Chương 4
Đoàn quân đi hàng chữ nhất lên bờ đê. Mặt trời hồng vừa chui từ trong sương mù ra chiếu vào người họ. Bố tôi cũng giống như mọi người, nửa mặt hồng, nửa mặt xanh, cùng họ đi xem từng đám sương mù còn sót lại trên mặt sông Mặc Thủy. Chiếc cầu đá mười bốn nhịp bắc ngang sông Mặc Thuỷ nối hai bờ nam bắc lại với nhau. Chiếc cầu gỗ nhỏ ngày xưa nằm phía tây chiếc cầu đá, mặt cầu đã gẫy mất dăm ba nhịp, mấy cây cột màu nâu còn trơ lại ở dưới sông, đứng ngăn từng đợt sóng trắng xanh. Mặt sông đã tan sương, đỏ đỏ xanh xanh, trông đến sợ. Đứng trên bờ sông, ngước mắt nhìn thấy bông cao lương bên bờ nam bát ngát bằng phẳng như một hòn đá mài khổng lồ. Chúng là những hoa văn bất động. Mỗi bông cao lương là một khuôn mặt chín đỏ, tất cả cao lương hợp thành một tập thể lớn mạnh, hình thành một tư tưởng sâu sắc... Bố tôi lúc ấy còn nhỏ, chưa nghĩ được những câu nói văn hoa dễ nghe như vậy. Đó là tôi nghĩ như thế.
Cao lương và người cùng đợi cái ngày đơm hoa kết trái
Đường cái thẳng tắp đi suốt về nam, càng xa càng hẹp, cuối cùng bị cao lương nuốt mất. Ở nơi xa nhất kia, cao lương ở đường chân trời xanh màu thép, khi mặt trời mọc, cũng hiện lên cảnh tượng thê lương, bi tráng rung động lòng người.
Bố tôi hơi hiếu kỳ, nhìn các đội viên du kích ngờ nghệch. Họ từ đâu đến? Họ đi về đâu?Vì sao lại đi đánh phục kích? Đánh phục kích xong rồi sẽ đánh cái gì? Trong yên lặng, nước sông bị cầu gẫy cản réo lên nhịp nhàng, âm thanh càng thêm réo rắt. Sương mù bị ánh dương đánh cho tơi bời rơi xuống nước. Nước sông Mặc Thủy từ màu đỏ sẫm biến thành màu đỏ rực. Khắp mặt sông nước chảy loang loáng. Bên hồ nước có một cây thủy hạnh cô độc, lá vàng rũ xuống, những chiếc kén côn trùng khô đét bám vào kẽ lá. Lại đến mùa bắt cua rồi! Bố tôi nghĩ, gió thu thổi, tiết trời lạnh, một đàn chim nhạn bay về phương nam... ông La Hán nói, bắt, Đậu Quan... Bắt ? Những chiếc càng xinh xắn của con cua in hoa văn lên lớp bùn mềm.
Bố ngửi thấy mùi tanh thoang thoảng đặc biệt của đàn cua ở dưới sông. Những cây hoa thuốc phiện nhà tôi trồng trước kháng chiến được bón bằng bã cua, hoa rất to, sắc màu rực rỡ, mùi thơm điếc cả mũi.
Tư lệnh Từ nói:- Tất 'cả xuống nấp dưới đê, anh câm đặt bừa cản giặc !
Ông câm bỏ mấy cuộn giây thép ở trên vai xuống buộc bốn cái bừa lại với nhau. Anh"be" một tiếng, gọi mấy đội viên lại, đem đặt bó bừa lên đường cái và gần cầu đá.
Tư lệnh Từ nói:
- Hô anh em, nấp cho kín đợi xe bọn Nhật lên cầu đợi người của chi đội Lãnh vây chặn đường rút lui của giặc, nghe lệnh tôi cùng khai hoả, tống bọn súc sinh xuống nước nuôi lươn và cua.
Tư lệnh Từ dùng tay ra hiệu cho anh câm, anh câm gật gật đầu, dẫn một nửa số người và súng, đến ruộng cao lương phía tây mai phục. Vương Văn Nghĩa định theo anh câm đi về phía tây, bị anh ta đẩy trở lại.
Tư lệnh Từ nói :- Anh đừng đi, anh theo tôi. Có sợ không?
Vương Văn Nghĩa gật đầu lia lịa, nói:- Không sợ. . . không sợ. . .
Tư lệnh Từ giao cho anh em nhà họ Phương đặt cỗ súng cối trên bờ sông. Hẳn ông nói với anh Lưu thổi kèn đang mang một cái kèn to:
- Anh Lưu, thấy ngọn lửa anh chẳng phải làm gì cả cứ ráng sức mà thổi kèn cho tôi, bọn giặc sợ kèn lắm, anh có biết không?
Lưu thổi kèn là bạn cũ của Tư lệnh Từ, lúc bấy giờ Tư lệnh Từ là phu khiêng đòn, Lưu là thợ thổi kèn, đánh trống. Anh ta hai tay nắm cái kèn như nắm cây súng vậy.
Tư lệnh Từ nói với mọi người:
- Đã nói thì nói cho hết, đến lúc . ấy ai mà tỏ ra sợ sệt thì coi chừng! Chúng ta phải đánh thế nào để cho chi đội Lãnh biết tay. Cái lũ chó chết ấy, chỉ lấy cờ hiệu ra dọa người. Lão đây không sợ đâu. Chúng muốn thay đổi lão? Lão lại muốn thay đổi chúng nó!
Mọi người vây lại trên ruộng cao lương, Phương Lục lấy tẩu ra hút thuốc, lấy đá ra đánh lửa. Lưỡi liềm đen, hòn đá lửa đỏ, trông giống như miếng gan gà đã luộc chín. Lưỡi liềm đập chan chát vào viên đá. Tàn lửa băn ra, tàn lửa rất to. Một tàn lửa to bén vào bùi nhùi làm bằng cây cao lương, Phương tục thổi phì phì, một luồng khói trắng bốc lên, rồi đỏ lừ. Phương Lục châm vào tẩu, rít một hơi. Tư lệnh Từ nhổ một bãi nước bọt.
Ông quyệt mũi, nói:
- Thôi đừng hút nữa, bọn giặc ngửi thấy mùi thuốc nó còn bước lên cầu?
Phương Lục rít vội hai hơi nữa, cất tẩu, gói thuốc lại. Tư lệnh Từ nói:
- Bây giờ ra bờ đê, nằm rải ra, kẻo bọn giặc đến lại trở tay không kịp.
Mọi người hơi hồi hộp, nằm trên đê, tay nắm chặt súng, như gặp địch đến nơi rồi. Bố nằm cạnh Tư lệnh Từ.
Tư lệnh Từ hỏi:
Có sợ không?
Bố nói :
- Không sợ!
Tư lệnh Từ:
- Tốt lắm, đúng là nòi giống của bố nuôi. Con là lính liên lạc của bố, đánh nhau không được xa bố, có lệnh gì bố bảo con, con sẽ truyền lệnh lại cho phía tây.
Bố gật gật đầu. ông thèm thuồng nhìn chằm chằm vào hai khẩu súng lục gài ở lưng Tư lệnh Từ. Một khẩu to, một khẩu nhỏ.
Khẩu to là khẩu súng côn của Đức, khẩu nhỏ là khẩu brô-ninh của Pháp. Hai khẩu này đều có lai lịch của chúng.
Miệng bố bật ra tiếng:
- Súng.
Tư lệnh Từ nói:
- Con cần súng.
Bố gật gật đầu, nói:
- Súng.
Tư lệnh Từ nói:
- Con biết, dùng không?
- Biết... - Bố nói.
Tư lệnh Từ rút từ trong lưng ra khẩu brô-ninh mân mê trong tay. Súng lục đã cũ, nước thép tôi đã hết. Tư lệnh mở quy lát, một viên đạn đầu tròn vàng óng ánh bắn ra, ông tung viên đạn lên cao, giơ tay bắt lấy, rồi lại nhét vào súng.
- Cho con ! - Tư lệnh Từ nói - Con dùng cũng như bố dùng.
Bố vồ ngay lấy. Bố nắm chặt súng, nhớ lại tối hôm kia, Tư lệnh Từ đã dùng khẩu súng này bắn vỡ tan cốc rượu.
Lúc bấy giờ trăng lưỡi liềm vừa mọc, như đè cành cây khô xuống thấp. Bố ôm nậm rượu, cầm chiếc chìa khoá đồng, theo lệnh của bà đến lò rượu lấy rượu. Bố mở cửa lớn, trong sân im ắng, trong chuồng la tối om om, nơi nấu rượu toả ra mùi bã rượu chua chua! Bố mở nắp một chum, nhờ ánh sáng trăng sao bố như thấy khuôn mặt gầy gò của mình trên mặt rượu trong phẳng lặng. Bố lông mày ngắn, môi mỏng, ông thấy mình rất xấu. Bố dìm nậm rượu vào trong chum rượu chảy ồng ộc vào nậm. Khi nhấc nậm rượu ra, giọt rượu trên nậm rơi tong tong vào chum. Bố thay đổi ý định, lại đổ rượu vào chum. Bố nhớ đến cái chum rượu mà bà tôi đã rửa mặt đầy máu vào đấy. Bà ở nhà tiếp rượu Tư lệnh Từ và chi đội trưởng Lãnh, bà và Tư lệnh Từ tửu lượng rất cao, còn chi đội trưởng Lãnh thì đã hơi say. Bố đi đến cái chum rượu ấy nhìn thấy trên nắp chum có đè nắp hòn đá mài. Ông đặt nậm rượu xuống,ráng sức hất hòn đá mài đi. Hòn đá lăn hai vòng trên mặt đất, va vào một cái chum rượu khác, thành chiếc chum này vỡ một miếng tướng, rượu cao lương chảy ra xối xả, nhưng bố cứ mặc kệ. Bố mở nắp chum, ngửi thấy mùi máu tanh của ông La Hán. Bố nhớ lại cái đầu đầy máu của ông La Hán và mặt đầy máu của bà. Mặt ông La Hán và mặt bà chồng lên nhau ở trong chum. Bố ấn nậm rượu vào trong chum, lấy đầy rượu máu, hai tay bê trở về nhà.
Trên bàn bát tiên, đèn khêu to và sáng Tư lệnh Từ và chi đội trưởng Lãnh, bốn mắt nhìn nhau chằm chằm, mồm thở phì phò. Bà đứng giữa hai người, tay trái bà ấn súng lục tự động của chi đội trưởng Lãnh, tay phải ấn khẩu súng lục brô-ninh của Tư lệnh Từ.
Bố nghe thấy bà nói:
- Không chơi với nhau được nữa thì cũng để lại một chút ân tình. Đây không phải là nơi động dao, động súng, có giỏi thì đi mà đánh bọn Nhật ấy.
Tư lệnh Từ giận dữ mắng:
- Chú em, chú định mang cờ hiệu của họ Vương ra, doạ không nổi lão đâu. Lão đây chính là vua trên địa bàn này, đã tung hoành ở đây mười năm rồi, còn sợ gì bọn tay chân của họ Vương nữa?
Chi đội trưởng Lãnh cười lạnh lùng, nói:
- Anh Chiếm Ngao ạ, em đây cũng chờ mong làm tốt cho ông anh, tộc trưởng Vương cũng mong làm tốt ho ông anh. Chỉ cần ông anh cuốn cờ lại, sẽ cho ông anh làm tiểu đoàn trưởng. Súng và lương thực sẽ do Vương tộc tưởng phát, còn hơn là ông làm thổ phỉ.
- Ai là thổ phỉ? Ai không là thổ phỉ? Ai đánh được quân Nhật tức là đại anh hùng Trung Quốc. Lão ấy năm ngoái đã bắt được ba thằng lính gác Nhật Bản, thu được ba khẩu súng. Chi đội anh không phải là thổ phỉ, nhưng giết được. mấy tên giặc? Không nhổ được cái ông của chúng nó !
Chi đội trưởng Lãnh ngồi xuống, rút một điếu thuốc châm lửa hút. Nhân dịp này, bố tôi bưng nậm rượu ra, bà đón lấy nậm rượu, bỗng biến sắc mặt, giận dữ nhìn bố tôi một cái. Bà rót rượu vào ba bát, bát nào cũng đầy như có ngọn.
Bà nói:
- Rượu đây có máu của chú La Hán, là những người đàn ông nên uống đi, rồi sau này cùng đi mà đánh xe giặc Nhật. Sau đây, các anh mỗi người một ngả, gà đi đằng gà, chó đi đằng chó, chẳng đụng chạm đến nhau nữa.
Bà bê bát rượu, uống cạn ừng ực. Tư lệnh Từ bê bát rượu, ngửa cổ đổ vào.
Chi đội trưởng Lãnh bê bát rượu uống một nửa, đặt bát xuống, nói:
- Tư lệnh Từ, đàn em tửu lương kém, xin cáo từ!
Bà ấn lên khẩu súng tự động của chi đội trưởng Lãnh, hỏi:
- Đánh hay không đánh?
Tư lệnh Từ tức giận nói:
- Cô đừng nài, ông ta không đánh, lão đây đánh!
Chi đội trưởng Lãnh nói:
- Đánh.
Bà buông súng ra, chi đội trưởng Lãnh giật lấy súng lục tự động, giắt vào lưng.
Chi đội trưởng Lãnh, mắt mũi trắng trẻo, quanh mũi có mười mấy nết rỗ đen. Ở thắt lưng ông ta còn có một băng đạn lớn, giắt súng vào, thắt lưng trễ vòng xuống trông như trăng lưỡi liềm.
Bà nói:
- Chiếm Ngao, tôi giao thằng Đậu Quan cho anh đấy hôm sau anh mang nó đi.
Tư lệnh Từ nhìn bố tôi, cười hỏi:
- Con nuôi ơi, có gan không?
Bố nhìn Tư lệnh Từ một cách khinh thường, giữa đôi môi lộ ra hàm răng rắn chắc như đất vàng, không nói một câu.
Tư lệnh Từ cầm lấy cốc rượu, đặt lên đỉnh đầu bố tôi bảo bố tôi đi ra phía cửa đứng yên, ông cầm khẩu brô-ninh đi đến góc tường.
Bố thấy Tư lệnh Từ bước ba bước về phía góc tường, bước rống và khoan thai. Bà sợ xanh mắt. Trên mép chi đội trưởng Lãnh nở nụ cười chế giễu.
Tư lệnh Từ đi đến góc tường, đứng nguyên, bỗng quay phắt người lại thật nhanh, bố nhìn thấy cánh tay ông giơ lên, đôi mắt như rực lửa. Họng khẩu brô-ninh nhả ra làn khói trắng. Một tiếng nổ đanh trên đầu bố, cốc rượu vỡ tan Một mảnh sành nhỏ rơi tạt vào cổ bố, ông lắc đầu một cái, mảnh sành kia rơi tọt vào trong quần Bố không nói gì. Mặt bà càng tái xanh tái mét. Chi đội trưởng Lãnh ngồi bệt đít trên chiếc ghế băng, một lúc sau mới nói:
- Bắn cừ thế!
Tư lệnh Từ nói:
- Thằng nhỏ khá lắm.
***
Bố cầm lấy khẩu brô-ninh, thấy rất nặng.
Tư lệnh Từ nói:
- Không cần dạy, con cũng biết bắn như thế nào rồi. Truyền lệnh cho anh câm, bảo họ chuẩn bị!
Bố tôi xách súng lục, luồn qua ruộng cao lương, chạy đến trước mặt anh câm. Anh câm ngồi chắp bằng, đang mài thanh mã tấu bằng một hòn đá xanh nhẵn. Các đội viên khác người ngồi, kẻ nằm.
Bố tôi nói với anh câm:
- Bảo các anh chuẩn bị ngay.
Anh câm liếc mắt nhìn bố, vẫn tiếp tục mài dao. Mài một lúc, anh vò mấy chiếc lá cao lương chùi bột đá trên lưỡi dao, đoạn lấy một chiếc lá cỏ thử dao xem đã sắc chưa. Vừa đưa chiếc lá cỏ vào lưỡi dao. đã đứt làm đôi.
Bố lại nói:
- Bảo các anh chuẩn bị mà?
Anh câm tra mã tấu vào vỏ, để bên cạnh. Mắt anh hiện ra một nụ cười dữ dằn anh giơ một cánh tay to mập vẫy gọi bố. "Be! Be!" - anh câm nói.
Bố nhẹ nhàng bước tới, cách anh câm chừng một bước thì dừng lại. Anh câm với người ra túm được vạt áo của bố kéo mạnh, bố ngã vào lòng anh câm. Bố lấy khẩu brô-ninh nện vào sống lưng anh câm. Anh câm nắm lấy mũi bố, rồi vặn một cái, nước mắt bố trào ra. Anh câm cười ré lên một cách tinh quái.
Những đội viên ngồi chung quanh anh câm cũng cười ré lên.
- Có giống Tư lệnh Từ không?
- Con của Tư lệnh Từ mà lại.
- Đậu Quan, tớ muốn lấy mẹ đằng ấy...
- Đậu Quan, tớ muốn ăn hai chiếc bánh dày của mẹ đằng ấy.
Bố thẹn phát khùng lên, gương súng chĩa vào kẻ vừa nói muốn ăn bánh dày mà bắn.Súng kêu đến cách một tiếng, nhưng đạn không nổ, vẫn nằm yên trong ổ.Anh chàng bị bắn, nét mặt hốt hoảng, vội nhảy đến giằng lấy súng của bố. Bố giận xung thiên lao đến người kia, vừa đá vừa cắn.
Anh câm túm lấy cổ bố quăng mạnh, người bố hay ra xa, rơi xuống làm nát mấy cây cao lương. Bố lộn mấy vòng, bò dậy, ngoác mồm ra chửi và định lao tới anh câm. Anh câm "Be, be" hai tiếng. Bố thấy mặt anh ta tím bầm, bèn đứng lại không xông lên nữa. Anh câm cầm lấy khẩu brô-ninh, tháo cò, bấm một viên đạn văng ra rơi vào tay anh ta. Anh ta mân mê viên đạn, nhìn cái lỗ nhỏ ở đít viên đạn, nơi kim hoả nổ vào, rồi làm hiệu với bố. Anh câm giắt súng trả vào lưng bố, rồi vỗ vỗ vào đầu bố.
- Con gây chuyện gì bên đó?
- Tư lệnh Từ hỏi .
Bố oan ức nói:
- Bọn nó... muốn ngủ với mẹ con.
Tư lệnh Từ nghiêm sắc mặt hỏi:
- Con trả lời sao?
Bố giơ tay quyệt mắt, nói:
- Con bắn cho nó một phát.
- Con bắn à?
- Nhưng đạn không nổ. - Bố đưa viên đạn vàng óng ánh đầy mùi thuốc súng cho Tư lệnh Từ.
Tư lệnh Từ cầm lấy viên đạn, xem một lúc, rồi nhẹ nhàng quăng đi, viên đạn bay một đường cong rất đẹp rồi rơi tõm xuống nước.
Tư lệnh Từ nói :- Khá lắm ? Súng trước tiên dùng để đánh quân Nhật đã, đánh hết quân Nhật rồi, nếu kẻnào còn dám mở mồm nói muốn ngủ với mẹ con, con hãy bắn vào bụng dưới của nó. Đừngbắn vào đầu, cũng không nên bắn vào ngực, nhớ chưa, bắn vào bụng dưới.
Bố nằm phủ phục bên người Tư lệnh Từ. Bên phải Tư lệnh là anh em nhà họ Phương.Khẩu súng cối đặt trên bờ sông, nòng súng chĩa về phía cầu đá. Nòng súng nút bằng một nắm bông. Phía sau khẩu súng cối là sợi dây dẫn hoả. Bên cạnh Phương Thất, có một cái bùi nhùi bện bằng lõi cây cao lương, có một sợi đang cháy. Bên cạnh Phương Lục có đặt một quả bầu thuốc nổ, và một thùng sắt tây đựng đầy viên bi thép.
Bên trái Tư lệnh Từ là Vương Văn Nghĩa, anh ta nắm chặt khẩu súng bắn chim, nằm vo tròn lại. Máu tai đã khô cứng kết dính với băng trắng.
Mặt trời đã lên cao bằng cây sào. Phần chính giữa mặt trời sáng trắng, vành ngoài đỏ nhạt. Nước sông sáng như gương, một đàn vịt trời từ cánh đồng cao' lương bay đến, lượn ba vòng, già nửa đàn sà xuống bụi cỏ bên bãi sông, số còn lại bay xuống mặt. sông, trôi lềnh bềnh. Những con ở dưới sông, thân không động đậy, chỉ có chiếc cổ và đầu đảo đi đảo lại. Người bố rất ấm, áo quần đẫm sương đã khô rồi. Nằm một hội lâu, ngực bố đau như có hòn đá cộm ở dưới, bèn ngồi dạy, đầu và ngực nhô cao khỏi mặt đê. Tư lệnh Từ quát:
- Nằm xuống - Bố miễn cưỡng nằm xuống.
Phương Lục ngáy o...o... Tư lệnh Từ vê nắm đất ném vào mặt Phương Lục. Phương Lục nửa tỉnh, nửa mê ngồi dạy, ngáp một cái rõ dài, hai giọt nước mắt chảy ra.
- Bọn giặc Nhật đến rồi hả? - Phương Lục hỏi to.
- Đ. mẹ anh! - Tư lệnh Từ nói. - Không được ngủ.
Mạn nam và bắc dòng sông im lặng không một tiếng động, con đường cái rộng nằm như chết trong ruộng cao lương. Chiếc cầu đá to bắc qua sông trông đến đẹp Cao lương mênh mông đón ánh dương càng cao càng rực rỡ, hồng hào như mặt cô gái quá xấu hổ. Đàn vịt trời đang ở chỗ nước cạn, những chiếc mỏ bẹt đang mò cái gì, phát ra những tiếng kẹp kẹp. Bố hướng về đàn vịt trời, mắt chăm chú nhìn lông vũ đẹp đẽ và mắt lanh lợi của chúng. ông nâng khẩu brô-ninh nặng nề lên, nhằm vào lưng bằng phẳng của con vịt. Xuýt nữa thì ông bóp cò, Tư lệnh Từ kịp ấn tay ông xuống, nói:
- Thằng nhỏ này, mày định làm gì đấy?
Bố cảm thấy bồn chồn bứt rút khó chịu, con đường vẫn nằm im khô chết.Cao lương càng thêm đỏ.
- Thằng cha Lãnh là đồ súc sinh? Hắn cả gan lừa ta một vố! - Tư lệnh Từ giận nói.
Bên bờ nam vẫn im ắng. Chi đội của lão Lãnh không thấy một mống nào. Bố biết được tin xe bọn Nhật sẽ đi qua đường này là qua chi đội của lão Lãnh đấy chứ. Chi đội Lãnh sợ một mình không đánh nổi, mới đến hợp đồng với đội của Tư lệnh Từ.
Trải qua giờ phút căng thẳng, bố cảm thấy mệt mỏi rã rời. ánh mắt của ông cứ bị hấp dẫn hoài bởi đàn vịt trời. ông nhớ lại hồi cùng ông La Hán đi săn vịt trời. Ông La Hán có một khẩu súng bắn chim, báng đỏ sẫm, dây đeo bằng da bò. Khẩu súng này Vương Văn Nghĩa đang giữ.
Mắt bố rơm rớm lệ, nhưng kìm lại được chưa tràn ra khỏi hốc mắt. Như ngày nào năm ngoái. Trong ánh lắng ấm áp, bố cảm thấy có một luồng khí lạnh ghê người tràn khắp người.
***
Ông La Hán và hai con la bị bọn giặc Nhật và bọn lính ngụy bắt đi; bà rửa mặt đầy máu trong chum rượu. Mặt bà hồng hào thơm mùi rượu, mắt hơi xưng xưng, ngực áo vải tây màu trắng ngà ướt đầm những máu và rượu. Bà đứng lặng bên chum, nhìn chằm chằm vào rượu trong chum. Mặt bà in bóng trong chum rượu. Bố nhớ rằng, bà quỳ phủ phục xuống, vái chum rượu ba vái. Rồi bà đứng đậy, dùng hai tay vục rượu đưa lên uống. Mặt bà hồng hào, nhưng chỉ tập trung ở hai gò má, còn trán và cằm đều trắng bệch nhợt nhạt.
- Quỳ xuống - Bà ra lệnh cho bố
- Cúi đầu chào?
Bố quỳ xuống cúi đầu chào.
- Vục rượu uống!
Bố vục rượu uống.
Từng dòng máu nhỏ như sợi chỉ chảy xuống chìm trong chum rượu. Một đoá mây trắng in bóng trong chum rượu, bộ mặt trang nghiêm của bà và bố cũng lay động trong đó. Đôi mắt nhỏ của bà phát ra tia sáng như muốn đốt cháy người, bố không dám nhìn. Tim bố đập thình thình, lại thò tay vào vục rượu trong chum, rượu lọt qua kẽ tay rơi xuống làm vỡ bóng mây trắng trên trời xanh và bóng mặt bà, mặt bố. Bố lại uống một ngụm rượu nữa, một mùi máu tanh đính ở đầu lưỡi. Những tia máu đều chìm xuống đáy chum, chỗ lồi lên của đáy chum tụ thành một khối cặp đục to bằng nắm tay. Bố và bà nhìn vào chum hồi lâu. Bà dùng sức kéo từ góc tường ra một cái nắp đậy lên chum.
- Đừng có động vào đấy nhá. - Bà nói
Bố nhìn đất bùn ướt nhão và những con bọ động đậy trên khe nắp gật đầu sợ hãi.
Đêm ấy, bố nằm trên chiếc giường con của mình, nghe tiếng chân bà đi đi lại lại ở trong sân. Tiếng chân lạch bạch của bà hoà với tiếng sột soạt của cao lương ngoài cánh đồng dệt nên giấc mộng rối bời của bố. Bố nghe thấy trong mộng có tiếng hai con la đen mượt của nhà mình.
Sớm tinh mơ, bố dậy, chân đất chạy ra sân đi tiểu, thấy bà vẫn còn đứng chằm chằm nhìn bầu trời bao la. Bố gọi, bà vẫn không thưa. Ông đi tiểu xong, túm tay bà lôi vào nhà. Bà mệt mỏi theo bố quay vào trong nhà. Vừa vào đến nhà, bỗng nghe từ phía đông nam vọng đến tiếng ồn ào như sóng vỗ, tiếp liền sau là tiếng súng rất đanh như lưỡi dao sắc cắt đứt một tấm lụa.
Nơi bố nằm phục kích bây giờ, lúc trước xếp đầy những tảng đá dài và đá cục trắng tinh,từng đống cát vàng xếp trên đê trông như những nấm mồ. Năm ngoái đầu mùa hạ cao lương ngoài đê nặng nề lo lắng, ngẩn ngơ. Dưới đám cao lương bị trục lăn đè dí hiện lên lờ mờ con đường cái đi thẳng về phương bắc. Lúc bấy giờ cầu đá lớn chưa xây, chiếc cầu gỗ nhỏ bị hàng nghìn vạn '. chân của con người và lừa ngựa dẫm đạp gẫy vụn nát nhừ. Những cây mạ cao lương bị dẫm nát toả ra mùi thơm hăng hắc, sương đêm ướt đẫm, sáng mai mùi thơm càng sực nức. Cao lương khắp cánh đồng đều khóc thảm thiết.
Sau tiếng súng bố và bà vừa nghe thấy không lâu, thì biết bao nhiêu là người già yếu, phụ nữ trẻ em đều bị quân Nhật dồn đến đây. Bây giờ mặt trời, vừa lên khỏi ngọn cao lương, bố, bà và dân chúng đứng bên tây đường bờ nam con sông, chân dẫm lên những thân cây cao lương. Bà và bố nhìn thấy cái lán to trông như chuồng ngựa, đám dân phu quần áo rách bươm đang đứng bên ngoài lán. Sau đó, hai tên lính ngụy lại càn đám dân phu sang phía tây con đường cùng với dân chúng, lập thành một đoàn riêng. Trước mặt bà, bố và dân phu chính là bãi nhốt lừa ngựa mà sau này rất rùng rợn. Mọi người đứng trở ra ở đấy,không biết bao nhiêu lâu mãi sau mới thấy một tên sĩ quan Nhật vai đeo băng đỏ, lưng đeo thanh kiếm, dắt một con chó béc-giê, tay đi găng trắng, mặt mũi xanh xao từ trong lều bạt đi ra. Đi sau hắn là con chó béc-giê thè lè cái lười đỏ hỏn, đi sau con chó là hai tên lính ngụy khiêng thi thể một lính Nhật đã được bó cứng, và sau cùng là hai tên lính Nhật áp giải ông già La Hán, người đầy máu không đi vững phải có hai tên lính ngụy đi dìu hai bên. Bố tôi đứng nép vào bà, bà ôm chặt lấy bố.
Viên sĩ quan Nhật dắt chó, dừng lại ở bãi đất trống gần chỗ nhốt lừa, ngựa. Hơn năm chục con chim trắng từ dưới sông Mặc Thuỷ vỗ cánh bay len, bay vào khoảng trời xanh biếc trên đầu mọi người đang đứng, rồi lại rẽ về phía đông, bay về hướng mặt trời óng ánh như vàng. Bố nhìn thấy đàn gia súc, bẩn thỉu trên bãi, nhìn thấy hai con la đen của nhà mình đang nằm trên đất. Một con đã chết, trên đầu nó còn cắm chiếc xẻng. Cao lương rập nát và khuôn mặt đáng yêu của con la máu đen nhuộm bẩn ghê gớm. Còn con kia ngồi dưới đất,đuôi đầy máu quét xuống đất, da bụng dày run lên bần bật. Hai lỗ mũi phập phồng phát tiếng như thổi còi. Bố vô cùng yêu quý hai con la đen này. Bà đã từng ưỡn ngực, cao đều cưỡi trên lưng con la, bố cũng trèo lên ngồi trong lòng bà, hai người cho la chạy trên cánh đồng cao lương, la chạy sóc lên sóc xuống khiến hai người đảo đi đảo lại xuýt ngã. Vó la xinh xắn làm tung bụi đường. Bố khoái chí la hét loạn xạ. Những người nông dân đứng thưa thớt trong ruộng cao lương tay cầm cuốc hoặc một nông cụ nào đấy, giương mắt nhìn khuôn mặt trắng trẻo xinh xắn của bà tôi, nữ chủ hiệu buôn mà tỏ ra ghen ghét căm giận.
Hai con la đen to nhà tôi, một con chết nằm còng queo trên đất, môi miệng nứt toác, hàm răng to, vuông vức trắng bong đang gặm đất. Còn con kia tuy còn đó nhưng còn khổ hơn cả chết. Bố nói với bà:
- Mẹ ơi, con la nhà ta?
Bà tôi vội bịt miệng bố tôi.
Thi thể của tên lính Nhật được đặt trước mặt tên sĩ quan Nhật đeo kính dắt chó. Hai tên lính ngụy lôi ông La Hán đầy máu me đi đến chiếc cột buộc ngựa. Bố vẫn chưa nhận ra ông La Hán. Bố chỉ thấy đó là một quái vật hình người bị đánh đập nhừ tử!
Đầu ông lúc vẹo sang bên trái, lúc vẹo sang bên phải, máu trên đầu vẫn ri rỉ chảy xuống đất như bùn bóng loáng ở ven sông, bị mặt trời làm khô nứt nẻ như chân chim. Hai chân ông khua khoắng trên mặt đất, vẽ lên đất những vật vòng vèo gẫy khúc. Mọi người lặng lẽ co cụm lại bố cảm thấy bàn tay bà ấn mạnh xuống vai mình. Tất cả mọi người đều trở thành thấp bé, người thì mặt lấm đất vàng, người thì mặt lấm bùn đen. Có một lúc tiếng chim bỗng im bặt, nghe rõ tiếng thở phì phò của con chó, và tiếng rắm của viên sĩ quan Nhật dắt chó. Bố nhìn thấy tên lính ngụy lối con quái vật hình người đến trước một cái cột buộc ngựa khá cao, hắn thả tay, con quái vật như một đống thịt róc hết xương đổ sụp xuống đất
Bố thất thanh kêu:
- Ông La Hán !
Bà lại bịt lấy mồm ông.
Ở dưới cột ông La Hán từ từ động đậy, trước tiên ông chổng mông lên, tạo thành hình chiếc cầu cong, rồi hai đầu gối quỳ, hai tay áp xuống mặt đất, đầu ngẩng lên. Mặt ông lão sưng mọng, đôi mắt như hai kẽ hở nhỏ, hai tia sáng xanh sẫm phát ra từ trong hai kẽ mắt ấy. Bố đứng đối diện với ông La Hán, bố tin rằng ông già nhất định là nhìn thấy mình. Khí quản trong lòng ngực bố đập phình phình, không rõ là kinh sợ hay phẫn nộ. Bố muốn gào thật to,nhưng tay bà tôi đã bịt chặt lấy miệng ông.
Viên sĩ quan Nhật tay dắt chó quát tháo mọi người. Một người Trung Quốc tóc húi cua,dịch lời viên sĩ quan Nhật cho mọi người nghe.
Bố không nghe được hết lời của tên thông ngôn. ông bị bà bịt miệng chặt đến nỗi, mắt hoa lên tai kêu ong ong.
Hai người Trung Quốc mặc áo đen lật hết quẩn áo ông La Hán, đoạn trói ông vào cọc gỗ.Tên sĩ quan Nhật khoát khoát tay, lại hai thằng mặc áo đen dẫn Tôn Ngũ, người trong thôn chúng tôi và cũng là một tay mổ lợn nổi tiếng của vùng Đông bắc Cao Mật, từ trong lán gỗ đi ra, bọn chúng vừa đi vừa đẩy tên đồ tể.
Tôn Ngũ người thấp bé, mình nung núc những thịt, bụng như cái trống, đầu trọc long lóc, mặt mũi đỏ lừ Khoảng cách giữa hai con mắt tí hí rất ngắn, mắt chìm sâu ở hai bên mũi. Tay trái hắn cầm con dao bầu, tay phải xách thùng nước lã, lẩm bẩm đi tới trước mặt ông già La Hán.
Viên thông ngôn nói:
- Quan lớn bảo, róc cho khéo, róc không khéo sẽ cho chó béc-giê cắn mày.
Tôn Ngũ vâng vâng dạ dạ, mí mắt chớp lia lịa.
Hắn ngậm con dao vào miệng, nhấc thùng nước dội lên đầu ông La Hán. Bị dội nước lạnh, ông La Hán bỗng ngẩng đầu lên, nước máu chảy xuống mặt, xuống cổ, chạy xuống chân bẩn ngầu. Một tên đốc công xách một thùng nước từ sông lên, Tôn Ngũ lấp miếng giẻ rách nhúng vào nước, lau sạch sẽ người ông La Hán. Hắn lau ông già xong, ngoáy mông đít, nói:
- Ông anh ạ...
Ông La Hán nói:
- Người anh em, hây đâm cho ta một nhát. Ở dưới suối vàng ta sẽ không quên ân đức của người anh em.
Viên sĩ quan Nhật gầm gừ lên một tiếng.
Viên thông ngôn nói:
- Mau làm đi!
Tôn Ngũ biến sắc, thò ngón tay dùi đục, nắm lấy tai ông già, nói:
- Ông anh đàn em không có cách gì...
Bố nhìn thấy con dao của Tôn Ngũ thiến vào tai ông già như cưa cây gỗ vậy. Ông La Hán kêu rống lên không ngớt, một dòng nước đái vàng khè vọt ra từ giữa hai đùi ông. Chân bố run lên cập cập. Một tên lính Nhật bưng đĩa sứ trắng đi đến, đứng cạnh Tôn Ngũ. Tôn Ngũ đạt chiếc tai dài của ông La Hán vào chiếc đĩa sứ. Tôn Ngũ lại cắt nốt tai kia rồi đặt vào đĩa. Bố thấy hai chiếc tai ở trong đĩa vẫn còn run rẩy và đập mạnh vào đĩa phát ra tiếng kêu pinh pinh.
Tên lính Nhật bê chiếc đĩa sứ đi chầm chậm qua trước mặt bọn dân phu và trẻ già trai gái. Bố thấy đôi tai đẹp của ông già đã tái nhợt, nhưng vẫn nhảy nhảy ở trong đĩa.
Tên lính Nhật bê đĩa tai đến trước mặt viên sĩ quan Nhật, tên này gật gật đầu. Rồi hắn đặt đĩa tai kia bên cạnh cái xác lính Nhật, đứng im lặng chốc lát, đoạn lại bê đến đặt dưới mõm con chó béc-giê.
Con chó béc-giê rụt lưỡi lại, chiếc mũi nhọn và đen ngửi ngửi hai cái tai. Nó bê đầu, rồi lại thè lưỡi ra, ngồi xuống đất.
Tên thông ngôn nói với Tôn Ngũ:
- Này, cắt nữa đi ?
Tôn Ngũ đi vòng quanh tại chỗ, miệng lẩm bẩm những gì không rõ. Bố thấy hắn mặt đầy mồ hôi, mắt chớp lia lịa như con gà mổ thóc. Chỗ cuống tai bị cắt của ông La Hán chỉ chảy mấy giọt máu. Mất tai bộ mặt ông già trở nên trần trụi kỳ dị.
Tên sĩ quan Nhật lại gào lên một tiếng.
Tên thông ngôn nói:
- Cắt mau đi !Tôn Ngũ cúi xuống, đưa dao cắt bộ phận sinh dục của ông La Hán, đặt vào chiếc đĩa sứtên lính Nhật đang cầm. Tên lính Nhật giơ hai cánh tay cứng cáp ra, hai mắt nhìn thẳng, như một tượng gỗ đi đến trước đám dân chúng. Bố cảm thấy ngón tay lạnh giá của bà nhún sâuvào bả vai ông. Tên lính Nhật đặt chiếc đĩa trước mặt con chó béc-giê, nó ngậm lấy rồi lại nhả ra.
Ông La Hán gào thét dữ dội, tấm thân gầy giơ xương dẫy dụa rất mạnh trên cột buộc ngựa.
Tôn Ngũ quẳng dao đi quỳ xuống đất, gào khóc rất to. Viên sĩ quan Nhật thả giây da ra,con chó béc-giê lao đến, hai chân trước nó chồm lên vai Tôn Ngũ, nhe hàm răng nhọn hoắt trước mặt Tôn Ngũ. Tôn Ngũ nằm lăn ra đất, hai tay ôm lấy mặt.
Viên sĩ quan Nhật huýt sáo, con chó béc-giê kéo lê dây da chạy trở lại.
Tên thông ngôn quát:
- Cắt mau!
Tôn Ngũ bò dậy cầm lấy dao, bước thấp bước cao đi đến trước mặt ông La Hán.Ông La Hán ngoác mồm chửi lớn, tiếng chửi của ông làm cho tất cả mọi người ngẩng lên.
Tôn Ngũ nói:
- Ông anh... Ráng chịu nhé...
Ông La Hán phùng má phun máu vào mặt Tôn Ngũ.
- Cắt tiên sư mày, cắt đi.
Tôn Ngũ lại cầm lấy dao, tiếp tục lột da bắt đầu từ vết thương trên đầu ông lột xuống, tiếng dao kêu soàn soạt Hắn lột rất tỉ mỉ. Da đầu ông La Hán tụt xuống. Lộ ra đôi mắt tím xanh. Lộ ra từng tảng thịt...
Bố kể với tôi rằng, sau khi da mặt bị lột hết cái mồm không thành hình cái mồm của ông La Hán vẫn phát ra những tiếng ồ ồ; từng giọt máu đỏ tươi vẫn từ trên đầu giỏ xuống. Tôn Ngũ không còn là con người nữa, hắn dùng dao điệu nghệ thế, lột cả tấm da người mà không sót một chỗ nào. ông già bị lột hết da biến thành một cục thịt, ruột ở trong bụng chuyển động co vào rãn ra, từng đàn nhặng xanh bay kín trời. Đàn bà con gái đều quỳ xuống đất, khóc động trời dậy đất. Đêm hôm ấy trời đổ mưa to, rửa sạch vết máu trên bãi buộc ngựa, xác và da của ông La Hán biến đâu mất. Tin xác ông La Hán biến mất truyền đi trong xóm, một truyền mười mười truyền trăm, đời này truyền đời khác, và biến thành một câu chuyện thần thoại đẹp đẽ.
***
'Nếu hắn dám trêu tức lão, thì lão lấy sọ hắn làm nồi đựng nước đái cho mà xem". Mặt trời càng cao càng nhỏ, toả nắng sáng trong làm khô những giọt sương trên ngọn cao lương, từng đàn vịt trời bay đi. Người của chi đội Lãnh vẫn chưa tới. Trên đường cái, thỉnh thoảng có con thỏ rừng chạy qua, ngoài ra không còn mật động vật nào nữa. Về sau có thêm con cáo màu lửa đỏ lấm le lấm lét chạy qua. Tư lệnh Từ chửi chi đội trưởng Lãnh xong, hét :
- Thôi đứng dậy! Tám phần mười là chúng ta mắc lừa thằng Lãnh mặt rỗ chó chết rồi?
Các đội viên năm phục mãi mệt lắm rồi, chỉ mong lời nói này của Tư lệnh Từ. Lệnh vừa truyền ra, tất cả mọi người đều đứng cả dậy. Người thì ngồi trên đê đánh lửa hút thuốc,người thì đứng trên đê ra sức mà dặn đái
Sau khi trèo lên bờ đê, bố vẫn còn nhớ đến những chuyện năm ngoái. Chiếc đầu bị lột hết da của ông La Hán vẫn không ngừng hiện ra trước mắt bố. Mọi người bỗng nhiên kéo ồ ra, làm đàn vịt trời kích động bay cả ra, rồi lại đậu xuống ven sông xa xa, chúng đi lắc lư,lông biếc lục và lông vàng nâu lấp loáng trong bụi cỏ.
Anh câm xách mã tấu của anh ta và súng bộ binh của lão Dương đi đến trước mặt Tưlệnh Từ. Sắc mặt anh câm khô héo, con người mắt trố ra. Anh giơ tay chỉ mặt trời: mặt trời hửng lên ở phía đông nam; hạ tay chỉ con đường: đường vắng tanh; anh câm chỉ vào bụng, kêu "be be", rồi vung cánh tay chỉ thẳng vào hướng trong làng. Tư lệnh Từ trầm ngâm một lúc, nhìn về phía những người ở phía tây đường cái, hét:
- Tất cả đến đây!Các đội viên vượt qua đường, tập hợp trên bờ đê.
Tư lệnh Từ nói:
- Hỡi các anh em, thằng Lãnh mặt rỗ mà cả gan lừa ta, ta sẽ. đập vỡ sọ hắn ra! Trời còn chưa sáng rõ, đợi một lát nữa, đợi đến trưa mà xe địch không đến, thì chúng ta lao về đầm nhà họ Đàm để tính sổ với thằng Lãnh mặt rỗ. Anh em hãy vào ruộng cao lương nghỉ ngơi, tôi sẽ sai Đậu Quan đi giục cơm. Đậu Quan!
Bố nghểnh mặt về hướng Tư lệnh Từ.
Tư lệnh Từ nói:
- Về bảo mẹ con làm ít bánh tráng đến trưa phải mang ra. Bảo mẹ con tự đưa đến!
Bố tôi gật đầu, xốc lại quần, giắt khẩu brô-ninh vào cạp quần, chạy như bay xuống chân đê, hướng về phía bắc con đường chạy một đoạn, rồi luồn vào trong ruộng cao lương, chạyvề phía tây bắc. Bố như bơi trong biển cao lương, bắt gặp mấy xương sọ la, ngựa hình chữ nhật. ông lấy chân đá một phát, từ trong sọ lòi ra mấy con chuột đồng đuôi ngắn lông lởm chởm, nhưng không sợ hãi mấy nhìn ông, rồi lại chui tọt vào trong sọ. Bố lại nhớ tới hai con la đen to của nhà mình, nhớ đến sau khi con đường đã đắp xong lâu rồi, mỗi lần nổi gió đông nam, ở trong làng vẫn còn ngửi thấy mùi xác chết đến ghê người. Trong sông Mặc Thuỷ, năm ngoái từng nổi lên mấy chục xác ngựa la trương phềnh rữa nát, chúng dạt vào chỗ nước cạn mọc đầy cỏ ở ven sông. Bụng các con ngựa con la, nắng rọi làm trương phềnh, rồi bỗng nứt toác ra, ruột nổi lềnh phềnh, tiết ra thứ nước màu xanh sẫm, chảy vào sông Mặc Thủy.
Bạn đang đọc truyện trên: truyentop.pro