TỰ TÌNH II
Tự tình II
Hồ Xuân Hương là một trong những cây bút tiên phong cho nền thơ Nôm nước nhà. Bà được mệnh danh là Bà Chúa thơ Nôm với tài sản thơ văn đồ sộ được viết bằng chữ Nôm nước Việt. Các vần thơ của bà đều mang nét mạnh mẽ, táo bạo, rất dân gian nhưng cũng thật mới mẻ và độc đáo. Hồ Xuân Hương không chỉ được người đời biết đến là Bà Chúa thơ Nôm. Trong cái xã hội thời đấy, bà là "một hiện tượng" lạ. Vốn dĩ là nữ nhân nhưng lại rất tài năng và mạnh mẽ. Bà từng đặt chân đến nhiều miền quê trên đất nước và giao du với nhiều văn nhân thời đấy, trong đó có cả đại thi hào Nguyễn Du. Tuy nhiên, sau những vần thơ, tài năng ấy là một cuộc đời chịu đầy rẻ rúng của miệng thiên hạ vì cuộc hôn nhân chung chồng và thân phận vợ lẽ hèn mọn. Những tâm tư, tâm trạng tuyệt vọng ấy đều được bà đan trọn vẹn vào từng câu chữ trong chùm thơ Tự tình và nổi bật nhất chính là bài thơ Tự tình II.
Tự tình II được viết theo thể thơ thất ngôn bát cú với ngôn ngữ là chữ Nôm nước Việt. Tự tình II không cầu kì về giọng thơ và cách dùng từ, kiệt tác này vốn đơn giản về mặt hình thức nhưng bên trong lại chứa sự đơn độc, bi đát của nhà thơ khi phải sống trong kiếp chồng chung và khát khao được thoát khỏi xiềng xích hôn nhân để được sống và được hạnh phúc.
Thật vậy, mở đầu bài thơ, bà đã cho chúng ta thấy rõ thời gian, không gian và cảnh vật lúc đấy:
" Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn"
Khi tấm lụa đen phủ lên bầu trời xa xăm thì cũng là lúc cảnh vật đã dần đi vào giai đoạn nghĩ ngơi và không gian thì như được mở rộng ra cả trăm dặm. Khung cảnh bao la rộng lớn, tất cả đều im ắng đến buồn đi và đâu đó văng vẳng đến não lòng tiếng trống canh đang điểm. Ta nhận ra rằng thời gian đang bước đi – những bước đi chứa đầy sự thúc giục, gấp gáp. Đến đây, ta có thể thấy rõ rằng Hồ Xuân Hương đang tự đối diện với chính mình trong đêm khuya thanh vắng, bà đang rất rối bời khi phải tiếp nhận những bước đi của thời gian và cố nhiên rằng bà đang rất cô đơn và trơ trọi giữa không gian rộng lớn.
Sang câu thứ hai, bằng nghệ thuật đảo ngữ tài tình, bà đã khoét sâu vào sự bẽ bàng của mình để rồi gợi lên cho người đọc một tâm trạng cô đơn đến đau lòng:
" Trơ cái hồng nhan với nước non"
Động từ "trơ" xuất hiện ở đầu câu như thể muốn nhận mạnh cái nỗi cô đơn mà bà đang chịu. Trơ là trơ trọi, là lẽ loi và cô độc trong không gian rộng lớn và đâu đó nó cũng là trong cuộc hôn nhân bi đát. "Cái hồng nhan", đó là một sự kết hợp từ nhằm thể hiện ra nét rẻ rúng của Hồ Xuân Hương đối với hồng nhan của chính bản thân. Từ "cái" nghe thật cay đắng, nó gợi lên nỗi tủi hổ mà bà đã phải chịu trong tình yêu không trọn vẹn. Chợt, ta bỗng nhận ra có một sự đối lập tinh tế trong câu, bà đã cho ta thấy được sự nhỏ bé của cái hồng nhan bằng cách đưa nó đối lập với nước non mênh mông. Nỗi cô đơn không ai thấu và sự chai lì của một kiếp nữ nhi đầy truân chuyên đều được đan trọn vào tiểu đối, hòa cùng nhịp thơ một-ba-ba bà đã tạo ra một nguồn cảm xúc dồi dào trong lòng người đọc. Không cầu kì bằng những từ ngữ hay nghệ thuật cao sang, nó đơn giản là những từ gần gũi với nghệ thuật được thêm vào một cách vô cùng kín đáo và tinh tế. Ta có thể thấy rằng, tác giả đang lang thang trong tâm trạng cô đơn, trống vắng đến đau lòng nhưng trong lời thơ ấy và cả con người ấy vẫn giữ trọn vẹn cái chất thách thức giữa cuộc đời phong kiến bất công.
" Chén rượu đưa hương say lại tỉnh
Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn"
Một cái vòng lẩn quẩn không lối thoát đang bao quanh bà. Một trò đùa của trời ép chặt vào số phận nữ nhi khốn khó, bà gần như mất đi phương hướng trong cuộc đời mình. Bà tìm đến rượu để say, để quên đi chuỗi ngày cô đơn trên cõi trần nhưng cớ sao bà càng uống lại càng tỉnh mà càng tỉnh thì lại càng đau hơn, buồn hơn. Sự chán nản như muốn dâng lên trong từng câu chữ và ngay chính ở từ "lại", nó đã gieo xuống một cảm giác xót xa và ngán ngẫm cho cuộc đời đầy bất hạnh của chủ thể trữ tình. Trong tác phẩm Truyện Kiều bất hủ, Nguyễn Du đã từng viết về trăng như này:
"Vầng trăng vằng vặc giữa trời
Đinh ninh hai miệng một lời song song"
Nếu như trong lời thơ trên của Nguyễn Du, trăng là nhân chứng cho tình yêu tươi đẹp, nét chấm phá hoàn hảo cho một đôi uyên ương tươi trẻ đang chìm đắm trong câu chuyện tình thơ mộng thì trong lời thơ của Hồ Xuân Hương, trăng bỗng hóa thành một nhát dao khắc sâu vào trái tim đầy vết thương kia. " Bóng xế", nó mang nghĩa rằng sự muộn màng trong tình yêu còn "khuyết chưa tròn" lại là hình ảnh ẩn dụ cho cuộc hôn nhân dở dang. Đêm đã gần tàn, trăng kia vẫn chưa tròn thì đã xế đi; thương cho một kiếp nữ nhi, thói đời bạc bẽo biết sao yên lòng.
Nếu bốn câu đầu diễn tả những dòng tâm trạng đợi chờ tuyệt vọng, buông xuôi thì đến hai câu luận, Hồ Xuân Hương đã thể hiện sự cảm khái và mạnh mẽ của bản thân mình. Bà muốn vùng lên, muốn gạt phắc đi cái thứ hôn nhân làm lẽ này:
" Xiên ngang mặt đất rêu từng đám
Đâm toạc chân mây đá mấy hòn"
Những thứ vô tri vô giác như rêu và đá qua câu thơ của bà bỗng hiện lên nguồm sức sống mãnh liệt. Rêu vốn là loài thực vật mềm mại, yếu ớt nhưng kia được Hồ Xuân Hương chạm bút vào thì bỗng hóa phi thường. Những đám rêu xiên qua mặt đất cứng cáp để trỗi dậy tìm lấy sự sống; những hòn đá trơ trọi nằm bất động giữa thiên nhiên và cả dòng chảy của thời gian thì vùng lên đâm toạc lấy chân mây. Hình ảnh gần gũi, những động từ mạnh, bổ ngữ tài tình và cả nghệ thuật đảo ngữ đã khiến cho hai câu luận trở thành một điểm bức phá thể hiện cái bản lĩnh đương đầu của nhà thơ. Hồ Xuân Hương muốn xé toạt cái xã hội bất công và cuộc hôn nhân tệ bạc, bà khao khát thoát khỏi xiềng xích của định kiến nữ tam tòng, nam bảy thiếp. Giống như người cung nữ trong tác phẩm "Cung oán ngâm khúc" của Nguyễn Gia Thiều:
" Đang tay muốn dứt tơ hồng
Bực mình muốn đạp tiêu phòng mà ra!"
Người cung nữ đã tưởng tượng ra cảnh mình tự tay bứt đi dây tơ hồng oan nghiệt và tự mình đạp cửa thoát ra khỏi chốn hậu cung cô quạnh để trở về với tự do, hạnh phúc. Ở đây, chủ thể trữ tình cũng mang trong mình cái khao khát mãnh liệt đó. Có lẽ, trong cái xã hội phong kiến thối nát, tuy họ đã được dạy về những "giáo lý" cam chịu, nhẫn nhục nhưng những người phụ nữ đều có chung một ước mơ về sự hạnh phúc may sau và sẽ sớm thoát khỏi những luật lệ hà khắc nhưng thật éo le thay, họ còn không có quyền quyết định số phận của mình nữa huống chi việc ước mơ của họ được thực hiện. Số phận họ là để cho xã hội quyết – một xã hội lấy tư tưởng trọng nam khinh nữ làm nhiên liệu, còn con người là động cơ.
Nhưng rồi, khao khát vẫn không thể hiện thực hóa được. Phận nữ nhi cô đơn giữa cuộc đời bao la thì biết đường đâu mà thoát. Sự dâng trào cảm xúc trong hai câu luận đã dần hạ xuống, nó bỗng nhường chổ cho cho hiện thực đầy tàn khốc:
" Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại
Mảnh tình san sẻ tí con con"
Chủ thể trữ tình đã ngán ngẩm trước cuộc đời của mình, bà đã đối mặt với nó nhưng lại không thể tìm cách thoát ra. Bà lẩn quẩn trong cái vòng tình duyên rồi trở nên chán nản và tuyệt vọng. Ở đây, điệp từ "xuân" và "lại" có thể giải thích theo hai nghĩa. Ở từ thứ nhất, "xuân" là mùa xuân – mùa đẹp nhất của đất trời. Xuân đến, muôn hoa đua thắm, uyên ương tụ họp để cùng nhau trao những lá trầu xanh hay mâm son thắm kết duyên vợ chồng. Từ "lại" đầu tiên được dùng bổ ngữ cho từ xuân với nghĩa rằng mùa xuân của đất trời qua rồi thì vẫn quay lại, đó là quy luật của tự nhiên, là sự trường tồn và vĩnh cữu. Nhưng, với từ "xuân" thứ hai thì chính là tuổi xuân của con người mà cụ thể ở đây là người phụ nữ. Đối với một người phụ nữ mà nói, họ rất quan tâm đến tuổi xuân của mình và có khi còn xem nó là cả cuộc sống của mình. Còn từ "lại", nó mang nghĩa rằng không thể quay lại dù cho có làm gì đi nữa. Khi một mùa xuân qua đi thì tuổi của người phụ nữ cũng tiến thêm một bước. Xuân qua rồi xuân về nhưng tuổi tác thì khong thể như vậy, tuổi xuân qua là sẽ qua mãi mãi, con người sẽ ngày càng già đi chứ không phải là trẻ lại.
Đến câu cuối cùng, thật tàn nhẫn thay khi mảnh tình không trọn vẹn của bà lại phải "san sẻ tí con con". Bằng biện pháp tăng tiến và nhịp thơ hai-hai-một-hai độc đáo, bà đã xoáy sâu vào sự tuyệt vọng của bản thân trước nghịch cảnh éo le. Tình yêu của bà đã quá ít ỏi rồi nhưng bà lại không được phép giữ chút tình đó cho riêng mình mà phải cắn răng, chịu đựng cái cảnh kiếp chồng chung. Tựa như một tiếng thở dài cho thân phận của mình và cả những người phụ nữ thời đó, Hồ Xuân Hương đã trở nên bất lực trước hiện thực cay đắng này. Bà đành buông xuôi số phận cho dòng đời và chìm sâu trong dòng nước của sự bế tắc.
Về nghệ thuật, những từ ngữ giản dị nhưng vô cùng đặc sắc đã tạo nên dấu ấn riêng cho bài thơ nói riêng và cả sự nghiệp của bà nói chung. Hình ảnh giàu sức gợi hình gợi cảm luôn được bà sử dụng một cách tài tình để bộc lộ lên tâm trạng của bản thân một cách vô cùng tinh tế và phong phú. Từng lời thơ của bà khi vang lên thì như thể nó chứa cả ngàn sự đồng cảm của những người phụ nữ thời đó dành cho nhau. Có lẽ, Tự tình đã không còn là một tác phẩm chỉ nói riêng về cuộc đời bi kịch của bà nữa mà nó đã trở thành một tác phẩm chung, một tiếng nói chung cho cuộc đời kham khổ của những người phụ nữ thời phong kiến. Nó lên án cái chế độ thối nát và thể hiện ra khao khát được sống, được hạnh phúc của những người phụ nữ.
Đã nhiều thập kỉ trôi qua, cuộc sống của người phụ nữ đã dần được bình đẵng, họ không còn chịu cảnh bất công và có quyền tự quyết định mọi việc hay tham gia vào những công việc mà trước đó chỉ dành riêng cho phái nam. Tuy nhiên, dù thời thế có đổi thay ra sao thì Tự tình II của Hồ Xuân Hương vẫn giữ nguyên giá trị ban đầu. Tác phẩm đã trở thành nhân chứng cho cuộc đời đầy bi kịch của người phụ nữ, là tiếng nói cho khao khát được sống, được hạnh phúc của người phụ nữ thời xưa và chứa đầy giá trị nhân đạo sâu sắc. Và vì hai điều: vừa bi thương vừa mạnh mẽ thách thức thứ duyên phận chung chồng để rồi gắng gượng vươn lên nhưng vẫn rơi vào bi kịch không lối thoát đã làm cho giá trị nhân văn ngày càng thêm thấm thía và mãnh liệt hơn.
Bạn đang đọc truyện trên: truyentop.pro