Phần thứ hai - Chương 9: La chanson d'Hélène(Romy Schneider)(1.5)
***
Tôi lươn lẹo dối trá với bác Miyage, rằng mình cần phải rời đi sớm để gặp đồng nghiệp lấy một số giấy tờ quan trọng liên quan tới dự án sắp tới của công ty. Tôi thay áo len cổ rùa màu xanh rêu (nhằm che đi những vết cào trên cổ), quần khaki đen kết hợp với áo măng tô xám dài chấm gối chỉn chu (nghe bác quản gia đáng kính bảo là) do Takaya đem tới cho tôi thay, bắt tàu tuyến Chuo tới Nihonbashi vì chỗ chúng tôi hẹn là một quán cà phê nằm bên trong khu Trung tâm mua sắm phức hợp Takashimaya. Trước khi tôi rời nhà, bác Miyage còn cẩn thận trao cho tôi một cái dù tiện lợi vì theo như dự báo thời tiết lưu ý, tầm đầu giờ chiều nay có lẽ tuyết sẽ bắt đầu rơi.
Đúng mười một giờ rưỡi, tôi có mặt tại tòa nhà Takashimaya và đứng chờ trước khu trưng bày một vòng quay ngựa gỗ làm thú tiêu dao cho phiên bản mini của ông già Noel và các vị tiên giúp việc được che chắn bởi một tấm kính thủy tinh lau chùi sáng bóng. Khoảng chừng mười phút sau thì thấy Meiko Sasaki hớn hở chạy tới từ phía lối lên xuống của ga Nihonbashi, với Trench coat khoác bên ngoài bộ đồ công sở. Cô vừa có một buổi gặp gỡ khách hàng thành công rực rỡ, nên hiện giờ đang cảm thấy vô cùng phấn khởi. "Em vẫn có thể ăn hết cả một cái bánh cưới ba tầng đấy, không nói điêu đâu." Cô cười tươi roi rói, và nói với tôi bằng giọng vô cùng hỉ hả. Hai chúng tôi xuống dưới tầng hầm khu thương xá, dạo một vòng thăm thú các quầy hàng bày đầy những món ngon lành thích mắt.
- Đây là bánh bao làm từ thích heo được nuôi theo phương pháp tiên tiến nhất hiện nay, anh Nakamura có biết không?
Sasaki vừa nói vừa hoan hỉ trỏ vào một cái nồi hấp khổng lồ bốc nghi ngút khói trong một cửa hàng bán tất tần tật những món chế biến từ thịt heo.
- Ý em là kiểu người ta nuôi bò ở Kobe ấy hả?
Tôi phì cười trước vẻ mặt hào hứng như cô bé con lần đầu tiên cùng mẹ đi mua sắm của cô gái trẻ cùng phòng.
- Còn ghê hơn thế nữa cơ. - Cô kêu thốt lên như thông báo một tin tức chấn động. - Đám heo đó ngoài được nghe nhạc, ăn những món hảo hạng, còn được nằm ngủ trên đám rơm có trộn lẫn cỏ hagi và hoa oải hương và có một người thức cả đêm để ru cho chúng ngủ nữa. Sống hưởng thụ như thế mới gọi là sống chứ anh nhỉ?
- Nhưng kết thúc của chúng là bị đưa vào lò mổ và trở thành nhân bánh bao.
- Thế thì có làm sao? Ít nhất thì chúng cũng đã trải qua những tháng ngày sung sướng tựa thần tiên và bị nuốt vào bụng bởi những kẻ tiền đầy túi biết thưởng thức của ngon vật lạ. Thử so với cái người mà chỉ có thể trả lời: "Tôi thường xuyên phải thức tới khuya để ru một bầy heo ngủ." khi bị người ta hỏi rằng anh đã trải qua những đêm như thế nào thì chả phải là hơn đứt rồi còn gì.
Nghe cô nói thế, tôi chỉ biết lặng thinh và gật đầu nhè nhẹ.
- Người ta có thể chửi em là cái đồ sống bi quan, nhưng làm người là khổ sở nhất đấy.
Sasaki vừa nói dứt câu cũng là lúc chúng tôi tới được quán cà phê kiểu Pháp được chọn làm chốn hẹn hò tụ tập của hội "Lunch Break Club" do Sasaki tự thành lập. Ngay trước lối ra vào trang hoàng hẳn một tiêu bản rất đỗi chi tiết và công phu cảnh chuồng chiên máng cỏ nơi Chúa Giê-su ra đời trong tình yêu và phước lành. Cô chọn một bàn bốn người ngay trước bức tranh "The Kiss" của Gustav Klimt trong khu vực cho phép hút thuốc lá. Một anh phục vụ mặc vest đỏ, cổ thắt nơ bướm màu đen, mang thực đơn và hai ly nước lọc tới đến bàn chúng tôi. Sasaki mỉm cười duyên dáng bảo chúng tôi còn chờ thêm một người bạn nữa, và anh chàng mặt đẹp như tài tử lịch sự cáo lui. Bóng anh chàng vừa mất hút đằng sau quầy bar, Sasaki lập tức huých nhẹ vào tay tôi, thì thầm:
- Giống Yokohama Ryusei anh nhỉ?
Tôi gật đầu đồng tình. Quả thật hai người họ có cặp mắt và đường sống mũi rất giống nhau, cứ như thể hai bức tượng thạch cao do cùng một nhà điêu khắc tạc ra vậy. Tôi và Sasaki vừa xem xong quyển thực đơn thì đã thấy "Sumire-san" lù lù xuất hiện từ đằng sau một cây thông Giáng Sinh màu bạc. Anh đưa tay cởi bỏ chiếc mũ phớt dạ màu đen để lộ mái tóc vuốt keo láng mượt, sải những bước hiên ngang vào trong quán. Chẳng cần đợi Sasaki cất tiếng gọi, đôi mắt cú vọ vô cùng tinh anh của người đàn ông cao lớn ngay tức thì phát hiện ra chỗ chúng tôi an tọa. Anh thả một túi giấy bóng lên bàn ăn, cởi áo khoác ngoài thơm phức mùi nước hoa Hugo Boss lịch lãm ra vắt lên lưng ghế, rồi thả mình ngồi xuống, chân bắt chéo.
- Xin lỗi, tôi đến muộn.
"Sumire-san" cáo lỗi với chúng tôi bằng chất giọng đều đều, không cảm xúc.
- Không sao đâu ạ.
Tôi và Sasaki cùng đồng thanh.
- Tôi hút thuốc được không? Thằng dở hơi đó kiên quyết giữ tôi lại nên tôi còn chẳng kịp hút điếu nào. Đã thế, hắn lại nhất quyết ngồi khu cấm hút thuốc nữa chứ. Thằng dở hơi!
- Anh cứ tự nhiên. - Sasaki nói. - Mà "thằng dở hơi" anh nói là ai thế?
- À, là tay bác sĩ tâm lý điều trị cho gã "Sumire thật" ấy.
Gã Doppelgänger đang sống những tháng ngày tạm bợ dưới thân phận "Sumire Yoshitaka" đánh lửa châm điếu thuốc Seven Stars, rồi bắt đầu cằn nhằn. Mỗi lần anh ta hành xử như vậy, tôi không khỏi liên tưởng tới một tên trung niên cuồng cá nào đó.
- Trong quá trình tìm cách để trở lại chiều không gian của mình, tôi có đọc qua nhật ký của gã Sumire ấy. Này, đừng có nhìn tôi bằng ánh mắt như thế. Hắn là người cướp đi cuộc đời của tôi trước mà. Tôi có quyền đó chứ, không phải sao?
Tôi và Meiko Sasaki khẽ nép vào nhau, im thin thít.
- Nói chung là tôi đã đọc nhật ký của gã, và biết được, rằng trước ngày hai đứa tụi tôi bị tráo đổi thân xác cho nhau thì gã đã ghé qua chỗ tay bác sĩ đó, nghe tư vấn và uống một số thuốc. Chính vì thế nên tôi quyết định tìm tới cái phòng khám tâm lý đó thử xem có lần được chút manh mối nào không. Và điều khốn nạn ở đây là manh mối thì chẳng thấy đâu, mà sau khi nghe tôi kể rõ ngọn nguồn sự việc, tên bác sĩ thần kinh ấy liền tỏ ra vô cùng hào hứng. Còn "âu yếm" nắm tay tôi hỏi là liệu có thể tìm hiểu chi tiết hơn về tình trạng của tôi thông qua những buổi giao tế ngoài thời gian điều trị hay không.
- Và anh Sumire đồng ý ạ? - Sasaki nghiêng đầu, hỏi.
- Thì tôi còn biết làm gì khác? Tôi đã tin tưởng là mình sẽ tìm được ra chút manh mối gì đó, hoặc là sau khi uống xong cái đống này... - Vừa nói, anh vừa liếc nhìn cái bao ni-lông trắng trên bàn như thể một vật gì đó ghê tởm chứa đầy rắn rết và cóc nhái. - Sau khi uống xong tôi có thể "về nhà", nhưng tất thảy đều vô nghĩa. Không những thế, kể từ dạo đó, tôi còn rước thêm một cái đuôi phiền phức lẵng nhẵng bám theo sau lưng.
Anh ngừng lại, rít một hơi thuốc lá thật sâu, rồi nhả khói vào chậu hoa thược dược bằng nhựa cao chít vót được tạo tác chẳng khác gì đồ thật đặt gần sát bên cạnh. Tôi lén liếc nhìn cái nhãn dán trên gói thuốc kia, và nhận ra mình cũng có hàng chục cái bao ni-lông giống y hệt ở nhà. Rõ ràng chúng đều xuất phát từ cùng một nguồn, và tôi cũng lờ mờ đoán được "gã lang băm" mà "Sumire-san" đang nhiếc móc là ai.
- Vậy là tất cả chúng ta đều ăn trưa rồi nhỉ? - Sasaki kết luận. - Giờ thì cứ uống gì đó và ăn nhẹ thôi nhé.
Rồi cô lúc lắc cổ tay đeo vòng bạc của Tiffany gọi người phục vụ điển trai. Chúng tôi lần lượt đọc tên những món mà mình chọn: Pancake chocolate với kem vanilla tròn vo trên đỉnh cùng cà phê espresso cho Meiko Sasaki; tôi chỉ vào một món được đặt cho cái tên nghe rất ư sang chảnh là "Velours bleu" (bao gồm loại bánh bông lan phủ kem và mứt thạch rau câu xanh việt quất đang rất được ưa chuộng hiện nay đi kèm với một bình thủy tinh đựng món trà hoa đậu biếc với những cánh hoa xanh mướt lặng lờ trôi); còn "Sumire-san" chọn quán này chỉ vì ly Parfait dâu tây năm nức tiếng trên các tờ tạp chí ẩm thực cả trong và ngoài phạm vi nước Nhật.
Trong lúc đợi thức ăn được dọn lên, Sasaki lôi từ trong chiếc túi da màu đen của cô ra một tờ tạp chí nghệ thuật số lới ra gần đây, mỉm cười duyên dang, rồi cất giọng lanh lảnh như tiếng chim chóc trong vườn cây nhà Hiroki đón chào ngày mới:
- Em biết món hời mà anh nói tới là gì rồi nhé, Sumire-san. Xin chúc mừng anh.
Nói xong, cô lật nhanh các trang báo tới một bài viết về một nhà triệu phú chuyên về kinh doanh bất động sản gần đây đã mua một bức ảnh chụp có tên "Take me to the Neverland" từ một nhiếp ảnh gia nghiệp dư với một số tiền gần như không tưởng cho một tác phẩm nghệ thuật đương đại ở cái đất Phù Tang này. Bài báo sặc mùi mỉa mai ấy còn đăng kèm hình ảnh "món hời lớn" nọ cùng bức ảnh đen trắng chụp cảnh nhà triệu phú bắt tay cùng "gã nhiếp ảnh gia nghiệp dư may mắn nhất thế kỷ, trong khi Van gogh tài hoa lại phải chết tức tưởi trong cảnh bần cùng, nghèo khó". Tôi nhìn vào tấm ảnh nghệ thuật chiếm hẳn một trang tạp chí, và trái tim bỗng đập chệch nhịp trong một khắc. Tôi cảm thấy khó thể hô hấp, như thể có đôi bàn tay tưởng tượng của Denis Sarazhin bóp nghẹn cổ họng.
Bức ảnh thể hiện một đôi tiên đồng ngọc nữ đẹp và trắng một cách phi nhân loại ngồi đối diện nhau trên hai chiếc ghế tựa trúc mây. Ngăn cách họ là chiếc bàn trải khăn ố màu thời gian. Người nam có mái tóc màu nâu đồng và đôi môi mỏng như cánh hồng, cổ hoa huệ tây ngửa ra đằng sau, nhả những vòng khói hình bầu dục lên không trung, đôi chân cẩm thạch vô tư gác lên bàn. Trong khi đó, cô gái mà Chúa Trời đã ưu ái ban tặng đôi môi đỏ mọng như quả cherry chín, bộ tóc vàng óng như tơ thượng hạng và đ cặp mi dày cong vút thì đang chống tay trên mặt bàn, hờ hững tựa cằm lên đôi bàn tay búp măng chụm lại thành hình đóa hoa sen. Giữa ngón trỏ được băng lại bằng một chiếc băng cá nhân hình mèo Tom và ngón giữa sơn móng màu thạch tím kiểu ombre kẹp một điếu thuốc đã cháy quá nửa. Đôi mắt xanh xám của hai người đều lơ đãng, xa xăm, không tiêu cự. Dường như họ đang say, nhưng chả rõ là say gì? Say men? Say thuốc? Hay say tình? Phủ lên hai tòa thiên nhiên lộng lẫ, tinh khôi là tấm voan ánh sáng dìu dịu, trong ngần, tựa hồ như ánh trắng chiếu xuyên qua một rèm hoa Tử Đằng nửa trắng muốt, nửa lại phơn phớt hồng. Giữa một không gian gần như bị chiếm lĩnh bởi toàn những tông màu lạnh nhợt nhạt ấy nổi bật những trái vả, lựu và bưởi đắng bị bổ làm đôi, cùng chai Cabernet Sauvignon nằm lăn lóc trên bàn, nhưng tuyệt nhiên chẳng có lấy một ly uống rượu nào. Phải nói thêm là hai người họ gần như khỏa thân, và họ đang đối thoại với nhau bằng ngôn ngữ thân thể (có lẽ). Góc máy tạo cảm giác như cặp đôi bị chụp trộm từ một cái lỗ khoét đâu đó trên tường. Thật là một khung cảnh mê hoặc và đầy vẻ mông mị. Một chốn thần tiên dành cho người lớn. Tôi thầm nghĩ, không dám thở mạnh bởi chỉ cần tôi bật ra một hơi thở nặng trĩu khát khao lúc này, một cô tiên sẽ chết ngay tức khắc mà chẳng kịp leng keng trăng trối.
- Hồi mới nhìn thấy bức ảnh này, em còn không dám tin họ là người thật. - Sasaki reo lên bằng giọng điệu ngưỡng mộ chân thành. - Em cứ ngỡ là tượng sáp trong bảo tàng Madame Tussauds cơ. Mà không, phải tinh xảo hơn thế nữa cơ. Như tượng của Michelangelo chẳng hạn?
- Ha, óc tưởng tượng của em cũng phong phú đấy. - Người đàn ông hiện tại là "Sumire-san" bật cười thàng tiếng, đoạn dập điếu thuốc vào trong gạt tàn trước khi nhân viên phục vụ mang đồ ăn tới xếp lên bàn.
- Anh...anh thật sự đã chụp ra tấm ảnh này ư? - Môi tôi dẽ run, khó khăn lắm mới nói đặng nên câu.
- Đúng vậy, có vấn đề gì hả? - Người đàn ông hỏi ngược. Vầng trán rộng của anh ta hơi nhăn lại.
- Không, chỉ là nó khác hẳn với những bức anh do "Sumire-san" mà tôi quen biết chụp trước đây. - Tôi thành thực đáp lời.
- À, mấy thằng cha phê bình cũng bảo thế. - Anh ta nhấm nháp một thìa bánh, rồi hất mặt về phía Sasaki, nói lớn. - Meiko-chan, em đọc mấy lời nhận xét của những "chuyên gia hàng đầu" trong đó đi.
Sasaki vâng lời, cao giọng đọc lên từng bình luận một:
"Táo bạo, nhưng hời hợt và lỗ mãng. Một bức ảnh kiểu đó lại được đặt cho cái tên "Find me in the Neverland" thì chẳng khác gì một sự xúc phạm nghiêm trọng đối với tác phẩm vĩ đại của J.M.Berrie." - Trưởng ban biên tập tạp chí văn nghệ N.
"Sau khi bị ép buộc phải xem qua bức ảnh của Sumire Yoshitaka, tôi không khỏi xót thương cho nghệ thuật. Nàng đã bị lột truồng, phỉ báng trước hàng trăm nghìn ánh mắt giễu cợt của bàn dân thiên hạ, rồi bị tống vào trong một căn phòng để những kẻ man rợ trong đầu chẳng có gì ngoài ham muốn dục tình bệnh hoạn và biến thái vũ nhục nàng tới thân tàn ma dại." - Nhà phê bình F thuộc báo "Nghệ thuật và Đời sống"
"Một cơn địa chấn (tất nhiên là theo nghĩa tiêu cực)! Một cú shock điếng người! Đây không thể là nhiếp ảnh gia Sumire Yoshitaka, người vẫn luôn nuôi dưỡng trong mình tấm lòng đồng cảm sâu sắc, diết da với bi kịch của nhân sinh mà tôi từng quen biết." - Nhiếp ảnh gia B thuộc "Hiệp hội nhiếp ảnh Quan Đông-Kinh Kỳ".
"Giới hạn đã bị phá vỡ một cách không cần thiết." - Báo "Nhật Bản Ngày Nay"
- Nhưng tôi "tâm đắc" nhất vẫn là phát biểu của cái gã đã mua nó, và dĩ nhiên là người ta không dám in nó lên báo rồi. - "Sumire-san" nói trước khi tọng một muỗng đầy ụ kem vào miệng.
- Ông ấy đã nói gì thế ạ? - Sasaki hỏi, mắt long lanh những tia sáng hiếu kỳ trẻ thơ.
- Cái tay tiền nhiều quá hóa điên đó bảo: "Vừa nhìn thấy bức ảnh này của cậu trong phòng triển lãm thì ngay lập tức nửa thân dưới tôi đã bị thiêu đốt bởi một ngọn lửa dục vọng điên cuồng, và tôi biết mình phải có bức ảnh này bằng mọi giá. Nó khác hẳn với những tác phẩm của cậu trước đây. Tại sao vậy nhỉ?" Tất nhiên là thế rồi. - Người đàn ông cười khẩy. - Tôi có phải là cái gã quái sống trong cái cõi này đâu cơ chứ?
Anh ta xoay đi, hắt hơi một cái, nhận lời chúc phúc từ Meiko Sasaki thiện lành, rồi tiếp tục trút hết tâm tư đè nặng trong lòng:
- Tất cả những gì tôi cố làm ở đây là giơ máy ảnh lên. Sáu đó, ngay tức thì, một chuỗi suy nghĩ nối đuôi nhau chạy trong đầu, kiểu như: "À, góc này đẹp đấy!", "Ánh sáng thế này cũng đủ xài rồi nhỉ?", "Màu sắc cũng ổn rồi đúng không ta?", và cuối cùng chỉ cần bấm "tách" một phát. Tôi chỉ làm công việc của mình, chứ có mà thèm vào mấy lời khen sáo rỗng của đám lợn ấy.
Nói tới đây, người đàn ông dừng lại để hớp nhanh một ngụm trà xanh Nhật Bản mà anh ta gọi thêm sau đó bởi món kem ngọt hơn nhiều so với tưởng tượng.
- Nói trắng ra, tôi phải làm cái công việc này chỉ vì đây là công việc kiếm cơm của gã "Sumire Yoshitaka". Hết phim! The end! C'est fini! Đó là cách duy nhất để tôi có thể tiếp tục duy trì cuộc đời của gã cho tới lúc tìm được đường về nhà.
- Vậy anh nghĩ ông triệu phú đó sẽ làm gì với bức ảnh của anh? - Tôi hỏi với vẻ mặt quan tâm nhiệt thành.
- Chắc là treo trong phòng ngủ để "thẩm du" mỗi đêm rồi. - Anh ta khẽ so vai, đáp. - Có hàng tá những tên có sở thích quái đản trên đời này mà. Tôi từng biết một kẻ thi thoảng lại xuất tinh trước tấm ảnh chụp cây cầu Golden Gate ở San Francisco, hoặc một cô khác chỉ có thể "ướt đầm đìa" khi bị người yêu siết cổ. Thành thực mà nói, tôi cũng đếch thèm quan tâm. Dù gì thì tôi đã bán nó đi và vớ bẫm, thì thằng chả muốn làm gì với nó chả được.
Câu nói của người đàn ông đang vừa nói vừa ngấu nghiến đống kem to tướng khiến tôi ngơ ngẩn hồi tưởng về hình ảnh người con trai tóc bạc trắng như mây trời mùa hạ ôm khư khư hũ tro cốt trong tay giữa cảnh tuyết rơi lạnh lẽo, cô tịch. Quá vãng rồi, dư âm của khúc nguyện hồn từ Salieri. "Đó không phải là con đâu, mà là Mozalt đấy." Câu thoại trích từ bộ phim "Amadeus" tẻ ngắt ấy vẫn luôn khiến trái tim tôi nhoi nhói. Tôi nhớ anh và thèm được trò chuyện cùng anh, "Sumire-san" không ngừng nghỉ tìm kiếm tình yêu từ các "nạn nhân".
- Tôi hút thuốc được chứ? - Tôi cất tiếng hỏi, và ngay lập tức nhận được hai cái gật đầu dứt khoát.
Tôi vừa rút bao thuốc lá ra thì Sasaki liền kéo ống tay áo tôi, mỉm cười ngọt lịm như mật đào.
- Cho em xin một điếu nhé. Em cũng muốn hút Malboro.
- Em mà cũng hút thuốc à? - Tôi hỏi với vẻ ngỡ ngàng hiện rõ trên gương mặt.
- Hồi đại học em hút thuốc ghê lắm, nhưng mẹ em cứ la hoài, nên mới cai dần. Mẹ sợ em bị ung thư phổi, tại ông nội em mất vì bệnh đó mà. Bà phát khổ phát sở vì phải chăm sóc hết người bệnh này tới người bệnh khác trong gia đình chồng. Thế nên cuối đời mẹ chỉ muốn yên thân dưỡng già thôi. Đến cháu còn bảo là không muốn bồng nữa cơ đấy.
Lắng lại vài giây để nghe xem nhạc trong quán vừa đổi sang bài gì, cô nói tiếp:
- Nhưng mà lâu lâu, em vẫn lén hút đấy. Tuy vậy, em ghét Seven Stars lắm, tại màu khói xấu chết đi được. Em vẫn thích mùi và màu khói của Malboro hơn. Nó hợp với cảnh đêm ở cảng Yokohama.
"Sumire-san" nghe cô nói thế liền phá lên cười. Tôi tủm tỉm đặt vào bàn tay đang xòe ra của cô gái trẻ một điếu Malboro. Cô cảm ơn rồi đưa điếu thuốc lên môi. Chỉ chờ có thế, người đàn ông tóc vuốt keo thơm phức liền chồm tới châm thuốc cho cô. Sau khi Sasaki rít hơi thuốc đầu tiên thì anh ta cũng làm điếu Seven Stars thứ hai. Chúng tôi gần như nhả khói cùng một lúc. Ba gương mặt thờ ơ với những điếu thuốc lá trên tay, và phía đằng sau là bức tường nhung đỏ và tác phẩm nổi tiếng nhất của Klimt làm phông nền, khiến chúng tôi trông cứ như đám nhân vật bước ra từ một bộ phim nào đấy được chế tác bởi David Lynch. Trong các bảng màu phim ảnh, tôi có hứng thú đặc biệt với cách vận dụng và phối hợp màu sắc của Lynch. Nếu tôi mà dấn thân theo con đường nghệ thuật, chắc chắn những thứ tôi tạo ra thể nào cũng bị chê bôi là "sặc mùi David Lynch kiểu rẻ tiền". Hê hê, lâu lâu, tôi lại ham muốn tạo ra một cái gì đó rẻ tiền, đê tiện nhưng thỏa mãn được thị hiếu bản thân. Nghe cũng oai đáo để!
- Nhưng em thích bức ảnh này. Nó độc đáo và táo bạo. - Meiko Sasaki vung vẩy điếu thuốc trên tay, nói. - Hai người mẫu cứ như Adam và Eve hậu tận thế vậy. Anh tìm ở đâu ra họ thế?
- À, cô gái đó thì là người mẫu của một tạp chí khiêu dâm chả mấy ai biết tới. Lương lậu nghe bảo bèo bọt lắm. Em cũng biết đấy, thời đại công nghệ 4.0 này thì mấy ai còn tìm mua ấn phẩm giấy nữa. Chuyện của cậu con trai thì không tiện kể ra ở chốn công cộng đâu.
- Và anh thấy họ đẹp tới diệu kỳ?
- Người đẹp thì anh đây gặp nhiều lắm. Chỉ là trông họ giống như phiên bản đảo ngược giới tính của hai người anh từng yêu ở thế giới của mình vậy.
Gã Doppelgänger nhấp nhanh một ngụm trà đắng, rồi lại rít một hơi thuốc sâu tới tận cùng cuống phổi.
- Không thể nào? Anh không nói chơi đấy chứ? - Sasaki hứng chí kêu lên the thé khiến hai người đàn ông ăn mặc đứng đắn, lịch sự ngồi bàn bên cạnh giật bắn mình, lập tức ném về phía chúng tôi ánh nhìn khó chịu.
- Em xin lỗi nhé. - Sasaki che miệng, hạ thấp giọng hết mức có thể. - Nhưng mà đúng là thế giới song song anh nhỉ?
- Ừ, nên anh mới lập tức tìm cách liên lạc ngay với họ để xin chụp ảnh. Tuy nhiên, đó chỉ là cái cớ mà thôi, chủ yếu chỉ là anh muốn được gặp và nói chuyện cùng với họ.
- Và ngủ với họ nữa đúng không? - Sasaki hỏi bằng giọng hết sức thản nhiên.
- Tất nhiên là để ngủ với họ nữa. - Người đàn ông cũng bình thản đáp lại
- Còn cái tên "Find me in the Neverland" là lấy cảm hứng từ truyện "Peter Pan" thật đấy ạ?
Tôi cảm thấy cứ ngồi lặng yên như ông phỗng nãi thì cũng kỳ, nên quyết định tham gia vào cuộc hội thoại đang lượn vòng tứ tung mọi ngả.
- À, cũng không hoàn toàn là như thế. Chỉ là tôi và hai người tình của mình vẫn thường hay gọi đùa cái "tổ ấm" của chúng tôi là "Neverland".
- Nghe lãng mạn nhỉ? - Tôi nói vu vơ.
- Ờ, tại chúng tôi đều không có mẹ mà. Tôi mồ côi mẹ từ thưở mới lọt lòng, lớn lên cùng một người bố nghiện rượu. Gã bồ trai của tôi cùng bầy em nheo nhóc thì bị mẹ bỏ lại cho ông bà ngoại nuôi để chạy theo người tình, rồi cuối cùng lại để cho thằng chó đẻ đó đánh đập tới chết. Cô bạn gái thì còn đáng thương hơn. Cô ấy bị mẹ bán cho một tay dắt gái chỉ với giá một chầu phê pha hoan lạc. Và do một sự sắp xếp vô tình hay cố ý của số phận tôi chẳng hay, hai người mẫu ảnh của tôi cũng đều mồ côi mẹ cả. Cả cái tay triệu phú mua bức ảnh của tôi cũng là một "đứa trẻ trong tủ gửi đồ nhà ga" đấy. Nếu không phải "Neverland" thì còn gì phù hợp hơn nữa chứ?
Đoạn, anh ta búng đầu lọc điếu thuốc vào trong gạt tàn.
- Trẻ con mà không có mẹ đúng là không còn gì bất hạnh bằng.
Tôi nghe mà sững sờ tới mức buông rơi chiếc nĩa đang cầm trên tay, ú ớ mãi mới cất lên được tiếng xin lỗi vỡ vụn. Về phần Meiko Sasaki, cô dường như mất luôn cả hứng thú ăn uống, đẩy nhẹ đĩa bánh sang một bên, rồi đưa điếu thuốc lên môi. Người đàn ông thì có vẻ chả bận tâm tới phản ứng của chúng tôi, cứ điềm nhiên tống một đống hỗn độn những kem, hạt ngũ cốc và thạch dâu tây vào miệng. Từ một góc đằng sau quầy bar, Romy Schneider đang nỉ non khúc tình sầu của nàng Helene. Vừa thả hôn theo tiếng hát, "Sumire-san" quá lạ lẫm với tôi khẽ buông lời:
- À, tôi biết bài hát này, tôi đã từng xem bộ phim này cùng với gã Sumire Yoshitaka. Lúc đoạn nhạc này vang lên, hắn cứ thế ôm mặt khóc như mưa. Đúng là gã mít ướt.
Tới đoạn một chất giọng nam trầm rì rầm những ngôn từ buồn thảm bằng tiếng Pháp cắt ngang khúc ca trữ tình, người đàn ông liền dịch rành rọt tất cả sang tiếng Nhật:
"Anh đã thương em thật nhiều, Helene dấu yêu
Nhưng giờ thì đành ly biệt
Chiếc máy bay kia sẽ rời phi trường bỏ đôi ta ở lại
Anh chẳng còn biết phải yêu em sao cho đúng."
- Anh biết tiếng Pháp ư? - Sasaki ngạc nhiên.
- Ừ, do đặc thù công việc yêu cầu mà thôi. - Người đàn ông đáp.
Và giọng nói trầm ấm của người đàn ông Pháp lại dịu dàng vang lên, nhưng lần này, người phù phép cho nó hóa thành thứ ngôn ngữ mà Sasaki có thể hiểu được là tôi.
"Thế này vẫn hơn, Helene ạ.
Đấy vốn là thứ tình yêu chẳng vướng bận chút tình bằng hữu.
Toàn bộ ký ức đôi mình vẫn nên xóa bỏ hết đi.
Anh sẽ không viết cho em nữa đâu, Helene ơi"
Sasaki không khỏi bất ngờ khi tôi cũng biết tiếng Pháp, và cô thắc mắc ai là người đã dạy cho tôi.
- Một người mà đặc thù công việc của họ yêu cầu. - Tôi trả lời, với một nụ cười buồn điểm trên môi nhạt.
- Ghen tị thật đấy! Cứ như thể xung quanh em ai cũng biết cái thứ ngôn ngữ hào hoa, phong nhã đó vậy.
Sasaki nói, vờ bày ra vẻ mặt giận dỗi. "Sumire-san" mỉm cười thân ái, đưa tay vỗ nhẹ lên trán cô. Đột nhiên, chiếc điện thoại gắn ốp lưng in hình nhân vật Pompompurin đáng yêu của hãng Sanrio bất ngờ rung lên, báo hiệu một cuộc đến. Cô vội vàng cầm điện thoại lên, cáo lỗi với tôi và "Sumire-san", rồi hớt hải chạy ra ngoài nghe máy trên đôi guốc đen cao gót. Thấp thoáng trông thấy tên người gọi tới, tôi buông một tiếng thở dài kín đáo, rồi xắn một miếng bánh cho vào miệng. Tôi trệu trạo nhai. Món bánh kem vốn ngon lành, trong miệng tôi, giờ đây bỗng dưng khô như cát.
Bên cạnh đó, tôi vẫn chưa quen với việc ngồi chỉ có hai người với gã Doppelgänger kia. Một bầu không khí ngột ngạt và bức bối bao trùm lấy tôi và người đàn ông đã ngốn gần hết ly parfait ngồn ngộn.
- Cậu vẫn chưa quen với sự hiện diện của tôi đúng không? - Anh ta cất tiếng hỏi.
Tôi không đáp, chỉ im lặng lắc đầu thật mạnh.
- Nếu không phải thì nói gì đi. Bất cứ điều gì cũng được. Tôi không thích chỉ ngồi nhìn nhau như thế này.
Tôi len lén liếc nhìn bức ảnh in trên tờ tạp chí mà Sasaki vẫn để mở trên bàn, ho khẽ một tiếng, rồi nói bằng chất giọng hùng hồn nhất của mình:
- Ảnh anh chụp...đẹp lắm. Mặc dù nó không giống với những cảm xúc mà "anh ấy" đã từng mang tới, nhưng...em không ghét nó. Dù nó không phải là công việc của anh, không phải là cuộc đời của anh; tuy nhiên, em cảm thấy anh đang duy trì mọi thứ rất tốt.
Tôi xoay nhẹ cuốn tạp chí để có thể chiêm ngưỡng bức ảnh kỹ hơn.
- Liệu em có thể hỏi một câu khá riêng tư được không ạ?
- Cậu cứ hỏi đi. Tôi đã bảo là cậu muốn nói gì cũng được mà.
- Ở thế giới của mình, anh... làm công việc gì thế ạ? - Tôi ngập ngừng hỏi.
- Tôi làm phim. - Anh đáp.
- Anh là đạo diễn ạ? Tuyệt thật đấy! - Tôi thốt lên đầy ngưỡng mộ.
- Hả? Cậu nghe không rõ à? Tôi làm phim, chứ không phải đạo diễn. - Anh hậm hực nói. - Tôi viết kịch bản, tìm kiếm những người mà tôi cho là có khả năng thể hiện được những điều bản thân muốn truyền tải, chọn một địa điểm phù hợp, rồi ném vào đó tất cả những màu sắc, âm thanh, và kết cấu nội tại mà tôi tâm đắc. Tôi bày ra đó một bữa yến tiệc linh đình chỉ toàn những món tôi thích và chào đón tất cả những người có cùng khẩu vị tới thưởng thức.
- Đó không phải là công việc của một đạo diễn ư? - Tôi bắt đầu lúng túng.
- Nghe này. - Anh ta him him đôi mắt nhìn tôi, hơi gằn giọng. - Đạo diễn là những người làm ra những tác phẩm kinh điển khiến thị chúng đời đời ngưỡng mộ và nhớ về, để mang đi công chiếu tại các liên hoan phim, để tranh giải thưởng bằng tài năng và phong cách nổi bật của họ, để các sinh viên trong các trường điện ảnh nghiên cứu và viết hàng chục trang tiểu luận chỉ để phân tích các chi tiết ẩn dụ xuyên suốt bộ phim. Đó mới là công việc của đạo diễn. Còn tôi chỉ là một kẻ làm ra những bộ phim mà mình thích. Người ta xem như trò tiêu khiển thời gian, rồi quên ngay ấy mà.
- Vậy anh làm ra những bộ phim gì?
Tôi hỏi và "Sumire-san" bắt đầu giới thiệu cho tôi một trong những bộ phim mà anh ta từng làm.
(Còn tiếp)
Bạn đang đọc truyện trên: truyentop.pro