Chương 3

Đúng là như vậy khi con đường Giao Bình làm đến chỗ chúng tôi, cao lương khắp cánh đồng chỉ mới cao đến thắt lưng người. Cánh đồng trũng dài bảy mươi dặm, rộng sáu mươi dặm. Ngoài mấy chục thôn trong, hai con sông nằm vắt ngang, mấy chục con đường đến làng khúc khuỷu ra, còn toàn là cao lương mênh mông như sóng xanh. Ngọn núi Bạch Mã, hòn đá lớn như con ngựa mồm trắng, phía bắc đồng bằng, đứng ở đầu làng chúng tôi nhìn rõ mồn một. Nông dân làm cỏ cao lương, ngẩng đầu thấy núi Bạch Mã, cúi đầu thấy đất đen, mồ hôi giỏ dòng dòng xuống đất, trong lòng biết bao đau khổ! Nghe đồn người Nhật Bản sắp làm đường trên cánh đồng, mọi người trong làng đều lo lắng không yên, sốt ruột sốt gan chờ đợi tai hoạ giáng xuống. 

Người Nhật nói đến là đến. 

Khi giặc Nhật dẫn quân nguỵ đến thôn chúng tôi bắt phu, bắt lừa ngựa thì bố tôi còn đang ngủ, tiếng ồn ào ở bên lò nấu rượu làm bố tôi tỉnh giấc. Bà tôi dắt tay bố tôi, nhón đôi bàn chân nhỏ như chiếc măng nhọn, chạy đến sân nhà nấu rượu. Bấy giờ, trong sân lò nấu rượu nhà tôi, có đến mười mấy chum lớn, đựng rượu trắng hảo hạng, mùi rượu bay khắp thôn. Có hai tên Nhật mặc áo vàng tay lăm lăm cầm súng lắp sẵn lưỡi lê đứng giữa sân. Hai người Trung quốc mặc áo đen cũng có súng, đang định cởi trạc hai con la to đen buộc ở gốc cây thu. Ông La Hán nhiều lần lao đến tên lính ngụy nhỏ bé đang cởi trạc la, nhưng lần nào cũng bị tên lính nguỵ to lớn dùng nòng súng cản lại. Đầu hè, ông La Hán chỉ mặc một chiếc áo mỏng, ngực trần đầy vết hằn nòng súng tím bầm. 

Ông Lạ Hán nói: 

- Người anh em ơi, tôi nói câu này, nói câu này. 

Tên lính ngụy to lớn nói: 

- Đồ súc sinh, cút đi? 

Ông La Hán nói: 

- Đây là của chủ nhà, không lấy được đâu! 

Lính ngụy nói : 

- Còn la hét tao sẽ giết cái mạng mày? 

Tên lính Nhật cầm súng, đứng như tượng đất. Bà và bố tôi đi vào sân, ông La Hán liền nói:

 - Chúng nó định dắt la nhà ta. 

Bà nói: 

- Thưa ngài, chúng tôi là dân lành. 

Tên lính Nhật nhìn bà cười híp mắt. 

Tên lính ngụy bé nhỏ cởi được trạc la ra sức kéo, la cưỡng lại, ngẩng đầu không chịu đi. Tên lính ngụy cao to dùng súng thúc vào đít la, con la tức giận tung vó móng sắt sáng loáng đá, đất bùn bắn vào mặt tên lính ngụy.

Tên lính ngụy cao to kéo giây súng, chĩa nòng súng vào ông La Hán quát:

 - Lão già khốn kiếp, mày phải tự dắt ra công trường. 

Ông La Hán ngồi xổm dưới đất, không thèm trả lời.Một tên lính Nhật khua súng trước mặt ông La Hán, nó nói: 

- Ming-li-oa La-ia-la-li-ming.

 Ông La Hán thấy lưỡi lê loang loáng ở trước mặt, ông liền ngồi bệt xuống đất. Tên giặc đưa súng về phía trước. chiếc lưỡi lê sắc nhọn khoét một miếng trắng hếu trên chiếc đầu nhẵn bóng của ông La Hán. 

Bà tôi co rúm người lại, nói: 

- Chú ơi, chú dắt cho chúng nó đi!Một tên lính Nhật từ từ sán lại gần bà. Bố thấy tên lính này là một thằng đẹp trai, đôi mắt đen to, sáng long lanh, khi cười, môi nhếch ra, lộ một chiếc răng vàng. Bà lảo đảo lùi dần về phía ông La Hán. Vết thương trên đầu ông La Hán, máu chảy dòng dòng, loang ra cả đầu Hai tên lính Nhật cười sát đến gần. Bà giơ hai bàn tay chụp lên đầu đầy máu của ông ta Hán, rồi bôi ngay lên hai má, đoạn xoã tóc, há mồm, nhảy lên điên loạn. Trông bà ba phần giống người, bảy phần giống quỷ. Bọn lính Nhật kinh ngạc dừng lại. Tên lính ngụy bé nhỏ nói: 

- Bẩm quan, người đàn bà này điên thật rồi.

Bọn lính Nhật càu nhàu, bắn một phát súng qua đầu bà. Bà ngồi dưới đất, khóc nấc lên. 

Tên lính ngụy cao to dùng súng bức ông La Hán phải đứng lên, ông La Hán đón lấy chiếc trạc từ tay tên lính ngụy bé nhỏ. Con la ngẩng đầu, chân run run, theo ông La Hán đi ra khỏi sân. Ngoài đường la liệt là la, ngựa, trâu, dê. 

Bà không điên. Bọn giặc Nhật và lính ngụy vừa ra khỏi sân, bà liền mở nắp chum bằng gỗ ra, soi vào trong chum rượu phẳng bóng như một chiếc gương, thấy mặt đầy máu đến ghê người. Bố thấy nước mắt bà chảy dòng dòng trên gò má, cũng biến thành màu đỏ. Bà lấy rượu rửa mặt, làm cho chum rượu đều loang đỏ cả. 

Ông La Hán và con la đều bị dẫn đến công trường. Ruộng cao lương, đã bắt đầu có đòng đòng. Con đường bên sông Mặc Thủy đã làm gần xong, xe lớn, xe nhỏ chen nhau đi trên đường, chở toàn đá và cát vàng đến bờ sông phía nam. Trên sông có một cây cầu gỗ nhỏ người Nhật Bản định dựng một cái cầu đá lớn. Hai vạt cao lương hai bên đường đều bị xéo nát, trên mặt đất như trải một tấm thảm xanh. Trong ruộng cao lương phía bắc sông, ở hai bên đường vừa đắp vun lên bằng đất đen, có mấy chục con la, ngựa kéo trục đá lăn tạo nên khoảng đất bằng phẳng trong biển cao lương rộng bát ngát, phá mất tấm thảm xanh nối liền với công trường. La, ngựa đều có người dắt, đi đi lại lại trên ruộng cao lương. Dưới móng sắt, cao lương bị gẫy nát, nằm rạt, lại bị trục đá lăn đi lăn lại đè dí xuống. Các con lăn đều biến thành mầu xanh, nhựa cây cao lương thấm ướt con lăn. Mùi thơm ngát của cao lương xanh... toả khắp công trường. 

Ông La Hán bị dồn đến chuyến đá từ bờ nam sang bờ bắc, ông thực tình không muốn trao trạc la cho cụ già mắt toét. Chiếc cầu gỗ con lắc la lắc lư, tựa hồ có thể đổ bất cứ lúc nào. ông La Hán đi qua cầu. Một người Trung Quốc, đang đứng ở bên bờ nam, chừng là đốc công, dùng chiếc roi mây màu đỏ sẫm chọc nhẹ vào đầu ông La Hán nói:

 - Đi chuyển đá sang bờ bắc. 

Ông La Hán dụi mắt, máu trên đầu chảy xuống làm ướt cả lông mày. Ông La Hán vác một hòn đá vừa vừa, từ bờ nam' đi sang bờ bắc. Cụ già dắt la vẫn còn chưa đi, ông La Hán nói với cụ: 

- Ông chăn dắt cẩn thận nhé. Hai con la này là của chủ nhà tôi đấy. 

Cụ già cúi đầu không nói không rằng, dắt la nhập vào đội la ngựa đi mở đường. Mông đít con la đen lóng loáng, phản chiếu từng giọt nắng vàng. Trên đầu máu vẫn chảy, ông La Hán ngồi thụp xuống, bốc nắm đất đen, dịt vào vết thương. Cơn đau nặng nề ở trên đầu nhức xuống tận mười đầu ngón chân, ông thấy đầu mình như bửa làm đôi. 

Những tên lính Nhật và lính ngụy cần súng đứng thưa thớt cạnh công trường. Tên đốc công cầm roi mây như hồn ma lượn đi lượn lại trên công trường. Đám dân phu thấy ông La Hán đi trên công trường đầu chảy máu dấp dính họ kinh ngạc đến nỗi con ngươi mắt họ cứ đảo lên đảo xuống. ông La Hán vừa vác đá đi được mấy bước, bỗng thấy sau lưng có ngọn gió vút qua rồi thấy dan rát ở lưng. Ông ném hòn đá xuống, nhìn tên đốc công đang cười mình. ông La Hán nói:

- Bẩm quan lớn, có chuyện gì thì cứ nói, sao lại giơ tay đánh người? 

Tên đốc công mỉm cười không đáp, lại giơ roi mây, quất vào lưng ông. ông La Hán cảm thấy chiếc roi mây như cắt mình thành hai đoạn, nước mắt nóng cay từ trong hốc mắt trào ra. Máu bốc lên đỉnh đầu, miếng đất đắp trên đầu như rung lên tựa hồ như muốn vỡ toác ra.

 Ông La Hán quát:

 - Bẩm quan ? 

Tên đốc công lại quất một roi nữa. Ông La Hán nói:

 - Bẩm quan, quan đánh tôi vì tội gì?

 Tên đốc công rung rung chiếc roi mây trong tay, cười sằng sặc: 

- Cho mày mở mắt ra, đồ chó chết.

Ông La Hán ức đến tận cổ, nước mắt nhoà đi. Từ đống đá ông vác lên một hòn đá to, lảođảo đi về phía chiếc cầu con. Đầu ông như nổ tung trước mắt thấy toàn hoa trắng. Cạnh đásắc nhọn đâm vào bụng vào gân cốt ông, ông cũng không biết đau nữa. 

Tên đốc công cầm roi đứng nguyên chỗ cũ, ông La Hán khuân đá, sợ sệt đi qua trướcmặt hắn. Đốc công quất một roi vào cố ông La Hán, ông chúi về phía trước, ôm lấy hòn đá,ngã khuỵ xuống đất. Hòn đá đập nát tay ông, cằm va vào đá máu lại toé ra. Ông bị đánh đauquá cuống lên, khóc oà lên như một đứa trẻ. Lúc này, trong đầu óc rỗng không của ông bỗngsáng lên một ý nghĩ. ông cố gắng lắm mới rút được tay ra khỏi hòn đá, đứng lên, khom lưngxuống, trông như một con mèo già gầy gò đang ra oai.

Một anh trung niên trạc trừng bốn mươi tuổi, tươi cười đi đến trước mặt tên đốc công,đoạn rút từ trong túi ra một bao thuốc lá, chìa ra một điếu mời kề mồm hắn. Hắn há miệngbậm lấy điếu thuốc, đợi người kia châm lửa cho hắn. 

Anh trung niên nói: 

- Xin ngài đừng bực bội với cái khúc gỗ mục này. 

Đốc công nhả khói ra bằng lỗ mũi, không nói năng gì. Ông La Hán nhìn thấy những ngón tay vàng khô của hắn đang cầm roi mây luôn động đậy. Anh trung niên nhét bao thuốc vàotúi tên đốc công. Hắn làm như không hay biết, hừ một tiếng, lấy tay ấn nhẹ vào túi, quayngười bỏ đi.

 - Bác mới đến hả? - Anh trung niên hỏi

Ông La Hán nói: 

- Phải. 

Anh ta hỏi:

 - Bác không có lễ ra mắt hắn phải không? 

Ông La Hán nói : 

- Quân cường bạo, đồ chó đẻ, quân cường bạo, bọn chúng bắt tôi đến mà. 

Anh trung niên nói: 

- Biếu hắn ít tiền, biếu hắn bao thuốc là xuôi ngay. Không đánh người chăm chỉ, khôngđánh kẻ lười biếng, chỉ đánh ai không mở mắt thôi. 

Anh trung niên đoàng hoàng đi về đội ngũ của dân phu.

Suốt cả buổi sáng, ông La Hán như người mất hồn, khuôn đá văng mạng. Mặt trời làmcho vết thương trên đầu khô đi, vừa cứng vừa đau. Vết máu trên tay loang lổ, xương cằm bịthương, nước miếng cứ chảy hoài. Ngọn lửa tím đỏ nhen nhóm ở trong đầu ông lúc mạnhlúc yếu, chảy mãi không thôi. 

Đến trưa, từ đoạn đường phía trước vừa đắp xong, xe có thể chạy được, có một chiếc xehơi màu đất vàng lắc la lắc lư phóng đến. Ông hoảng hốt nghe tiếng còi inh tai, đám dân phumệt nhoài uể oải đi đến chiếc xe. Ông ngồi dưới đất, không nghĩ ngợi gì, và cũng khôngmuốn biết xe đến có việc gì. Chỉ thấy ngọn lửa đỏ nóng ran, đang chảy máu, làm cho đôi taiông vang lên ong ong. 

Anh trung niên đi đến, kẻo tay ông đậy nói:

 - Bác ơi, đi, đi ăn cơm, đi nếm thử cơm của bọn Đông Dương*!

 *Người Trung Quốc gọi người Châu Âu ở phía tây là người Tây Dương, còn người NhậtBản ở phía đông, họ gọi là bọn Đông Dương. (ND) 

Ông già đứng dậy đi theo anh trung niên.

Người ta khiêng từ trên xe xuống một thùng cơm trắng, một sọt to đựng bát sứ men hoaxanh. Cạnh thùng cơm có một người Trung Quốc gầy gò, tay cầm một cái môi bằng đồngthau; một người Trung Quốc béo phị khác đứng bên cạnh chiếc sọt, bê một chồng bát. Aiđến hắn phát một cái bát đồng thời chiếc môi đồng, súc cơm vào bát. Mọi người đứng chungquanh xe ăn như hổ đói, không có đũa, nhất loạt dùng tay bốc. 

Tên đốc công lại quay lại tay cầm roi, mặt vẫn mang cái cười lạnh lùng. Ngọn lửa trongđầu ông La Hán bỗng chốc bốc lên, ngọn lửa soi rõ ký ức mà ông đã quên đi, ông nhớ lạicảnh ngộ nửa ngày trời vừa rồi như một cơn ác mộng. Bọn lính Nhật và lính ngụy ở trạmgác cũng xúm lại, vây lấy chiếc thùng có đai sắt trắng ăn cơm một con chó béc-giê tai nhọnmặt dài nằm sau chiếc thùng, thè lưỡi nhìn đám dân phu bên này. 

Ông đếm được hơn một chục tên Nhật và hơn một chục lính ngụy đang ăn cơm quanhthùng, bụng bỗng nẩy ra ý định chạy trốn. Chạy, chỉ cần chui vào đám ruộng cao lương, thìbọn chó Nhật bắt sao nổi? 

Lòng bàn chân ông nóng ran, chảy cả mồ hôi. Kể từ khi nẩy ra ý định chạy trốn, ông thấytrong dạ bồn chồn. Bộ mặt có cái cười lạnh lùng của tên đốc công phảng phất ẩn giấu mộtcái gì, hễ nhìn thấy bộ mặt ấy, trong đầu ông bỗng lập tức thấy rối loạn.

Bọn dân phu đều chưa no. Người Trung Quốc béo phị thu dọn bát sứ. Bọn dân phu liếmmôi, mắt nhìn chằm chằm vào những hạt cơm còn dính ở trong thùng, nhưng không ai dámđộng đậy. Có một con la bên bờ bắc kêu giống lên, ông La Hán nghe, nhận ra tiếng kêu củacon la đen nhà mình. Trên mảnh đất vừa khai phá, la ngựa đều buộc vào các trục lăn bằngđá. Thân cao lương nằm ngổn ngang khắp cánh đồng. La ngựa uể oải nhai các công caolương bị dập nát dưới đất. 

Buổi chiều, một chàng trai chừng hơn hai mươi tuổi dõi thấy tên đốc công khống chú ý,liền lao vào ruộng cao lương, một viên đạn bắn theo anh ta. Anh ta nằm xoài xuống bênruộng, nằm bất động. 

Xế chiều, chiếc xe hơi mầu đất vàng lại đến. ông La Hán ăn hết môi cơm. Cái dạ dày quenăn cao lương, bây giờ thấy cơm gạo mốc cứ đẩy ra. Nhưng ông gắng gượng mà nuốt, ý nghĩchạy trốn mỗi lúc một mãnh liệt, ông nhớ thôn xóm cánh đồng hơn mười mấy dặm, có cáisâu sắc đầy mùi rượu của ông. Bọn Nhật đến, các anh em nấu rượu đều chạy cả, chiếc nồinấu rượu nóng hôi hổi đều nguội lạnh. Ông càng nhớ đến bà tôi và bố tôi. Bên đống lá caolương khô, bà đã mang ấm áp đến cho ông, khiến ông suốt đời không sao quên được. 

Ăn cơm chiều xong, bọn dân phu đều bị lùa vào một cái lán làm bằng mấy cái cột gỗ.Trên lợp bằng mảnh vải bạt. Các cột gỗ được nối với nhau bởi giây thép to bằng hạt đậuxanh. Cửa lán là mấy thanh sắt uốn cong. Bọn giặc lính ngụy phân ra ở trong hai lều,cách lán chừng mấy chục bước. Con chó béc-giê buộc ở cửa lều bọn giặc Nhật. Trước cửalán có chôn một con sào cao, trên sào treo cây đèn bão. Bọn Nhật và bọn ngụy thay phiênnhau đi tuần. La và ngựa tập trung trên bãi đất hoang cạnh lán, ở đây có chôn mấy chục cáicột để buộc

Mùi thối trong lán bốc lên, có người đang ngáy, có người đi đến thùng nước có đai sắt ởgóc lán đái, nước đái rơi vào cạnh thùng kêu long tong, ánh đèn bão mờ rọi vào trong lán.Bóng dài của bọn lính tuần tra thấp thoáng trong ánh đèn. 

Đêm đã khuya, trong lán lạnh ghê người. Ông La Hán không sao ngủ được, ông vẫn muốnchạy trốn. Tiếng chân lính gác vang lên quanh lán, ông nằm không dám cựa quậy, rồi thiếpđi lúc nào không biết. Trong mộng, thấy trên đầu buộc lưỡi dao nhọn, tay cầm thỏi sắt nóng.Tỉnh dậy, mồ hôi đầy người, đái dầm ướt hết cả quần. Từ trong thôn xóm xa vang lại tiếnggà gáy nho nhỏ. La, ngựa dậm chân, mũi thở phì phò qua chỗ rách của tấm bạt, lấp lánh mấyngôi sao. 

Anh trung niên ban ngày giúp đỡ ông La Hán nhẹ nhàng ngồi dậy. Mặc dù trong đêm tối,ông vẫn nhìn thấy đôi mắt của anh như hai quả cầu lửa. Biết người trung niên này lai lịchphi phàm, ông cứ nằm yên để xem anh ta làm gì. 

Anh trung niên quỳ bên cửa lán, hai cánh tay giơ lên, động tác rất chậm chạp ông nhìnlưng anh ta, nhìn cái đầu mang màu sắc thầm bí của anh ta. Anh ta lấy sức, nắm lấy hai câysắt, như gương cung kéo mạnh sang một bên. Luồng ánh sáng xanh từ trong mắt anh phátra, chạm vào vật như phát ra tiếng. Hai thanh sắt lặng lẽ tách ra, ánh đèn và ánh sao từngoài cửa lán rồi soi rõ chiếc giầy há mồm của ai đó. Bọn lính gác đi tuần quay lại ông nhìnthấy một bóng đen chạy vút ra ngoài lán, tên lính gác kêu "ớ" một tiếng, rồi lặng lẽ đổ xuốngdưới cánh tay sắt của anh trung niên. Anh trung niên nhặt lấy súng bộ binh của tên línhNhật, nhẹ nhàng chuồn thẳng.

 Một lúc sau ông già mới rõ chuyện gì đã xảy ra. Anh trung niên nguyên là một anh hùngvõ nghệ cao cường. Người anh hùng đã mở đường cho ông. Chạy thôi? Ông cẩn thận chuiqua cái lỗ, bò ra. Tên giặc Nhật chết nằm ngửa, một cẳng chân còn đang giật giật.

Ông bò vào ruộng cao lương, đứng thẳng người, đi theo rãnh nước, cố gắng trách chạmvào cây cao lương, không một tiếng động, đi tới bờ đê sông Mặc Thuỷ. Sao mai treo lơ lửngtrên bầu trời, màn đêm trước lúc rạng đông vẫn còn tối. Ánh sao lấp lánh dưới dòng sông.Ông lo lắng đứng trên bờ đê, người rét run lẩy bẩy, hàm răng lập cập cắm vào nhau, đau từcằm lên đến má, lên đến tai, và vết thương trên đầu đã làm mủ cũng đau nhức nhối. Khôngkhí tự do mang mùi sữa cao lương trong mát chui vào mũi, vào lá phổi, vào dạ dày ông. Haingọn đèn bão như lửa của ma quỷ toả sáng trong sương mù, chiếc lán làm bằng những chiếccọc gỗ trông như một nấm mồ to. Ông La Hán dường như không dám tin rằng, sao lại trốnđược một cách dễ dàng đến như thế. Chân ông đưa ông đến cây cầu gỗ nhỏ đã mục, cá dướinước đang quẫy, nước chảy róc rách, sao đổi ngôi vạch một đường sáng dài trên bầu trời.Dường như chưa phát sinh ra chuyện gì, chưa có' gì xẩy ra cả. Lẽ ra, ông La Hán có thể trốnvề làng ẩn náu, chữa khỏi vết thương và tiếp tục cuộc sống. Nhưng, khi đi trên cầu gỗ, bỗngnghe thấy tiếng kêu bên bờ nam có tiếng la kêu đau khổ. Để cứu con la trở về, ông La Hánđã làm nên một bi kịch tráng lệ. 

La và ngựa buộc ở mấy chục cây cọc cách lán không xa, thân mình chúng đầy phân vànước tiểu. Ngựa thở phì phì, la gặm cọc gỗ; ngựa nhai thân cây cao lương, la đang đái, ỉa. Ông La Hán vội vàng lao đến bầy la, ngựa. Ông ngửi thấy cái mùi thân thiết của hai con la đennhà mình, ông nhìn thấy bóng dáng quen thuộc của chúng. Ông lao tới, định cứu hai ngườibạn cùng chung hoạn nạn. Nhưng lũ la, chẳng biết gì cứ ngây nguẩy quay đít đi, tung hai vósau lên. Ông La Hán lẩm bẩm nói: 

- La đen ơi, la đen ơi, chúng ta cùng chạy trốn đi?

Lũ la tức giận quay bên phải rồi lại quay bên trái, như bảo vệ chỗ đứng của chúng.Chúng không còn nhận được ra chủ cũ nữa. 

Ông La Hán không biết rằng, mùi tanh của máu mới, máu cũ ở trên con người ông, vếtthương cũ và mới trên người ông đã biến ông thành một con người khác. Ông cuống quýt,xoạc chân lao tới, con la đá cho ông một cái vào háng. Ông bay nghiêng người ngồi dưới đất,nửa người đau điếng. Con la vẫn hếch mông đá tiếng, móng sắt trông như vầng trăng khuyếtsáng loáng. Xương háng ông già xưng to, đau ê ẩm. Ông bò dậy, ngã xuống, ngã xuống lại bòdậy. Con gà trống ở trong thôn xa gáy vang lên. Bóng đen lùi dần, sao mai toả sáng, soi rõmông đít và mắt con la óng ánh.

 - Hai con súc sinh này? 

Ông La Hán, nổi đoá lên, nghiêng nghiêng ngó ngó đi tìm vũ khí. Trên chỗ đào con kênh,ông tìm được một cái xẻng sắc. ông quên cả người và chó cách đấy một trăm mét, vừa đivừa chửi. Ông hết cả sợ, tự do tự tại Vầng hồng ở phương đông dần dần hiện ra tỏa ánh banmai. Trên cánh đồng cao lương trước lúc bình minh, im lặng đến độ không biết nổ tung rábất cứ lúc nào. ông La Hán ngược hướng ánh ban mai, đi tới phía hai con la đen. Ông căm haicon la đen đến tận xương tuỷ. ông La Hán cầm ngang' cái xẻng sắt, nhằm đúng chân sau conla phang một cái thật mạnh. Con la xiên xiên đảo đảo, rồi lập tức đứng vững lại, và rống lêngiận dữ, kinh ngạc. Rồi sau đó, con la bị thương hất mông lên, một vệt máu nóng như hạtmưa hắt ướt cả mặt ông già. ông già lại vung lên không trung phang nốt cái nữa vào chânsau còn lại của con la. Con la đen thở hắt ra một tiếng, hai chân khuỵu xuống, đặt bịch cáimông nặng xuống đất, hai chân trước vẫn còn đứng được, cổ bị giây thừng treo thẳng, mõmhếch lên trời xanh xám, tru réo lên. Chiếc xẻng bị mông la nặng đè chặt xuống, ông già cũngkhuỵu xuống theo. Ông ráng hết sức rút xẻng ra, ông thấy lưỡi chiếc xẻng như đính chặt vàoxương đùi của cơn la. Con la thứ hai kia ngơ ngác nhìn bạn mình ngã khuỵu, kêu rống lênnhư khóc, như van xin.

Ông già dựng thẳng chiếc xẻng lại dúi sâu vào người con la, con la dùng sức sức đẩyxẻng' ra, chiếc trạc tựa hổ như đứt, cây cọc kêu răng rắc, đôi mắt to bằng năm tay của nóánh lên một ánh sáng mầu lam xám xịt 

- Mày sợ à? Đồ súc sinh ? Uy phong của mày đâu? Đồ súc sinh! Mày là cái đồ vong ân bộinghĩa, ăn cháo đá bát! Mày là đồ chó lang chá, tư thông với nước ngoài. 

Ông La Hán giận dữ chửi bới, nhằm cái mặt vuông của con la đen mà giáng. Chẳng dèchiếc. xẻng cắm phập vào cọc gỗ, ông lắc lên lắc xuống, lắc phải lắc trái, mãi mới rút ra được.Con la đen vùng vẫy, chân sau, cong thành cánh cung, chiếc đuôi không lông quét xuống đấtkêu soàn soạt. ông lại nhằm trúng mặt con la đen, đập mạnh một cái nữa, trúng ngay vàotrán rộng con vật, xương đầu rắn chắc và lưỡi xẻng va vào nhau, xẻng bật ra, làm cánh tayông tê dại. Con la đen miệng ngậm chặt không rên la, đá hất lung tung, cuối cùng khôngchống đỡ được nữa, ầm một tiếng con vật lăn ra như một bức tường đổ. Chiếc trạc bị đứtđôi, một nửa còn dính ở cọc gỗ, một nửa quấn quanh mặt con vật. Ông già đứng lặng, xuôitay. Cán xẻng nhẵn bóng gác trên đầu la, chỉ lên trời. Đằng kia chó sủa, người huyên náo,cánh đồng cao lương phía đông đã rực lên ánh chiều dương đỏ như máu, ánh dương chiếuthẳng vào cái mồm đen xì hơi há của ông La Hán.


Bạn đang đọc truyện trên: truyentop.pro