Chap 4

Nếu một ngày bill là thụ~~
______________________________

Arc I - Part 3

The Cathedral
Nhà Thờ Chính Tòa

Dipper thức tỉnh trong tiếng hét của mình.

Cậu bật dậy khỏi giường và la toáng lên.

“Bill! Thực sự như vậy luôn đó hả?

Hắn bị gì mà lại dùng thứ đó để doạ cậu chứ? Bộ hết ý tưởng rồi hả? Còn cả bài thơ đó nữa, chẳng lẽ hắn không thể nói thẳng với cậu về chuyện quái gì đang xảy ra được sao?

Dipper chợt nhận ra động tác của cậu khi nãy đã làm rơi một thứ gì đó khỏi giường. Một vật hình tam giác nho nhỏ. Dipper nhìn lại thì thấy Bill Cipher đang ngồi trên sàn, dùng tay mình xoa đầu? Mặt? Hoặc đỉnh? Mặc kệ nó gọi là cái gì thì có vẻ như cú ngã từ trên giường của Dipper xuống đất cũng làm cho Bill cảm thấy khá là đau.

Dipper do dự vươn tay ra nhưng đã bị Bill – với một cái trừng mắt – hất đi. Cái trừng của hắn nói không chừng có thể nướng chín mấy con thú nhỏ. Nếu không phải vì việc đây là lần đầu tiên Bill thể hiện cảm xúc trong năm năm qua thì Dipper đã sợ chết khiếp rồi. Cậu nhìn Bill bay tới chỗ cặp của mình. Nhìn hắn chui vào cặp, trước đó còn liếc nhìn cậu lần cuối rồi vươn bàn tay nhỏ của mình kéo khoá cặp lại.

...Đúng rồi, Dipper nhớ tới việc cậu đã hứa với Mabel là sẽ cùng cô đi điều tra nhà thờ. Có lẽ Bill đã nghe thấy cuộc trò chuyện và lên kế hoạch muốn đi theo cùng.

Ngay lúc đó, Mabel chạy vào trong phòng. “Thức dậy đi nào, em trai! Hôm nay là một ngày đẹp trời để đi điều tra đấy!”

“Ồ, ừ... được rồi.” Dipper lầm bầm chui ra khỏi giường, liếc nhìn cái cặp của mình một cách lo lắng.

****

Ít nhất, Dipper nghĩ, nó không bị gọi là Nhà thờ Chapelwick(1).

Nhà thờ rất là lớn, diện tích của nó bao trùm cả một khu đất. Nó bao gồm một một tòa nhà khổng lồ được trang trí bằng những hoa văn phức tạp và đá xám. Có những ngọn tháp cao chọc trời được đặt tại bốn góc của nhà thờ. Ở trung tâm là một mái vòm, nơi một chiếc chuông đồng lớn được treo.

Mabel nhìn Nhà thờ đầy ngưỡng mộ. “Thật đẹp.”

Cánh cửa lớn của Nhà thờ đã được mở sẵn tự lúc nào, vì vậy cả hai người liền đi vào. Ở bên trong cũng rộng như bên ngoài với những dãy ghế gỗ được chạm khắc tinh tế xếp thành hàng nối nhau dẫn tới bàn thánh. Chiếc bàn được rọi sáng bởi hai ô cửa sổ kính màu lớn, Dipper giật mình nhận ra rằng hai ô cửa đó trong rất giống với cái ở phòng khách nhà cậu. Ánh sáng đầy màu sắc tạo bởi cửa sổ rọi lên bức tượng mà cậu đang tìm.

Bức tượng, giống như toàn bộ Nhà thờ, cũng được chạm khắc tỉ mỉ, nếp gấp áo được điêu khắc thật đến nỗi Dipper thoáng nghĩ rằng nó sẽ bay phấp phới trước ngọn gió nhẹ thổi từ cửa ra vào. Bức tượng hình Đức Mẹ Đồng trinh Mary đang chấp tay cầu nguyện, đầu bà hơi cúi xuống. Loại đá cẩm thạch trắng dùng để khắc bức tượng trông như đang phát sáng, tạo nên một bầu không khí êm đềm xung quanh Đức Mẹ. Tuy nhiên, hai dòng nước mắt đỏ thẫm chảy dài trên má bức tượng đã phá hỏng vẻ mặt dịu dàng của bà.

Mabel cẩn thận quan sát bức tượng. Còn Dipper thì thấy mình bị cuốn hút bởi hai ô cửa sổ ở cuối bàn lễ.

“Rất ấn tượng, phải không?” Một giọng nói quen thuộc cất lên phía sau lưng họ. Dipper giật mình, quay lại và thấy mình đối mặt với cô hiệu trưởng.

“Ồ, hiệu trưởng Principelle.” Không hiểu bằng cách nào nhưng cậu vẫn giữ được vẻ mặt bình thường khi nói cái tên đó. “Rất...ờ...vui khi được gặp cô.”

Cô hiệu trưởng mỉm cười dịu dàng. “Các em là học sinh của trường Trung học Chapelwick phải không? Hai đứa tới đây để xem bức tượng trong lời đồn à?”

Mabel xoay người nhìn xung quanh, hai tay đặt ra sau lưng. “Trông nó rất đẹp ạ!”

“Dạ. Vâng, nó đúng là khá đẹp.” Dipper gượng gạo đồng ý.”Em là Dipper Pines, còn đây là chị gái của em Mabel.”

“Ồ, hai đứa chắc là sinh đôi.” Hiệu trưởng chấp hai tay lại, liếc nhìn bức tượng Đức Mẹ đầy tò mò. “Bức tượng biết khóc. Quả là một điều kì diệu.”

Nếu đúng là nó khóc thật, Dipper nghĩ nhưng không nói. Thay vào đó, cậu hỏi, “Cô có hay tới đây thường xuyên không ạ?”

“À, chỉ hồi trước thôi.” Hiệu trưởng Principelle trả lời, mắt vẫn nhìn bức tượng, trên khuôn mặt bà hiện lên một xúc cảm khó hiểu. “Các em có thấy cái chuông trên đỉnh nhà thờ không? Hồi đó, chủ nhật nào cô cũng rung nó hết.”

Mabel thích thú. “Nghe thật là tuyệt! Nhưng cái chuông được đặt rất cao! Cô làm thế nào mà rung nó được.”

“À, có một căn phòng trên lầu, ở đó có một sợi dây nối với cái chuông. Em chỉ cần kéo sợi dây là có thể rung chuông được. Tiếng khá là lớn đấy. Em có thể nghe nó vang khắp thị trấn.”

“Nếu cô biết nơi này...” Dipper chần chừ. Hiệu trưởng Principelle nhìn cậu, gật đầu ra hiệu cậu tiếp tục. Dipper nhanh chóng nói “Cô có thể cho em biết mấy họa tiết trên cửa sổ có nghĩa gì không ạ? Chúng em có một cái giống như thế ở nhà.”

“À, ý em là chín vòng tròn phải không?” Dipper sững người – Cậu chắc chắn rằng cậu từng nghe từ đó ở đâu rồi. Không hề để ý đến thái độ của Dipper, cô Hiệu trưởng tiếp tục, “Hai cửa sổ đó tượng trưng cho chín vòng tròn của thiên đường và địa ngục. Hoặc các em có thể gọi chúng bằng những cái tên trước đây, Inferno và Paradiso(2).”

Cô chỉ vào cửa sổ bên trái, phần lớn của nó có màu đỏ. Có chín vòng tròn miêu tả hình ảnh về sự đau khổ, mấy hình có thể trông rất đáng sợ nếu không phải tại những biểu cảm giả tạo và bị phóng đại quá mức của những “kẻ chịu phạt” – trông có vẻ họ được dùng để đánh dấu qua những nơi mà cửa sổ được sơn. “ Đây chính là Inferno, nó ở được đặt ở tâm Trái Đất. Ở bên ngoài, các em có thể thấy những Kẻ Không Được Công Nhận(3) – hay nói cách khác, là linh hồn của những người không tốt cũng không xấu. Hình phạt của họ là sẽ vĩnh viễn bị côn trùng châm đốt và bị giòi bọ đục khoét.” Và đúng như vậy, Dipper có thể thấy những người trong cửa sổ đang bị đốt bởi con gì đó có thể tạm nói là côn trùng. Ờ thì, lũ đó có sáu chân, nhưng cậu chưa bao giờ thấy côn trùng nào có mặt là mặt người đang cười cả, kể cả khi ở Gravity Falls.

“Như vậy thật không công bằng.” Mabel nhăn mặt. “Họ không phải là người xấu nhưng họ vẫn phải chịu sự đau đớn vĩnh viễn à?”

Hiệu Trưởng Principelle chỉ nhún vai rồi tiếp tục. “Và nếu các em nhìn vòng tròn ngoài cùng, các em sẽ thấy U Minh. Có để ý rằng trong nó khác với các phần khác của Địa Ngục không?” Và đúng vậy, nơi đó được tô màu xanh mạ, khác hẳn với những phần khác trên cửa sổ. “Các em có thể xem nó như như là một phiên bản thấp kém hơn của Thiên Đường, nó dành cho những người không phạm tội nhưng không thuộc Thiên Chúa giáo. Tuy nhiên, những vòng tròn còn lại diễn tả những thứ mà các em có thể thấy ở địa ngục. Chúng được phân chia theo những tội lỗi. Nếu cô nhớ không lầm thì...” Cô nheo mắt, cố gắng nhớ xem vòng tròn nào đại diện cho tội lỗi nào.

“À, đúng rồi. Vòng tròn thứ hai chính là nhục dục, tiếp đó là phàm ăn, tham lam, phẫn nộ, dị giáo, bạo lực, gian trá và phản bội. Ngay trung tâm chính là Satan.” Cô chỉ chính giữa cửa sổ, nơi mà có hình một con quái vật ba mặt bị xích lại, ba khuôn mặt của nó trông rất khác nhau nhưng cả ba đều có cùng một biểu cảm đau khổ thái quá. “Hắn bị nhốt dưới Địa Ngục trong ngục băng. Như các em có thể thấy, Satan có sáu cánh và ba khuôn mặt. Một cái thì đỏ, cái kia màu đen và một cái thì màu vàng nhạt.”

Dipper cảm thấy tim cậu như lỡ một nhịp khi nghe được câu đó. Ba khuôn mặt. “Vàng nhạt ạ?” Cậu cuối cùng cũng nói ra được.

Hiệu trưởng Principelle nhìn cậu dò hỏi. “Đúng vậy. Nhưng đó chỉ là những gì cô được dạy khi còn nhỏ.”

Mabel nghiêng người về phía Dipper, vẻ mặt do dự, nhìn sơ cũng biết là cô cũng có suy nghĩ giống cậu. “Nè, Dipper, em có nghĩ... rằng Bill...?” Cô lo lắng thì thầm.

Dipper chỉ biết nhún vai. Ờ, dù sao thì mấy cái màu đó đâu có bất thường hay gì đâu phải không? Đỏ... Đen... Vàng nhạt...

Chết tiệt. Về tới nhà cậu sẽ bắt Bill giải thích mấy chuyện này, dù hắn muốn hay không.

Chờ chút đã, Bill hiện giờ đang nằm trong túi xách của cậu. Có khi hắn nghe được cuộc trò chuyện rồi cũng nên. Dipper nuốt nước bọt một cách lo lắng, tự hỏi tên ác quỷ đó sẽ phản ứng ra sao trước chuyện này.

“Ờ, v-vậy!” Cậu cố gắng thay đổi chủ đề. “Còn cửa sổ bên kia thì sao thưa cô? Nó tượng trưng cho thiên đàng phải không ạ?”

“Ừ, đúng rồi. Hoặc em có thể gọi nó là Paradiso. Giống như Địa Ngục, Thiên Đường cũng được thể hiện bằng chuỗi những vòng tròn đồng tâm – trừ việc chúng ta không gọi nó là vòng tròn, mà gọi là thiên thể. Chúng được dựa trên những khối thể vũ trụ quay xung quanh Trái Đất.” Cô chỉ tay vào trung tâm cửa sổ, nơi vẽ một hình tròn có thể coi là trái đất. Không giống như Địa Ngục, Thiên Đường được tô vẽ đầy màu sắc hơn nhiều, khiến cho ánh sáng từ nó chiếu xuống bàn thánh ánh lên tựa như cầu vồng. “Nếu cô nhớ không lầm thì thiên thể đầu tiên từ trung tâm chính là Mặt Trăng, tiếp đó là sao Thủy, sao Kim, Mặt Trời, sao Hỏa, sao Mộc, sao Thổ, những Định Tinh và cuối cùng là vùng Động Lực Đầu Tiên(4), nơi mà các thiên thần sống. Chúa chính là người trực tiếp di chuyển thiên thể này, từ đó mà các thiên thể kia chuyển động theo. Chín thiên thiên thể này tượng trưng cho chín loại thiên thần. Những thiên thần này bay xung quanh Chúa – mặc dù trên cửa sổ không thể hiện điều đó.” Hiệu trưởng Principelle giải thích.

“Hở.” Dipper cẩn thận quan sát cửa sổ. “Vậy trên cơ bản nó chỉ là những hành tinh quay xung quanh Trái Đất ?”

Cô Hiệu Trưởng mỉm cười. “Những cái này dựa trên mô hình địa tâm của thời trung cổ. Khoa học đã chứng minh rằng nó sai lầm, thế nên đừng có áp dụng những lý thuyết này trong lớp học. Cô không chịu trách nhiệm nếu em gặp rắc rối đâu.”

Bọn họ im lặng một lúc, ngắm nhìn hai cửa sổ. Ờ thì, chỉ có Dipper là ngắm cửa sổ thôi, còn Mabel thì bận nhìn bức tượng. Thật may là tượng Đức Mẹ Mary đã được dùng dây thừng rào lại, tách biệt với bàn thánh. Nhưng Dipper không cho rằng chỉ bằng một sợi dây thì có thể địch lại người chị đang tò mò của mình.

Bỗng một tiếng ho vang lên sau lưng khiến cậu giật mình. “Xin lỗi.” Một giọng nói lạ lẫm cất lên. “Cậu đang làm gì vậy.”

Hiệu trưởng Principelle quay người lại, trông cô còn ngạc nhiên hơn cả cậu. “Seraph? Là em đấy à?”

Người vừa nói là một cô gái trẻ, trông cô chẳng lớn hơn cậu là bao, nhưng chiều cao của cô đủ khiến Wendy – người mang trong mình dòng máu đốn củi – phải xem lại. Seraph mặc một chiếc váy đen dài chấm đất, khiến trông cô còn cao hơn bình thường. Cô nheo mắt. “Hiệu trưởng Principelle. Sao cô lại ở đây.” Giọng cô đều đều, gần như không có âm điệu. Nghe khá là đáng sợ.

Cô Hiệu trưởng mỉm cười ấm áp. Trái ngược hoàn toàn với vẻ mặt vô cảm của Seraph. “Sao vậy, Seraph! Lâu lắm rồi cô mới gặp lại em. Cô cứ tưởng là em rời khỏi Chapelwick rồi.” 

“Em đã rời đi. Nhưng quay lại đây sau khi nghe tin.”

“Em đúng là kiệm lời. Chẳng thay đổi gì cả.” Hiệu trưởng Principelle bật cười, hoàn toàn không đếm xỉa đến vẻ mặt đang trầm xuống nhanh chóng của Seraph. “Cô cho là em đang nói tới bức tượng biết khóc. Khá là đặc biệt đấy, mặc dù cô nghĩ nó sẽ để lại vết. Trừ khi em tính bỏ nó đi? Theo cô thì dùng cái này thu hút mấy du khách tới cũng được.”

Em tính?Vậy Seraph phụ trách...

Có vẻ Hiệu trưởng nhìn thấy sự khó hiểu trên mặt Dipper, bởi cô nói, “Ồ, Dipper, cô cho là em đang không hiểu chuyện gì đang xảy ra. Đây chính là Seraph Ironwood. Gia đình em ấy sở hữu nhà thờ này – mặc dù bây giờ nó chỉ thuộc về Seraph sau khi cha mẹ em ấy qua đời. Đương nhiên là nhà thờ cũng có một số người đáng tin cậy khác chăm sóc, nên Seraph không cần phải ngày-qua-ngày giải quyết mấy việc như quản lí nhà thờ hay các việc tương tự. Seraph, đây là Dipper và Mabel Pines. Bọn họ là học trò của cô.”

Mabel vẫy tay yếu ớt, cố gắng mỉm cười. Seraph không hề phản ứng.

Chị cậu nhanh chóng bỏ tay xuống và thôi cười.

“Ờ.Thật tiếc về ba mẹ chị?” Dipper nói.

“Mm.” Seraph vẫn một giọng không âm điệu.

Bối rối, cả Dipper và Mabel đều im lặng.

“Seraph.” Hiệu trưởng Princepelle nói bằng giọng khiển trách, cứ như thể cô đang nói với một đứa nhóc năm tuổi. “Như vậy là bất lịch sự đấy.”

“Vào thẳng vấn đề đi.” Seraph đột ngột lên giọng khiến Mabel và Dipper giật cả mình. “Cô biết chuyện này có nghĩa là gì mà. Về bức tượng biết khóc ấy.”

Hiệu trưởng Principelle thoáng im lặng. “Cô không thể nói là cô không biết. Nhưng chẳng phải chuyện này chỉ là một truyền thuyết của thành phố thôi sao?” Cô liếc nhìn Mabel và Dipper. “Các em thấy đấy, ở Chapelwick có một câu chuyện xưa được truyền từ đời này sang đời khác. Đa số chúng ta nghe được nó từ cha mẹ của mình, nhưng có lẽ câu chuyện này cũng được ghi chép lại trong thư viện thành phố. Cô không nhớ rõ chi tiết chuyện cho lắm, nhưng về cơ bản là nếu bức tượng trong nhà thờ bắt đầu khóc, nó sẽ là mở đầu của...ừm, ý cô là...”

“Armageddon(5).” Seraph cắt ngang. “Khởi đầu của kết thúc.”

Là người từng sống qua ngày tận thế, Dipper chẳng cảm thấy ấn tượng gì cả.

“Khoan đã nào, đó chỉ là truyền thuyết thôi. Một truyền thuyết xa xưa. Hơn nữa, chúng ta vẫn chưa biết chắc được làm sao lại có máu trên bức tượng. Có lẽ có kẻ đã đột nhập-“

“Nhiều người tận mắt chứng kiến cảnh đó.” Seraph mất kiên nhẫn cắt ngang. “Có bằng chứng được quay lại.”

“Ồ.” Hiệu trưởng Pricipelle nhỏ giọng. “Có lẽ chúng ta nên cho dời bức tượng để xem-“

“Không.”

“Nhưng mà Seraph-“

“Không. Nếu không còn chuyện gì quan trọng, mời đi.”

Hiệu trưởng lộ rõ vẻ thất vọng, nhưng cô cũng rời đi. Mabel và Dipper nhanh chóng làm theo sau khi Seraph chuyển hướng nhìn sang họ. Nhưng khi tất cả đến gần lối ra, cô Principelle lại nói.

“Nhân tiện, Angela có gửi lời chào tới em.”

Chờ chút đã... Angela ư? Là... Angela bạn của họ? Là Angela cúi-người-là-coi-chừng-rách-áo? Dipper rất muốn hỏi, nhưng lại thôi khi thấy vẻ mặt của Hiệu trưởng Principelle trông rất giống với vẻ mặt của người khi mở hộp đồ ngọt yêu thích của họ ra thì phát hiện bên trong toàn là kiến. Chính là cái vẻ mặt khi cô ấy phát hiện ra Chad và Thorne đang bắt nạt Archie.

... Ờ, có lẽ làm phiền cô lúc này không phải là ý hay.

Đợi Hiệu trưởng đi khỏi, Mabel nhanh chóng nói với Dipper. “Vậyyy... Việc vừa rồi...”

“Rất đáng ngờ.” Dipper nối tiếp.

“Cực kì đáng ngờ.” Mabel đồng ý.

“Hồi nãy chị nhìn bức tượng kia rất kĩ. Có thấy được gì không?”

Mabel hừmmm một tiếng, nhăn mặt và đặt tay lên hông. “Chị không nghĩ là mấy giọt nước mắt đó trông giống máu. Ừ thì, ý chị là, màu sắc thì giống đấy. Nhưng mà hình dáng của nó hơi kì. Nếu đó đúng là máu, có lẽ nó được nhiễu từ trên xuống.”

Dipper nghi ngờ nhìn chị mình. “Từ khi nào mà chị biết hình dáng máu ra sao thế?”

Vẻ mặt Mabel ánh lên vẻ tự hào. “Thứ nhất, Dipper, chị là một họa sĩ.”

“... và sao việc này lại liên quan tới máu?”

“Và thứ hai,” Mabel phớt lờ cậu, “Chị đây hàng tháng đều trải qua một thời kì thường được gọi là kinh nguyệt.”

“À.” Dipper rùng mình. Mấy từ chị cậu nói đã khiến cậu nhớ lại mấy kí ức xấu. Cực, cực kì xấu. Cậu nhớ lại cái hôm đứng trước gian hàng siêu thị cố gắng phân biệt sự khác nhau giữa băng thường với băng mỏng, băng có cánh với không cánh, và tampon là cái quái gì vậy? Ký ức về mấy hôm đổ rác, cậu cầm bịch rác cách xa người nhất có thể. Rồi còn phải đi mua thuốc giảm đau – Mà chờ chút đã, hình như Mabel muốn ăn sô cô la nữa? Kèm theo một chai nước nóng luôn à? Còn gì nữa không, thưa Nữ hoàng?Ui, được rồi, được rồi, chị ta không cần phải ném nguyên cái gối vào người cậu – “Rồi. Em hiểu rồi.”

Mabel nhướng lông mày một cách thấu hiểu. “Vậy... Chị đang nghĩ. Việc này cần được điều tra rõ hơn .”

“Ừ, chúng ta nên quay lại khi cô gái ấy vắng mặt.”

“Chúng ta nên quay lại vào tối hôm nay!”

“Tối nay.” Dipper đồng ý. Cả hai bọn họ mỉm cười với nhau.

***

Trong nhà rất yên lặng khi cả hai lẻn ra ngoài. Bây giờ đã là nửa đêm, và dựa trên tiếng ngáy thì cha mẹ họ vẫn đang yên giấc. Ngoài trời rất lạnh và cái áo khoác của Dipper thì mỏng tanh, nhưng cậu quá phấn chấn để mà để ý. Lâu lắm rồi cậu mới có dịp như thế này. Dipper và Mabel cùng bắt một chuyến xe buýt đêm, phớt lờ khuôn mặt tò mò của tài xế. Trên xe gần như vắng hoe, hành khách chỉ có một bà già đang liếc nhìn họ chê bai và một người đàn ông nửa ngủ nửa thức với một chiếc cặp đặt trên đùi. Người ông ta nồng nặc mùi rượu.

Mabel bật cười khúc khích, phấn khởi vỗ tay. “Chuyến này chắc chắn sẽ rất vui!”

Dipper đặt cặp lên đùi. Bill vẫn còn ở bên trong – lần cuối cậu kiểm tra thì mắt hắn vẫn nhắm. Cậu vẫn chưa có cơ hội tra hỏi hắn như dự định, nhưng ngay khi chuyện này xong cậu chắc chắn sẽ khiến Bil lãnh đủ. Cứ chờ đấy, Bill Cipher.

“Chị biết không,” Dipper mở lời, Mabel đang ịn mặt vào cửa sổ quay lại nhìn cậu, “Tối hôm nay em có nhìn cái cửa sổ kính màu trong phòng khách chúng ta.” Trừ việc được trang trí bằng vòng tròn đồng tâm, thì nó và cửa sổ trong nhà thờ có rất nhiều điểm khác nhau. Một điểm là nó không có những nhân vật trong truyền thuyết. Ô cửa sổ của họ không tô vẽ gì, chỉ có những vòng tròn bằng kính mờ đục với màu sắc khác nhau. Riêng vòng tròn trung tâm thì được làm từ kính trong suốt, qua nó có thể nhìn thấy vườn nhà họ. Một điểm khác biệt khác là-

“Cửa sổ của chúng ta có tới mười vòng tròn chứ không phải chín.”

“Chắc đó chỉ là trùng hợp thôi?”Mabel gợi ý. “Dù sao cửa sổ kính màu trang trí bằng vòng tròn đâu có hiếm.”

“Có lẽ.” Dipper nhăn mặt.

“Hoặc có khi là do lỗi kỹ thuật!” Chị cậu quơ quơ tay, ống tay áo len đặc biệt dài của cô cũng chuyển động theo. “Có lẽ là do họa sĩ đếm nhầm rồi vẽ chín vòng tròn xung quanh cái đầu tiên. Hoặc có khi vòng tròn dư ra mang ý nghĩa gì đó đặc biệt. Như là... ờ...” giọng cô nhỏ dần.

“Hơn nữa, em nhận ra nơi mình nghe tới chín vòng tròn là ở đâu rồi. Nó được viết trong cuốn nhật kí.”

“Gì cơ? Thật à?”

“Ừ, nó nằm trong phần mà chị chỉ có thể đọc bằng đèn UV.” Chuyến xe buýt bắt đầu đi chậm lại, Dipper và Mabel bèn đứng dậy. Người đàn ông say rượu lầm bầm cái gì đó về hoa păng xê(6), rồi im lặng. “Nó chỉ là từ “chín vòng tròn” được viết lập đi lập lại thôi, nhưng có lẽ nó có liên quan tới mấy cửa sổ nhà thờ.”

Mabel nhảy ra khỏi xe buýt. “Em có nghĩ rằng người đó sẽ giúp được gì không?”

Trong một thoáng, Dipper cứ nghĩ rằng chị cậu đang nói về Bill. Nhưng cậu nhận ra người đó mà cô nói tới là bác Stanford thì hợp lí hơn nhiều. “Có lẽ, em sẽ gọi bác ấy sau. Dù sao thì, chúng ta đến nơi rồi.”

Trong màn đêm tối tăm, nhà thờ trông chẳng có vẻ gì là chào đón họ cả. Những ngọn tháp từng vươn tới mặt trời nay hiện ra lờ mờ một cách đáng sợ. Ánh lên trong đêm, chuông nhà thờ trông như một con mắt đang liếc nhìn mọi thứ xung quanh. Họ rón rén đi trong yên lặng nhất có thể trong bóng tối, vừa đi vừa liếc nhìn xung quanh lo lắng. Dipper thận trọng đẩy cửa chính lớn của nhà thờ. Cánh cửa không hề nhúc nhích.

“Chúng ta phải tìm đường khác.” Cậu thì thầm với Mabel, cô gật đầu.

Cả hai vòng tới phía sau nhà thờ. Không giống như mặt trước được giữ gìn cẩn thận, đằng sau nhà thờ cỏ dại mọc um tùm. Hơn nữa mặt đất nơi đây lại không bằng phẳng, Mabel thét một tiếng nhỏ khi cô vấp phải một cái rễ cây. Dipper kịp thời giữ chị mình lại.

“Whoops! Haha, cảm ơn nhé em trai.” Với sự giúp đỡ của Dipper, cô đứn thẳng người lên. “Trời, trông có vẻ như lối ra vào duy nhất là cửa chính ở phiá trước. Mà chẳng phải nhà thờ phải mở cửa 24/7 cho những con chiêng lạc lối tội nghiệp như chúng ta sao?”

Dipper cố gắng nhìn qua màn đêm. “Có khi chúng ta sẽ vào được nếu với tới cái cửa sổ ở trên đó...” Cậu chỉ vào ô cửa sổ hơi hé ra ở trên cao. Nó thuộc loại có khung cửa nhỏ hình chữ nhật mở và đóng bằng một hệ thống riêng được đặt ở đâu đó. “Cơ mà em nghĩ chúng ta không với tới được đâu.”

Mabel nhảy tới phía trước cậu, nhanh nhẹn tránh đi một chiếc rễ cây khác. “Ồồ! Chị biết cách! Em đứng lên vai chị, giống như lúc mấy cổ vũ viên xếp hình kim tự tháp ấy! Chị có bạn trong đội cỗ vũ, họ có cho chị biết vài mánh rồi!”

“Chả phải cần nhiều hơn hai người mới xếp được kim tự tháp à?” Dipper ngờ vực nói. “Hơn nữa, em không nghĩ rằng biết được ‘vài mánh’ có nghĩa là có được sức khỏe và sự nhanh nhẹn cần có trong mấy pha nhào lộn trong cổ vũ đâu.”

Mabel gắt gỏng. “Đừng có làm chị mất hứng nữa, em trai. Chị cũng biết làm mấy trò nhào lộn mà!” Rồi trước khi Dipper kịp làm gì, cô nhào tới phía trước, bằng cách nào đó thực hiện một cú nhào lộn trên mặt đất gồ ghề rồi hạ cánh trên một miếng gỗ. “Thấy không?”

Không may thay, cái miếng gỗ ấy lại là miếng gỗ mục, thế nên ngay sau câu “Thấy không” của Mabel là một tiếng rắc lớn rồi cô rơi xuống. Dipper hét lên, chạy tới phía trước.

“Mabel? Ôi Chúa ơi, Mabel, chị không sao chứ?” Cậu nhìn xuống cái lỗ - thật ra là cửa sập, ráng bẻ những miếng gỗ cản đường để quan sát tốt hơn. “Mabel?!” Những mảnh gỗ nhọn đâm vào trong da thịt cậu. Dipper khá chắc là tháng tới thì cậu sẽ chẳng cầm bút viết bài nổi bởi mấy cái vết thương này.

“Ow.” Tiếng của Mabel từ phía dưới nghe không xa cậu lắm, Dipper thở phào nhẹ nhõm rồi nhảy xuống. Mabel té đập mặt xuống đất, nhưng trông cô không có vẻ gì là bị thương. Dipper nhanh chóng kiểm tra xem chị mình có vết thương nghiêm trọng nào không – không có cái xương nào bị gãy, không vết thương nào sâu mà cô chỉ bị trầy xước ở đầu gối và cánh tay – và ôm lấy cô khi cậu thấy cô vẫn ổn.

“Ôi trời, Mabel, chị đừng có dọa em như vậy nữa.” Dipper run rẩy nói. “Chị đi được không?” Cậu giúp chị mình đứng dậy lần thứ hai trong đêm.

“Chị ổn mà, Dipper.” Mabel cố gắng mỉm cười trấn an cậu. “ Chúa ơi, đó quả là một ý tưởng ngu ngốc. Em nên ngăn chị làm mấy việc như thế này thường xuyên hơn.”

“Em sẽ cố.”

Dipper nhìn phía trước. Có vẻ như họ đang ở hành lang của một nơi nào đó. Cả tường lẫn lối đi đều được lát đá. Mặt đường khá ghồ ghề, có lẽ đó là thứ đã làm trầy đầu gối của Mabel. Dipper lấy điện thoại ra, bật chế độ đèn flash lên để nhìn đường. Cỏ cây mọc um tùm ở các góc phòng, chúng chạm vào chân cậu mỗi khi cậu đi ngang. Những phiến đá lát thì bị dây thường xuân bám đầy. Cuối cùng, cả hai dừng chân trước một cầu thang cuốn.

“Em thấy việc này khá quen thuộc.” Dipper nói. Họ đã khám phá ra mấy cái lối đi bí mật như vậy ở Gravity Falls không biết bao nhiêu lần rồi? Chỉ có điều lần này không phải là một chỗ kì lạ như Gravity Falls, nơi dày đặc những bí ẩn. Mà đây chính là Chapelwick – nghiêm trang và yên bình. Tại sao một nơi như Chapelwick lại có lối đi bí mật?

Họ đi xuống cầu thang. Dipper cảnh giác nhìn trước nhìn sau để đề phòng có bẫy. May thay, Chapelwick đủ yên bình nên người xây nên lối đi bí mật này đã không bố trí mấy cái máy móc phóng ra tên tẩm độc ở các góc phòng, hoặc cho làm hố rắn độc, tường gai nhọn hay mấy cái thứ mà người dân ở Gravity Falls nghĩ là cần.

Họ đang đi thì Dipper chợt nhận ra một điều. “Này, Mabel?”

“Sao, Dipper?”

“Em nhớ là tay em đầy những vết cắt khi em gỡ cái cửa sập ra. Nhưng mà ngộ quá.” Cậu chiếu ánh đèn lên tay. “Chúng không hề đau. Và trông chúng chẳng có gì là bị thương cả.”

Mabel cẩn thận nhìn tay cậu. “Kỳ thật đó. Có lẽ là do nó không cắt vào thịt.”

Dipper nhăn mặt. “Có lẽ, cũng lâu rồi em không bị thương. Chắc tại em quên mất rằng mình mau hồi phục như thế nào.” Mà nghĩ kĩ lại, đúng là lâu lắm rồi cậu không bị thương. Chỉ có cái lần bị Chad đấm vào mặt thôi, nhưng bằng cách nào đó mắt cậu không bị thâm tím-

‘Hở.’ Dipper nghĩ.

Dòng suy nghĩ của cậu bị cắt ngang khi họ tới một căn phòng dài và hẹp với trần hơi cong. Không giống như lối đi, căn phòng khá là cao, tường lát đá. Dipper chiếu đèn khắp phòng để quan sát. Nơi này sâu dưới mặt đất nên nó lạnh và ẩm, dù vậy cậu không chỉ run rẩy do nhiệt độ thấp.

“Ờ...Chị biết không...” cậu xoay sở nói, “Em nhĩ nơi đây là một hầm mộ.”

Mabel quay mặt nhìn cậu, mắt mở to. “Ý em là nơi họ để xác chết ấy hả?” Cô bỏ tay ra khỏi tường, nơi lúc nãy cô dựa vào để đứng. “Eo. Thấy ghê quá. Và gớm nữa. Ít nhất nơi này không có mùi như xác chết.” Cô ngửi ngửi xung quanh.

Khi họ vào sâu hơn, Dipper để ý có rất nhiều hốc được đào trên tường, có lẽ là được dùng cho việc chôn cất. Dù sao thì cậu cũng không có ý định nhìn kĩ để kiểm tra.

Cuối cùng, họ tới trước một bức tranh bằng đá kì lạ trên tường. Dipper rọi đèn vào nó, nheo mắt nhìn các chi tiết. Bức họa được điêu khắc tỉ mỉ, kiểu vẽ của nó trông giống với kiểu của ô cửa sổ kính màu trong nhà thờ. Có hình một đống người đang chịu đau khổ ở dưới đáy, những thứ có thứ có thể gọi là thiên thần ( Ờ, hoặc ít nhất là người có cánh) đang bay trên đầu họ, tay giang ra. Ở mỗi cạnh của bức họa đều có những dòng chữ. Chúng được viết bằng những kí tự mà cậu không nhận ra. Tuy nhiên, cậu nhận ra được hình ảnh vòng tròn đồng tâm quen thuộc ở ngay chính giữa. “Này, Mabel-“

Dipper quay sang nhìn Mabel. Ánh mắt cậu chợt tràn ngập nỗi sợ hãi. “Mabel, cẩn thận!”

Hết chương 3.

Author’s notes:Vààà hết truyện. Cứ coi như đây là lúc trước khi quảng cáo được bật đi. Nhạc nổi lên, máy quay cận cảnh khuôn mặt đang khiếp sợ của Dipper rồi màn hình đen thui.

Mà chi tiết chín vòng tròn/thiên thể là được dựa trên Thần khúc Dante. Còn cái chi tiết nhỏ về Satan là tôi kiếm được khi đang tìm tài liệu. Tôi cũng không chắc chi tiết này chỉ là sự trùng hợp ngẫu nhiên hay là ALEX HIRSCHHH cố tình nữa. Mà theo tôi nghĩ chắc là cái ở trước.

Tôi tưởng tượng ô cửa sổ kính màu ở nhà của Dipper và Mabel trong hơi giống như thế này.

Translator’s notes:Thật tình xin lỗi các bạn vì mình đã đăng bài trễ thế này. Tại lúc mình đang dịch chương 3 thì không vào được forum nữa (cái vn-sharing ý) nên buồn quá tính thôi không dịch nữa. May nhờ có bạn mình chỉ mà mình tìm được tới chỗ này. Mình hứa sẽ cố gắng dịch nhanh để bắt kịp tiến độ của truyện gốc.

Chú Thích:

(1)Trong tiếng Anh nhà thờ có nghĩa là Chapel. Thành ra nếu nhà thờ được đặt là Chapelwick thì tên của nó trong tiếng Anh sẽ là Chapel Chapelwick.

(2)Inferno : Địa ngục

Paradiso : Thiên đường

(3)Nghĩa gốc: the Uncommited. 

(4)Nghĩa gốc: Primum Mobile

(5) Armageddon: " Armageddon " xuất phát từ tiếng Do Thái " Har- Magedone " , có nghĩa là "núi của Megiddo " và đã trở nên đồng nghĩa với trận chiến Đức Chúa Trời sẽ can thiệp và hủy diệt các đạo quân của Kẻ Địch Lại Đấng Cơ Đốc (Anti-Christ) như được dự báo trong lời tiên tri của Kinh Thánh (Khải Huyền 16:16; 20:1-3, 7-10). Sẽ có rất nhiều người tham dự vào trận chiến Ha-ma-ghê-đôn, khi tất cả các nước hiệp lại để đánh lại Đấng Cơ Đốc.

(6)Nghĩa gốc: pansies. Từ này có hai nghĩa, nghĩa đen là hoa păng xê – một loại hoa có nhiều màu. Nghĩa bóng là để ám chỉ những người đàn ông đồng tính hay những người đàn ông nữ tính.

Sửa lần cuối bởi WishUponAStar; 11-06-2016 lúc22:36.

Bạn đang đọc truyện trên: truyentop.pro