Chương 5
Khi bà tôi vừa tròn mười sáu tuổi, cụ tôi bèn gả cho Đơn Biển Lang đứa con một của một tài chủ nồi tiếng tên là Đơn Đình Tú ở quê hương Đông bắc Cao Mật. Nhà họ Đơn chuyên nghề nấu rượu bằng nguyên liệu cao lương giá rẻ, rượu chất rất ngon, nổi tiếng khắp vùng hàng trăm dặm. Địa thế quê hương Đông bắc rất trũng, thường bị nước mưa thu tràn ngập, giống cây cao lương thân cao,chống được úng, được trồng ở khắp nơi, năm nào cũng được mùa. Sở dĩ nhà họ Đơn giàu có nhất vùng, là vì giá cao lương quá rẻ. Bà tôi lấy được Đơn Biển Lang là niềm vinh hạnh của cụ ngoại tôi. Bấy giờ, có biết bao nhiêu người mơ ước được kết hôn với nhà họ Đơn, mặc dù có tin đồn Đơn Biền Lang mắc bệnh hủi. Đơn Đình Tú là một lão già nhỏ thó, khô không khốc, đằng sau gáy vắt vẻo một cái đuôi sam nhỏ cũng khô không khốc. Nhà ông ta tiền bạc đầy rương mà ăn mặc lại rách rưới, lại còn buộc một cái giây rơm ngang bụng nữa chứ! Bà tôi làm dâu nhà họ Đơn là do trời định. Hôm ấy bà tôi đang chơi vui vẻ với các thiếu nữ tóc dài, chân nhỏ ở bên cạnh cột đu. Hôm ấy là tiết thanh minh, đào hồng liễu xanh, mưa bụi phất phơ mặt ai nấy đều nở đẹp như hoa vì là con gái được giải phóng. Bà tôi lúc ấy cao một mét sáu mươi nặng sáu mươi kg , mình mặc chiếc áo vải ngoại hoa nhỏ, chiếc quần lĩnh màu xanh, cổ chân quấn khăn lụa màu đỏ thẫm. Do mưa bụi, bà tôi đi đôi hài hoa đã được tẩm hơn chục lần bằng dầu cây đồng, bước đi kêu sột soạt. Phía sau gáy là chiếc bíu tóc to đen bóng, cổ đeo một chiếc xuyến bạc khá nặng. Cụ ông tôi là thợ kim hoàn mà. Cụ bà tôi là con gái một địa chủ sa sút, cụ biết rằng chân nhỏ có ý nghĩa to lớn đối với người con gái như thế nào. Bà tôi chưa được sáu tuổi đã bắt đầu bó chân, mỗi ngày bó một chặt. Một mảnh vải dài hơn một trượng, cụ bà tôi dùng để bó chặt lấy chân bà tôi, làm cho các ngón chân không phát triển được, trông rất thảm! Mẹ tôi cũng chân nhỏ, mỗi lần nhìn thấy chân mẹ, lòng tôi đau đớn, những muốn hét lên: "Đả đảo chủ nghĩa phong kiến! Chân người được tự đo muôn năm!". Bà tôi chịu hết cực khổ, cuối cùng bó thành gót sen vàng ba tấc (ba tấc kim liên). Mười sáu tuổi năm ấy, bà tôi đã nở nang đầy đặn, xinh đẹp khi đi hai tay vung vẩy, thân eo lắc la lắc lư như cây dương liễu bị gió thổi. Hôm ấy, Đơn Đình Tú xách một giỏ phân đi qua thôn của cụ ngoại tôi, trong nhiều loại hoa, ông ta thấy' vừa ý' bà tôi. Ba tháng sau, một chiếc kiệu đã đón bà tôi đi.
Bà ngồi mãi trong kiệu hoa buồn bực, mắt hoa đầu váng. Mảnh vải đỏ trùm đầu cho mát mắt bà tôi, vải hoa bốc ra mùi mốc rất khó chịu. Bà giơ tay vén tấm vải đỏ ra - Cụ bà tôi dặn đi dặn lại, cấm bà không được vén tấm vải đỏ trùm đầu - một chiếc kiềng bằng bạc tuột xuống cổ tay, bà nhìn thấy hình con rắn chạm ở trên chiếc kiềng, lòng dạ rối như tơ vò. Gió ấm thổi vào những cây cao lương xanh biếc mọc ở hai bên đường đất hẹp. Tiếng chim gáy kêu cúc cu từ ruộng cao lương vọng lại Phấn hoa cao lương màu bạc toả ra mùi thơm thanh khiết. Trên tấm rèm kiệu che trước mặt bà thêu những con rồng, con phượng, mảnh vải đỏ trên rèm do cho thuê nhiều năm nên đã phai màu xỉn lại, ở giữa loang lổ một vết dầu to tướng. Cuối hạ đầu thu, ánh nắng bên ngoài kiệu chói chang, bọn phu khuân kiệu bước đi nhịp nhàng khiến cho chiếc kiệu cũng lắc lư theo, dây da bò chưa thuộc buộc kiệu kêu cót két, rèm che kiệu nhè nhẹ rung rinh, từng chùm tia sáng và từng làn gió mát lọt vào trong kiệu. Người bà đầy mồ hôi, tim đập như gõ trống, lắng nghe tiếng bước chân nhịp nhàng và tiếng thở nặng nề của phu khuôn kiệu, ở trong đầu bà hiện ra một cảm giác lúc thì lạnh lùng trơn nhẵn như đá sỏi, lúc thì nôn nóng cồn cào như sát ớt.
Sau khi bà được Đơn Đình Tú để ý không biết bao nhiêu người đã đến chúc mừng hai cụ ngoại tôi. Mặc dù bà cũng nghĩ đến những ngày sống sung sướng phong lưu nhưng mong hơn vẫn là lấy được người chồng có học, biết điều, mặt mày thanh tú. Khi ngồi trong khuê phòng thêu áo cưới, bà tôi đã thêu một bức tranh đẹp về người ông tương lai của tôi. Bà từng mong chóng đến ngày cưới, nhưng qua lời các bạn gái nói lấp lửng thì nghe đâu cậu công tử họ Đơn bị bệnh hủi, lòng bà giá lạnh. Bà nói nỗi lo ấy với bố mẹ. Cụ ông tôi lấp liếm không trả lời, cụ bà tôi mắng cho lũ bạn gái của bà tôi một trận đại ý nói là cáo không lấy được nho ăn liền chê nho chua. Về sau cụ ông tôi lại nói công tử họ Đơn học rộng biết nhiều, trắng trẻo đẹp trai. Bà tôi hoang mang, không biết đâu là thật là giả, nhưng sau nghĩ lại trong thiên hạ không có bố mẹ nào lại nhẫn tâm với con. Có lẽ bọn 'bạn nói liều'. Bà lại bắt đầu mong sớm đến ngày cưới. Bà đang ở độ tuổi thanh xuân rạo rực nên cảm thấy buồn da diết và cô đơn lạnh lẽo. Bà ước ao được nằm trong lòng người đàn ông ấm áp để cho tiêu tan nỗi buồn và cô quạnh. Ngày cưới cuối cùng đã đến. Bà bị đưa lên chiếc kiệu lớn bốn người khiêng, kèn lớn kèn nhỏ thổi nghe thê thảm ở trước và sau kiệu, bà không cầm được nước mắt, để nó tự chảy xuống má. Khi kiệu được khiêng đi, lửng lơ như cưỡi mây cưỡi gió, thợ kèn lười biếng vừa ra khỏi làng không xa đã ngừng thổi, bước chân của phu khiêng kiệu bỗng trở nên nhanh hơn. Mùi thơm của cao lương thấm sâu vào lòng người. Chim lạ thú quýt rong cánh đồng cao lương hót véo von trầm bổng khi từng tia nắng rọi vào trong kiệu, thì hình bóng người chồng của bà rõ dần lên. Lòng bà như bị kim châm, đau đớn vô cùng.
Trời ơi, hãy cứu con? Lời cầu khẩn ở trong lòng bà khiến môi hồng mấp máy. Trên môi bà có một lớp lông tơ mềm mại. Bà xinh tươi rực rỡ, hồng hào nõn nà. Lời nói thầm của bà bị vách kiệu và vải rèm nặng nề hút hết sạch trơn. Bà đặt mảnh vải trùm đầu mềm mại vừa bị xé đặt lên đầu gối. Theo tục lệ xuất giá, trời rất nóng, bà vẫn phải mặc áo bông, quần bông mới. Phía trong kiệu sứt sẹo dơ bẩn. Nó như chiếc quan tài, không biết đã nhốt bao nhiêu cô dâu, biến thành xác chết không hồn. Tấm đoạn vàng che trên vách kiệu đầy những vết dầu ố,- có năm con nhặng xanh, thì có ba con bay lượn ong ong trên đầu bà, còn hai con đậu trên rèm kiệu, chân đen xoa xoa đôi mắt sáng bóng. Bà buồn quá, nhẹ nhàng dùng bàn chân nhọn như cái măng chọc thủng rèm để nhìn trộm ra ngoài. Bà nhìn thấy những cặp giò của phu khiêng kiệu quá ống quần lụa rộng của họ, những bàn chân to bè đi giày bện bằng đay. Bước chân rầm rập của họ hất tung bụi. Bà đoán thân hình họ phải lực lưỡng lăm. Không kìm được, bà di chuyển gót chân nhoài mình về phía trước. Bà nhìn thấy đòn khiêng gỗ hoè màu tím nhẵn bóng và đôi vai rộng của phu khiêng kiệu. Hai bên đường, cao lương liền một giải như một tấm phản, xô đến xô lại. Những bông cao lương màu xanh nhạt, hạt chưa mẩy bông nào cũng giống bông nào. Cao lương mênh mông vô tận, trông như dòng sông đang chảy rào rạt. Đường có những chỗ rất hẹp, lá cao lương bám đầy rệp cọ vào kiệu nghe sột soạt.
Từ thân thể người phu kiệu toả ra mùi mồ hôi chua, bà hít lấy hít để mùi vị của đàn ông,trong lòng bà chắc chắn là nổi lên từng cơn sóng xuân tình. Khi kiệu đi qua hàng phố, phu kiệu đều bước chữ "bát" gọi là "dạo phố". Sở dĩ làm như vậy một mặt là cố làm vừa lòng chủ,để được thưởng nhiều tiền; mặt khác là để tỏ ra phong độ nghề nghiệp đẹp đẽ. Khi "dạo phố" bước đi không nhịp nhàng không phải là hảo hán, tay phải vịn vào đòn kiệu không phải là hảo hán. Phu kiệu lành nghề, hai tay đều chống nạnh, bước đi nhịp nhàng, nhịp kiệu lắc lư phải khớp với tiếng kèn véo von của các tay thợ thổi kèn, phải làm sao cho mọi người cảm thấy được đằng sau bất cứ một thành công nào cũng phải trải qua khổ luyện công phu. Kiệu đi đến cánh đồng Bình Xuyên, thì các phu kiệu bắt đầu đi chệch choạc, một là để cho nhanh, hai là để trêu cô dâu. Có cô dâu, bị kiệu lắc mạnh quá nôn oẹ bừa bãi làm bẩn cả áo hoa, hài thêu; phu kiệu thấy cô dâu nôn ẹo lấy làm khoái trá. Những người con trai trẻ trung khoẻ mạnh này, thấy mình khiêng kiệu cho người ta hưởng sung sướng là một sự hy sinh, trong lòng nhất định là xót xa, nên họ mới trêu tức cô dâu.
Trong bốn người khiêng kiệu cho bà tôi hôm ấy, có một người đã trở thành ông tôi. Ông là Tư lệnh Từ Chiếm Ngao. Bấy giờ, ông vừa hai mươi tuổi, là người giỏi giang nhất trong đám phu nhà Đơn của quê hương Đông bắc. Các chàng trai cùng lứa như ông tôi đều có tính cách rõ ràng như cao lương của người Đông bắc, vùng Cao Mật, hậu sinh hèn kém chúng tôi không bì được. Quy cách lúc bấy giờ, phu kiệu trên đường trêu ghẹo cô đâu chẳng khác gì bọn thợ nấu rượu được uống rượu nóng, cô dâu là con vua, con trời thì họ cũng cứ trêu như thường.
Lá cao lương quệt vào kiệu kêu sột soạt. Từ trong đám ruộng cao lương xa xa, bỗng vẳng lại tiếng khóc thảm thiết, làm mất đi vẻ đơn điệu dọc đường đi. Tiếng khóc và tiếng của bọn thợ kèn sao mà hoà nhịp thế. Bà liền nghĩ tiếng nhạc thê lương này nhất định là đám thợ kèn cố ý thổi đây. Bà lấy chân hất tấm rèm cửa nhìn thấy tấm lưng trần đẫm mồ hôi của một phu kiệu, bà lại nhìn thấy rõ hơn đôi chân _mình đi hài thêu hoa to màu đỏ. Đôi chân vừa nhọn vừa gầy trông rất thảm thương, ánh sáng từ bên ngoài rọi vào chiếu lên đôi chân,trông chúng như hai cánh hoa sen, chúng lại càng giống đôi cá vàng đang lặn ở đáy nước trong vắt: Hai giọt nước mắt nhỏ long lanh như hai hạt cao lương ứa ra từ đôi mi mắt bà, lăn xuống má chảy vào mép. Lòng bà vừa buồn vừa khổ, hình bóng ông chồng được mô tả nho nhã, phong lưu như các nhân vật trong kịch đã bị nước mắt làm mờ đi và mất hẳn. Bà sợ hãi tưởng tượng ra bộ mặt hủi ghê tởm của Biển Lang nhà họ Đơn, lòng tê tái. Bà nghĩ: Lá ngọc cành vàng, mặt hoa da phấn, phong lưu dịu dàng lẽ nào lại để cho một tên hủi chiếm đoạt hưởng thụ. Nếu đúng như vậy thì thà chết còn hơn. Tiếng khóc thê thảm từ trong ruộng cao lương vọng lại nghe rõ từng câu: ''Trời xanh ơi, trời xanh - ông trời đẹp đẽ sắc màu ơi -Người hại anh tôi chết mất rồi - Trời xanh làm hại đời em". Tôi không thể không nói cho bạn đọc biết rằng, những người đàn bà quê hương Đông bắc vùng Cao Mật chúng tôi khóc cũng hay như hát vậy: Năm dân quốc thứ nhất (tức 1911 -ND), chuyện Trình Tiền "Chuyên _ giang hiên cứu tiếng khóc" của họ Khổng Phu tử huyện Khúc phụ từng đến đây học đấy. Ngày cưới mà gặp người vợ khóc chồng, bà cảm thấy đó là điều dữ, lòng đang trĩu nặng giờ càng trĩu nặng hơn. Lúc ấy, có một phu kiệu mở miệng nói :
- Em gái ngồi kiệu ơi, nói chuyện với các anh mấy câu nào! Đường xá xa xôi, buồn thấy mồ!
Bà vội vàng cầm lấy mảnh vải đỏ trùm lên đầu ngón chân đang vạch rèm vải cũng nhẹ nhàng rụt lại, trong kiệu lại tối đen như mực.
- Hát một bài cho các anh nghe đi, các anh khiêng em mà!
Thợ thổi kèn như tỉnh mộng, thổi rộn lên ở phía sau kiệu. Kèn lớn thổi:
- Toe toe - toe toe !
- Tò toe - tò toe. Đi phía trước kiệu, các người bắt chước tiếng kèn. Đằng trước đăng sau kiệu, vang lên tiếng cười khả ố.
Người bà đầm đìa mồ hôi. Trước khi bước lên kiệu, cụ bà tôi dặn đi dặn lại bà tôi, dọc đường tuyệt nhiên không được hé miệng chuyện trò với phu kiệu. Bọn họ, thợ kèn cũng như phu kiện đều là những bọn xấu xa, quỷ quái, làm đủ mọi chuyện bậy bạ.
Bọn họ lắc kiệu mạnh, đít bà ngồi không yên, hai tay phải nắm lấy ván ngồi.
- Không mở miệng hả? Lắc! Lắc không ra lời thì phải lắc vãi nước đái nó ra.
Chiếc kiệu bây giờ như con thuyền nhỏ giữa sóng gió, bà gắng hết sức nắm lấy ván ngồi,hai quả trứng ăn buổi sáng đang lộn lên ở trong bụng, đàn nhặng bay vo vo bên tai, cổ họng bà rất khó chịu, mùi tanh của trứng đưa lên miệng, bà mím chặt môi. Không được nôn, không được nôn! Bà tự ra lệnh cho mình, không được nôn. Người ta nói nôn ra kiệu là điều dữ nhất, nôn ra kiệu, thề hết đời sẽ bất hạnh...
Lời nói của bọn phu kiệu mỗi lúc một khả ố. 'Bọn họ, kẻ thì rủa cụ ông tôi là tiểu nhân, thấy tiền thì sáng mắt ra, kẻ thì nói chẳng khác gì hoa thơm cắm vào bãi cứt trâu kẻ thì nói Đơn Biển Lang là thằng hủi chảy mủ vàng. Họ nói, đứng ở ngoài sân cũng có thể ngửi thấy mùi thối của thịt rữa, trong sân nhà họ Đơn, nhặng xanh bay thành đàn...
- Cô em ơi, chớ để cho thằng Đơn Biển Lang nó mó vào người, nó mà mó vào, người em cũng thối rữa ra đấy !
Kèn lớn, kèn nhỏ thổi lúc to lúc nhỏ. Mùi trứng tanh càng bốc lên dữ dội, bà nghiến răng mím môi, cổ họng như có nắm đấm, đang nện, bà không nhịn được nữa, vừa há mồm, bèn nôn thốc nôn tháo ra rèm kiệu, năm con nhặng xanh hay nhanh như viên đạn lao đến bãi nước vừa nôn.
- Nôn rồi nôn rồi, lắc mạnh vào! - Bọn phu kiệu hò hét. - Lắc nữa, sớm muộn thế nào rồi cũng phải mở miệng thôi.
- Các anh ơi... tha cho em. Bà tôi vừa ọe vừa nói một cách khó nhọc, nói xong, bà khóc oà lên. Bà cảm thấy mình bị oan ức, bà thấy tiền đồ đen tối, suốt đời không thoát được bể khổ. "Ôi bố, ôi mẹ, bố tham tiền, mẹ nhẫn tâm, bố mẹ huỷ diệt đời con."
Bà khóc rống lên, con đường nhỏ trong cao lương rung động. Bọn phu thôi không lắc kiệu nữa, bọn thợ kèn theo đóm ăn tàn cũng thôi không thổi nữa. Chỉ còn lại có tiếng nấc của bà, rồi tiếng sáo bi thảm nức nở theo tiếng khóc còn hay hơn cả tiếng khóc của người con gái. Bà thôi khóc để lắng nghe tiếng sáo, như nghe âm nhạc từ thiên quốc vọng tới. Mặt bà son phấn phôi pha, nước mắt lã chã, trong tiếng nhạc bi ai. bà nghe thấy tiếng của sự chết ngửi thấy mùi của sự chết, nhìn thấy môi đỏ thẫm như cao lương của thần chết và nụ cười vàng như ngô của thần chết.
Phu kiệu lặng im.không nói, bước chân nặng nề. Tiếng nấc nghẹn của người bất hạnh trong kiệu, và tiếng sáo phía sau kiệu làm cho họ. lòng dạ rối bời, bồn chồn lo ngại. Đi trên con đường 'nhỏ trong ruộng cao lương này, không còn giống đoàn đi rước dâu nữa, mà giống như cuộc đưa đám. Người phu kiệu ở phía trước chân bà - tức là Từ Chiếm Ngao, ông tôi sau này ông có một dự cảm không bình thường nó như một ngọn lửa rực cháy chiếu sáng con đường tương lai của ông. Tiếng khóc của bà tôi, đã gợi lên tình thương sớm tiềm ẩn trong lòng ông
Giữa đường phu kiệu dừng lại nghỉ, kiệu hoa chạm đất. Bà tôi khóc ngất đi, vô tình để lòi một chiếc chân nhỏ ra ngoài kiệu. Phu kiệu nhìn thấy cái chân nhỏ xinh xắn mịn màng, bất chợt hồn siêu vách lạc. Từ Chiếm Ngao đi tới, cúi xuống, khẽ khàng, nhẹ nhàng, nắm lấy bàn chân như cầm con chim nhỏ chưa đủ lông cánh, nhè nhẹ đẩy vào trong kiệu. Ngồi ở trong kiệu, bà xúc động về cử chỉ dịu dàng ấy, bà rất muốn vén màu che, nhìn xem người thanh niên dịu dàng kia là người như thế nào.
Tôi nghĩ, nhân duyên xa ngàn dặm một sợi chỉ se lại là xong, tình duyên của con người là trời đất tác thành nên. Đấy là chân lý không thể nào tự chọn được. Do nắm lấy bàn chân bà tôi, lòng Từ Chiếm Ngao trỗi dậy một linh cảm vĩ đại về một cuộc sống mới sáng tạo. Từ đó,cuộc sống của ông thay đổi hoàn toàn, và cũng hoàn toàn thay đổi cuộc sống của bà tôi.
Chiếc kiệu lại lên đường, tiếng kèn rít lên như tiếng vượn hú, rồi tắt ngấm. Gió nổi, gió đông bắc, trên trời đường đám mây vần vũ che kín ánh mặt trời, trong kiệu càng trở nên u ám. Bà nghe thấy tiếng gió thổi, cao lương kêu xào xạc đủ đọt. Sóng cao lương rập rạp, vang mãi ra xa. Bà nghe thấy tiếng sấm vang lên từ hướng đông bắc. Bọn phu kiệu dồn chân chạy kiệu còn cách nhà họ Đơn bao xa, bà không biết bà bây giờ như con dê bị trói, càng gần đến chỗ chết, lòng càng bình tĩnh. Từ trong ngực, bà rút ra một con dao sắc, có thể là chuẩn bị cho Đơn Biển Lang và cũng cỏ thể là chuẩn bị cho mình. Chuyện kiệu hoa bà tôi bị cướp ở đầm Con Cóc nó chiếm một vị trí đáng kể trong truyền thuyết của họ hàng nhà tôi. Đầm Con Cóc ]à cái đầm nhỏ trong cái đầm lớn, đất rất màu mỡ, nước đầy đủ, cao lương mọc tốt tươi. Kiệu hoa bà tôi đi đến đây, ánh chớp đỏ như máu xé ngang bầu trời đông bắc, một tia sáng vàng màu mơ chui từ trong đám mây đen vẹt ra chiếu xuống đường Bọn phu thở phì phò,nóng quá mồ hôi nhễ nhại. Đi đến đầm Con Cóc, không khí nặng nề, cao lương bên đường đen hầu ánh, không nhìn thấy gốc, cỏ hoa dại trên đường như mọc nghẽn cả lối đi. Rất nhiều cúc thử xa, cọng nhỏ và dài vươn lên trong đám cỏ, nổ ra những bông hoa màu tía, lam,hồng, trắng bốn màu. Trong đám ruộng cao lương . Ở xa, tiếng cóc kêu ran lên, tiếng con cành cạnh kêu thê lương, tiếng cáo kêu kéo dài. Ngồi trong kiệu, bà bỗng cảm thấy lạnh người, da dẻ nổi gai ốc Bà còn chưa rõ chuyện gì thì nghe thấy phía trước kiệu có tiếng người quát to:
- Mau nộp tiền mãi lộ!
Tim bà giật thót một cái, không biết là buồn hay vui, trời ơi, gặp phải "cướp nhét bánh"rồi!
Quê đông bắc vùng Cao Mật, thổ phỉ đông như rươi, bọn chúng đi lại bất thường như con cá trong ruộng cao lương, kết bè kéo đảng, bắt lừa cướp của, làm tất cả mọi chuyện từ dở đến hay, nếu cứ đói bụng là bắt hai người, giữ một người, thả một người. Bắt người được thả về thôn báo tin, bắt phải mang đến những chiếc bánh tráng to trộn trứng gà và hành. Bọn chúng ăn bánh, dùng cả hai tay ấn vào mồm, từ đó có tên là bọn cướp nhét bánh.
- Mau nộp tiền mãi lộ!
Tên cướp nhét bánh kia quát thật to. Bọn phu dừng lại, lặng lẽ nhìn tên cướp đứng rạng chân ra. Tên cướp người không cao lắm, mặt bôi đầy mực đen, đầu đội chiếc nón bện bằng cộng cao lương, mình khoác chiếc áo tơi. áo tơi phanh ra, lộ ra chiếc áo thâm nhiều cúc và chiếc thắt lưng rộng bản cuốn ngang lưng. Trong thắt lưng cộm lên một vật bọc bằng lụa đỏ. Tên cướp đứng đè lên bọc đó.
Trong phút chốc, bà thấy chẳng có gì đáng sợ cả, chết không sợ, còn sợ cái gì? Bà vén màn kiệu lên, nhìn tên cướp.
Tên cướp lại hét:
- Mau nộp tiền mãi lộ ! Không thì ông nện cho chúng mày một trận bây giờ!
Hắn vỗ vỗ vào cái bọc lụa đỏ.
Thợ kèn móc từ trong lưng ra những chuỗi tiền đồng mà cụ ngoại đã cho họ, rồi ném ra trước. mặt tên cướp Phu kiệu hạ kiệu xuống, cũng móc những đồng tiền đồng máu xuống.
Tên cướp dùng chân vun gọn tiền lại thành đống, mắt cứ nhìn chằm chằm vào bà tôi trong kiệu.
"Các người mau cút ra phía sau kiệu, nếu không tao bắn." Hắn dùng tay vỗ vỗ vào cái vật cồm cộm ở ngang lưng, quát.
Bọn phu chậm chạp đi về phía sau kiệu. Từ Chiếm Ngao đi sau cùng, bỗng ông quay lại,hai mắt nhìn trừng trừng tên cướp. Phút chốc tên cướp biến sắc mặt, tay giữ chặt lấy chiếc bọc vải đỏ bên lưng, thét lên:
- Không được quay đầu lại! Quay lần nữa tao sẽ bắn !
Tên cướp tay vẫn đè lấy vật ở thắt lưng, chân bước vội đến trước kiệu, thò tay nắn nắn chân của bà. Bỗng bà tôi cười lên, tay tên kia như chạm phải lửa, rụt ngay lại.
- Xuống kiệu, đi theo ta? - Hắn nói.
Bà ngồi ngay ngắn bất động, nụ cười vẫn in trên khuôn mặt.
- Xuống kiệu!
Bà cúi người, nhảy ra khỏi kiệu, đứng giữa hỏa cúc thỉ xa mọc đầy đường. Mắt phải bà nhìn tên cướp, mắt trái nhìn đám phu và thợ kèn.
"Đi vào trong ruộng cao lương!" Tên cướp vừa sờ vào cái bọc lụa đỏ ở lưng vừa nói.
Bà đứng thản nhiên trên đất, ánh chớp trong mây loé sáng cùng tiếng sấm ùng ùng, nụ cười sảng khái trên mặt bà bị xé ra thành nhiều mảnh khi đứt khi nối.
Tên cướp giục bà đi vào đám ruộng cao lương, tay hắn vẫn đè lên vật kia ở thắt lưng. Bà nhìn Từ Chiếm Ngao bằng cặp mắt khảng khái, khích lệ.
Từ Chiếm Ngao đi thẳng về phía tên cướp, đôi môi mỏng của ông mím chặt thành một đường thẳng cương nghị, hai mép, cái thì vểnh lên, cái thì sệ xuống.
"Đứng lại!" Tên cướp hoảng hốt quát. " Đi bước nữa tao bắn!" Tay hắn đè lên cái vật bọc lụa đỏ ở thắt lưng.
Từ Chiếm Ngao bình tĩnh tiến về phía tên cướp, ông tiến một bước, tên kia lùi một bước.Mắt tên cướp bỗng hoa lên, từng dòng mồ hôi sáng trong trắng bệch từ trên bộ mặt kinh hoàng chảy xuống. Khi Từ Chiếm Ngao còn cách hắn ba bước, hắn xấu hổ kêu lên một tiếng quay người chạy. Từ Chiếm Ngao bay người, nhằm trúng mông hắn, đá một cú rất nhanh. Người tên cướp nằm bẹp dí trên ngọn cỏ, lướt đi trên hoa cúc thỉ xa, lăn mấy vòng, chân tay lảo đảo trên không như đứa bé thơ dại, cuối cùng rơi tõm xuống ruộng cao lương.
"Xin các vị, tha tội chết cho! Nhà tiểu nhân còn có mẹ già tám mươi tuổi, bất đắc đĩ mới phải làm cái nghề này." Tên cướp nằm dưới tay Từ Chiếm Ngao kêu gào khẩn thiết.
Từ Chiếm Ngao túm lấy gáy hắn, lôi lại trước kiệu, quẳng mạnh một cai xuống đường,đoạn nhằm cái miệng đang van xin không ngớt đá một cú. Tên cướp bèn thét lên, một nửanhổ đi, một nửa nuốt vào trong bụng, máu mũi chảy ra.
Từ Chiếm Ngao cúi xuống lục tìm cái vật ở trong lưng tên cướp, vứt mảnh vải đỏ đi, lòi ra một mẩu gỗ cong cong, mọi người đều bàn tán xì xào mãi không thôi.
Tên kia quỳ dưới đất van lạy xin tha liên hồi. Từ Chiếm Ngao nói:
"Tên cướp này nói nhà hắn còn có mẹ già tám mươi tuổi." Đoạn ông lùi ra một bên,nhìn bọn phu và thợ kèn, như con chó đầu đàn nhìn bày chó vậy.
Bọn phu và thợ kèn hò hét, lao đến; vây lấy tên kia, rồi giơ nắm đấm lên giáng vào người tên cướp. Lúc đầu tên cướp còn kêu ré lên, lát sau, không nghe thấy nữa. Bà đứng bên đường nghe tiếng đấm tới tấp vào xác thịt tên cướp, liếc nhìn Từ Chiếm Ngao, rồi ngẩng đầu nhìn tia chớp:ở chân trời, trên khuôn mặt bà vẫn nở nụ cười rực rỡ, cao quý như vàng.
Một người thợ kèn vung cái kèn lên, nhằm đúng bụng tên cướp, chụp xuống, vành loa kèm cắm phập vào da thịt tên cướp, rút mãi mới da.Bụng tên cướp kêu cùng cục, thân thể gân cốt hắn giãn ra, nằm 'nhũn như bánh' ở dưới đất. Một dòng nước đỏ trắng lẫn lộn từ vết thương sâu hoắm từ từ chảy ra.
- Chết rồi? - Một thợ kèn, xách kèn thổi, hỏi.
- Đánh chết rồi, cái của này, không chịu được đòn!
Đám phu và thợ kèn tái xanh tái mét, tỏ ra hoảng hốt, lo lắng.
Từ Chiếm Ngao ngó kẻ chết, rồi lại nhìn 'người sống', không nói một câu. ông vặt ít lá cao lương gột sạch đống nôn của bà ở trong kiệu, rồi lại giơ cái mẩu gỗ nhìn nhìn, lấy mảnh lụa đỏ bọc lại rồi quăng mạnh ra xa cục gỗ vượt đi trước, mảnh lụa bọc tụt lại sau, như cánh bướm lớn màu đỏ đỗ xuống ruộng cao lương.
Từ Chiếm Ngao đỡ bà lên kiệu và nói:
- Sắp mưa rồi, đi mau!
Bà xé tấm màn che kiệu, nhét vào một góc kiệu, bà hít thở không khí tự do, ngắm nhìnvai rộng lưng eo của Từ Chiếm Ngao. Ông đứng cách kiệu rất gần, bà chỉ việc ruỗi chân một cái là có thể chạm vào da đầu ông.
Gió ngày một mạnh, cao lương bị đầy trước dồn sau, tạo thành những cơn sóng bất tận,cao lương bên đường thò đầu ra giữa đường, như uốn cong người chào bà tôi. Phu kiệu chạy như bay mà chiếc kiệu vẫn êm ả lạ thường, như chiếc thuyền con lướt trên ngọn sóng. ếch nhái phấn khởi kêu ong ong, đón chào cơn mưa to mùa hè sắp đổ xuống, màn trời thấp,nặng nề nhìn xuống khuôn mặt cao lương màu chì, từng ánh chớp đỏ rực quất lên cao lương; tiếng sấm dữ dội, rung cả màng nhĩ, nhưng lòng bà vẫn .khảng khái, phấn chấn, nhìn chăm chú cơn sóng xanh tạo nên bởi làn gió đen mà không hề biết sợ; mây vần vũ chuyển động cũng tạo nên âm thanh, hướng gió thay đổi, cao lương lắc lư bốn phía, đồng ruộng cuồng loạn. Giọt mưa hung hãn đầu tiên dội xuống làm cho cao lương run rẩy, làm cho ngọn cỏ rầu rầu, làm cho cát bụi trên đường tụ lại thành đống, rồi lập tức lại vỡ ra, làm cho đỉnh kiệu kêu lộp bộp; giọt mưa đánh vào đôi hài hoa của bà, đánh vào đầu của Từ Chiếm Ngao, xiên vào mặt bà.
Bọn Từ Chiếm Ngao chạy vội như thỏ mà vẫn không tránh được trận bão táp trước giờ ngọ. Mưa quật đổ bao nhiêu cây cao lương, mưa rào vùi trên khắp cánh đồng, cóc nhái nấp dưới gốc cao lương, run rẩy da trắng bệch; lũ cáo ngồi chồm hỗm trong hang động tối om, nhìn hạt mưa từ lá cao lương rơi xuống. Đường xá mau chóng biến thành lầy lội, cỏ nằm dí xuống đất, hoa cúc thỉ xa vẫn tỉnh táo ngóc đầu ướt át. Quần đen rộng thùng thình của phu kiệu dính chặt vào da thịt, thân thể họ nên mảnh khảnh dễ coi. Da đầu của Từ Chiếm Ngao được nước mưa rửa sạch bóng láng, trong con mắt của bà trông như một vành trăng tròn. Quần áo của bà cũng bị nước mưa làm ướt, lẽ ra bà có thể treo tấm màn kiệu lên che mưa, nhưng bà không treo, và cũng không muốn treo. Qua cửa kiệu sáng loáng, bà nhìn thấy thế giới bao la hùng vĩ, rối loạn, không yên.
Bạn đang đọc truyện trên: truyentop.pro