu sĩ và chính khách
chống đối tình yêu. Cứ thuyết giảng rằng tình yêu là vĩ đại,
rằng tình yêu là điều phải - và rồi không cho phép bất kì
tình huống nào tình yêu có thể xảy ra, không cho phép có
cơ hội nào. Không cho bất kì cơ hội nào, và cứ thuyết giảng
rằng thức ăn là vĩ đại, việc ăn là vui vẻ lớn - "Hãy ăn thoả
sức" - nhưng chẳng cung cấp thứ gì để ăn cả. Giữ cho mọi
người cứ đói dài và tiếp tục nói về tình yêu.
Cho nên mọi tu sĩ cứ nói về tình yêu. Tình yêu được ca
tụng cao hơn bất kì cái gì, chỉ có sau Thượng đế, và bị chối
từ mọi khả năng xảy ra. Trực tiếp cổ vũ cho nó; gián tiếp
cắt đứt gốc rễ nó. Đấy là kiệt tác.
Không tu sĩ nào nói về cách họ đã gây hại. Dường như
là bạn cứ nói với cái cây, "Xanh thắm đi, nở hoa, tận hưởng
đi," và bạn cứ cắt rễ để cho cây không thể xanh được. Và
khi cây không xanh, bạn có thể nhảy lên cây và nói, "Nghe
đây! Mi chẳng chịu nghe lời ta, mi không tuân theo ta." Tất
cả chúng ta cứ nói "Xanh thắm đi, nở hoa, tận hưởng, nhảy
múa đi"... trong khi đó thì bạn cứ chặt rễ.
Tình yêu bị phủ nhận quá nhiều... và tình yêu là điều
hiếm hoi nhất trên thế giới, nó không nên bị từ chối. Nếu
một người có thể yêu năm người, người đó nên yêu cả năm.
Nếu một người có thể yêu năm mươi người, người đó nên
yêu năm mươi người. Nếu một người có thể yêu năm trăm
người, người đó nên yêu năm trăm người. Tình yêu hiếm
đến độ bạn càng trải rộng tình yêu càng tốt hơn.
Nhưng có các thủ đoạn lớn. Bạn bị dồn vào một góc
hẹp, rất hẹp: bạn chỉ có thể yêu vợ mình, bạn chỉ có thể yêu
chồng mình, bạn chỉ có thể yêu cái này, bạn chỉ có thể yêu
cái kia; các điều kiện quá nhiều. Dường như là có luật rằng
bạn chỉ có thể thở được khi ở bên vợ mình, bạn chỉ có thể
thở được khi ở bên chồng mình. Thế thì việc thở sẽ trở
thành không thể được, thế thì bạn sẽ chết. Và bạn thậm chí
còn không thể nào thở được trong khi bên cạnh vợ hay
chồng mình. Bạn phải thở hai mươi tư tiếng một ngày. Bạn
càng thở nhiều thì bạn càng có thể thở trong khi ở cùng với
bạn đời của mình.
Hãy là việc yêu.
Thế rồi có một thủ đoạn nữa: họ nói về tình yêu 'cao
hơn' và họ phá huỷ cái thấp hơn. Và họ nói rằng cái thấp
hơn phải bị phủ nhận: tình yêu thân thể là xấu, tình yêu linh
hồn mới tốt. Bạn đã bao giờ thấy bất kì linh hồn nào không
có thân thể không? Bạn đã bao giờ thấy một ngôi nhà
không móng không? Cái thấp hơn là nền móng cho cái cao
hơn. Thân thể là nơi trú ngụ của bạn, linh hồn sống trong
thân thể, với thân thể. Bạn là linh hồn được hiện thân và là
thân thể mang linh hồn. Bạn là cả hai hợp lại. Phần thấp
hơn và phần cao hơn là không tách bạch, chúng là một...
các bậc của cùng chiếc thang.
Đây là điều Mật tông muốn làm sáng tỏ: phần thấp hơn
phải không bị chối bỏ, phần thấp hơn phải được biến đổi
thành phần cao hơn. Phần thấp hơn là tốt. Nếu bạn bị mắc
kẹt với phần thấp hơn, lỗi là ở bạn, không phải là ở phần
thấp hơn. Chẳng có gì sai với bậc dưới của chiếc thang.
Nếu bạn bị mắc kẹt với nó, chính bạn bị mắc kẹt: đó là cái
gì đó trong bạn. Di chuyển đi.
Dục không sai, bạn sai nếu bạn bị mắc kẹt ở đó. Đi lên
cao hơn đi. Phần cao hơn không chống phần thấp hơn;
phần thấp hơn tạo khả năng cho phần cao hơn tồn tại.
Và những thủ đoạn này đã tạo ra lắm vấn đề khác. Mỗi
lần bạn yêu, bạn lại mặc cảm thế nào đó; mặc cảm nảy
sinh. Khi có mặc cảm bạn không thể đi toàn bộ vào trong
yêu; mặc cảm ngăn cản bạn, nó giữ bạn dừng lại. Ngay cả
trong khi làm tình với vợ hay chồng vẫn có mặc cảm: bạn
biết điều này là tội lỗi, bạn biết bạn đang làm điều gì đó sai.
Các thánh nhân không làm điều đó, bạn là tội nhân. Cho
nên bạn không thể đi toàn bộ ngay cả khi bạn được phép -
một cách bề ngoài - yêu vợ bạn. Tu sĩ ẩn đằng sau bạn
trong cảm giác phạm tội của bạn; ông ta đang kéo bạn từ
đằng kia, kéo sợi dây buộc bạn. Khi mặc cảm nảy sinh bạn
bắt đầu cảm thấy rằng bạn sai; bạn mất tự tin, bạn mất tự
trọng.
Và vấn đề khác nảy sinh: khi có mặc cảm bạn bắt đầu
giả vờ. Bố và mẹ không cho phép con cái được biết rằng họ
làm tình; họ giả vờ, họ giả vờ rằng tình yêu không tồn tại.
Chẳng chóng thì chầy giả vờ của bố mẹ sẽ bị con cái biết.
Khi con cái nhận ra giả vờ đó, chúng mất mọi tin cậy,
chúng cảm thấy bị phản bội, chúng cảm thấy bị lừa. Còn bố
và mẹ thì nói rằng con cái không tôn trọng họ. Bạn là
nguyên nhân của điều đó, làm sao chúng có thể tôn trọng
bạn được? Bạn đã lừa dối chúng theo mọi cách, bạn đã
không trung thực, bạn đã kém cỏi. Bạn đã bảo chúng đừng
yêu - "Cẩn thận đấy!" - rồi bạn làm tình mọi lúc. Rồi một
ngày sẽ tới, chẳng chóng thì chầy, lúc chúng sẽ hiểu rằng
ngay cả bố chúng, ngay cả mẹ chúng cũng không thật với
chúng - cho nên làm sao chúng có thể kính trọng bạn được?
Ban đầu mặc cảm tạo ra giả vờ, rồi giả vờ tạo ra xa
lánh mọi người. Ngay cả đứa trẻ, con bạn, cũng sẽ không
cảm thấy hài hoà với bạn. Có rào chắn: giả vờ của bạn. Và
bạn biết rằng mọi người đều giả vờ. Một ngày nào đó bạn
sẽ đi tới nhận ra rằng bạn chỉ là việc giả vờ, và người khác
cũng thế. Khi mọi người đều giả vờ làm sao bạn có thể có
quan hệ được? Khi mọi người đều giả, làm sao bạn có thể
quan hệ được? Làm sao bạn có thể thân thiết khi mọi nơi
đều có lừa dối, giả dối? Bạn trở nên rất, rất buồn phiền về
thực tại, bạn trở nên rất cay đắng, bạn thấy đấy chỉ là
xưởng thợ của quỉ.
Và mọi người đều có khuôn mặt giả, không ai chân
thực cả. Mọi người đều đeo mặt nạ, không ai phô bày
khuôn mặt nguyên thuỷ của mình. Bạn thấy mặc cảm, bạn
cảm thấy rằng bạn đang giả vờ, và bạn biết rằng mọi người
cũng đang giả vờ, mọi người đều thấy mặc cảm, và mọi
người đều trở thành giống như vết thương xấu xí. Bây giờ
rất dễ làm cho những người này thành nô lệ - biến họ thành
thư kí, trưởng ga, hiệu trưởng, bộ trưởng, thống đốc, tổng
thống. Bây giờ rất dễ dàng sao lãng tư tưởng họ. Bạn đã
làm họ sao lãng từ tận gốc rễ. Dục là gốc rễ, do đó có tên
muladhar. Muladhar nghĩa là năng lượng chính gốc.
Tôi đã từng nghe ...
Đó là đêm tân hôn và Bà Jane kiêu căng đã thực hiện
nghĩa vụ làm vợ lần đầu tiên.
"Lạy trời," bà hỏi chú rể, "đấy là điều mà thường dân
vẫn gọi là làm tình sao?"
"Đúng, thế đấy, thưa bà," Ông ấy Reginald trả lời, lại
làm như trước.
Sau một chốc Bà Jane mới phẫn nộ than vãn, "Thế thì
quá tốt cho dân thường!"
Dân thường không thực sự được phép làm tình: điều ấy
là quá tốt cho họ. Nhưng vấn đề là ở chỗ khi bạn đầu độc
toàn bộ thế giới thường, bạn cũng bị đầu độc. Nếu bạn đầu
độc bầu không khí mà dân thường hít thở, không khí mà
vua thở cũng bị đầu độc; không thể tách biệt được, nó là
một. Khi tu sĩ đầu độc dân thường, cuối cùng ông ta cũng
bị đầu độc. Khi chính khách đầu độc không khí của dân
thường, cuối cùng ông ta cũng hít thở cùng bầu không khí
ấy; không có không khí khác.
Một cha phó và một giám mục đang ở hai góc đối diện
của một khoang tàu hoả trên một hành trình dài. Khi giám
mục bước vào, cha phó cất ngay cuốn tạp chí Playboy và
bắt đầu đọc The Church Times. Giám mục bỏ qua ông ta và
cứ giải đố chữ chéo của tờ Times. Im lặng lan khắp toa.
Sau một chốc cha phó cố bắt chuyện. Và khi giám mục
bắt đầu làm một loạt các câu hắc búa và tặc lưỡi khó chịu
thì cha phó lại thử "Tôi có thể giúp ông được chứ?"
"Có thể. Tôi chỉ chịu mỗi một từ thôi. Từ gì có bốn chữ
này mà ba chữ cuối là u-n-t, và đầu mối là 'về bản chất là
nữ tính?"
"Sao, thưa ông ấy," cha phó sau một chốc dừng lại,
"Đấy phải là từ aunt - bà cô."
"Tất nhiên, tất nhiên!" giám mục nói. "Tôi nói, cậu
thanh niên, cậu có thể cho tôi mượn cái tẩy được không?"
Khi bạn kìm nén trên bề mặt, mọi thứ luồn sâu vào bên
trong, vào vô thức. Nó vẫn có đó; dục không bị phá huỷ.
May mắn là nó không bị phá huỷ; nó chỉ bị đầu độc. Nó
không thể bị phá huỷ được, nó là năng lượng cuộc sống. Nó
đã trở thành bị ô nhiễm và nó có thể được làm thuần khiết.
Đó là toàn bộ quá trình của Mật tông: quá trình làm thuần
khiết vĩ đại.
Vấn đề cuộc đời bạn về cơ bản có thể được qui về vấn
đề dục của bạn. Bạn có thể cứ giải quyết các vấn đề khác
của mình nhưng bạn sẽ chẳng bao giờ có thể giải quyết
được chúng bởi vì chúng không phải là vấn đề thực. Và nếu
bạn giải quyết vấn đề dục của mình, mọi vấn đề sẽ biến mất
bởi vì bạn đã giải quyết được điều cơ sở.
Nhưng bạn sợ ngay cả việc nhìn vào nó. Điều đó đơn
giản: nếu bạn có thể gạt sang một bên những ước định đã
học của mình, vấn đề rất đơn giản, nó đơn giản cũng như
câu chuyện sau...
Một bà cô chán chường là người quấy rầy cho cảnh sát;
bà cô cứ gọi điện nói có một người đàn ông ở dưới gầm
giường mình. Cuối cùng người ta phải đưa cô tới bệnh viện
tâm thần, nhưng cô vẫn cứ nói với các bác sĩ là có một
người đàn ông dưới gầm giường cô. Họ cho cô liều thuốc
cuối cùng rồi cô bỗng nhiên tuyên bố rằng cô đã khỏi.
"Cô định nói, cô Rustifan, là bây giờ cô không còn thấy
một người đàn ông dưới gầm giường chăng?"
"Không, tôi không thể nói thế. Tôi có thể thấy hai
người cơ."
Một bác sĩ nói với bác sĩ khác rằng thực sự chỉ có một
loại thuốc tiêm mới có thể chữa bệnh phàn nàn của cô ấy,
loại thuốc ông ta gọi là 'trinh ác tính': tại sao họ không đặt
cô ấy nằm trong giường ngủ cùng với Dan Lớn, ông thợ
mộc của bệnh viện?
Dan Lớn bị lôi tới, người ta kể cho nghe về điều phàn
nàn của cô ấy và rồi anh ta sẽ bị nhốt vào phòng cùng cô ấy
trong một giờ. Anh ta nói rằng không cần phải lâu đến thế,
và một nhóm người lo âu tụ tập trên đầu cầu thang. Họ
nghe thấy, "Không, dừng việc ấy lại đi, Dan. Mẹ sẽ không
bao giờ tha thứ cho em đâu!"
"Đừng có la hét thế, đằng nào cũng cần phải làm việc
này. Đáng phải làm từ vài năm trước rồi!"
"Anh hay dùng sức mạnh thế, anh vũ phu lắm!"
"Đấy chính là điều chồng cô đáng phải làm, cô đáng
phải có một người chồng."
Không thể chờ đợi được nữa, các bác sĩ ùa vào.
"Tôi đã chữa khỏi cô ấy!" người thợ mộc nói.
"Anh ấy đã chữa khỏi cho tôi!" Cô Rustifan nói.
Anh ta đã cưa hết chân giường.
Đôi khi chữa trị rất đơn giản, và bạn làm cả nghìn lẻ
một thứ... Còn người thợ mộc thì làm chính xác, chỉ cần
cưa chân giường và thế là xong việc. Bây giờ người đàn
ông có thể ẩn nấp vào đâu được nữa?
Dục là gốc rễ của hầu hết mọi vấn đề của bạn. Nó phải
là như vậy bởi vì có tới hàng nghìn năm đầu độc. Việc làm
thuần khiết vĩ đại là cần thiết. Mật tông có thể làm thuần
khiết năng lượng dục của bạn. Lắng nghe thông điệp của
Mật tông, cố hiểu nó. Đấy là thông điệp cách mạng vĩ đại.
Nó chống lại mọi tu sĩ và chính khách. Nó chống lại mọi kẻ
đầu độc này, người đã giết chết mọi vui vẻ trên trái đất chỉ
để cho con người có thể bị biến thành - thu lại thành - nô lệ.
Giành lấy tự do của bạn.
Giành lấy tự do yêu của bạn.
Giành lấy tự do được hiện hữu, và rồi cuộc sống không
còn là vấn đề.
Nó là bí ẩn.
Nó là cực lạc.
Nó là phúc lành.
Đủ cho hôm nay.
************************************************************
#5 Từ không tới không
Vô kí ức là chân lí của qui ước
còn tâm trí đã trở thành vô trí là chân lí tối thượng.
Đây là hoàn thành, đây là điều tốt lành cao nhất.
Các bạn, điều tốt lành cao nhất này trở thành nhận
biết.
Trong vô kí ức tâm trí bị hấp thu;
chính điều này là hoàn hảo và thuần khiết đa cảm. Nó
không bị ô nhiễm bởi cái tốt cái xấu trần tục
tựa như hoa sen vươn lên từ bùn không bị ảnh hưởng
bởi bùn đen.
Mọi điều đều cần phải được xem xét dường như chúng
là câu thần chú kì diệu...
Nếu không phân biệt bạn có thể chấp nhận hay bác bỏ
luân hồi hay niết bàn,
tâm trí bạn kiên định, tự do khỏi màn đêm.
Trong bạn sẽ là tự tại, vượt ra ngoài ý nghĩ và gốc
gác.
Thế giới dáng vẻ này
có từ việc bắt đầu toả chiếu của nó
chẳng bao giờ đi tới hiện hữu;
không mẫu hình, nó đã vứt bỏ mẫu hình.
Thông thường nó là việc thiền liên tục và duy nhất;
nó là vô tâm trạng, suy tư không tì vết, và vô trí
Một cảnh cổ đại... phải là một buổi sáng như thế này.
Cây cối lay động trong ánh mặt trời buổi sáng và chim chóc
hót líu lo.Và ngôi nhà của nhà huyền môn vĩ đại thời ấy,
Udallaka, đang mở hội đón chào sự trở về của con ông,
Swetketu, từ nhà thầy, nơi anh ta được gửi tới học.
Swetketu về. Người bố đón cậu con ngay cửa, nhưng
ông cảm thấy cái gì đó bị thiếu, cái gì đó thiêu thiếu ở
Swetketu, và cái gì đó đang hiện diện mà đáng ra không
nên hiện diện - kiêu ngạo tinh vi, bản ngã tinh vi. Đó là
điều cuối cùng mà người bố đang chờ đợi.
Trong những ngày xưa ấy giáo dục chủ yếu là giáo dục
về vô ngã. Sinh viên được gửi vào trường đại học trong
rừng để sống với thầy sao cho anh ta có thể làm tan biến
bản thân mình và nếm trải sự tồn tại. Tin đồn đưa về rằng
Swetketu đã trở thành học giả lớn. Cũng còn có tin đồn
rằng anh ta đã đoạt phần thưởng lớn nhất. Và bây giờ anh
ta quay trở về, thế mà Udallaka lại không hạnh phúc.
Vâng, anh ta đã đem về phần thưởng lớn nhất mà
trường đại học có thể ban tặng. Anh ta đã vượt qua mọi kì
thi, anh ta đã thu được bằng cấp cao nhất, và anh ta trở về
tải nặng với nhiều tri thức. Nhưng cái gì đó vẫn thiếu, và
đôi mắt người bố đẫm lệ. Swetketu không thể hiểu được
điều đó. Anh ta nói, "Có chuyện gì không ổn vậy? Sao bố
không sung sướng?" Còn người bố thì nói, "Bố có một câu
hỏi: con đã học được cái một đó chưa, nếu học được cái đó
thì mọi điều đều được biết, và nếu quên cái đó thì mọi tri
thức đều vô ích, vô nghĩa, chỉ là gánh nặng - chẳng ích gì,
chỉ có hại?"
Swetketu nói, "Con đã học mọi điều được biết đến lúc
này. Con đã học lịch sử, con đã học triết học, con đã học
toán học, con đã học Veda. Con đã học ngôn ngữ, con đã
học nghệ thuật, con đã học thứ này thứ nọ..." Và anh ta liệt
kê ra tất cả tên của mọi khoa học ngày đó. Nhưng sự bất
hạnh của người bố vẫn nguyên như trước. Ông nói, "Nhưng
con đã học cái một đó chưa, với việc học cái đó mà người
ta biết được tất cả?"
Cậu con trai hơi khó chịu. Anh ta nói, "Bất kì cái gì
thầy có thể dạy con đều đã học qua. Và bất kì cái gì được
viết ra trong sách con đều đã học qua. Bố đang nói về cái gì
vậy? 'Cái một đó'...! Bố đừng nói điều bí ẩn, bố hãy nói
đích xác điều đó. Bố ngụ ý gì?"
Tự nhiên đã có kiêu ngạo. Anh ta đã về với ý tưởng
rằng bây giờ anh ta đã biết tất cả. Có thể anh ta đã nghĩ -
như mọi sinh viên nghĩ - rằng bây giờ bố mình chẳng biết
gì. Anh ta phải đã về nhà với ý tưởng rằng bây giờ anh ta
đã trở thành người hiểu biết lớn. Và thế mà người bố già
của anh ta vẫn không hạnh phúc, và ông đang nói về một
điều bí ẩn nào đó: cái một.
Và người bố nói, "Con có thấy cái cây đằng kia, xa kia
không? Tới đó và lấy hạt của cây đó về." Đó là cây
nayagrod. Người con đem hạt của cây đó về, rồi người bố
nói, "Cây này mọc lên từ đâu?"
Người con nói, "Tất nhiên là từ cái hạt nhỏ bé này."
"Cái cây lớn thế... mà mọc ra từ hạt nhỏ thế này à?
Đập vỡ hạt ra và xem cái cây đó mọc ra từ đâu - cái cây lớn
đó." Hạt mầm bị đập vỡ ra, nhưng chẳng có gì cả. Trong
hạt này là cái rỗng không. Rồi người bố nói, "Con có thấy
rằng từ cái rỗng không đó mà cái cây lớn này mọc lên
không?"
Và người con nói, "Con có thể suy luận ra điều đó,
nhưng con không thể thấy được điều đó. Làm sao bố có thể
thấy được cái không?"
Và người bố nói, "Đó chính là cái một mà bố vừa nói
tới. Chính từ cái không mà mọi thứ xảy ra, chính từ cái
trống rỗng sáng tạo đó mà tất cả được sinh ra và rồi một
ngày nào đó lại tan biến trở lại cái không đó. Con quay lại,
học về cái trống rỗng, quay lại và học shunya. Quay lại,
học cái trống rỗng này, bởi vì đấy là ngọn nguồn của tất cả:
cội nguồn. Và cội nguồn cũng là mục đích nữa, cái bắt đầu
cũng là cái kết thúc. Hãy đi và học điều cơ sở, nền tảng
này. Mọi thứ khác con đã học đều chỉ là rác rưởi! Quên nó
đi; nó tất cả chỉ là kí ức, nó tất cả đều là tâm trí. Học cái vô
trí, hãy học cái vô kí ức. Đấy là tất cả tri thức mà con học.
Học việc biết, học việc nhận biết, học việc hiểu biết. Đấy là
mục tiêu mà con phải học, nhưng con vẫn chưa thấm nhuần
vào tận cốt lõi bên trong nhất."
Thế giới được coi như một cái cây lớn. Và đây là bốn
bước trong Mật tông. Cái trống rỗng là bước đầu tiên - cái
trống rỗng trong hạt mầm. Hạt mầm chẳng là cái gì khác
ngoài bình chứa cho cái trống rỗng sáng tạo đó; nó chứa cái
trống rỗng sáng tạo đó. Khi hạt mầm lẩn vào trong đất, cái
trống rỗng đó bắt đầu mọc mầm thành cây.
Cái không này - điều các nhà vật lí gọi là phi-vật chất -
cái không này, cái không có gì này chính là cội nguồn. Từ
cái không này cây được sinh ra. Rồi đến hoa, quả và cả
nghìn lẻ một thứ. Nhưng mỗi thứ lại trở thành một hạt mầm
và hạt mầm rơi xuống đất và lại trở thành cái trống rỗng đó.
Đây là vòng tròn của sự tồn tại: từ không tới không, từ
không đâu cả tới không đâu cả. Giữa hai cái không đâu cả
là giấc mơ, là luân hồi. Giữa hai cái không là mọi thứ. Do
đó chúng được gọi là chất liệu mơ; do đó chúng được gọi là
ảo vọng; do đó chúng được gọi là cái không nhưng có ý
nghĩ, tưởng tượng. Đấy là cây Mật tông.
Vô trí là chỗ bắt đầu cho tất cả và là chỗ kết thúc của
tất cả. Từ vô trí sinh ra điều Mật tông gọi là vô thuỷ; từ vô
thuỷ sinh ra vô kí ức; từ vô kí ức sinh ra kí ức. Đây là cây
Mật tông.
Vô trí, cái không, có nghĩa là mọi cái đều là tiềm năng,
không có gì là thực tại. Mọi thứ đều có thể, có lẽ, nhưng
không có gì đã xảy ra. Sự tồn tại là giấc ngủ say trong hạt
mầm, việc nghỉ ngơi - trạng thái nghỉ ngơi, trạng thái sinh
linh chưa biểu hiện. Nhớ điều đó, bởi vì chỉ có thế thì bạn
mới có thể hiểu được những lời kinh này. Những lời kinh
này là rất quan trọng, bởi vì nếu hiểu chúng bạn có thể đi
vào tâm trí của mình và tìm kiếm vô trí.
Trạng thái thứ nhất: vô trí - mọi thứ đều là tiềm năng,
cái không là thực tại. Trạng thái thứ hai: vô thuỷ - vẫn cái
không đã trở thành thực tại, nhưng mọi thứ mới đang sẵn
sàng trở thành thực tại. Theo một đằng nó chính là như
trạng thái thứ nhất, nhưng có hơi khác. Trong trạng thái thứ
nhất mọi thứ đều tuyệt đối nghỉ; việc nghỉ là tuyệt đối,
không cái gì có thể xảy ra trong hàng triệu năm. Trong
trạng thái thứ hai vẫn không có gì xảy ra, nhưng mọi thứ đã
sẵn sàng để xảy ra vào bất kì lúc nào; tiềm năng là sẵn sàng
bùng nổ vào thực tại. Điều ấy giống như vận động viên
chạy đã sẵn sàng chạy vào bất kì lúc nào còi thổi. Người đó
sắp sửa, người đó đang trên vạch xuất phát, tuyệt đối sẵn
sàng; một khi tín hiệu được phát ra là người đó sẽ chạy.
Vô thuỷ có nghĩa là không có gì có nguồn gốc hết,
nhưng nó sẵn sàng để sinh ra. Vô thuỷ nghĩa là trạng thái
thai nghén. Đứa con đang trong bụng mẹ, đứa con có thể ra
đời vào bất kì lúc nào. Vâng, nó còn chưa xảy ra, cho nên
theo cách đó nó tương tự với trạng thái thứ nhất. Nhưng nó
đã rất, rất sẵn sàng; theo cách đó nó không giống với trạng
thái thứ nhất.
Trạng thái thứ ba được gọi là vô kí ức. Đứa trẻ được
sinh ra; kinh nghiệm đã trở thành thực tại. Thế giới đã tới,
nhưng vẫn không có tri thức: vô kí ức.
Nghĩ đến ngày đầu tiên của đứa trẻ sơ sinh. Nó mở mắt,
nó sẽ thấy những cây xanh này, nhưng nó sẽ không thể
nhận ra chúng là xanh. Làm sao nó có thể nhận ra được
chúng là xanh? Nó chưa bao giờ biết mầu xanh lá cây trước
đó. Thậm chí nó còn không có khả năng nhận ra rằng
chúng là cây. Nó sẽ thấy cây, nhưng nó sẽ không có khả
năng nhận ra được chúng bởi vì nó chưa bao giờ biết đến
chúng trước đây. Cảm nhận của nó sẽ là thuần khiết, không
tì vết bởi kí ức; do đó trạng thái này còn được gọi là vô kí
ức.
Đây chính là trạng thái người Ki tô giáo nói tới khi
Adam sống trong vườn Địa đàng: không tri thức, anh ta còn
chưa nếm quả của cây tri thức. Đây là trạng thái trong đó
mọi đứa trẻ sống những ngày đầu tiên trong cuộc đời.
Trong vài tháng đứa trẻ thấy, nghe, chạm, nếm, nhưng
không nhận biết nào nảy sinh, không kí ức nào được tạo
thành. Đó là lí do tại sao người ta rất khó nhớ những ngày
đầu của cuộc đời mình. Nếu bạn cố gắng nhớ, bạn có thể dễ
dàng trở lại lúc năm tuổi. Cố thêm chút nữa - đến bốn tuổi;
thêm chút nữa - phải cố lắm - và bạn có thể trở lại tới ba
tuổi. Rồi bỗng nhiên có một khoảng trắng, thế thì bạn
không thể nhớ được nữa. Sao lại không? Bạn đã sống. Thực
tế bạn đã sống đến mức bạn sẽ chẳng bao giờ sống lại được
lần nữa. Ba năm đầu tiên này là thời kì sống động nhất của
cuộc sống của bạn. Tại sao kí ức về chúng không có đó?
Tại sao bạn không thể xâm nhập vào chúng? Bởi vì cảm
nhận không có đó. Ấn tượng thì có nhưng không có cảm
nhận.
Đó là lí do tại sao Mật tông gọi trạng thái này là vô kí
ức. Bạn thấy, nhưng bởi việc thấy, tri thức không được tạo
ra. Bạn không thu thập cái gì. Bạn sống từ khoảnh khắc này
sang khoảnh khắc khác; bạn trượt từ khoảnh khắc này vào
khoảnh khắc khác mà không mang khoảnh khắc đầu vào
khoảnh khắc sau. Bạn không có quá khứ nào, mỗi khoảnh
khắc nảy sinh tuyệt đối tươi tắn. Đó là lí do tại sao trẻ con
mới sinh động và tươi trẻ đến thế, cuộc đời chúng đầy vui
vẻ, thích thú, kì diệu. Những vật nhỏ bé cũng làm chúng
sung sướng đến thế, những sự việc nhỏ bé cũng làm cho
chúng kích động, mê li đến thế. Chúng liên tục ngạc nhiên:
chỉ một con chó chạy qua mà chúng cũng ngạc nhiên. Một
con mèo tới trong phòng mà chúng cũng ngạc nhiên. Bạn
mang hoa tới, và mầu hoa đối với chúng mới cực kì say mê
làm sao... Chúng sống trong thế giới ngây ngất; mọi thứ
đều toả sáng. Mắt chúng trong trẻo, không chút bụi trần
bám đọng; tấm gương của chúng phản chiếu hoàn hảo. Đây
là trạng thái của vô kí ức, trạng thái thứ ba.
Và rồi trạng thái thứ tư tới: kí ức, trạng thái của tâm trí.
Adam đã ăn trái cây tri thức; anh ta đã sa ngã, anh ta đã đến
thế giới này. Từ vô trí tới tâm trí là bước chuyển vào trong
thế giới. Vô trí là niết bàn; tâm trí là luân hồi. Nếu bạn
muốn quay trở lại lần nữa tới thuần khiết nguyên thuỷ, tới
hồn nhiên nguyên sơ, tới thuần khiết chủ chốt của tâm thức,
bạn sẽ phải đi ngược lại. Và cũng chính là các bước trên sẽ
là các bước đi: kí ức phải tan biến thành vô kí ức. Do đó
nhấn mạnh của mọi cách thiền đều là tâm trí phải bị vứt bỏ,
suy nghĩ phải bị vứt bỏ.
Chuyển từ ý nghĩ sang vô ý nghĩ, rồi từ vô ý nghĩ sang
vô thuỷ, rồi từ vô thuỷ sang vô trí... và giọt nước rơi vào
trong đại dương. Bạn lại là đại dương, bạn lại là vô hạn,
bạn lại là vĩnh cửu.
Vô trí là vĩnh hằng; tâm trí là thời gian.
Hôm nọ tôi đã nói về bốn ấn: ấn nghiệp karma, điệu bộ
hành động, ấn hiểu biết gyana, điệu bộ tri thức, ấn thời gian
samaya, điệu bộ thời gian thuần tuý, và đại biểu ấn
mahamudra, điệu bộ vĩ đại, điệu bộ không gian. Chúng
cũng có liên hệ với bốn trạng thái này.
Đầu tiên, ấn nghiệp, là kí ức. Mật tông nói: bất kì cái gì
bạn coi là hành động đều không là gì ngoài kí ức. Trong
thực tế hành động chưa bao giờ xảy ra. Nó là giấc mơ mà
bạn đã nhìn qua, nó là phóng chiếu của bạn. Hành động
không xảy ra, hành động không thể xảy ra trong chính bản
chất của sự vật. Hành động chỉ là giấc mơ tâm trí, bạn
phóng chiếu nó.
Cho nên điều đầu tiên, ấn nghiệp, đích xác song song
với kí ức. Ngày bạn vứt bỏ kí ức, bạn cũng vượt ra ngoài
hành động. Thế nữa mọi thứ vẫn xảy ra qua bạn, nhưng bạn
không còn là tác nhân, bạn không còn là người làm ra
chúng; bản ngã biến mất. Mọi thứ chảy qua bạn, nhưng bạn
không phải là người làm ra chúng. Cây không cố mọc lên;
việc mọc xảy ra, nhưng cây không cố lớn lên. Hoa nở,
nhưng không có nỗ lực can dự vào. Sông chảy nhưng
chúng không mệt. Sao dời nhưng chúng không lo âu. Mọi
thứ xảy ra nhưng không có người làm.
Trạng thái thứ hai là ấn hiểu biết gyana, điệu bộ tri
thức. Bạn đơn giản ngắm nhìn, bạn đơn giản biết, bạn
không làm gì cả. Mọi thứ xảy ra, bạn chỉ là người ngắm
nhìn; bạn không trở thành bị đồng nhất là người làm.
Rồi ấn thứ ba là ấn thời gian samaya. Rồi dần dần sự
kiện người biết cũng không còn cần thiết nữa; chẳng có gì
để biết. Hành động đầu tiên biến mất, thế rồi tri thức cũng
biến mất. Thế thì có cái bây giờ thuần khiết; thời gian chỉ
trôi trong sự thuần khiết của nó. Tất cả là: không có gì phải
làm và không có gì phải biết. Bạn đơn giản hiện hữu; thời
gian cứ trôi bên cạnh, bạn không bị quấy rối, không bị xáo
động. Mọi ham muốn làm hay biết đều đã biến mất.
Chỉ có hai loại ham muốn: loại thấp hơn là làm việc gì
đó, loại cao hơn là biết cái gì đó. Loại thấp hơn cần thân thể
để thực hiện, loại cao hơn chỉ cần tâm trí để biết - nhưng cả
hai đều là ham muốn. Cả hai đều ra đi, bây giờ bạn ngồi lại
một mình. Mọi thứ đều biến chuyển, thời gian trôi đi, mọi
thứ cứ xảy ra. Bạn không là người làm cũng chẳng là người
biết.
Và rồi điệu bộ thứ tư: ấn đại biểu tượng mahamudra,
điệu bộ vĩ đại. Thậm chí bạn cũng không còn nữa. Hành
động bị vứt bỏ, tri thức bị vứt bỏ, rồi ngay cả thời gian
cũng bị vứt bỏ... và rồi bạn cũng biến mất. Thế thì chỉ còn
im lặng. Đây chính là điều im lặng là gì. Cái bạn vẫn gọi là
im lặng thì không phải là im lặng. Im lặng của bạn chỉ là
phản xạ xa xăm, im lặng rất nghèo nàn. Đôi khi bạn cảm
thấy một chút thảnh thơi và tâm trí không xoay tròn nhanh
như nó vẫn thường thế; tâm trí có một chút thảnh thơi, bạn
cảm thấy cái im lặng. Điều đó chẳng là gì cả.
Im lặng là khi hành động đã mất, tri thức đã mất, thời
gian đã biến mất... và cả bạn nữa. Cuối cùng bạn cũng mất.
Một ngày nào đó bỗng nhiên bạn thấy mình không hiện
hữu: một ngày nào đó bạn bỗng nhiên thấy rằng mọi thứ
đều biến mất, chẳng còn lại cái gì. Trong cái không có gì
đó - điệu bộ vĩ đại - bạn là vô tận.
Với điệu bộ thứ nhất, ấn nghiệp, còn có ý nghĩ - và một
cách tự nhiên, với ý nghĩ, có cả quá khứ và tương lai, bởi vì
ý nghĩ hoặc là về quá khứ hoặc là về tương lai. Với ý nghĩ,
có cả lo âu, căng thẳng, đau khổ.
Với điệu bộ thứ hai, ấn hiểu biết gyana, kí ức tan biến
trong vô kí ức: không quá khứ, không tương lai - chỉ có bây
giờ. Tâm trí đi ngủ, chưa chết hẳn, có thể thức dậy lần nữa.
Cho nên nhiều lần ấn gyana xảy ra và mất đi. Đó là ý nghĩa
của việc đạt được thiền và mất nó. Trong trường hợp thứ
hai tâm trí không bị phá huỷ, nó đơn giản đi ngủ. Nó có
giấc ngủ nhỏ, có thế thôi; nó đi vào trong giấc ngủ. Rồi lần
nữa nó quay trở lại, đôi khi với mức độ mạnh hơn; tất nhiên
quay trở lại với năng lượng cực kì lớn - nó đã nghỉ ngơi
rồi! Cho nên sau mỗi lần thiền sâu bạn sẽ thấy rằng tâm trí
xoay tròn nhiều hơn, bây giờ nó đã nhận được nhiều năng
lượng hơn; nó đã nghỉ ngơi và đã trở thành tích cực hơn.
Trong điệu bộ thứ hai, ấn hiểu biết gyana, tâm trí đi vào
giấc ngủ nhưng chưa biến mất - nhưng bạn có thể nếm trải
một chút vô trí trong thoáng chốc. Trong một giây hé ra tia
sáng ùa vào, bạn xúc động. Và việc nếm trải này tạo ra tin
cậy; đây là nơi tin cậy nảy sinh.
Tin cậy không phải là niềm tin, nó là nếm trải. Khi bạn
đã thấy ánh sáng này, cho dù chỉ một khoảnh khắc, thế thì
bạn chẳng bao giờ còn là con người như cũ nữa. Bạn có thể
mất nó, nhưng nó sẽ ám ảnh bạn. Bạn có thể không có khả
năng gặp lại nó lần nữa, nhưng bạn sẽ không thể nào quên
được nó, nó bao giờ cũng có đấy. Và bất kì khi nào bạn có
thời gian và năng lượng, nó sẽ bắt đầu gõ vào cánh cửa của
bạn.
Đây là trạng thái có thể xảy ra rất sớm trong hiện diện
của thầy; đây là đỉnh cao tiếp xúc. Trạng thái thứ hai, ấn
hiểu biết gyana, có thể xảy ra trong hiện diện của người đã
đạt tới giai đoạn thứ tư, tới vô trí.
Do đó trong suốt các thời đại những người tìm kiếm đã
đi tìm thầy. Có thể lấy nếm trải đó từ đâu? Bạn không thể
lấy được nó qua sách vở, sách vở chỉ cung cấp cho bạn
niềm tin. Kiếm kinh nghiệm sống đó từ đâu? Và bạn không
thể có được kinh nghiệm sống đó bởi vì bạn không biết nó
đính xác là gì, đi theo hướng nào, phải làm gì. Và hoài nghi
bao giờ cũng có đó... liệu tất cả những điều đó có tồn tại
không... có thể đấy chỉ là giấc mơ của vài người khùng
chăng? Và họ là phần thiểu số nhỏ bé - một Phật, một
Christ, một Saraha, họ là những phần rất nhỏ bé của nhân
loại. Đại đa số loài người sống mà không có kinh nghiệm
như vậy. Ai biết được, những người đó có thể là người
khùng. Ai biết được, những người đó có thể có hư hỏng
nào đó. Ai biết được, những người này có thể lừa đảo, giả
dối; họ có thể đi lừa kẻ khác. Hay có thể họ không là kẻ
lừa... những người thành thật, nhưng họ tự lừa dối mình.
Họ có thể tự thôi miên mình, họ có thể tạo ra ảo giác. Hay
có thể họ đã mơ về điều đó, có thể họ là những tay mơ,
những tay mơ giỏi...
Có những người mơ tốt và những người mơ xấu. Người
mơ xấu là những người có giấc mơ bao giờ cũng mầu đen
và trắng - phẳng, hai chiều. Những người mơ tốt là những
người có giấc mơ trong ba chiều, bao giờ cũng đầy mầu
sắc. Những người mơ ba chiều này trở thành nhà thơ. Bạn
có nhớ lúc nào bạn có giấc mơ mầu sắc không? Rất hiếm
khi một người thấy một giấc mơ mầu sắc; thường thì chúng
chỉ là trong đen trắng. Nếu bạn thấy giấc mơ mình có mầu
sắc thì có khả năng con người bạn là nhà thơ, hoạ sĩ, ngược
lại thì không. Ai biết được, các nhà huyền môn đều là
những người mơ vĩ đại và họ mơ trong ba chiều, cho nên
việc mơ của họ hoàn toàn thực tại. Và một cách tự nhiên họ
dành nhiều thời gian cho các giấc mơ của mình đến nỗi có
thể là họ trở nên bị ám ảnh với giấc mơ và đến nỗi chẳng
có gì giống điều ấy lại thực sự là thực cả...
Hoài nghi này cứ còn dai dẳng, hoài nghi này cứ theo
mọi người tìm kiếm. Điều ấy cũng tự nhiên, chẳng có gì
phải băn khoăn về nó cả. Làm sao vứt bỏ hoài nghi này?
Kinh sách chỉ nói, "Hãy vứt bỏ nó và hãy tin tưởng."
Nhưng làm sao vứt bỏ nó? Bạn có thể tin tưởng, nhưng sâu
bên trong hoài nghi vẫn cứ tiếp tục.
Thánh Augustine có một lời nguyện mà ông quen dùng
để cầu nguyện Thượng đế hàng ngày: "Thượng đế, con tin
tưởng. Con tuyệt đối tin tưởng. Nhưng xin ngài chăm nom,
ban ơn cho con, để cho hoài nghi không khởi lên nữa."
Nhưng tại sao? Nếu tin tưởng là tuyệt đối thì sợ hãi này nảy
sinh từ đâu? Lời cầu nguyện này tới từ đâu? "Con tin
tưởng," thánh Augustine nói, "và xin ngài chăm nom sự
không tin của con." Nhưng không tin có đó. Có thể bạn đã
kìm nén nó... từ tham lam, từ thèm khát Thượng đế, từ
thèm khát và ham muốn thế giới khác, bạn có thể đã kìm
nén nó; nhưng nó vẫn có đó, và nó tiếp tục giày vò trong
tim bạn. Bạn không thể vứt bỏ nó chừng nào kinh nghiệm
nào đó chưa xảy ra cho bạn.
Nhưng làm sao kinh nghiệm đó có thể xảy ra được?
Kinh sách nói, chừng nào bạn còn chưa tin tưởng thì kinh
nghiệm vẫn không xảy ra. Bây giờ đây là hiện tượng rất
phức tạp. Họ nói rằng kinh nghiệm sẽ không xảy ra chừng
nào bạn còn chưa tin. Và làm sao để kinh nghiệm xảy ra? -
vì bạn không thể tin được chừng nào kinh nghiệm chưa xảy
ra. Chỉ kinh nghiệm mới có thể tạo ra niềm tin - niềm tin
không hoài nghi, tin cậy không hoài nghi.
Tin cậy không hoài nghi này là có thể có chỉ nếu bạn
đang trong hiện diện của một ai đó mà điều đó đã xảy ra
cho người đó. Trong sự hiện diện ấy, một ngày nào đó, bạn
vẫn đang ngồi im lặng, không biết, không cố gắng, không
ham muốn, nó xảy ra. Nó xảy ra tựa như chớp loé... và toàn
bộ cuộc đời bạn được biến đổi. Đây chính là điều được ngụ
ý qua cải tâm. Bạn đã được cải tâm, bạn đã được biến đổi,
bạn đã chuyển tới một bình diện mới.
Sự hiện diện của ai đó sống cao hơn bạn đã nâng bạn
lên. Không nhận biết thấy, về phần mình, bạn đã được kéo
lên. Một khi bạn đã nếm trải thì có tin cậy. Và khi có tin
cậy bạn có thể chuyển vào trạng thái thứ ba và thứ tư. Sự
hiện diện của thầy chỉ có thể dẫn bạn qua trạng thái thứ hai,
ấn gyana. Vâng, thầy có thể cho bạn chút ít hiểu biết, chút
ít nếm trải về bản thể thầy.
Khi Jesus chuẩn bị ra đi, ông ấy bẻ chiếc bánh mì và
nói với các đệ tử, "Ăn nó đi, nó là ta," ông ấy rót rượu và
nói, "Uống đi, đây là máu ta, đây là ta." Điều này rất tượng
trưng, nó là biểu dụ. Đây là ấn hiểu biết gyana. Jesus đã
nói: ông có thể có một chút nếm trải ta, ông có thể uống ta,
ông có thể ăn ta. Mỗi đệ tử đều là con vật ăn thịt. Ông ta ăn
thầy, ông ta hấp thụ thầy; đó chính là điều ăn nghĩa là gì.
Bạn làm gì khi bạn ăn cái gì đó? Bạn tiêu hoá nó, bạn hấp
thu nó. Nó trở thành máu bạn, nó trở thành xương bạn, nó
trở thành tuỷ bạn, nó trở thành tâm thức bạn. Đó chính là
ăn là gì.
Bạn làm gì với thầy? Bạn ăn hiện diện của thầy, bạn ăn
rung động của thầy, và bạn tiêu hoá nó. Và dần dần, điều
đó trở thành tâm thức của bạn. Cái ngày nó trở thành tâm
thức của bạn, bạn là sannyasin, không trước điều đó. Trước
điều đó, sannyasin chỉ là hình thức. Trước điều đó,
sannyasin chỉ là sự bắt đầu hướng tới hiện tượng này.
Không phải là một sannyasin thì sẽ rất khó cho điều này
xảy ra, bởi vì với tính chất sannyas bạn trở nên cởi mở và
mong manh. Khi bạn cởi mở và mỏng manh, một ngày nào
đó, một khoảnh khắc nào đó, mọi thứ sẽ hội lại với nhau.
Trong một khoảnh khắc nào đó năng lượng của bạn ở trong
trạng thái mà năng lượng của thầy có thể kéo nó ra. Trong
những khoảnh khắc nào đó bạn đến rất gần. Trong khoảnh
khắc yêu thương nào đó, trong khoảnh khắc vui vẻ nào đó,
trong lễ hội nào đó, bạn tới gần với thầy và bạn có thể được
móc vào thầy! Và chỉ một thoáng nhìn, chỉ một giọt cam lồ
đó trôi xuống cổ họng bạn, thế là bạn được cải tâm.
Giờ bạn biết. Giờ bạn biết bản thân mình, giờ thì không
cần tin nữa. Bây giờ thậm chí toàn bộ thế giới có nói rằng
Thượng đế không tồn tại, điều ấy cũng chẳng thành vấn
đền: bạn sẽ có khả năng tranh đấu chống lại toàn bộ thế
giới bởi vì bạn biết. Làm sao bạn có thể phủ nhận được tri
thức riêng của mình? Làm sao bạn có thể phủ nhận được
kinh nghiệm của riêng mình?
Giọt cam lồ nhỏ bé đó còn mạnh hơn toàn bộ thế giới.
Giọt cam lồ nhỏ bé đó còn tiềm năng hơn toàn bộ quá
khứ của bạn.
Hàng triệu kiếp sống chẳng là gì khi so sánh với giọt
cam lồ nhỏ bé đó.
Nhưng điều này chỉ có thể xảy ra khi bạn ở gần. Mọi
người tới tôi và họ hỏi, "Tại sao phải là mang tính
sannyas? Chúng tôi không thể ở đây mà không mang tính
sannyas được sao?” Có chứ, bạn có thể ở đây lâu tuỳ thích,
nhưng bạn sẽ không ở gần. Bạn có thể ngồi ngay bên cạnh
tôi. Tôi có thể cầm tay bạn; điều đó sẽ không có tác dụng.
Hãy mong manh về phần bạn, cởi mở về phần bạn...
Mới vài ngày hôm trước một thanh niên hỏi tôi, "Đâu
là lí do cơ bản cho áo thụng da cam, cho vòng hạt, cho hình
trái tim có lồng ảnh này? Đâu là sự hợp lí?"
"Chẳng có gì cả," tôi bảo anh ta. "Đấy chỉ là ngớ ngẩn."
Anh ta phân vân. Anh ta nói, "Nhưng nếu đấy là điều
ngớ ngẩn thì tại sao thầy áp đặt nó?
Còn tôi thì bảo anh ta, "Đấy đích thị là cái tại sao."
Nếu tôi nói điều gì đó hợp lí và bạn làm việc đó thì
điều đó không làm bạn buông xuôi theo tôi, điều đó sẽ
không phải là điệu bộ. Nếu cái gì đó hợp lí và bạn được
thuyết phục về tính hợp lí của nó và rồi bạn theo nó, bạn
chính là đang theo lí trí của mình, không phải theo tôi. Nếu
cái gì đó hợp lí và có thể được chứng minh một cách hợp lí,
khoa học và bạn theo nó, bạn không mong manh cho tôi,
bạn không sẵn có cho tôi. Điều đó sẽ không ích gì; bạn sẽ
vẫn theo lí trí của bạn. Cho nên mỗi bậc thầy trong khắp
các thời đại đều đã phát triển một vài điều ngớ ngẩn. Chúng
đơn giản là biểu tượng. Chúng đơn giản chỉ ra rằng, vâng,
bạn đã sẵn sàng và bạn không đòi hỏi lí lẽ. Bạn đã sẵn sàng
đi với con người này và nếu ông ta có những ý tưởng lập dị
nào đó, cả điều ấy nữa bạn cũng theo. Điều này làm lỏng
đầu bạn, nó chỉ làm cho bạn cởi mở thêm một chút.
Chứng ngộ có thể xảy ra theo bất kì mầu sắc nào; mầu
da cam không phải là nhất thiết, nó có thể xảy ra theo bất kì
mầu nào. Nó có thể xảy ra không có hình trái tim lồng ảnh
nào, nó có thể xảy ra không có vòng hạt nào. Nhưng thế thì
tại sao?... Cái 'tại sao' là cái ngớ ngẩn của nó. Lí do là ở chỗ
nó là vô nghĩa. Nó chỉ là một cử chỉ về phần bạn rằng bạn
sẵn sàng đi vào cái gì đó cho dù nó là ngớ ngẩn. Bạn sẵn
sàng đi ra ngoài lí trí của mình, đó là ý nghĩa của nó.
Đây là sự bắt đầu rất nhỏ bé, nhưng những bắt đầu nhỏ
bé đó có thể kết thúc trong những điều lớn lao. Khi con
sông Hằng xuất phát từ Himalayas, nó chỉ là những giọt tí
tách; bạn có thể cầm nó trong tay, nó là một hiện tượng nhỏ
bé làm sao. Nhưng đến lúc nó đạt tới đại dương thì nó lớn
mênh mông, khổng lồ và to lớn đến mức nó nhấn chìm bạn;
bạn không thể cầm được nó tí nào nữa.
Đây là một cử chỉ nhỏ - mặc áo thụng da cam và đeo
vòng hạt mala và trái tim có lồng ảnh - một điều rất ngớ
ngẩn, một cử chỉ nhỏ bé, sự khởi đầu của cái gì đó. Bạn yêu
một người đến mức bạn sẵn sàng làm điều gì đó ngớ ngẩn
cho người ấy, có thế thôi. Điều này làm cho bạn thành
mong manh đối với tôi, và thế thì bạn có thể dễ dàng nhiễm
tác động.
Tin cậy mang tính truyền nhiễm, và bạn phải có sẵn
cho nó. Hoài nghi là một loại tiêm chủng: nó bảo vệ. Lí trí
bảo vệ. Được bảo vệ, bạn sẽ không bao giờ đi đâu cả. Được
bảo vệ, bạn sẽ chỉ chết. Được bảo vệ, bạn trong nấm mồ
của mình. Không được bảo vệ, bạn sẵn có cho Thượng đế.
Ở cận kề với thầy... hiện tượng này có thể xảy ra một
ngày nào đó, bạn sẽ được nâng lên; bỗng nhiên bạn có
cánh, một chút nếm trải tự do và bầu trời. Và thế thì... thế
thì mọi thứ có thể được làm theo cách riêng của bạn.
Thế thì giai đoạn thứ ba trở thành có thể: ấn thời gian
samaya. Thế thì bạn có thể bắt đầu nhìn theo hướng đã
được mở ra bên trong bạn, và bạn có thể bắt đầu chuyển
dịch. Bây giờ bạn biết nơi cần tới, nơi cần đi; bây giờ bạn
có hiểu thấu trực giác nào đó về nó, bây giờ bạn biết một
mẹo nào đó. Tôn giáo không phải là khoa học, tôn giáo
không phải là nghệ thuật, nó là mẹo. Nhưng mẹo tới thông
qua nếm trải, thông qua kinh nghiệm.
Ấn thời gian samaya là vô thuỷ, song song với vô thuỷ:
anutpanna. Thế thì tâm trí không chỉ ngủ, tâm trí đã bị vứt
bỏ. Nhưng với trạng thái thứ hai, tâm trí sẽ quay lại; nó mới
ngủ. Với trạng thái thứ ba, tâm trí sẽ không trở lại dễ dàng
nữa, nhưng vẫn còn khả năng đem nó trở lại. Với trạng thái
thứ hai nó sẽ quay trở lại, nó sẽ xảy ra; với ấn hiểu biết
gyana nó sẽ quay lại theo cách riêng của nó. Với trạng thái
thứ ba, ấn thời gian samaya, nếu bạn muốn đem nó thì bạn
có thể đem nó được, nhưng nếu không thì nó sẽ không đến
theo cách của riêng nó.
Với trạng thái thứ tư, ấn đại biểu tượng mahamudra,
cho dù bạn muốn đưa nó lại, điều đó không thể được. Bạn
đã vượt ra ngoài, bạn đã siêu việt lên. Giai đoạn thứ tư này,
chính là sự bắt đầu của sự tồn tại, là mục tiêu của Mật tông.
Thêm ba điều nữa, thế thì chúng ta có thể đi vào lời
kinh...
Từ kí ức tới vô kí ức bạn sẽ cần 'nhận biết một'. Bạn sẽ
phải trở nên quan sát nhiều hơn về các ý nghĩ, giấc mơ, kí
ức khởi lên, bay lượn quanh bạn. Bạn sẽ phải tập trung chú
ý nhiều hơn vào các ý nghĩ. Ý nghĩ là các đối tượng và bạn
sẽ phải trở nên nhận biết về chúng. Đây là nhận biết đầu
tiên: 'nhận biết một'.
Krishnamurti nói về điều này. Ông ấy gọi điều đó là
'nhận biết vô chọn lựa'. Đừng chọn lựa. Dù bất kì ý nghĩ
nào thoáng qua cũng đừng có đánh giá, chỉ quan sát nó; chỉ
thấy rằng nó đi qua. Nếu bạn tiếp tục quan sát, một ngày
nào đó ý nghĩ sẽ không đi nhanh nữa; tốc độ của chúng
chậm dần. Thế rồi một ngày nào đó lỗ hổng bắt đầu tới; ý
nghĩ này qua và ý nghĩ khác chưa tới trong một thời gian
dài. Thế rồi sau khoảng thời gian nào đó ý nghĩ đơn giản
biến mất trong hàng giờ, và con đường trống vắng giao
thông.
Thông thường bạn bao giờ cũng trong giờ cao điểm.
Các ý nghĩ chen chúc, cái nọ lấn cái kia, vệt nọ nối vệt kia.
Không chỉ có một vệt, có nhiều vệt tiếp diễn. Và người bạn
gọi là nhà tư tưởng có nhiều vệt hơn người thường. Nếu
bạn biết về cờ vua, bạn cũng biết rằng người chơi cờ vua
cần một tâm trí năm vệt. Người đó phải nghĩ trước ít nhất
năm nước đi: nếu người đó định đi nước này thì người kia
sẽ đi đi nước nào? - thế rồi người đó phải đi nước nào? - rồi
người kia phải đi nước nào...? Người đó phải tính như vậy,
ít nhất tính trước là năm nước. Chừng nào người đó còn
chưa tính được năm nước đi trước trong tâm trí thì người
đó không thể là người chơi cờ lớn.
Người bạn gọi là nhà tư tưởng đó có tâm trí nhiều vệt,
một tâm trí rất phức tạp, và tất cả các vệt đều chen chúc
nhau. Từ mọi hướng bao giờ cũng có xô đẩy, và nó bao giờ
cũng vào giờ cao điểm, kể cả trong đêm. Khi bạn đi ngủ
tâm trí vẫn tiếp tục, nó vẫn tiếp tục làm việc. Nó là công
nhân làm việc hai mươi tư tiếng, nó chẳng đòi hỏi ngày
nghỉ nào. Ngay cả Thượng đế cũng phải mệt sau sáu ngày
và phải nghỉ vào chủ nhật, nhưng tâm trí chẳng cần chủ
nhật. Trong bảy mươi, tám mươi năm nó cứ làm việc, làm
việc và làm việc. Nó đang phát điên. Không nghỉ...
Bạn chắc hẳn phải đã thấy bức ảnh tượng của Rodin,
Người Suy ngẫm. Ở phương Đông chúng ta cười về bức
tượng đó... nó lo âu làm sao! Người suy ngẫm của Rodin...
bạn có thể thấy cái đầu của ông ấy ngay cả trong tượng đá
cẩm thạch, bạn có thể cảm thấy lo âu của ông ta; đó là nghệ
thuật của Rodin. Bạn có thể hình dung Aristotle giống như
thế, hay Bertrand Russel, hay Friedrich Nietzsche - và
chẳng có gì đáng ngạc nhiên khi Nietzsche phát điên. Đấy
là cách thức, bức tượng của Rodin này nhất định sẽ phát
điên một ngày nào đó vì cứ suy nghĩ, suy nghĩ, suy nghĩ
mãi...
Ở phương Đông chúng ta chẳng bận tâm nhiều về
những người suy nghĩ, chúng ta yêu mến những người vô
suy nghĩ. Phật là người vô suy nghĩ, Mahavira cũng vậy,
Sahara cũng vậy, đây là những người vô suy nghĩ. Cho dù
họ có nghĩ, họ chỉ nghĩ tới việc chuyển sang vô suy nghĩ.
Họ dùng suy nghĩ làm bàn nhảy sang vô suy nghĩ.
Cây cầu từ kí ức sang vô kí ức là 'nhận biết một'; nó là
việc nhận biết về đối thể. Từ vô kí ức tới vô thuỷ bạn sẽ
cần nhận biết thứ hai: đó là cái mà Gurdijieff gọi là 'tự nhớ'.
Công trình của Krishnamurti hoàn toàn dựa trên 'nhận biết
một'; công trình của Gurdjieff hoàn toàn dựa trên 'nhận biết
hai'. Với nhận biết một bạn nhìn vào đối thể, nhìn vào ý
nghĩ. Bạn trở nên chú ý tới đối thể. Với 'nhận biết hai' bạn
trở nên chú ý kép - tới đối thể và cả tới chủ thể nữa. Mũi
tên tâm thức của bạn có hai đầu. Một mặt bạn phải trở nên
nhận biết về ý nghĩ, và mặt khác bạn phải nhận biết về
người suy nghĩ: đối thể, chủ thể - cả hai đều dưới ánh sáng
của nhận biết. Công trình của Gurdjieff đi sâu hơn công
trình của Krishnamurti. Ông gọi nó là 'tự-nhớ'.
Một ý nghĩ thoáng qua tâm trí bạn - chẳng hạn một
đám mây giận dữ đang chuyển qua. Bạn có thể quan sát
đám mây giận dữ mà không quan sát người quan sát, thế thì
đấy là 'nhận biết một'. Nếu bạn quan sát đám mây và đồng
thời bạn liên tục nhớ người đang quan sát - 'Tôi đang quan
sát' - thì đấy là 'nhận biết hai': điều Gurdjieff gọi là 'tự nhớ'.
Từ kí ức tới vô kí ức, nhận biết một sẽ có ích. Nhưng từ
vô kí ức bạn có thể rất dễ dàng rơi trở lại trong kí ức, bởi vì
tâm trí chỉ đi ngủ. Với nhận biết thứ nhất bạn đơn giản làm
mê tâm trí, bạn đánh thuốc mê cho tâm trí; tâm trí đi vào
giấc ngủ. Đấy là việc nghỉ ngơi lớn và là sự bắt đầu tốt,
nhưng chưa phải là kết thúc; là cần nhưng không đủ.
Với nhận biết thứ hai, tâm trí rơi vào trong vô thuỷ,
anutpanna: Bây giờ sẽ rất khó khăn để đưa nó . Bạn có thể
đưa nó lại, nhưng nó sẽ không đến theo cách riêng nó.
Không phải là không thể nào đưa nó lại, nhưng điều ấy
không dễ dàng.
Với Gurdjieff công việc còn đi sâu hơn. Và Mật tông
nói rằng còn có nhận biết thứ ba: 'nhận biết ba'. 'Nhận biết
ba' này là gì vậy? Khi bạn quên mất đối thể và bạn quên
mất chủ thể và chỉ còn nhận biết thuần khiết. Bạn không
tập trung vào bất kì vật nào - chỉ là nhận biết thuần khiết lơ
lửng, không chú ý vào bất kì vật gì, chỉ là sự chú ý, không
tập trung, không tụ hội. Với nhận biết thứ nhất bạn còn tập
trung vào đối thể. Với nhận biết thứ hai bạn còn tập trung
vào đối thể và chủ thể nữa. Với nhận biết thứ ba bạn vứt bỏ
mọi sự tập trung, bạn đơn giản tỉnh táo. Nhận biết thứ ba
này dẫn bạn tới trạng thái vô trí.
Bây giờ đến lời kinh:
Vô trí là chân lí của qui ước
và tâm trí đã trở thành vô trí là chân lí tối thượng.
Mật tông chia chân lí theo hai ngả: ngả đầu nó gọi là
chân lí giả tưởng, vyavharika; ngả thứ hai nó gọi là chân lí
tối thượng, parmarthika. Chân lí giả tưởng được gọi là
chân lí chỉ bởi cái tên, nó được gọi là chân lí bởi vì nó có
vẻ như chân lí. Trong thực tế nó là vậy; nó có một thoáng
nào đó của chân lí.
Nó gần giống như thế này: nếu ai đó cho bạn xem bức
tranh về tôi và bạn nói, "Đúng, đấy là bức tranh thật," bạn
ngụ ý gì về 'bức tranh thật'? Làm sao bức tranh có thể là
thật? Phát biểu bức tranh là thật đơn giản có nghĩa là nó
giống với nguyên bản. Bức tranh bản thân nó là không thật
- mọi bức tranh đều không thật, nó chỉ là giấy. Làm sao tôi
có thể ở trên giấy được, làm sao tôi có thể là tờ giấy được,
làm sao tôi có thể là nét vẽ được? Ngay cả bức ảnh thật
cũng chỉ là bức ảnh. Nhưng bằng cách nói rằng, "Đó là bức
ảnh thật," chúng ta nói rằng, đúng đấy, nó giống như
nguyên bản.
Tôi đã từng nghe một giai thoại...
Một người đàn bà rất đẹp nhưng lắm mồm một lần tới
thăm Pablo Picasso, và bà ấy nói quá nhiều. Pablo Picasso
chán ngán, nhưng bà ấy rất giầu cho nên ông không thể
tống khứ bà ấy được. Bà ấy là một khách hàng lớn mua
tranh của ông, cho nên ông phải nghe. Và bà ấy cứ lải nhải
mãi.
Rồi cuối cùng bà ấy nói, "Mới hôm nọ tôi có thấy bức
ảnh ông ở nhà người bạn. Bức ảnh sống động thế và tôi yêu
nó quá đến mức tôi đã hôn nó."
Picasso nói, "Khoan đã! Nó có hôn lại không?"
Người đàn bà nói, "Ông nói cái gì thế? Ông có điên
không đấy? Làm sao bức tranh biết hôn được?"
Picasso nói, "Thế thì nó không phải là tôi. Nó chắc
chắn không phải là tôi!"
Một bức tranh là thật bởi vì nó giống. Nó là không thật
bởi vì nó là bức tranh. Đây là điều Mật tông gọi là chân lí
vyavharika.
Vô trí là chân lí của qui ước... nó cũng đại loại như
vậy, nó chỉ được gọi là chân lí theo qui ước. Kí ức bạn đã
biết, vô kí ức đôi khi xảy ra trong sự hiện diện của thầy,
hay trong khi thiền hay cầu nguyện. Nhưng ngay cả vô kí
ức cũng chỉ là chân lí giả tưởng; nó là bức ảnh. Vâng, nó
giống như vô trí thật, nhưng chỉ giống thôi. Nó vẫn chưa là
vô trí thật.
Để làm cho bạn nhận biết về nó và để giữ nó trong tâm
trí, Mật tông nhắc đi nhắc lại rằng điều này phải không
được coi như mục tiêu; nó chỉ mới là sự bắt đầu. Nhiều
người trở nên bị mắc kẹt khi họ đạt tới vô kí ức. Khi họ có
thể có vài thoáng nhìn về vô trí, họ nghĩ rằng họ đã đạt tới.
Nó cực kì đẹp đẽ, nó rất sống động; nếu so với kí ức thì nó
thật cực lạc. Nhưng nó chẳng là gì nếu so với trạng thái vô
trí thực, bởi vì kí ức vẫn còn đó, đang ngủ say, đang ngáy;
nó có thể thức dậy bất kì lúc nào. Tâm trí vẫn còn đó đang
đợi cơ hội quay trở lại. Vâng, giao thông đã dừng lại trong
thoáng chốc, nhưng giao thông sẽ bắt đầu .
Việc có được thoáng nhìn này là điều tốt bởi vì chúng
sẽ đưa bạn đi xa hơn, nhưng bị mắc kẹt vào đó thì không
tốt. Đây là điều xảy ra cho việc dùng thuốc - LSD, cần sa,
ma tuý - đây là điều xảy ra, trạng thái thứ hai này, vô kí ức.
Trong thoáng chốc, dưới tác động của thuốc, kí ức biến
mất. Đó là trạng thái do hoá chất gây ra; trong cơn sốc do
hoá chất gây ra, kí ức biến mất.
Đây là điều xảy ra qua sốc điện. Chúng ta gây sốc điện
cho người điên, người có kí ức đã trở thành gánh nặng với
họ đến mức họ không thể tự mình thoát ra được. Chúng ta
gây sốc điện cho họ hay sốc insulin. Tại sao? - bởi vì qua
cơn sốc - điện truyền qua sóng não của họ, gây cho họ cơn
sốc - trong khoảnh khắc họ trở nên bị bật gốc rễ. Họ mất
dấu vết, họ quên điều đang nghĩ, điều đang có đó. Trong
khoảnh khắc họ bị sững sờ bởi cơn sốc và khi họ trở lại họ
không thể nắm lại nó. Đó là lí do tại sao sốc điện có ích.
Nhưng sốc điện hay sốc hoá học không cho bạn điều thực,
chúng chỉ cho bạn bức ảnh.
Vô trí là chân lí của qui ước
và tâm trí đã trở thành vô trí là chân lí tối thượng
Cho nên đừng có mãn nguyện chừng nào bạn còn chưa
đạt tới vô trí, trạng thái thứ tư.
Đây là hoàn thành, Saraha nói, đây là điều tốt lành cao
nhất.
Các bạn, trở nên nhận biết về điều tốt lành cao nhất
này.
Vô trí này là sự hoàn thành, bởi vì bạn đã đạt tới chính
ngọn nguồn của cuộc sống và sự tồn tại. Và chừng nào nó
còn chưa xảy ra, vẫn không có mãn nguyện và không có
hoàn thành. Đây là nở hoa thực sự, đây là sahasrar, hoa sen
một nghìn cánh đã nở. Cuộc sống của bạn toả ra trong
hương thơm ngát, lễ hội và vui vẻ.
Đây chính là Thượng đế là gì. Đây chính là điều tốt
lành cao nhất, thượng đỉnh. Không còn cái gì cao hơn điều
này nữa. Đây là niết bàn.
Các bạn, trở nên nhận biết về điều tốt lành cao nhất
này, Saraha nói. Nhớ lấy, có ba loại nhận biết: 'nhận biết
một' về đối thể, 'nhận biết hai' về đối thể và chủ thể, 'nhận
biết ba', nhận biết thuần khiết. Đi vào trong ba giai đoạn
nhận biết này để bạn có thể đạt tới thượng đỉnh.
Và Saraha nói với nhà vua và những người khác,
người phải tụ tập để nghe bài nói vĩ đại này: "Các bạn..."
Ông ấy gọi họ là các bạn; điều này phải được hiểu. Từ phía
thầy thì đệ tử là bạn, nhưng không từ phía đệ tử. Đôi khi
một vài sannyasin viết thư cho tôi; mới hôm nọ đã có câu
hỏi... Một sannyasin đã viết, "Thưa Osho, tôi không thể coi
thầy là người thầy, mà con coi thầy là như bạn mình. Có gì
sai trong đó không?" Chẳng có gì về phía tôi, điều ấy hoàn
toàn tốt. Nhưng cái gì đó đang lỡ ở phía bạn và bạn sẽ lúng
túng. Tại sao lại như thế?
Từ phía thầy bạn là người bạn, bởi vì thầy có thể thấy
rằng chỉ có vấn đề thời gian; bằng không thì bạn đã đạt
chứng ngộ. Đấy chỉ là vấn đề thời gian và một ngày nào đó
bạn sẽ trở nên thức tỉnh. Tất cả các bạn đều là các vị phật!
Từ phía thầy toàn bộ sự tồn tại đã là chứng ngộ. Tảng đá và
cây cối, các ngôi sao và các con vật, chim chóc, đàn ông và
đàn bà - toàn bộ sự tồn tại đã chứng ngộ từ phía thầy. Chỉ
còn vấn đề thời gian, mà thời gian thì chẳng can hệ. Tất cả
bạn vẫn có đó. Bạn không biết điều đó, điều đó đúng,
nhưng thầy biết.
Cái ngày tôi biết về bản thân tôi, tôi cũng biết về chính
cái ta của sự tồn tại. Từ đó tôi không nhìn thấy ai là chưa
chứng ngộ; tôi không thể nhìn khác được, điều ấy là không
thể được. Vâng, bạn không nhận ra sự kiện của mình,
nhưng tôi không thể phủ nhận điều đó. Từ phía tôi, bạn là
bạn, bạn là tôi. Nhưng từ phía bạn, nếu bạn nghĩ rằng bạn
không thể chấp nhận tôi như thầy của bạn và bạn chỉ có thể
nghĩ về tôi như một người bạn, đấy là tuỳ ở bạn. Nhưng
biết rằng bạn sẽ lỡ.
Khác biệt là thế nào? Khi bạn chấp nhận một người là
bạn, bạn ngụ ý rằng bạn chấp nhận người đó bình đẳng với
bạn; người bạn là bình đẳng với bạn. Quả thế, bạn là bạn
với tôi bởi vì tôi thấy rằng bạn bình đẳng với tôi, không có
gì khác biệt. Nhưng nếu bạn coi tôi bình đẳng với bạn thì
việc trưởng thành của bạn sẽ dừng lại.
Khi tôi coi bạn bình đẳng với tôi, tôi đang nâng bạn lên
bản thể tôi. Khi bạn coi tôi là bình đẳng với bạn, bạn đang
kéo tôi thấp xuống mức của bạn. Thấy khác biệt này đi. Khi
tôi nói rằng bạn là bình đẳng với tôi tức là tôi đang cố gắng
kéo bạn lên với tôi. Khi bạn nói, "Osho, thầy bình đẳng với
chúng tôi," bạn kéo tôi xuống mức bạn. Một cách tự nhiên
bạn không thể kéo được đến bất kì nơi đâu khác, bạn không
biết mức nào khác. Và tại sao chấp nhận ai đó làm thầy bạn
lại khó khăn thế? Bản ngã... nhiều nhất thì bản ngã cũng
muốn bạn chấp nhận tôi như người bạn.
Vấn đề ở bạn quyết định, đó là chọn lựa của bạn. Nếu
đấy là cách bạn muốn nó phải thế, cứ để cho nó theo cách
ấy - nhưng thế thì tôi không có trách nhiệm nếu chẳng có gì
xảy ra cho bạn. Thế thì đấy là trách nhiệm của bạn, hoàn
toàn là trách nhiệm của bạn, nếu không có gì xảy ra cho
bạn, bởi vì bạn đã tạo ra rào chắn. Tôi có thể chảy về phía
bạn chỉ khi bạn nhìn lên tôi, bởi vì luồng năng lượng chỉ có
thể chảy xuống.
Tôi chẳng mất gì nếu bạn nghĩ về tôi như người bạn
của bạn, tôi chẳng mất gì ngay cả nếu bạn nghĩ về tôi như
kẻ thù của bạn - điều đó chẳng thành vấn đề. Bạn mới đang
mất. Người nghĩ rằng tôi là kẻ thù của người đó và người
nghĩ rằng tôi là bạn của người đó, cả hai đều nghĩ về tôi
theo cùng một cách. Người nghĩ rằng tôi là kẻ thù của
người đó làm cho tôi ngang hàng với người đó, còn người
nghĩ rằng tôi là bạn của người đó cũng làm cùng điều như
thế. Họ không phải là những người khác biệt. Khi bạn nhìn
lên bạn có thể được móc lên bởi năng lượng đi lên, bạn có
thể được kéo lên.
Saraha nói:
Các bạn, trở nên nhận biết về điều tốt lành cao nhất
này.
Từ phía thầy, mọi người đều là bạn. Những người nghĩ
họ là bạn thì họ là bạn; còn những người nghĩ họ là kẻ thù,
họ cũng là bạn.
Trong vô kí ức tâm trí bị hấp thu;
chính điều này là hoàn hảo và thuần khiết đa
cảm. Nó không bị ô nhiễm bởi cái tốt cái xấu trần
tục
tựa như hoa sen vươn lên từ bùn không bị ảnh hưởng
bởi bùn
Trong vô kí ức tâm trí bị hấp thu... Kí ức được quan sát
sẽ bị hấp thu vào trong vô kí ức. Trong vô kí ức tâm trí bắt
đầu biến mất. Và khi tâm trí bắt đầu biến mất, nảy sinh một
loại mới, một phẩm chất năng lượng mới trong bạn - năng
lượng trái tim. Chính điều này là hoàn hảo và thuần khiết
đa cảm. Thế thì trái tim bắt đầu vận hành. Khi tâm trí đã
tan biến, năng lượng đã tham dự với tâm trí trở thành tình
yêu. Nó phải trở thành cái gì đó - năng lượng không thể bị
huỷ diệt. Không năng lượng nào đã từng bị huỷ diệt được,
nó chỉ được biến đổi; nó thay đổi hình dạng.
Tâm trí lấy đi tám mươi phần trăm năng lượng của bạn,
chẳng cho bạn cái gì, chẳng trả lại cái gì; nó hấp thụ tám
mươi phần trăm năng lượng của bạn. Nó giống như sa mạc.
Con sông cứ chảy còn sa mạc thì cứ hấp thu nó, và chẳng
có gì quay lại. Mà sa mạc thì thậm chí cũng chẳng trở nên
xanh tươi, thậm chí cỏ cũng chẳng mọc được, thậm chí cây
cũng chẳng mọc nổi, thậm chí nó cũng chẳng trở thành một
vũng nước con - chẳng có gì cả! Nó vẫn cứ khô khốc và
chết, và nó vẫn cứ bòn rút năng lượng sống. Tâm trí là kẻ
bóc lột vĩ đại. Chính tại nơi đó, trong sa mạc của tâm trí,
trong vùng hoang mạc của tâm trí mà bạn bị lạc.
Saraha nói: Khi điều này xảy ra - tức là kí ức tan biến
đi và bạn đạt tới vô kí ức - bỗng nhiên toàn bộ phẩm chất
của bạn thay đổi. Bạn trở nên đáng yêu hơn: từ bi nảy sinh
trong bạn. Cùng năng lượng đã đi vào sa mạc nay đi vào
mảnh đất mầu mỡ. Trái tim là mảnh đất của sự mầu mỡ ấy.
... chính điều này là hoàn hảo và thuần khiết đa
cảm. Nó không bị ô nhiễm bởi cái tốt cái xấu trần
tục
Và trong trái tim không có sự phân biệt giữa tốt và xấu.
Trái tim không biết phân biệt; mọi phân biệt đều thuộc về
tâm trí. Trái tim đơn giản chỉ yêu không phân biệt gì. Trái
tim đơn giản tuôn chảy không phân chia, không đánh giá.
Trái tim hồn nhiên: Nó không bị ô nhiễm bởi cái tốt cái xấu
trần tục... tựa như hoa sen vươn lên từ bùn không bị ảnh
hưởng bởi bùn.
Nó vươn lên từ cùng năng lượng tâm trí, từ cùng lớp
bùn ý nghĩ, suy nghĩ, ham muốn, thèm khát, nhưng nó là
hoa sen. Nó mọc lên từ bùn, nhưng vẫn không bị ô nhiễm
bởi bùn.
Mọi điều đều cần phải được xem xét
dường như chúng là câu thần chú kì diệu...
Nếu không phân biệt bạn có thể
chấp nhận hay bác bỏ luân hồi hay niết bàn,
tâm trí bạn kiên định, tự do khỏi màn đêm.
Trong bạn sẽ là tự tại, vượt ra ngoài ý nghĩ và gốc
gác...
... Saraha nói với nhà vua. Ông ấy đang trao cho nhà
vua một kĩ thuật vĩ đại! Lắng nghe nó, suy ngẫm về nó và
thử nó.
Bạn biết rõ rằng bạn đã mơ hàng triệu giấc mơ nhưng
trong giấc mơ, lần nào bạn cũng quên rằng đó chỉ là giấc
mơ; lần nào nó cũng trở thành thực tại. Đêm nay bạn lại
đang vào một giấc mơ nữa. Đấy là loại vô ý thức nào vậy?
Mỗi đêm bạn mơ và sáng dậy bạn thấy nó giả; nó không có
đó, nó chỉ là hình ảnh, chỉ là tưởng tượng. Lần nữa bạn lại
là nạn nhân. Lần nữa bạn lại mơ và lần nữa bạn lại nghĩ
rằng đấy là thực. Tại sao bạn không thể thấy rằng điều ấy
không thực trong giấc mơ? Điều gì ngăn cản bạn không
thấy được? Biết bao kinh nghiệm về bao nhiêu giấc mơ như
vậy và biết bao kết luận, và tất cả, không ngoại lệ nào, đều
chỉ ra một điều, rằng giấc mơ không phải là thực. Lần nữa
đêm nay bạn sẽ là nạn nhân; giấc mơ sẽ có đó và bạn sẽ
nghĩ rằng nó là thực, bạn sẽ sống với nó dường như nó
đúng là thực.
Mật tông phát triển một kĩ thuật. Kĩ thuật đó là: trong
khi bạn đang tỉnh thức, nghĩ về thế giới như giấc mơ.
Chẳng hạn, ngay bây giờ bạn đang lắng nghe tôi - coi nó
như giấc mơ đi. Rất dễ dàng nghĩ điều ấy ngay bây giờ, hơn
là trong giấc mơ. Nhiều lần bạn sẽ lắng nghe tôi trong giấc
mơ của bạn, thế thì sẽ quá khó khăn; bạn sẽ ngủ say. Ngay
bây giờ điều đó có thể được thực hiện dễ dàng. Ngay bây
giờ bạn có thể nghĩ rằng bạn đang trong mơ: Osho là giấc
mơ của bạn, ông ấy đang nói trong giấc mơ của bạn, những
cây cối này là cây cối mơ, những hoa gulmohar này là hoa
mơ, chim chóc này đang líu lo trong giấc mơ của bạn - tất
cả chỉ là một câu thần chú kì diệu. Nghĩ về nó trong khi bạn
đang tỉnh thức đi. Liên tục suy nghĩ về nó trong ít nhất hai
hay ba tháng và bạn sẽ ngạc nhiên: một ngày nào đó, bởi vì
bạn đã thực hành nó, bỗng nhiên trong giấc mơ bạn sẽ nhận
ra nó như một giấc mơ. Và khi các cây cối thực cũng trông
giống mơ qua thực hành, thì nói gì về cây không thực bây
giờ? Chúng trông sẽ không thực.
Và Mật tông nói: Ngay cả những cây này về cơ bản
cũng chỉ là mơ; chúng không phải là chất liệu thực. Mật
tông muốn nói gì về thực tại? Mật tông muốn nói cái bao
giờ cũng còn lại. Cái mà tới rồi đi thì không thật. Cái được
sinh ra rồi chết đi thì không thật. Đây là định nghĩa về cái
không thật trong Mật tông: cái chỉ có trong thời khắc là cái
không thật, cái gì vĩnh hằng mới là thật.
Những cây cối này mấy ngày trước không có ở đây và
chúng cũng sẽ không có ở đây sau vài năm nữa. Vài năm
trước chúng ta đã không có ở đây và chúng ta sẽ không ở
đây sau vài năm nữa. Cho nên đấy là một giấc mơ dài.
Trong đêm giấc mơ kéo dài chỉ trong một, hai hay sáu tiếng
đồng hồ, còn giấc mơ này kéo dài sáu mươi năm hay bẩy
mươi năm. Nhưng khoảng thời gian cũng không tạo ra khác
biệt nhiều lắm. Dù giấc mơ là một giờ hay một trăm năm
cũng không có nhiều khác biệt lắm, khác biệt chỉ là ở
khoảng thời gian kéo dài - nhưng nó rồi cũng biến mất.
Bao nhiêu người đã sống trên trái đất, bạn có biết
không? Họ đang ở đâu? Nếu họ không tồn tại, điều đó tạo
ra khác biệt gì? Dù họ có tồn tại hay không cũng chẳng có
nhiều khác biệt lắm; tất cả họ đã biến mất. Cái mà xuất hiện
ra rồi lại tan biến đi thì chỉ là giấc mơ.
Saraha nói:
Mọi điều đều cần phải được xem xét
dường như chúng là câu thần chú kì diệu...
Ông ấy đang cho một kĩ thuật. Coi mọi thứ dường như
là câu thần chú kì diệu, dường như là nhà ảo thuật đã thôi
miên bạn; tất cả đều giả, và bạn đang thấy điều đó qua thôi
miên.
Nếu không phân biệt
bạn có thể chấp nhận hay bác bỏ luân hồi hay niết
bàn...
Nếu đấy chỉ là giấc mơ, chẳng có gì cần phải chấp nhận
hay bác bỏ cả. Thế thì ai bận tâm? Bạn bận tâm quá nhiều
bởi vì bạn nghĩ nó là thực. Dù bạn nghèo hay giầu, điều đó
cũng không tạo ra nhiều khác biệt lắm. Dù bạn đẹp hay
xấu, điều đó cũng chẳng tạo ra nhiều khác biệt lắm. Dù bạn
được kính trọng hay không, cũng chẳng có nhiều khác biệt
lắm. Nếu đấy chỉ là không thực, thế giới mơ, ảo vọng
maya, thế thì có gì ở đó để chọn lựa? và có gì ở đó để mà
bác bỏ? Thế thì chấp nhận và bác bỏ cả hai đều nên vứt bỏ
đi. Thế thì người ta sống thuần khiết, không vướng mắc,
không rối loạn, không trên con đường nào xa trung tâm.
Thế thì người ta lắng đọng, thế thì mọi thứ đều ổn thoả.
Nếu không phân biệt
bạn có thể chấp nhận hay bác bỏ luân hồi hay niết bàn,
tâm trí bạn kiên định...
Thế thì dù bạn chấp nhận hay bác bỏ cũng chẳng khác
biệt nhiều gì. Thế thì bạn có thể từ bỏ thế giới hoặc bạn có
thể sống trong thế giới. Nếu bạn biết điều này - rằng tất cả
chỉ là giấc mơ; nếu bạn vẫn còn trong không khí này rằng
tất cả chỉ là giấc mơ...
Tại sao Saraha nói điều này cho nhà vua? Saraha đang
nói: Tâu bệ hạ, ngài sống trong cung điện, tôi sống trong
khu nghĩa địa; ngài sống với những người đẹp đẽ, tôi sống
với người dân thường xấu xí; ngài sống trong giầu có, tôi
sống trong nghèo khó; ngài sống tại thủ đô, tôi sống ở đây
trên mảnh đất nghĩa địa này... nhưng tất cả đều như nhau.
Cung điện đó là giấc mơ và mảnh đất nghĩa địa này cũng là
giấc mơ. Hoàng hậu đẹp tuyệt vời của ngài là giấc mơ và
người đàn bà thợ rèn của tôi cũng là giấc mơ. Vậy thì khác
biệt gì?
Nếu trong mơ bạn trở nên giầu có hay bạn trở nên
nghèo khó, có gì khác biệt vào sáng hôm sau không? Bạn
có cảm thấy rất hạnh phúc vào buổi sáng bởi vì bạn đã rất
giầu trong giấc mơ không? Bạn có cảm thấy rất bất hạnh
vào buổi sáng vì bạn đã là kẻ ăn mày trong giấc mơ không?
Điều ấy chẳng thành vấn đề; khi bạn thức, điều ấy chẳng
thành vấn đề gì cả.
Saraha nói: Tâu bệ hạ, tôi đang tỉnh thức. Tâm thức thứ
ba đã xảy ra; với tôi tất cả đều là giấc mơ - giấc mơ và tất
cả. Với tôi mọi thứ đều là mơ... mơ bên trong mơ bên trong
mơ. Bây giờ tôi không phân biệt chút nào, tôi đã vượt ra
ngoài phân biệt. Vô trí đã nảy sinh. Cho nên dù mọi người
có kính trọng tôi hay xúc phạm tôi - dù họ nghĩ Saraha là
một brahmin vĩ đại, một nhà huyền môn vĩ đại, nhà hiểu
biết vĩ đại, hay họ nghĩ rằng hắn ta là kẻ hư hỏng, hắn ta
điên khùng, mất trí, không lành mạnh - điều đó hoàn toàn
được.
Đây là hiểu biết đúng. Thế thì chẳng ý kiến của ai có
thể làm sao lãng bạn. Thế thì chẳng có gì có thể làm bạn
sao lãng - cả thành công lẫn thất bại, cả kính trọng lẫn
khinh bỉ, cả sống lẫn chết. Đây chính là trạng thái vô sao
lãng là gì. Người ta đã về nhà.
Thế rồi, một khi tâm trí đã kiên định... tự do khỏi màn
đêm. Trong bạn sẽ là tự tại... Tôi đã về nhà, Saraha nói.
Con người đích thực của tôi đã nảy sinh, tôi có trung tâm
của mình bây giờ. Tôi đã mất mọi thứ, ngoại trừ một thứ:
bản tính của tôi, con người tôi. Bây giờ tôi biết nguyên bản
của mình, bây giờ tôi biết chính ngọn nguồn mình, bây giờ
tôi biết thực tại của mình.
... vượt ra ngoài ý nghĩ và gốc gác.
Tôi đã vượt ra ngoài ý nghĩ. Những điều này không còn
làm tôi sao lãng, thưa bệ hạ. Mọi thứ đều tốt như nó vẫn
thế. Đây là thái độ của sannyasin thực sự: mọi thứ đều hoàn
toàn tốt đẹp như nó vẫn thế.
Câu kinh cuối:
Thế giới bên ngoài này
đến từ sự toả chiếu của nó chẳng bao giờ rõ căn
nguyên;
không mẫu hình, nó đã vứt bỏ mẫu hình.
Hiểu theo cách thông thường
nó là việc thiền liên tục và duy nhất;
nó là vô tâm trạng, sự trầm ngâm không tì vết, và vô trí
Thế giới bên ngoài này đến từ sự toả chiếu của nó
chẳng bao giờ rõ căn nguyên... Saraha nói: Thế giới này mà
bệ hạ đang thấy chưa bao giờ có đó; nó chỉ có vẻ như vậy
thôi. Chỉ như giấc mơ nảy sinh từ không đâu và biến mất
trở lại vào cái không ở đâu cả, thế giới này cũng vậy.
Thế giới bên ngoài này đến từ sự toả chiếu của nó
chẳng bao giờ rõ căn nguyên... Từ ngay lúc bắt đầu chỉ có
cái không - chỉ là gợn sóng trên mặt hồ yên tĩnh... và gợn
sóng biến mất. Mà ngài thì không thể nào nắm giữ được
gợn sóng... hệt như thoáng ý nghĩ, hệt như rung động.
... không mẫu hình, nó đã vứt bỏ mẫu hình.
Và không có mẫu hình nào trong nó cả. Nó không vững
chắc - làm sao nó có thể có bất kì mẫu hình nào được? Nó
chính là chất lỏng, nó rất hay thay đổi; nó không có mẫu
hình. Chẳng ai biết được cái gì là tốt và cái gì là xấu.
Chẳng ai biết được ai là thánh nhân và ai là tội nhân. Chẳng
ai biết được đức hạnh là gì và tội lỗi là gì. Điều đó không
được tạo theo mẫu hình.
Đây là cách hiểu của Mật tông về chính cốt lõi của thực
tại: nó không được tạo theo mẫu hình. Đó là hỗn độn sáng
tạo. Chung cuộc, cuối cùng, chẳng cái gì bị kết án và chẳng
cái gì được ca ngợi.
không mẫu hình, nó đã vứt bỏ mẫu hình.
Hiểu theo cách thông thường
nó là việc thiền liên tục và duy nhất...
Đây là cái hay của bài kinh. Saraha nói: Nhưng quên
thực tại đi - quên cái vô thực của nó đi - Hiểu theo cách
thông thường nó là việc thiền liên tục và duy nhất... Sự tồn
tại này, tất cả bao quanh... cây cối này, chim chóc này,
tiếng cúc cu phát điên này - đấy chính là thiền liên tục và
duy nhất. Nếu bạn có thể trở nên nhận biết về nó, nó có thể
giúp bạn trở về nhà; đó là việc thiền liên tục và duy nhất.
... nó là vô tâm trạng...
Đừng đưa tâm trí bạn vào. Lắng nghe nó, thấy nó,
chạm vào nó. Đừng đưa tâm trí bạn vào.
... nó là vô tâm trạng, trầm ngâm không tì vết...
Suy tư nhưng không qua suy nghĩ, chỉ qua sự trong
suốt. Quan sát, nhìn, hiện hữu - không phải qua phân tích,
không phải qua logic. Hiểu qua im lặng; đó là suy tư không
tì vết. Hiểu qua im lặng, hiểu qua tình yêu. Hiểu... hiểu
tiếng cúc cu này, hiểu cái cây này, mặt trời này, nhưng
đừng nghĩ về chúng. Đừng trở thành người suy nghĩ...
... và vô trí.
Cho nên đầu tiên nghĩ về thế giới này như giấc mơ, và
rồi nghĩ về người mơ cũng là giấc mơ. Trước hết đối thể là
giấc mơ, rồi chủ thể cũng là giấc mơ. Khi chủ thể và đối
tượng cả hai đều bị vứt bỏ, khi giấc mơ biến mất và cả
người mơ cũng biến mất, có vô trí.
Vô trí này là chính khởi thuỷ của tất cả.
Đây là điều Udallaka đã nói với con trai. Ông đã hỏi
con: "Con đã học cái một đó chưa, với việc học nó mà mọi
thứ đều được biết, và với việc quên nó mà mọi thứ đề bị
quên? Con đã thấy cái một đó chưa? Con đã đi tới cái một
đó chưa?"
Còn người con bối rối và anh ta nói: "Con đã biết được
tất cả. Nhưng bố đang nói về cái gì vậy? Thầy con chưa
bao giờ nói về cái một này."
Thế là Udallaka nói, "Thế thì con quay lại thầy đi, bởi
vì mọi thứ con đã mang theo đều chỉ là rác rưởi. Con phải
quay lại đi! Trong gia đình ta, chúng ta bao giờ cũng là
những người brahmin thực sự." Bởi chữ brahmin 'thực sự'
ông ta ngụ ý: Chúng ta đã biết tới Brahma, chúng ta đã biết
chân lí; chúng ta không chỉ là người brahmin chỉ do sinh ra
từ gia đình brahmin.
"Con phải quay lại đi. Con phải quay lại ngay lập tức!"
Chào mừng đã dừng lại, âm nhạc đã dừng lại. Nước mắt
dàn dụa... nhưng Udallaka đã gửi con quay lại. Đứa con
mới về từ nhà thầy sau nhiều năm lại ngay lập tức bị gửi trở
về trường - thậm chí không có lấy một ngày nghỉ ngơi.
Rất bối rối, cậu thanh niên quay trở về chỗ thầy. Anh ta
nói, "Nhưng tại sao thầy không dạy con về cái một mà bố
con cứ hỏi đến? Tại sao? Phí hoài biết bao nhiêu năm qua!
Mà bố con thì cứ nghĩ rằng tất cả những cái đó đều vô
nghĩa - con không biết về chính mình. Bố con nói, "Nếu
con không biết về chính mình, mọi hiểu biết của con còn có
giá trị gì? Chúng ta phải là gì với mớ hiểu biết kinh Veda
của con? Con có thể trích dẫn kinh Veda, nhưng chúng ta
làm gì với nó? Và trong gia đình ta," bố con nói, "Chúng ta
bao giờ cũng là người brahmin thực sự. Quay lại đi, và
trước khi bố chết con phải trở thành người brahmin thực sự.
Chớ có quay về chừng nào con còn chưa trở thành người
brahmin thực sự." Vậy thưa thầy, xin thầy hãy dạy cho con
về cái một đó."
Thầy cười ngất. Ông nói, "Cái một đó không thể dạy
được. Ừ, người ta có thể lĩnh hội được nó nhưng không thể
dạy được nó. Đó là lí do tại sao ta đã không dạy nó. Nhưng
nếu con cứ khăng khăng muốn biết thì một tình huống có
thể được tạo ra."
Đó là điều mà tất cả các bậc thầy đều làm: họ chỉ tạo ra
tình huống.
Giao cảm là tình huống.
Tôi không thể dạy bạn về chân lí, nhưng tôi có thể tạo
ra tình huống trong đó bạn có thể bắt đầu có được cái
thoáng nhìn về nó.
Bản thể tôi ở đây là một tình huống, việc tôi nói chuyện
liên tục với các bạn là một tình huống. Không phải là tôi có
thể dạy các bạn về chân lí qua việc nói mà đấy chỉ là một
tình huống trong đó đôi khi một chấn động đi vào trong
bạn; trong đó đôi khi bạn bắt được một rung động, và nó
làm bạn xúc động và đưa bạn đi xa trong cuộc hành trình
dài vào trong.
Cho nên thầy nói, "Ta có thể tạo ra tình huống. Và đây
là tình huống: con hãy mang đi tất cả các con bò cái trong
đạo tràng" - có bốn trăm con bò cái - "và con hãy đem
chúng vào trong rừng thẳm. Đi xa nhất có thể được, đi thật
xa sao cho con hoàn toàn không thể nào gặp được mọi
người khác. Rồi con chỉ quay lại khi đàn bò đã lên đến một
nghìn con bò cái và bò đực. Sẽ mất nhiều năm đấy, nhưng
con cứ đi đi. Và nhớ, đừng gặp bất kì người nào. Bò sẽ là
bạn của con và gia đình con; con có thể nói với chúng nếu
con muốn." Rồi Swetketu đi vào trong rừng thẳm nơi
không con người nào đã từng tới và anh ta sống với đàn bò
nhiều năm trời.
Câu chuyện này cực kì hay. Một cách tự nhiên, bạn có
thể nói gì với bò? Ban đầu anh ta phải cố gắng, và dần dần
hiểu ra rằng điều đó là vô nghĩa: bò chỉ nhìn vào anh ta,
mắt chúng trống rỗng. Không có đối thoại. Vâng, ban đầu,
theo thói quen, anh ta có thể trích đọc Veda, và bò thì vẫn
tiếp tục gặm cỏ. Chúng chẳng quan tâm gì tới Veda chút
nào mà chúng cũng chẳng ca ngợi anh ta là người hiểu biết
vĩ đại. Anh ta phải đã nói về chiêm tinh và những vì sao,
nhưng bò cũng chẳng quan tâm. Bạn có thể làm gì với thính
giả bò này? Dần dần anh ta dừng việc nói. Dần dần anh ta
bắt đầu quên. Dần dần việc dỡ bỏ bắt đầu.
Nhiều năm trôi qua. Và, chuyện kể rằng, một khoảnh
khắc tới khi số bò đã lên tới nghìn con. Nhưng vào lúc đó
Swetketu đã quên hoàn toàn việc quay về. Anh ta đã thực
sự quên cách đếm - anh ta đã không đếm sau bao nhiêu
năm trời.
Đàn bò trở nên bối rối; khoảnh khắc đã tới. Thế rồi một
con bò cái mạnh dạn và nó nói, "Các bạn nghe đây, bây giờ
chúng ta đã là một nghìn rồi, bây giờ là lúc quay về. Thầy
phải đang đợi. Chúng ta phải về nhà thôi, bây giờ đã đến
lúc." Cho nên khi bò nói rằng đã đến lúc quay về thì
Swetketu đi theo chúng.
Khi anh ta về đến nhà thầy cùng với một nghìn con bò,
thầy chạy ra đón anh ta và nói với các đệ tử khác, "Hãy
nhìn một nghìn lẻ một con bò này!"
Nhưng các đệ tử nói, "Chỉ có một nghìn con bò và một
Sweketu."
Thầy nói, "Anh ta đã biến mất, anh ta không còn đó
nữa. Anh ta là một con bò - hồn nhiên thế; nhìn vào mắt
anh ta mà xem."
Đây là trạng thái của vô trí. Và đây đã từng là mục tiêu
ở phương Đông - trạng thái này nơi bạn không có, và trong
thực tế lần đầu tiên bạn mới hiện hữu.
Trạng thái này của cái chết và trạng thái này của cuộc
sống, trạng thái này của biến mất của bản ngã và cái giả, và
sự xuất hiện của cái thật và chân thực - đây là trạng thái mà
ta gọi là chứng ngộ, chứng ngộ Thượng đế, tự chứng ngộ.
Đây là trạng thái Saraha gọi là tự mình, bên ngoài ý nghĩ,
bên ngoài tâm trí.
Mật tông có nghĩa là sự trải rộng. Đây là trạng thái khi
bạn đã trải rộng ra tột độ. Biên giới của bạn và biên giới
của sự tồn tại không còn tách biệt nữa, chúng là một. Ít hơn
sẽ không thoả mãn.
Khi bạn trở thành vũ trụ, bạn đã về nhà.
Khi bạn trở thành tất cả, khi bạn trở thành một với tất
cả, khi bạn khổng lồ như vũ trụ này, khi bạn chứa đựng tất
thảy; khi các ngôi sao bắt đầu chuyển động bên trong bạn
và trái đất sinh ra trong bạn rồi biến đi; khi bạn có sự trải
rộng vũ trụ này, công việc đã hoàn tất.
Bạn đã về tới nhà. Đây là mục tiêu của Mật tông.
Đủ cho hôm nay.
************************************************************
#6 Tôi một mình là đủ
Điều gì xảy ra khi thầy nói với tôi?
Tôi có tưởng tượng không? Làm sao tôi có
thể tin cậy điều tôi cảm thấy với thầy?
Thầy có cái gì mà tôi không có?
Thầy muốn ngụ ý gì khi nói rằng con người
là cái máy?
Tôi có tất cả những cái tôi muốn và tôi cảm
thấy trái tim tôi đang tan vỡ.
Tại sao tôi luôn luôn sợ ý kiến người khác?
Khi thầy cho tôi tên... để phục vụ tình yêu.
Lời cầu nguyện có thể có hại không?
#6Câu hỏi thứ nhất - câu hỏi của Somendra:
Osho kính yêu, điều gì xảy ra cho tiếng nói
của tôi khi thầy nói với tôi? Ý đồ là gì?
Khi bạn thực sự trong giao cảm với tôi, bạn không thể
nói được. Khi bạn thực sự lắng nghe tôi, bạn sẽ mất tiếng
nói của mình, bởi vì trong khoảnh khắc đó tôi là tiếng nói
của bạn. Giao cảm xảy ra giữa tôi và bạn không phải là
giữa hai người. Đấy không phải là thảo luận, đấy không
phải là tranh luận, đấy không phải là biện luận, đấy thậm
chí không phải là đối thoại. Giao cảm xảy ra chỉ khi bạn đã
mất đi, khi bạn không có đó. Tại đỉnh cao nhất đấy thậm
chí không phải là mối quan hệ "tôi-bạn". Đấy không phải là
mối quan hệ chút nào. Tôi không có đó, và với bạn cũng sẽ
đến một khoảnh khắc bạn không có đó. Trong khoảnh khắc
đó hai cái không biến mất vào trong nhau.
Đó là lí do tại sao, Somendra này, bất kì khi nào bạn
đến tôi, bạn đều mất tiếng nói của bạn. Và điều ấy không
chỉ xảy ra cho bạn đâu, nó xảy ra cho tất cả những ai thực
sự tới gần tôi hơn. Làm sao bạn có thể tới gần tôi hơn mà
vẫn giữ tiếng nói của bạn được? Làm sao bạn có thể ở gần
tôi mà vẫn là chính bạn được? Tiếng nói của bạn là tiếng
nói của bạn. Khi cái 'bạn' bắt đầu biến mất thì tự nhiên
tiếng nói cũng bắt đầu biến đi.
Thứ hai là, có gì để nói đâu. Khi bạn đang trong tình
yêu với tôi thì bạn biết rằng nếu có gì đó cần nói, tôi sẽ
biết. Và nếu tôi không biết điều đó, thế thì nó không đáng
nói ra, thế thì nó chẳng cần; thế thì nó phải là ý nghĩ không
liên quan, ý nghĩ vẩn vơ. Nó thậm chí không cần thốt ra, nó
sẽ là lãng phí năng lượng.
Tâm trí cuốn theo cả nghìn lẻ một ý nghĩ từ mọi chốn,
từ mọi nguồn. Tất cả các ý nghĩ của bạn đều không phải
của bạn; các ý nghĩ cứ nhảy từ đầu người này sang đầu
người khác; ngay cả không nói gì, ngay cả không được
chuyển vận, các ý nghĩ vẫn liên tục nhảy từ đầu người này
sang đầu người khác. Bạn chộp bắt chúng, và trong một
chốc bạn bị ý nghĩ đó sở hữu và bạn nghĩ đấy là cái gì đó
bản chất. Khi bạn đến với tôi, bỗng nhiên những ý nghĩ mà
bạn đã chộp bắt từ người khác bị tan biến đi.
Điều đó xảy ra cho nhiều sannyasin. Họ đến sẵn sàng
với nhiều câu hỏi, và rồi, chỉ có ngồi trước tôi, họ đâm lúng
túng, các câu hỏi đó biến mất. Điếu đó là có ý nghĩa lắm,
có nghĩa. Nó chứng tỏ rằng những câu hỏi đó không phải là
của bạn, chúng không thực sự của bạn. Khi bạn ở trước tôi
- thực sự ở trước tôi - khi bạn đang nhìn vào tôi, chỉ có
những cái là bản chất mới còn lại; cái không bản chất sẽ ra
đi. Đôi khi tất cả các ý nghĩ của bạn có thể biến mất: không
chỉ việc bạn mất tiếng nói, bạn mất cả tâm trí mình nữa. Và
đấy là cách duy nhất để ở quanh thầy. Cứ mất đi tâm trí của
bạn. Ý nghĩ chùng xuống, thảnh thơi, không căng thẳng.
Chẳng có gì để nói cả. Có nhiều thứ để nghe nhưng chẳng
có gì để nói cả.
Và rồi, điều thứ ba, mọi thứ vẫn ổn thoả với Somendra.
Chúng ta chỉ nói những thứ mà chúng không ổn thoả. Tôi
đã từng nghe...
Người mẹ cứ phàn nàn với nhiều bác sĩ về việc không
nói được của đứa con năm tuổi của mình. Các xét nghiệm
đều cho thấy đứa trẻ rất khoẻ mạnh và người ta bảo bà mẹ
đừng có lo lắng. Thế nhưng bà ấy cứ lo lắng không yên.
Một hôm, trong lúc vội vã, bà làm cháy món cháo yến
mạch nhưng vẫn dọn cho cậu con ăn. Nó nếm thử món
cháo, phun phì phì ra rồi nói, "Úi trời, món này kinh quá.
Mẹ làm cháy nó rồi."
Thích quá, bà mẹ nói, "Con nói đấy! Sao trước đây con
chẳng nói gì cả?"
Đứa trẻ khinh khỉnh nhìn mẹ và nói, "Ồ, mọi thứ đều
ổn thoả từ trước tới giờ!"
Và mọi thứ cũng ổn thoả cả cho tới nay đối với
Somendra. Chẳng có gì cần nói cả.
#6Câu hỏi thứ hai:
Osho kính yêu, trong khi thăm một viện bảo
tàng nghệ thuật ở Frankfurt gần đây, tôi đã
vào một phòng chẳng có gì ngoài tượng và
hình khắc Phật. Tôi hoàn toàn không tin vào
các thần tượng bằng đá, nhưng tôi ngạc
nhiên cảm thấy một luồng năng lượng rất
mạnh trong phòng, tương tự như điều tôi
cảm thấy ở đây trong bài giảng này. Tôi có
tưởng tượng ra điều ấy không? Và nếu có thì
làm sao tôi có thể tin cậy điều tôi cảm thấy ở
đây với thầy?
Câu hỏi này là từ Anand Samagra. Điều đầu tiên cần
được hiểu: tượng Phật chẳng có gì liên quan gì đến Phật
Gautam cả, bạn sẽ ngạc nhiên mà biết; chúng tất cả đều là
giả. Chúng không giống Phật chút nào, nhưng chúng có cái
gì đó liên quan tới phật tính - không với Phật Gautam, con
người đó, chúng có cái gì đó liên quan tới phật tính.
Bạn có thể đi vào một đền Jaina giáo và bạn sẽ thấy hai
mươi bốn bức tượng tirthankaras, những người sáng lập
đạo Jaina, và bạn sẽ không thể nào phân biệt được khác biệt
giữa chúng; tất cả chúng đều giống nhau. Để phân biệt,
người Jaina tạo ra các biểu tượng nhỏ trên họ để biết ai là
ai, bởi vì tất cả họ đều giống nhau. Cho nên nếu biểu tượng
của ai đó là một hình nét thì ngay ở mặt dưới bàn chân là
hình nét đó; thế thì họ biết được đấy là tượng của ai. Biểu
tượng của ai đó là con rắn, họ biết đấy là tượng của ai. Nếu
những biểu tượng này được giấu kín, ngay cả người Jaina
cũng không thể phân biệt được ranh giới - đây là tượng của
ai? Của Mahavira? Của Parswanatha? Của Adinatha? Và
bạn cũng sẽ ngạc nhiên khi biết rằng chúng đều giống hệt
Phật - không khác biệt.
Lúc ban đầu, khi người phương Tây trở nên quen biết
với Mahavira, họ nghĩ đấy chẳng là gì ngoài cùng một câu
chuyện về Phật, bởi vì bức tượng là một, triết lí là một,
cách hiểu là một, giáo huấn là một. Cho nên đấy chỉ là cùng
một thứ, chẳng có gì khác với Phật; họ nghĩ Mahavira là cái
tên khác của Phật. Và tất nhiên cả hai đều được gọi là phật
- 'phật' có nghĩa là 'người thức tỉnh'. Cho nên Phật đã được
gọi là Phật còn Mahavira cũng được gọi là Phật. Và cả hai
đều được gọi là jina - 'jina' có nghĩa là 'người chinh phục',
người đã chinh phục được bản thân mình. Phật được gọi là
'người chinh phục' còn Mahavira cũng được gọi là 'người
chinh phục', cho nên họ nghĩ đấy là cùng một người. Và
bức tượng là bằng chứng lớn; chúng tuyệt đối giống nhau.
Chúng không phải là ảnh chụp của nhau, chúng không biểu
thị cho một người; chúng biểu thị cho trạng thái nào đó.
Bạn sẽ phải hiểu điều này, thế thì mọi việc sẽ được giải
thích.
Trong tiếng Ấn Độ ba từ sau rất quan trọng: một là mật
tông tantra, từ chúng ta đang nói tới, từ thứ hai là mật chú
mantra, và từ thứ ba là mật hình yantra. Mật tông có nghĩa
là các kĩ thuật để trải rộng tâm thức của bạn. Mật chú có
nghĩa là tìm ra âm thanh bên trong của bạn, nhịp điệu bên
trong của bạn, rung động bên trong của bạn. Một khi bạn
đã tìm được câu mật chú của mình, nó sẽ cực kì có ích: chỉ
một lần thốt ra câu mật chú là bạn đã trong một thế giới
hoàn toàn khác. Điều đó trở thành chìa khoá, thành bước
chuyển, bởi vì một khi thốt ra câu mật chú đó, bạn rơi vào
rung động tự nhiên của mình. Và từ thứ ba là mật hình.
Những bức tượng này là các mật hình. Mật hình có nghĩa là
một hình nào đó có thể tạo ra một trạng thái nào đó trong
bạn. Một hình nào đó, nếu bạn nhìn vào nó, nhất định sẽ
tạo ra một trạng thái nào đó trong bạn.
Bạn chưa quan sát điều đó sao? Khi nhìn vào bức tranh
của Picasso bạn sẽ bắt đầu cảm thấy một chút không thoải
mái. Tập trung vào bức tranh của Picasso khoảng nửa giờ
và bạn sẽ cảm thấy rất lạ kì - cái gì đó đang trở thành điên
dại. Bạn không thể nhìn vào bức tranh của Picasso trong
nửa giờ. Nếu bạn để bức tranh của Picasso trong phòng ngủ
bạn sẽ gặp cơn ác mộng, bạn sẽ có những giấc mơ rất nguy
hiểm: bị ma ám, bị Adolf Hitler tra tấn và những thứ đại
loại như vậy; nạn nhân chiến tranh trong trại tập trung -
những thứ đại loại như vậy.
Khi bạn ngắm cái gì đó, đấy không chỉ là hình ảnh bên
ngoài; khi bạn ngắm cái gì đó, hình này tạo ra một tình
huống nào đó trong bạn. Gurdjieff quen gọi điều này là
'nghệ thuật mục đích'. Và bạn biết nó: lắng nghe nhạc pop
hiện đại, cái gì đó xảy ra trong bạn; bạn trở nên bị kích
động dục. Chẳng có gì ngoài âm thanh bên ngoài, nhưng
âm thanh này dội vào bên trong, tạo ra cái gì đó trong bạn.
Lắng nghe nhạc cổ điển bạn trở nên ít dục tình hơn, ít kích
động hơn. Trong thực tế với nhạc cổ điển vĩ đại bạn gần
như quên mất dục; bạn trong yên tĩnh, im lặng, một chiều
hướng hoàn toàn khác của bản thể bạn. Bạn tồn tại trên một
bình diện khác.
Ngắm tượng Phật là nhìn vào một mật hình. Hình của
bức tượng, hình học của bức tượng, tạo ra một hình bên
trong bạn. Và hình bên trong đó tạo ra một rung động nào
đó. Đấy không phải là tưởng tượng xảy ra cho bạn,
Samagra này, trong bảo tàng ở Frankfurt; những bức tượng
Phật đó đã tạo ra rung động nào đó bên trong bạn.
Ngắm bức tượng Phật đang ngồi im lặng đến thế trong
tư thế yoga mà xem: nếu bạn tiếp tục ngắm bức tượng đó,
bạn sẽ thấy cái gì đó tựa như cái đang xảy ra bên trong bạn
nữa. Nếu bạn ở trong một toán mà có mười người đang
buồn và bạn là người thứ mười một, bạn có thể duy trì niềm
hạnh phúc được bao lâu? Mười người kia sẽ vận hành tựa
như một mật hình, một mật hình buồn; chẳng chóng thì
chầy bạn sẽ rơi vào buồn. Nếu bạn bất hạnh mà bạn nhập
vào một nhóm mọi người đang vui đùa cười nói, bạn giữ
được nỗi buồn trong bao lâu? Những người cười nói này sẽ
tạo ra tiếng cười trong bạn. Họ sẽ thay đổi sự tập trung của
bạn, họ sẽ sang số cho bạn; bạn sẽ bắt đầu chuyển sang
chiều hướng khác. Điều này xảy ra hàng ngày - dù có chủ ý
hay không chủ ý.
Khi bạn ngắm trăng tròn, điều gì xảy ra cho bạn? Hay
khi bạn lắng nghe chim hót và nhìn cây xanh, điều gì xảy ra
cho bạn? Khi bạn đi vào rừng và nhìn cây cỏ, điều gì xảy ra
cho bạn? Cái gì đó xanh tươi bên trong bắt đầu xảy ra. Mầu
xanh lá cây là mầu của tự nhiên, mầu xanh ấy là mầu của
thanh thoát, mầu xanh ấy là mầu của cuộc sống; cái gì đó
xanh tươi bắt đầu xảy ra bên trong bạn. Mầu bên ngoài
phản ánh cái gì đó bên trong, làm rung động cái gì đó bên
trong, tạo ra cái gì đó bên trong. Nhìn lên cây xanh bạn trở
nên sống động hơn... bạn trở nên trẻ trung hơn!
Khi bạn đi lên đỉnh Himalayas và bạn thấy núi non,
chóp núi tuyết phủ... tuyết vĩnh viễn chẳng bao giờ tan
chảy, tuyết thuần khiết nhất nơi không người nào bước tới,
không bị nhiễm bẩn bởi sự đụng chạm của xã hội và con
người; khi bạn nhìn lên đỉnh Himalayas, tuyết trong trắng
và không bụi bặm tạo ra cái gì đó trong trắng trong bạn. An
bình tinh tế bắt đầu xảy ra bên trong.
Bên ngoài không phải là bên ngoài và bên trong cũng
chẳng chỉ là bên trong, chúng đang gắn với nhau. Cho nên
nhận biết điều bạn thấy, nhận biết điều bạn nghe, nhận biết
điều bạn đọc, nhận biết nơi bạn đi - bởi vì tất cả đều tạo ra
bạn.
Đó là điều đã xảy ra ở Frankfurt. Các bức tượng Phật,
nhiều bức tượng quanh bạn đã tạo ra một hình học tinh tế.
Bạn sẽ ngạc nhiên: đó là lí do cơ bản tại sao tượng được
tạo ra; chúng không phải là thần tượng như bạn vẫn nghĩ.
Tư tưởng của người Ki tô giáo, người Mô ha mét giáo và
người Do Thái đã cho một khái niệm rất sai về thế giới.
Tượng không phải là thần tượng, tượng rất khoa học.
Tượng không phải là các vật để thờ phụng, tượng là hình
học để được hấp thụ. Đó là một điều hoàn toàn khác.
Ở Trung quốc có một đền thờ Phật với mười nghìn
tượng Phật - tất cả đều là tượng Phật; bất kì khi nào bạn
nhìn, đều cùng một khuôn mặt. Trần cũng cùng khuôn mặt,
tất cả các phía đều cùng khuôn mặt, tường cũng có cùng
khuôn mặt. Mười nghìn tượng Phật! Hình dung xem, ngồi
bắt chéo chân theo tư thế Phật và bạn còn được mười nghìn
Phật bao quanh! Điều ấy tạo ra hình học. Từ mọi nơi Phật
đều tác động vào bạn. Từ mọi xó xỉnh và ngóc ngách ông
ấy đều bao trùm quanh bạn. Bạn mất đi; hình học bình
thường của bạn không còn đó nữa, cuộc sống bình thường
của bạn không còn đó nữa. Trong vài khoảnh khắc bạn
đang chuyển lên những bình diện cao hơn, ở các vĩ độ cao
hơn.
Đó cũng là điều đang xảy ra ở đây. Trong khi bạn lắng
nghe tôi, cái gì đó được tạo ra - bởi sự hiện diện của tôi, bởi
lời nói của tôi, bởi thái độ của bạn, bởi bao nhiêu người áo
da cam quanh bạn. Đấy là tình huống, đấy là ngôi đền.
Ngôi đền là một tình huống; nó không chỉ là chỗ bạn ngồi
trong thính phòng này. Bao nhiên người đang lắng nghe tôi
với tình yêu, lòng biết ơn đến thế, với im lặng đến thế, với
thông cảm đến thế, với hoà hợp đến thế... chỗ này trở nên
linh thiêng. Chỗ này trở thành tirtha; nó là chỗ thiêng liêng.
Khi bạn tới chỗ này là bạn đang cưỡi trên một con sóng,
bạn không cần nỗ lực nhiều. Bạn có thể đơn giản cho phép
nó xảy ra. Bạn sẽ được đưa đi xa, xa sang bờ bên kia.
Một bà mối đã dàn xếp với một gia đình để thuyết phục
một cô gái mà bà ta cho là xứng đôi phải lứa nhất với đứa
con trai của họ. Sau bữa tối người con gái cáo từ ra về và cả
gia đình bắt đầu xúm vào chất vấn bà mối.
"Bà đưa đứa con gái kiểu gì vậy hả? Một con quỉ cái!
Một mắt giữa trán, tai trái vểnh lên, tai phải cụp xuống,
cằm thì vẹo ra sau!"
Bà mối ngắt lời, "Này, các ông bà thích Picasso hay
không thích!"
Hội hoạ hiện đại biểu diễn cái xấu trong sự tồn tại. Cái
xấu trở thành trội hơn bởi một lí do nào đó. Thế kỉ này là
một trong những thế kỉ xấu nhất: hai cuộc chiến tranh thế
giới trong vòng năm mươi năm, hàng triệu người bị giết, bị
tiêu diệt... tàn bạo thế, hung tợn thế, bạo hành thế, điên rồ
thế. Thế kỉ này là thế kỉ ác mộng. Con người đã lạc lối
nhân đạo. Con người đã làm biết bao điều tàn ác với con
người! Một cách tự nhiên điên khùng này bùng ra mọi nơi -
trong hội hoạ, trong âm nhạc, trong điêu khắc, trong kiến
trúc - mọi nơi tâm trí xấu xa của con người đã tạo ra xấu xí.
Xấu xí đã trở thành giá trị thẩm mĩ. Bây giờ các nhà
nhiếp ảnh đi tìm cái gì đó xấu xí. Không phải vì cái đẹp đẽ
không còn tồn tại nữa; nó vẫn tồn tại nhiều như trước,
nhưng nó bị lãng quên. Cây xương rồng đã thay thế cho
hoa hồng. Không phải vì xương rồng là cái gì đó mới mẻ;
nó bao giờ cũng tồn tại, nhưng thế kỉ này đã đi tới biết rằng
gai dường như thật hơn hoa hồng. Hoa hồng dường như là
giấc mơ; nó không thích hợp với chúng ta, do đó hoa hồng
đã bị trục xuất. Xương rồng đã bước vào phòng khách của
bạn. Mới chỉ một trăm năm trước đây chẳng ai nghĩ tới việc
đem xương rồng về nhà. Bây giờ nếu bạn là người hiện đại
vườn bạn phải đầy những xương rồng. Hoa hồng trông hơi
tư sản; hoa hồng trông hơi cổ hủ; hoa hồng trông như thành
viên đảng Bảo thủ, chính thống, truyền thống. Xương rồng
trông có vẻ cách mạng. Vâng, xương rồng là cách mạng -
giống Adolf Hitler, Josef Stalin, Mao Trạch Đông và Fidel
Castro. Vâng, xương rồng dường như gần gũi với thế kỉ
này hơn.
Nhà nhiếp ảnh đi tìm một vật gì đó xấu xí; người đó sẽ
đi và chụp ảnh người ăn mày. Không phải vì người ăn mày
trước đây chưa từng có; người đó đã tồn tại từ trước; người
đó là thật, chắc chắn thật, nhưng không ai làm nghệ thuật
về người đó. Chúng ta cảm thấy khiêm tốn trước người ăn
mày, chúng ta cảm thấy biết lỗi trước người ăn mày, chúng
ta cảm thấy rằng cái gì đó không nên có vẫn còn đó; chúng
ta muốn không còn có người ăn mày nữa. Nhưng thế kỉ này
vẫn cứ đi tìm cái xấu xí.
Mặt trời vẫn chiếu xuyên qua rặng thông và mỗi sáng.
Tia sáng xuyên qua lá thông tạo ra cái đẹp kì ảo... Nó vẫn
tồn tại, nhưng chẳng nhà nhiếp ảnh nào quan tâm; nó
không còn quyến rũ nữa. Cái xấu quyến rũ bởi vì chúng ta
đã trở thành xấu xí. Cái hấp dẫn chúng ta chứng tỏ cái gì đó
về chúng ta.
Phật là một bông hoa hồng, đó là khả năng cao nhất.
Và nhớ, Phật không giống hoàn toàn như trong ảnh ông ấy;
chẳng ai biết Phật trông như thế nào. Nhưng đấy không
phải là vấn đề. Trong những ngày ấy chúng ta đã không
quan tâm - ít nhất ở phương Đông không quan tâm - chúng
ta không quan tâm tới cái 'thực' chút nào, chúng ta quan
tâm tới cái thực tối thượng. Chúng ta không quan tâm tới
sự kiện, chúng ta quan tâm tới bản thân chân lí.
Có thể Phật có mũi dài hơn một chút, nhưng nếu người
nghệ sĩ nghĩ rằng mũi nhỏ hơn một chút sẽ hài hoà hơn với
thiền, người đó sẽ vứt cái mũi dài đó của Phật, người đó
làm cho nó bé đi chút xíu. Có thể Phật có bụng to, ai mà
biết được? Tượng Phật ở Nhật bản có bụng phệ, nhưng
Phật ở Ấn Độ không có bụng phệ - các thái độ thật khác
nhau.
Ở Nhật người ta nghĩ rằng thiền nhân phải thở từ bụng,
từ rốn. Và khi bạn thở từ bụng dĩ nhiên bụng phải lớn hơn
một chút. Thế thì ngực không nhô ra như bụng, ngực được
thảnh thơi. Cho nên Phật ở Nhật có bụng phệ. Điều đó nữa
cũng bởi một lí do nào đó: để chỉ cho bạn rằng thở bụng
mới là thở đúng. Điều đó chẳng có liên quan gì tới Phật cả;
chẳng ai biết được ông ấy có bụng phệ hay không.
Các tượng Phật ở Ấn Độ không có bụng phệ, bởi vì
yoga Ấn Độ không nhấn mạnh vào thở bụng: bụng phải
lép. Điều ấy nữa cũng có một lí do khác nào đó. Nếu bạn
muốn năng lượng dục chuyển lên, tốt hơn cả là đừng thở
bụng. Khi bụng được lép vào năng lượng bị hút lên dễ dàng
hơn - các kĩ thuật khác.
Việc thở bụng cũng tốt cho thiền nhân nào đó; nó rất
thảnh thơi. Nhưng rồi năng lượng không thể chuyển theo
cùng cách như nó vẫn chuyển khi bụng lép vào. Các tượng
Phật ở Ấn Độ đều có bụng lép - gần như không có bụng.
Chẳng ai biết đích xác Phật trông như thế nào. Các tượng
đều rất nữ tính, rất tròn trĩnh; chúng không có vẻ gì nam
tính cả.
Bạn đã bao giờ thấy bức tượng nào có ria và râu
không? - không. Người vẽ Jesus thực tế hơn. Người vẽ Phật
không quan tâm nhiều tới hiện thực, họ chỉ quan tâm tới
chân lí tối thượng. Họ không quan tâm tới việc Phật được
trông như thế nào, họ chỉ quan tâm tới việc phật nên trông
như thế nào. Nhấn mạnh không phải là vào Phật mà là vào
người sẽ nhìn vào các bức tượng đó - làm sao cho tượng
này sẽ giúp được cho những người đó.
Cho nên Phật không được vẽ như ông già. Ông ấy đã
phải trở nên già yếu, ông ấy đã đến tám mươi hai... chắc
chắn là ông ấy rất già, rất già và ốm yếu. Một thầy lang đã
phải liên tục đi theo ông ấy. Nhưng chẳng có tượng nào
được sơn vẽ về ông ấy lúc già, lúc ốm, bởi vì rằng đấy
không phải là vấn đề. Chúng ta không quan tâm tới thân thể
vật lí của Phật, chúng ta chỉ quan tâm tới hình học bên
trong của ông ấy; phẩm chất bên trong đó của Phật bao giờ
cũng trẻ trung, nó không bao giờ già cỗi. Và nó chẳng bao
giờ ốm yếu, nó bao giờ cũng trong trạng thái mạnh khoẻ;
bởi chính bản chất của nó, nó không thể ốm yếu được.
Thân thể trẻ, thân thể già, thân thể trở nên hư hỏng, thân
thể chết. Phật không sinh, không bao giờ diệt; Phật vẫn còn
trẻ vĩnh viễn. Khi nhìn vào bức tượng trẻ trung cái gì đó
của tuổi trẻ sẽ nảy sinh trong bạn và bạn sẽ cảm thấy cái gì
đó tươi tắn.
Bây giờ người Ấn Độ chẳng bao giờ thích Jesus được
chụp ảnh, được vẽ, được tạc tượng trên cây thánh giá. Điều
đó xấu, điều đó buồn bã. Cho dù điều đó mang tính lịch sử
thì điều đó cũng chẳng đáng nhớ, bởi vì bất kì cái gì bạn
nghĩ tới thì đã xảy ra rồi, bạn định giúp cho nó xảy ra lần
nữa. Chẳng có gì bắt buộc phải hướng về sự kiện: chúng ta
không mắc nợ điều gì với quá khứ, chúng ta không cần
phải nhớ quá khứ hệt như nó đã xảy ra. Vấn đề trong tay
chúng ta để chọn quá khứ - chọn quá khứ theo cách để
tương lai tốt hơn có thể được tạo ra.
Vâng, Jesus đã bị đóng đinh, nhưng nếu ông ấy bị đóng
đinh ở Ấn Độ thì chúng ta sẽ không vẽ điều đó. Ngay cả
trên cây thánh giá chúng ta cũng sẽ vẽ một thứ hoàn toàn
khác. Bức vẽ phương Tây về Jesus trong đau đớn, trong
buồn thảm - một cách tự nhiên thôi, ông ấy đã bị giết chết.
Khi bạn ngắm nhìn, khi bạn tập trung, thiền về Jesus, bạn
sẽ cảm thấy buồn.
Không phải ngẫu nhiên mà người Ki tô giáo nói rằng
Jesus chẳng bao giờ cười. Và cũng không phải ngẫu nhiên
mà bạn không được phép nhảy múa, cười đùa vui vẻ trong
nhà thờ. Nhà thờ là công việc nghiêm chỉnh: bạn phải rất
nghiêm chỉnh... mặt dài ra. Trong thực tế khi Jesus bị đóng
đinh ở đó trên ban thờ, làm sao bạn có thể cười và hát
được? Ở Ấn Độ bạn có thể hát và cười, vui vẻ. Tôn giáo là
hớn hở, lễ hội.
Toàn bộ vấn đề là ở chỗ tâm trí phương Tây mang tính
lịch sử, tâm trí phương Đông mang tính tồn tại. Phương
Tây chú trọng quá mức vào các sự kiện trần tục, phương
Đông chẳng bao giờ để ý tới lịch sử. Bạn sẽ ngạc nhiên mà
biết rằng mãi cho tới khi người phương Tây đến Ấn Độ,
người Ấn Độ đã chẳng biết gì đến những cái như lịch sử.
Chúng ta chưa bao giờ viết sử, chúng ta chưa bao giờ bận
tâm về nó. Đó là lí do tại sao chúng ta không biết đích xác
khi nào Phật ra đời, đích xác khi nào ông ấy chết. Chúng ta
chẳng bao giờ đặt nhiều kính trọng vào sự kiện. Sự kiện là
trần tục: có thành vấn đề gì liệu ông ấy được sinh ra vào
ngày thứ hai hay thứ ba hay thứ năm? Vấn đề là gì, vấn đề
như thế nào? Trong thực tế điều đó chẳng thành vấn đề
chút nào; ngày nào cũng được và năm nào cũng được. Đấy
không phải là điểm chính yếu. Điều chính yếu là: Ai được
sinh ra? Ai là con người này trong cốt lõi bên trong nhất?
Lịch sử nghĩ về ngoại vi, huyền môn nghĩ về cốt lõi
bên trong nhất. Ấn Độ đã viết về huyền môn nhưng không
viết về lịch sử. Chúng ta có puranas; puranas là huyền
môn, chúng không phải là lịch sử. Chúng là thơ ca, cách
nhìn huyền bí về mọi thứ nên là thế nào, không phải là việc
chúng là thế nào. Chúng là cái nhìn tới điều tối thượng. Và
Phật là cái nhìn tới samadhi tối thượng.
Những bức tượng Phật đó bạn thấy ở bảo tàng
Frankfurt là những bức tượng về im lặng bên trong. Khi
một người tuyệt đối im lặng, người đó sẽ trong trạng thái
đó. Khi mọi thứ yên tĩnh và im lặng, bình thản bên trong -
không một ý nghĩ khởi lên, không một ngọn gió thoảng
qua; khi mọi thứ đã dừng lại, thời gian đã dừng lại - bạn sẽ
cảm thấy việc ngồi tựa vị phật. Cái gì đó cùng kiểu hình
học sẽ xảy ra cho bạn. Đó là nghệ thuật mục đích - ít liên
quan tới thực tại của Phật, nhưng liên quan nhiều tới những
người sẽ tới và sẽ tìm kiếm phật tính. Nhấn mạnh là khác
nhau: điều gì sẽ xảy ra cho những người ngắm bức tượng
và sẽ quì xuống trước những bức tượng đó và sẽ suy tư về
những bức tượng này?
Ở Ấn Độ có những đền như Khajuraho trong đó có đủ
loại tư thế làm tình được tạc tượng. Nhiều tư thế ngớ ngẩn
đến mức ngay cả de Sade hay von Sacher-Masoch cũng
không thể nào tưởng tượng ra được chúng. Người truỵ lạc
nhất cũng không thể tưởng tượng được ra như thế. Chẳng
hạn, đàn ông và đàn bà đứng trên đầu và làm tình - dường
như là chẳng có ai định thử hay tưởng tượng ra điều đó.
Tại sao họ vẽ những bức tranh này? Chúng là điển hình
cho nghệ thuật mục đích.
Những đền đài này ở Khajuraho không phải là các đền
đài thông thường; chúng là một kiểu trị liệu, chúng tồn tại
như một cách trị liệu. Bất kì khi nào một ai đó đang bị suy
đồi dục đều được gửi tới Khajuraho. Người đó phải ngắm
nhìn và thiền về tất cả những thứ dị thường, quái chiêu này.
Người đó có cái gì đó suy đồi trong tâm trí; cái suy đồi đó
ở bên trong vô thức. Phân tâm học làm được gì? Nó cố đem
mọi điều từ vô thức ra ý thức, có thế thôi. Và phân tâm học
nói rằng một khi cái gì đó từ vô thức tới ý thức thì nó được
thoát ra, bạn tự do với nó.
Bây giờ đây là phân tâm học vĩ đại, các đền ở
Khajuraho này. Người suy đồi bất thường được đưa tới.
Người đó đã kìm nén suy đồi của mình - đôi khi chúng
bùng phát, nhưng người đó cứ kìm nén. Người đó biết rằng
cái gì đó đang có đấy tựa như một vết thương, nhưng người
đó chẳng bao giờ có thể thấy được nó mặt đối mặt. Người
đó được đưa đến Khajuraho. Người đó đi chậm rãi, suy tư
về từng bức tượng, về từng tư thế kì quái. Rồi một hôm,
bỗng nhiên một tư thế khớp với suy đồi bên trong của
người đó. Bỗng nhiên từ vô thức sự suy đồi tràn ra bề mặt
tới ý thức, và nó được thoát ra mà chẳng cần Freud hay
Jung hay Adler có đó - chỉ có ngôi đền gây ra tác dụng.
Người đó được bỏ lại trong đền. Trong một vài tuần người
đó có thể ở đó. Với mỗi thiền nhân, người thực sự muốn đi
vào thiền sâu trong những ngày ấy, điều nên làm là tới
thăm một ngôi đền kiểu như Khajuraho.
Trên các bức tường của ngôi đền tất cả đều là những
bức tượng ấy - rất bất thường, rất quái dị, rất suy đồi. Bên
trong ngôi đền không có các tranh vẽ dâm dục, không có
tượng dâm dục chút nào, không dâm dục chút nào. Bên
trong thì hoặc là tượng Phật, tượng Shiva hay tượng
Krishna.
Ý nghĩa của nó là gì? Tại sao dục chỉ có trên tường bên
ngoài mà bên trong thì không có dục? Đấy là một kĩ thuật.
Đầu tiên bạn phải đi tới phần ngoại vi để cho bạn có thể trở
nên thoát khỏi dục. Khi một người cảm thấy rằng bây giờ
các tượng dâm dục này không hấp dẫn người đó chút nào
nữa - bây giờ người đó cứ ngồi trước chúng và không có gì
xảy ra bên trong nữa, người đó giữ được bình tĩnh và lặng
yên, không gợi dục, không kích động; trong vài tuần người
đó chờ đợi, và không cảm thấy gợi dục - thế thì người đó
có khả năng đi vào bên trong ngôi đền.
Đấy là biểu tượng. Bây giờ dục của người đó có thể
vượt ra ngoài. Ngôi đền này là ngôi đền Mật tông, một
trong những thực nghiệm vĩ đại nhất đã được thực hiện.
Chúng không khiêu dâm, chúng không gợi dục, chúng là
tâm linh - một thực nghiệm vĩ đại trong tâm linh, một thực
nghiệm vĩ đại trong việc biến đổi năng lượng con người
hướng lên các mức cao hơn.
Nhưng đầu tiên năng lượng phải được giải phóng khỏi
mức thấp hơn. Và để giải phóng nó chỉ có một cách: làm
cho nó hoàn toàn thành ý thức, đưa mọi tưởng tượng của
tâm trí vô thức thành ý thức. Khi vô thức hoàn toàn không
còn bị nặng gánh nữa, bạn được tự do. Thế thì bạn không
còn các khối chắn nữa, thế thì bạn có thể chuyển vào trong.
Thế thì bạn có thể đi vào bên trong ngôi đền, thế thì bạn có
thể thiền về Phật, về Shiva, về Krishna.
Đó không phải là điều tưởng tượng, Samagra này, đó là
nghệ thuật mục đích mà bạn vô tình gặp đấy.
#6Câu hỏi thứ ba:
Osho kính yêu, thầy có cái gì mà tôi không
có? (Và tôi không nói về đạo tràng, ô tô, bàn
viết và mọi loại chất liệu đó.)
Bạn phải đang nói về 'mọi loại chất liệu đó', bằng
không tại sao bạn ngụ ý nó là tất cả? Chính việc nói tới nó
chỉ ra tâm trí. Bạn phải đã lo sợ, ý tưởng này phải thoáng
qua tâm trí bạn... và tôi chẳng có đạo tràng, chẳng có ô tô,
chẳng có bàn viết; trong thực tế tôi chẳng có gì cả. Việc có
không phải là vấn đề duy nhất. Hiện hữu... tôi chỉ ở đây;
hiện hữu là của cải của tôi, không phải là việc có. Nếu đạo
tràng là ở đây, nó là để dành cho bạn chứ không phải cho
tôi. Nếu có bàn viết thì cũng là để dành cho bạn, không
phải cho tôi. Tất cả những cái tồn tại ở đây là để dành cho
bạn. Nó chẳng liên quan gì tới tôi cả.
Tôi một mình là đủ.
Nhưng ở đâu đó, sâu trong tâm trí bạn, bạn phải quá
gắn bó với mọi thứ. Khi bạn hình thành nên một câu hỏi,
bạn hãy nhớ, nó biểu lộ rất nhiều điều về bạn. Câu hỏi
không chỉ là câu hỏi, nó cũng chính là biểu tượng nữa.
Một số người trong phòng hút thuốc lá đang tranh luận
xem ai là nhà phát minh vĩ đại nhất. Một người bằng lòng
với Stevenson, người đã phát minh ra đường sắt, người
khác thì nói tới Edison, người nữa thì nói tới Marconi, còn
một người nữa thì cho là anh em nhà Wright. Cuối cùng
một người trong số họ quay sang một người đàn ông nhỏ
bé, người vẫn đang lắng nghe mà chẳng nói gì cả. "Ông
nghĩ thế nào, ông bạn?"
"Này," câu trả lời đưa ra với một nụ cười hiểu biết,
"người đã phát minh ra 'lợi tức' là kẻ khôn hơn cả.”
Và người Do Thái đang ẩn trong mọi người; người Do
thái cứ chỉ nghĩ đến tiền, đến lợi tức, đến mọi thứ... đến
việc có.
Điều thứ nhất: Thay đổi tập trung của bạn từ việc có
sang sang việc hiện hữu đi. Bạn có thể có cả thế giới mà
điều đó cũng chẳng ích gì; bạn vẫn còn là kẻ ăn mày. Và tôi
không nói tới việc từ bỏ thế giới, tôi nhắc bạn. Tôi không
nói từ bỏ thế giới - bạn đừng nhảy sang kết luận đối lập.
Tôi đang nói bạn có thể có cả thế giới mà bạn sẽ chẳng có
gì cả, đấy là tất cả những gì tôi đang nói. Tôi không nói từ
bỏ nó... bởi vì những người từ bỏ, tâm trí họ vẫn còn tập
trung vào việc có. Bạn đếm tiền, họ cũng đếm tiền. Bạn
nói, "Tôi đã kiếm được nhiều nghìn đô la này"; họ nói "Tôi
đã từ bỏ nhiều nghìn đô la kia" - nhưng việc đếm vẫn tiếp
tục. Bạn là kế toán viên họ cũng là kế toán viên. Và việc
ghi sổ sách là thế giới.
Biết được bạn là ai chính là trở thành hoàng đế. Hiện
hữu là trở thành hoàng đế. Việc có chỉ là nghèo khó.
Có hai loại người nghèo trên thế giới: những người có
và những người không có. Nhưng cả hai đều nghèo, bởi vì
những người có thì họ không có gì, còn những người không
có, tất nhiên họ cũng chẳng kiếm được gì. Nhưng cả hai
đều nghèo. Những người có, họ phân vân: "Phải làm gì với
nó đây?" Họ bị mắc kẹt với nó; họ đã phí cả đời để có nó,
bây giờ nó có đấy và họ chẳng biết phải làm gì với nó cả.
Nó không thoả mãn cho bất kì cái gì, nó không đem lại bất
kì hoàn thành nào, nó không đem lại bất kì nở hoa nào. Họ
vẫn chưa đi đến mở hội cuộc sống. Thượng đế còn chưa
xảy ra qua điều đó. Điều đó chưa bao giờ xảy ra qua việc
có cả.
Bạn hỏi: "Thầy có gì mà tôi không có...?"
Nếu bạn cứ khăng khăng nói dưới dạng có thì bạn còn
có nhiều hơn là tôi có. Bạn có vô hạn thứ nhiều hơn: tham
lam, giận dữ, thèm khát, tham vọng, bản ngã - và cả nghìn
lẻ một thứ nữa.
Tôi đã có gì? - chỉ cái không. Chính xác, chỉ cái không.
Nếu bạn nghĩ theo quan điểm về việc có, thì tôi là người
nghèo nhất, bởi vì tôi chỉ có cái không. Nhưng nếu bạn
nghĩ theo quan điểm của hiện hữu, thì tôi là người giầu có
nhất - bởi vì một khi bạn vứt bỏ được bản ngã, bạn không
mất cái gì, bạn chỉ mất đi tật bệnh. Khi bạn vứt bỏ tham
lam, bạn không mất cái gì nữa, bạn chỉ mất tật bệnh. Khi
bạn vứt bỏ giận dữ, bạn không mất gì, bạn được. Mỗi lần
bạn vứt bỏ những thứ như thế mà bạn có, bạn trở nên giầu
hơn.
Khi tham lam biến mất việc chia sẻ đi vào sự tồn tại.
Khi giận dữ biến mất từ bi đi vào sự tồn tại. Khi ghen ghét,
ghen tị, sở hữu biến mất tình yêu đi vào hiện hữu.
Tôi chỉ có bản thân tôi. Nhưng cái ta đó diễn tả chính
nó theo nhiều, nhiều chiều hướng - trong chia sẻ, trong tình
yêu, trong từ bi. Cho nên tôi có thể nói bạn còn có nhiều,
nhiều hơn, vậy mà tôi sẽ nói bạn chưa hiện hữu. Tôi hiện
hữu, còn bạn không hiện hữu.
#6Câu hỏi thứ tư:
Osho kính yêu, thầy ngụ ý gì khi thầy nói
rằng con người là cái máy?
Con người kia là cái máy đấy! Có ba cảnh - thứ nhất là:
"Xin chào, ông bạn già Bernie!" Charlie lên tiếng chào,
cái gì đó bắn ra. "Chúng ta hãy vào quán và ăn mừng thói
quen hút xì gà."
"Bác đang nói gì vậy?" Bernie hỏi.
"Nghe đây," Charlie tiếp tục, "Vợ tôi muốn tôi thôi hút
thuốc. Và phương pháp của vợ tôi là, khi tôi cảm thấy thích
xì gà thì thế vào đó là ăn một thanh kẹo O' Henry."
“Bác làm như thế thật à?" Bernie hỏi.
"Có đấy! Và đó là lí do tại sao tôi ăn mừng. Tôi trở lại
hút xì gà - ý tưởng thanh kẹo đó không có tác dụng; tin tôi
đi, tôi đã thử nó. Mỗi lần tôi muốn hút thuốc tôi lại mua
một thanh kẹo O' Henry. Nhưng bác có biết điều gì không?
Tôi không thể châm thuốc được."
Khi tôi nói người kia là cái máy, tôi muốn nói người đó
vận hành qua thói quen, không qua nhận biết. Khi tôi nói
người đó là cái máy, tôi muốn nói người đó vận hành qua
quá khứ không phải qua tính tự phát của mình.
Cảnh thứ hai...
Một công nhân làm đêm đã để râu tóc dài cho đến khi
nào đội bóng rổ anh ta ưa thích đoạt được cờ, dài đến độ
chị vợ xinh xắn và trẻ trung của anh ta thấy ghê tởm.
Một hôm đội bóng của anh ta đoạt được cờ thế là anh ta
nghỉ việc, cạo đầu tóc nhẵn nhụi, về sớm và lẻn vào
giường. Trong bóng tối anh ta nắm lấy tay vợ và đặt nhẹ
nhàng lên khuôn mặt nhẵn nhụi của mình.
Cô vợ quay nhẹ đi trong khi vẫn lần ngón tay qua chiếc
cằm nhẵn thín và nói, "Làm nhanh lên, trẻ! Lão Whikers
sắp về đến nơi rồi."
Khi tôi nói rằng con người là máy, tôi muốn nói con
người không thấy cái gì là hoàn cảnh, con người không
nhìn vào khoảnh khắc hiện tại, con người không đáp ứng
với thực tại. Con người cứ sống trong các ý tưởng cũ, con
người sống qua thói quen.
Cảnh thứ ba...
Một hôm Mulla Nasruddin đọc một bài thở nhỏ trong
một tạp chí. Anh ta thích bài thơ này lắm. Bài thơ đó là:
Thưa ông ấy, sao ông ấy không mua một hay hai bó
hoa,
Nhân phiên chợ hoa mùa xuân?
Và đem chúng về nhà trong một ngày vui vẻ,
Nhưng nhớ giữ gìn cẩn thận.
Rồi trao chúng tận tay vợ ông ấy và nói,
"Hôm nay anh nghĩ về em trong thành phố."
Mulla Nasruddin làm hệt như thế. Anh ta mua vài bông
hoa, nhưng thay vì đi vào nhà như thường lệ thì anh ta lại
gõ cửa. Và khi vợ anh ta mở cửa ra, anh ta trao ngay hoa
cho vợ. Anh ta ngạc nhiên khi chị vợ buột khóc. "Sao, cái
gì thế vậy?" anh ta hỏi.
"Ôi trời," chị ta đáp, "em gặp phải một ngày khủng
khiếp. Em làm vỡ mất ấm trà, con trẻ thì kêu khóc, cơm
chưa nấu mà anh thì say khướt về nhà!"
Đấy chính là điều tôi ngụ ý khi tôi nói con người là cái
máy. Và bạn không trở nên nhận biết về nó, bởi vì làm sao
cái máy có thể trở thành nhận biết được? Bạn cần ai đó liên
tục gõ búa vào đầu bạn, với hi vọng rằng đôi khi búa sẽ
thực sự gõ trúng bạn, làm chấn động bạn ra khỏi thói quen
và trong thoáng chốc bạn sẽ tỉnh thức.
Đó là toàn bộ mục đích của thầy: cứ gõ vào bạn từ phía
này, từ phía kia, từ mọi phía, và cứ thay đổi kĩ thuật, tình
huống, phương cách để cho một ngày nào đó bạn bị lôi
cuốn ra khỏi vô nhận biết.
Cho dù chỉ cần một thoáng chốc bạn trở nên nhận biết
bạn sẽ hiểu ngay rằng toàn bộ quá khứ của bạn đều đã là
quá khứ máy móc. Chỉ thế bạn sẽ biết - nhưng không phải
bởi lời nói của tôi về nó - rằng con người là cái máy. Chỉ
thế thì bạn sẽ biết, khi bạn đã nếm trải một khoảnh khắc
nhận biết. Thế thì toàn bộ cuộc đời bạn sẽ đơn giản được
biết tới, được nhìn nhận, được nhận ra như cái máy. Bởi vì
cho dù biết nó là máy móc, bạn vẫn cần cái gì đó để so sánh
với nó. Bạn không có gì để so sánh với nó cả, bạn sống
giữa các cái máy. Bố bạn là một cái máy, mẹ bạn là một cái
máy, vợ bạn là một cái máy, bạn của bạn, ông chủ bạn -
bạn sống giữa các cái máy. Bạn cũng là một cái máy. Làm
sao trở nên nhận biết được?
Có lần vợ Mulla Nasruddin bảo với tôi rằng cô ấy chưa
bao giờ biết rằng chồng mình lại say rượu mãi cho tới đêm
hôm ấy anh ta về nhà say khướt cò bợ. Nếu một người liên
tục say rượu thì rất khó để biết rằng anh ta đang say; bạn
trở nên quen thấy anh ta theo cách đó.
Bạn là cái máy. Điều đó gây tổn thương - đó là mục
đích của việc gọi bạn là máy. Để cho nó bị tổn thương đi.
Nếu nó không tổn thương bạn đã vào tình thế không thể
chữa được rồi. Nếu nó tổn thương, còn có khả năng. Nếu
nó tổn thương, điều đó có nghĩa là bằng cách nào đó, sâu
trong vô thức, bạn cũng cảm thấy rằng, đúng, quả có như
vậy.
Bạn có sống trong khoảnh khắc hiện tại không? Bạn có
nhận ra mọi thứ như chúng ngay bây giờ không? Hay bạn
chỉ cứ nhìn chúng qua con mắt cũ, tâm trí cũ... kí ức? Bạn
có sáo rỗng không đấy? Bạn ngay lập tức đặt mọi thứ vào
trong những cái hộp nào đó, những cái hộp làm sẵn. Chẳng
hạn, nếu bạn là người Hindu và bạn gặp một người và bạn
rất quan tâm đến người đó... người đó trông đẹp đẽ và rất
tốt, bạn thích rung động của người đó. Rồi bạn hỏi mọi
điều về người đó và người đó trả lời, "Tôi là người Mô ha
mét giáo." Kết thúc. Tất cả những rung động đẹp không
còn nữa, bạn đã co lại. Bạn có một cái hộp, một cái hộp cố
định rằng người Mô ha mét giáo không tốt. Bạn là người
Hindu; người Mô ha mét giáo là xấu. Bạn lập tức phân loại
người đó, bạn ấn người đó vào một lỗ tổ chim. Bây giờ bạn
không còn quan tâm tới thực tại của người ấy. Thực tại vừa
nói điều gì đó khác, nhưng nó đi ngược với phân loại và lí
thuyết của bạn.
Tôi đã từng nghe...
Một phụ nữ trẻ đi tới một thành phố lớn gần đó để làm
việc. Họ đều là những người rất nghèo còn người mẹ thì
già, khi người phụ nữ trẻ còn bé cô ấy đã phải đi làm để
kiếm thêm chút tiền. Sau vài tháng cô ấy quay trở về với rất
nhiều tiền. Người mẹ rất hạnh phúc; bà ta hỏi, "Bây giờ nói
cho mẹ biết con đã làm gì ở đó?"
Người con gái rất thật thà và trả lời, "Con đã trở thành
gái mãi dâm."
"Gì thế!" người mẹ kêu thất thanh - và ngất xỉu. Khi bà
tỉnh lại sau nửa giờ bà lại hỏi, "Kể cho mẹ con đã trở thành
người gì?"
Còn người con gái thì đáp, "Con đã bảo mẹ, là con làm
gái mãi dâm."
Người mẹ nói, "Lạy trời! Mẹ cứ nghĩ con nói con đã
trở thành người theo đạo tin lành!"*
[* Hai chữ tiếng Anh phát âm gần giống nhau "prostitute" - mãi dâm và
"Protestant" người tin lành nên gây ra sự hiểu lầm.]
Tất nhiên họ đều là người Ki tô giáo.
Phân loại liên tục tiếp diễn trong tâm trí. Quan sát: khi
bạn làm điều gì đó, bạn có phản ứng với sự kiện ở đây bây
giờ không, hay bạn tuân theo các lí thuyết quá khứ nào đó?
Khi bạn làm điều gì đó, bạn có làm điều ấy với chú tâm,
nhận biết hay bạn chỉ làm như người máy?
Hôm trước tôi đã nói về ba nhận biết: nhận biết một,
nhận biết hai, nhận biết ba. Đây là nhận biết đầu tiên: quan
sát chính bản thân bạn, quan sát hành động của bạn, quan
sát phản ứng của bạn, quan sát đáp ứng của bạn. Bạn đang
đối xử như thế nào - như một con người hay như một cái
máy? Và trong một trăm trường hợp, có tới chín mươi chín
lần bạn sẽ thấy rằng bạn đang đối xử giống như cái máy.
Nhưng nếu bạn bắt đầu trở nên tỉnh táo hơn chút xíu thế thì
bạn đang trở thành cái gì đó hơn cái máy; điểm thêm đó
đang nảy sinh trong bạn. Nhận biết đó sẽ giúp cho bạn trở
thành con người. Chỉ khi bạn nhận biết bạn mới là con
người. Hoàn toàn nhận biết, bạn là con người đầy đủ. Hoàn
toàn vô nhận biết, bạn là cái máy.
#6Câu hỏi thứ năm:
Osho kính yêu, từ khi tôi ở đây, mọi thứ tôi
ước mong đều xảy ra cho tôi. Bây giờ tôi có
mọi thứ có thể muốn mà tôi cảm thấy giống
như tim tôi tan vỡ. Điều gì xảy ra vậy?
Bạn đã hiểu lầm. Tim vỡ ra vì vui mừng, tim vỡ ra vì
sung sướng, cực kì sung sướng. Trong một khoảnh khắc
nào đó vui mừng trở thành không thể chịu đựng nổi. Khi
vui mừng thành không thể chịu đựng nổi, bạn mới thực sự
là vui mừng. Thế thì vui mừng lên đến cực điểm, thế thì vui
mừng đạt tới điểm một trăm độ. Nếu bạn có thể chịu được
vui mừng vô bờ này, chẳng chóng thì chầy bạn sẽ bắt đầu
bay hơi qua vui mừng đó, bạn sẽ bắt đầu tan biến vào trong
điều thiêng liêng. Đừng sợ hãi, chẳng có gì sai đang xảy ra
cho bạn; bạn đang được phúc lành đó.
Nhưng nó xảy ra, ý tưởng của ta... Nếu bạn thấy ai đó
đang kêu khóc, bạn nghĩ rằng người đó đang buồn, người
đó phải đang khổ. Bạn bắt đầu an ủi. Bạn có nghe nói tới
cách nói 'nước mắt vui mừng' không? Có cả nước mắt vì
quá đỗi vui mừng nữa. Cho nên đừng vội an ủi - có thể
người ấy đang vui mừng. Nhưng chúng ta chỉ biết về những
người khóc khi họ bất hạnh; chúng ta không biết về những
người khóc khi họ hạnh phúc bởi vì mọi người thường
không hạnh phúc chút nào. Cho nên nước mắt vui mừng
chỉ có trong thơ ca, chỉ tìm thấy được trong thơ ca - không
có trong đôi mắt.
Nhưng nước mắt chẳng có liên quan gì với nỗi buồn cả.
Đấy là trạng thái xấu của nhân loại, trạng thái buồn thảm về
công việc, người ta kêu khóc chỉ khi họ buồn, khổ. Nước
mắt chẳng liên quan tới khổ như thế, nước mắt chỉ trào ra
khi cái gì đó tràn đầy. Đấy có thể là nỗi buồn, đấy có thể là
vui vẻ, đấy có thể là tình yêu, đấy có thể là giận dữ. Bạn có
thể quan sát phụ nữ: khi họ trở nên quá giận, họ bắt đầu
khóc. Đấy là giận dữ, không phải là buồn rầu. Quan sát một
đứa nhỏ: nếu nó cười quá nhiều, nó bắt đầu khóc. Quá
nhiều rồi, không thể chịu đựng được nữa; nó bắt đầu tràn
ngập trong nước mắt. Nước mắt chỉ là một chỉ báo rằng cốc
nước đã đầy - chúng bắt đầu trào.
Bạn nói: "Từ khi tôi ở đây mọi thứ tôi mong ước đều
xảy ra cho tôi..."
Đó là lí do tại sao vui mừng đang trở thành không chịu
đựng nổi; bạn đang về gần hơn tới nhà. "Bây giờ tôi đã có
mọi thứ có thể muốn và tôi cảm thấy giống như tim tôi tan
vỡ. Điều gì xảy ra vậy?"
Câu hỏi này là từ Anand Pratima.
Điều gì đó cực kì đẹp đẽ đang xảy ra. Đừng cố phân
tích nó và đừng cố nghĩ về nó. Đừng cố diễn giải nó, bằng
không tâm trí có thể phá huỷ toàn bộ sự việc. Chính tâm trí
đang cố can thiệp vào trái tim. Câu hỏi này đến từ tâm trí.
Trái tim tràn đầy vui vẻ, đó là lí do tại sao nó đang vỡ ra;
nó không thể chứa đựng được điều đó; vui vẻ quá lớn. Để
cho nó tan vỡ ra. Đó chính là điều để tôi có ở đây, đó là lí
do tại sao bạn đến với tôi.
Để cho nó tan vỡ, để cho nó tan thành từng mảnh.
Từ vui vẻ, để cho nó bùng nổ.
Để cho nó biến mất vào cái vô hạn.
#6Câu hỏi thứ sáu:
Osho kính yêu, tại sao tôi bao giờ cũng sợ ý
kiến người khác?
Bởi vì bạn không có đó, bởi vì bạn chưa có đó. Bạn
chẳng là gì khác hơn là một hiện tượng chồng chất ý kiến
của người khác. Bạn là ai? Ai đó nói bạn đẹp, thế là bạn
đẹp, rồi ai đó nói bạn xấu, thế là bạn xấu, rồi ai đó nói bạn
tuyệt vời thế là bạn tuyệt vời. Còn ai đó nói, " Tôi chưa bao
giờ thấy một con người kinh tởm đến thế," thế là bạn lại là
người kinh tởm. Mà mọi người cứ nói, còn bạn thì cứ cóp
nhặt đủ mọi thứ ấy, và đó là hình ảnh của bạn. Đó là lí do
tại sao hình ảnh của bạn rất mâu thuẫn, tham vọng: người
này nói bạn đẹp, người kia nói bạn xấu. Bạn muốn quên ý
tưởng của người nói bạn xấu, nhưng bạn không thể quên
được điều đó, nó vẫn còn đó. Nếu bạn giữ ý kiến rằng bạn
đẹp, bạn sẽ phải giữ cả ý kiến rằng bạn xấu nữa.
Hình ảnh của bạn rất tham vọng, bạn không biết đích
xác mình là ai. Bạn là món hẩu lốn, điều chúng ta ở Ấn Độ
gọi là kedgeree, một món hỗn hợp bao nhiêu thứ. Bạn chưa
có linh hồn. Bạn không có tính cá nhân nào, bạn không có
trung tâm tích hợp, bạn chỉ là kẻ nghiện ngập ý kiến người
khác. Đó là lí do tại sao bạn sợ, bởi vì nếu ý kiến người
khác thay đổi thì bạn sẽ thay đổi; bạn bị giữ chặt trong tay
họ.
Và đây cũng chính là thủ đoạn xã hội đã dùng. Xã hội
có một kĩ thuật: nó làm cho bạn rất tham vọng về tôn kính
của xã hội. Qua đó, nó thao túng bạn. Nếu bạn tuân theo
những qui tắc của xã hội, nó kính trọng bạn, nếu bạn không
tuân theo các qui tắc của xã hội, nó sỉ nhục bạn khủng
khiếp, nó làm tổn thương bạn rất nặng nề. Và tuân theo các
qui tắc của xã hội là trở thành nô lệ. Vâng, nó trả cho bạn
tôn kính lớn lao để là một nô lệ, nhưng nếu bạn muốn là
người tự do, xã hội trở nên giận dữ, nó không muốn có bất
kì cái gì liên quan tới bạn.
Là người thực sự tự do và tồn tại trong xã hội là điều
rất khó khăn. Và tôi nói điều đó cho bạn là từ kinh nghiệm
riêng của tôi. Gần như không thể nào tồn tại được bởi vì xã
hội không muốn có người tự do. Người tự do là nguy hiểm
cho sự tồn tại của xã hội. Xã hội thích người sống dở chết
dở, máy móc, người máy - bao giờ cũng sẵn sàng đứng xếp
hàng ở bất kì đâu. Chỉ cần hô to với họ, "Chú ý!" và thế là
họ đứng ngay vào hàng một cách máy móc. Họ không hỏi
tại sao, họ là kẻ bắt chước.
Bây giờ xã hội chú trọng tới họ lắm: nó cho họ kính
trọng, nó cho họ giải thưởng, phần thưởng, vinh dự - nó
phải làm như thế, đây là thủ đoạn. Nó chưa bao giờ trao
phần thưởng nào cho những người tự do, nó chưa bao giờ
tôn kính họ. Làm sao nó có thể tôn kính họ được? - họ là kẻ
thù. Người tự do là kẻ thù trong xã hội không tự do, người
đạo đức là kẻ thù trong xã hội vô đạo đức, người tôn giáo là
kẻ thù trong xã hội phi tôn giáo. Trong thế giới của chủ
nghĩa duy vật người tâm linh bao giờ cũng khó khăn; người
đó không hợp được vào đâu hết.
Để hợp được với người khác, xã hội cho bạn thật nhiều
thứ bạn muốn; nó cho bạn hình ảnh tốt, nó chống đỡ cho
bạn. Nhưng nếu bạn không chịu nghe thì nó bắt đầu thay
đổi ý kiến của nó. Nó có thể đánh đổ bạn trong vài giây,
bởi vì hình ảnh của bạn là trong tay xã hội. Cho nên đây là
điều đầu tiên cần được hiểu.
Bạn hỏi: "Tại sao tôi bao giờ cũng sợ ý kiến người
khác?" Bởi vì bạn còn chưa có đó, bạn chẳng là gì ngoài ý
kiến của người khác, do đó có nỗi sợ: họ có thể rút lại ý
kiến của họ. Tu sĩ đã nói rằng bạn là người rất tốt. Bây giờ,
nếu bạn hành xử theo ông ta, bạn sẽ vẫn còn là người tốt.
Nếu bạn không hành xử theo ông ta - và bản thân ông ta có
thể thần kinh, nhưng bạn phải hành xử theo ông ta - nếu
bạn không hành xử, nếu bạn làm điều gì đó theo cách riêng
của mình, tu sĩ sẽ nhìn vào bạn và nói, "Bây giờ anh đang
chống lại đạo đức, anh đang chống lại tôn giáo, anh đang
chống lại truyền thống. Anh đang rơi vào tội lỗi!" Ông ta sẽ
thay đổi ý kiến về bạn - còn bạn thì đã là 'tốt' vì theo ý kiến
ông ấy.
Là chính bản thân mình đi. Không ai có thể làm bạn
thành tốt mà cũng chẳng ai làm bạn thành xấu được. Trừ
chính bạn, không ai có thể làm bạn thành tốt và không ai có
thể làm bạn thành xấu được. Những hình ảnh giả này chỉ là
sống trong mơ.
Bác sĩ bảo với một người, "Anh đang tạo ra lịch sử
ngành y đấy, anh bạn. Anh là người đàn ông duy nhất được
ghi nhận đã trở thành mang thai!"
Người này trả lời, "Khủng khiếp quá! Hàng xóm tôi sẽ
nói thế nào đây? Tôi vẫn còn chưa lấy vợ."
Bây giờ người đó chẳng quan tâm gì đến lịch sử và kỉ
lục ngành y cả, người đó chỉ lo lắng về việc hàng xóm sẽ
nói thế nào vì người đó còn chưa lấy vợ.
Chúng ta liên tục sợ hãi. Nỗi sợ này sẽ tiếp tục nếu bạn
không vứt bỏ việc thu thập các ý kiến. Vứt chúng đi - mọi ý
kiến. Ai đó tin rằng bạn là thánh nhân? Vứt điều đó đi, bởi
vì người đó nguy hiểm; người đó sẽ thao túng bạn qua ý
tưởng của người đó. Một khi bạn nghe lời người đó và bạn
tin người đó, người đó sẽ trở thành người chủ còn bạn trở
thành nô lệ.
Đôi khi mọi người đến tôi và nói, "Thầy là thánh nhân
vĩ đại." Tôi nói, "Rất tiếc, tôi xin lỗi. Xin đừng bao giờ thốt
ra những lời như vậy với tôi, bởi vì tôi không định bị bất kì
ai thao túng. Tôi chỉ là bản thân mình thôi - thánh nhân hay
tội nhân, điều đó chẳng thành vấn đề gì!" Người đó đang
nghĩ rằng người đó đang cố gắng ca tụng tôi. Có thể người
đó thậm chí không nhận biết về điều người đó đang làm.
Bất kì khi nào bạn ca ngợi một người, bạn cũng đều trở nên
mạnh mẽ. Bất kì khi nào bạn ca ngợi một người và người
đó chấp nhận ca ngợi của bạn, người đó đã rớt xuống thành
nạn nhân. Bây giờ bạn sẽ kiểm soát được người đó. Bây giờ
bất kì khi nào người đó muốn làm gì, bất kì một việc hồn
nhiên nào...
Nghĩ mà xem: bạn gọi một người nào đó là thánh nhân,
là mahatma, là hiền giả vĩ đại. Rồi một hôm nào đó người
đó muốn hút thuốc - phải làm sao đây? Người đó không thể
hút thuốc được, bởi vì điều gì sẽ xảy ra cho cái danh tiếng
thánh nhân của người đó? Bây giờ dường như người đó
phải chú trọng quá nhiều đến cái danh tiếng thánh nhân của
mình ngay cả trong hút thuốc nữa; người đó không thể hút
thuốc được bởi vì quá nhiều người gọi người đó là thánh
nhân. Hay người đó sẽ trở thành một kẻ đạo đức giả. Người
đó có thể bắt đầu hút thuốc sau cánh cửa và người đó vẫn
nói rằng mình không hút thuốc, rồi người đó lên án việc hút
thuốc giống như bất kì cái gì khác khi người đó ra trước
công chúng. Thế thì người đó sẽ có hai mặt, mặt ra trước
công chúng và mặt riêng tư. Thế thì người đó sẽ bị chia
chẻ.
Bạn đừng bao giờ chấp nhận ý kiến của người khác, dù
tốt hay xấu. Bảo họ, "Rất tiếc. Xin bạn hãy giữ ý kiến đó
cho chính bạn. Tôi chỉ là chính bản thân tôi." Nếu bạn có
thể còn duy trì tỉnh táo đó, chẳng ai có thể thao túng được
bạn, bạn vẫn còn tự do. Và tự do là vui vẻ. Nhớ lấy, tự do
là khó khăn, bởi vì xã hội bao gồm các nô lệ. Tự do là khó
khăn, nhưng tự do là vui vẻ duy nhất có đó. Tự do là điệu
vũ duy nhất có đó, và tự do là cánh cửa duy nhất hướng tới
Thượng đế. Nô lệ chẳng bao giờ đạt tới Thượng đế, người
đó không thể đạt tới được.
#6Câu hỏi thứ bảy:
Osho kính yêu, người ta đã từng nói rằng người
Anh làm người phục vụ giỏi nhất thế giới. Khi
thầy đặt tên cho tôi, thầy đã dịch nó là 'trong
phục vụ tình yêu.' Bây giờ tôi biết rằng cũng có
thể dịch là 'người phục vụ tình yêu'. Tôi phân
vân về điều này. Đôi khi dường như là tôi gần
như trong phục vụ tình yêu khi còn là chính mình
mà chẳng có ý định phục vụ gì cả. Ngược lại thì
dường như chỉ giống phục vụ nhưng tôi phải
chịu đựng bệnh tật văn hoá tiếng Anh về lễ phép,
thân phận nô lệ và bất lực. Xin thầy bình luận về
điều này.
Câu hỏi này là từ Ma Prem Dasi. Prem Dasi thực tế
nghĩa là 'người phục vụ tình yêu'. Nhưng trong khi trao tính
sannyas cho cô ấy, tôi đã chủ ý dịch nó là 'trong phục vụ
tình yêu'. Cách dịch chính xác là 'người phục vụ tình yêu'.
Tôi đã dịch nó là 'trong phục vụ tình yêu' vì có lí do đấy.
Tôi muốn bạn trở nên càng phục vụ nhiều hơn, nhưng
tôi không muốn bạn trở thành người phục vụ. Người phục
vụ không phục vụ, chỉ có thầy mới phục vụ; người phục vụ
chỉ làm bổn phận của họ. Bổn phận là từ không hay, có hai
âm. Người ta phải làm điều đó; không có cái đẹp trong đó,
không có vui vẻ trong đó. Cho nên làm việc phục vụ nhưng
đừng bao giờ là người phục vụ; đấy là một điều.
Điều thứ hai: Khi bạn trở thành người phục vụ, bạn học
các thói quen. Phục vụ là quá trình tiếp diễn; trở thành
người phục vụ là đạt tới tính cách, tính cách chết cứng. Mọi
người biết bạn là người phục vụ quần chúng, mọi người
biết rằng người đó là người phục vụ.
Chẳng hạn, bạn đang đi qua đường, và bạn thấy một
ngôi nhà bốc cháy rồi bạn chạy xô tới, bạn cứu trẻ con sắp
chết. Nhưng bạn không phải làm việc đó; bạn không tìm
kiếm việc phục vụ công chúng nào đó. Bạn chỉ đi dạo sáng
sớm và ngôi nhà cháy. Bạn chẳng nghĩ gì về nó cả; chỉ có
tình huống và đáp ứng... Bạn đang trong phục vụ. Nhưng
người phục vụ thì nguy hiểm, bởi vì nếu người đó không
thể tìm được ai đó để phục vụ thì người đó sẽ buộc ai đó
phải được phục vụ.
Tôi đã từng nghe về một nhà truyền giáo Ki tô giáo,
người dạy học trò mình, những học trò ngày chủ nhật,
những đứa nhỏ con trai và con gái... ông ta dạy chúng làm
việc thiện, điều thiện, ít nhất thì cũng một tuần một lần.
Chủ nhật sau ông hỏi xem chúng đã làm được việc tốt nào
chưa, chúng đã phục vụ nhân dân chưa, chúng đã giúp đỡ
được ai chưa? Ba đứa trai đứng dậy và thầy rất hoan hỉ.
Trong ba mươi đứa ít nhất cũng có ba đứa... nhưng thế
cũng là phần trăm khá lớn rồi, bởi vì ai lắng nghe?
Thế là ông hỏi đứa thứ nhất, "Con đã làm gì? Kể cho
cả lớp nghe đi."
Còn đứa nhỏ đáp, "Thưa thầy, con đã giúp một bà già
qua đường ạ."
Nhà truyền giáo nói, "Tốt lắm. Bao giờ cũng phải chăm
sóc cho bà già."
Rồi ông hỏi đứa thứ hai, và đứa này trả lời, "Con cũng
giúp một bà già qua đường ạ."
Linh mục hơi phân vân... nhưng ông chẳng thấy có gì
đáng phân vân vì có biết bao bà già; có thể ông cũng gặp
một bà già nữa là.
Cho nên ông lại hỏi đứa thứ ba, và đứa thứ ba nói,
"Con cũng giúp một bà già qua phố ạ."
Thế là linh mục nói, "Nhưng thế thì dường như nhiều
quá - cả ba con đều giúp ba bà già sao?"
Chúng trả lời, "Dạ không ạ, không phải ba bà già mà
chỉ có một bà già thôi ạ. Chỉ có một bà ở đấy, tất cả chúng
con đều giúp bà ấy.
Rồi thầy nói, "Nhưng... phải cần tới cả ba đứa sao? Các
con nói rằng cần cả ba trò để giúp bà già đó sao?"
"Ngay cả có đến sáu đứa chúng con vẫn cảm thấy khó
khăn bởi vì bà ấy không muốn đi qua đường. Rất khó thưa
thầy nhưng chúng con đã làm được điều đó, bởi vì phải làm
cái gì đó! Bà ấy quả là rất giận dữ!"
Đừng bao giờ là người phục vụ, bằng không bạn sẽ
phải đi tìm kiếm. Và nếu bạn không thể tìm thấy một nơi
nào đó để phục vụ thì bạn sẽ rất giận dữ. Những người này
có khắp trên thế giới, những người phục vụ quần chúng; họ
là những người gây tác hại nhất. Họ tạo ra rất nhiều tác
hại... bởi vì khi mọi người không muốn được phục vụ thì
thế nữa họ vẫn cứ áp đặt phục vụ của họ. Họ phải áp đặt,
họ có đầu tư ở đó. Họ không thể cho phép một thế giới đẹp
đẽ tồn tại bởi vì điều gì sẽ xảy ra cho họ?
Thử nghĩ mà xem: không còn người hủi nữa, không
còn người ốm nữa, thì cũng không cần bệnh viện. Và tất cả
đều trở nên chứng ngộ - không cần trường học, không cần
trường cao đẳng và không cần tới đại học... Điều gì sẽ xảy
ra cho những người phục vụ quần chúng? Họ sẽ bắt đầu tự
tử. Chẳng còn ai để phục vụ nữa! Họ cần, họ sẽ xoay sở
cách nào đó để tạo ra tình huống mà họ còn có thể còn
phục vụ; toàn bộ uy tín của họ phụ thuộc vào điều đó. Đấy
là trò bản ngã.
Đó là lí do tại sao, bạn biết rõ... Tôi nhớ đích xác khi
tôi đặt tên sannyasin cho Prem Dasi: Tôi đã định dịch là
'người phục vụ tình yêu', thế rồi tôi nghĩ như thế sẽ sai. Từ
này có nghĩa như thế, và tôi đổi lại tôi gọi cô ấy là 'trong
phục vụ tình yêu'.
Hãy trong phục vụ, nhưng đừng làm cho phục vụ trở
thành tính cách của bạn. Tôi yêu những người sống không
có tính cách, những người sống hết khoảnh khắc nọ đến
khoảnh khắc kia, những người chỉ đáp ứng lại tình huống.
Bằng không bạn sẽ trong tù túng.
Và bạn cũng phải, Prem Dasi này. Bạn nói: "Tôi gần
như trong phục vụ tình yêu khi còn là chính mình mà
chẳng có ý định phục vụ gì cả." Hoàn toàn đúng. Đấy chính
là cách nó phải như thế. Khi bạn có ý định phục vụ, điều đó
không còn đẹp nữa, điều đó không còn là tình yêu nữa. Khi
bạn là chính bạn, hoàn toàn là bản thân bạn... từ độc lập đó,
từ con người đó nảy sinh ra tình yêu và bạn phục vụ mọi
người. Và không có cảm giác rằng bạn là người phục vụ
còn họ là chủ. Bạn đơn giản phục vụ bởi vì bạn có nhiều để
cho đến độ bạn phải chia sẻ; bạn tuôn chảy trong chia sẻ,
trong tình yêu, trong từ bi của bạn.
#6Câu hỏi cuối:
Osho kính yêu, lời nguyện đôi khi có hại
không?
Tôi chưa từng nghe nói về điều đó, chỉ trừ trong một
trường hợp. Đây là câu chuyện.
Hai cô gái cưới trong cùng một ngày và đưa chồng mới
cưới vào cũng một khách sạn tuần trăng mật. Bốn người
ngồi trong phòng đợi nghĩ vơ vẩn thấy mọi việc tầm
thường làm sao nếu tất cả họ đều lên giường vào giờ sớm
thế, nhưng sau một lúc họ quyết định rằng con gái nên đi ra
theo hướng 'Quí bà' và rồi vào buồng mình, còn đàn ông sẽ
uống chén cuối tại quầy. Sau khoảng mười đến mười lăm
phút đàn ông sẽ ngẫu nhiên rời quầy theo cùng cách đó và
hội ngộ với cô dâu.
Tuy nhiên, ngay khi họ định đi theo các cô gái thì đèn
trong khách sạn vụt tắt - điều này làm họ bối rối trong toà
nhà lạ. Dầu vậy, mỗi người đều tin chắc mình có thể tìm
thấy phòng và thế là họ lên đường.
Harry mò mẫm lên cầu thang và đi dọc hành lang, đếm
cửa một cách cẩn thận theo cách của mình - vì anh ta là
người rất cẩn thận - và tìm thấy căn phòng. Để cho chắc
chắn, anh ta bật diêm và thấy một chút giấy rắc trên đầu
cầu thang. Rồi anh ta im lặng bước vào: anh ta cẩn thận cởi
quần áo, mặc bộ đồ ngủ, quì xuống và đọc lời nguyện, trèo
lên giường và bắt đầu làm tình.
Vào đúng lúc đó mọi đèn bật sáng và anh ta thấy rằng
mình đang trong 'đúng' phòng nhưng sai tầng, và đây là cô
dâu của người kia! Anh ta vồ lấy quần áo và vội vã chạy về
buồng mình - chỉ thấy rằng người đàn ông kia là một kẻ vô
thần!
Đủ cho hôm nay.
************************************************************
#7 Thông minh là thiền
Tâm trí, trí năng và những nội dung đã hình thành của
tâm trí đó đều là Cái đó, cho nên nó cũng là thế giới
và tất cả dường như chỉ khác biệt từ Cái đó, mọi thứ
đều có thể được cảm thấy và người cảm nhận cũng trì
trệ, ác cảm, ham muốn và chứng ngộ.
Giống như ngọn đèn chiếu sáng trong bóng tối của
dốt nát tâm linh, nó vứt bỏ sự mờ tối của tâm trí khi
đạt tới việc phân đoạn trí năng. Ai có thể tưởng tượng
bản thân vô ham muốn?
Không cái gì bị phủ định, không cái gì được khẳng
định hay hiểu thấu; vì Cái đó chẳng bao giờ quan
niệm được. Bằng cách phân đoạn trí năng sự lừa dối
bị cùm ; không phân chia và thuần khiết vẫn còn tự
nhiên.
Nếu bạn hỏi điều tối thượng với định đề về cái nhiều
và cái một thì tính một không được nêu ra vì bằng
cách siêu việt lên tri thức loài hữu tình được tự do. Sự
toả chiếu có hiệu lực tiềm tàng trong trí năng, và điều
này được thể hiện thành thiền; Tâm trí kiên định là
bản chất đúng đắn của chúng ta.
Tầm nhìn Mật tông là cách tiếp cận trực tiếp hướng về
Thượng đế, hướng tới thực tại, hướng tới cái đang đó. Nó
không có người giữa, không có người trung gian, nó không
có tu sĩ. Và Mật tông nói khoảnh khắc tu sĩ bước vào, tôn
giáo bị biến chất. Không phải là quỉ làm biến chất tôn giáo
mà chính là tu sĩ. Tu sĩ phụng sự cho quỉ.
Thượng đế chỉ có thể được tiếp cận tới theo cách trực
tiếp. Không thông qua trung gian. Bạn không thể đi qua
người khác bởi vì Thượng đế là sự tức khắc, Thượng đế là
ở đây bây giờ, đã bao quanh bạn. Bên trong, bên ngoài chỉ
Thượng đế hiện hữu.
Không cần phải tìm ai đó giúp cho bạn tìm thấy
Thượng đế. Bạn đã ở bên trong nó rồi, bạn chưa bao giờ xa
rời nó. Cho dù bạn muốn đi chăng nữa, bạn cũng không thể
xa rời được điều đó. Cho dù bạn hết sức cố gắng vẫn không
thể đi ra xa được. Chẳng có chỗ nào khác để đi, và chẳng
có gì khác để hiện hữu.
Mật tông không phải là tôn giáo theo nghĩa thông
thường bởi vì nó không có nghi lễ, nó không có tu sĩ, nó
không có kinh sách. Nó là cách tiếp cận cá nhân hướng tới
thực tại. Nó mang tính cực kì nổi dậy. Tin cậy của nó
không phải vào tổ chức, tin cậy của nó không phải vào
cộng đồng; tin cậy của nó là vào cá nhân. Mật tông tin vào
bạn.
Tôi đã từng nghe...
Sự việc xảy ra trong một cuộc họp gây quĩ cho Bily
Graham - một anh chàng đi thu số tiền công đức rồi anh ta
bắt đầu chia chác số tiền đó. Hai cảnh sát bắt quả tang anh
ta; họ đem anh ta tới Bily Graham. Tự nhiên Bily Graham
rất giận và nói với người này, "Món tiền này thuộc về
Thượng đế, còn anh định làm gì? Định lừa Thượng đế à?"
Người này đáp, "Thưa ông ấy, tôi lấy món tiền này
trong cố gắng để được tới gần Thượng đế hơn - tất nhiên
bằng cách vứt bỏ người trung gian."
Người trung gian chẳng cần chút nào. Thầy thực sự
chẳng bao giờ cố trở thành người trung gian; thầy không
phải như thế. Thầy không giúp bạn đạt tới Thượng đế, thầy
chỉ giúp bạn trở nên nhận biết về điều đã có đó. Thầy
không phải là cây cầu giữa bạn và Thượng đế, thầy chỉ là
cây cầu giữa chưa nhận biết và nhận biết của bạn. Khoảnh
khắc bạn trở nên nhận biết là bạn đã hội nhập trực tiếp với
Thượng đế, ngay lập tức, không có bất kì ai đứng giữa bạn
và Thượng đế.
Tầm nhìn Mật tông này là một trong những tầm nhìn vĩ
đại nhất mà con người đã từng mơ ước: tôn giáo không tu
sĩ, tôn giáo không đền đài, tôn giáo không tổ chức; tôn giáo
không phá huỷ cá nhân mà tôn trọng cá nhân vô biên, tôn
giáo tin cậy vào đàn ông và đàn bà thông thường. Và tin
cậy này đi rất sâu. Mật tông tin cậy vào thân thể bạn; không
tôn giáo nào khác tin cậy vào thân thể bạn. Và khi các tôn
giáo không tin cậy vào thân thể bạn, họ tạo ra chia chẻ giữa
bạn và thân thể bạn. Họ làm cho bạn trở thành kẻ thù của
thân thể mình, họ bắt đầu phá huỷ trí huệ của thân thể.
Mật tông tin cậy vào thân thể bạn. Mật tông tin cậy vào
giác quan của bạn. Mật tông tin cậy vào năng lượng của
bạn. Mật tông tin cậy vào bạn - trong toàn bộ. Mật tông
không phủ nhận điều gì mà biến đổi mọi thứ.
Làm sao đạt tới tầm nhìn Mật tông này? Đây là bản đồ
để mở bạn ra, để chuyển bạn vào trong và chuyển bạn vượt
ra ngoài.
Điều đầu tiên là thân thể. Thân thể là căn cứ của bạn,
nó là nền tảng của bạn, nó là nơi bạn tiếp đất. Làm cho bạn
đối kháng với thân thể là phá huỷ bạn, là làm cho bạn tinh
thần phân liệt, là làm cho bạn khổ, là tạo ra địa ngục. Bạn
là thân thể. Tất nhiên bạn còn là nhiều hơn thân thể, nhưng
cái 'nhiều hơn" đó sẽ theo sau. Điều đầu tiên, bạn là thân
thể. Thân thể là chân lí cơ sở của bạn, cho nên đừng bao
giờ chống thân thể. Bất kì khi nào bạn chống thân thể, bạn
đang chống Thượng đế. Bất kì khi nào bạn không tôn kính
thân thể mình bạn đều bị mất tiếp xúc với thực tại, bởi vì
thân thể bạn là nơi tiếp xúc của bạn, thân thể bạn là cây cầu
của bạn. Thân thể bạn là ngôi đền của bạn.
Mật tông dạy tôn kính thân thể, yêu thương, tôn trọng
thân thể, biết ơn thân thể. Thân thể là tuyệt diệu, nó là bí ẩn
vĩ đại nhất trong các bí ẩn.
Nhưng bạn đã được dạy chống lại thân thể. Cho nên
đôi khi bạn bị quá bối rối bởi cây cối, bởi cây xanh; đôi khi
bạn bị bối rối bởi mặt trăng và mặt trời, đôi khi bị bối rối
bởi bông hoa - nhưng chưa bao giờ bị bối rối bởi thân thể
riêng của mình. Và thân thể bạn là hiện tượng phức tạp
nhất trong sự tồn tại. Không hoa nào, cây nào có thân thể
đẹp như thân thể bạn; không mặt trăng, không mặt trời
không vì sao nào có cơ cấu tiến hoá như bạn có.
Bạn đã được dạy thấy rõ bông hoa, vốn là một vật đơn
giản. Bạn đã được dạy thấy rõ cái cây, cũng là một vật đơn
giản. Bạn cũng đã từng được dạy để hiểu thấu hòn đá, tảng
đá, núi non, sông ngòi, nhưng bạn chưa bao giờ được dạy
để kính trọng thân thể mình, chưa bao giờ bối rối về nó.
Vâng, nó rất gần gũi, cho nên rất dễ dàng quên mất nó. Nó
rất hiển nhiên, cho nên dễ dàng bỏ qua nó. Nhưng đấy là
hiện tượng đẹp đẽ nhất.
Nếu bạn ngắm hoa, mọi người sẽ nói, "Thẩm mĩ làm
sao!" Còn nếu bạn nhìn vào khuôn mặt đẹp của một phụ nữ
hay khuôn mặt đẹp của một đàn ông, mọi người sẽ nói,
"Đấy là thèm khát." Nếu bạn đi tới cái cây và đứng đó rồi
nhìn đắm đuối bông hoa - mắt bạn mở to, giác quan bạn mở
to để cho phép cái đẹp của hoa đi vào trong bạn - mọi
người sẽ nghĩ bạn là nhà thơ hay hoạ sĩ hay nhà huyền
môn. Nhưng nếu bạn đi tới người đàn bà hay đàn ông và
chỉ đứng đó với tôn kính và ngưỡng mộ, rồi nhìn người đàn
bà hay đàn ông đó bằng đôi mắt mở to và giác quan bạn
uống lấy cái đẹp của người đó, cảnh sát sẽ tóm cổ bạn.
Chẳng ai sẽ nói rằng bạn là nhà huyền môn, nhà thơ; chẳng
ai sẽ đánh giá cao điều bạn đang làm.
Cái gì đó đã đi sai. Nếu bạn đi tới người lạ trên phố và
bạn nói, "Mắt em đẹp làm sao!" bạn sẽ cảm thấy ngượng,
người đó cũng cảm thấy ngượng. Người đó sẽ không thể
nói cám ơn bạn được. Thực tế người đó sẽ cảm thấy đề
phòng. Người đó sẽ cảm thấy cần đề phòng, bởi vì bạn là ai
mà can thiệp vào cuộc đời riêng của người đó? Bạn là ai
mà dám làm việc đó? Nếu bạn tới và chạm vào cây, cây sẽ
cảm thấy sung sướng. Nhưng nếu bạn tới và chạm vào một
người, người đó sẽ cảm thấy đề phòng. Điều gì đã đi sai?
Cái gì đó đã bị phá hỏng rất lớn lao và rất sâu sắc.
Mật tông dạy bạn giành lại tôn trọng cho thân thể, tình
yêu cho thân thể. Mật tông dạy bạn nhìn vào thân thể như
sáng tạo vĩ đại nhất của Thượng đế. Mật tông là tôn giáo
của thân thể. Tất nhiên nó còn đi cao hơn, nhưng nó chưa
bao giờ rời bỏ thân thể; nó tiếp đất ở đấy. Nó là tôn giáo
duy nhất thực sự bắt rễ vào mặt đất: nó có gốc rễ. Các tôn
giáo khác là cây đã bị bật gốc rễ - chết, mờ đục, chết dần;
nhựa sống không chảy trong chúng. Mật tông là nhựa sống
thật, rất sinh động.
Điều đầu tiên là phải học tôn trọng thân thể, dỡ bỏ mọi
điều vô nghĩa bạn đã từng được học về thân thể. Bằng
không bạn sẽ chẳng bao giờ mở được nó, chẳng bao giờ đi
vào được nó và chẳng bao giờ vượt ra ngoài nó.
Bắt đầu từ đầu. Thân thể là chỗ bắt đầu của bạn. Thân
thể cần được làm thuần khiết khỏi nhiều kìm nén. Thanh
tâm lớn lao là cần cho thân thể, một rechana lớn. Thân thể
đã bị đầu độc bởi vì bạn đã từng chống lại nó, bạn đã kìm
nén nó theo nhiều cách. Thân thể bạn tồn tại ở mức tối
thiểu, đó là lí do tại sao bạn khổ.
Mật tông nói: Phúc lạc có thể có chỉ khi bạn tồn tại ở
mức tối đa, chưa bao giờ có trước đó. Phúc lạc là có thể có
chỉ khi bạn sống thật mãnh liệt. Làm sao bạn có thể sống
thật mãnh liệt nếu bạn đang chống lại thân thể? Bạn bao
giờ cũng hờ hững, ngọn lửa đã lạnh dần. Qua nhiều thế kỉ,
ngọn lửa đã bị lụi tàn. Cần phải nhen nhóm lại ngọn lửa.
Mật tông nói: Trước hết là phải làm thuần khiết thân
thể - làm thuần khiết nó khỏi mọi kìm nén. Cho phép năng
lượng thân thể được tuôn chảy, vứt bỏ mọi khối chắn. Rất
khó bắt gặp người không có khối chắn, rất khó bắt gặp
người có thân thể không bị kiềm chế. Nới lỏng kiềm chế
này ra; căng thẳng này đang ngăn cản năng lượng của bạn,
tuôn chảy không thể có được trong căng thẳng đó. Tại sao
mọi người phải bồn chồn đến thế? Tại sao bạn không thể
thảnh thơi được? Bạn có thấy mèo ngủ không, đang mơ
màng buổi trưa? Con mèo thảnh thơi đơn giản và đẹp đẽ
làm sao. Bạn không thể thảnh thơi theo cùng cách được
sao? Bạn xoay và lật mình trên giường; bạn không thể
thảnh thơi được. Và cái đẹp của thảnh thơi ở con mèo là ở
chỗ nó thảnh thơi hoàn toàn và vẫn tỉnh táo hoàn hảo. Một
thoáng chuyển động trong phòng nó sẽ mở mắt, nó sẽ nhổm
lên và sẵn sàng. Đấy không đơn giản ngủ. Giấc ngủ của con
mèo là cái gì đó cần phải học; con người đã quên mất.
Mật tông nói: Học mèo - cách nó ngủ, cách nó thảnh
thơi, cách nó sống không căng thẳng. Và toàn bộ thế giới
con vật cũng đều sống theo cách thức không căng thẳng
như thế. Con người phải học điều này, bởi vì con người đã
bị huấn luyện sai, con người đã bị lập chương trình sai.
Ngay từ thời trẻ thơ bạn đã được lên chương trình rất
chặt chẽ. Bạn không thở... vì sợ. Vì sợ dục nên mọi người
không thở, bởi vì khi bạn thở sâu, nhịp thở của bạn đi thẳng
tới trung tâm dục và tác động vào nó, cọ sát nó ở bên trong,
kích động nó. Vì bạn đã được dạy rằng dục là nguy hiểm
nên mỗi đứa trẻ bắt đầu thở nông, trì hoãn hơi thở trong
lồng ngực. Nó chẳng bao giờ vượt ra ngoài điều đó bởi vì
nếu nó vượt ra thì bỗng nhiên sẽ có kích động; dâm dục nảy
sinh và nỗi sợ nảy sinh. Khoảnh khắc bạn thở sâu, năng
lượng dục được thả ra. Năng lượng dục phải được thả ra,
nó phải chảy khắp con người bạn. Thế thì thân thể bạn sẽ
trở nên cực kì sảng khoái. Nhưng sợ thở, sợ đến mức gần
như một nửa phổi bạn đầy khí các bô níc...
Có nhiều, nhiều nghìn lỗ nhỏ trong phổi và thông
thường năm mươi phần trăm lỗ này chẳng bao giờ được
sạch, chúng bao giờ cũng vẫn còn đầy khí các bô níc. Đó là
lí do tại sao bạn uể oải, đó là lí do tại sao bạn không có vẻ
tỉnh táo, đó là lí do tại sao nhận biết lại khó khăn. Không
phải ngẫu nhiên mà Yoga và Mật tông cả hai đều dạy về
thở sâu, pranayama, để dỡ bỏ khí các bô níc ra khỏi phổi
bạn. Khí các bô níc không phải là dành cho bạn; nó phải bị
tống ra liên tục. Bạn phải hít khí trong lành mới; bạn phải
hít vào nhiều ô xi. Ô xi sẽ tạo ra ngọn lửa bên trong của
bạn, ô xi sẽ làm cho bạn thành ngọn lửa. Nhưng ô xi cũng
làm bùng lên dục của bạn. Cho nên chỉ có Mật tông mới có
thể cho phép bạn thực sự thở sâu; ngay cả Yoga cũng
không cho phép bạn thực sự thở sâu. Yoga cho phép bạn đi
tới rốn - không được vượt quá nơi đó, không được vượt qua
trung tâm hara, không được vượt qua swadhishthan, bởi vì
một khi bạn vượt qua swadhishthan, bạn sẽ nhảy vào trong
muladhar.
Chỉ Mật tông mới cho phép bạn là toàn bộ bản thể và
toàn bộ luồng chảy. Mật tông cho bạn tự do vô điều kiện;
dù bạn là bất kì cái gì và dù bạn có thể là bất kì cái gì, Mật
tông không đặt giới hạn nào lên bạn. Nó không xác định
bạn, nó đơn giản cho bạn tự do toàn bộ. Hiểu biết là ở chỗ
khi bạn được hoàn toàn tự do nhiều điều là có thể.
Điều này đã là quan sát của tôi, rằng những người kìm
nén dục trở thành không thông minh. Chỉ những người sinh
động rất, rất nhiều tính dục mới là người thông minh. Bây
giờ ý tưởng rằng dục là tội lỗi làm hư hoại thông minh, làm
hư hoại nó tồi tệ lắm. Khi bạn thực sự tuôn chảy và dục của
bạn không phải tranh đấu và xung khắc với bạn, khi bạn
hợp tác với nó, tâm trí bạn sẽ vận hành ở mức tối đa. Bạn
sẽ thông minh, tỉnh táo và sống động.
Thân thể cần phải được đối xử tốt, Mật tông nói vậy.
Bạn đã có lần nào chạm vào thân thể mình chưa? Bạn
đã bao giờ cảm thấy thân thể riêng của mình chưa, hay bạn
vẫn còn dường như được đóng hộp trong một thứ chết
cứng? Đó chính là điều vẫn xảy ra: người ta gần như đông
cứng; họ đang mang thân thể tựa như cái quan tài. Nó nặng
nề, nó vướng víu, nó chẳng giúp gì cho bạn liên lạc với
thực tại. Nếu bạn cho phép điện của thân thể chạy từ ngón
chân cái tới đầu, nếu bạn cho phép năng lượng của thân thể
- sinh năng - được tự do hoàn toàn, bạn sẽ trở thành dòng
sông và bạn sẽ không cảm thấy thân thể chút nào. Bạn sẽ
cảm thấy gần như vô thân thể. Không phải tranh đấu với
thân thể, bạn trở thành vô thân thể. Tranh đấu với thân thể,
thân thể trở thành gánh nặng, và với việc mang thân thể
như gánh nặng bạn chẳng bao giờ đến được Thượng đế.
Thân thể phải trở thành vô trọng lượng để cho bạn gần
như bắt đầu bước trên đất; đó là cách Mật tông bước. Bạn
vô trọng lượng đến mức không còn trọng lực nữa, bạn đơn
giản có thể bay. Nhưng điều đó chỉ đến từ chấp nhận lớn
lao. Nhưng điều khó là chấp nhận được thân thể bạn. Bạn
lên án nó, bạn bao giờ cũng thấy lỗi ở nó. Bạn chưa bao giờ
đánh giá cao nó, bạn chưa bao giờ yêu nó, và rồi bạn muốn
một phép màu - rằng ai đó sẽ tới và yêu thân thể bạn. Nếu
bản thân bạn không thể yêu được nó, làm sao bạn tìm được
ai khác yêu thân thể bạn? Nếu bản thân bạn không thể yêu
được nó thì chẳng ai sẽ yêu được thân thể bạn, bởi vì rung
động của bạn sẽ làm cho mọi người bị đẩy ra.
Bạn yêu một người, người đó yêu bản thân mình, chẳng
bao giờ có điều ngược lại. Tình yêu đầu tiên phải hướng về
chính mình; chỉ có từ trung tâm đó mà các loại tình yêu
khác mới có thể nảy sinh. Bạn không yêu thân thể mình,
bạn che giấu nó theo cả nghìn lẻ một cách. Bạn giấu mùi
thân thể mình, bạn giấu thân thể mình trong quần áo, bạn
giấu thân thể mình trong cách trang điểm. Bạn cố tạo ra cái
đẹp nào đó mà bạn liên tục cảm thấy mình đang mất đi, và
trong đó chính mọi nỗ lực của bạn trở thành giả tạo.
Bây giờ nghĩ về người đàn bà với son dầy bự trên
môi... điều đó cực kì xấu xí. Môi nên có mầu đỏ bắt nguồn
từ vẻ sống động, chúng không nên bị tô vẽ loè loẹt. Chúng
nên sinh động từ tình yêu, chúng nên sinh động bởi vì bạn
sinh động. Bây giờ chỉ vẽ lên môi, và bạn nghĩ rằng bạn
làm mình đẹp lên. Chỉ những người rất ý thức về cái xấu
của mình mới đi tới mĩ viện, bằng không thì họ đã chả cần.
Bạn đã bao giờ đi qua một con chim xấu chưa? Bạn đã
bao giờ đi qua một con hươu xấu chưa? Điều ấy chưa bao
giờ xảy ra. Chúng chẳng bao giờ đi tới mĩ viện nào, và
chúng cũng chẳng tư vấn chuyên gia; chúng đơn giản chấp
nhận bản thân chúng và chúng đẹp trong chấp nhận của
chúng. Chính trong chấp nhận đó mà chúng tự phô bầy cái
đẹp.
Khoảnh khắc bạn chấp nhận bản thân mình bạn trở
thành đẹp. Khi bạn vui thích với thân thể của chính mình
bạn sẽ vui thích người khác nữa. Nhiều người sẽ yêu bạn
bởi vì bản thân bạn đang yêu chính mình. Bây giờ bạn giận
với chính mình; bạn biết rằng bạn xấu, bạn biết rằng bạn
kinh tởm, đáng ghét. Ý tưởng này sẽ đẩy mọi người ra xa; ý
tưởng này sẽ không giúp cho họ yêu bạn, nó sẽ làm cho họ
xa lánh bạn. Cho dù họ đang đến gần bạn hơn, khoảnh khắc
họ cảm thấy rung động của bạn, họ sẽ lảng ra xa. Chẳng
cần phải săn đuổi ai, việc săn đuổi chỉ nảy sinh bởi vì
chúng ta không yêu chính mình. Bằng không thì mọi người
đã tới... họ gần như không thể nào không yêu bạn được nếu
bạn đang yêu chính mình. Tại sao bao nhiêu người đến với
Phật, và tại sao bao nhiêu người đến với Saraha, và tại sao
bao nhiêu người đến với Jesus? Những người này đang
trong tình yêu với chính họ. Họ đã trong tình yêu lớn và họ
vui thích với bản thể họ đến mức tự nhiên bất kì ai đi qua
cũng đều bị kéo vào họ; giống như lực hút họ sẽ kéo lại. Họ
say mê với bản thể của chính họ, làm sao bạn có thể tránh
được say mê đó? Chỉ cần ở đấy là cũng đủ phúc lạc lớn lao
thế.
Mật tông dạy điều đầu tiên: Yêu lấy thân thể bạn, thân
thiết với thân thể bạn, tôn kính thân thể bạn, tôn trọng thân
thể bạn, chăm sóc thân thể bạn. Nó là món quà của Thượng
đế: đối xử tốt với nó và nó sẽ để lộ những bí ẩn lớn cho
bạn. Mọi trưởng thành đều phụ thuộc vào cách bạn quan hệ
với thân thể mình.
Và rồi điều thứ hai Mật tông nói tới là giác quan. Lần
nữa, các tôn giáo đều chống giác quan; họ cố làm cùn các
giác quan và tính nhạy cảm. Còn các giác quan là cửa ngõ
cảm nhận của bạn, các giác quan là cửa sổ mở vào thực tại.
Mắt bạn là gì? Tai bạn là gì? Mũi bạn là gì? Là cửa sổ mở
vào thực tại, cửa sổ mở vào Thượng đế. Nếu bạn nhìn
đúng, bạn sẽ thấy Thượng đế ở mọi nơi. Cho nên mắt
không được nhắm, mắt phải mở đúng; mắt phải không bị
phá huỷ. Tai phải không bị phá huỷ, bởi vì mọi âm thanh
đều thiêng liêng.
Những con chim này đang hót mật chú. Những cây này
đang cho các bài thuyết pháp trong im lặng. Mọi âm thanh
đều là của ngài, mọi hình dạng đều là của ngài. Cho nên
nếu bạn không có nhạy cảm trong mình, làm sao bạn biết
Thượng đế? Và bạn phải đi nhà thờ, đến đền đài để tìm
ngài... còn ngài ở mọi chỗ. Trong ngôi đền nhân tạo, trong
nhà thờ nhân tạo, bạn đi tìm thấy Thượng đế sao? Con
người dường như quá đần độn. Thượng đế ở mọi nơi, sống
động và khoẻ mạnh khắp nơi. Nhưng để có được điều đó
bạn cần giác quan sạch sẽ, giác quan được thuần khiết.
Cho nên Mật tông dạy rằng giác quan là cửa ngõ của
cảm nhận. Chúng đã bị mờ đục, bạn phải vứt bỏ mờ đục
đó; giác quan của bạn phải được lau sạch. Giác quan của
bạn giống như tấm gương đã trở nên mờ xỉn bởi vì biết bao
bụi bặm đã tụ đọng lên đó; cần phải lau sạch bụi đi.
Nhìn vào cách tiếp cận của Mật tông về mọi điều. Tôn
giáo khác nói: Làm cùn giác quan đi, giết việc nếm của
bạn! Còn Mật tông nói: Nếm trải Thượng đế theo mọi
hương vị. Tôn giáo khác nói: Giết chết khả năng sờ của
bạn. Còn Mật tông nói: Tuôn chảy toàn bộ trong việc sờ
của bạn, bởi vì bất kì cái gì bạn chạm tới đều thiêng liêng
cả. Điều này hoàn toàn ngược lại với cái gọi là các tôn
giáo, nó là cuộc cách mạng triệt để - từ tận gốc rễ.
Sờ, ngửi, nếm, nhìn, nghe toàn bộ nhất có thể được đi.
Bạn sẽ phải học ngôn ngữ này bởi vì xã hội đã lừa phỉnh
bạn, nó làm cho bạn quên mất. Mỗi đứa trẻ được sinh ra
đều có giác quan đẹp. Quan sát đứa trẻ... khi nó nhìn vào
cái gì đó, nó hoàn toàn bị cuốn hút theo vật đó, khi nó chơi
với đồ chơi, nó hoàn toàn bị cuốn hút theo đồ chơi. Khi nó
nhìn, nó trở thành chỉ còn đôi mắt. Nhìn vào đôi mắt đứa
trẻ ấy. Khi nó nghe, nó trở thành chỉ còn đôi tai. Khi nó ăn
cái gì đó, nó chỉ còn đó trên đầu lưỡi, nó trở thành việc
nếm. Xem đứa trẻ ăn táo - khoái trá làm sao! tràn đầy năng
lượng làm sao! thích thú làm sao! Nhìn đứa trẻ tung tăng
đuổi bướm trong vườn... cuốn hút đến độ cho dù Thượng
đế có đấy, ngài cũng không chạy được theo cách đó. Một
trạng thái thiền, mênh mông làm sao - chẳng phải cố gắng
gì. Nhìn đứa trẻ đi nhặt vỏ sò trên bãi biển cứ như là nó đi
nhặt kim cương. Mọi thứ đều quí giá khi các giác quan
sống động, mọi thứ đều rõ ràng khi giác quan sống động.
Về sau trong cuộc đời cũng đứa trẻ đó sẽ nhìn vào thực
tại dường như bị ẩn đằng sau tấm kính tối. Biết bao khói và
bụi đã tụ đọng lên tấm kính và bạn ẩn đằng sau nó rồi bạn
nhìn. Bởi điều này, mọi thứ trông xám xịt và chết. Bạn nhìn
vào cây và cây có vẻ xám xịt bởi vì mắt bạn chỉ thấy lờ mờ.
Bạn nghe bài hát, nhưng chẳng thấy quyến rũ trong đó bởi
vì tai bạn nghễnh ngãng. Bạn có thể nghe Saraha và bạn sẽ
không thể nào đánh giá cao được ông ấy, bởi vì trí thông
minh của bạn bị ù lì.
Giành lại ngôn ngữ bị lãng quên của bạn đi. Bất kì khi
nào bạn có thời gian, dành nhiều hơn cho giác quan của
bạn. Khi ăn, đừng chỉ ăn; cố học lại ngôn ngữ bị lãng quên
của vị giác - cố đi. Sờ vào bánh mì, cảm thấy đường viền
của nó; cảm thấy với đôi mắt mở, cảm thấy với đôi mắt
nhắm. Trong khi ăn, nhai nó - bạn đang nhai Thượng đế.
Nhớ điều đó! Nếu không nhai kĩ, nếu không nếm kĩ, đó sẽ
là không kính trọng. Để cho nó thành lời nguyện, và bạn sẽ
bắt đầu làm nảy sinh tâm thức mới trong bạn. Bạn sẽ học
được cách luyện kim đan của Mật tông.
Chạm nhiều vào mọi người. Chúng ta đã trở nên rất
nhạy cảm về việc chạm. Nếu ai đó đang nói về bạn và đến
quá gần, bạn bắt đầu lùi lại. Chúng ta bảo vệ lãnh thổ của
mình. Chúng ta không chạm và chúng ta cũng không cho
phép người khác được chạm; chúng ta không nắm tay,
chúng ta không ôm ghì. Chúng ta không tận hưởng con
người của nhau.
Đi đến cây, chạm vào cây. Chạm vào tảng đá. Đi ra
sông, để cho sông luồn qua tay bạn. Cảm lấy nó! Bơi, và
cảm thấy nước như cá cảm thấy nước. Đừng bỏ lỡ bất kì cơ
hội nào làm sống lại giác quan của bạn. Và có cả nghìn lẻ
một cơ hội trong cả ngày. Chẳng cần phải có thời gian tách
biệt cho nó. Cả ngày là huấn luyện trong nhạy cảm. Dùng
tất cả các cơ hội. Ngồi dưới vòi hoa sen, dùng cơ hội này -
cảm thấy cái chạm của từng giọt nước rơi lên bạn. Nằm dài
trên mặt đất, trần trụi, cảm thấy đất. Nằm trên bãi biển, cảm
thấy cát. Lắng nghe âm thanh của cát, lắng nghe âm thanh
của biển. Dùng mọi cơ hội; chỉ thế thì bạn mới có khả năng
học lại được ngôn ngữ của các giác quan. Và Mật tông
cũng chỉ có thể được hiểu khi thân thể bạn sống động và
giác quan bạn cảm lại được.
Giải phóng các giác quan của bạn khỏi thói quen. Thói
quen là một trong những nguyên nhân gốc rễ của trì trệ; tìm
ra các cách thức mới để làm mọi điều. Phát minh ra những
cách thức mới để yêu. Người ta chúa hay sợ...
Tôi đã từng nghe...
Bác sĩ nói với người đang làm việc rằng anh không thể
hoàn tất xét nghiệm nếu thiếu một mẫu nước tiểu. Một đứa
nhỏ được sai đem ống mẫu nước tiểu đi xét nghiệm nhưng
nó đã đánh đổ phần lớn mẫu này trong khi chạy lăng xăng.
Sợ bị ăn trận đòn nên thân, nó đổ đầy ắp ống đựng bằng
nước tiểu bò trên cánh đồng.
Bác sĩ vội vàng cho mời người nông dân tới. Người này
trở về nhà với vợ trong tâm trạng giận dữ và nói, “Tại em
và cái thói đồng bóng của em! Em bao giờ cũng trên hết,
phải không? Và bây giờ tôi sắp có một đứa bé!"
Mọi người thường có thói quen cố định. Nay cả khi làm
tình họ bao giờ cũng làm theo một tư thế - tư thế truyền
giáo. Tìm ra cách thức cảm giác mới đi. Mỗi kinh nghiệm
đều phải được tạo ra với sự nhạy cảm lớn. Khi bạn làm tình
với người đàn bà hay đàn ông, làm cho điều đó trở thành lễ
hội lớn, và mỗi lần lại đem đôi chút sáng tạo mới vào trong
nó. Đôi khi nhảy múa trước khi bạn làm tình, đôi khi cầu
nguyện trước khi làm tình, đôi khi chạy vào trong rừng, rồi
làm tình. Đôi khi đi bơi và rồi làm tình. Thế thì mỗi kinh
nghiệm yêu sẽ tạo ra ngày càng nhiều nhạy cảm trong bạn
và tình yêu sẽ chẳng bao giờ buồn tẻ và chán ngắt.
Tìm ra những cách thức mới để khám phá người khác,
đừng gắn cố định vào thói quen. Mọi thói quen đều phản
cuộc sống: thói quen chỉ phục vụ cho cái chết. Và bạn bao
giờ cũng có thể phát minh - không có giới hạn nào cho phát
minh cả. Đôi khi chỉ một thay đổi nhỏ bạn cũng đã cực kì
được lợi. Bạn bao giờ cũng ăn tại bàn - đôi khi nên đi ra bãi
cỏ, ngồi trên bãi cỏ và ăn ở đấy, và bạn sẽ rất đỗi ngạc
nhiên: đấy là một kinh nghiệm hoàn toàn khác. Mùi vị cỏ
tươi mới cắt, chim chóc nhảy nhót và hót xung quanh,
không khí trong lành và tia nắng mặt trời, và cảm thấy cỏ
ẩm bên dưới... đấy không thể cùng là kinh nghiệm như khi
bạn ngồi trên ghế và ăn trên bàn. Đấy là một kinh nghiệm
hoàn toàn khác, tất cả các hợp phần đều khác.
Đôi khi bạn cũng nên thử ăn và cởi trần, và bạn sẽ ngạc
nhiên. Chỉ một thay đổi nhỏ - chẳng có gì nhiều, bạn đang
ngồi trần trụi - nhưng bạn sẽ có một kinh nghiệm hoàn toàn
khác, bởi vì cái gì đó mới đã thêm vào đó. Nếu bạn vẫn ăn
bằng thìa và dĩa, đôi khi ăn bốc đi và bạn sẽ có một kinh
nghiệm khác; cái chạm sẽ đem hơi ấm mới cho thức ăn.
Thìa là vật chết; khi bạn ăn bằng thìa hay dĩa, bạn còn ở xa.
Đấy cũng là nỗi sợ chạm vào mọi thứ - ngay cả thức ăn
cũng không thể được chạm vào. Bạn sẽ lỡ mất hình khối
chúng, cái chạm, cái cảm giác về nó. Thức ăn có nhiều cảm
giác cũng như nó có hương vị.
Nhiều thực nghiệm đã được tiến hành ở phương Tây về
sự kiện là khi chúng ta đang thưởng thức thứ gì đó, có rất
nhiều thứ khác mà chúng ta không nhận biết cũng đang góp
phần cho kinh nghiệm đó. Chẳng hạn, nhắm mắt và bịt cả
mũi nữa rồi ăn hành. Bảo ai đó đưa hành cho bạn khi bạn
không biết người đó đưa gì - hành hay táo. Và bạn sẽ thấy
rất khó phân biệt nếu mũi đã hoàn toàn bị bịt kín, mắt thì
nhắm tịt, bị che đi. Bạn sẽ không thể nào xác định được đấy
là hành hay táo, bởi vì nếm không chỉ là nếm; năm mươi
phần trăm nếm đến từ mũi, và phần lớn thì đến từ mắt. Đấy
không chỉ là nếm, mọi giác quan đều có đóng góp vào. Khi
bạn ăn bốc, cái chạm của bạn cũng đóng góp vào. Nó sẽ
thêm vị, nó sẽ thêm nhân tính, thêm tự nhiên.
Tìm ra những cách thức mới trong mọi thứ. Để cho nó
là một trong những sadhanas của bạn. Mật tông nói: Nếu
bạn có thể cứ phát hiện ra những cách thức mới hàng ngày
cuộc đời bạn sẽ vẫn còn là xúc động, phiêu lưu. Bạn sẽ
không bao giờ chán. Người chán là người phi tôn giáo. Bạn
bao giờ cũng sẽ tò mò để biết, bạn bao giờ cũng ở ven bờ
tìm kiếm cái chưa biết, cái không quen thuộc. Mắt bạn sẽ
vẫn còn trong trẻo, các giác quan của bạn vẫn còn trong
trẻo, bởi vì khi bạn bao giờ cũng ven bờ tìm kiếm, thám
hiểm, phát hiện, dò tìm, bạn không thể trở thành trì trệ
được, bạn không thể trở thành ngu xuẩn được. Chẳng đứa
trẻ con nào ngu xuẩn cả; chỉ về sau mọi người mới trở nên
ngu xuẩn.
Các nhà tâm lí nói rằng đến bẩy tuổi ngu xuẩn bắt đầu
có. Nó bắt đầu quãng bốn tuổi nhưng đến năm thứ bẩy nó
mới rất, rất rõ ra. Trẻ con bắt đầu trở nên ngu ở bẩy tuổi.
Trong thực tế trẻ con học được năm mươi phần trăm của tất
cả những gì học được trong toàn bộ cuộc đời trước lúc nó
bẩy tuổi. Nếu nó sống bẩy mươi năm, trong sáu mươi ba
năm còn lại nó sẽ chỉ học được năm mươi phần trăm - năm
mươi phần trăm kia nó đã học rồi. Điều gì xảy ra? Nó trở
thành trì trệ, nó dừng việc học. Nếu bạn nghĩ dưới dạng
thông minh, đến bẩy tuổi đứa trẻ bắt đầu trở nên già.
Khoảnh khắc đứa trẻ nghĩ, "mình biết," nó đã bắt đầu trở
nên già. Về thể chất nó sẽ trở nên già muộn hơn - khoảng
từ độ tuổi ba lăm nó sẽ bắt đầu suy giảm - nhưng về mặt
tinh thần, nó đã trên đường suy giảm.
Bạn sẽ ngạc nhiên biết rằng tuổi tinh thần của bạn, tuổi
tinh thần trung bình, là mười hai tuổi. Mọi người không
trưởng thành bên ngoài tuổi đó, họ mắc kẹt ở đó. Đó là lí
do tại sao bạn thấy có nhiều tính trẻ con đến thế trên thế
giới. Cứ thử xúc phạm một người sáu mươi mà xem, trong
giây lát ông ta chỉ như đứa trẻ mười hai tuổi. Và ông ta sẽ
đối xử theo cách mà bạn không thể nào tin được rằng người
lớn như thế mà lại có thể đối xử theo cách trẻ con đến thế.
Mọi người bao giờ cũng sẵn sàng rút lui. Tuổi tinh thần của
họ chỉ hời hợt ngoài da, bị che giấu đằng sau; chỉ cạo sơ
qua một chút xíu là tuổi tinh thần của họ lòi ra ngay. Tuổi
thể chất của họ không quan trọng lắm. Người ta chết đi mà
vẫn còn trẻ con; họ chưa bao giờ trưởng thành.
Mật tông nói: Học cách thức mới khi làm mọi điều và
giải phóng tối đa bản thân bạn khỏi các thói quen. Và Mật
tông còn nói: Đừng bắt chước, bằng không các giác quan
của bạn sẽ bị cùn đi. Đừng bắt chước! Tìm ra cách thức làm
mọi điều theo cách riêng của bạn; đặt dấu ấn của bạn vào
mọi thứ bạn làm.
Mới đêm hôm nọ một cô sannyasin, vừa quay lại, đã
nói rằng tình yêu giữa cô ta và chồng cô ta đã biến mất.
Bây giờ họ bám vào nhau chỉ vì con cái. Tôi bảo cô ấy suy
tư, thân thiện với chồng đi. Nếu tình yêu đã biến mất, tất cả
mọi thứ không biến mất đâu; tình bạn vẫn là có thể - cứ
thân thiện đi. Còn cô ấy nói, "Khó lắm. Khi cái cốc đã vỡ
thì nó vỡ rồi còn đâu."
Tôi bảo cô ấy rằng dường như là cô ấy còn chưa nghe
chuyện thiền nhân ở Nhật bản hay mua cốc ở siêu thị, đem
về nhà và trước tiên đập vỡ nó ra, rồi dán nó lại để làm cho
nó có tính cá thể và đặc biệt - bằng không nó vẫn chỉ là thứ
đồ chợ. Và nếu một người bạn tới và bạn mời người đó
uống trà trong chiếc cốc và đĩa lót thông thường, như thế là
không tốt; như thế là xấu, như thế là không kính trọng. Cho
nên họ sẽ đem một chiếc cốc mới ra và đập vỡ nó. Tất
nhiên không có cái cốc nào nữa trên thế gian này hoàn toàn
giống nó, không thể có được. Được dán lại với nhau, bây
giờ nó có tính cá thể, có dấu ấn. Và khi thiền nhân đến nhà
nhau hay đến đạo tràng của nhau, họ sẽ không chỉ nhấm
nháp trà. Trước tiên họ sẽ đánh giá chiếc cốc, họ sẽ nhìn
vào nó. Cách thức nó được gắn với nhau là một tác phẩm
nghệ thuật - cách thức các mảnh đã bị vỡ ra và rồi được gắn
lại lần nữa.
Người đàn bà đã hiểu, cô ta bắt đầu cười. Cô ấy nói,
"Thế thì điều ấy là có thể."
Đem tính cá thể vào trong mọi điều đi, đừng chỉ là
người bắt chước. Bắt chước là làm lỡ cuộc đời.
Tôi đã từng nghe...
Mulla Nasruddin có một con vẹt rất động cỡn. Con vẹt
luôn nói những điều xuẩn ngốc, đặc biệt bất kì khi nào có
khách, và Mulla rất lo lắng; sự việc ngày càng khủng khiếp.
Cuối cùng ai đó gợi ý anh ta rằng anh ta nên đem nó tới bác
sĩ thú y. Thế là anh ta đem con vẹt tới nhà bác sĩ thú y. Bác
sĩ khám toàn diện con vẹt và nói, "Này, Nasruddin, anh có
một con vẹt động cỡn. Tôi có một con chim cái xinh xắn,
trẻ trung. Anh chỉ cần mất mười lăm rupi là con vẹt của anh
có thể sang lồng con chim tôi được."
Con vẹt của Mulla dỏng tai nghe trong lồng. Còn Mulla
thì nói, "Lạy trời, tôi không biết... những mười lăm rupi cơ
à?"
Con vẹt liền nói, "Làm đi, làm đi, Nasruddin. Đồ chết
tiệt!"
Cuối cùng Mulla nói, "Thôi được," và trao cho bác sĩ
thú y mười lăm rupi. Bác sĩ lấy con vẹt ra, cho nó vào trong
lồng cùng với con chim cái và khép rèm lại. Hai người ra
ngoài ngồi nói chuyện. Có một thoáng chốc im lặng rồi
bỗng nhiên, "Quạ! Quạ! Quạ" Lông chim bay tung toé ra
khỏi bức màn.
Bác sĩ thú y nói, "Cứ thế được đấy!" rồi chạy lại mở
màn ra. Con chim đực đã đè con chim cái xuống bằng một
chân - còn chân kia thì đang dứt lông con chim cái ra và
kêu lên thích thú, "Với mười lăm rupi mà tao muốn mày
trần như nhộng, trần truồng!" Rồi thấy bác sĩ thú y và ông
chủ của nó, Mulla Nasruddin, nó thích thú the thé lên và
nói, "Này Nasruddin, đấy chẳng phải là cách ông cũng
thích người đàn bà của ông sao?"
Ngay cả vẹt cũng học được cách thức của con người,
cũng có thể trở thành kẻ bắt chước, cũng có thể trở thành
kẻ dễ bị kích thích thần kinh. Bắt chước là dễ bị kích thích
thần kinh. Cách duy nhất để lành mạnh trên thế giới này là
trở thành cá nhân, cá nhân chân chính. Là bản thể riêng của
bạn đi.
Điều thứ ba Mật tông nói là: Trước hết, thân thể phải
được làm thuần khiết khỏi mọi kìm nén. Thứ hai, các giác
quan phải được làm sống động trở lại. Thứ ba, tâm trí phải
vứt bỏ suy nghĩ kích thích thần kinh, suy nghĩ ám ảnh, và
phải học cách im lặng. Bất kì khi nào có thể được, thảnh
thơi đi. Bất kì khi nào có thể được, gạt tâm trí sang bên.
Bây giờ bạn sẽ nói, "Nói thì dễ nhưng làm sao mà gạt
được tâm trí sang bên? Nó cứ tiếp tục hoài." Có cách đấy.
Mật tông nói: Quan sát ba nhận biết này. Nhận biết một:
Quan sát. Cứ để tâm trí chạy, cứ để tâm trí chất đầy với
những ý nghĩ - bạn chỉ quan sát, tách rời. Chẳng cần phải lo
lắng về nó, chỉ quan sát. Chỉ là người quan sát, và dần dần
bạn sẽ thấy rằng lỗ hổng im lặng bắt đầu tới với bạn. Thế
rồi nhận biết hai: Khi bạn đã trở nên nhận biết rằng lỗ hổng
đó bắt đầu tới, trở nên nhận biết về người quan sát. Bây giờ
quan sát người quan sát và thế thì những lỗ hổng mới sẽ bắt
đầu tới - người quan sát sẽ bắt đầu tan biến, giống hệt như
ý nghĩ. Một ngày nào đó người nghĩ cũng bắt đầu tan biến
đi; thế thì cái im lặng thực sự nảy sinh. Với nhận biết ba, cả
đối thể và chủ thể đều ra đi; bạn đã đi vào cõi bên kia.
Khi ba điều này được đạt tới - thân thể được thuần
khiết khỏi các kìm nén, giác quan được thoát khỏi u ám,
tâm trí được giải phóng khỏi suy nghĩ ám ảnh - tầm nhìn
mới nảy sinh trong bạn, tự do với mọi ảo tưởng. Đấy là tầm
nhìn của Mật tông.
Bây giờ đến lời kinh.
Tâm trí, trí năng và những nội dung đã hình thành của
tâm trí đó đều là Cái đó, cho nên chúng cũng là thế giới
và tất cả dường như chỉ khác biệt từ Cái đó, mọi thứ
đều có thể được cảm thấy và người cảm nhận, cùng trì
trệ, ác cảm, ham muốn và chứng ngộ.
Khi bạn đã tới trạng thái im lặng lúc mà cả người quan
sát và cái được quan sát đã tan biến đi, bạn sẽ đi tới biết
điều lời kinh này ngụ ý gì:
Tâm trí, trí năng và những nội dung đã hình thành của
tâm trí đó đều là Cái đó...
Sự tồn tại là một, nó tất cả là một đơn vị. Không có hai
điều trong sự tồn tại - nó là cái một, nó là một đại dương.
Mọi phân chia có đó bởi vì chúng ta bị phân chia từ bên
trong; cái bên trong phân chia của chúng ta được phóng
chiếu ra bên ngoài, và mọi vật đều có vẻ bị phân chia. Khi
thân thể thuần khiết, các giác quan mở và tâm trí im lặng,
phân chia bên trong biến mất; bên trong có không gian
thuần khiết. Khi có không gian thuần khiết bên trong, bạn
trở nên có khả năng biết rằng bên ngoài cũng là cùng một
không gian thuần khiết. Chính là cùng một bầu trời cho cả
bên trong và bên ngoài. Trong thực tế không có 'ngoài' và
không có 'trong' nữa, nó tất cả là một.
Tâm trí, trí năng và những nội dung đã hình thành của
tâm trí đó đều là Cái đó... Bây giờ bạn sẽ nhận ra rằng ngay
cả ý nghĩ cũng không phải là kẻ thù, ngay cả ham muốn
cũng không phải là kẻ thù. Chúng cũng đều là những dạng
của cùng điều thiêng liêng, của cùng một sự tồn tại. Bây
giờ bạn sẽ nhận ra rằng niết bàn và luân hồi không phải là
hai. Bây giờ bạn sẽ có tiếng cười rất, rất sâu sắc, khi nhận
ra rằng chẳng có gì khác biệt giữa tù túng và chứng ngộ;
rằng hiểu biết và dốt nát chẳng khác gì nhau, bởi vì phân
chia là không thể được; rằng giữa vị phật và người chưa
chứng ngộ không có khác biệt.
Nhưng điều này chỉ vị phật mới biết. Với người chưa
chứng ngộ có khác biệt rất lớn. Vị phật không thể suy nghĩ
bởi vì qua suy nghĩ bao giờ cũng có phân chia; qua vô suy
nghĩ phân chia biến mất.
cho nên nó cũng là thế giới và tất cả dường như chỉ
khác biệt từ Cái đó, mọi thứ đều có thể được cảm thấy
và người cảm nhận, cũng trì trệ, ác cảm, ham muốn và
chứng ngộ.
Tất cả đều là Cái đó. Đây là Cái đó! Cái toàn bộ này là
cái Mật tông gọi là Cái đó.
Bây giờ Saraha đang nói với nhà vua: Xin bệ hạ đừng
lo nghĩ. Dù trong cung điện hay trên mảnh đất hoả táng, dù
được biết tới như một brahmin có học hỏi hay được biết tới
như chó điên, cũng chẳng thành vấn đề: Nó là Cái đó. Tôi
đã đi tới kinh nghiệm không phân chia được ấy, nơi người
cảm nhận và vật được cảm nhận đều là một, nơi người quan
sát và vật được quan sát là một. Tôi đã tới nơi. Bây giờ tôi
có thể thấy rằng phân chia đó về cái tốt và cái xấu, về tội
nhân và thánh nhân, đều vô nghĩa. Chẳng có gì khác biệt
giữa tội lỗi và thánh thiện cả.
Đấy là lí do tại sao tôi gọi Mật tông là thái độ nổi dậy
vĩ đại nhất trong toàn bộ lịch sử tâm thức con người.
Saraha đang nói: Tâu bệ hạ, với bệ hạ phân chia tồn tại.
Đây là mảnh đất hoả táng và nơi hoàng thượng sống là
cung điện. Đối với tôi không có phân chia. Trên mảnh đất
hoả táng này đã từng có biết bao cung điện trong quá khứ
nay đã biến mất, và cung điện của bệ hạ chẳng chóng thì
chầy cũng sẽ trở thành mảnh đất hoả táng. Nhưng xin bệ hạ
chớ lo nghĩ, đấy chỉ là vấn đề thời gian. Và nếu bệ hạ có
thể thấy, chẳng có gì khác biệt cả. Chính là vẫn cùng một
thực tại, ở đâu đó trở thành thánh nhân và ở đâu đó trở
thành tội nhân; đấy chính là cùng Cái đó.
Giống như ngọn đèn chiếu sáng trong bóng tối
của dốt nát tâm linh, nó vứt bỏ sự mờ tối của tâm
trí khi đạt tới việc phân đoạn trí năng. Ai có thể
tưởng tượng bản thân vô ham muốn?
Giống như ngọn đèn... Saraha nói: bây giờ, nhận biết ba
được sinh ra trong tôi. Nó giống như ngọn đèn chiếu sáng
trong bóng tối của dốt nát tâm linh. Bây giờ lần đầu tiên tôi
có thể thấy rằng vật chất và tâm trí là một, rằng ngoài và
trong là một, rằng thân thể và linh hồn là một, rằng thế giới
này và thế giới kia là một, rằng điều này cũng chứa cả điều
kia nữa. Vì ánh sáng này đã xảy ra cho tôi, Saraha nói, từ
giờ không có vấn đề gì. Bất kì cái gì hiện hữu, đều tốt cả.
Giống như ngọn đèn chiếu sáng trong bóng tối của
dốt nát tâm linh, nó vứt bỏ sự mờ tối của tâm trí
Mọi mờ tối của tôi, mọi trở lực của tôi - mọi thứ ngăn
cản tầm nhìn của tôi - đều bị vứt bỏ hết. Tôi có thể thấy
thực tại một cách trực tiếp. Không còn kìm nén nữa, năng
lượng của tôi đang trong một dòng chảy. Tôi không chống
thân thể mình, tôi không thù địch với thân thể mình, tôi là
một với thân thể. Phân chia bị vứt bỏ. Các giác quan tôi tất
cả đều mở và làm việc ở mức tối đa. Tâm trí tôi im lặng,
không có suy nghĩ ám ảnh. Khi tôi cần tôi nghĩ, còn khi tôi
không cần tôi không nghĩ. Tôi là chủ của ngôi nhà mình.
Ánh sáng được sinh ra trong tôi, và với ánh sáng đó, mọi
mờ tối đều biến mất. Bây giờ chẳng còn gì ngăn cản tôi,
tầm nhìn của tôi là toàn bộ. Bức tường bao quanh tôi đã
biến mất.
Bức tường đó bao gồm ba thứ: kìm nén trong thân thể,
bụi trong giác quan, và ý nghĩ trong tâm trí. Đấy là ba viên
gạch mà bức Trường Thành Trung Quốc bao quanh bạn đã
được dựng nên. Vứt bỏ những viên gạch đó và bức tường
biến mất. Và khi bức tường đã mất đi, bạn đi tới biết cái
Một.
... khi đạt tới việc phân đoạn trí năng.
Ai có thể tưởng tượng bản thân vô ham muốn?
Và thưa bệ hạ, bệ hạ đã tới hỏi tôi kinh nghiệm của tôi
là gì? Thật khó để bệ hạ hình dung nổi. Thật khó cho tôi để
nói ra, mà cũng khó cho bệ hạ hiểu được. Nhưng tôi có thể
chỉ cho bệ hạ con đường để bệ hạ cũng kinh nghiệm được
điều đó - đó là con đường duy nhất. Khi bệ hạ đã nếm trải
nó, chỉ thế thì bệ hạ mới biết.
Không có gì bị phủ định,
không có gì được khẳng định hay hiểu thấu;
vì Cái đó chẳng bao giờ quan niệm được.
Bằng cách phân đoạn trí năng sự lừa dối bị cùm ;
không phân chia và thuần khiết vẫn còn tự nhiên.
Saraha nói: Tôi không thể nói Cái đó không có, tôi
không thể nói Cái đó có. Tôi không thể phủ định Cái đó, tôi
không thể thừa nhận Cái đó. Tôi không thể dùng không, tôi
cũng không thể dùng có, bởi vì cả hai đều thiếu sót. Cái đó
lớn hơn cả hai - Cái đó hàm chứa cả hai, và quả là Cái đó
còn hơn thế, nó siêu việt trên cả hai. Những người nói có
Thượng đế, đã hạ thấp Thượng đế - họ đã lôi Thượng đế
xuống. Những người nói không có Thượng đế, chắc chắn
họ chẳng hiểu chút nào. Cả hai loại người này đều như
nhau: một phủ định và một khẳng định.
Khẳng định và phủ định đều thuộc về cùng tâm trí,
cùng tâm trí suy nghĩ. Có và không cả hai đều là bộ phận
của ngôn ngữ, của ý nghĩ. Saraha nói: Tôi không thể nói có
Thượng đế, tôi không thể nói không có Thượng đế. Tôi chỉ
có thể chỉ ra cho bệ hạ con đường... Cái đó ở đâu, Cái đó là
gì, Cái đó như thế nào. Bệ hạ có thể kinh nghiệm Cái đó.
Bệ hạ có thể mở con mắt của riêng mình và thấy Cái đó.
Ngày xưa chuyện xảy ra là một người mù được đưa tới
gặp Phật. Và người mù này không phải là người mù
thường, ông ta là một hàn lâm viện sĩ lớn, ông ta là một học
giả lớn, rất giỏi tranh biện. Ông ta bắt đầu tranh luận với
Phật. Ông ta nói, "Mọi người nói ánh sáng tồn tại còn tôi
nói không. Họ nói tôi mù còn tôi nói họ bị lừa. Nếu ánh
sáng tồn tại thì thưa ông, xin ông làm cho nó thành có sẵn
đối với tôi để cho tôi có thể sờ vào nó. Nếu tôi có thể sờ
được vào nó hay ít nhất thì nếu tôi có thể nếm được nó hay
tôi có thể ngửi được nó, hay nếu ông có thể đánh ánh sáng
kêu như cái trống để cho tôi có thể nghe được nó... Đấy là
bốn giác quan của tôi, và giác quan thứ năm mọi người nói
tới chỉ là tưởng tượng. Mọi người bị lừa, chẳng ai có mắt
cả."
Thật rất khó mà thuyết phục người này rằng ánh sáng là
tồn tại, bởi vì ánh sáng không thể được sờ, không thể được
nếm, không thể được ngửi, không thể được nghe. Còn
người này cứ nhất mực nói rằng mọi người khác đều bị lừa
cả. "Họ dứt khoát không có mắt." Ông ta là người mù,
nhưng là một nhà logic lớn. Ông ta nói, "Hãy chứng minh
rằng họ có mắt đi. Ông có chứng minh gì?"
Phật nói, "Ta sẽ chẳng nói gì cả, nhưng ta biết một ông
lang và ta sẽ gửi ông tới ông lang đó. Ta biết ông ta có thể
chữa được mắt cho ông."
Nhưng người đàn ông này cứ khăng khăng, "Tôi phải
đến tranh luận về điều đó!"
Còn Phật thì nói, "Đây là luận cứ của ta: Tới ông lang
đi."
Người đó được chuyển tới ông lang; mắt ông ấy được
chữa khỏi, trong vòng sáu tháng ông ấy đã có thể thấy
được. Ông ta không thể tin được điều đó; ông ta quá đỗi
cực lạc, ông ta đến nhảy múa với Phật. Ông ta phát điên.
Ông ta cảm thấy bước chân Phật và nói, "Luận cứ của ông
có tác dụng lắm."
Phật nói, "Nghe đây, đấy không phải là luận cứ. Nếu ta
tranh luận, ta sẽ thua, bởi vì có những điều không thể tranh
luận được mà chỉ có thể kinh nghiệm được."
Thượng đế không phải là luận cứ, không phải là suy
luận. Niết bàn không phải là luận cứ, nó không phải là kết
luận; nó chỉ là kinh nghiệm. Chừng nào bạn chưa kinh
nghiệm nó, chẳng có cách nào để hiểu được nó - nó là gì.
Nếu bạn không kinh nghiệm nó, nó chỉ là điều vô lí, vô
nghĩa.
Không có gì bị phủ định,
không có gì được khẳng định hay hiểu thấu;
vì Cái đó chẳng bao giờ quan niệm được.
Trong thực tế chẳng có gì để hiểu thấu và chẳng ai hiểu
thấu được Cái đó; chẳng có gì để quan niệm và chẳng ai
quan niệm về Cái đó. Đối thể và chủ thể cả hai đều biến
mất trong Cái đó. Người biết và cái được biết cả hai đều
biến mất trong Cái đó. Thế thì đấy là việc kinh nghiệm về
cái toàn bộ, về cái Một, về Cái đó.
Bằng cách phân đoạn trí năng sự lừa dối bị cùm ;
không phân chia và thuần khiết vẫn còn tự nhiên.
Saraha nói với nhà vua: Tâu bệ hạ, mọi người đều bị
định kiến về thực tại. Họ có ý tưởng về thực tại, còn thực
tại không phải là ý tưởng. Thượng đế không phải là ý
tưởng. Thượng đế không phải là ngôn từ thượng đế; đấy
không phải là lí thuyết, đấy không phải là giả thuyết. Đấy
là nếm trải thực tại, đấy là kinh nghiệm cực điểm với cái
toàn bộ.
Mọi người bị giam cầm bởi tâm trí mình. Họ có những
ý tưởng, thái độ nào đó, những triết lí cố định; họ nhìn qua
những triết lí đó. Đó là lí do tại sao họ nói Saraha đã phát
điên. Họ có ý tưởng nào đó về việc lành mạnh phải như thế
nào, phải lành mạnh ra sao. Đó là lí do tại sao họ nghĩ
Saraha đã phát điên: họ nhìn qua những định kiến nào đó.
...không phân chia và thuần khiết vẫn còn tự phát.
Nhưng tự phát là không phân chia và là thuần khiết; nó
là hồn nhiên nguyên thuỷ. Xin hãy nhìn vào tôi đây, Saraha
nói. Xin hãy nhìn vào tự phát của tôi. Xin đừng nghĩ về
những điều mọi người nói, đừng nghĩ qua những định kiến
tốt và xấu nào đó, đức hạnh và tội lỗi, phải và trái. Chỉ nhìn
vào tôi thôi! Tôi đang ở đây, Cái đó đang ở đây. Tôi đang
sẵn có; xin bệ hạ hãy có kinh nghiệm sâu sắc về sự hiện
diện của tôi.
Nếu bạn có thể cảm thấy tự phát, hồn nhiên, thuần
khiết, chỉ điều đó mới giúp cho bạn đi vào bên trong trên
hành trình của Mật tông.
Nếu bạn hỏi điều tối thượng
với định đề về cái nhiều và cái một
thì tính một không được nêu ra
vì bằng cách siêu việt lên tri thức loài hữu tình được tự
do.
Sự toả chiếu có hiệu lực tiềm tàng trong trí năng,
và điều này được thể hiện thành thiền;
Tâm trí kiên định là bản chất đúng đắn của chúng ta.
Nếu bạn hỏi điều tối thượng với định đề về cái nhiều và
cái một thì tính một không được nêu ra. Nếu bạn hỏi, bạn
lỡ; thực tại không thể được biến thành câu hỏi. Vâng, nó có
thể biến thành cuộc truy tìm, nhưng không biến thành câu
hỏi.
Và không ai có thể trả lời được, chỉ có bạn mới có thể
kinh nghiệm. Đó là lí do tại sao tôi nói nó có thể là cuộc
truy tìm nhưng nó không bao giờ có thể được biến thành
câu hỏi. Câu hỏi là điều có thể được trả lời. Cuộc truy tìm
là điều chỉ có thể được kinh nghiệm. Chỉ khi bạn đạt tới
việc làm, bạn mới đạt tới, không có cách nào khác. Không
có cách thức vay mượn. Mọi tri thức đều là vay mượn.
Do đó Saraha nói:
...vì bằng cách vượt lên tri thức loài hữu tình được tự
do.
Người ta phải được giải phóng khỏi tri thức.
Tri thức không giải phóng bạn; nó là tù túng sâu sắc
nhất, tinh vi nhất của bạn. Qua tri thức bạn không sẵn có
cho thực tại. Vứt mọi tri thức đi. Vứt mọi tri thức, việc biết
trở thành thuần khiết, thế thì bạn không còn bị vẩn đục nữa.
Không biết tới bất kì cái gì được vay mượn, thuần khiết của
bạn còn nguyên vẹn; thế thì tấm gương của bạn không bị
bụi bặm phủ lên. Thế thì bạn bắt đầu phản xạ. Thế thì thực
tại được phản xạ như nó vẫn thế. Đừng bao giờ đi cùng tri
thức, bằng không bạn sẽ không di chuyển được. Đừng bao
giờ tin vào kinh nghiệm vay mượn.
Cái gì đó đã xảy ra cho Phật, nhưng cái đó không phải
là kinh nghiệm của bạn. Cái gì đó đã xảy ra cho Christ,
nhưng cái đó không phải là kinh nghiệm của bạn. Cái gì đó
đã xảy ra cho tôi, nhưng cái đó không phải là kinh nghiệm
của bạn. Điều tôi nói là ở chỗ, nếu bạn tích trữ nó, nó sẽ trở
thành tri thức. Chớ có tích trữ nó trong kí ức bạn. Tích trữ
tri thức trong kí ức chỉ làm nặng gánh cho bạn; đấy không
phải là giải thoát.
...vì bằng cách siêu việt lên tri thức loài hữu tình được
tự do.
Sự toả chiếu có hiệu lực tiềm tàng trong trí năng...
Và bạn có quyền năng đó, cái có thể nở hoa trong niết
bàn, cái có thể trở thành chứng ngộ. Từng trí năng đều
không là gì cả nhưng thông minh ẩn bên dưới nó. Nếu bạn
tin vào trí năng mình quá nhiều, bạn sẽ lỡ mất thông minh
của mình. Bây giờ hai từ này cần phải được hiểu rõ; chúng
bắt nguồn từ cùng nguồn gốc nhưng nghĩa của chúng khác
nhau. Không nhất thiết là nhà trí thức phải thông minh.
Không nhất thiết là người thông minh phải là nhà trí thức.
Bạn có thể tìm thấy những người không trí thức nhưng cực
kì thông minh.
Christ không phải là nhà trí thức, Kabir không phải là
nhà trí thức, Meera không phải là nhà trí thức, nhưng họ là
những người cực kì thông minh. Trí năng là cái thay thế giả
tạo cho thông minh. Trí năng được vay mượn, thông minh
là của bạn. Thông minh là khả năng thuần khiết của bạn để
thấy, thông minh là khả năng hồn nhiên của bạn để hiểu.
Trí năng là tri thức vay mượn; trí năng là đồng tiền giả, sự
giả mạo.
Bạn thu thập thông tin từ mọi nơi, bạn thu thập nhiều
tri thức, và bạn trở nên hiểu biết. Nhưng thông minh của
bạn lại không phát triển, thông minh của bạn không thực sự
bùng nổ. Trong thực tế bởi vì nỗ lực trí năng này mà thông
minh của bạn sẽ còn bị nặng gánh; tri thức sẽ tụ lại tựa như
bụi bặm trên chiếc gương. Trí năng là bụi bặm. Thông
minh là phẩm chất thuần khiết của gương để phản xạ.
Saraha nói: Sự toả chiếu có hiệu lực tiềm tàng trong trí
năng... trong mỗi trí năng đều có thông minh tiềm năng;
bạn chớ có chất quá nặng nó với những tri thức vay mượn...
và điều này được thể hiện thành thiền. Nếu bạn không chất
nặng nó bằng tri thức thì thông minh của bạn trở thành
thiền của bạn. Định nghĩa lớn về thiền: Thông minh là
thiền. Sống cách thông minh là sống theo thiền. Định nghĩa
này mang ý nghĩa vô cùng lớn lao; nó thực sự thai nghén ý
nghĩa vĩ đại. Và sống cách thông minh chính là điều thiền
là gì. Thiền không thể được 'thực hiện' theo cách nào đó.
Bạn phải đem thông minh vào cuộc sống của mình.
Hôm qua bạn vừa giận dữ, bạn đã giận dữ hôm kia.
Bây giờ lần nữa tình huống tới và bạn sắp sửa nổi giận -
bạn định làm gì đây? Bạn có định lặp lại nó theo cách
không thông minh, theo cách máy móc, hay bạn sẽ đem
thông minh vào cho nó? Bạn đã giận dữ cả nghìn lẻ một lần
rồi - bạn không thể học được điều gì từ nó sao? Bạn không
thể ứng xử cách thông minh bây giờ sao? Bạn không thể
thấy được cái vô tích sự của nó sao? Bạn không thể thấy
rằng mọi lần bạn đều bị thất vọng bởi nó sao? Mỗi lần giận
dữ lại làm tiêu phí năng lượng, phân tán năng lượng của
bạn, tạo ra vấn đề cho bạn mà chẳng giải quyết được gì.
Nếu bạn nhìn vào nó, chính trong việc nhìn đó là thông
minh. Thế thì ai đó xúc phạm bạn và không có giận dữ.
Trong thực tế, thay vì giận dữ lại có từ bi với người này.
Người đó giận dữ, người đó bị tổn thương, người đó đau
khổ. Từ bi sẽ nảy sinh. Bây giờ thông minh này là thiền:
nhìn vào cuộc sống của mình, học từ kinh nghiệm, học từ
kinh nghiệm tồn tại, tiếp tục học, không vay mượn.
Phật nói giận dữ là xấu. Bây giờ nhìn vào khác biệt đi:
nếu bạn là phật tử bạn sẽ tin ông ấy. Phật nói giận dữ là
xấu, vậy giận dữ phải là xấu rồi; làm sao mà Phật sai được?
Bây giờ bất kì khi nào cơn giận dữ nảy sinh bạn sẽ kìm nén
nó bởi vì Phật nói rằng giận dữ là sai. Điều này đang vận
hành qua tri thức, vận hành qua trí năng. Nhưng ngu làm
sao! Bạn đã từng giận dữ biết bao nhiêu lần rồi - có cần gì
hỏi Phật xem liệu giận dữ có là sai không? Bản thân bạn
không thể tự nhìn vào kinh nghiệm của riêng mình được
sao?
Nếu bạn nhìn vào kinh nghiệm của riêng mình, bạn biết
giận dữ nghĩa là gì. Và với việc nhìn vào đó mà bạn được
tự do với giận dữ. Đây là thông minh. Từ thông minh của
mình, bạn sẽ trở thành nhân chứng cho Phật; bạn sẽ nói,
"Vâng, Phật là phải. Kinh nghiệm của tôi chứng minh điều
đó." Không phải là điều ngược lại. Không phải: "Phật là
đúng nên tôi phải kinh nghiệm điều đó" - điều đó là ngu
xuẩn. Nhưng đúng hơn, nếu từ kinh nghiệm của tôi, tôi trở
thành nhân chứng cho Phật, thế thì tôi có thể nói, "Vâng,
ông ấy phải đấy, bởi vì đây cũng là kinh nghiệm của tôi
nữa. Nhưng ông ấy là thứ yếu; kinh nghiệm của tôi đến
trước, nó là chủ yếu. Tôi là nhân chứng cho ông ấy, không
phải là người đi theo."
Bạn là sannyasin của tôi ở đây, xin trở thành nhân
chứng của tôi, đừng làm người theo tôi. Xin để những điều
tôi đang nói được chứng minh qua kinh nghiệm của bạn.
Thế thì bạn đã ở cùng tôi, thế thì bạn đã yêu tôi. Thế thì
bạn đã sống với tôi. Nếu bạn đơn giản tích trữ những điều
tôi nói và bạn trở thành các nhà lí thuyết lớn về điều đó,
bạn học triết lí về nó, thế thì bạn đã lỡ rồi. Thế thì bạn sẽ
trở thành nhà trí thức. Và trở thành nhà trí thức là tự tử
chừng nào có liên quan tới thông minh.
Xin chớ trở thành nhà trí thức. Đồng tiền thật có sẵn;
tại sao bạn cứ khao khát đồ giả? Cuộc sống có sẵn cho bạn
phong phú như nó có sẵn cho Phật, như nó có sẵn cho tôi;
tại sao không học qua nó?
Trở nên thông minh là mang tính thiền. Vâng, đây là
trong những định nghĩa vĩ đại nhất về thiền mà tôi đã bắt
gặp. Và tôi là nhân chứng cho nó. Đó là cách người ta tiến
hoá về tâm linh.
Sự toả chiếu có hiệu lực tiềm tàng trong trí năng,
và điều này được thể hiện thành thiền;
Tâm trí kiên định là bản chất đúng đắn của chúng ta.
Và bạn càng trở nên thông minh hơn, bạn càng thấy
tâm trí mình không còn là tâm trí cũ nữa.
Mật tông dùng từ 'tâm trí' với hai nghĩa: tâm trí với chữ
t nhỏ - tức là tâm trí của bạn. Còn Tâm trí với chữ T hoa,
lớn - đó là Tâm trí tinh tuý, Tâm trí Phật.
Tâm trí nhỏ bé này bao hàm trong tri thức, trong biên
giới, trong định kiến - tâm trí mà chúng ta gọi là Hindu,
tâm trí mà chúng ta gọi là Hồi giáo, tâm trí mà chúng ta gọi
là Do Thái giáo, Ki tô giáo; tâm trí đó, tâm trí nhỏ bé, tí
hon, tâm trí đã được vun bồi bởi các trường cao đẳng và đại
học; tâm trí đó, tâm trí nhỏ bé đó, tâm trí mà đã được xã hội
lập chương trình - tâm trí đó Mật tông gọi là tâm trí nhỏ bé.
Khi những rào chắn bị phá vỡ, khi những tăm tối đó bị
vứt bỏ, bạn đạt tới Tâm trí vĩ đại, Tâm trí Phật - Tâm trí với
chữ T hoa. Nó cũng lớn như bản thân vũ trụ. Nó là vũ trụ...
Tâm trí kiên định là bản chất đúng đắn của chúng ta. Và đó
là tâm trí, chính là tinh tuý thực sự của chúng ta. Gọi nó là
Thượng đế, gọi nó là niết bàn, hay bất cứ cái gì bạn thích,
nhưng đây là tinh tuý của chúng ta: đi tới trạng thái nghỉ
tuyệt đối - kiên định, không dao động; đi tới trạng thái của
vĩnh hằng nơi thời gian đã biến mất, nơi mọi phân chia đã
biến mất, nơi chủ thể và đối thể không còn nữa, nơi người
biết và cái được biết không còn nữa, nơi chỉ có nhận biết
thuần khiết - nhận biết ba.
Nhưng bạn không nên bị nhồi nhét bởi những lời kinh
này, bằng không bạn sẽ phản bội Saraha, bạn sẽ phản bội
tôi. Những lời kinh này chỉ nên được thiền và rồi quên đi.
Thế thì dù bất kì thông minh nào nảy sinh trong bạn khi
thiền về những lời kinh này, dùng nó trong cuộc sống đi.
Khoảnh khắc nọ sang khoảnh khắc kia để cho thông minh
đó được mài sắc bén thêm mãi qua bao nhiêu kinh nghiệm.
Và thông minh đó sẽ trở thành cánh cửa tới điều thiêng
liêng. Thông minh đó là cánh cửa.
Đủ cho hôm nay.
************************************************************
#8 Yêu không tạo hình bóng
Khi thầy nói về thông minh và thiền, có nhiều ẩn ý
bên trong. Xin thầy nói kĩ thêm!
Phục vụ mọi người theo bổn phận có phải là điều
không tốt không?
Tại sao ghen tuông bao giờ cũng theo sau tình yêu?
Kìm nén là gì?
Tại sao tôi lấy người đàn bà ghét tôi?
#8Câu hỏi thứ nhất:
Osho kính yêu, hôm qua khi thầy nói về thông
minh trở thành thiền, có luồng chẩy lớn bên
trong. Tôi cảm thấy dường như trái tim tôi sắp
nổ tung. Dường như thầy đã nói điều gì đó tôi
đang nóng lòng chờ nghe. Xin thầy nói kĩ hơn.
Câu hỏi này là từ Krishna Prem. Thông minh là bản
chất cố hữu của cuộc sống. Thông minh là phẩm chất tự
nhiên của cuộc sống. Giống như lửa nóng và không khí
không thấy được còn nước chảy xuống, thông minh cuộc
sống cũng vậy.
Thông minh không phải là thành tựu; bạn thông minh
từ khi được sinh ra. Cây cối thông minh theo cách riêng của
chúng, chúng có đủ thông minh cho cuộc đời riêng của
chúng. Chim chóc thông minh, các loài vật cũng vậy.
Trong thực tế điều các tôn giáo ngụ ý về Thượng đế chỉ là
thế này: vũ trụ thông minh, có thông minh ẩn trong mọi
nơi, và nếu bạn có mắt để nhìn, bạn có thể thấy điều đó ở
mọi nơi.
Cuộc sống là thông minh. Chỉ con người mới trở nên
không thông minh. Con người làm hỏng dòng chảy tự
nhiên của cuộc sống. Ngoại trừ trong con người, không có
không thông minh. Bạn đã bao giờ nhìn thấy một con chim
bạn gọi là ngu si chưa? Bạn đã bao giờ nhìn thấy một con
vật bạn có thể gọi là xuẩn ngốc không? Không, những điều
như thế chỉ xảy ra cho con người thôi. Cái gì đó đã sai rồi.
Thông minh của con người đã bị làm hỏng, bị biến chất, đã
bị làm què quặt. Và thiền không là gì khác hơn việc hoàn
tác hỏng hóc đó.
Thiền sẽ chẳng cần chút nào nếu con người bị bỏ lại
đơn độc. Nếu tu sĩ và chính khách không can thiệp vào
thông minh của con người, sẽ không có nhu cầu thiền.
Thiền là thuốc. Trước tiên bạn phải tạo ra bệnh tật, rồi thiền
mới được cần tới. Nếu bệnh không có đó, thiền cũng chẳng
được cần tới. Và không phải ngẫu nhiên mà các từ 'thuốc'
và 'thiền' có cùng gốc. Đó là thuốc.
Mỗi đứa trẻ sinh ra đều thông minh. Và khoảnh khắc
đứa trẻ được sinh ra chúng ta liền chộp lấy nó và bắt đầu
phá huỷ thông minh của nó, bởi vì thông minh là nguy
hiểm cho cấu trúc chính trị, cho cấu trúc xã hội, cho cấu
trúc tôn giáo. Nó là nguy hiểm cho giáo hoàng, nó là nguy
hiểm cho shankaracharya của Puri, nó là nguy hiểm cho tu
sĩ. Nó là nguy hiểm cho lãnh tụ, nó là nguy hiểm cho địa vị,
cho thể chế.
Thông minh mang tính nổi dậy một cách tự nhiên.
Thông minh không thể bị bó buộc theo bất kì tình trạng nô
lệ nào. Thông minh là rất quyết đoán, cá nhân. Thông minh
không thể bị chuyển thành việc bắt chước máy móc.
Người ta phải bị biến thành các bản sao; tính nguyên
bản của họ phải bị phá huỷ, bằng không tất cả những điều
vô nghĩa lí vẫn còn tồn tại trên trái đất này sẽ là không thể
được. Bạn cần lãnh tụ, bởi vì trước hết bạn phải bị làm cho
không thông minh; bằng không sẽ không có nhu cầu về bất
kì lãnh tụ nào. Tại sao bạn phải theo ai đó? Bạn sẽ theo
thông minh của mình. Nếu ai đó muốn trở thành lãnh tụ thì
một điều cần phải làm: thông minh của bạn cần phải bị phá
huỷ bằng cách nào đó. Bạn phải bị làm rung chuyển từ
chính gốc rễ của bạn, bạn phải bị làm cho sợ hãi. Bạn phải
bị làm cho không còn tin tưởng vào chính mình, đó là điều
phải làm. Chỉ có thế thì lãnh tụ mới tới được.
Nếu bạn thông minh, bạn sẽ tự mình giải quyết vấn đề
của mình. Thông minh là đủ để giải quyết mọi vấn đề.
Trong thực tế, dù bất kì vấn đề gì được tạo ra trong cuộc
sống, bạn cũng đều có nhiều thông minh hơn những vấn đề
đó. Đó là đồ cung cấp, đó là món quà của Thượng đế.
Nhưng có những người tham vọng, người muốn cai trị,
chi phối; có những người điên tham vọng - họ tạo ra sợ hãi
trong bạn. Sợ hãi giống như gỉ sắt: nó phá huỷ mọi thông
minh. Nếu bạn muốn phá huỷ thông minh của ai đó, điều
cần thiết đầu tiên là tạo ra sợ hãi; tạo ra địa ngục và làm
cho mọi người sợ. Khi mọi người sợ địa ngục, họ sẽ đến
với tu sĩ và cúi đầu trước tu sĩ, họ sẽ lắng nghe tu sĩ. Nếu
họ không nghe tu sĩ... có ngọn lửa địa ngục. Tự nhiên là họ
sợ. Họ phải tự bảo vệ mình khỏi ngọn lửa địa ngục, và phải
cần tới tu sĩ, tu sĩ trở thành điều cần phải có.
Tôi đã nghe nói về hai người vốn là đối tác trong làm
ăn. Công việc kinh doanh của họ rất đặc biệt và họ thường
phải đi khắp cả nước. Một người đến một thành phố. Trong
đêm anh ta đi khắp thành phố và ném hắc ín lên cửa sổ nhà
mọi người, rồi biến mất vào sáng sớm. Sau đó hai hay ba
ngày người kia sẽ tới. Anh ta đi lau hết các vết hắc ín; anh
ta sẽ lau cửa sổ cho mọi người và tất nhiên mọi người phải
trả tiền - họ phải trả. Họ là đối tác trong cùng một nghề.
Một người thì phá hỏng còn người kia tới sửa chữa lại như
cũ.
Nỗi sợ cần phải được tạo ra và tham lam cũng cần phải
được tạo ra. Thông minh không tham lam. Bạn sẽ ngạc
nhiên mà biết rằng người thông minh chẳng bao giờ tham
lam. Tham lam là một phần của không thông minh. Bạn
dành dụm cho ngày mai bởi vì bạn không tin rằng ngày mai
bạn sẽ có khả năng giải quyết cuộc sống mình; bằng không
sao phải tích trữ? Bạn trở nên keo kiệt, bạn trở nên tham
lam, bởi vì bạn không biết liệu ngày mai thông minh của
mình có khả năng bao quát cuộc sống hay không. Ai biết
được? Bạn không tin vào thông minh của mình cho nên bạn
tích trữ, bạn trở nên tham lam. Người thông minh không sợ
hãi, không tham lam. Tham lam và sợ hãi đi cùng nhau. Đó
là lí do tại sao thiên đường và địa ngục đi kèm nhau. Địa
ngục là nỗi sợ, thiên đường là tham lam.
Tạo ra nỗi sợ trong mọi người và tạo ra lòng tham
trong mọi người - làm cho họ tham hết mức. Làm cho họ
tham đến mức cuộc sống không thể thoả mãn họ được; thế
thì họ sẽ đến với tu sĩ và đến với lãnh tụ. Thế thì họ sẽ bắt
đầu tưởng tượng về cuộc sống tương lai nào đó nơi mà ham
muốn ngu si, tưởng tượng đần độn của họ sẽ được đáp ứng.
Quan sát điều đó. Đòi hỏi điều không thể có chính là không
thông minh.
Người thông minh hoàn toàn thoả mãn với cái có thể.
Người đó làm việc vì cái có thể, người đó chẳng bao giờ
làm việc vì cái không thể và cái không có thể, không.
Người đó nhìn vào cuộc sống cùng với những giới hạn của
nó, người đó không phải là người cầu toàn. Người cầu toàn
là kẻ thần kinh. Nếu bạn là người cầu toàn thì bạn sẽ bị
bệnh thần kinh.
Chẳng hạn, nếu bạn yêu người đàn bà và và bạn yêu
cầu tuyệt đối trung thành thì bạn sẽ phát điên và cô ấy cũng
phát điên. Điều ấy là không thể được: tuyệt đối trung thành
có nghĩa là cô ấy thậm chí không nghĩ nữa, cô ấy thậm chí
không mơ mộng về người đàn ông khác. Điều này là không
thể được. Bạn là ai? Tại sao cô ấy yêu bạn? - bởi vì bạn là
một đàn ông. Nếu cô ấy có thể yêu bạn, tại sao cô ấy không
thể nghĩ đến những người khác? Khả năng đó vẫn còn để
mở. Và cô ấy sẽ xoay sở thế nào nếu cô ấy thấy một người
đẹp trai đang đi bên cạnh và nếu ham muốn dậy lên trong
cô ấy? Ngay cả việc nói, "Người đàn ông này đẹp thế,"
cũng là ham muốn - ham muốn đã vào. Bạn chỉ có thể nói
rằng cái gì đó đẹp khi bạn cảm thấy đáng sở hữu, đáng tận
hưởng. Bạn không dửng dưng.
Bây giờ nếu bạn yêu cầu trung thành tuyệt đối, như mọi
người vẫn hay đòi hỏi như vậy, thế thì nhất định bị xung
khắc và bạn sẽ vẫn còn nghi ngờ. Và bạn sẽ vẫn còn nghi
ngờ bởi vì bạn cũng biết tâm trí mình nữa: bạn cũng nghĩ
về người phụ nữ khác, cho nên làm sao bạn có thể tin cậy
rằng người đàn bà của bạn không nghĩ về người đàn ông
khác? Bạn biết bạn đang nghĩ tới, cho nên bạn biết cô ấy
cũng đang nghĩ tới. Bây giờ... ngờ vực, xung khắc, đau
khổ. Tình yêu đã có thể có nay trở thành không thể có bởi
vì một ước muốn không thể có.
Mọi người hay đòi hỏi những cái không thể làm được.
Bạn muốn an toàn cho tương lai, điều không thể có được.
Bạn muốn tuyệt đối an toàn cho ngày mai. Điều ấy không
thể nào được bảo đảm, nó không phải là bản chất của cuộc
sống. Người thông minh biết rằng điều đó không phải là
bản chất của cuộc sống - tương lai vẫn còn để mở. Ngân
hàng có thể phá sản, vợ có thể trốn đi với ai đó, chồng có
thể chết, trẻ con có thể tỏ ra lếu láo. Ai biết được về ngày
mai? Bạn có thể ốm, bạn có thể bị què... ai biết được về
ngày mai đây?
Yêu cầu an toàn cho ngày mai nghĩa là vẫn còn trong
sợ hãi thường xuyên; đấy là điều không thể được, cho nên
nỗi sợ không thể bị phá huỷ. Sợ vẫn sẽ có có đó, bạn sẽ run
rẩy; và trong khi đó, khoảnh khắc hiện tại lại bị lỡ đi. Với
ham muốn an toàn trong tương lai bạn đang phá huỷ hiện
tại, cái chính là cuộc sống duy nhất có sẵn. Và bạn thì ngày
càng trở nên run rẩy, sợ hãi, tham lam.
Đứa trẻ được sinh ra. Đứa trẻ là một hiện tượng rất, rất
phóng khoáng, thông minh hoàn toàn, nhưng chúng ta vồ
lấy nó, chúng ta bắt đầu phá huỷ thông minh của nó. Chúng
ta bắt đầu tạo ra sợ hãi trong nó. Bạn gọi điều ấy là dạy dỗ,
bạn gọi điều ấy là làm cho đứa trẻ có khả năng đương đầu
với cuộc sống. Bạn tạo ra sợ hãi trong nó. Nó vốn không sợ
hãi gì. Và trường phổ thông, cao đẳng, đại học - tất cả
những cái đó làm cho nó ngày càng không thông minh. Họ
đòi hỏi những điều ngu ngốc... họ đòi hỏi phải nhồi nhét
cho đứa trẻ những điều xuẩn ngốc mà đứa trẻ và thông
minh tự nhiên của nó chẳng thấy vấn đề gì cả - để làm gì?
Đứa trẻ đó không thể thấy được vấn đề: tại sao phải nhồi
nhét những thứ này? Nhưng đại học nói, cao đẳng nói, gia
đình, họ hàng, những người thiện chí nói, "Cứ nhồi thêm
vào! Cháu không biết bây giờ, nhưng về sau cháu sẽ thấy
tại sao lại cần."
Nhồi nhét lịch sử - tất cả những cái vô nghĩa này mà
con người đã làm cho người khác, tất cả những cái điên rồ -
cứ nhồi nhét nó! Và đứa trẻ không thể thấy được vấn đề:
quan trọng gì khi một ông vua nào đó cai trị nước Anh, từ
ngày nào đó đến ngày nào đó? Nó phải nhồi nhét những thứ
đần độn ấy. Thế là tự nhiên thông minh của nó ngày càng
bị chồng chất nặng gánh, què cụt, ngày càng nhiều bụi bặm
đọng lên thông minh của nó. Trước lúc con người ra khỏi
trường đại học người đó thành người không thông minh;
đại học đã hoàn thành công việc của nó. Rất hiếm người tốt
nghiệp đại học mà vẫn còn thông minh, vẫn còn giữ được
thông minh. Rất ít người có khả năng thoát khỏi đại học,
tránh được đại học, vượt qua đại học mà vẫn gìn giữ được
thông minh của mình - rất hiếm. Đấy là một cỗ máy vĩ đại
để phá huỷ bạn. Khoảnh khắc bạn trở nên được giáo dục,
bạn đã trở thành không thông minh. Bạn không thấy được
điều này sao? Những người có giáo dục ứng xử rất không
thông minh. Trở về với người nguyên thuỷ, người chưa bao
giờ được giáo dục và bạn sẽ thấy thông minh thuần khiết
vận hành.
Tôi đã từng nghe...
Một người đàn bà cố gắng mở đồ hộp và cô ta không
thể nào tìm ra cách mở nó. Cho nên cô ta đi đọc sách dạy
nấu ăn. Vào lúc cô ấy đang đọc sách thì người nấu bếp đã
mở được nó. Cô ấy quay lại và cô ấy ngạc nhiên. Cô ấy hỏi
người nấu bếp, "Làm sao anh mở được nó vậy?"
Anh ta trả lời, "Thưa cô, khi người ta không biết đọc
thì người ta phải dùng trí thông minh của mình."
Đúng đấy, thế là phải. Khi bạn không biết cách đọc bạn
phải dùng thông minh của mình, bạn còn có thể dùng được
cái gì khác nữa? Khoảnh khắc bạn bắt đầu đọc... những chữ
đó nguy hiểm đó, khi bạn đã có khả năng đọc, bạn không
cần thông minh nữa; sách sẽ chăm lo cho.
Bạn đã bao giờ quan sát điều đó chưa? Khi một người
bắt đầu gõ máy, việc viết tay của người đó bị mất đi, thế thì
việc viết tay của người đó không còn đẹp nữa. Không có
nhu cầu, máy chữ chăm lo việc này. Nếu bạn mang máy
tính tay trong túi, bạn sẽ quên luôn mọi vấn đề toán học,
không có nhu cầu. Chẳng chóng thì chầy sẽ có máy tính
nhỏ và mọi người sẽ mang chúng. Chúng sẽ chứa mọi
thông tin của cuốn Bách khoa toàn thư, và thế thì chẳng cần
bạn phải thông minh chút nào nữa; máy tính sẽ chăm lo
cho.
Trở về với người nguyên thuỷ, người chưa được giáo
dục, người dân quê, và bạn sẽ tìm thấy thông minh tinh tế.
Vâng, họ không được thông tin nhiều, điều đó đúng, họ
không là người hiểu biết, điều đó đúng, nhưng họ cực kì
thông minh. Thông minh của họ giống như ngọn lửa không
khói quanh nó.
Xã hội đã làm điều gì đó sai với con người - vì những lí
do nào đó. Nó muốn bạn là nô lệ, nó muốn bạn bao giờ
cũng sợ hãi, nó muốn bạn bao giờ cũng tham lam, nó muốn
bạn bao giờ cũng tham vọng, nó muốn bạn bao giờ cũng
tranh giành. Nó muốn bạn vô tình, nó muốn bạn đầy những
giận dữ và hận thù, nó muốn bạn vẫn còn yếu đuối, bắt
chước - những bản sao. Nó không muốn bạn trở thành chư
phật nguyên bản, Krishna hay Christ nguyên bản, không.
Đó là lí do tại sao thông minh của bạn bị phá huỷ. Thiền là
cần thiết chỉ để hoá giải điều xã hội đã làm. Thiền là phủ
định: nó đơn giản phủ định hỏng hóc, nó phá huỷ ốm yếu.
Và một khi ốm yếu qua đi, con người mạnh khoẻ của bạn
tự khẳng định chính nó theo ý muốn của nó.
Và trong thế kỉ này điều này đã đi qua quá xa; giáo dục
phổ cập đã thành tai hoạ. Và nhớ lấy, tôi không chống giáo
dục, tôi đang chống nền giáo dục này. Còn có khả năng về
một loại giáo dục khác, sẽ có ích trong việc mài sắc thông
minh của bạn, không phá huỷ nó, không chất nặng nó với
những sự kiện không cần thiết, không chất nặng nó với
những thứ rác rưởi vô dụng - tri thức - không làm nặng
gánh nó chút nào mà thay vì thế sẽ giúp cho nó trở nên toả
sáng, tươi tắn, trẻ trung hơn.
Giáo dục này chỉ làm cho bạn có khả năng ghi nhớ;
giáo dục kia sẽ làm cho bạn có khả năng sáng tỏ hơn. Giáo
dục này phá huỷ tính sáng tạo của bạn; giáo dục kia sẽ giúp
bạn trở thành sáng tạo hơn.
Chẳng hạn, giáo dục mà tôi thích có trong thế giới sẽ
không yêu cầu đứa trẻ phải trả lời theo kiểu sáo rập cũ kĩ.
Nó không cổ vũ câu trả lời có sẵn trong sách, nó không cổ
vũ việc lặp lại, học vẹt, nó sẽ khuyến khích tính sáng tạo.
Cho dù câu trả lời được sáng tác ra không hệt như câu trả
lời chép sẵn, vẫn nên đánh giá cao đứa trẻ đã đưa ra câu trả
lời mới cho vấn đề cũ. Chắc chắn câu trả lời của nó không
thể đúng như câu trả lời của Socrates. Cũng tự nhiên thôi,
một đứa trẻ nhỏ... câu trả lời của nó không thể hệt như câu
trả lời của Albert Einstein, điều đó là tự nhiên. Nhưng đòi
hỏi rằng câu trả lời của nó phải đúng như câu trả lời của
Albert Einstein là điều ngu xuẩn. Nếu nó mang tính sáng
tác thì nó đang theo đúng hướng: một ngày nào đó nó sẽ trở
thành một Albert Einstein. Nếu nó cố gắng tạo ra cái gì đó
mới - một cách tự nhiên nó có những giới hạn riêng, nhưng
chỉ với nỗ lực của nó để cố tạo ra cái gì đó mới mẻ cũng
đáng đánh giá cao, nên ca ngợi rồi.
Giáo dục không nên mang tính ganh đua, mọi người
không nên bị đưa ra đánh giá lẫn nhau. Ganh đua mang tính
rất bạo hành và rất huỷ diệt. Ai đó không giỏi về toán và
bạn gọi người đó kém. Người đó có thể giỏi trong nghề
mộc, nhưng chẳng ai nhìn vào việc đó. Ai đó không giỏi về
văn chương và bạn gọi người đó là ngu - thế mà người đó
giỏi về nhạc, về vũ.
Giáo dục thực sự sẽ giúp cho con người tìm ra cuộc
sống của họ, nơi họ có thể sống tràn đầy: nếu một người
được sinh ra để là thợ mộc, đó là đúng điều cho người đó
làm, không ai ép buộc làm cái gì khác. Thế giới này có thể
trở thành thế giới vĩ đại, thông minh nếu con người được
phép là chính mình, được giúp là chính mình, được hỗ trợ
theo mọi cách để là chính mình, và không ai tới và can
thiệp - trong thực tế không ai thao túng đứa trẻ. Nếu nó
muốn trở thành vũ công thế thì điều đó là tốt; vũ công là
cần thiết, nhiều điệu vũ được cần tới trên thế giới. Nếu nó
muốn trở thành nhà thơ, tốt; nhiều thơ đang được cần tới,
chẳng bao giờ đủ cả. Nếu nó muốn trở thành thợ mộc hay
ngư phủ, hoàn toàn tốt. Nếu nó muốn trở thành tiều phu,
hoàn toàn tốt. Nó không cần phải trở thành tổng thống hay
thủ tướng; trong thực tế nếu ít người trở nên quan tâm tới
những mục tiêu này thì đó sẽ là phúc lành.
Ngay bây giờ mọi thứ đều loạn xạ. Người muốn trở
thành thợ mộc đã trở thành bác sĩ, người muốn trở thành
bác sĩ đã trở thành thợ mộc... mọi người đều ở vào vị trí
của ai đó khác. Do đó quá nhiều không thông minh - mọi
người đều đang làm việc của ai đó khác. Một khi bạn bắt
đầu thấy điều đó, bạn sẽ cảm thấy tại sao mọi người đang
ứng xử không thông minh.
Ở Ấn Độ chúng ta đã suy tư sâu sắc và chúng ta đã tìm
ra một từ - swadharma, tự tính - cái chuyển tải ẩn ý vĩ đại
nhất cho thế giới tương lai. Krishna đã nói: Swadharme
nidhanam shreyah - điều hay là được chết trong tự tính
riêng của bạn, theo đuổi tự tính của bạn. Para dharmo
bhayavah baha - bản tính của ai đó khác là rất nguy hiểm.
Bạn chớ trở thành kẻ bắt chước. Chỉ là chính bạn.
Tôi đã từng nghe...
Bill luôn luôn muốn đi săn nai sừng tấm, cho nên anh
ta để dành đủ tiền rồi đi lên Rừng Bắc. Anh ta trang bị đủ
thứ cần thiết ở đó và người chủ hiệu còn khuyên anh ta
thuê anh chàng Pierre, người gọi nai sừng tấm giỏi nhất tại
vùng đó.
"Đúng đấy," người chủ hiệu nói, "thuê Pierre thì đắt
lắm, nhưng anh ta tạo ra dục tính trong lời gọi đến mức
không con nai nào cưỡng nổi."
"Việc ấy làm như thế nào nhỉ?" Bill hỏi.
"Thế này," người kia nói, "Pierre sẽ phát hiện ra con
nai ở khoảng cách ba trăm yard, rồi khum tay tạo ra lời gọi
thứ nhất. Khi con nai nghe thấy thế nó sẽ bị kích động với
ham muốn và lại gần hai trăm yard. Thế rồi Pierre sẽ gọi
lần nữa, nhấn thêm một chút âm oomp trong đó, và con nai
sẽ hăng hái nhảy tới với niềm hân hoan vui vẻ còn cách
một trăm yard. Lần này Pierre thực sự đưa ra lời gọi có dục
tính, kéo dài lời gọi hơn chút ít, thúc ép con nai, khuấy
động ý định nhục dục, để nó tiến tới điểm chỉ còn cách anh
có hai mươi nhăm yard. Và đấy là khoảnh khắc cho anh,
anh bạn ạ, nhằm và bắn."
"Thế lỡ tôi bắn trượt thì sao?" Bill tò mò hỏi.
"Ô, thế thì khủng khiếp lắm!" người kia nói.
"Nhưng làm sao?" Bill hỏi
"Bởi vì thế thì anh Pierre đáng thương sẽ ăn nằm với
con nai."
Điều đó đã xảy ra cho con người - bắt chước, bắt chước
mãi. Con người đã hoàn toàn mất cái nhìn về thực tại của
riêng mình. Thiền nhân nói: Tìm khuôn mặt nguyên thuỷ
của bạn (bản lai diện mục).
Mật tông cũng nói như thế. Mật tông nói: Tìm ra cái
đích thực của bạn. Bạn là ai? Nếu bạn không biết bạn là ai,
bạn bao giờ cũng trong ngẫu nhiên nào đó - bao giờ cũng
thế. Cuộc đời bạn sẽ là một chuỗi dài những ngẫu nhiên, và
bất kì cái gì xảy ra cũng chẳng bao giờ thoả mãn cả. Bất
mãn sẽ là hương vị duy nhất của cuộc đời bạn.
Bạn có thể quan sát điều đó quanh bạn. Tại sao bao
nhiêu người trông đờ đẫn, chán chường đến thế, chỉ bằng
cách nào đó sống qua ngày, bỏ qua thời gian cực kì quí giá
mà họ không thể nào lấy lại được - và trôi qua với vẻ đờ
đẫn thế, dường như chỉ chờ chết. Điều gì đã xảy ra với bao
nhiêu người như thế? Tại sao họ không có cùng tươi tắn
như cây cối? Tại sao con người không có cùng bài ca như
chim chóc? Điều gì đã xảy ra cho con người?
Một điều đã xảy ra: Con người đã bắt chước, con người
đã cố gắng để trở thành ai đó khác. Không ai ở tại nhà riêng
của mình cả, mọi người đều đang gõ cửa nhà ai đó khác; do
đó bất mãn, đờ đẫn, chán chường, khổ não...
Khi Saraha nói rằng thông minh là phẩm chất chính của
thiền, ông ấy ngụ ý điều này: Người thông minh sẽ cố gắng
chỉ là chính bản thân mình, với bất kì giá nào. Người thông
minh sẽ không bao giờ sao chép, không bao giờ bắt chước,
người đó không bao giờ là vẹt cả. Người thông minh sẽ
lắng nghe lời gọi thực chất riêng của mình. Người đó sẽ
cảm thấy bản thể riêng của mình và đi theo tương ứng, bất
kể mạo hiểm nào. Có mạo hiểm! Khi bạn sao chép người
khác, ít mạo hiểm hơn. Khi bạn không sao chép ai bạn một
mình, có mạo hiểm!
Nhưng cuộc sống chỉ xảy ra cho những ai sống một
cách hiểm nguy. Cuộc sống chỉ xảy ra cho những người
mang tính phiêu lưu, những người dũng cảm, gần như liều
lĩnh - chỉ với họ cuộc sống mới xảy ra. Cuộc sống không
xảy ra cho những người hờ hững.
Và người thông minh tin cậy vào mình, tin cậy của
người đó là tuyệt đối vào chính mình. Làm sao bạn có thể
tin cậy vào ai khác nếu bạn thậm chí không thể tin cậy vào
bản thân mình được?
Mọi người đến tôi và họ nói, "Chúng tôi muốn tin cậy
vào thầy." Tôi hỏi họ, "Bạn có tin cậy vào bản thân mình
không? Nếu bạn tin vào bản thân mình thì có khả năng để
tin cậy tôi nữa, bằng không thì chẳng có khả năng nào."
Làm sao bạn có thể tin cậy vào tôi nếu bạn không tin cậy
vào bản thân bạn? Bạn là người gần gũi nhất với bản thân
mình. Bạn có thể tin tôi nữa nếu bạn tin vào bản thân bạn.
Nếu bạn tin vào bản thân mình, thế thì bạn sẽ tin vào tin
cậy của bạn đối với tôi; bằng không chẳng có khả năng nào
cả.
Thông minh là tin cậy vào bản thể của riêng bạn.
Thông minh là phiêu lưu, xúc động, vui vẻ.
Thông minh là sống trong khoảnh khắc này, không
khao khát tương lai.
Thông minh là không suy nghĩ về quá khứ và không
bận tâm tới tương lai. Quá khứ không còn nữa, tương lai
còn chưa tới. Thông minh là sử dụng tối đa khoảnh khắc
hiện tại đang có sẵn. Tương lai sẽ tới từ nó. Nếu khoảnh
khắc này đã được sống trong thích thú và vui vẻ, khoảnh
khắc tiếp sẽ được sinh ra từ đó. Nó sẽ đem tới nhiều vui vẻ
một cách tự nhiên, nhưng chẳng cần phải bận tâm về nó.
Nếu hôm nay của tôi đã vàng son thì ngày mai của tôi sẽ
còn vàng son hơn nữa. Nó sẽ đến từ đâu vậy? Nó trưởng
thành từ hôm nay. Nếu kiếp này đã là phúc lành, kiếp sau
của tôi sẽ là phúc lành cao hơn. Nó có thể đến từ đâu? Nó
sẽ trưởng thành từ tôi, từ kinh nghiệm đã sống qua của tôi.
Cho nên người thông minh không bận tâm về thiên đường
và địa ngục, cũng chẳng bận tâm về kiếp sau, thậm chí
cũng chẳng bận tâm về Thượng đế, cũng chẳng bận tâm về
linh hồn. Người thông minh đơn giản sống một cách thông
minh, và Thượng đế cùng linh hồn và thiên đường và niết
bàn - tất cả đều theo tới một cách tự nhiên.
Bạn sống trong việc tin; tin là không thông minh. Sống
qua việc biết đi; việc biết là thông minh. Và Saraha hoàn
toàn phải: Thông minh là thiền. Người không thông minh
cũng thiền, nhưng chắc chắn họ thiền theo cách không
thông minh. Họ nghĩ rằng bạn phải đi đến nhà thờ mỗi chủ
nhật trong một giờ; điều đó được dành cho tôn giáo. Đây là
cách không thông minh để có quan hệ với tôn giáo. Nhà thờ
liên quan gì tới điều đó? Cuộc sống thực của bạn là trong
sáu ngày, chủ nhật không phải là ngày thực của bạn. Bạn sẽ
sống phi tôn giáo trong sáu ngày và rồi bạn đến nhà thờ chỉ
trong một hay hai giờ - bạn đang định lừa ai vậy? Định lừa
Thượng đế rằng bạn là người đi nhà thờ đều đặn chăng?
Hay nếu bạn cố vất vả thêm một chút thì mỗi ngày hai
mươi phút buổi sáng và hai mươi phút buổi tối bạn làm
Thiền siêu việt. Bạn ngồi nhắm mắt và lẩm nhẩm mật chú
theo một cách rất ngu xuẩn - Om, Om, Om - còn làm mụ
mẫm tâm trí hơn nữa. Việc lẩm nhẩm mật chú một cách
máy móc lấy đi thông minh của bạn; nó không cho bạn
thông minh. Nó tựa như lời ru con.
Trong suốt nhiều thế kỉ các bà mẹ đã biết về điều này.
Bất kì khi nào đứa trẻ bất ổn và không muốn ngủ, người mẹ
tới và cất lên lời ru. Đứa trẻ cảm thấy chán; rồi đứa trẻ
không thoát được - thoát đi đâu đây? Người mẹ đang ôm nó
trên giường. Cách duy nhất để trốn thoát là vào trong giấc
ngủ, cho nên nó đi vào giấc ngủ; nó đơn giản đầu hàng. Nó
nói, "Thật ngu mà thức bây giờ, vì mẹ đang làm cái việc
chán ngắt thế. Có mỗi một câu mà mẹ cứ lặp đi lặp lại
mãi!"
Có những câu chuyện mà mẹ và bà đều đem ra kể cho
đứa trẻ khi chúng không chịu ngủ. Nếu bạn nhìn vào trong
những câu chuyện này, bạn sẽ thấy một mẫu hình nào đó về
việc lặp lại thường xuyên. Mới ngày hôm nọ tôi mới đọc
một câu chuyện do bà kể cho đứa cháu nhỏ không chịu
ngủ, vì nó không cảm thấy buồn ngủ ngay lúc đó. Thông
minh của nó nói rằng nó hoàn toàn tỉnh thức, nhưng bà thì
đang buộc nó ngủ. Bà có các việc khác cần làm, đứa trẻ
không quan trọng.
Trẻ con rất lấy làm khó hiểu - mọi thứ dường như rất
ngớ ngẩn. Khi chúng muốn ngủ vào buổi sáng, mọi người
muốn đánh thức chúng dậy. Khi chúng không muốn đi ngủ
thì mọi người buộc chúng phải ngủ. Chúng trở nên rất bối
rối: đâu là vấn đề với mọi người đây? Khi giấc ngủ tới, tốt -
đó là thông minh. Khi nó không tới thì cũng hoàn toàn tốt
để tỉnh thức.
Cho nên bà già này bèn kể chuyện. Lúc đầu đứa trẻ còn
thích thú, nhưng dần dần... Bất kì đứa trẻ thông minh nào
cũng đều cảm thấy chán; chỉ có đứa ngu mới không cảm
thấy chán.
Câu chuyện là...
Một người đi ngủ và mơ rằng người đó đang đứng
trước một lâu đài lớn, và trong lâu đài có một nghìn lẻ một
phòng. Cho nên người đó đi hết phòng nọ đến phòng kia -
một nghìn phòng - rồi người đó đi tới phòng cuối cùng. Và
có một cái giường đẹp đẽ trong đó, thế là người đó lăn lên
giường, chìm vào giấc ngủ và mơ thấy mình đang đứng
trước một cánh cửa của một toà lâu đài lớn có một nghìn lẻ
một phòng. Thế là người đó lại đi vào một nghìn phòng, rồi
người đó lại tới phòng thứ một nghìn lẻ một... rồi có một
chiếc giường đẹp, thế là người đó lại ngủ và lại mơ rằng
người đó đang đứng trước một lâu đài... Câu chuyện cứ thế
mà tiếp diễn! Bây giờ thì đứa trẻ hỏi còn tỉnh táo được bao
lâu nữa? Chỉ có từ sự tẻ ngắt đó mà đứa trẻ rơi vào giấc
ngủ. Nó đang nói "Thôi kết thúc đi!"
Mật chú cũng làm điều tương tự. Bạn lẩm nhẩm Ram,
Ram, Om, Om, Allah, Allah - hay bất kì thứ gì cũng vậy.
Bạn cứ lẩm nhẩm, bạn cứ lặp lại. Bây giờ bạn đang làm hai
việc, cả việc của bà và việc của cháu. Thông minh của bạn
tựa như cháu, và việc học mật chú của bạn tựa như bà. Đứa
trẻ cố dừng bạn lại, đòi quan tâm đến việc khác, nghĩ đến
những cái đẹp đẽ - phụ nữ đẹp, cảnh trí đẹp - nhưng bạn
tóm giữ nó và đưa nó lại với Om, Om, Om. Dần dần đứa
trẻ bên trong của bạn cảm thấy rằng vô ích mà tranh đấu;
đứa trẻ bên trong đi ngủ.
Thế đấy, mật chú có thể cho bạn giấc ngủ nào đó, nó là
giấc ngủ tự thôi miên. Chẳng có gì sai trong việc này nếu
bạn đang thấy khó ngủ - nếu bạn đang phải chịu chứng mất
ngủ nó là tốt. Nhưng nó chẳng có liên quan gì tới tâm linh
cả, nó là cách thiền rất không thông minh. Thế thì cách
thiền thông minh là gì?
Cách thức thông minh là đem thông minh vào mọi thứ
bạn đang làm. Bước đi, bước cho thông minh, với nhận
biết; ăn, ăn cho thông minh, với nhận biết. Bạn có nhớ cứ
mỗi khi ăn một cách thông minh, nên nghĩ về bạn đang ăn
cái gì không? Đấy là chất bổ dưỡng, nó có giá trị bổ dưỡng
nào không? Hay bạn chỉ đang tọng vào họng mà chẳng có
chất bổ dưỡng gì?
Bạn đã bao giờ quan sát điều bạn làm chưa? Bạn hút
thuốc... Thế thì thông minh là cần thiết: bạn đang làm gì
đây? Chỉ hít khói thuốc vào rồi nhả nó ra - và đồng thời phá
huỷ luôn cả phổi của bạn nữa? Và bạn đang thực sự làm
điều gì vậy? Lãng phí tiền bạc, lãng phí sức khoẻ. Đem
thông minh vào trong khi bạn đang hút thuốc, trong khi bạn
đang ăn đi. Đem thông minh vào trong khi bạn đi và làm
tình với người đàn bà hay đàn ông của mình. Bạn đang làm
gì, bạn có yêu thực sự không? Đôi khi bạn làm tình theo
thói quen - thế thì đó là xấu, thế thì đó là vô đạo đức.
Yêu phải rất có ý thức, chỉ thế thì nó mới trở thành lời
nguyện. Trong khi làm tình với người đàn bà của bạn, bạn
đang đích xác làm gì vậy? Dùng thân thể người đàn bà chỉ
để tống bớt một số năng lượng đã trở thành quá nhiều với
bạn sao? Hay bạn đang đền đáp sự kính trọng... bạn có yêu
người đàn bà ấy không, bạn có kính trọng nào đó với người
đàn bà này không? Tôi không thấy điều đó. Chồng không
tôn trọng vợ mình, họ dùng vợ; vợ dùng chồng mình, họ
không tôn trọng nhau. Nếu tôn kính không nảy sinh từ tình
yêu, thì thông minh đang bị mất ở đâu đó. Bằng không bạn
sẽ cảm thấy cực kì biết ơn người kia, và việc làm tình của
bạn sẽ trở thành việc thiền lớn.
Dù bạn đang làm bất kì cái gì, đem phẩm chất của
thông minh vào trong đó. Làm điều đó một cách thông
minh - đó chính là điều thiền là gì. Và phát biểu của Saraha
cực kì có ý nghĩa: Thông minh là thiền.
Thông minh phải lan toả khắp toàn bộ cuộc sống bạn,
nó không phải là việc ngày chủ nhật. Và bạn không thể làm
nó trong hai mươi phút rồi quên nó - thông minh phải giống
như việc thở. Dù bạn đang làm bất kì cái gì - nhỏ, lớn, bất
kì cái gì... lau nhà - cũng đều có thể làm một cách thông
minh hay không thông minh. Và bạn biết rằng khi bạn làm
nó một cách không thông minh, không có vui vẻ; bạn thi
hành bổn phận, mang nó bằng cách nào đó.
Tôi đã từng nghe một câu chuyện minh hoạ về cách
thức tình yêu có thể bị thu lại thành bổn phận và bị phá
huỷ...
Chuyện xảy ra trong một lớp học trường dòng cho con
gái lớp chín. Lớp đang học về tình yêu của người Ki tô giáo
và ý nghĩa của nó đối với họ và cuộc sống của họ. Cuối
cùng họ quyết định rằng tình yêu người Ki tô giáo nghĩa là
'làm việc gì đó đáng yêu cho một ai đó bạn không thích'.
Trẻ con rất thông minh. Kết luận của chúng hoàn toàn phải.
Nghe lại điều đó đi. Cuối cùng chúng quyết định rằng tình
yêu người Ki tô giáo nghĩa là 'làm việc gì đó đáng yêu cho
người mà bạn không thích'.
Thầy giáo gợi ý rằng trong tuần chúng có thể kiểm
nghiệm khái niệm của chúng. Khi chúng trở lại lớp sau một
tuần, thầy yêu cầu báo cáo . Một đứa con gái giơ tay và nói,
"Con đã làm được điều gì đó!"
Thầy giáo nói, "Tuyệt vời! Con đã làm gì vậy?"
"Thế này," đứa con gái trả lời, "trong lớp học toán của
con có một đứa bé ngốc nghếch..."
Thầy giáo nói, "Ngốc nghếch à...?"
Còn đứa con gái trả lời, "Đúng đấy, thầy biết... ngốc
nghếch. Nó có bốn mắt, nó rất vụng về, và nó cao có gần
một mét, và khi nó xuống phòng họp trong trường thì mọi
người đều nói, "Đây rồi, đứa nhỏ ngốc nghếch tới rồi." Nó
chẳng có bạn bè nào và chẳng ai mời nó tham dự nhóm
nào, và ... thầy biết đấy, nó chỉ là ngốc nghếch."
Thầy giáo nói, "Thầy nghĩ thầy biết điều con định nói.
Con đã làm gì vậy?"
"Thế này, con bé ngốc nghếch đó trong lớp toán của
con và nó gặp lúc không may. Con thì khá toán trong lớp
nên con giúp nó làm bài tập về nhà."
"Tuyệt quá!" thầy giáo nói, "Rồi điều gì xảy ra?"
"Thế này, con đã giúp đỡ nó, và buồn cười là nó chẳng
cám ơn con cho đủ, nhưng bây giờ con không thể tống khứ
được nó!"
Nếu bạn đang làm điều gì đó như bổn phận - bạn không
yêu, bạn không yêu nó và bạn đang làm nó chỉ như bổn
phận - chẳng chóng thì chầy bạn sẽ bị nó bắt giữ và bạn sẽ
khó gạt bỏ nó. Quan sát ngày hai mươi bốn giờ của bạn:
bao nhiêu thứ bạn đang làm mà bạn không có hài lòng từ
đó, bạn không trưởng thành lên được từ đó? Trong thực tế
bạn muốn gạt bỏ chúng đi. Nếu bạn đang làm quá nhiều thứ
trong cuộc đời mình mà bạn thực sự muốn tống khứ đi thì
bạn đang sống không thông minh.
Người thông minh sẽ làm cuộc đời mình theo cách thức
nó là bài thơ của tính tự phát, của tình yêu, của vui vẻ. Nó
là cuộc sống của bạn và nếu bạn không đủ tốt với chính
mình, ai sẽ đủ tốt với bạn? Nếu bạn để phí hoài nó, đấy
không phải là trách nhiệm của ai đó khác. Tôi dạy bạn phải
có trách nhiệm với chính mình. Đó là trách nhiệm đầu tiên;
mọi thứ khác sẽ đến sau - mọi thứ khác! Ngay cả Thượng
đế cũng đến sau, bởi vì ngài chỉ có thể tới khi bạn có đấy.
Bạn là chính tâm điểm của thế giới của bạn, của sự tồn tại
của bạn.
Cho nên hãy thông minh, đem phẩm chất của thông
minh vào. Và bạn càng trở nên thông minh hơn, bạn càng
có khả năng đem nhiều thông minh hơn vào cuộc sống của
bạn. Từng khoảnh khắc riêng lẻ có thể trở thành chói sáng
đến thế với thông minh... Thế thì không cần đến tôn giáo
nào nữa, không cần đến thiền, không cần đến nhà thờ,
không cần đến bất kì đền đài nào, không cần bất kì cái gì
phụ thêm. Cuộc sống trong thực chất của nó đã là thông
minh.
Sống một cách toàn bộ, hài hoà, trong nhận biết, và
mọi thứ theo sau một cách đẹp đẽ. Cuộc sống của lễ hội đi
theo chói sáng của thông minh.
#8Câu hỏi tiếp - cũng có liên quan:
Osho kính yêu, phục vụ mọi người theo bổn
phận có phải là điều không tốt không?
Không, chẳng tốt tí nào, nó là xấu. Khi bạn làm việc gì
đấy chỉ theo bổn phận, không có tình yêu, bạn đang làm hại
bản thân bạn và bạn đang làm hại cả người khác nữa, bởi vì
nếu bạn không làm việc đó từ tình yêu bạn sẽ cảm thấy
rằng người khác phải biết ơn, bạn sẽ cảm thấy rằng bạn đã
làm ơn cho người khác. Bạn sẽ đợi trả ơn - trong thực tế
bạn sẽ tạo ra yêu cầu, thô thiển hay tinh vi: "Bây giờ, anh
phải làm cái gì đó cho tôi, tôi đã làm quá nhiều cho anh
rồi."
Khi bạn làm cái gì đó xuất phát từ tình yêu, bạn làm
việc đó mà chẳng có ý nghĩ nào về đền đáp cả. Đấy không
phải là mặc cả, bạn làm điều đó bởi vì bạn hạnh phúc khi
làm nó; người kia không phải biết ơn. Không phải vì tình
yêu không có đền đáp, tình yêu được đền đáp hàng nghìn
lần - nhưng duy nhất tình yêu được đền đáp, không bao giờ
có bổn phận. Trong thực tế nếu bạn đang thực thi bổn phận
với ai đó, người ấy sẽ chẳng bao giờ có khả năng tha thứ
cho bạn. Bạn có thể thấy điều ấy ở con trẻ: chúng chẳng
bao giờ có thể tha thứ được cho bố mẹ chúng. Bố mẹ chúng
phải làm bổn phận lớn. Thật khó mà tha thứ cho những
người đang thực thi bổn phận.
Kính trọng nảy sinh với những người đã yêu bạn,
không theo bất kì nghĩa bổn phận nào mà chỉ từ vui vẻ tột
đỉnh. Thấy khác biệt này. Mẹ yêu bạn chỉ bởi vì bà ấy cảm
thấy tình yêu với bạn; dù bạn có đền đáp hay không thì
cũng chẳng can hệ gì. Không có mặc cả trong đó; đấy
không phải là hợp đồng, đấy không phải là việc kinh
doanh. Nếu bạn không đền đáp, bà ấy cũng chẳng bao giờ
nói tới, bà ấy sẽ chẳng bao giờ nghĩ tới việc đó. Trong thực
tế bà ấy đã đạt tới nhiều vui vẻ trong khi yêu bạn đến mức
còn gì nữa đâu để bà ấy trông đợi?
Người mẹ bao giờ cũng cảm thấy rằng bà ấy không thể
làm được nhiều như bà ấy muốn làm. Nhưng nếu người mẹ
đang làm việc đó theo bổn phận, bà ấy cảm thấy rằng bà ấy
đã làm quá nhiều và bạn đã phản bội bà ấy, bạn đã không
đền đáp tình yêu của bà ấy. Và bà ấy sẽ thường xuyên nhồi
nhét vào đầu bạn rằng bà ấy đã làm cái này cái kia, và rằng
bà ấy đã cưu mang bạn suốt chín tháng mười ngày trong
bụng... rồi bà ấy còn kể đi kể bao nhiêu chuyện. Điều đó
chẳng giúp tạo ra được tình yêu, nó đơn giản giúp cho li
tán. Trẻ con trở nên rất, rất giận.
Tôi biết một đứa trẻ... Tôi đã ở với gia đình đó, và
người mẹ lôi đứa con trai ra trước tôi. Họ muốn tôi dạy cho
thằng bé đôi điều bởi vì nó rất vô ơn. Tôi biết rất rõ gia
đình này; tôi biết cả người bố và người mẹ, cho nên tôi biết
tại sao nó vô ơn. Họ đã làm tất cả những gì họ có thể làm
nhưng bao giờ cũng xuất phát từ cảm giác nghĩa vụ.
Tôi bảo họ, "Các bạn chịu trách nhiệm. Các bạn chưa
bao giờ yêu thằng bé cả, nó cảm thấy bị tổn thương. Các
bạn chưa bao giờ cho phép nó cảm thấy có giá trị. Tình yêu
của các bạn không phải là tình yêu, nó chỉ tựa như tảng đá
cứng đè lên trái tim thằng bé. Bây giờ nó lớn lên và có khả
năng nổi dậy chống các bạn, đó là lí do tại sao nó nổi dậy."
Đứa bé nhìn tôi với lòng biết ơn... rồi oà khóc. Nó nói,
"Bất kì ai đến gia đình này, bất kì vị khách nào, bất kì bạn
bè nào, con cũng đều bị đem ra trước toà án - mọi người
đều phải dạy cho con. Thầy là người đầu tiên... Đây đúng là
trường hợp như thế. Những người này đã tra tấn con còn
mẹ con thì suốt ngày ca cẩm, "Tao cưu mang mày trong
bụng suốt chín tháng mười ngày". Còn con thì bảo với mẹ,
"Nhưng con có yêu cầu mẹ làm như thế đâu. Điều ấy chẳng
liên quan gì với con cả, đấy là việc của mẹ, mẹ quyết định
thế. Thế sao mẹ không phá thai đi? Con đâu có can thiệp
vào. Tại sao trước hết mẹ đã mang thai? Con có xin vào vị
trí ấy đâu!" Và tôi biết nó đang giận, nhưng nó phải.
Bây giờ bạn hỏi: "Phục vụ mọi người theo bổn phận có
phải là điều không tốt không?" Không, trong thực tế nếu
bạn phục vụ mọi người theo bổn phận, bạn sẽ trở thành kẻ
tra tấn họ, bạn sẽ trở thành rất chi phối họ. Đấy là cách chi
phối, đấy là chính trị.
Bắt đầu từ việc xoa bóp chân họ, chẳng mấy chốc bạn
sẽ leo lên cổ họ, chẳng mấy chốc bạn sẽ giết họ. Và cũng tự
nhiên, khi bạn bắt đầu xoa bóp chân họ, họ sẽ duỗi chân ra,
họ nói "tốt lắm" - rồi họ chẳng biết cái gì sẽ xảy ra.
Mọi công bộc chẳng chóng thì chầy cũng đều trở thành
chính khách. Đấy là đúng cách để bắt đầu cuộc đời chính trị
của bạn: trở thành người phục vụ quần chúng. Phục vụ mọi
người theo nghĩa bổn phận và thế thì chẳng chóng thì chầy
bạn có thể nhảy lên đầu họ, thế thì bạn có thể khai thác họ.
Thế thì bạn có thể chà nát họ, và họ thậm chí chẳng thể thốt
ra một tiếng kêu nào bởi vì bạn là công bộc. Để trở thành
thầy của nhân dân, việc bắt đầu là từ phục vụ quần chúng.
Toàn bộ cách tiếp cận của tôi ở đây là để làm cho bạn
tỉnh táo với những cái bẫy này. Đấy là các trò, trò bản ngã.
Nhân danh khiêm tốn, khiêm nhường, phục vụ, bạn đang
tiến hành trò bản ngã. Hãy làm, nhưng chỉ làm từ tình yêu;
bằng không thì đừng làm. Xin chớ có làm. Tốt hơn cả là
bạn đừng làm gì cả.
Bạn sẽ có khả năng làm, bởi vì chẳng ai có thể không
làm một cách liên tục. Năng lượng được tạo ra, và bạn phải
đem cho nó - nhưng cho từ tình yêu. Khi bạn cho từ tình
yêu, bạn cảm thấy biết ơn người khác bởi vì người đó đã
chấp nhận tình yêu của bạn, người đó đã chấp nhận năng
lượng của bạn, người đó đã chia sẻ với bạn, người đó đã đỡ
gánh nặng cho bạn.
Làm chỉ khi bạn có thể cảm thấy biết ơn người mà bạn
đã làm cho, không vì cái gì khác.
#8Câu hỏi thứ ba:
Osho kính yêu, tại sao ghen bao giờ cũng
theo sau yêu như cái bóng?
Ghen chẳng liên quan gì với yêu. Trong thực tế cái gọi
là yêu của bạn cũng chẳng liên quan gì với yêu cả. Đấy là
những lời lẽ hoa mĩ bạn dùng mà chẳng biết chúng nghĩa là
gì, chẳng kinh nghiệm được chúng nghĩa là gì. Bạn cứ dùng
từ yêu: bạn dùng nó nhiều đến mức bạn quên mất sự kiện là
bạn còn chưa kinh nghiệm nó. Đấy là một trong những
nguy hiểm của việc dùng những lời đẹp đẽ: 'Thượng đế',
'tình yêu', 'niết bàn', 'lời nguyện' - toàn những lời đẹp. Bạn
vẫn cứ dùng chúng, bạn vẫn cứ lặp lại chúng, và dần dần
bởi chính việc lặp lại đó mà làm cho bạn có cảm giác
dường như bạn biết về chúng.
Bạn biết gì về yêu? Nếu bạn biết điều gì đó về yêu, bạn
không thể hỏi câu hỏi này, bởi vì ghen chẳng bao giờ hiện
diện trong yêu. Và bất kì khi nào ghen hiện diện, thì yêu
không hiện diện. Ghen không phải là một phần của yêu,
ghen là một phần của sở hữu. Sở hữu chẳng liên quan gì
với yêu cả. Bạn muốn sở hữu; qua sở hữu bạn cảm thấy
mạnh, lãnh thổ của bạn lớn hơn. Và nếu ai đó khác định
xâm lấn vào lãnh thổ của bạn, bạn giận dữ. Hay nếu ai đó
có ngôi nhà lớn hơn ngôi nhà của bạn, bạn ghen tị. Hay nếu
ai đó định tước quyền sở hữu tài sản của bạn, bạn ghen và
giận dữ. Nếu bạn yêu, ghen là không thể được, điều ấy
không thể có một chút nào.
Tôi đã từng nghe...
Cao trên vùng lạnh cóng Yukon có hai người đánh bẫy
đang dừng lại ở nơi dân cư cuối cùng để lấy lương thực
chuẩn bị cho mùa đông tối tăm lâu dài. Sau khi họ đã chất
đầy các cỗ xe trượt tuyết với bột mì, đồ hộp, dầu lửa, diêm
và đạn dược, họ đã sẵn sàng cho chuyến đi bằng xe chó kéo
trong sáu tháng trong vùng hoang vu.
"Đợi một chút anh bạn," người giữ kho gọi họ, "Sao
các anh không lấy một trong những thứ này?" Và ông ta chỉ
cho họ một cái bàn lớn cong như chiếc đồng hồ cát.
"Cái gì thế này?" Một trong những người đánh bẫy hỏi.
Người giữ kho nháy mắt. "Nó được gọi là cái bàn tình
yêu. Các anh có thể ôm ấp nó khi các anh đơn độc."
"Chúng tôi sẽ lấy hai chiếc!" Bọn họ kêu lên.
Sáu tháng sau một trong những người đánh bẫy, râu ria
tua tủa, mặt mũi hốc hác trở .
"Bạn thân của anh đâu rồi?" người chủ kho hỏi.
"Phải bắn nó rồi," người đánh bẫy lầm bầm, "tôi bị
nhiễm lộn xộn từ nó xung quanh cái bàn tình yêu của tôi."
Ghen chẳng liên quan gì với yêu cả. Nếu bạn yêu người
đàn bà của mình, làm sao bạn có thể ghen được? Nếu bạn
yêu người đàn ông của mình, làm sao bạn có thể ghen
được? Nếu người đàn bà của bạn cười với ai đó khác, làm
sao bạn có thể ghen được? Bạn sẽ hạnh phúc; chính là
người đàn bà của bạn đang hạnh phúc. Hạnh phúc của cô
ấy là hạnh phúc của bạn - làm sao bạn có thể nghĩ những
điều chống hạnh phúc của cô ấy?
Nhìn, quan sát đi. Bạn cười câu chuyện này nhưng nó
đang xảy ra ở mọi nơi, trong mọi gia đình. Vợ thậm chí còn
ghen cả với tờ báo nếu chồng chúi mũi vào đọc báo nhiều
quá. Cô ấy tới và vò nó đi, cô ấy trở nên ghen. Tờ báo đang
thay thế cô ấy. Trong khi cô ấy hiện diện, làm sao bạn dám
đọc báo? Đấy là xúc phạm! Khi cô ấy có đấy, bạn phải bị
cô ấy sở hữu hoàn toàn, thậm chí một tờ báo cũng không
được... Tờ báo trở thành kẻ tình địch, cho nên nói gì về
người khác? Nếu vợ hiện diện và chồng bắt đầu nói tới
người đàn bà khác và trông có vẻ hơi hạnh phúc - điều này
cũng tự nhiên... mọi người đều mệt mỏi với nhau; bất kì cái
gì mới và người ta cảm thấy một chút xúc động - bây giờ
người vợ giận dữ. Bạn có thể biết rõ rằng nếu một đôi đang
đi bên nhau và người đàn ông trông có vẻ buồn thì người
đó là người chồng đã cưới người đàn bà đó. Nếu người đó
trông có vẻ sung sướng thì người đó không cưới người đàn
bà đó, cô ấy không phải là vợ anh ta.
Có lần tôi đi trong một chuyến xe lửa và có một người
đàn bà trong cùng khoang. Cứ tại mỗi ga một người đàn
ông tới... khi thì anh ta mang chuối, khi thì anh ta mang trà
và kem rồi thứ này thứ nọ.
Tôi hỏi cô ấy, "Người đàn ông này là ai vậy?"
Cô ấy nói, "Anh ấy là chồng cháu."
Tôi nói, "Tôi không thể tin cậy được điều đó, tôi không
thể tin điều đó. Anh chị cưới nhau đã lâu chưa?"
Cô ấy trở nên hơi lúng túng, cô ấy nói, "Vì bác cứ
khăng khăng như thế, chúng cháu chưa cưới nhau. Nhưng
làm sao bác biết được việc ấy?"
Tôi nói, "Tôi chưa bao giờ thấy bất kì anh chồng nào
ga nào cũng tới như thế cả. Một khi anh chồng tống khứ
được cô vợ thì anh ta sẽ chỉ tới ở ga cuối với hi vọng rằng
cô ấy đã biến mất ở đâu đó giữa đường. Mỗi ga lại đem
một thứ gì tới... thứ này thứ nọ... rồi chạy đi chạy lại từ toa
của anh ta..."
Cô ấy nói, “Bác phải đấy, anh ấy không phải là chồng
cháu. Anh ấy chỉ là bạn của chồng cháu."
"Thảo nào - thế thì không có vấn đề gì...!"
Bạn không thực sự trong tình yêu với người đàn bà của
mình, hay với người đàn ông của mình, hay với bạn bè của
bạn. Nếu bạn đang trong tình yêu, hạnh phúc của người kia
là hạnh phúc của bạn. Nếu bạn đang yêu thì bạn sẽ không
tạo ra bất kì sở hữu nào.
Yêu có khả năng đem cho tự do hoàn toàn. Chỉ yêu mới
có khả năng cho tự do hoàn toàn. Và nếu tự do không được
cho, nó là một cái gì khác, không phải yêu. Nó là một kiểu
trò bản ngã nào đó. Bạn có người đàn bà đẹp; bạn muốn
trưng cho mọi người trong khắp thành phố rằng bạn có
người đàn bà đẹp - hệt như thứ của cải. Hệt như khi bạn có
chiếc xe hơi và bạn đang trong xe muốn cho mọi người biết
rằng không ai có chiếc xe đẹp như thế, hệt như trường hợp
với người đàn bà của bạn. Bạn đeo nhẫn kim cương cho cô
ấy - nhưng không phải từ tình yêu. Cô ấy là vật trang điểm
cho bản ngã của bạn. Bạn mang cô ấy hết câu lạc bộ này
đến câu lạc bộ khác, nhưng cô ấy vẫn còn bám vào bạn và
liên tục trưng ra rằng cô ấy thuộc về bạn. Bất kì xâm phạm
nào vào quyền của bạn đều làm bạn giận dữ, bạn có thể giết
người đàn bà... người bạn nghĩ là bạn yêu.
Có bản ngã rất lớn vận hành ở mọi nơi. Chúng ta muốn
mọi người đều giống như đồ vật. Chúng ta sở hữu họ giống
như đồ vật, chúng ta thu con người thành đồ vật. Đấy cũng
là thái độ chung về mọi vật.
Tôi đã từng nghe...
Một giáo sĩ Do Thái và một linh mục là hàng xóm nhau
và có một chút ít "ganh đua" giữa họ. Nếu Cohens có chiếc
xe ngựa mới làm thì Cha O'Flynn có xe với tốp ngựa... và
sự việc cứ sánh đôi như vậy. Một hôm linh mục đem về xe
Jaguar mới, cho nên giáo sĩ phải mua xe Bentley. Khi giáo
sĩ nhìn ra cửa sổ thì thấy rằng linh mục đang tưới nước lên
trên nóc máy ô tô. Ông ta mở cửa sổ ra và nói to, "Bác
cũng biết đấy không phải là cách đổ đầy bộ toả nhiệt."
"A ha!" linh mục nói, "tôi đang làm lễ rửa tội cho nó
bằng nước thánh - như thế còn nhiều hơn cả việc bác làm
cho chiếc xe của bác."
Một chút sau đó linh mục sửng sốt nhìn thấy giáo sĩ
đang nằm trên đường, cưa sắt trong tay, đang cưa đoạn cuối
cùng của ống xả xe ông ấy.
Đó là tâm trí - liên tục trong đua tranh. Bây giờ ông ta
đang cắt bao qui đầu. Ông ta phải làm việc gì đó. Đó là
cách thức chúng ta đang sống, cách thức của bản ngã. Bản
ngã không biết tình yêu, bản ngã không biết tình bạn, bản
ngã không biết từ bi. Bản ngã chỉ gây hấn, bạo hành.
Và bạn hỏi: "Tại sao ghen luôn bám lấy yêu như cái
bóng?"
Chẳng bao giờ như thế cả. Yêu không tạo ra hình bóng
chút nào. Yêu trong suốt đến độ nó không tạo ra hình bóng.
Yêu không phải là vật rắn, nó trong suốt. Không có hình
bóng nào được tạo ra từ yêu cả. Yêu là hiện tượng duy nhất
trên trái đất không tạo ra hình bóng.
#8Câu hỏi thứ tư:
Osho kính yêu, kìm nén là gì?
Kìm nén là sống một cuộc sống mà bạn không định
sống, kìm nén là làm những điều bạn chẳng bao giờ muốn
làm; kìm nén là trở thành người mà bạn không muốn thế.
Kìm nén là cách phá huỷ bản thân bạn, kìm nén là tự tử -
rất chậm dĩ nhiên, nhưng rất chắc chắn, sự đầu độc chậm
chạp. Diễn đạt là cuộc sống; kìm nén là tự tử.
Đây là thông điệp của Mật tông: Đừng sống cuộc sống
kìm nén, bằng không bạn không sống chút nào cả. Sống
một cuộc sống diễn đạt, sáng tạo, vui vẻ. Sống theo cách
Thượng đế mong muốn bạn sống; sống một cách tự nhiên.
Và chớ có sợ các tu sĩ. Lắng nghe bản năng mình, lắng
nghe thân thể mình, lắng nghe trái tim mình, lắng nghe
thông minh của bạn. Phụ thuộc vào chính bạn, và đi bất kì
đâu mà tự phát của bạn đưa tới, bạn sẽ chẳng bao giờ lúng
túng cả. Và đi một cách tự phát với cuộc sống tự nhiên của
bạn, một ngày nào đó bạn chắc chắn sẽ tới cánh cửa của
điều thiêng liêng.
Bản tính bạn là Thượng đế bên trong bạn. Sức kéo của
bản tính đó là sức kéo của Thượng đế bên trong bạn. Chớ
nghe những kẻ đầu độc, lắng nghe sức kéo của tự nhiên.
Vâng, tự nhiên cũng chưa đủ: còn có cả tự nhiên cao hơn -
nhưng cái cao hơn đến từ cái thấp hơn, hoa sen trưởng
thành từ bùn. Qua thân thể mà linh hồn trưởng thành. Qua
dục mà samadhi trưởng thành.
Nhớ lấy, qua thức ăn mà tâm thức trưởng thành. Ở
phương Đông chúng ta thường nói: Annam Brahma - thức
ăn là Thượng đế. Kiểu khẳng định gì thế này, rằng thức ăn
là Thượng đế? Thượng đế trưởng thành từ thức ăn: cái thấp
nhất được gắn với cái cao nhất, cái nông nhất được gắn với
cái sâu nhất.
Bây giờ các tu sĩ vẫn đang dạy bạn kìm nén phần thấp.
Và họ rất logic. Họ chỉ quên mỗi một điều - rằng Thượng
đế phi logic. Họ rất logic và điều đó hấp dẫn bạn, đó là lí
do tại sao bạn đã lắng nghe suốt bao nhiêu thời đại và đi
theo họ. Điều đó hấp dẫn bạn bởi lí do nếu bạn muốn đạt
tới cái cao hơn thì đừng nghe lời cái thấp hơn. Điều đó
dường như logic: nếu bạn muốn lên cao, bạn không thể đi
xuống thấp được. Thế thì đừng đi xuống thấp, hãy đi lên
cao - điều ấy rất hợp lí. Chỉ có mỗi điều rắc rối là Thượng
đế không hợp lí.
Mới hôm nọ Dhruva vừa nói chuyện với tôi. Trong
nhóm Sahaj của anh ta đôi khi có một số khoảnh khắc mà
toàn thể nhóm rơi vào im lặng - im lặng không từ đâu cả,
im lặng đến từ trời xanh. Và những khoảnh khắc im lặng đó
cực kì đẹp đẽ làm sao. Và anh ta nói, "Những khoảnh khắc
này bí ẩn thế. Chúng tôi không chế ngự chúng, chúng tôi
không nghĩ về chúng, chúng chỉ thỉnh thoảng tới. Nhưng
khi chúng tới toàn thể nhóm lập tức cảm thấy sự hiệu diện
của cái gì đó thiêng liêng, hay cái gì đó cao cả, cái gì đó
còn lớn hơn mọi người khác. Và mọi người lập tức trở nên
nhận biết rằng cái gì đó đang hiện diện, cái gì đó bí ẩn. Và
mọi người đều đi vào im lặng trong những khoảnh khắc
đó."
Bây giờ tâm trí logic của anh ta nghĩ, "Như vậy sẽ tốt
nếu mình có thể làm cho toàn thể nhóm trở thành im lặng."
Anh ta phải bắt đầu nghĩ, "Nếu những khoảnh khắc đó -
một đôi lần thôi - đẹp đẽ đến thế thì tại sao không làm cho
toàn thể nhóm im lặng?" Tôi nói, "Cách bạn nghĩ là như thế
đấy - logic, mà Thượng đế không logic. Nếu bạn cứ giữ im
lặng những khoảnh khắc đó sẽ chẳng bao giờ quay lại nữa."
Có một cực trong cuộc sống. Cả ngày bạn làm việc vất
vả, bạn chẻ củi, rồi đến đêm bạn đi vào giấc ngủ say nhất.
Bây giờ điều logic là - bạn có thể nghĩ một cách logic, đó là
toán học - sáng hôm sau bạn có thể nghĩ, "Cả ngày mình đã
làm việc nhiều thế và mệt mỏi, thế mà vẫn có giấc ngủ say
đến thế. Nếu mình thực hiện nghỉ cả ngày thì mình sẽ còn
có giấc ngủ say hơn nữa." Cho nên hôm sau bạn cứ nằm dài
trong ghế nghỉ, bạn thực hành nghỉ. Bạn có nghĩ là bạn sẽ
có giấc ngủ say không? Bạn sẽ mất ngay cả giấc ngủ thông
thường. Đấy là cách thức người giầu phải chịu đựng chứng
mất ngủ.
Thượng đế phi logic. Thượng đế đem giấc ngủ cho
người ăn xin, người đã làm việc cả ngày, đi hết chỗ nọ chỗ
kia trong mùa hè nóng bức, đi ăn xin. Thượng đế đem giấc
ngủ say cho người lao động, cho người đẽo đá, cho tiều
phu. Cả ngày họ đã mệt mỏi... từ mệt mỏi đó họ đi vào giấc
ngủ say.
Đây là một cực. Bạn càng cạn kiệt năng lượng, bạn
càng cần ngủ, bởi vì bạn chỉ có thể thu được nhiều năng
lượng từ giấc ngủ say. Nếu bạn dùng hết năng lượng của
mình, bạn tạo ra tình huống để cho bạn chìm vào giấc ngủ
say; Thượng đế phải cho bạn giấc ngủ say. Nếu bạn không
làm việc chút nào thì không có nhu cầu. Bạn đã không
dùng hết năng lượng được trao cho bạn, cho nên phỏng có
ích gì cho bạn thêm? Năng lượng chỉ được trao cho những
người dùng nó.
Bây giờ Dhruva mang tính logic. Anh ta nghĩ, "Nếu
chúng ta làm cho cả nhóm im lặng..." Nhưng ngay cả một
vài khoảnh khắc ấy rồi cũng sẽ bị lỡ, và toàn thể nhóm sẽ
trở thành rất, rất hay tán gẫu bên trong. Tất nhiên nhìn bên
ngoài họ vẫn còn im lặng, nhưng tâm trí của họ chạy phát
rồ bên trong. Ngay bây giờ họ đang làm việc vất vả, họ
đang bầy tỏ các xúc động, đang thanh tâm, đang đem mọi
thứ lên, tống mọi thứ ra; họ đang trở nên bị cạn kiệt. Thế
rồi tới vài khoảnh khắc khi họ bị cạn kiệt đến mức chẳng
còn gì để tống ra nữa. Trong khoảnh khắc đó, bỗng nhiên
có tiếp xúc; im lặng giáng xuống.
Nghỉ ngơi bắt nguồn từ lao động, im lặng bắt nguồn từ
biểu lộ. Đấy là cách Thượng đế làm việc. Cách thức của
ngài rất phi lí. Bây giờ nếu bạn thực sự muốn được an toàn
bạn sẽ phải sống một cuộc sống bất an. Nếu bạn thực sự
muốn sống, bạn sẽ phải sẵn sàng chết vào bất kì lúc nào.
Đấy là cái phi logic của Thượng đế! Nếu bạn thực sự muốn
đúng đắn chân thực, bạn sẽ phải mạo hiểm. Kìm nén chỉ là
cách tránh mạo hiểm.
Chẳng hạn, bạn đã được dạy đừng bao giờ giận dữ và
bạn nghĩ rằng người không bao giờ giận dữ nhất định là
người rất đáng yêu. Bạn lầm. Người không bao giờ giận dữ
sẽ không thể nào yêu được. Chúng đến cùng nhau, chúng
thường trong cùng một bọc. Người thực sự yêu đôi khi
cũng thực sự giận dữ. Nhưng cái giận của người đó là đẹp,
nó xuất phát từ tình yêu. Năng lượng của người đó nóng, và
bạn sẽ không cảm thấy tổn thương bởi giận dữ của người
đó. Trong thực tế, bạn sẽ cảm thấy biết ơn là người đó đã
giận dữ.
Bạn đã bao giờ quan sát điều đó chưa? Nếu bạn yêu ai
đó và bạn làm việc gì đó rồi người kia thực sự giận dữ, giận
dữ thẳng thắn, bạn cảm thấy biết ơn bởi vì người đó đã yêu
bạn nhiều đến mức người đó có thể đảm đương được giận
dữ. Bằng không tại sao...? Khi bạn không muốn đảm đương
giận dữ bạn vẫn còn lễ phép. Khi bạn không muốn đảm
đương điều gì đó bạn không muốn nhận bất kì mạo hiểm
nào, bạn cứ mỉm cười; điều ấy chẳng thành vấn đề. Nếu
con bạn định nhảy xuống vực thẳm liệu bạn vẫn còn không
giận được không? Bạn sẽ không kêu to lên chứ, bạn sẽ
không trở thành một năng lượng sôi sục chứ? Bạn có tiếp
tục mỉm cười được không? Điều ấy là không thể được.
Có một câu chuyện...
Ngày xưa câu chuyện đã xảy ra ở toà án Solomon, có
hai người đàn bà đánh nhau kịch kiệt để giành một đứa trẻ.
Cả hai đều lu loa rằng đứa trẻ là của mình. Thật rất khó
phân xử - quyết định thế nào đây? Đứa trẻ quá nhỏ nên nó
chưa nói được điều gì.
Solomon nhìn sự việc và nói, "Có một điều ta sẽ làm để
phân xử - ta sẽ chặt đôi đứa trẻ này và chia cho mỗi người
một nửa. Đấy là cách duy nhất. Ta phải công bằng và vô tư;
cả hai bên đều chẳng có bằng chứng nào chứng tỏ đứa trẻ
thuộc về A hay B. Cho nên với tư cách nhà vua ta quyết
định: Chặt đôi đứa trẻ và chia đều cho mỗi bên một nửa.
Người đàn bà đang ôm đứa trẻ tiếp tục mỉm cười, bà ta
rất vừa ý. Nhưng người đàn bà kia thì trở thành điên dại
dường như bà ấy muốn giết chết nhà vua! Bà ấy nói, "Bệ hạ
nói gì vậy? Bệ hạ điên à?" Bà ấy đang trong cơn cuồng nộ.
Bà ấy không còn là người đàn bà bình thường nữa, bà ấy là
hiện thân của giận dữ, bà ấy là ngọn lửa! Và người đàn bà
này nói, "Nếu đấy là công bằng thì tôi xin dẹp lời yêu cầu
của mình; hãy để cho đứa trẻ ở với người đàn bà kia. Đứa
trẻ thuộc về bà ấy, nó không phải là con tôi!" Giận dữ,
nước mắt dàn dụa khắp khuôn mặt bà ta.
Còn nhà vua thì nói, "Đứa trẻ thuộc về bà. Bà hãy giữ
lấy nó. Người đàn bà kia chỉ là giả dối, không thật." Người
đàn bà kia không thể biểu lộ được cái gì - và đứa trẻ sẽ bị
giết chết! Thực tế bà ta vẫn tiếp tục cười, chẳng thành vấn
đề gì với bà ta cả.
Khi bạn yêu bạn có thể giận. Khi bạn yêu bạn có thể
đảm đương được điều đó. Nếu bạn yêu chính mình - và
phải như thế trong cuộc sống, bằng không bạn sẽ bỏ lỡ
cuộc sống của mình - bạn sẽ không bao giờ kìm nén, bạn sẽ
bầy tỏ bất kì cái gì cuộc sống đem lại. Bạn sẽ bầy tỏ nó - cả
vui vẻ, nỗi buồn, đỉnh điểm, đáy điểm, cả ngày, cả đêm.
Nhưng bạn đã được nuôi dưỡng để trở nên giả dối, bạn
đã được nuôi dưỡng theo cách để trở thành kẻ đạo đức giả.
Khi bạn cảm thấy giận bạn vẫn cứ nở nụ cười tô vẽ. Khi
bạn đang cuồng nộ bạn kìm nén cơn cuồng nộ đó. Khi bạn
cảm thấy dâm dục bạn kìm nén nó và bạn cứ tụng mật chú.
Bạn chẳng bao giờ đúng với cái bên trong bạn.
Chuyện xảy ra...
Joe và con gái nhỏ của anh ta Midge làm một chuyến đi
tới công viên giải trí; trên đường họ dừng lại ăn một bữa
thịnh soạn. Tại công viên họ tới một gian hàng bánh mì kẹp
thịt và Midge kêu ầm lên, "Bố ơi, con muốn..." Joe dừng
con lại và mua cho con một chiếc bánh với đủ rau thơm.
Đến quầy ngô rang Midge lại la hét, "Bố ơi, con muốn..."
Joe cắt lời con và mua cho nó ngô rang.
Khi họ đến hàng kem, cô bé Midge lần nữa lại kêu lên,
"Bố ơi, con muốn..." Joe lại dừng con nhưng lần này nói,
"Con muốn, con muốn! Bố biết cái con muốn - kem chứ
gì!"
"Không, bố ạ," nó đoan chắc, "Con muốn nôn."
Đấy là điều nó muốn ngay từ ban đầu - nhưng ai nghe?
Kìm nén là không chịu nghe bản tính của bạn. Kìm nén
là thủ đoạn để phá huỷ bạn.
Mười hai gã trọc đầu, lũ quấy rối, bước vào một tiệm
rượu với áo vét Levi cài kín và đủ mọi trang bị. Chúng
bước tới chủ quán và nói, "Mười ba cốc bia đắng, mau lên."
"Nhưng các cậu chỉ có mười hai người."
"Này, chúng tao muốn mười ba cốc bia đắng."
Thế là chủ quán đưa bia cho chúng và tất cả chúng ngồi
xuống. Có một ông già nhỏ bé đang ngồi trong góc và tên
trưởng nhóm trọc đầu bước tới ông lão và nói, "Ông đấy à,
cha nội, đây là cốc bia cho ông."
Ông già nhỏ bé đáp, "Cám ơn, cám ơn - cậu thực hào
phóng, cậu bạn trẻ."
"Được thôi, chúng tôi không băn khoăn khi giúp đỡ
người què cụt."
"Nhưng tôi đâu có què."
"Ông sẽ què nếu ông không mua lượt bia tiếp."
Đấy là điều kìm nén là gì: nó là thủ đoạn làm què quặt
bạn. Nó là thủ đoạn phá huỷ bạn, nó là thủ đoạn làm yếu
bạn. Nó là thủ đoạn để đặt bạn chống lại chính mình: nó là
cách tạo ra xung khắc bên trong bạn, và bất kì khi nào một
người trong xung khắc với mình, tất nhiên người đó rất
yếu.
Xã hội đã chơi một trò chơi lớn: nó đẩy mọi người
chống lại chính mình. Cho nên bạn liên tục tranh đấu bên
trong với chính mình, bạn không còn năng lượng nào để
làm cái gì khác. Bạn không thể thấy nó đang xảy ra cho bạn
đấy sao? Liên tục tranh đấu... Xã hội đã phân chia bạn
thành một con người chia chẻ, nó làm cho bạn thành tinh
thần phân liệt và nó làm bạn lẫn lộn. Bạn đã trở thành khúc
gỗ trôi giạt: bạn không biết mình là ai, bạn không biết bạn
đang đi đâu. Bạn không biết bạn đang làm gì ở đây, bạn
không biết tại sao bạn lại ở đây ngay chỗ đầu tiên. Nó đã
làm bạn thực sự lẫn lộn. Và từ lẫn lộn này mới sinh ra các
lãnh tụ lớn: Aldolf Hitler, Mao Trạch Đông, Josef Stalin.
Và từ lẫn lộn này nảy sinh giáo hoàng Vatican, từ lẫn lộn
này cả nghìn lẻ một thứ nảy sinh ra. Nhưng bạn bị phá huỷ.
Mật tông nói cần phải diễn đạt - nhưng nhớ, diễn đạt
không có nghĩa vô trách nhiệm. Mật tông nói: diễn đạt một
cách thông minh và không hại gì xảy ra cho bất kì ai từ
bạn. Một người không thể làm hại chính mình thì sẽ chẳng
bao giờ làm hại bất kì ai. Còn người làm hại bản thân mình
thì là người nguy hiểm theo cách nào đó. Nếu người đó
thậm chí không yêu bản thân mình, người đó là nguy hiểm,
người đó có thể làm hại bất kì ai. Trong thực tế người đó sẽ
làm hại.
Khi bạn buồn, khi bạn thất vọng, bạn sẽ làm cho những
người xung quanh bạn cũng buồn và thất vọng. Khi bạn
hạnh phúc bạn sẽ tạo ra xã hội hạnh phúc, bởi vì hạnh phúc
chỉ tồn tại trong thế giới hạnh phúc. Nếu bạn sống vui vẻ
bạn cũng muốn mọi người được vui vẻ. Đấy mới là tôn
giáo đúng đắn: từ vui vẻ của chính bạn, bạn ban phúc cho
toàn bộ sự tồn tại.
Nhưng kìm nén làm cho bạn thành giả. Không phải là
bằng kìm nén mà giận, dục, tham bị phá huỷ, không. Chúng
vẫn còn đấy - chỉ có cái nhãn được thay đổi. Chúng đi vào
trong vô thức, chúng bắt đầu làm việc từ đó, chúng đi
ngầm. Và tất nhiên khi chúng đi ngầm chúng mạnh hơn.
Toàn bộ phong trào phân tâm học đang cố đem những cái
đi ngầm đó lên bề mặt. Một khi nó trở thành ý thức, bạn có
thể được tự do khỏi nó.
Một người Pháp đang ở Anh và bạn bè hỏi anh ta sống
thế nào. Anh ta nói anh ta làm việc rất tốt, trừ mỗi một
điều. "Khi tôi đến dự tiệc, bà chủ ấy, bà ấy chẳng nói cho
tôi biết 'buồng tiểu' ở đâu."
"A, anh George, anh muốn nói bà ấy không nói cho anh
toa lét ở đâu chứ gì. Đấy chỉ là tính thận trọng của người
Anh thôi. Thực tế bà ấy sẽ nói, "Ông có muốn rửa tay
không?" và điều đó mang cùng nghĩa."
Người Pháp ghi nhớ trong dạ điều này, và lần sau khi
anh ta đến một bữa tiệc khách khứa đang đứng đầy xung
quanh nghe bà chủ dặn dò, "Xin chào, thưa ông Du Pont,
ông có cần rửa tay không ạ?"
"Không thưa bà, cám ơn bà, tôi vừa mới rửa tay trước
cái cây trong vườn trước rồi ạ."
Đấy là điều vẫn xảy ra... chỉ cái tên là đổi. Bạn trở nên
lẫn lộn, bạn không biết cái gì là cái gì. Mọi thứ vẫn đấy -
chỉ cái nhãn thay đổi, và điều đó tạo ra một loại người
không lành mạnh. Bố mẹ bạn, xã hội bạn đã phá huỷ bạn;
bạn đang phá huỷ con bạn. Bây giờ đây là cái vòng luẩn
quẩn. Ai đó phải bước ra ngoài cái vòng luẩn quẩn này.
Nếu bạn hiểu đúng tôi thì tính chất sannyas của tôi là
nỗ lực để đem bạn ra ngoài cái vòng luẩn quẩn đó.
Chớ có giận bố mẹ bạn - họ không thể nào làm tốt hơn
những gì họ đã làm. Nhưng bây giờ trở nên ý thức nhiều
hơn, và đừng làm cũng những việc đó với con cái bạn. Để
cho chúng được diễn đạt nhiều hơn, dạy chúng diễn đạt
nhiều hơn. Giúp chúng để cho chúng trở nên chân thực
hơn, để cho chúng có thể đưa ra bất kì cái gì bên trong
chúng. Và chúng sẽ cực kì biết ơn bạn mãi, bởi vì sẽ không
có xung khắc bên trong chúng. Chúng sẽ là một khối,
chúng sẽ không trong phân mảnh. Và chúng sẽ chẳng bao
giờ bị lẫn lộn, chúng bao giờ cũng biết điều chúng muốn.
Và khi bạn biết đích xác điều mình muốn, bạn có thể
làm việc vì nó. Khi bạn không biết bạn thực sự muốn gì,
làm sao bạn làm việc vì nó được? Thế thì bất kì ai ảnh
hưởng tới bạn, bất kì ai nêu cho bạn bất kì ý tưởng nào... và
bạn bắt đầu theo người ấy. Bất kì lãnh tụ nào tới, bất kì ai
có thể thuyết phục bạn một cách có luận cứ, bạn đều bắt
đầu theo người đó. Bạn phải theo nhiều người, và họ tất cả
đều phá huỷ bạn.
Theo bản tính của mình thôi.
Thế hệ nọ phá huỷ thế hệ kia. Chừng nào ai đó còn
chưa trở nên rất tỉnh táo, nhận biết, việc phá huỷ nhất định
xảy ra.
#8Câu hỏi cuối cùng:
Osho kính yêu, tại sao tôi đã lấy người đàn
bà ghét tôi? Tôi cũng ghét cô ấy nữa?
Làm sao tôi biết được tại sao bạn lấy người đàn bà bạn
ghét và người đó ghét bạn? Có thể - đây chỉ là phỏng đoán
- các bạn đã lấy nhau bởi vì các bạn ghét nhau.
Có hai loại hôn nhân: hôn nhân vì yêu và hôn nhân vì
ghét. Hôn nhân vì yêu rất hiếm hoi; trong thực tế chúng
không xảy ra. Cái gọi là hôn nhân thường là hôn nhân vì
ghét. Chí ít về phần đàn bà điều đó rất đúng. Nếu họ muốn
tra tấn bạn, họ sẽ lấy bạn, bởi vì không có cách nào chắc
chắn hơn để tra tấn bạn. Đấy là cách tốt nhất.
Tôi đã từng nghe...
Mulla Nasruddin đã tự đẩy mình vào một tình thế rất
khó xử. Anh ta đã tán tỉnh ba cô một lúc, hứa hẹn với mỗi
người rằng anh ta sẽ lấy cô ấy. Sau đó họ gây sức ép lên
anh ta để buộc anh ta thực hiện lời hứa. Vô phương kế, anh
ta đến tư vấn luật sư của mình.
"Tôi gợi ý," luật sư nói, "rằng anh hãy để tôi thông báo
cho tất cả các báo rằng anh đã tự tử. Sau đó ta sẽ tổ chức
một đám tang giả... điều đó sẽ giải quyết rắc rối cho anh."
Họ lập tức bắt tay vào hành động. Trong khi luật sư
điện thoại đi khắp các toà báo thì Mulla thu xếp mọi sự cần
thiết với người làm dịch vụ lễ tang. Đó là một đám tang rất
ấn tượng. Vào đúng giờ mọi người sắp hàng trọng thể xung
quanh quan tài để nói lời vĩnh biệt cuối cùng với người đã
quá cố. Và rồi ba cô bạn của anh ta tới.
"Nasruddin đáng thương ơi," cô gái thứ nhất thở dài khi
nhìn vào cái xác, "anh ấy là một kẻ đáng khinh, nhưng em
chắc chắn là lỡ anh."
"Tạm biệt, Nasruddin," cô gái thứ hai khóc, "những
điều quá tồi tệ chẳng làm được tốt hơn."
Nhưng cô gái thứ ba thì phát rồ. "Anh là đồ chó dơ
dáy! - chết trước em sau khi đã hứa hẹn cưới nhau. Vì thế
em phải bắn anh, cho dù anh đã chết! Ít nhất điều đó mới
làm em hả giận." Nói rồi cô ta rút khẩu súng lục ra khỏi ví
và chĩa vào hình dáng người đang nằm sấp.
"Hượm đã! Đừng có quá kích động!" cái xác kêu lên,
lồm cồm bò dậy. "Em, anh sẽ cưới em!"
Tôi không biết tại sao bạn lại lấy người đàn bà ghét bạn
và bạn cũng ghét người đó. Nhưng quan sát xem: bạn phải
đang trong tình trạng lộn xộn ghê lắm. Nhưng mọi người
đều thế, cho nên đừng lo nghĩ. Điều này là tự nhiên, điều
kiện thông thường của nhân loại. Mọi người đều trong lộn
xộn. Không ai biết tại sao người ta định làm cái gì đó. Đôi
khi bạn lấy người đàn bà bởi khuôn mặt cô ta quyến rũ.
Nhưng hôn nhân liên quan gì tới khuôn mặt? Sau hai hay
ba ngày tuần trăng mật sẽ chấm dứt và bạn sẽ chẳng bao
giờ nhìn lại vào khuôn mặt đó nữa. Và bạn chẳng bao giờ
lấy được người đàn bà thực, bạn chỉ lấy được khuôn mặt,
hình dáng nào đó, và hình dáng chẳng liên quan gì cả. Hoặc
bạn có thể thích giọng nói của người đàn bà, giọng hát, rồi
bạn lấy... mọi người lấy nhau chỉ bởi các lí do ngu xuẩn.
Bây giờ thì giọng hát chẳng liên quan gì tới hôn nhân;
giọng hát không chuẩn bị thức ăn cho bạn, nó không dọn
giường cho bạn. Sau vài ngày bạn sẽ quên giọng hát đó.
Thực tại mà bạn phải sống với thì chẳng liên quan gì
tới những điều này. Người đàn bà nào đó có thân hình nào
đó, đường cong nào đó - nhưng đường cong đó làm gì cho
cuộc sống? Người đàn bà nào đó có dáng đi uyển chuyển
nào đó và điều đó quyến rũ bạn. Nhưng bạn có thể phí hoài
cuộc đời mình, cuộc đời gia đình của mình, chỉ vì những
thứ tầm thường nhỏ mọn thế thôi sao? Điều ấy không thể
được.
Cuộc sống cần nhiều cách tiếp cận thực tế, các nền tảng
thực tế hơn. Nhưng bạn vẫn cứ làm những điều hời hợt như
thế này. Lí do là ở chỗ bạn không nhận biết. Đấy không chỉ
là vấn đề hôn nhân, đấy là vấn đề của toàn bộ cuộc sống
của bạn. Đó là điều bạn vẫn cứ làm... bạn vẫn cứ làm do
thôi thúc của tình thế, không thấy sâu sắc rằng cuộc sống
cần nhiều nhận biết hơn, nhiều trách nhiệm hơn, nhiều hiểu
biết hơn, nhiều thông minh hơn.
Bắt đầu hiện hữu thông minh hơn đi, và bạn sẽ càng
ngày càng ít bị rắc rối hơn.
Quan sát nhiều vào.
Trở thành nhân chứng.
Đủ cho hôm nay.
************************************************************
#9 Vô trí là cánh cửa
Một khi trong cõi tràn đầy vui vẻ
tâm trí hiểu biết trở nên giàu có
và theo cách đó điều nọ hay điều kia trở thành
ích lợi nhất
ngay cả khi tâm trí bám theo sự vật nó cũng
không xa lánh chính mình.
Nụ của vui vẻ và hoan lạc cùng lá của niềm vinh
quang lớn lên.
Dù không có gì chảy tràn ra bất kì đâu
thì sung sướng không thể tả được cũng vẫn kết
quả.
Điều đã được làm cùng nơi và cái bản thân nó
trở thành đều là không có gì:
nhưng theo cách đó nó đã có ích cho cái này cái
kia.
Dù say mê hay không, hình mẫu cũng là cái
không.
Nếu tôi giống con lợn đam mê vũng bùn thế gian
ông phải bảo tôi sai lầm nào nằm trong tâm trí
không tì vết.
Bởi cái không ảnh hưởng đến người ta làm sao
mà người ta hiện bị tù túng?
Có hai cách tiếp cận tới thực tại: cách của trí năng và
cách của thông minh. Cách của trí năng là lí thuyết hoá về
nó, là nghĩ về nó, là suy xét về nó. Và tất cả mọi suy xét
đều vô nghĩa bởi vì làm sao bạn có thể suy xét về cái bạn
không biết? Làm sao bạn thậm chí có thể nghĩ về cái mà
bạn không biết?
Cái không biết không thể được nghĩ tới, không có cách
nào nghĩ về cái không biết; tất cả những điều bạn suy nghĩ
đều là cái đã biết cứ lặp lại trong tâm trí bạn. Vâng, bạn có
thể tạo ra những tổ hợp mới của những ý nghĩ cũ, nhưng
chỉ bằng cách tạo ra tổ hợp mới, bạn không đi vào khám
phá được cái thực. Bạn sẽ thành lừa dối.
Trí năng là kẻ lừa dối lớn nhất trên thế giới. Thông qua
trí năng con người đã tự lừa dối mình qua bao nhiêu thời
đại. Qua trí năng bạn giải thích lan man thực tại, bạn không
giải thích nó. Qua trí năng bạn tạo ra lớp bụi dầy quanh
mình đến độ bạn không thể thấy được thực tại chút nào;
bạn bị cắt rời khỏi thực tại, và bạn bị khép kín trong lời của
mình, trong ý nghĩ của mình, trong biện luận của mình.
Bạn bị lạc trong kinh sách của mình - không ai bị lạc ở bất
kì đâu khác. Chính trong rừng kinh sách con người mới bị
lạc.
Mật tông là con đường của thông minh, không của trí
năng. Nó không trả lời bất kì câu hỏi nào; nó không giải
thích bất kì cái gì chút nào, nó là không giải thích. Nó
không phải là việc hỏi, nó là cuộc truy tìm. Nó không phải
là hỏi về chân lí, nó là hỏi trong chân lí. Nó thấm đầy thực
tại. Nó cố phá huỷ mọi đám mây bao quanh bạn để cho bạn
có thể nhìn thấy thực tại như nó vốn thế.
Mật tông đi ra ngoài suy nghĩ. Đó là lí do tại sao yêu đã
được những người mật tông ca ngợi nhiều đến thế. Đó là lí
do tại sao cực thích yêu lại trở thành một biểu tượng cho
thực tại tối thượng: lí do là ở chỗ chỉ có trong cực thích yêu
bạn mới mất đi tâm trí trong vài khoảnh khắc. Đó là trạng
thái vô trí duy nhất có sẵn cho người thường, đó là khả
năng duy nhất cho bạn để có một thoáng nhìn vào thực tại.
Do đó, cực thích dục đã trở thành cực kì quan trọng
trên con đường Mật tông. Không phải nó cho bạn thực tại
tối thượng, nhưng ít nhất nó cho bạn cơ hội ra ngoài tâm
trí. Nó cho bạn cánh cửa sổ nhỏ... rất tạm thời; nó không
kéo dài lâu nhưng dầu vậy nó vẫn là khả năng duy nhất cho
bạn có tiếp xúc nào đó với thực tại. Bằng không bạn bao
giờ cũng bị bao quanh bởi ý nghĩ của mình và ý nghĩ chẳng
giải thích cái gì cả. Mọi giải thích đều đơn giản vô nghĩa.
Bây giờ tôi kể cho bạn một chuyện cười. Bạn biết tôi
không kể nhiều chuyện cười lắm...
Chuyện cười xảy ra cho một nông dân Ai cập đang
đứng ở góc phố - một người da mầu. Và anh ta thì đứng ở
góc phố nhìn lên rồi nói, "Trời ơi!" - anh ta có quan điểm
cá nhân - anh ta nói, "Thưa Trời, sao trời làm cho con có
mầu sẫm thế này?"
Và Trời nghĩ, rồi Trời nghiền ngẫm và Trời cố triết lí -
câu trả lời nào đó là cần - và rồi Trời nói, "Anh bạn trẻ, lí
do ta làm cho con sẫm mầu như vậy là để cho khi con chạy
trong rừng rậm thì mặt trời sẽ không làm cho con say nắng
được."
Chàng trai da mầu nói, "Ấy, ấy, con có như thế. Nhưng
thưa Trời, sao Trời làm cho tóc con thô như vậy?
Trời trả lời, "Này, lí do ta đã làm điều ấy, anh bạn trẻ ạ,
là để cho khi con chạy trong rừng rậm đi tìm thú hoang hay
hà mã và sư tử thì tóc con không bị mắc vào bụi cây."
"Đúng, đúng... nhưng thưa Trời, sao Trời làm cho chân
con dài thế?"
Trời trả lời, "Lí do ta làm cho chân con dài, con ạ, là để
cho khi con nhảy trong rừng rậm đi tìm con vật hoang, tê
giác, trâu và voi, con sẽ chạy rất nhanh. Con còn câu hỏi
nào nữa không?"
Cậu thanh niên da mầu nói, "Có, thưa Trời! Con đang
làm cái chết tiệt gì tại Poona đây?"
Chẳng lời giải thích nào có ích cả. Chẳng lời giải thích
nào giải thích được mọi điều. Bây giờ Trời cũng phải lúng
túng...
Thực tại của con người là bí ẩn. Không câu trả lời nào
có thể trả lời được nó, bởi vì ngay chỗ đầu tiên nó không
phải là câu hỏi. Nó là bí ẩn cần được sống, không phải là
vấn đề cần giải quyết.
Và nhớ phân biệt giữa vấn đề và bí ẩn: bí ẩn mang tính
tồn tại, vấn đề mang tính trí năng. Bí ẩn không do tâm trí
tạo ra, cho nên tâm trí không thể giải quyết được nó. Vấn
đề do tâm trí tạo ra, cho nên tâm trí có thể giải quyết nó,
không có vấn đề gì trong đó. Nhưng bí ẩn của cuộc sống -
bí ẩn của sự tồn tại này bao quanh bạn, những cây cối này,
những vì sao này, chim chóc này, mọi người, bản thân
bạn... làm sao bạn có thể giải quyết chúng qua tâm trí
được?
Tâm trí là kẻ vừa mới tới rất gần đây. Sự tồn tại đã
sống không có tâm trí từ lâu, rất lâu rồi... Tâm trí chỉ là một
cái phụ thêm, nó mới vừa xảy ra. Các nhà khoa học nói
rằng nếu chúng ta chia lịch sử con người thành 24 giờ,
trong một ngày, thì tâm trí chỉ mới tới có hai giây trước
đây... chỉ mới có hai giây trước đây! Nếu tiếp tục đo kiểu
như thế này - hai mươi tư giờ, toàn bộ lịch sử - tâm trí mới
chỉ tới có hai giây trước đây. Làm sao nó có thể giải quyết
được? Nó có thể giải quyết được cái gì? Nó không biết cái
bắt đầu, nó không biết cái kết thúc; mới chỉ đến ở khoảng
lưng chừng. Nó chẳng có cảnh quân gì.
Nếu người ta thực sự muốn biết điều chưa biết này là
gì, người ta phải vứt bỏ tâm trí, người ta phải biến mất
trong sự tồn tại. Đó là cách thức Mật tông. Mật tông không
phải là triết lí, Mật tông hoàn toàn mang tính tồn tại. Và
nhớ lấy, khi tôi nói rằng Mật tông mang tính tồn tại, tôi
không ngụ ý chủ nghĩa hiện sinh của Sartte, Camus, Marcel
và những người khác. Chủ nghĩa hiện sinh đó lại là triết lí,
triết lí về sự tồn tại, nhưng không phải là con đường của
Mật tông. Và khác biệt là bao la.
Các nhà triết học hiện sinh ở phương Tây chỉ tìm vào
cái tiêu cực: khổ não, dằn vặt, chán nản, buồn rầu, lo âu, vô
hi vọng, vô nghĩa, vô mục đích - tất cả mọi thứ tiêu cực.
Mật tông chỉ tìm đến tất cả những cái đẹp đẽ, vui vẻ, phúc
lạc. Mật tông nói: Sự tồn tại là cực thích, cực thích vĩnh
hằng cứ tiếp tục, tiếp tục mãi. Nó mãi mãi và mãi mãi là
cực thích, cực lạc.
Họ phải đi theo các hướng khác nhau. Sattre cứ nghĩ về
sự tồn tại. Mật tông nói: Suy nghĩ không phải là cánh cửa.
Nó chẳng dẫn đến đâu cả, nó là ngõ hẻm mù quáng; nó chỉ
đem bạn đến ngõ cụt. Triết học là vĩ đại - nếu bạn chỉ làm
trò hề thì triết học là vĩ đại; bạn có thể việc bé xé ra to và
bạn có thể thích thú ngón trò. Giống như hôm nọ tôi vừa
đọc một mẩu chuyện rất, rất triết lí. Suy ngẫm về nó mà
xem...
Một điều đặc biệt nhất xuất hiện với tôi, và tôi định kể
nó cho bạn nhân cơ hội nó có thể xuất hiện cho bạn nữa
vào một khoảnh khắc này khác, và khi nghe tôi, bạn sẽ xử
trí tình huống này tốt hơn khi nó xuất hiện trở .
Hôm qua tôi đến một nhà hàng và gọi bữa trưa. Tôi
ngồi cùng một nhóm vài người quanh chiếc bàn có chút ít
đồ ăn trưa. Bạn biết đấy, không đến... chỉ có khoảng sáu
hay bảy người ngồi quanh bàn... Tôi không biết nữa, tám
người...chín... quãng độ bốn mươi người đang ăn trưa ở
đấy... một nhóm nhỏ người.
Tôi gọi món ăn trưa là một cốc sữa. Bây giờ tôi thích
sữa. Bạn cũng biết tôi cảm giác thế nào về nước sữa bơ,
nhưng tôi thì thích sữa. Sữa là món tôi ưa chuộng. Tôi thích
sữa tươi, lạnh. Nếu nó âm ấm... thì khiếp quá! Nếu tôi nếm
nó thì tôi chẳng ưa.
Cuối cùng thì sữa cũng được đem ra. Và tôi vừa định
uống thì tôi nhận thấy nổi lềnh bềnh trên sữa là đốm bẩn
nhỏ đen tí xíu. Và tôi đang ở đây để nói với các bạn rằng
chẳng có gì trên thế giới này thành vấn đề với tôi như cái
vật đen đen tí xíu ấy! Nó trở thành điều quan trọng nhất
trong cuộc đời tôi trong vài phút tiếp. Trước hết tôi không
để cái thứ đáng nguyền rủa ấy làm hại sức khoẻ tôi, tôi sẽ
nói cho bạn! Bạn biết đấy, trong những ngày này ai mà biết
được nó là cái gì? Nó có thể là một mẩu cứng của chất
Stronium 90, bạn cũng biết. Hay có thể là một bầy vi trùng
thương hàn. Dẫu sao thì tôi cũng không muốn nuốt cái của
nợ ấy.
Bây giờ tôi đã thấy cái đốm đen đen đó trước - tôi là
người phức tạp, tôi sống như vậy - và tôi chắc chắn bạn
cũng thấy được chúng nữa. Bạn có thể thấy chúng ở bất kì
chỗ nào. Tuy nhiên, tôi nghĩ bạn sẽ thấy chúng có hầu hết
trong các bát đường. Đôi khi bạn có thể nhặt ra một thứ lẫn
trong bát bột mì. Bột yến mạch bị lẫn với hạt đen đen; tôi
nghĩ bột yến mạch hầu hết đều có các hạt đen đó, nếu bạn
muốn biết sự thật. Nhưng điều đó không xảy ra chỗ nọ thì
cũng xảy ra chỗ kia... Bây giờ điều làm tôi bận tâm về cái
đốm đen đen này là ở chỗ tôi không biết nó từ đâu tới. Đấy
là điều làm tôi băn khoăn. Tôi biết sữa được làm từ đâu -
và điều đó nữa cũng làm tôi bận tâm, bạn cũng biết, nhưng
ít nhất thì tôi biết nó bắt nguồn từ đâu. Cho nên tôi quyết
định vớt cái đốm đen đó ra khỏi sữa.
Bạn có biết làm việc đó khó khăn như thế nào không?
Cái đốm đen đen đó ranh như quỉ, chúng có thể cảm thấy
được cái thìa từ xa! Lúc bạn định múc cái thìa lên thì chúng
bắt đầu chạy quanh cốc, phải không? Bạn múc chúng lên và
chúng nhảy ra... và bạn càng rất cẩn thận thì chúng lại càng
khôn lên rồi chúng chìm xuống đáy cốc, và bạn phải ngồi
đợi đó như thằng khờ để cho nó nổi lên lần nữa.
Bây giờ một điều bạn có thể làm: nếu bạn lấy đầu ngón
tay chạm nhẹ vào cái đốm đó rất từ tốn, nó sẽ bám vào
ngón tay bạn cùng một giọt sữa lớn - và bạn sẽ vứt được nó
ra. Nhưng bạn biết đấy, khi bạn đang ngồi với một nhóm
người, bạn không muốn thò ngón tay vào trong sữa. Bạn
biết, một cậu láu cá chắc chắn sẽ nói, "Này! Sao bác thò tay
vào sữa thế?” Bạn sẽ nói gì nào, "Tôi định lấy cái đốm đen
đó ra" chăng? Bạn biết đấy, bạn không có câu trả lời.
Bây giờ một điều khác bạn có thể làm được. Bạn có thể
uống sữa rất cẩn thận, luôn để mắt tới cái đốm đen vào mọi
lúc. Lúc nó bắt đầu lại gần bạn thì bạn rời xa! Bạn lừa con
quỉ nhỏ! Nhưng điều đó chỉ có thể có nếu đốm nhỏ ở phía
cốc bên kia. Trong trường hợp nó lại gần hơn thì phải đợi...
vậy bạn sẽ làm gì? Bạn khuấy cốc... và những thứ đáng
nguyền rủa ấy dồn ngay vào giữa!
Này, tôi định bảo bạn điều tôi đã làm, cho nên khi điều
đó xảy ra cho bạn thì bạn có thể xử lí tình huống theo cách
tương tự. Tôi đứng dậy và bước vòng qua phía bên kia bàn,
và tôi uống ở đó! Anh ta chẳng bao giờ biết về nó!
Triết học từ bé xé ra to. Bạn có thể cứ tiếp tục mãi,
không có kết thúc cho điều đó. Trong ít nhất năm nghìn
năm con người đã triết lí hoá về từng thứ và mọi thứ: về cái
bắt đầu, về cái kết thúc, về cái ở giữa - về từng thứ và mọi
thứ. Và không một câu hỏi nào đã được giải quyết; không
một câu hỏi, không một câu hỏi nhỏ nhất đã được giải
quyết hay biến mất. Triết học đã chứng tỏ là một thứ nỗ lực
vô ích nhất... nhưng con người vẫn cứ tiếp tục, mặc dầu
biết rõ rằng nó chẳng bao giờ cho được cái gì. Tại sao? Nó
cứ hứa hẹn, nhưng chẳng bao giờ đưa ra cái gì cả. Thế thì
tại sao con người cứ tiếp tục nỗ lực này?
Việc ấy rẻ mạt. Nó chẳng đòi hỏi sự tham dự gì, nó
không phải là cam kết. Bạn có thể ngồi trên ghế và cứ nghĩ.
Nó là giấc mơ. Nó không yêu cầu bạn phải thay đổi để thấy
thực tại. Đấy mới là nơi cần đến dũng cảm, cần đến dũng
cảm phiêu lưu. Để biết được chân lí bạn phải đi vào cuộc
phiêu lưu lớn nhất có đấy. Bạn có thể bị lạc, ai mà biết
được? Bạn có thể chẳng bao giờ quay lại, ai mà biết được?
Hay bạn có thể quay lại được thay đổi hoàn toàn, và ai mà
biết được liệu nó là tốt hay xấu?
Cuộc hành trình này là không biết trước, hành trình là
không biết trước đến mức bạn thậm chí không thể lập kế
hoạch cho nó. Bạn phải nhảy vào nó. Bị bịt mắt, bạn phải
nhảy vào trong nó, trong bóng đêm, không bản đồ, không
biết bạn đi đâu, không biết đi làm gì. Chỉ có một vài người
liều lĩnh mới đi vào cuộc truy tìm sự tồn tại này. Cho nên
Mật tông chỉ hấp dẫn được rất ít người, nhưng những người
đó là muối trên trái đất này. Saraha là một trong số họ.
Bây giờ đến lời kinh. Đây là bốn câu kinh cuối của Bài
thơ hoàng đế của Saraha.
Một khi trong cõi tràn đầy vui vẻ
tâm trí hiểu biết trở nên giàu có
và theo cách đó điều nọ hay điều kia trở thành ích lợi
nhất
ngay cả khi nó bám theo sự vật thì nó cũng không xa
lánh chính mình.
Nhà vua phải đã bảo Saraha điều mọi người đang bàn
tán về ông. Họ đang nói về ông ấy là ông ấy đang si mê
trong các giác quan, ông ấy đang say mê hoan lạc. Ông ấy
không còn là sannyasin nữa; từ bỏ của ông ấy là giả, ông ấy
đã sa ngã.
Ông ấy đã xin phép nhà vua được trở thành sư Phật
giáo, và ông ấy đã trở thành sư Phật giáo. Ông ấy đã sống
một cuộc sống có kỉ luật và có kiểm soát của sư Phật giáo.
Và rồi người đàn bà cách mạng này tới, người đàn bà thợ
rèn tên này, và cô ấy làm biến đổi toàn bộ con người ông
ấy, toàn bộ cuộc đời ông ấy và toàn bộ phong thái của ông
ấy. Cô ấy đã phá huỷ cá tính của ông ấy. Cô ấy cho phép
ông ấy được tự do - tự do sống, tự do từ khoảnh khắc này
sang khoảnh khắc khác, không quá khứ, không tương lai.
Lẽ tự nhiên người thường, người bình thường bắt đầu
nghĩ rằng ông ấy đã sa ngã khỏi ân huệ, ông ấy đã phản
bội. Còn ông ấy đã từng là một brahmin vĩ đại và là một
học giả lớn; người ta đã hi vọng quá nhiều vào ông ấy, rằng
ông ấy sẽ đem lại tri thức cho đất nước, thế mà bây giờ ông
ấy giống như chó điên. Cả nghìn lẻ một câu chuyện đã lan
truyền khắp đất nước về ông ấy, và nhà vua phải nói cho
ông ấy điều mọi người đang nghĩ về Saraha. Nhà vua bị tổn
thương; nhà vua đã yêu con người này, nhà vua đã kính
trọng con người này - nhưng nhà vua cũng trong cùng một
thế giới với mọi người, cách nghĩ của nhà vua cũng tương
tự như cách nghĩ của mọi người. Nhà vua không có sáng
suốt nào khi nhìn vào thực tại hay vào chính mình.
Saraha nói với nhà vua: Một lần, chỉ một lần thôi, nếu
bệ hạ biết vui vẻ là gì, bệ hạ sẽ quên tất cả những câu
chuyện này. Một lần, thậm chí chỉ một lần thôi, nếu bệ hạ
biết được hương vị cuộc sống là gì, bệ hạ sẽ quên tất cả
những điều vô nghĩa này về tính cách, đức hạnh, sự tôn
kính.
Bạn có thể tiếp tục sống một cuộc sống đáng kính chỉ
nếu bạn chết, bạn có thể sống theo cách đáng kính trọng
nếu bạn chưa tiếp xúc với cuộc sống. Cuộc sống là hiện
tượng gốc rễ. Nó là hỗn độn - hỗn độn rất sáng tạo, nhưng
dẫu sao nó vẫn là hỗn độn.
Saraha nói:
Một khi trong cõi tràn đầy vui vẻ
tâm trí hiểu biết trở nên giàu có...
Nhưng vấn đề là việc kinh nghiệm nó.
Saraha nói: Tôi không thể giải thích cái gì đã xảy ra
cho tôi, nhưng tôi có thể nói về điều này: nếu bạn nếm trải
nó dù chỉ một lần thì bạn sẽ được biến đổi. Việc nếm trải
tạo ra biến đổi. Tôi không định thuyết phục bạn theo bất kì
cách thức biện luận nào, tôi không có triết lí, Saraha nói.
Tôi có kinh nghiệm chắc chắn, tôi có thể chia sẻ kinh
nghiệm đó với bạn, nhưng việc chia sẻ đó không thể chỉ ở
phía tôi. Bạn sẽ phải thay đổi quan điểm giáo điều của
mình, bạn sẽ phải cùng tôi đi vào cái chưa biết. Tôi có thể
đưa bạn tới cánh cửa sổ đó mà tại đó sự tồn tại là rõ ràng,
trong suốt, nhưng bạn sẽ phải nắm tay tôi và đi tới cửa sổ
đó.
Đó chính là điều thầy định làm: thầy nắm tay của đệ tử
và đưa người đó tới chỗ mở từ đó người đó có thể nhìn vào
Thượng đế. Theo một cách biểu dụ, thầy cho bạn mượn đôi
mắt của thầy. Một khi bạn đã nếm trải, thế thì không có vấn
đề gì nữa, thế thì chính việc nếm trải đó sẽ cứ lôi kéo bạn.
Thế thì việc lôi kéo sẽ lớn lao đến mức bạn không thể còn
nguyên tại chỗ bạn đã từng ở và sống tẻ nhạt nữa.
Một khi trong cõi tràn đầy vui vẻ
tâm trí hiểu biết trở nên giàu có...
Nhưng cần phải có tâm trí hiểu biết để nếm trải vui vẻ
đó - tâm trí không bị trĩu nặng với việc che mắt quá nhiều,
tâm trí cởi mở.
Bây giờ đây là vấn đề với những người đang quá gắn
bó với triết học, tôn giáo, kinh sách, lí thuyết, giáo điều:
vấn đề là ở chỗ họ có quá nhiều tấm che mắt, hết tầng nọ
đến tầng kia. Mắt họ bị che kín sau biết bao lớp màn và lớp
màn và lớp màn. Những lớp màn này phải được cởi bỏ hết
như bạn bóc củ hành. Tất cả những lớp màn này phải bị vứt
bỏ hết; thế thì bạn có tâm trí xét thấy.
Ngay bây giờ đây, bất kì cái gì bạn biết đều chỉ là tâm
trí không thấy. Nó chỉ giả vờ là nó thấy; nó chỉ nói, chỉ tin
rằng nó thấy. Mắt bạn không thấy, tai bạn không nghe, và
tay bạn không chạm - bởi vì bạn đã đánh mất nhạy cảm đó,
dòng chảy đó có thể làm cho mắt bạn thấy mắt, có thể làm
cho tai bạn nghe tai. Đó là lí do tại sao Jesus cứ phải nói đi
nói lại với các đệ tử của mình: nếu các ông có thể nhìn,
nhìn nó đi! Nếu các ông có mắt, nhìn nó đi! Nếu các ông có
tai, hãy nghe nó, nghe nó đi! Ông ấy đang nói cho những
người không mù và những người không điếc. Họ có khả
năng để thấy như bạn, họ có khả năng nghe như bạn; họ là
những người bình thường.
Nhưng tại sao ông ấy cứ phải nhấn mạnh đi nhấn mạnh
lại: Nếu các ông có mắt...? Ông ấy có luôn nói với người
mù như bạn không? Nhưng ông ấy ngụ ý gì khi ông ấy nói:
Nếu các ông có mắt...? Tại sao lại 'nếu' này? Đấy là một cái
'nếu' vĩ đại, bởi vì mọi người dường như có mắt vậy mà họ
không có. Và cái dường như ấy là rất nguy hiểm, bởi vì họ
cứ tin rằng họ có mắt.
Bạn đã bao giờ nhìn vào bất kì vật gì mà không có ý
nghĩ chen vào, can thiệp vào, làm sao lãng, diễn giải
không? Bạn đã bao giờ thấy một bông hồng mà ngôn ngữ
không tới không, tâm trí bạn không lập tức cất tiếng, "Bông
hồng đấy, hoa hồng đẹp"... thế này thế nọ không? Khoảnh
khắc bạn nói nó là bông hồng thì bạn không thấy bông hoa
này nữa. Thế thì tất cả các hoa hồng mà bạn đã từng thấy
và đã nghe thấy nói đều đang đứng xếp hàng, và bông hoa
thực này xếp ở cuối. Khoảnh khắc bạn nói đấy là bông
hồng, bạn đang phủ thêm một lớp màn lên mắt mình.
Ngôn ngữ là bức màn lớn nhất. Bạn không thể thấy
được bông hoa hồng này như nó vẫn thế nếu không gọi nó
là hoa hồng sao? Cần gì ở đây nào? Bạn không thể chỉ nhìn
vào thực tại này mà không có ý tưởng nào, không có đám
mây nào bay quanh bạn sao? Bạn không thể hiện hữu, trong
một khoảnh khắc, mà không có ngôn ngữ được sao? Nếu
bạn không có ngôn ngữ trong một khoảnh khắc, bạn sẽ có
tâm trí thấy. Đôi khi bắt đầu thử điều ấy đi. Ngồi cạnh một
cái cây, chỉ nhìn vào cây và không nghĩ nó là cây gì. Và
đừng nghĩ rằng đấy là cây, mà cũng đừng nghĩ rằng nó đẹp
hay xấu; đừng đem tâm trí bạn vào chút nào. Chỉ quan sát.
Dù nó là bất kì cái gì - X, Y, Z - cứ để cho nó là bất kì cái
gì. Đừng đánh giá.
Jesus nói: Không phán xét. Ngôn ngữ là phán xét. Với
phán xét mọi định kiến kéo tới. Với phán xét toàn bộ quá
khứ của bạn kéo tới. Và bất kì khi nào quá khứ tới, bạn bị
loại khỏi hiện tại.
Tôi đã đọc...
Có một người làm chủ một ga ra và anh ta có một con
mèo. Một hôm anh ta đổ xăng vào xe của khách hàng và vô
ý làm tràn một ít xăng vào sữa của mèo. Con mèo uống sữa
đó và bắt đầu chạy vòng quanh chỗ đó với tốc độ sáu mươi
cây số một giờ. Rồi bỗng nhiên nó dừng sững .
Người khách hàng nói, "Con mèo chết rồi sao?"
"Không," ông chủ ga ra nói, "Tôi nghĩ đấy là hết xăng
thôi."
Ông chủ ga ra có ngôn ngữ của mình, quá khứ của
mình, định kiến của mình. Ông ta hiểu mọi thứ theo một
cách nào đó. Ông ta nói, "Không tôi nghĩ đấy là hết xăng
thôi." Và điều này thì xảy ra thường xuyên.
Chuyện xảy ra...
Chuyện xảy ra trong khi Sarvesh, một sannyasin có tài
nói tiếng bụng với một con búp bê nói, đang ở đó và anh ta
đang biểu diễn trong thính phòng Radha. Con búp bê đang
kể một chuyện cười về các tôn giáo và nòi giống khác nhau
và về mọi thứ. Thế rồi nó nói, "Được rồi bây giờ ta hãy kể
một câu chuyện cười về người Đức."
Thế là một sannyasin người Đức - không phải Haridas,
bạn nhớ đấy - đứng dậy và nói, "Tôi sẽ không cho anh kể
chuyện cười về người Đức! Chúng tôi không ngu đần như
anh nghĩ đâu, anh biết chứ?"
"Bình tĩnh đã thưa ông ấy," Sarvesh nói, "Xin hãy bình
tĩnh và ngồi xuống. Đây không có chuyện cá nhân nào cả."
"Tôi không nói với anh nhé," người Đức nói, "Tôi đang
nói với con bé trên đầu gối anh kia!"
Tâm trí bạn là tâm trí bạn. Nó bao giờ cũng có đó - dầy
hay mỏng, tốt hay xấu, nó bao giờ cũng có đó. Thông minh
hay không thông minh, nó bao giờ cũng có đó. Người hiểu
biết hay người dốt nát, nó bao giờ cũng có đó. Có giáo dục,
không giáo dục, nó bao giờ cũng có đó. Người Đức, người
Ấn Độ, người Mĩ, nó bao giờ cũng có đó. Và thực tại
không phải là người Đức, thực tại không phải là người Mĩ
và thực tại cũng chẳng phải là người Ấn Độ, cho nên khi
bạn tới với con mắt người Đức, con mắt người Ấn Độ, con
mắt người Mĩ, con mắt người Hindu, con mắt người Mô ha
mét giáo, con mắt người Ki tô giáo, bạn đều bỏ lỡ thực tại.
Hãy bắt đầu... Điều này sẽ cho bạn chuẩn bị lớn cho
bước nhảy vào trong Mật tông. Hãy bắt đầu... bất kì khi nào
bạn ngồi, đi, bước, nói, cố gắng duy trì đi duy trì lại với cái
thực, cái không diễn giải, không phán xét. Và dần dần, dần
dần cánh cửa mở ra. Dần dần, dần dần một vài khoảnh khắc
bắt đầu đến với bạn mà đấy không phải là khoảnh khắc của
tâm trí - cái nhìn phi ngôn ngữ về thực tại, cái nhìn phi tâm
trí về thực tại - và những cái đó sẽ chuẩn bị cho bạn.
Saraha nói:
Một khi trong cõi tràn đầy vui vẻ
tâm trí hiểu biết trở nên giàu có...
Cho nên điều đầu tiên là tâm trí thấy, và điều thứ hai là,
đừng tránh vui vẻ. Tiến lại gần chúng với trái tim cởi mở,
với cảm nhận, với bản thể đón chào; hấp thu chúng. Bất kì
đâu vui vẻ hiện hữu, Thượng đế hiện hữu. Đó là thông điệp
rút gọn của Mật tông: Bất kì đâu vui vẻ hiện hữu, Thượng
đế hiện hữu.
Và vui vẻ có ba bình diện. Bình diện thứ nhất là cái
chúng ta gọi là hoan lạc. Hoan lạc là của thân thể. Bình
diện thứ hai là hạnh phúc. Hạnh phúc là của tâm trí. Bình
diện thứ ba là phúc lạc. Phúc lạc là của tâm hồn, tâm linh.
Nhưng cả ba bình diện này đều chia sẻ một thực tại và thực
tại đó là vui vẻ. Vui vẻ được chuyển thành ngôn ngữ của
thân thể trở thành hoan lạc, vui vẻ nhận được qua thân thể
trở thành hoan lạc. Vui vẻ nhận được qua tâm trí trở thành
hạnh phúc. Vui vẻ nhận được không qua tâm trí lẫn không
qua thân thể - nhận được không có thân thể, không có tâm
trí - trở thành phúc lạc. Đó là ba tầng của vui vẻ.
Vui vẻ là thực tại duy nhất.
Vui vẻ là Thượng đế!
Vui vẻ là chất liệu tạo nên sự tồn tại.
Saraha nói: Sẵn có cho vui vẻ dù nó tới từ bất kì đâu.
Chớ bao giờ từ chối nó. Đừng kết án nó. Khi nó là từ thân
thể, thì sao? Thế thì Thượng đế đang gõ vào thân thể bạn
đấy. Khi bạn đang ăn và bạn cảm thấy vui vẻ nào đó thì bạn
hãy tận hưởng thức ăn, đấy là Thượng đế; bạn đang nuốt
ông ấy. Khi bạn ôm trong tay người đàn bà hay đàn ông
hay người bạn hay bất kì ai, với tình yêu mênh mông và có
xúc động trong năng lượng thân thể bạn, có điệu vũ, điệu
vũ sâu sắc trong năng lượng thân thể bạn; khi bạn đang
được kích động - một thứ gì đó giống như điện rung động,
đổi mới, làm tươi tắn bạn, cái gì đó làm cho bạn sinh động
hơn bạn đã từng như trước đây - đó là vui vẻ, đó là Thượng
đế đang đến qua thân thể. Khi nghe nhạc bạn cảm thấy cực
kì hạnh phúc, đấy là vui vẻ qua tâm trí. Nhìn bông hoa mà
không chạm vào nó và không đem tâm trí vào trong nó,
một khoảnh khắc tới khi có niềm phúc lạc - phúc lành tinh
tế, im lặng, sâu lắng. Nhưng tất cả những cái đó đều là biểu
lộ khác nhau của vui vẻ.
'Vui vẻ' là một trong những từ đẹp đẽ nhất trong tiếng
Anh. Nó bao quát toàn bộ phạm vi của mọi loại hạnh phúc.
Mật tông nói rằng điều đầu tiên là sẵn có cho vui vẻ. Bạn sẽ
ngạc nhiên: tại sao nhấn mạnh điều này? Chúng ta không
sẵn có cho vui vẻ hay sao? Vâng, đáng buồn phải nói,
nhưng nó là vậy: bạn không sẵn có. Chẳng ai sẵn có cả.
Chúng ta nhạy cảm với đau khổ hơn; chúng ta sẵn sàng
chịu đau khổ hơn là chúng ta sẵn sàng vui vẻ; chúng ta sẵn
có cho khổ hơn là cho vui vẻ. Có cái gì đó trong nó.
Vui vẻ lấy đi bản ngã của bạn, còn khổ cho bạn bản
ngã theo một cách thức rất mạnh. Khổ tạo ra bản ngã, còn
vui vẻ lấy đi bản ngã. Bất kì khoảnh khắc vui mừng nào
bạn đều bị mất trong nó. Khoảnh khắc vui mừng không
phải là khoảnh khắc của bản ngã; khoảnh khắc khổ chính là
khoảnh khắc bản ngã cô đặc . Khi bạn khổ, bạn có đấy; khi
bạn vui vẻ, bạn không có.
Cho nên để tôi nhắc : Bởi vì chúng ta đều là những bản
ngã chúng ta sẵn có cho đau khổ, khổ, buồn bã, bất hạnh
hơn. Chúng ta tạo ra cuộc sống không vui vẻ xung quanh
mình. Chúng ta chuyển đổi mọi cơ hội vui vẻ thành buồn
khổ bởi vì đó là cách duy nhất cho bản ngã tồn tại. Bản ngã
chỉ có thể tồn tại trong địa ngục. Trên thiên dường bản ngã
không thể tồn tại được.
Bạn đã được dạy bảo suốt bao nhiêu thế kỉ rằng nếu
bạn trở thành vô ngã, bạn sẽ vào thiên đường. Tôi nói cho
bạn: Nếu bạn trở thành vô ngã, thiên đường đi vào trong
bạn. Thiên đường không phải là nơi chốn địa lí ở đâu đó,
không phải là bạn đi tới đó. Khi bạn vô ngã, bạn là thiên
đường. Khi bạn bản ngã, bạn là địa ngục. Không phải địa
ngục là một nơi nào đó dưới đáy của sự tồn tại và thiên
đường là đâu đó trên đỉnh của sự tồn tại - đấy chỉ là những
biểu dụ. Thiên đường và địa ngục là những trạng thái của
con người.
Khi bạn có đó, bạn trong địa ngục. Khi bạn không có
đó, bạn trong thiên đường. Và đó là lí do tại sao bạn quá
gắn bó với bản ngã của mình và bạn muốn cảm thấy bản
thân mình - rằng bạn là tách biệt, khác biệt, duy nhất, thế
này thế nọ... bạn sẽ vẫn còn khổ. Bây giờ điều ngược đời
là: bản ngã tạo ra khổ - và bản ngã muốn vui vẻ. Bản ngã
tìm kiếm, rất tham lam vui vẻ; nó muốn có mọi vui vẻ có
thể có - và bản ngã tạo ra khổ. Bây giờ bạn mắc bẫy. Bản
ngã càng tạo ra khổ, bản ngã lại càng quan tâm hơn đến
việc được vui vẻ. Nhưng nó chẳng bao giờ tạo ra vui vẻ;
vui vẻ không phải là chức năng của nó. Sáng suốt này là
sáng suốt của Mật tông.
Và một khoảnh khắc của vui vẻ.. cho dù một lần,
Saraha nói, cũng đủ làm thay đổi bệ hạ, thưa bệ hạ, ông ấy
nói với nhà vua. Một khoảnh khắc, chỉ một lần, cũng sẽ đủ
luận cứ và chứng minh cho mọi kiểu cuộc sống mà tôi đang
sống, dù tôi là kiểu người nào.
Một khi trong cõi tràn đầy vui vẻ
tâm trí hiểu biết trở nên giàu có...
Và tâm trí chẳng bao giờ được giầu có bằng cách triết
lí. Bằng lí thuyết nó không thể giầu lên được, bằng tri thức
nó không thể giầu lên được - chỉ có bằng kinh nghiệm thôi.
Tâm trí giầu có nghĩa là tâm trí đã kinh nghiệm điều gì đó
của cái thực, điều gì đó của chân lí. Chỉ có một cái giầu có
- đó là về chân lí. Và chỉ có một cái nghèo khó, đó là dối
trá. Nếu bạn không biết chân lí, bạn sống trong dối trá, ảo
tưởng, phóng chiếu, mơ mộng.
...và theo cách đó điều nọ hay điều kia trở thành ích lợi
nhất
ngay cả khi nó bám theo sự vật thì nó cũng không xa
lánh chính mình.
Tại sao người thường đuổi theo các sự vật? Ai đó muốn
có chiếc xe hơi, ai đó muốn ngôi nhà và ai đó muốn có tiền
và ai đó muốn quyền lực - tại sao mọi người đều đuổi theo
các sự vật? Lí do cơ bản, nền tảng cho khao khát của họ và
các hoạt động cuồng nhiệt là gì? Bạn sẽ ngạc nhiên... Mật
tông nói: Họ muốn chạy xa khỏi chính họ. Họ không chạy
hướng về các sự vật, họ đơn giản muốn chạy khỏi chính họ.
Sự vật là cái cớ, chúng giúp bạn quay lưng lại bản thân
mình. Bạn sợ bản thân mình; có nỗi sợ lớn về bản thân
mình.
Điều ấy xảy ra hàng ngày: bất kì khi nào một người đến
gần hơn với thiền, người đó đều trở nên hoảng sợ. Tại sao?
- bởi vì khi bạn nhìn vào bản thân mình bạn sẽ không tìm
thấy ai ở đó cả. Cái không thuần khiết, vực thẳm - cái
không như vực thẳm. Bạn bắt đầu run rẩy, bạn đang đứng
chênh vênh trên vách đá... chỉ một bước sai lầm là bạn kết
thúc. Người ta bắt đầu chạy khỏi bản thân mình. Mọi người
đều chạy - chẳng vì cái gì, mọi người đang chạy khỏi bản
thân mình. Họ không chạy vì cái gì đó, họ đang chạy khỏi
cái gì đó. Và cái gì đó là bản thể riêng của họ.
Cho nên bất kì khi nào bạn bận bịu, bạn cảm thấy tốt.
Bất kì khi nào bạn không bận bịu, bạn cảm thấy rất bất ổn,
rất bất ổn. Chẳng có gì để làm, bạn bắt đầu rơi về bản thân
mình. Nếu có cái gì đó cần phải làm, bạn tham gia ngay;
được tham gia bạn có thể quên cái vực thẳm đó, cái vẫn cứ
gọi bạn từ bên trong. Vực thẳm đó là điều Thượng đế là gì.
Chấp nhận vực thẳm đó, trở nên thân thiện với vực
thẳm đó là bước đầu tiên hướng tới thực tại.
...và theo cách đó điều nọ hay điều kia trở thành ích lợi
nhất
ngay cả khi nó bám theo...
Saraha nói những người thường đang đuổi theo các sự
vật bởi vì họ muốn tránh bản thân họ. Nhưng người đã đi
tới biết chân lí là gì, cho dù người đó có tiếp tục hướng tới
các sự vật, người đó vẫn không bị lừa, bởi vì người đó cũng
sẽ tận hưởng. Trong thực tế người đó là người duy nhất sẽ
tận hưởng.
Bạn đang đuổi theo sự vật bởi vì bạn muốn tránh bản
thân mình. Người đó chẳng có đâu, chẳng có gì để tránh cả,
người đó không trốn thoát khỏi đâu cả - người đó có thể tận
hưởng mọi thứ. Trong thực tế chỉ người đó mới có thể tận
hưởng mọi thứ. Làm sao bạn có thể tận hưởng được mọi
thứ? - bởi vì bạn thường xuyên sợ bản thể của riêng mình.
Saraha nói: Nếu bạn thấy người mật tông tận hưởng
đàn bà hay tận hưởng bữa ăn ngon hay uống rượu, chớ
phán xét người đó bởi vì người đó trông giống như bất kì
người thường nào khác; người đó không phải vậy. Khác
biệt là rất sâu sắc, khác biệt là rất bản chất. Trên bề mặt họ
cả hai trông giống nhau. Làm sao bạn có thể phân biệt được
người đang theo đuổi người đàn bà là người thường hay
người mật tông? Từ bên ngoài rất khó phân biệt, bởi vì từ
bên ngoài họ trông gần như nhau.
Lấy vài thí dụ: Hai vũ công đang nhảy múa. Một vũ
công đang nhảy chỉ để biểu diễn, để cảm thấy bản ngã -
rằng mình là vũ công lớn. Đấy chỉ là biểu diễn. Người đó
nhìn vào mắt mọi người để xem họ đang nghĩ gì. Người đó
chờ đợi tán thưởng của họ, người đó hi vọng họ sẽ tán
thưởng mình. Họ sẽ giúp cho bản ngã người đó mạnh thêm
một chút ít. Và rồi còn vũ công nữa cũng trên cùng sàn
diễn, nhảy múa bởi vì người đó tận hưởng việc múa. Người
đó không biểu diễn. Người đó thậm chí không bận tâm về
việc mọi người có tán thưởng hay không, mọi người có đó
hay không. Người đó bị cuốn hút, hoàn toàn bị cuốn hút
trong điệu vũ của mình. Bạn có thể phân biệt được hai
người đó từ bên ngoài không? Điều đó sẽ rất khó khăn. Khả
năng nhiều hơn là bạn không thể phân biệt nổi. Thậm chí
bạn có thể nghĩ rằng người biểu diễn là vũ công vĩ đại, bởi
vì người đó nói cùng ngôn ngữ của bản ngã mà bạn hiểu.
Người không biểu diễn trông có vẻ hơi kì dị. Người không
biểu diễn sẽ tự phát đến độ chừng nào bạn chưa biết ngôn
ngữ của tự phát, bạn không thể hiểu được người đó.
Để hiểu bất kì cái gì, ít nhất bạn phải biết ngôn ngữ.
Người mật tông ngồi bên cạnh người đàn bà, cầm tay cô ta,
và người thường cầm tay người đàn bà - làm sao bạn phân
biệt được giữa hai người? Người thường đang cố gắng
thoát khỏi bản thân mình. Người đó muốn được biến mất
vào trong người đàn bà này để cho người đó có thể quên
được mình. Bản thân người đó không yêu chính mình, đó là
lí do tại sao người đó yêu người đàn bà này - để cho thực
tại của người đó có thể bị quên đi. Người đó dùng người
đàn bà này tựa như một thứ giải khát có cồn: người đàn bà
này làm cho người đó say và người đó quên mất bản thân
mình. Điều đó có ích, nó cho người đó thảnh thơi nào đó.
Trong một vài khoảnh khắc ít nhất người đó cũng không
còn trong lo âu thông thường của mình.
Còn người mật tông, cầm tay người đàn bà trong vui vẻ
vô biên... Không phải là người đó muốn trốn thoát - chẳng
có chỗ nào mà trốn cả, và cũng chẳng có ai để mà trốn.
Người đó cầm tay người đàn bà chỉ để chia sẻ điều gì đó
cực kì có giá trị với cô ấy.
Bạn không thể chia sẻ mọi thứ với mọi người được. Có
vài thứ bạn chỉ có thể chia sẻ trong tình yêu, có vài thứ bạn
chỉ có thể chia sẻ trong tin cậy.
Mọi người hay hỏi tôi tại sao tôi không nói với đông
đảo quần chúng. Tôi không nói với họ bởi vì tôi có cái gì
đó để chia sẻ, và cái đó chỉ có thể được chia sẻ trong tin cậy
sâu sắc, cái đó chỉ có thể được chia sẻ trong tình yêu sâu
sắc. Tôi chỉ có thể nói với những người đang yêu tôi. Bằng
không điều đó là vô nghĩa: họ sẽ không hiểu, họ sẽ hiểu
lầm. Không có cách nào để làm cho điều đó thành hiểu
được. Nó có thể được trao đổi chỉ khi bạn đã sẵn sàng đáp
ứng.
Khi trái tim bạn sẵn sàng, cởi mở, tôi có thể chơi trên
trái tim bạn và bản nhạc vĩ đại có thể sinh ra. Nhưng nếu
bạn đến với sự đóng kín, không tin cậy, hoài nghi, tôi
không thể tạo ra được bản nhạc đó. Điều đó là không thể
được, bởi vì bạn sẽ không cho phép tôi đi vào cốt lõi sâu
kín nhất của con người bạn và chơi trên trái tim bạn. Nếu
bạn không cho phép tôi, bản nhạc sẽ không tạo ra được.
Và rồi bạn muốn biết liệu bản nhạc có tồn tại hay
không... và cách duy nhất để làm cho bạn nhận biết rằng nó
tồn tại là tạo ra nó trong bạn. Bạn nói, "Có chứ, tôi sẽ tin
cậy nếu tôi có thể kinh nghiệm được bản nhạc." Vấn đề là ở
chỗ bạn không thể kinh nghiệm được bản nhạc chừng nào
bạn còn chưa tin cậy. Nó phải được tạo ra, chỉ thế thì bạn
mới có thể biết rằng nó hiện hữu. Nhưng trước khi nó có
thể được biết, tin cậy là yêu cầu cơ bản.
Người mật tông cầm tay người đàn bà. Người đó có thể
cầm tay của bất kì ai, nhưng người đó sẽ không thể nào
truyền được năng lượng đã xảy ra cho mình; người đó có
thể truyền nó rất dễ dàng cho ai đó yêu người đó. Và điều
đó có thể được truyền chỉ trong những khoảnh khắc nào
đó...
Có những khoảnh khắc nhất định khi hai người đến gần
nhau đến mức năng lượng có thể nhảy từ người nọ sang
người kia. Bạn biết về những khoảnh khắc này - nếu bạn đã
từng yêu ai, bạn sẽ biết - chúng không có đó hai mươi bốn
giờ một ngày. Cho dù bạn yêu người đàn bà... vợ bạn hay
con bạn, chồng bạn, thì thế nữa bạn cũng biết rằng trong
hai mươi bốn giờ một ngày những khoảnh khắc ấy không
có đó; chúng hiếm khi mới xảy ra. Đôi khi chúng xảy ra...
đôi khi, cái gì đó... và bạn rơi vào nhau. Đôi khi bạn cảm
thấy rằng người kia đã tới rất, rất gần, phần ngoại vi của
các bạn lấn lên nhau. Đó là khoảnh khắc khi cái gì đó có
thể được truyền đạt.
Bây giờ Saraha nói: Nếu bệ hạ nhìn từ bên ngoài, tâu
bệ hạ, bệ hạ sẽ thấy những người mật tông chúng tôi chỉ hệt
như người bình thường khao khát mọi thứ, vui vẻ bình
thường của cuộc sống. Chúng tôi không phải như vậy.
Và ông ấy nói:
Một khi trong cõi tràn đầy vui vẻ
tâm trí hiểu biết trở nên giàu có
và theo cách đó điều nọ hay điều kia trở thành ích lợi
nhất...
Đây là luân hồi, và kia là niết bàn. Saraha nói: Tâm trí
giầu có này - giầu có bởi vui vẻ - trở thành có ích cho cả cái
này và cái kia, cho cả luân hồi lẫn niết bàn, cho bên ngoài
và bên trong, cho cả thân thể và tâm hồn, cho cả cái thấy
được và không thấy được. Nó trở thành có khả năng và có
ích cho cả cái này và cái kia. Đây là một tuyên bố vĩ đại.
Cái gọi là những người tâm linh thông thường nghĩ
rằng tâm trí của bạn có thể có ích trong thế giới này hay
trong Thượng đế. Suy nghĩ của họ là ở chỗ chỉ có một
trong hai điều đó. Mật tông nói: Suy nghĩ này phân chia
cuộc sống ra thành phần thấp và phần cao, thành vật chất
và tâm linh, thành luân hồi và niết bàn. Phân chia này là sai
bởi vì cuộc sống là không thể phân chia được. Và thực tế,
nếu bạn thông minh bạn sẽ không chỉ có khả năng tận
hưởng Thượng đế, bạn sẽ có khả năng tận hưởng ngay cả
những điều bình thường nữa. Bạn sẽ có khả năng tận hưởng
tảng đá hệt như bạn sẽ có khả năng tận hưởng Thượng đế.
Nhìn vào trong tuyên bố sâu sắc, vĩ đại này: Khi tâm trí
thực sự thông minh và được làm giầu bởi vui vẻ, bạn sẽ có
khả năng tận hưởng phúc lạc, bạn sẽ có khả năng tận hưởng
hạnh phúc, bạn sẽ có khả năng tận hưởng hoan lạc nữa bởi
vì chúng tất cả đều thuộc vào Thượng đế - phần thấp nhất
cũng như phần cao nhất.
...và theo cách đó điều nọ hay điều kia trở thành ích lợi
nhất
ngay cả khi nó bám theo sự vật thì nó cũng không xa
lánh chính mình.
Và Saraha nói: Cho dù bệ hạ có thấy tôi chạy, việc đuổi
theo các sự vật chỉ là cách diễn giải của hoàng thượng.
Thần không đuổi theo, bởi vì không có đâu để chạy và
không có ai chạy.
Trạng thái một người đã đạt tới sự sáng tỏ bên trong
của mình là ở chỗ người đó có thể tận hưởng mọi thứ từ
thức ăn cho tới Thượng đế, từ dục cho tới samadhi. Không
có phân chia: không nên có, không cần có phân chia.
Mật tông cho bạn cả hai thế giới. Mật tông không phải
là quan điểm hoặc cái nọ hoặc cái kia, nó là cả hai thế này
và thế nọ; nó rất thấu đáo. Mọi tôn giáo đều có vẻ nghèo
nàn theo cách đó, bởi vì họ trốn khỏi thế giới và họ buộc
bạn phải chọn lựa không cần thiết. Họ nói: Hoặc chọn thế
giới hoặc chọn Thượng đế. Họ đặt Thượng đế đối lập với
thế giới. Mật tông là tôn giáo toàn bộ duy nhất - tôn giáo
toàn bộ duy nhất. Không tôn giáo nào sinh ra trên trái đất
này có tầm nhìn toàn bộ đến như thế.
Mật tông nói, cả hai, không có vấn đề chọn lựa; tất cả
đều là của bạn. Bạn có thể ở giữa bãi chợ, và bạn có thể tận
hưởng bãi chợ; và vậy mà bạn có thể vượt ra ngoài nó, bạn
có thể tận hưởng cả phần bên ngoài nó nữa. Nó không buộc
bạn phải chọn lựa. Mọi chọn lựa đều là huỷ diệt. Và bởi vì
những tôn giáo này theo quan điểm "hoặc cái nọ hoặc cái
kia" nên thế giới vẫn còn là trần gian.
Ai bận tâm về Thượng đế? Thượng đế xa xôi thế,
không thật thế. Và rồi người ta nghĩ, "Để sau hẵng hay...
Mình có thể hoãn Thượng đế lại, nhưng cuộc sống vẫn
đang tiếp diễn - phải tận hưởng nó trước đã." Những tôn
giáo nào buộc con người phải lựa chọn, chúng sẽ buộc
người ta phải lưu lại trần gian. Trong một triệu người, một
người sẽ trở thành mang tính tôn giáo. Một lựa chọn khó
khăn không cần thiết - người đó phải từ bỏ thế giới, người
đó phải rời bỏ gia đình, xa rời bạn bè; người đó phải chống
lại mọi tình yêu của mình. Bạn bó buộc người đó một cách
không cần thiết.
Và rồi vấn đề khác nảy sinh. Những người đã sẵn sàng
chọn Thượng đế không chọn thế giới thì ít nhiều là những
người hư hỏng, những người đã thất bại trong cuộc sống
theo cách nào đó; những người bằng cách nào đó chưa đủ
thông minh để hiểu cuộc sống; những người thế nào đó vẫn
còn ngu ngốc, những người bạo ác; những người bằng cách
nào đó bị thần kinh, bản ngã. Họ có thể trốn khỏi thế giới,
họ có thể bắt đầu hành hạ mình; đó chính là điều mà chủ
nghĩa khổ hạnh vẫn làm cho tới nay. Tự hành hạ mình, bạo
hành với chính mình, tự huỷ hoại mình. Dần dần đầu độc
bản thể bạn. Những người này không phải là những người
lành mạnh.
Cho nên trong số một triệu người, một người trở nên
quan tâm tới việc chọn Thượng đế. Và trong hàng trăm cái
gọi là người tôn giáo thì có đến chín mươi chín người
dường như thần kinh. Cho nên trong một trăm triệu người,
một người trở thành một Phật hay một Christ hay một
Krishna. Đây là lãng phí cực kì.
Bạn hãy nghĩ về khu vườn có mười triệu cây đang mọc
và chỉ một cây nở hoa. Bạn có gọi người làm vườn đó là
người làm vườn được không? Trong thực tế bạn sẽ đi đến
kết luận tự nhiên về điều đó rằng không phải bởi vì người
làm vườn mà cây nở hoa; cây phải nở hoa bất kể có người
làm vườn hay không. Mười triệu cây ông ấy đã trồng và chỉ
một cây nở hoa và kết quả. Điều đó không thể vì người làm
vườn được; nó phải vì một cái gì đó đã thoát khỏi người
làm vườn, người làm vườn không thể phá huỷ được nó.
Bằng cách nào đó người làm vườn đã lãng quên nó, một
cách nào đó người làm vườn đã quên mất nó. Có thể...
mười triệu cây, và ông ta đã quên mất về nó. Cho nên nó đã
bị lỡ và đã nở hoa. Từng cây đều mang tiềm năng cho quả,
đều mang tiềm năng nở hoa; và mỗi người đều có khả năng
trở thành một thượng đế.
Mật tông tạo ra một tôn giáo hoàn toàn mới. Nó nói
rằng không cần phải chọn: dù bạn ở đâu, đích xác ở đó có
thể kinh nghiệm Thượng đế. Nó không chống lại thế giới,
nó vì Thượng đế. Và Thượng đế của nó bao la đến độ cả
thế giới có thể được bao hàm.
Và đối với tôi điều dường như rất, rất có liên quan là sự
sáng tạo nên được bao hàm trong đấng sáng tạo. Nó không
nên chống nhau. Đây là kiểu logic gì mà nói rằng sự sáng
tạo chống đấng sáng tạo? Nếu Thượng đế là người tạo ra
bạn, nếu Thượng đế là người tạo ra thân thể bạn, dục tính
của bạn, cảm giác của bạn, những cái đó không thể chống
Thượng đế được.
George Grurdjieff hay nói rằng tất cả các tôn giáo đều
chống Thượng đế. Và ông ấy cũng phải - ngoại trừ Mật
tông, ông ấy là phải. Tất cả các tôn giáo đều chống
Thượng đế. Nếu bạn chống lại sự sáng tạo của Thượng đế,
bạn đang chỉ ra rằng bạn chống lại Thượng đế. Nếu bạn
chống lại bức hoạ, liệu bạn có nói rằng bạn không chống lại
người vẽ không? Nếu bạn đang chống một bài thơ, liệu bạn
có nói rằng, theo một cách gián tiếp, bạn không chống lại
nhà thơ không?
Nếu Thượng đế là đấng sáng tạo, việc sáng tạo là của
ông ấy và phải có dấu ấn của ông ấy ở mọi nơi. Vâng, nó
có đó, và Mật tông nói rằng dấu ấn của Thượng đế ở khắp
nơi. Bạn chỉ cần đôi mắt thấy, tâm trí thấy và một chút cảm
nhận vui vẻ, và điều đó sẽ bắt đầu xảy ra.
Nụ của vui vẻ và hoan lạc
cùng lá của niềm vinh quang lớn lên.
Dù không có gì chảy tràn ra bất kì đâu
thì niềm sung sướng không thể tả được cũng vẫn kết
quả.
Chìa khoá... bí mật. Đây là những câu kinh cuối của
Saraha. Ông ấy đang trao cho chúng ta sự động chạm cuối
cùng tới bất kì cái gì ông ấy đã nói cho tới nay. Ông ấy
đang trao lời tuyên bố cuối cùng.
Ông ấy nói: Hoan lạc là của thân thể. Hoan lạc đi ra
ngoài - hoan lạc cần tới người khác, hoan lạc khao khát sự
vật, hoan lạc là cuộc hành trình hướng ngoại. Tốt! Chẳng
có gì sai trong đó cả. Và rồi: Vui vẻ là cuộc hành trình
hướng nội. Vui vẻ quan tâm nhiều tới bản thân mình, vui
vẻ mang tính chủ quan hơn. Với hoan lạc, người khác là
cần có; với vui vẻ, bạn là đủ.
Hoan lạc mang tính thân thể, vui vẻ mang tính tâm lí.
Nhưng chúng cả hai đều vẫn chỉ là nụ chừng nào cái thứ
ba, điều tối thượng trong vui vẻ, chưa xảy ra: phúc lạc.
Phúc lạc đó là hoa sen một nghìn cánh, đỉnh cao nhất của
tâm thức bạn. Khi điều đó mở ra thì tất cả nụ đều nở hoa.
Bây giờ điều này cần được hiểu. Người thường chỉ có
thể có vui vẻ rất giới hạn qua thân thể, nhưng người mật
tông sẽ có vui vẻ mênh mông qua thân thể mình. Nó sẽ
không chỉ là nụ, nó sẽ là việc nở hoa. Người thường có thể
có vui vẻ nào đó trong âm nhạc, trong thiền, trong nhảy
múa, nhưng người mật tông sẽ có vui vẻ vô hạn. Khi bạn đã
biết vui vẻ vô hạn này thì vui vẻ đó bắt đầu được phản xạ
trong mọi thứ bạn làm.
Nếu bạn đã biết Thượng đế thì dù bạn bước đi đâu, bạn
cũng đang bước trên mảnh đất thiêng liêng. Thế thì dù bạn
thấy bất kì cái gì, bạn cũng đang thấy Thượng đế. Thế thì
dù bạn gặp bất kì ai, bạn cũng đang gặp Thượng đế.
Luôn nhớ lấy: kinh nghiệm cao nhất của bạn được phản
xạ trong kinh nghiệm thấp nhất của bạn. Không có kinh
nghiệm cao nhất thì phần thấp sẽ rất trần tục. Đó là vấn đề.
Đó là lí do tại sao mọi người không thể hiểu được những
người mật tông khi họ nói rằng ngay cả trong dục vẫn có
thể có samadhi. Họ không thể hiểu được, và có thể hiểu
được tại sao họ lại không thể hiểu được. Họ không biết
samadhi. Họ biết dục xấu xí, rất bình thường. Họ chỉ biết
thất vọng qua nó. Họ chỉ biết thèm khát qua nó.
Từ 'yêu' trong tiếng Anh rất có ý nghĩa. Nó bắt nguồn
từ gốc tiếng Phạn lobha. Lobha nghĩa là tham lam, thèm
khát. Yêu thông thường chẳng là gì ngoài thèm khát và
tham lam. Làm sao người thường hiểu được rằng trong yêu
điều tối thượng cũng có thể được phản xạ? Nhưng khi bạn
đã biết về điều tối thượng, điều cao nhất, thì cái thấp nhất
được móc nối với nó. Thế thì bất kì cái gì cũng đều khuấy
động nó, thế thì bất kì cái gì cũng đều trở thành thông điệp
từ nó.
Điều ấy giống như thế này. Bạn bắt gặp chiếc khăn tay
rơi trên đường; đấy là chiếc khăn tay bình thường, chẳng
đáng giá hơn một rupi. Nhưng một hôm bạn yêu người đàn
bà, và bạn bắt gặp chiếc khăn tay rơi trên phố - cũng là một
chiếc khăn tay, đáng giá một rupi - nhưng bây giờ nó thuộc
về người đàn bà bạn yêu. Bây giờ nó cực kì có giá trị, bây
giờ nó không chỉ là một rupi nữa. Nếu ai đó định tặng bạn
một nghìn rupi bạn sẽ không sẵn lòng cho đi chiếc khăn tay
này - nó thuộc về người đàn bà mà bạn yêu. Bây giờ chiếc
khăn tay bình thường này có cái gì đó không có trước đây:
nó nhắc nhở bạn về người yêu của mình.
Sự việc đích xác giống như vậy. Khi bạn đã biết
samadhi, ngay cả cực thích dục cũng chỉ nhắc nhở bạn về
samadhi, thế thì mọi thứ đều nhắc nhở bạn về samadhi. Thế
thì toàn bộ sự tồn tại đều trở thành đầy và đông đảo
Thượng đế...
Nụ của vui vẻ và hoan lạc
cùng lá của vinh quang lớn lên.
Nụ là của vui vẻ và hoan lạc, còn lá là của vinh quang.
Nhưng thông thường bạn sẽ chỉ thấy lá chừng nào điều cao
nhất chưa xảy ra. Khi điều cao nhất xảy ra bạn thấy rằng
ngay cả những chiếc lá bình thường của cuộc sống bạn
cũng không phải là chiếc lá thường: chính qua chúng mà
việc nở hoa tối thượng xảy ra. Và bây giờ bạn biết rằng
cùng dòng nhựa cây chảy tới bông hoa tối thượng đó, tới nụ
của vui vẻ và hoan lạc; và dòng nhựa cây đó cũng chảy tới
cả tới lá nữa. Tất cả chúng đều cùng giúp cho hoa sen một
nghìn cánh nở ra.
Lá của vinh quang nghĩa là lá của ân huệ, của lòng biết
ơn. Bạn bắt đầu cảm thấy niềm vinh quang của sự tồn tại;
cuộc sống của bạn là vinh quang. Nó không còn bình
thường nữa, nó rực sáng với Thượng đế.
Dù không có gì chảy tràn ra bất kì đâu...
Và khi nào thì bông hoa sen một nghìn cánh này mở?
Nó mở ra khi chẳng có gì chảy ra.
Bây giờ nhìn xem: Trước hết, hoan lạc là khi năng
lượng bạn đang chảy ra - hoan lạc của thân thể. Vui vẻ là
khi năng lượng bạn chảy vào trong - vui vẻ chủ quan, tâm
lí. Và khi nào phúc lạc xảy ra? - khi năng lượng của bạn
không chảy đi đâu nữa, nó đơn giản ở đấy. Bạn không đi
đâu cả, bạn đơn giản ở đấy; bạn chỉ là sự hiện hữu.
Bây giờ bạn không có mục tiêu nào, bây giờ bạn không
có bất kì ham muốn nào phải hoàn thành, bạn không có
tương lai nào. Bạn chỉ ở đây bây giờ. Khi năng lượng đã
đọng thành vũng, không chảy đi đâu, không tràn đi đâu;
không có mục tiêu nào phải đạt tới, không có gì phải tìm
kiếm; bạn chỉ ở đây, hoàn toàn ở đây, toàn bộ ở đây; cái
bây giờ này là tất cả thời gian còn lại cho bạn, và cái ở đây
là toàn bộ không gian. Thế thì bỗng nhiên sự thu thập năng
lượng này, không chuyển đi đâu hết, không bị phân tán bởi
thân thể hay tâm trí, sẽ trở thành một xô đẩy lớn trong bạn.
Và... hoa sen một nghìn cánh nở.
Dù không có gì chảy tràn ra bất kì đâu
thì niềm phúc lạc không thể tả được cũng vẫn kết quả.
Và rồi kết quả tới. Cho nên vui vẻ và hoan lạc là nụ, ân
huệ và biết ơn và vinh quang là lá, còn việc nở hoa tối
thượng của niềm phúc lạc là sự hoàn thành, kết quả. Bạn đã
về nhà.
Điều đã được làm cùng nơi
và cái bản thân nó trở thành đều là cái không...
Và bây giờ bạn biết rằng bất kì cái gì đã từng được làm
hay không được làm đều chỉ là giấc mơ. Bây giờ bạn biết
rằng nghiệp, hành động, đều chẳng có nghĩa gì. Bạn chỉ vẽ
hình trên nước; chúng cứ biến đi. Chẳng có gì còn lại.
Chẳng có gì thực sự xảy ra. Tất cả hiện hữu. Chẳng có gì
xảy ra cả.
Điều đã được làm cùng nơi
và cái bản thân nó trở thành đều là cái không...
Saraha nói: Bệ hạ, xin bệ hạ hãy nhìn. Điều tôi đang
làm và điều tôi đã làm và điều tôi đã từng làm tất cả đều vô
nghĩa vì bây giờ tôi biết nó chỉ là giấc mơ.
... nhưng theo cách đó nó đã có ích cho cái này cái nọ.
Nhưng ông ấy nói, điều đó đúng - nó có ích cho cái này
cái nọ. Ngay cả khi nó là giấc mơ thì nó cũng có ích - nó
đưa tôi tới thực tại này. Tôi đã bước qua giấc mơ đó, nhưng
bây giờ tôi biết nó là giấc mơ, bây giờ tôi biết nó là giả. Tôi
chẳng làm gì, bởi vì chẳng có gì đã được làm; nó tất cả chỉ
là giấc mơ, nhưng nó có ích - nó đã mang tôi tới kết quả tối
thượng này.
Luân hồi này và niết bàn kia cả hai đều được làm cho
phong phú thêm bởi có giấc mơ. Giấc mơ không chỉ là vô
ích, nó cũng có ích, tiện dụng. Nhưng không đúng.
Để tôi kể cho bạn một giai thoại...
Một thợ săn đang rảo bước trong rừng rậm và anh ta
gặp một con hổ đang gầm gừ tiến về phía anh ta trên con
đường. Anh ta giương súng lên... nhưng khiếp hãi vì anh ta
thấy súng hết đạn. Con hổ tới ngày một gần hơn, nó sắp sửa
tấn công.
"Phải làm gì đây? Mình sắp bị ăn thịt mất," người thợ
săn nghĩ thầm, khiếp đảm làm anh ta cứng ngắc tại chỗ.
Ngay khi con hổ sắp nhảy tới người thợ săn có một cảm
giác kì lạ. "Mình tin là mọi thứ này đều chỉ là giấc mơ,"
anh ta tự nhủ. "Nếu mình cố gắng thật mạnh thì chắc chắn
mình sẽ tỉnh dậy." Thế là anh ta tự véo vào mình thật đau
và giật mình chớp mắt. Trong khoảnh khắc con hổ biến
mất; con hổ đã đi mất, người thợ săn thấy an toàn trên
giường. Thật nhẹ nhõm! Anh ta vẫn run rẩy vì sợ hãi,
nhưng bây giờ anh ta đã cười to. Con hổ dường như thực
làm sao! May quá nó chỉ là giấc mơ.
Khi anh ta cảm thấy bình tĩnh lại, anh ta ngồi dậy và
pha một cốc nước chè. Anh ta vẫn còn cảm thấy mệt, cho
nên anh ta ngồi bên ngoài lều trong chiếc ghế bành và thỉnh
thoảng hút thuốc. Anh ta thực sự cảm thấy rất buồn ngủ,
cho nên anh ta lấy mũ đậy lên mặt và nhắm mắt. "Mình có
thể ngủ cả ngày," anh ta nói.
Sau một chốc anh ta nghe thấy tiếng gầm gừ. "Chao
ôi," người thợ săn nói, "mình phải bỏ giấc ngủ lần nữa. Lại
con hổ đó quay lại. Cút đi, đồ con hổ ngu, tao phát mệt vì
mơ thấy mày!"
Con hổ gầm lên và tới gần hơn.
"Tao không sợ mày. Mày chỉ trong giấc mơ," người thợ
săn nói. Rồi anh ta đứng dậy khỏi chiếc ghế, bước tới con
hổ và đấm thật mạnh vào mũi con hổ.
"Thằng cha kì quái này!" con hổ nghĩ, "Người thường
chạy trốn trước ta." Và tất nhiên khi thấy người kì lạ này,
con hổ trốn biệt.
Khi con hổ trốn mất người này mới trở nên tỉnh táo về
sự kiện là anh ta hoàn toàn tỉnh thức và con hổ không phải
trong mơ, nó là một thực tại.
Nhưng điều gì đã xảy ra? Giấc mơ giúp cho người đó
khắc phục được con hổ thật. Một cách tự nhiên con hổ phải
trở nên rất phân vân. Điều này chưa từng bao giờ xảy ra!
Đây là kiểu người nào mà đứng dậy và đấm cho mình một
quả vào mặt như thế?
Tất cả đều là giấc mơ, nhưng giấc mơ có thể giúp cho
việc hiểu thực tại - thậm chí để vượt qua thực tại.
Saraha nói:
Điều đã được làm thì nơi chốn và cái
nó trở thành trong chính nó, đều là cái không
nhưng theo cách đó nó đã có ích cho cái này cái nọ.
Dù đam mê hay không thì hình mẫu cũng là cái không.
Saraha nói: Dù bạn đang sống cuộc sống đam mê hay
cuộc sống không đam mê, những người biết vẫn biết rõ
rằng sâu bên dưới cả đam mê lẫn không đam mê đều không
có gì khác nhau. Sâu trong nó là cái không thuần khiết.
Nó cũng tựa như một cuốn phim được chiếu lên màn
ảnh rỗng không. Cảnh đẹp được chiếu lên và bạn bị xúc
động bởi cảnh đẹp đó; cảnh khủng khiếp được chiếu lên và
bạn bắt đầu run rẩy. Nhưng Saraha nói: Cái ngày bạn hiểu
ra thì chẳng còn gì ngoài hình bóng trên màn ảnh rỗng
không. Tội nhân là phóng chiếu, thánh nhân cũng vậy. Điều
tốt là phóng chiếu, điều xấu cũng vậy. Trên màn ảnh rỗng
không của thực tại mọi thứ đều do tâm trí phóng chiếu ra.
Cho nên Saraha nói: Tâu bệ hạ, xin chớ phân vân quá
nhiều bởi điều mọi người nói. Tôi biết nó chỉ là màn ảnh
rỗng không. Liệu Saraha là người với tính cách rất vĩ đại
hay là một kẻ vô công rồi nghề phi tính cách, liệu Saraha có
được mọi người kính trọng hay bị kết án và sỉ vả thì cũng
chẳng thành vấn đề - nó chỉ là màn ảnh rỗng không, người
ta đang phóng chiếu các ý tưởng của mình lên đó.
Tôi đã đi tới nhận ra cái không này. Và kinh nghiệm
này về cái không này, và kinh nghiệm về hoa sen một
nghìn cánh này là hai khía cạnh của cùng một hiện tượng.
Một mặt bạn đạt tới phúc lạc tối thượng, mặt khác bạn bây
giờ bạn biết mọi thứ chỉ là giấc mơ rỗng không. Chẳng có
gì để bỏ đi và chẳng có đâu mà đi; không ai rời đi và không
ai đi đâu cả. Không chỉ mọi thứ đều rỗng mà cả bạn cũng
rỗng không. Nó là tất cả là rỗng không - bên trong, bên
ngoài - hệt như giấc mơ. Cái gì xảy ra trong giấc mơ? Bạn
tạo ra... nó là tưởng tượng.
Câu kinh cuối:
Nếu tôi giống con lợn đam mê vũng bùn thế gian
thì bạn phải bảo tôi sai lầm nào trong tâm trí không tì
vết.
Bởi cái không ảnh hưởng đến người ta
làm sao mà người ta hiện bị tù túng?
Saraha nói: nếu tôi giống con lợn thì cũng được. Nếu
mọi người nói rằng Saraha đã trở thành con lợn, con chó
điên, điều đó hoàn toàn được. Chẳng có gì khác biệt dù cho
người ta có nói rằng Saraha đã trở thành vị thánh vĩ đại hay
họ nói rằng ông ấy đã trở thành con lợn đam mê vũng bùn
thế gian.
... thì ông phải bảo tôi sai lầm nào nằm trong tâm trí
không tì vết.
Điều tôi làm không có gì khác biệt; bên trong tôi biết
cái không, bên ngoài tôi chỉ biết cái không. Thuần khiết của
tôi là không bị ô uế bởi điều tôi làm; việc làm không ảnh
hưởng đến con người tôi chút nào. Cho nên bệ hạ bảo tôi,
thưa bệ hạ:
...sai lầm nào trong tâm trí không tì vết.
Bởi cái không ảnh hưởng đến người ta
làm sao người ta hiện bị tù túng?
Và những điều này không ảnh hưởng tới tôi theo cách
nọ hay cách kia. Tôi không buông bỏ mà cũng chẳng níu
bám. Tôi để mọi thứ xảy ra - bất kì cái gì xảy ra. Tôi không
có kế hoạch nào và tôi không có bất kì kiểu áp đặt nào lên
cuộc sống. Tôi sống tự nhiên - bất kì cái gì xảy ra thì cứ
xảy ra, còn tôi không phán xét. Và tôi không nói, "Nó nên
theo cách này." Tôi không có từ 'nên', tôi không có từ
'không nên'.
Suy tư về trạng thái này: Không có cái 'nên', không có
cái 'không nên'; không kế hoạch, không thất vọng, không
hối hận - bởi vì chẳng có gì xảy ra sai cả. Làm sao có cái
gì sai được khi bạn không có bất kì ý tưởng nào về cái
đúng?
Đây là tự do tối thượng, giải thoát tối thượng.
Làm sao mọi việc thành sai được? Cái sai có thể xảy ra
chỉ khi bạn có khái niệm nào đó về cái đúng. Nếu bạn
không có bất kì khái niệm nào, bạn không có bất kì hệ tư
tưởng nào, bạn không có bất kì ý tưởng nào, Saraha nói,
"bởi cái không ảnh hưởng đến người ta thì làm sao người ta
hiện bị tù túng được?"
Và câu kinh cuối là câu rất hay. Khi bạn thực sự về nhà
và bạn thấy cái đang đó, bạn sẽ không cảm thấy rằng bạn
đã trở nên được giải thoát. Ngược lại bạn sẽ cảm thấy: Thật
buồn cười mà mình đã nghĩ rằng mình chưa được giải
thoát! Khác biệt là lớn lao.
Nếu khi bạn về nhà, khi bạn đi tới biết cái đang đấy,
bạn bắt đầu cảm thấy rất, rất được nâng cao và bạn đang
trong trạng thái lâng lâng rất lớn lao, và bạn nói, "Bây giờ
ta đã trở nên được giải thoát," điều đó có nghĩa là bạn chưa
được giải thoát. Điều đó có nghĩa là bạn vẫn còn nghĩ tù
túng là thực, điều đó nghĩa là bạn vẫn đang trong mơ... bây
giờ trong giấc mơ khác. Giấc mơ này là cảnh tù túng, giấc
mơ khác là về giải thoát - nhưng giấc mơ khác lại bắt đầu.
Saraha nói: Khi bạn thực sự trở thành được giải thoát -
được giải thoát khỏi mọi cái đúng và cái sai, được giải thoát
khỏi mọi cái tốt và cái xấu - bạn không chỉ được giải thoát
khỏi cảnh tù túng, bạn còn được giải thoát khỏi bản thân sự
giải thoát. Thế thì bỗng nhiên bạn bắt đầu cười: Kì cục làm
sao! Tù túng không thể xảy ra ngay chỗ bắt đầu, tù túng
chưa bao giờ xảy ra cả! Đấy chỉ là tin; mình đã tin vào nó,
và mình đã tạo ra nó qua việc tin của mình. Nó đã là giấc
mơ, bây giờ giấc mơ đã chấm dứt."
Đó là lí do tại sao câu kinh cuối kết thúc bằng dấu
chấm hỏi. Bạn đã bao giờ thấy bất kì bản kinh nào kết thúc
bằng dấu chấm hỏi chưa? Đây là bản kinh duy nhất như
thế. Tôi không bắt gặp bất kì cái gì khác.
Kinh sách bắt đầu bằng dấu chấm hỏi và kết thúc bằng
câu trả lời. Đấy là cách mọi bản thuyết luận logic đều phải
theo. Phần giới thiệu có thể là câu hỏi, không phải là phần
kết. Nhưng bài thơ hay này của Saraha kết thúc với một
dấu chấm hỏi.
Nếu tôi giống con lợn đam mê vũng bùn thế gian
thì bạn phải bảo tôi sai lầm nào trong tâm trí không tì
vết.
Bởi cái không ảnh hưởng đến người ta
làm sao người ta hiện bị tù túng?
Ông ấy không tuyên bố rằng ông ấy đã chứng ngộ, ông
ấy không tuyên bố rằng ông ấy đã được giải thoát, ông ấy
không tuyên bố rằng mình đã về nhà. Ông ấy đơn giản nói:
tôi cười vào chính cái ý tưởng là tôi đã đi đâu. Tôi chưa bao
giờ đi bất kì đâu cả. Tôi bao giờ và bao giờ cũng ở nhà. Tôi
bao giờ cũng ở đây và bây giờ, tôi chỉ đã mơ cho nên giấc
mơ đã tạo ra ảo tưởng là tôi đã đi đâu đó. Bây giờ giấc mơ
đã biến mất, và tôi ở vào nơi tôi vẫn đang ở. Đó là lí do tại
sao ông ấy nói: Làm sao người ta hiện bị tù túng?
Chẳng ai có đó để mà bị tù túng cả, chẳng có gì ở đó để
giam cầm cả. Cảnh giam cầm đã biến mất, cho nên người
đã bị giam cầm cũng biến mất. Khi thế giới biến mất, bản
ngã biến mất - cùng nhau; chúng là bộ phận của cùng một
trò chơi. Bên trong là bản ngã, bên ngoài là thế giới. Chúng
không thể sống xa nhau, chúng bao giờ cũng sống với
nhau. Khi thứ nọ biến mất thì thứ kia cũng đồng thời biến
đi. Bây giờ bản ngã không có đó và thế giới cũng không có
đó.
Saraha đang dẫn chứng sự sáng suốt vĩ đại nhất của
Phật. Phật nói không có chất liệu và không có cái ta. Chất
liệu không có đó, tất cả đều rỗng không. Và cái ta cũng
không có bên trong bạn, tất cả chỉ có cái rỗng không. Đi tới
thấy cái rỗng không này... nhận biết bồng bềnh trong rỗng
không - nhận biết thuần khiết, nhận biết không bị chặn...
Nhận biết này là bản thân cái rỗng không, hay cái rỗng
không này là bản thân nhận biết. Cái rỗng không này chói
sáng với nhận biết, tràn đầy nhận biết.
Mật tông là tầm nhìn vĩ đại vào trong mọi vật như
chúng thực sự như thế. Nhưng nhớ, điều cuối cùng: nó
không phải là triết lí, nó là sự sáng suốt. Và nếu bạn muốn
đi vào trong nó, bạn sẽ phải đừng đi qua tâm trí, không có
tâm trí.
Vô trí là cánh cửa vào Mật tông. Vô suy nghĩ là con
đường tới Mật tông. Kinh nghiệm là chìa khoá vào Mật
tông.
Đủ cho hôm nay.
************************************************************
#10 Chỉ việc nhớ
Tôi không thể nào sống theo những lí tưởng
thầy đã nêu ra
Làm sao Mật tông phát triển từ Phật giáo
mà lại coi dục như cản trở cho thiền?
'Tuần trăng mật qua đi' nghĩa là gì?
Đây có phải là ước mơ cuối cùng tốt đẹp hay
không?
Tôi muốn làm sannyasin nhưng tôi sợ sẽ gặp
rắc rối.
Thầy có phải tuyệt đối cần thiết không?
Niết bàn là gì?
#10Câu hỏi thứ nhất:
Osho kính yêu, tại sao bất kì khi nào tôi rời
bài giảng của thầy, tôi nhanh chóng trở nên
bị vỡ mộng với bản thân mình bởi vì tôi
không thể nào sống theo những lí tưởng mà
thầy đã nêu ra trong bài giảng?
Bạn đang nói về điều gì vậy? Lí tưởng sao?... đấy đích
xác là điều tôi định phá huỷ đấy! Tôi không đưa ra bất kì lí
tưởng nào trước bạn cả. Tôi không định cho bạn bất cứ
tưởng tượng nào về tương lai; tôi không định cho bạn bất kì
tương lai nào hết cả, bởi vì tương lai là thủ đoạn để trì hoãn
hiện tại. Nó là thủ đoạn để tránh bản thân bạn, cách trốn
thoát khỏi bản thân bạn. Ham muốn là trò lừa dối, và lí
tưởng tạo ra ham muốn. Tôi không định cho bạn bất kì cái
'phải' hay bất kì cái 'không phải' nào, cả khẳng định lẫn phủ
định. Tôi đơn giản bảo bạn vứt bỏ mọi lí tưởng và hãy hiện
hữu.
Nhưng tôi có thể hiểu được câu hỏi của bạn. Bạn tạo ra
lí tưởng từ nó, bạn bắt đầu nghĩ, "Mình nên thế nào đây?"
Bạn bắt đầu nghĩ, "Mình phải làm gì để hiện hữu?" Tôi
đang cố gắng lấy đi lí tưởng và bạn tạo ra lí tưởng từ nó:
cách vứt bỏ mọi lí tưởng. Bạn hiểu lầm tôi rồi, bạn diễn
giải sai tôi rồi. Bạn không nghe điều tôi đang nói, bạn cứ
nghe điều tôi không nói chút nào. Nghe cẩn thận vào.
Điều đó bao giờ cũng xảy ra. Chúng ta không biết Phật
đích xác nói gì, bởi vì những người nói lại là những người
như bạn. Chúng ta không biết điều Jesus đã nói, bởi vì
những người kể cũng lại là những người giống như bạn.
Lời thuật chắc chắn nói điều họ đã nghe, nhưng nó chẳng
nói điều gì về điều người nói nói. Và những điều này có thể
là những điều hoàn toàn đối lập nhau.
Tôi nói một ngôn ngữ hoàn toàn khác. Bạn thu nó lại
thành một thứ gì đó khác - theo ngôn ngữ của bạn; bạn
bước vào và bạn bắt đầu can thiệp.
Bạn hỏi: "Tại sao bất kì khi nào tôi rời bài giảng của
thầy tôi nhanh chóng trở nên bị vỡ mộng với bản thân
mình...?"
Bạn trở nên bị vỡ mộng với bản thân mình bởi vì bạn
không biết bạn là ai, và bạn có hình ảnh nào đó về bản thân
mình. Hình ảnh đó không phải là bạn, hình ảnh đó không
thể là bạn được; hình ảnh đó là một kết cấu tâm trí. Bạn đã
tạo ra một hình ảnh về chính mình - bạn nghĩ đấy là điều
mình là như thế. Còn khi bạn lắng nghe tôi và tôi bắt đầu
diễu cợt bạn, bạn trở nên vỡ mộng; hình ảnh bạn bị đập vỡ,
hình ảnh bạn không còn nguyên vẹn như trước nữa.
Nhưng bạn không bị đập vỡ. Trong thực tế hình ảnh
này không cho phép bạn có không gian, nó không cho phép
bạn hiện hữu. Hình ảnh này phải bị vứt đi để cho bạn có thể
có đủ không gian trưởng thành. Hình ảnh này đã trở nên
quá khổng lồ, quá mạnh mẽ; nó đã choán toàn bộ ngôi nhà
của bạn và bạn thì đang sống trong hành lang, nó không
cho phép bạn đi vào nhà. Còn hình ảnh mà bạn đã tạo ra từ
các lí tưởng thì cứ tiếp tục kết án bạn, sự bịa đặt cứ tiếp tục
kết án người bịa đặt.
Nhìn vào sự xuẩn ngốc của nó, cái lố bịch của nó. Bạn
tạo ra một hình ảnh, rất đẹp - một cách tự nhiên khi bạn tạo
ra thì bạn tạo ra hình ảnh đẹp - và thế rồi bởi vì hình ảnh đó
mà bạn bắt đầu trông xấu đi khi so sánh với nó. Bạn tạo ra
một hình ảnh rất, rất vĩ đại rằng bạn là thánh nhân, và thế
rồi bạn thấy mình làm những việc không thật là thánh lắm.
Bây giờ bạn cảm thấy bị kết án. Hình ảnh này là của bạn,
và chống hình ảnh này thì hành động của bạn có vẻ rất tồi
tệ.
Điều tôi đang nói ở đây, điều Saraha đang nói với nhà
vua, là ở chỗ hình ảnh đó phải hoàn toàn bị vứt bỏ. Khoảnh
khắc bạn vứt bỏ hình ảnh này và bạn quên hình ảnh này, cái
gì là đúng và cái gì là sai? Thế thì ai là tội nhân và ai là
thánh nhân? Thế thì bạn không có gì để so sánh cả. Thế thì
bỗng nhiên bạn thấy thoải mái. So sánh biến mất... và kết
án biến mất. So sánh biến mất... và bản ngã biến mất, bản
ngã của tội nhân và bản ngã của thánh nhân. Không có lí
tưởng, bản ngã không thể tồn tại chút nào. Nó tồn tại qua lí
tưởng, thông qua lí tưởng. Lí tưởng là điều phải có cho bản
ngã.
Hoặc bạn nghĩ rằng bạn là tội nhân - bạn tạo ra bản
ngã, căn cước - hoặc bạn nghĩ bạn là thánh nhân; thế thì
bạn tạo ra bản ngã, căn cước. Nhưng cả hai chỉ đi vào tồn
tại thông qua lí tưởng. Nếu lí tưởng không có đó, bạn là ai?
thánh nhân hay tội nhân? tốt hay xấu? xấu hay đẹp? Bạn là
ai? Bạn đơn giản là bản thân mình, không phán xét nào,
không biện giải nào, không kết án nào. Bạn đơn giản có đó
trong thực tại của mình; đó là điều tôi gọi là 'hiện hữu'.
Bây giờ bạn phải trở nên bị vỡ mộng lặp đi lặp lại, bởi
vì sự nắm giữ của bạn vào hình ảnh này trở nên lỏng ra một
chút. Bất kì khi nào sự nắm giữ của bạn vào hình ảnh này
lỏng ra một chút, bạn trở nên sợ hãi. Lí tưởng tạo ra ảo
tưởng, và bất kì khi nào tôi bắt đầu lấy đi lí tưởng, bạn cảm
thấy vỡ mộng. Hoàn toàn vỡ mộng đi, và đừng tạo ra ảo
tưởng lần nữa - ảo tưởng về lí tưởng - và thế rồi xem cuộc
sống đạt tới im lặng uy nghi như thế nào. Thế rồi xem sự
chấp nhận mênh mông nảy sinh như thế nào, phúc lành lớn
lao bao quanh bạn như thế nào mà chẳng có lí do gì hết cả.
Nó là của bạn, chỉ cần hỏi. Bạn không làm gì cả.
Bạn được Thượng đế chấp nhận như bạn đang thế.
Đây là toàn bộ thông điệp của tôi, và đây là toàn bộ về
Mật tông: Bạn được chấp nhận như bạn đang thế!
Nhưng bạn cứ bác bỏ mình. Lí tưởng tạo ra khả năng
cho bạn bác bỏ, lí tưởng làm cho bạn có thể thành nghiệt
ngã với chính mình, thành độc ác, hung hăng - trở thành kẻ
tự hành hạ mình. Nỗ lực của tôi ở đây là để giúp bạn trở
nên lành mạnh. Chủ nghĩa lí tưởng tạo ra điên khùng, nó
biến toàn bộ trái đất thành nhà thương điên.
Và bạn nói: "Tôi trở nên vỡ mộng với chính mình bởi
vì tôi không thể nào sống theo những lí tưởng mà thầy nêu
ra trong bài giảng."
Bạn đang nói điều gì vậy? Lí tưởng nào? Tôi không
nói, "Bạn phải làm cái này." Tôi không nói, "Bạn phải
giống thế này." Tôi chỉ nói, "Dù bạn là bất kì cái gì, hãy là
cái đó." Tôi đang cố lấy đi mọi cái 'trở thành' từ bạn. Tôi
đang cố giúp bạn thấy vấn đề là bạn đã ở nhà; bạn chưa bao
giờ đi đâu và bạn cũng chẳng có đâu để mà đi. Đấy đã là
cảnh ngộ - Thượng đế đang mưa lên bạn. Samadhi đã là
cảnh ngộ. Dù bạn đang ở đâu bạn vẫn đang trong niết bàn.
Đây là chứng ngộ... khoảnh khắc này - không lí tưởng,
không ham muốn, không đâu mà đi. Khoảnh khắc này -
được hoàn toàn thảnh thơi trong nó, ở đây bây giờ - là
khoảnh khắc của Thượng đế, khoảnh khắc của chân lí.
Nhưng bạn nghe tôi và bạn bắt đầu nói như vẹt, bạn
nghe tôi và bạn bắt đầu lặp lại từng lời. Bạn không theo
được ý nghĩa, bạn theo từng câu chữ chứ không theo tinh
thần.
Tôi đã từng nghe...
Một thuyền trưởng đại dương già rắn rỏi mua một con
vẹt non tại một bến cảng nước ngoài, được đảm bảo nó là
một con vẹt biết học nói tuyệt vời, và ông ta treo nó trên
đài chỉ huy. Trở về qua Vịnh Biscay, một đám mây đen dữ
tợn kéo tới và người hoa tiêu nhận xét, "Sắp tối sầm hết cả
bây giờ đây!"
Chẳng bao lâu sau đó đám mây bột phát thành một cơn
mưa dữ dội và thuyền trưởng nói với thuyền phó, "Trời
đang nổi cơn thịnh nộ đây!" Cơn bão càng hung dữ hơn,
con tầu tròng trành và vỡ ra một lỗ thủng, cho nên một
người gọi lên, "Chúng ta phải làm gì để được cứu đây?"
Anh ta nhận được câu trả lời, "Bơm đi, đồ trưng bầy tệ hại!
Bơm đi, đồ ăn mày phát khiếp! Bơm đi!"
Con tầu và mọi người đều bị lạc. Chỉ còn mỗi con vẹt
ướt sũng, luôn chửi thề là còn sống, và sau một số cuộc
phiêu lưu thì về tay một người phụ nữ không chồng, đang
đợi cha xứ. Vì là người thận trọng nên bà ấy che vải lên cái
lồng, để cho cha xứ được đón chào, con vẹt liền nói, "Sắp
tối sầm hết cả bây giờ!" Bà này giận tím gan và đặt con vẹt
ngay dưới vòi nước lạnh, nó hét đinh tai "Trời đang nổi cơn
thịnh nộ đây!"
"Không, không, Cô Fantigh! Cô không nên ác độc với
sinh linh của Thượng đế. Tốt hơn là hãy đem nó tới nhà thờ
vào ngày thờ phụng chúa và để cho nó nhiễm ảnh hưởng
tốt." Điều này được thực hiện ngay và con vẹt hành xử hệt
như một thiên thần, thậm chí còn tham gia hát thánh ca.
Cha xứ, rạng rỡ với thành công của mình, tô hồng thêm cho
bản thông báo của mình, "Thưa các thầy dòng, hôm nay
chúng ta hỏi: Chúng ta phải là gì để được cứu rỗi?", và lẫn
trong tiếng vỗ cánh là âm thanh the thé của con vẹt, "Bơm
đi, đồ trưng bầy tệ hại! Bơm đi, đồ ăn mày phát khiếp!
Bơm đi!"
Bạn đừng trở thành con vẹt. Bạn có thể lặp lại những
điều tôi đang nói nhưng đấy không phải là vấn đề chút nào.
Hiểu điều tôi đang nói. Việc lặp lại chỉ gây rắc rối cho bạn.
Chỉ một chút thay đổi thanh điệu, sự nhấn mạnh, hơi đổi
một dấu phẩy, một dấu chấm và mọi thứ mất đi. Lắng nghe
ý nghĩa đi.
Và có những cách khác để nghe. Một cách là lắng nghe
từ tâm trí; thế thì bạn ghi nhớ. Và bạn đã được dạy cách
lắng nghe qua tâm trí, bởi vì mọi trường phổ thông, cao
đẳng, đại học đều dạy cho bạn cách nhồi nhét. Họ cho bạn
những khái niệm sai - dường như ghi nhớ là tri thức. Ghi
nhớ không phải là tri thức, ghi nhớ đơn giản là học vẹt. Bạn
sẽ biết văn chương, bạn sẽ biết câu chữ, nhưng nó sẽ trống
rỗng; bên trong chẳng có ý nghĩa gì, không ý nghĩa nào
trong nó. Và câu chữ đó là nguy hiểm mà chẳng có nghĩa
nào trong đó cả.
Còn có một cách khác để lắng nghe, và đấy là từ trái
tim. Lắng nghe qua trái tim đi. Lắng nghe dường như là
bạn không nghe biện luận mà nghe bài ca. Lắng nghe
dường như là bạn không nghe triết lí mà là bài thơ. Lắng
nghe như bạn nghe nhạc. Ngắm tôi như bạn ngắm một vũ
công. Cảm thấy tôi như bạn cảm thấy người yêu. Thế thì
văn chương sẽ có đó; nó sẽ được dùng như phương tiện,
nhưng nó sẽ không phải là vật thực. Phương tiện sẽ bị quên
lãng, còn ý nghĩa sẽ đi vào trong trái tim bạn và sẽ còn lại ở
đó. Và nó sẽ thay đổi bản thể bạn, nó sẽ thay đổi cách nhìn
cuộc đời của bạn.
#10Câu hỏi thứ hai:
Osho kính yêu, làm sao Mật tông phát triển
từ Phật giáo nhưng như tôi biết, Phật giáo
coi dục như cản trở cho thiền?
Điều đó có quan hệ với câu hỏi thứ nhất.
Điều Phật nói phải đã bị hiểu lầm. Vâng, ông ấy đã nói
rằng đi vào trong thiền người ta phải vượt ra ngoài dục.
Bây giờ những người nghe lời ông ấy lại nghĩ ông ấy chống
dục - một cách tự nhiên vậy: ông ấy nói bạn phải vượt ra
ngoài dục. Họ bắt đầu nghĩ rằng thế thì dục phải là chướng
ngại, bằng không tại sao bạn phải vượt ra ngoài dục? Họ
bắt đầu tranh đấu với dục thay vì vượt ra ngoài nó; toàn bộ
nhấn mạnh của họ đã thay đổi. Họ bắt đầu tranh đấu với
dục, và Phật giáo trở thành một trong những tôn giác khổ
hạnh nhất trên thế giới.
Bạn không thể quan sát thấy vẻ duyên dáng mênh
mông trong các bức tượng hay tranh về Phật hay sao - nó
có thể bắt nguồn từ khổ hạnh được không? Có khả năng
con người đẹp đẽ này, khuôn mặt duyên dáng này, tình yêu
này, từ bi này có thể bắt nguồn từ khổ hạnh được chăng?
Những người khổ hạnh là những người tự hành hạ mình, và
khi người ta tự hành hạ mình thì người ta bắt đầu hành hạ
những người khác nữa, ở mức độ cao hơn bình thường. Khi
một người tự mình trong khổ, người đó không thể nhìn bất
kì ai khác trong hạnh phúc được; người đó bắt đầu phá huỷ
hạnh phúc của người khác. Đó là điều cái gọi là mahatmas
của bạn cứ làm: họ không thể thấy bạn hạnh phúc được,
cho nên bất kì khi nào bạn hạnh phúc, họ lập tức tới và nói,
"Phải có cái gì đó sai rồi, người hạnh phúc ngụ ý tội nhân."
Bạn có thể quan sát điều đó trong chính mình nữa, bởi
vì qua nhiều thế kỉ cái gọi là những mahatmas và các thánh
nhân đã ước định bạn để cảm thấy mặc cảm bất kì khi nào
bạn cảm thấy hạnh phúc. Bất kì khi nào bạn đang khổ, mọi
sự đều tốt. Nhưng nếu bạn cảm thấy vui vẻ lớn, bạn bắt đầu
cảm thấy có đôi chút không thoải mái - bằng cách nào đó
điều ấy dường như không phải. Bạn chưa quan sát điều đó
trong bản thân mình sao? Nó đến từ đâu vậy? Hạnh
phúc...và không đúng sao? Còn khổ thì được. Cái gì đó rất
đối kháng với cuộc sống - rất phủ định cuộc sống, rất chối
bỏ cho cuộc sống - đã đi vào trong dòng máu nhân loại. Và
nó đã tới qua cái gọi là người khổ hạnh. Những người khổ
hạnh này là những người thần kinh: họ là những kẻ tự bạo,
họ tra tấn mình. Vui vẻ duy nhất của họ là trong việc tạo ra
ngày càng nhiều khổ.
Phật không phải là kẻ tự bạo - không thể thế được. Phật
trông đẹp thế, vui vẻ thế, hạnh phúc thế, cực kì phúc lạc
thế. Những người đã nghe ông ấy nói chắc phải hiểu lầm ở
đâu đó. Vâng, ông ấy nói vượt ra ngoài dục - người ta phải
vượt ra ngoài nó bởi vì nó chỉ là bậc thang đầu tiên của
chiếc thang. Nhưng ông ấy không nói chống lại nó. Vượt ra
ngoài không nhất thiết là chống lại. Trong thực tế điều
tương phản lại mới là hoàn cảnh: nếu bạn chống dục, bạn
sẽ chẳng bao giờ có thể vượt ra ngoài nó được. Vượt ra
ngoài chỉ tới thông qua việc đi qua nó. Bạn phải hiểu dục,
bạn phải thân thiết với dục.
Cái gì đó, ở đâu đó, đã bị hiểu sai. Saraha tới như việc
diễn giải đúng về Phật. Và Saraha phải đã quan sát tai hoạ
gì đã xảy ra cho hàng nghìn người đi theo Phật: thay vì
vượt ra ngoài dục họ lại bị nó ám ảnh. Khi bạn liên tục
tranh đấu với cái gì đó, bạn trở nên bị nó ám ảnh.
Bạn có thể quan sát nó: người tin vào nhịn ăn trở nên bị
ám ảnh bởi thức ăn. Mahatma Gandhi bị thức ăn ám ảnh,
liên tục suy nghĩ về thức ăn - ăn cái gì và không ăn cái gì.
Dường như là chỉ có mỗi một điều quan trọng nhất trong
cuộc sống - ăn cái gì và không ăn cái gì. Người thường ít bị
ám ảnh, họ không nghĩ về điều đó quá nhiều. Bạn cứ thử
nhịn ăn ba ngày và nghĩ xem cái gì xảy ra trong tâm trí bạn.
Bạn sẽ nghĩ về thức ăn liên tục. Bây giờ vượt ra ngoài thức
ăn là tốt, nhưng nhịn ăn không thể là cách thức, bởi vì nhịn
ăn tạo ra ám ảnh về thức ăn. Làm sao nó có thể là con
đường để vượt ra ngoài được? Nếu bạn thực sự muốn vượt
ra ngoài thức ăn thì bạn phải ăn cho đúng. Bạn phải ăn
đúng thức ăn, bạn phải ăn đúng cách và đúng giờ. Bạn phải
tìm ra cái gì phù hợp cho thân thể bạn, cái gì nuôi dưỡng.
Vâng, điều đó sẽ đưa bạn vượt ra ngoài thức ăn, bạn sẽ
chẳng bao giờ nghĩ đến thức ăn nữa. Khi thân thể được
nuôi dưỡng đầy đủ bạn không nghĩ về thức ăn. Biết bao
người nghĩ về thức ăn bởi vì theo cách này cách khác họ
đều đang nhịn ăn. Bạn sẽ ngạc nhiên khi tôi nói điều đó.
Bạn có thể ăn quá nhiều kem - đấy cũng là một loại nhịn ăn
bởi vì nó không đủ chất dinh dưỡng, bạn đơn giản tống
những thứ vô giá trị vào bên trong bạn. Chúng không thoả
mãn bạn; chúng trút đầy bụng bạn nhưng chúng không đáp
ứng cho bạn. Bạn cảm thấy có chất liệu nhưng không có
nội dung.
Thức ăn sai sẽ tạo ra không hài lòng, và cơn đói của
bạn sẽ không được thoả mãn bởi vì cơn đói cần chất dinh
dưỡng, không phải là thức ăn. Nhớ lấy, cơn đói cần chất
dinh dưỡng, không phải thức ăn. Và cơn đói không bận tâm
nhiều lắm đến ngon miệng. Điều cơ bản là liệu nó có phù
hợp cho thân thể bạn hay không, liệu nó có cho thân thể
bạn năng lượng cần thiết hay không. Nếu nó cho đủ năng
lượng cần thiết thì thế là được. Nếu ngon miệng đi cùng với
dinh dưỡng, bạn sẽ được cực kì thoả mãn.
Và nhớ, tôi không chống ngon miệng, tôi hoàn toàn
ủng hộ nó. Nhưng chỉ có ngon miệng thì không thể đủ dinh
dưỡng. Và chỉ có thức ăn mà không ngon miệng cũng là
không thông minh, đần độn. Khi bạn có thể có cả hai điều
đó, sao không nhận? Người thông minh sẽ tìm thấy thức ăn
đủ dinh dưỡng, thức ăn ngon miệng. Đấy không phải là vấn
đề quá lớn. Con người có thể lên đến mặt trăng mà chẳng lẽ
không thể tìm ra được thức ăn đủ dinh dưỡng cho mình
sao? Con người đã làm bao nhiêu việc diệu kì mà chẳng lẽ
không thể thoả mãn cơn đói của mình hay sao? Điều này
dường như không phải là tình huống đúng đắn. Không, con
người đã không nhìn vào đó.
Có những người tin vào việc nhịn ăn - họ phá huỷ thân
thể. Và rồi lại có những người cứ tọng đủ mọi thứ rác vào
bụng - họ cũng phá huỷ thân thể. Cả hai đều trên cùng một
con thuyền: cả hai đều đang nhịn ăn, và cả hai đều liên tục
bị ám ảnh. Một đằng thì bị ám ảnh qua thèm ăn, một đằng
thì bị ám ảnh qua kìm nén. Chỉ ở giữa mới là điều siêu việt.
Cho nên đấy cũng là trường hợp cho dục, và đấy cũng
là trường hợp cho mọi thứ trong cuộc sống. Saraha phải đã
trở nên nhận biết rằng những người nói rằng Phật đã nói
phải vượt ra bên ngoài dục thì thực tế họ lại không vượt ra
ngoài dục chút nào. Thay vì thế họ ngày càng trở nên bị
dục ám ảnh nhiều hơn và rơi sâu hơn vào trong vũng lầy
của nó.
Có một ni cô trẻ tới gặp Mẹ bề trên trong tâm trạng đau
buồn, và sau một hồi quanh co lòng vòng mới dám thú thật
đã có mang.
"Ai gây ra chuyện này? Ai là thằng đàn ông đồi bại, tội
lỗi này?" Mẹ bề trên hỏi.
"Ôi, Mẹ tôn kính, con không phạm vào tội lỗi nhục dục
với đàn ông đâu," ni cô than thở.
"Thôi được, đàn bà chắc không thể làm bố được chứ?"
Mẹ bề trên nói, bắt đầu bực tức.
"Không, thực mà! Mẹ tôn kính. Bố nó là một trong
những thiên thần thiêng liêng," ni cô bẽn lẽn mỉm cười.
"Thiên thần thiêng liêng! Điều vô nghĩa ấy là gì vậy?"
"Dạ, thưa Mẹ tôn kính, người ấy giáng xuống con vào
nửa đêm trong giấc ngủ và khi con hỏi người ấy là ai thì
người ấy nói, "Thánh Michael," và cho con xem tên người
ấy trên áo lót để chứng minh."
Một khi bạn đang chống cái gì đó, bạn sẽ tìm ra cách để
thoát ra nó, bạn sẽ tìm thấy cửa sau nào đó. Con người rất
tinh ranh. Nếu bạn kìm nén cái gì đó, tâm trí ranh mãnh sẽ
tìm ra cách khác nào đó. Đó là lí do tại sao bạn mơ về dục...
thánh nhân của bạn mơ quá nhiều về dục, họ phải mơ như
thế. Ban ngày họ có thể chối bỏ, nhưng ban đêm... khi họ
có ý thức họ có thể kìm nén, nhưng khi họ ngủ, thế thì
trong giấc mơ dục thành lớn, đầy mầu sắc rực rỡ, nó trở
thành ảo giác. Và rồi vào buổi sáng họ thấy mặc cảm, và
bởi vì họ thấy mặc cảm nên họ lại kìm nén nhiều hơn. Và
khi họ kìm nén nhiều hơn thì đêm sau họ lại có giấc mơ
đẹp hơn nữa về dục - mà theo họ thì thật khủng khiếp. Điều
đó phụ thuộc vào cách bạn diễn giải nó là đẹp hay khủng
khiếp.
Một cô học trò 'khó tính' mười lăm tuổi được gửi tới
một nhà tâm lí, người đang hỏi cô ta một số câu hỏi rất cá
nhân. Ông ta chắc chắn rằng vấn đề dục là nền tảng cho rắc
rối và hỏi cô ấy, "Cháu có phải chịu đựng vì dục hay những
giấc mơ gợi tình không?"
"Chắc chắn là không!"
"Cháu có chắc không?"
"Hoàn toàn chắc," cô gái nói. "Trong thực tế cháu tận
hưởng chúng."
Vấn đề tuỳ thuộc vào bạn liệu bạn gọi chúng là đẹp đẽ
hay khủng khiếp. Trong đêm chúng đẹp đẽ, ban ngày
chúng trở thành khủng khiếp. Trong đêm bạn hưởng thú
chúng, ban ngày bạn chịu đựng. Cái vòng luẩn quẩn được
tạo ra, và cái gọi là thánh nhân của bạn cứ đi trong cái vòng
luẩn quẩn này: ban ngày chịu đựng, ban đêm tận hưởng;
ngày ông ta chịu đựng, đêm ông ta tận hưởng - và ông ta bị
xẻ làm đôi giữa hai điều này.
Và nếu bạn nhìn sâu vào trong bản thân mình bạn sẽ
thấy điều ấy một cách dễ dàng. Bất kì cái gì bạn kìm nén
đều sẽ còn lại đó, bạn không thể gạt bỏ nó đi được. Cái bị
kìm nén còn lại, chỉ cái được bày tỏ mới biến mất. Cái
được bày tỏ thăng hoa, cái bị kìm nén còn lại - và không
chỉ còn lại, nó sẽ ngày càng trở nên mạnh hơn. Khi thời
gian trôi qua nó sẽ ngày càng trở nên mạnh hơn.
Saraha phải đã nhìn vào điều đã xảy ra hai trăm năm
sau Phật: diễn giải sai, và mọi người gần như bị dục ám
ảnh. Từ ám ảnh đó của các sư và ni Phật giáo, Mật tông đã
được sinh ra như sự nổi dậy - sự nổi dậy chống Phật giáo,
không chống Phật. Qua nổi dậy đó mà Saraha đã mang
tinh thần của Phật trở lại. Vâng, người ta phải siêu việt trên
dục, nhưng siêu việt lên xảy ra qua hiểu biết.
Mật tông tin vào hiểu biết. Hiểu biết sự vật một cách
toàn bộ và bạn sẽ thoát khỏi nanh vuốt nó. Bất kì thứ gì
không được hiểu đúng sẽ vẫn còn như một vết tích.
Cho nên bạn phải đấy. Bạn hỏi, "Làm sao Mật tông
phát triển từ Phật giáo nhưng như tôi biết thì lại coi dục
như cản trở cho thiền?" Chính xác bởi vì điều đó. Nó là sự
nổi dậy chống lại Phật giáo, và nó là vì Phật. Nó chống lại
những người theo sau, nhưng không chống lại thầy. Những
người đi theo đã mang theo câu chữ, còn Saraha đem linh
hồn.
Saraha là hoá thân của cùng chứng ngộ như Phật.
Saraha là vị phật.
#10Câu hỏi thứ ba:
Osho kính yêu, 'Tuần trăng mật qua đi' nghĩa là
gì?
Tuần trăng mật qua đi nghĩa là phần tưởng tượng của
tình yêu của bạn đã kết thúc. Tuần trăng mật là tưởng
tượng. Nó là phóng chiếu, nó không phải là thực tại; nó là
một giấc mơ được phóng chiếu. "Tuần trăng mật qua đi"
nghĩa là giấc mơ đã qua, và bây giờ bắt đầu hôn nhân, thực
tại. Tuần trăng mật càng cao, tan vỡ ảo tưởng càng lớn. Đó
là lí do tại sao hôn nhân vì yêu không thành công. Hôn
nhân thành công nhưng không có hôn nhân vì yêu.
Hôn nhân vì yêu không thể thành công được; thất bại là
bản chất cho nó. Hôn nhân vì yêu là tưởng tượng, và điều
tưởng tượng không thể thắng được thực tại. Chỉ có một
cách còn lại trong tưởng tượng và bao giờ cũng còn lại
trong tuần trăng mật, và đó là không bao giờ gặp người bạn
yêu. Thế thì điều ấy là có thể: bạn có thể có nó trong cả
cuộc đời mình - nhưng đừng bao giờ gặp người mình yêu,
chớ bao giờ gặp người tình của mình.
Những người tình vĩ đại nhất trong lịch sử là những
người không được phép gặp nhau: Laila và Majnu, Shiri và
Farihad - đó là những người tình vĩ đại. Họ không được
phép gặp nhau; xã hội đã tạo ra quá nhiều chướng ngại đến
mức họ bao giờ cũng vẫn còn trong trạng thái tuần trăng
mật. Hệt như khi thức ăn có đấy nhưng bạn không được
phép ăn, cho nên tưởng tượng tiếp tục. Nếu bạn được phép
ăn, tưởng tượng biến mất.
Hôn nhân vì yêu không thể thành công được. Điều tôi
ngụ ý 'không thành công' nghĩa là gì? Theo nghĩa là mọi
người muốn nó thành công, nó không thể thành công được.
Hôn nhân thành công, nhưng thế thì không có yêu. Đó là lí
do tại sao trong quá khứ tất cả các xã hội trên thế giới, theo
kinh nghiệm, đều quyết định nghiêng về hôn nhân và chống
tình yêu. Xã hội Ấn Độ là một trong những xã hội cổ đại
nhất trên thế giới. Nó đã tồn tại ít nhất năm nghìn năm nay,
hay nhiều hơn thế nữa. Từ kinh nghiệm lâu dài này Ấn Độ
đã quyết định theo hôn nhân mà không theo tình yêu, bởi vì
hôn nhân không có tình yêu có thể thành công do chỗ nó
không có tuần trăng mật trong đó; ngay từ ban đầu nó đã
rất thực tế, ngay trên đất bằng. Nó không cho phép bất kì
mơ mộng nào.
Tại Ấn Độ, bản thân các đôi trai gái không được phép
lựa chọn. Con trai không được phép chọn con gái, con gái
không được phép chọn con trai; bố mẹ chọn cho chúng.
Một cách tự nhiên chúng sẽ thực tế hơn, kinh nghiệm hơn.
Và cũng tự nhiên là chúng không thể rơi vào tình yêu.
Chúng nghĩ về các thứ khác: tài chính, danh vọng, kính
trọng, gia đình. Chúng nghĩ tới hàng nghìn thứ, nhưng
chúng không nghĩ về một thứ - tình yêu. Tình yêu không
được mang vào trong thế giới vật chất chút nào. Chúng đến
nhà chiêm tinh, chúng hỏi nhà chiêm tinh về mọi thứ -
nhưng không hỏi về tình yêu. Tình yêu không trở thành
chất liệu trong đó.
Hai người không quen biết, đàn ông và đàn bà, được bố
mẹ, xã hội gắn với nhau và được để ở với nhau. Một cách
tự nhiên khi bạn sống với một người, có thích thú nào đó
nảy sinh. Nhưng thích thú đó cũng chỉ là thích thú bạn có
với người em gái, đấy không phải là tình yêu. Bởi vì bạn
được sinh ra trong một gia đình nào đó - bạn đã không
chọn chị em mình, bạn cũng chẳng chọn anh em mình; bạn
không chọn họ, ngẫu nhiên mà bạn được sinh ra với cùng
bố mẹ - bạn có một thích thú nào đó. Sống với nhau thời
gian dài, cả nghìn lẻ một giao tiếp, và người ta bắt đầu
thích - hay không thích. Nhưng nó chẳng bao giờ là yêu và
chẳng bao giờ là ghét; nó chẳng bao giờ đi đến cực điểm,
nó rất cân bằng. Cùng trường hợp như thế cũng xảy ra cho
hôn nhân, hôn nhân được thu xếp. Chồng và vợ sống với
nhau, và dần dần họ bắt đầu có cảm tình lẫn nhau.
Một điều khác xã hội làm: xã hội không cho phép bất
kì quan hệ dục nào ngoài hôn nhân, cho nên một cách tự
nhiên chồng phải làm tình với vợ, và vợ phải làm tình với
chồng. Nếu bạn chỉ được phép ăn thức ăn này mà không
được ăn thức ăn khác, bạn có thể đợi được bao lâu? Bạn
phải ăn thôi. Đây là thủ đoạn của xã hội. Nếu dục ngoài
hôn nhân mà được phép, có mọi khả năng là chồng có thể
không muốn làm tình với vợ và vợ không muốn làm tình
với chồng. Chỉ để cho khao khát mãnh liệt mà không có lối
ra nào khác họ phải bắt đầu làm tình với nhau. Từ chỗ tuyệt
vọng họ bắt đầu trở nên liên kết với nhau. Rồi trẻ con được
sinh ra... và nhiều thứ ràng buộc nữa: các ràng buộc tôn
giáo, xã hội. Rồi trẻ con và trách nhiệm... và gia đình bắt
đầu lăn bánh.
Hôn nhân vì yêu chắc chắn thất bại bởi vì hôn nhân vì
yêu là hiện tượng thi vị hoá. Bạn yêu và bạn bắt đầu mơ
mộng về đàn bà hay đàn ông, rồi bạn đạt tới đỉnh, cực điểm
mơ mộng. Những mơ mộng này tiếp tục cho tới khi bạn
gặp người đàn bà, cho tới khi bạn gặp người đàn ông. Rồi
các bạn tới với nhau, các bạn được thoả mãn; những mơ
mộng này bắt đầu biến mất. Bây gì lần đầu tiên bạn bắt đầu
nhìn thấy người kia như con người thực của họ.
Khi bạn nhận thấy vợ mình như cô ta vẫn thế, khi bạn
nhận thấy chồng mình thực như anh ta vẫn thế, tuần trăng
mật trôi qua. Đấy là ý nghĩa của 'tuần trăng mật đã qua'. Và
điều đó xảy ra không chỉ trong hôn nhân, nó xảy ra trong
nhiều loại quan hệ. Nó xảy ra ở đây với tôi. Bạn đến tôi và
bạn có thể có tuần trăng mật, bạn có thể bắt đầu tưởng
tượng về tôi. Tôi chẳng có phần nào trong đó cả, tôi không
phải là một phần trong đó. Nó là cái gì đó bạn làm một
mình tất cả. Nhưng bạn bắt đầu tưởng tượng, ước muốn:
điều này sắp xảy ra và điều kia sắp xảy ra, rồi Osho sẽ làm
cái này và Osho sẽ làm cái kia. Thế rồi một hôm nào đó
tuần trăng mật qua đi. Trong thực tế tôi bao giờ cũng muốn
đợi cho tới khi tuần trăng mật qua đi, thế rồi tôi mới bắt
đầu làm việc, không bao giờ trước nó, bởi vì tôi không
muốn trở thành một phần trong tưởng tượng của bạn. Tôi
chỉ bắt đầu làm việc khi tôi thấy rằng bây giờ tuần trăng
mật đã qua và bạn đã quay trở về mặt đất. Bây giờ cái gì đó
thực có thể được làm.
Trong thực tế tôi bao giờ cũng muốn trao danh hiệu
sannyas khi tuần trăng mật đã qua. Trao danh hiệu sannyas
trong tuần trăng mật là nguy hiểm, rất nguy hiểm, vì
khoảnh khắc tuần trăng mật qua đi bạn sẽ bắt đầu cảm thấy
chống tôi, bạn sẽ bắt đầu nổi dậy chống tính chất sannyas,
bạn sẽ bắt đầu phản ứng. Tốt hơn cả là nên đợi.
Trong mọi quan hệ - trong tình bạn, trong quan hệ
thầy-đệ tử - trong bất kì kiểu quan hệ nào bao giờ cũng có
một phần tưởng tượng. Tưởng tượng đó chỉ là tâm trí bạn:
các ham muốn bị kìm nén đang bay lượn trong mơ mộng.
Trong một thế giới tốt hơn, với nhiều hiểu biết hơn, hôn
nhân sẽ biến mất, và cùng với hôn nhân cả tuần trăng mật
cũng biến mất.
Bây giờ lắng nghe xem. Đã từng có những xã hội...
chẳng hạn xã hội Hindu - xã hội này thủ tiêu tuần trăng mật
bởi việc thủ tiêu tình yêu, và chỉ có hôn nhân là tồn tại. Ở
Mĩ người ta lại đang thủ tiêu hôn nhân và cứu tình yêu và
tuần trăng mật; chỉ có tuần trăng mật tồn tại, không có hôn
nhân - nó đang biến mất. Nhưng với tôi cả hai đều dấn sâu
trong âm mưu. Tuần trăng mật có thể tồn tại được chỉ nếu
có kìm nén nào đó, bằng không thì chẳng có gì để phóng
chiếu cả. Và nếu có cái gì đó để phóng chiếu, thế thì tình
yêu cứ thất bại mãi. Thế thì các học giả Hindu về xã hội sẽ
tới và họ bắt đầu thu xếp cho hôn nhân bởi vì tình yêu thất
bại: nó làm cho người ta phát khùng và chẳng giúp gì cho
họ sống cuộc đời mình, nó làm cho họ phải tự tử, nó làm
cho họ thần kinh, tâm thần phân liệt, cuồng loạn. Cho nên
các học giả Hindu về xã hội phải tới, các tu sĩ và các chính
khách phải tới để thu xếp cho hôn nhân, bởi vì tình yêu quá
nguy hiểm. Và đấy chính là cách xã hội chuyển giữa hai
cực.
Đôi khi khi người ta phát chán với hôn nhân, như họ đã
phát chán ở Mĩ, họ bắt đầu nghĩ tới tình yêu. Khi người ta
phát chán với tình yêu, chẳng chóng thì chầy họ sẽ thấy -
họ đã tìm thấy nó như thế - thế thì họ bắt đầu chuyển sang
hướng về hôn nhân. Cả hai đều là các cực của cùng một trò
chơi.
Đối với tôi cần có một kiểu xã hội khác trong đó hôn
nhân và lãng mạn cả hai đều biến mất. Hôn nhân biến mất
bởi vì buộc hai người sống với nhau theo bó buộc pháp lí là
vô đạo đức. Buộc hai người sống với nhau khi họ không
muốn sống với nhau là chống tự nhiên và chống Thượng
đế. Chín mươi chín phần trăm bệnh tật xã hội sẽ biến mất
nếu mọi người không bị bó buộc.
Nghe điều này...
Một người tới cố vấn pháp luật của mình và nói, "Tôi
rất giầu, cho nên bao nhiêu tiền cũng không thành vấn đề,
nhưng tôi muốn tống khứ mụ vợ, cái mụ lẳng lơ mà tôi thì
không muốn giết người. Vậy ông bảo tôi phải làm sao bây
giờ?"
"Mua cho bà ta một con ngựa khoẻ mạnh và nó có thể
sẽ hất tung bà ta lên."
Một tháng sau người đó quay lại và nói vợ anh ta bây
giờ thành người đàn bà cưỡi ngựa giỏi nhất trong quận.
"Thử thế này vậy, " ông luật sư nói, "mua cho bà ta một
chiếc Hon đa, và để bà ấy đi lên núi bằng cái xe ấy."
Người đàn ông này làm theo lời, nhưng rồi bà ấy lái xe
như Stirling Moss, gây nguy hiểm cho mọi người trừ chính
bà ấy. Ông chồng bảo với vị cố vấn pháp luật rằng ông ấy
rất lấy làm thất vọng.
"Thế thì mua cho bà ta một con báo gấm vậy."
Người đàn ông quay lại sau một tuần, sung sướng.
"Ông nói giá phải trả cho ông đi," ông ta nói. "Được việc
đấy."
"Điều gì đã xảy ra vậy?"
"Thế này khi bà ấy mở cửa chuồng để cho con báo ăn
thì nó đã cắn đứt đầu bà ấy!"
Hôn nhân tạo ra cả nghìn lẻ một thứ phức tạp và chẳng
giải quyết được gì. Thế mà nó lại thành công đấy: nó thành
công trong việc làm cho mọi người thành nô lệ. Nó thành
công trong việc phá huỷ tính cá nhân của con người. Bạn
không thấy điều ấy tất cả xung quanh sao? Người không
gia đình có tính cá nhân nào đó còn người có gia đình bắt
đầu mất đi tính cá nhân của mình; người ấy bắt đầu ngày
càng trở nên kiểu cách. Người đàn bà chưa xây dựng gia
đình có vui vẻ, cái gì đó tuôn chảy. Người đàn bà đã có
chồng trở thành tẻ nhạt, thờ ơ, chán ngắt. Điều này là xấu,
buộc mọi người thành buồn tẻ. Mọi người ở đây để hạnh
phúc, mọi người ở đây để tận hưởng và lễ hội. Điều này là
xấu!
Hôn nhân phải ra đi. Nhưng nếu bạn chọn tưởng tượng
và tình yêu, bạn sẽ rơi vào cùng cái bẫy hôn nhân, bởi vì
tình yêu chẳng bao giờ thành công, chẳng bao giờ thành
công như hôn nhân thành công về mặt tài chính, an toàn, vì
trẻ con, vì xã hội, vì điều này điều nọ - yêu không bao giờ
thành công như hôn nhân thành công. Cho nên tình yêu
nhất định tạo ra một kiểu rắc rối khác. Và tình yêu tồn tại
bởi vì ham muốn bị kìm nén. Khi hôn nhân biến mất và
ham muốn không bị kìm nén thì tình yêu sẽ biến đi một
cách tự động.
Một xã hội thực của con người sẽ không biết tí gì về
hôn nhân và sẽ không biết gì về tuần trăng mật. Nó sẽ chỉ
biết vui vẻ, biết về chia sẻ với mọi người. Chừng nào bạn
còn có thể chia sẻ thì còn tốt; nếu bạn không thể chia sẻ
được nữa thì tạm biệt. Hôn nhân biến mất và với việc đó
cái li dị xấu xí cũng biến theo. Hôn nhân biến mất và với
nó cả tưởng tượng về tuần trăng mật cũng biến mất.
Khi bạn được tự do yêu đương, gặp gỡ, sống cùng với
mọi người, tuần trăng mật sẽ biến mất. Laila và Majnu, rồi
Shiri và Farihad đều không thể có - chẳng ai ngăn cản con
đường. Bạn có thể gặp bất kì người đàn bà nào và bạn có
thể gặp bất kì người đàn ông nào, bất kì ai bạn ham muốn
và bất kì ai ham muốn bạn; không ai ngáng đường cả. Thế
thì cần gì phải tưởng tượng nữa? Nếu mọi loại thức ăn đều
có sẵn, bất kì cái gì bạn muốn ăn cũng đều có cả và không
có ai đứng đó tựa như cảnh sát hay quan toà hay tu sĩ, làm
bạn sợ hãi và hoảng sợ rằng nếu bạn ăn thức ăn này bạn sẽ
phải xuống địa ngục, nếu bạn ăn thức ăn kia bạn có thể lên
cõi trời... rồi thức ăn bạn không muốn ăn lại dẫn lên cõi trời
còn thức ăn bạn muốn ăn dẫn xuống địa ngục. Bất kì cái gì
đem đến cho bạn vui vẻ đều dẫn tới địa ngục còn bất kì cái
gì làm cho bạn khổ sở đều dẫn tới thiên đường.
Khi không có ai đứng ở giữa bạn và ham muốn của
bạn, khi ham muốn được tự do, sẽ không có kìm nén.
Không có kìm nén, tuần trăng mật sẽ biến mất. Tuần trăng
mật là sản phẩm phụ: nó tồn tại với hôn nhân. Nó giống
như miếng mồi. Bạn đi câu cá, bạn dùng mồi. Tuần trăng
mật là miếng mồi, nó đưa bạn vào hôn nhân. Đó là lí do tại
sao đàn bà rất, rất nhấn mạnh về hôn nhân - bởi vì họ biết.
Họ gần thực tế hơn, kinh nghiệm hơn đàn ông. Đàn ông
vẫn còn là những tay mơ, họ nghĩ tới các vì sao và mặt
trăng, còn đàn bà chỉ cười vào cái ham muốn lố lăng của
họ. Đàn bà biết - cô ấy rất thực tế - cô ấy biết rằng trong
vòng mười, mười hai, mười lăm ngày, từ hai đến ba tuần lễ,
tuần trăng mật sẽ biến mất... rồi sao đây? Cô ấy cứ khăng
khăng phải có hôn nhân.
Người đàn ông hỏi người đàn bà - anh ta đang yêu - và
anh ta hỏi cô ấy trong đêm, "Tình yêu hay cái gì đó?"
Còn người đàn bà trả lời, "Hôn nhân hay không có gì."
Anh ta lại hỏi, "Tình yêu hay cái gì đó?"
Còn cô ấy nói, "Hôn nhân hay không có gì hết."
Tình yêu là không tin cậy được, nó tới rồi nó đi; nó là
một ý chợt nảy ra, một tâm trạng. Nếu tình yêu còn đấy,
điều đó chỉ đơn giản là kìm nén vẫn còn đấy.
Thế thì trong một xã hội khác sẽ có vui vẻ. 'Tình yêu'
sẽ không phải là một từ quan trọng như ''vui vẻ', 'lễ hội’.
Hai người muốn chia sẻ năng lượng của mình; nếu họ cả
hai đều sẵn lòng, chẳng có gì cản trở cả. Sẽ chỉ có giới hạn
là nếu người kia không sẵn lòng, điều đó kết thúc; thế thì
nó sẽ không bao giờ bắt đầu được. Tất cả những giới hạn
khác đều nên bị vứt bỏ.
Và bây giờ khoa học đã có thể làm cho vấn đề trẻ con
rất dễ giải quyết. Ngày xưa người ta không may mắn được
đến thế, bạn bây giờ được may mắn hơn nhiều; vấn đề trẻ
con có thể được giải quyết. Bạn có thể ở với người đàn bà
cho đến ngày bạn nghĩ rằng bây giờ bạn đã sống chung đủ
lâu và tình yêu của bạn, vui vẻ của bạn với người đàn bà đó
còn tăng lên, vui vẻ của bạn với người đàn ông còn tăng
lên, và bây giờ không thể có sự tách biệt nữa, bạn đã tìm
thấy người bạn đời tâm hồn của mình - cái ngày bạn cảm
thấy rằng bạn có thể có con. Bằng không thì chẳng cần phải
có con.
Và trong một xã hội tốt hơn, trẻ con nên thuộc về cộng
đồng. Gia đình phải tan biến. Nên có cộng đồng của mọi
người: cộng đồng các hoạ sĩ, nơi các hoạ sĩ - đàn ông và
đàn bà - sống với nhau và tận hưởng việc ở cùng nhau,
cộng đồng các nhà thơ, cộng đồng thợ mộc, cộng đồng thợ
vàng bạc; cộng đồng các loại người khác nhau, những
người sống cùng nhau, thay cho gia đình. Gia đình là một
tai hoạ. Nhiều người sống với nhau sẽ tốt hơn, họ có mọi
thứ chung và họ chia sẻ tình yêu cho nhau. Nhưng không
nên có bất kì hạn chế nào.
Tình yêu không bao giờ nên trở thành bổn phận, nghĩa
vụ; chỉ có thế thì nó mới là vui vẻ. Khoảnh khắc nó trở
thành nghĩa vụ nó chết, nặng nề, và nó tạo ra cả nghìn lẻ
một vấn đề không thể giải quyết trực tiếp được. Đó là toàn
bộ hiện trạng trong thế giới. Bạn có thể tới nhà phân tâm,
bạn có thể tới thầy, bạn có thể thiền, bạn có thể làm cái này
cái nọ - nhưng vấn đề cơ bản của bạn vẫn chẳng được động
chạm tới.
Vấn đề cơ bản của bạn còn lại có liên quan thế nào đó
tới năng lượng dục của bạn, và bạn cứ khắc phục nó ở đâu
đó. Bạn cứ cắt lá, tỉa lá mà bạn chẳng bao giờ cắt gốc rễ.
Mọi người khổ bởi vì họ chán lẫn nhau. Mọi người buồn
bởi vì họ không tận hưởng bạn bè lẫn nhau. Mọi người đơn
giản bị nặng gánh: họ thực thi bổn phận của mình, tình yêu
không có đó.
Hôn nhân và tuần trăng mật cả hai đến trong cùng một
bọc; chúng cả hai phải cùng ra đi. Thế thì mới có thể có
nhân loại không bị kìm nén, nhân loại diễn đạt đầy đủ, con
người diễn đạt đầy đủ, người không biết gì ngoài vui vẻ, và
người quyết định theo vui vẻ.
Vui vẻ nên trở thành tiêu chuẩn. Đó là điều toàn bộ
Mật tông là gì: Vui vẻ nên trở thành tiêu chuẩn.
#10Câu hỏi thứ tư:
Osho kính yêu, tôi yêu Ma Prem Savya. Tôi
muốn cô ấy sống với tôi đến chết. Đây có
phải là ham muốn cuối cùng tốt đẹp hay
không?
Câu hỏi này là từ Prem Aniket.
Điều đầu tiên: không ham muốn là điều cuối cùng nếu
bạn vẫn còn sống. Không ham muốn là ham muốn cuối
cùng nếu bạn vẫn còn sống - ai biết được về khoảnh khắc
tiếp? Và làm sao bạn có thể xoay xở để biết khoảnh khắc
tiếp? Bạn đã quen biết Savya bao lâu? Mới vài tuần... trước
vài tuần này bạn thậm chí đã không mơ về cô ấy. Nếu điều
này có thể xảy ra thì điều này có thể xảy ra nữa. Sau ba
tuần, bạn có thể gặp người đàn bà khác.
Cho đến khi nào bạn chết chẳng ham muốn nào là ham
muốn cuối cùng cả; mỗi ham muốn lại tạo ra các ham
muốn khác. Ham muốn là một dải liên tục. Chỉ có hai điều,
chết hay chứng ngộ, mới dừng các ham muốn. Và chắc
chắn cả hai điều này đều chưa xảy ra, Aniket này; cả cái
chết lẫn chứng ngộ đều chưa xảy ra đâu.
Hiểu được ham muốn là điều tốt. Mỗi ham muốn đem
đến những ham muốn mới, ham muốn nọ tạo ra mười ham
muốn kia. Nó cũng tựa như một hạt mầm nhỏ trở thành cái
cây lớn, hàng nghìn cành và hàng triệu lá. Từ một ham
muốn, hạt mầm đó, nhiều ham muốn khác nảy sinh.
Bạn không thể nói được điều gì về tương lai; bạn
không nên nói, tương lai vẫn còn để mở. Đây là một trong
những nỗ lực lớn nhất của con người - kì cục, nhưng con
người vẫn cứ tạo ra nó. Một: người đó muốn cải tạo quá
khứ, điều không thể làm được. Bất kì cái gì đã xảy ra đều
đã xảy ra rồi, không có cách nào làm lại được nó nữa; bạn
thậm chí không thể chạm vào nó chỗ này chỗ nọ được. Bạn
không thể làm cho nó tốt hơn lên, bạn cũng chẳng thể nào
làm cho nó tồi đi hơn. Nó đơn giản bên ngoài bạn. Nó đã
xảy ra, nó đã trở thành thực tại, và cái đã trở thành thực tại
không thể nào động chạm tới được. Quá khứ đã kết thúc,
nó đã hoàn thành con đường của nó; bạn không thể quay lại
và bạn cũng không thể thu xếp lại nó. Như thế là tốt; bằng
không, nếu bạn có thể thu xếp lại quá khứ, nếu bạn có thể
quay ngược lại, bạn sẽ phát điên. Thế thì bạn sẽ chẳng bao
giờ đến được hiện tại lần nữa, quá khứ quá dài.
Cũng tốt là cánh cửa quá khứ đã đóng lại. Nhưng con
người, tâm trí đần độn của con người, vẫn cứ nghĩ về cải
tiến, cải tạo, làm lại cái gì đó ở đây đó. Đôi khi bạn không
nghĩ về điều đó: bạn đã không nói điều gì đó, và bạn bắt
đầu nghĩ điều đó sẽ tốt hơn sao? Bạn đã không làm điều gì
đó - như thế sẽ tốt hơn chăng? Và trong tưởng tượng của
bạn, bạn cố nói điều đó và làm điều đó. Nhưng bạn chỉ làm
lãng phí thời gian; bây giờ chẳng cái gì có thể làm được
nữa, nó đã trượt khỏi tay bạn.
Quá khứ không thể sửa đổi được, và tương lai không
thể dự đoán trước được. Cả điều đó nữa con người cũng
vẫn cứ làm: con người muốn dự đoán tương lai. Tương lai
là cái còn chưa xảy ra. Tương lai vẫn còn để mở; tính mở là
điều tương lai là gì. Tương lai là không định trước. Nó
không phải là thực tại, nó chỉ là có thể; chẳng có gì chắc
chắn được về tương lai. Không có gì chắc chắn về tương lai
cả. Nhưng con người ngốc nghếch: lần nữa con người lại
đến các nhà chiêm tinh, tra cứu Kinh dịch, bói bài, điểm
báo. Con người ngốc nghếch đến mức cố gắng bằng cách
nào đó tìm ra cách thức để có thể biết trước tương lai sẽ
như thế nào. Nhưng nếu bạn có thể biết trước về nó thì nó
đã là quá khứ, nó không còn là tương lai nữa. Chỉ quá khứ
mới có thể được biết, tương lai vẫn còn là cái chưa biết.
Đấy là phẩm chất cố hữu của tương lai - chưa biết. Tất cả
đều là có thể và chẳng cái gì chắc chắn cả - đó chính là
tương lai. Tất cả đã xảy ra, không có gì thêm nữa có thể
xảy ra - đó là quá khứ. Và hiện tại chỉ là bước chuyển từ
thực tại tới tiềm năng, từ đóng tới mở, từ chết tới sống.
Bây giờ bạn hỏi: "Đây có phải là ham muốn tốt đẹp
cuối cùng không?" Bạn muốn rằng đấy là ham muốn cuối
cùng của bạn, nhưng rồi bạn sẽ phải tự tử, hoặc thực sự
hoặc biểu tượng. Bạn sẽ phải tự tử nếu bạn muốn nó là ham
muốn cuối cùng. Hoặc bạn phải đi và nhảy vào trước tầu
hoả, hoặc nhảy xuống biển, nhảy xuống vực - tự tử thực -
thế thì bạn có thể có ham muốn đó là ham muốn cuối cùng.
Hoặc tự tử về mặt về mặt tâm lí, điều nhiều người đã làm.
Không nhìn vào bất kì người đàn bà khác nào nữa; nhắm
mắt lại, trở nên sợ hãi. Bám vào bất kì ai bạn yêu và không
đi đâu hết, ở đấy, lạc lối; thậm chí không nghĩ, thậm chí
không mơ... đấy là tự tử về tâm lí.
Nhưng theo cả hai cách bạn sẽ không có khả năng
sống, bởi vì bạn sẽ không có tương lai nào để sống. Nếu
bạn thực sự muốn sống - và bạn muốn sống; trong thực tế
đấy là điều bạn đang hỏi: bạn muốn sống với Savya. Để
sống bạn phải sống động.
Bạn đừng nghĩ theo kiểu 'ham muốn cuối cùng'. Và tại
sao, tại sao bạn muốn nó là cái cuối cùng? Tại sao bạn
không thể chia sẻ năng lượng của mình một ngày nào đó
với người đàn bà khác nào đó? Tại sao keo kiệt thế? Tại
sao vô nhân đạo đến thế? Những người đàn bà khác không
thiêng liêng như Savya hay sao? Thượng đế chẳng đã xuất
hiện dưới nhiều, nhiều hình dạng, hàng triệu dạng quanh
bạn đó sao? Tại sao bám víu vào một hình dạng? Tại sao
có bám víu này?
Bám víu này đến từ kìm nén, bởi vì bạn đã kìm nén
ham muốn của mình. Rồi một hôm bạn tìm thấy người đàn
bà, người đang hướng tình yêu về bạn và bạn bám lấy. Bạn
sợ mất cô ấy, vì bạn biết tất cả những đêm dài khi bạn một
mình. Nếu bây giờ người đàn bà đó ra đi, lần nữa bạn lại
một mình. Bây giờ người đàn bà này cũng sợ đơn độc của
mình; cô ấy bám lấy bạn. Cô ấy sợ rằng một ngày nào đó
bạn có thể đi tới ai đó khác; bạn có thể không hướng về cô
ấy nữa, và cô ấy sẽ bị bỏ lại đơn độc. Đã trải qua biết bao
đêm dài đơn độc rồi, thôi bây giờ không thế nữa. "Chúng ta
đã tìm thấy nhau, chúng ta phải bám vào nhau; chúng ta
phải sở hữu lẫn nhau và chúng ta phải canh chừng cho
nhau, để cho không ai đi bất kì đâu nữa."
Nhưng từ canh chừng này, nhìn điều đã xảy ra: mọi
người đều chán. Bạn cần người yêu, không phải là người
gác; bạn cần người được yêu, không phải cai ngục. Bạn
muốn tuôn chảy, không bị cầm tù. Nhìn vào cái ước muốn
mâu thuẫn này đi: bạn muốn sống và yêu, nhưng bất kì cái
gì bạn làm cũng phá rối tình yêu của bạn, phá huỷ tình yêu
của bạn, tạo ra trở ngại cho dòng chảy. Bạn muốn yêu và
sống, và bạn muốn sống vui vẻ, nhưng bất kì cái gì bạn làm
cũng đều đi đến chống điều đó, đều chống điều đó.
Tại sao đây phải là ham muốn cuối cùng? Nhớ lấy, tôi
không nói rằng điều này không nên là ham muốn cuối
cùng. Chớ hiểu lầm tôi. Tôi không nói rằng điều này không
nên là ham muốn cuối cùng, tôi đang nói, đơn giản nói, tại
sao nó phải là ham muốn cuối cùng? Nếu sự việc xảy ra là
các bạn vẫn còn lại với nhau, nếu sự việc xảy ra là bạn
chẳng bao giờ tìm thấy người đàn bà đẹp hơn, người đàn bà
đáng yêu hơn - thì tốt, bạn là người may mắn. Nếu sự việc
xảy ra là Savya chẳng bao giờ tìm thấy người đàn ông khác
đáng yêu hơn, sinh động hơn bạn - thì thật may mắn.
Nhưng nếu cô ấy tìm được người đàn ông đáng yêu hơn,
người có thể làm cho cô ấy vui vẻ hơn, người có thể đem
đến cho cô ấy những đỉnh cao cực lạc lớn hơn, thì sao? Cô
ấy vẫn phải bám víu vào bạn sao? Thế thì cô ấy đang chống
chính cô ấy. Tại sao cô ấy phải bám víu vào bạn?
Và nếu cô ấy bám víu vào bạn, cô ấy sẽ chẳng bao giờ
có thể tha thứ cho bạn, bởi vì đấy sẽ là vì bạn mà cô ấy đã
phải bỏ lỡ người đàn ông tuyệt vời đó; cô ấy sẽ luôn luôn
giận dữ bạn. Đó là lí do tại sao vợ giận dữ, chồng giận dữ.
Giận dữ đó có cơ sở tự nhiên cho nó. Giận dữ đó không
phải là điều trần tục; đấy không phải vì trà không đủ nóng,
không phải vậy. Ai bận tâm khi bạn yêu người đàn bà dù
trà có nóng hay không? Khi tình yêu còn nồng, mọi thứ đều
nhiệt tình. Khi tình yêu đã lạnh lẽo, mọi thứ dường như
cũng lạnh theo. Vấn đề không phải là ở chỗ đôi dép lê của
bạn không có ở chỗ nó phải có khi bạn ngủ dậy. Khi bạn
yêu người đàn bà, ai bận tâm?
Nhưng khi tình yêu biến mất, nhiệt tình đó cũng biến
mất. Thế thì bạn giận dữ, và giận dữ đến nỗi bạn không thể
nói được điều đó và xã hội không cho phép điều đó. Giận
dữ đến mức bạn không thể còn đúng về nó nữa. Có thể bạn
đã kìm nén nó sâu sắc đến mức bạn thậm chí không trở nên
nhận biết được nó, bạn thậm chí không ý thức được về nó -
đến mức bạn giận dữ bởi vì bây giờ, bởi vì người đàn bà
này, nên những người đàn bà khác trở thành không sẵn có
cho bạn... bởi vì người đàn bà này cứ vây quanh bạn và
thường xuyên theo dõi bạn... bởi vì người đàn ông này cứ
theo dõi bạn và không cho phép bạn đi và có cuộc sống
theo cách riêng của bạn, cách thức bạn muốn nó bây giờ.
Những hứa hẹn quá khứ của bạn đã trở thành nhà tù.
Thế thì bạn giận dữ. Và giận dữ chẳng liên quan tới bất kì
cái gì nói riêng, nó là giận dữ nói chung, cho nên bạn thậm
chí không thể nói được nó ở đâu, tại sao có nó, nó như thế
nào. Thế rồi bất kì cớ nào cũng bật ra - trà không nóng,
thức ăn không có khi bạn muốn ăn.
Bám níu này tạo ra giận dữ. Và chúng ta không có ở
đây để bị thừa trong giận dữ. Tại sao? Để làm gì? Với mục
đích nào? Nếu Savya gặp người đẹp trai nào đó và bỗng
nhiên cảm thấy rằng bây giờ cô ấy đã tìm được đúng người,
cô ấy phải làm gì? Cô ấy có phải bám lấy bạn không? Có
ấy phải không phản bội bạn sao? Từ này thật xấu: 'phản
bội'... Trong thực tế nếu cô ấy vẫn còn với bạn, cô ấy đang
phản bội chính con người cô ấy, nếu cô ấy vẫn còn với
bạn, cô ấy đang phản bội tình yêu của mình, cô ấy đang
phản bội vui vẻ của mình, cô ấy đang phản bội Thượng đế.
Bây giờ Thượng đế đã kêu gọi từ một cánh cửa khác; cô ấy
đang phản bội Thượng đế. Và cô ấy sẽ chẳng bao giờ có thể
yêu bạn thêm nữa; điều đó là không thể có. Thượng đế đã
kêu gọi từ đâu đó khác. Đôi mắt khác nào đó đã trở thành
cánh cửa và cửa sổ, hình dạng khác đã trở nên sinh động và
hấp dẫn. Cô ấy có thể làm gì bây giờ? Cô ấy có thể tránh
nhìn người đó, nhưng làm sao cô ấy sẽ có thể tha thứ cho
bạn được? Bây giờ giận dữ sẽ bắt đầu bùng ra. Bây giờ cô
ấy sẽ giận dữ chẳng vì lí do nào, và giận dữ sẽ phá huỷ tình
yêu của bạn. Nó đã căng phồng ra.
Nhớ lấy, tình yêu là làn gió thoảng. Nhìn xem... chưa
có gió thoảng ngay bây giờ đâu, cây vẫn còn im ắng.
Chúng có thể làm gì? Chúng không thể tạo ra gió được. Bất
kì khi nào gió tới, thì nó tới. Khi gió tới cây sẽ đung đưa
với vui vẻ. Khi gió qua đi, tức là nó hết rồi. Cây phải đợi.
Tình yêu giống như làn gió thoảng. Khi nó tới là nó tới - ai
biết được nó tới từ phương nào, từ người nào, từ ai.
Đây là giải phóng của Mật tông. Mật tông là triết lí
nguy hiểm, nó là tôn giáo nguy hiểm. Nó còn chưa được
thử trên qui mô rộng hơn, loài người còn chưa có đủ dũng
cảm để thử nó trên qui mô rộng hơn - chỉ có vài cá nhân,
rất ít và thưa thớt, mới thử nó, và họ đã phải chịu đựng rất
nhiều bởi vì xã hội không cho phép... xã hội nghĩ đây hoàn
toàn là tội lỗi. Nhưng Mật tông nói phải sống với người đàn
bà mà dòng chảy tình yêu của bạn đã dừng, với người mà
bạn không còn vui vẻ nữa, là tội lỗi. Việc làm tình với
người đàn bà mà bạn không yêu là cưỡng hiếp. Việc làm
tình với người đàn ông mà bạn không yêu là cưỡng hiếp;
đấy là mãi dâm.
Đây là thái độ của Mật tông về cuộc sống. Mật tông tin
vào vui vẻ bởi vì Mật tông nói vui vẻ là Thượng đế. Vẫn
còn đúng cho vui vẻ và hi sinh mọi thứ cho vui vẻ. Để cho
vui vẻ là Thượng đế duy nhất, và hi sinh mọi thứ - bất kì
cái gì cần tới. Vẫn còn tuôn chảy.
Bạn nói: "Tôi yêu Ma Prem Savya. Tôi muốn cô ấy
sống với tôi đến khi tôi chết..." Bạn có nghĩ đến việc chết
rất sớm không? Ai biết được bạn có thể sống bao lâu? Ngay
chỗ đầu tiên tại sao bạn lại nghĩ về tương lai? Nghĩ về
tương lai là bỏ lỡ hiện tại. Bạn nghĩ rằng bạn đang nghĩ đến
những điều lớn lao... bạn đã đọc những thứ như thế của
những nhà thơ ngớ ngẩn. Các nhà thơ bao giờ cũng gần
như ngớ ngẩn; họ không có kinh nghiệm thực về cuộc
sống, họ chỉ mơ.
Bây giờ nhìn xem: bạn nghĩ đây là tình yêu lớn - rằng
bạn muốn sống với cô ấy cho tới khi bạn chết. Đây không
phải là tình yêu lớn, bạn sợ. Trong thực tế ngay bây giờ bạn
không tận hưởng nó, đó là lí do tại sao bạn đang lan toả
vào tương lai. Ngay bây giờ bạn đang bỏ lỡ nó, cho nên
bạn muốn có nó bằng mọi cách - có thể không phải hôm
nay, thì ngày mai, ngày kia - đó là lí do tại sao nỗi sợ nảy
sinh. Bạn muốn sống với cô ấy cả đời bạn, để cho bạn có
thể xoay xở theo cách nào đó.
Nhưng tại sao không bây giờ? Nếu nó có thể đã có, thì
nó có thể đã có từ ngay bây giờ. Bạn không biết cách sống
ngay bây giờ, cho nên bạn nghĩ về tương lai. Và thời gian
là ảo tưởng lớn. Chỉ có bây giờ là tồn tại. Ngày mai sẽ là
hôm nay. Ngày kia sẽ là hôm nay. Sau một năm lại sẽ là
hôm nay. Bao giờ cũng hôm nay. Thượng đế bao giờ cũng
trong hiện tại. Nếu bạn muốn sống, sống ngay bây giờ. Tại
sao nghĩ đến tương lai? Để cho tình yêu của bạn được
mạnh mẽ, như ngọn lửa, đến mức nó đốt cháy toàn bộ bạn
ngay bây giờ.
Và bây giờ bạn đang nghĩ "cho đến khi tôi chết..." Ai
có thể nói được? Ít nhất tôi không định nói gì về việc ấy cả,
bởi vì tôi muốn bạn vẫn còn tự do và tôi cũng muốn Savya
được tự do. Gặp gỡ nhau như hai cá nhân tự do đi, gặp gỡ
nhau như hai sự tự do đi. Và để cho việc gặp gỡ có đó trong
khi tự do kéo dài. Khi việc gặp gỡ của bạn bắt đầu phá hoại
tự do, tách ra ngay; thời điểm đã tới để nói lời chia tay.
Cảm thấy biết ơn những ngày bạn đã sống với người đàn bà
hay người đàn ông đó. Cảm thấy cực kì biết ơn những ngày
đó đã được làm thành sẵn có cho bạn qua người kia. Cảm
thấy biết ơn về tất cả những kinh nghiệm đó. Nhưng bạn có
thể làm được gì? Với nước mắt lưng tròng, với lòng biết
ơn, với tình yêu, với tình bạn, với lòng từ bi - tách ra. Cơn
gió thoảng không còn thổi theo cách này nữa. Bạn có thể
làm được gì? Cảm thấy bất lực, nhưng tách ra. Đừng níu
bám, bằng không các bạn sẽ phá huỷ lẫn nhau.
Nếu bạn thực sự yêu người kia, khoảnh khắc tình yêu
tan biến bạn sẽ làm cho người kia được tự do. Ít nhất thì thì
tình yêu nhiều nhặn này cũng vì... để làm cho người kia
được tự do, để cho ở đâu đó khác, ở cánh đồng cỏ nào đó,
tình yêu có thể đâm chồi, nở hoa. Ít nhất đây là điều bạn có
thể làm cho người kia, rằng tình yêu - nếu nó đã tan biến
giữa các bạn - vẫn có thể đâm chồi và nở hoa ở đâu đó khác
với ai đó đó khác. Tình yêu là Thượng đế. Nó xảy ra ở đâu,
nó xảy ra giữa ai - giữa A và B, hay C và D, hay E và G,
điều ấy chẳng can hệ gì. Nó xảy ra ở đâu chẳng can hệ gì.
Nếu nó xảy ra thì thế là tốt. Thế giới đã trở nên không có
tình yêu đến thế bởi vì chúng ta bám víu vào mọi người khi
tình yêu đã hết. Thế giới sẽ đầy tình yêu nếu mọi người
không bám víu và vẫn còn tự do.
Tự do trong tình yêu của bạn. Gặp gỡ từ tự do, và khi
tự do bị phá huỷ, để cho đó là một chỉ dẫn rằng tình yêu đã
biến mất - bởi vì tình yêu không thể phá huỷ tự do: tình yêu
và tự do là hai tên gọi cho cùng một điều. Tình yêu không
thể phá huỷ tự do. Nếu tự do bị phá huỷ, cái gì đó khác
đang giả làm tình yêu - ghen tuông, thù hận, chi phối, an
toàn, an ninh, danh vọng, tôn kính xã hội - cái gì đó khác
đã bước vào. Trước khi nó đi vào và làm hư hỏng bạn và
đầu độc bạn quá nhiều, thoát khỏi nó đi.
#10Câu hỏi thứ năm:
Osho kính yêu, tôi muốn làm sannyasin và
tôi đã chờ đợi điều ấy nhiều năm, nhưng tôi
sợ sẽ gặp rắc rối vì nó. Tôi phải làm gì đây?
Tôi chỉ có thể hứa rằng bạn sẽ gặp rắc rối thôi, tôi
không thể nói rằng bạn sẽ không gặp rắc rối. Trong thực tế,
đấy là một phương cách để tạo ra hỗn loạn trong cuộc sống
của bạn. Nhưng có hai loại rắc rối: rắc rối huỷ hoại và rắc
rối sáng tạo. Tránh rắc rối huỷ hoại, bởi vì chúng đơn giản
phá huỷ. Có rắc rối sáng tạo, cái sẽ sáng tạo, cái đưa bạn
lên bình diện tâm thức cao hơn. Bạn đã có đủ rắc rối rồi.
Chắc chắn tôi không định thêm rắc nào rối thuộc loại đó.
Chuyện xảy ra...
Có người đàn bà trong một toa xe lửa đi cùng với
người đàn ông với cả một bầy trẻ con nhếch nhác và kém
văn hoá. Trước khi họ đi thật xa ông này cho một trong
những đứa trẻ một trận đòn dữ tợn.
"Này," người đàn bà nói, "ông hãy dừng việc đánh
thằng bé lại ngay bằng không tôi sẽ làm cho ông bị rắc rối
đấy."
"Bà làm gì?"
"Tôi nói, tôi sẽ làm cho ông bị rắc rối đấy!" người đàn
bà hét to.
"Nghe đây, thưa bà, vợ tôi đã tẩu thoát cùng với một
thằng da đen cuỗm sạch từng đồng xu tôi đã dàng dụm; tôi
đang trên đường đưa những đứa trẻ này về nhà người họ
hàng, người này say mèn; đứa con gái ở góc kia mới mười
lăm và có mang tám tháng. Thằng bé đằng kia bị loạn nhịp
thở, đứa bé vừa ném chai rượu ra khỏi cửa sổ, và đứa tôi
vừa đánh đã nuốt hết vé của tôi. Vì nghỉ việc, tôi đã bị thải
hồi. Bà nói bà định làm cho tôi bị rắc rối hơn - còn rắc rối
nào hơn nữa đây?"
Không, tôi không định làm cho bạn bị rắc rối thêm
cùng kiểu như bạn đã sống trong toàn bộ cuộc đời mình.
Tôi sẽ giới thiệu những loại rắc rối mới trong cuộc sống
của bạn. Dũng cảm lên.
Và bạn đã phải đợi lâu - bạn nói bạn đã từng nghĩ về
điều đó trong nhiều năm...
Có một trận đá bóng giữa chuột và sâu bọ. Hiệp đầu tỉ
số là sáu đều, và đến cuối tỉ số là mười một-mười nghiêng
về phía chuột. Cho nên sâu bọ về hang của của rết và nói,
"Tại sao cậu không tham gia trận đấu?"
"Tớ còn bận xỏ giầy vào chân chưa xong," rết trả lời.
Đến bao giờ bạn mới xỏ xong chân vào giầy? Trận đấu
chẳng mấy chốc mà kết thúc! Xin hãy làm mọi thứ nhanh
hơn.
#10Câu hỏi thứ sáu:
Osho kính yêu, tôi có thể tự nhảy một mình
được không? Thầy có phải tuyệt đối cần thiết
không?
Hai anh chàng, Pete và Dave, đang làm việc trên giàn
giáo. Một người đi qua để tìm người làm việc cho câu lạc
bộ tạp kĩ, và người đó đứng ngay dưới ngôi nhà. Bỗng
nhiên người đó thấy Pete đang nhảy lộn ba vòng trên đỉnh
giàn giáo, tiếp đó là nhảy lộn ngược, rồi nhảy lộn vòng hai
lần, và hạ xuống đất cạnh chân mình.
Anh chàng trên mặt đất nghĩ rằng thật là phi thường
cho nên anh ta đến gần Pete và nói, "Anh có muốn tới và
làm xiếc cho tôi không?"
"Có chứ, được thôi."
"Anh muốn được trả bao nhiêu?"
"Một trăm đồng bảng."
"Những một trăm đồng bảng cơ à?"
"Thế này, năm mươi đồng cho tôi, còn năm mươi đồng
cho Dave, người nện vào chân tôi bằng búa."
Một mình bạn sẽ không có khả năng đi được. Bạn sẽ
cần thầy để thúc bạn. Cuộc hành trình không quen thuộc
thế, cuộc hành trình đi vào vực thẳm. Chừng nào ai đó chưa
thực sự đẩy mạnh bạn, bạn không định nhảy, bạn sẽ phải bị
gõ búa.
#10Và câu hỏi cuối cùng:
Osho kính yêu, niết bàn là gì?
Niết bàn là câu chuyện này... câu chuyện cổ của nhà
phật. Một người đàn bà trẻ trung xinh tươi ngoại lệ,
Enyadatta, chẳng thích gì ngoài việc ngắm mình trong
gương. Cô ấy cũng hơi lập dị nữa, như mọi người đều thế.
Một sáng khi đang ngắm nhìn mình trong gương thì hình
trong gương không có đầu. Enyadatta trở nên phát hoảng
và chạy lung tung kêu hét lên, "Tôi bị mất đầu rồi, đầu tôi
đâu? Ai lấy đầu tôi? Tôi sẽ chết nếu tôi không tìm thấy
đầu!"
Mặc cho mọi người bảo đảm với Enyadatta rằng đầu cô
ấy vẫn còn trên vai, cô ấy vẫn từ chối tin họ. Mỗi lần cô ấy
nhìn vào gương, đầu cô ấy đều không có đó, cho nên cô ấy
tiếp tục tìm kiếm điên cuồng, kêu la khóc lóc nhờ giúp đỡ.
Lo sợ về sự lành mạnh của cô, bạn bè và họ hàng của
Enyadatta lôi cô về nhà và buộc cô vào cột nhà để cho cô
không thể làm mình bị thương.
Bạn bè của Enyadatta tiếp tục tái bảo đảm với cô rằng
đầu cô vẫn còn trên vai và dần dần cô bắt đầu tự hỏi liệu họ
có nói đúng sự thật hay không. Bỗng nhiên một trong
những người bạn của cô cắm một chiếc đinh sắc trên đầu
cô. Cô kêu rú lên đau đớn, còn người bạn thì than thở, "Đấy
là đầu bạn đấy! Nó đây rồi!" Enyadatta lập tức hiểu ra rằng
bằng cách nào đó cô ấy đã tự lừa dối mình trong suy nghĩ
rằng cô không có đầu, trong khi thực tế cô ấy bao giờ cũng
có nó.
Niết bàn cũng vậy. Bạn chưa bao giờ ra khỏi nó, bạn
chưa bao giờ xa khỏi nó. Nó là trong bạn, bạn là trong nó.
Nó đã có đấy, bạn chỉ cần trở nên tỉnh táo hơn một chút.
Bạn cần một cái đinh trên đầu.
Cái đầu có đó: bạn không thể thấy được nó bởi vì bạn
đang nhìn sai hướng hay nhìn vào gương giả. Bạn không
thể thấy nó bởi vì bạn không có sáng tỏ để thấy. Bằng
không thì niết bàn chẳng phải là một mục tiêu nào đó ở đâu
đó, nó không phải là kiếp sau, nó là ở đây và bây giờ.
Niết bàn là chất liệu tạo nên bạn.
Nó là trong từng tế bào, nó là trong từng thớ thịt của
con người bạn.
Nó là bạn.
Chỉ việc nhớ là cần.
Chỉ việc nhớ ...
Đủ cho hôm nay.
END
Bạn đang đọc truyện trên: truyentop.pro