Die Symphonie des Herbstes
Chào mọi người.
Đây là một chiếc one-shot xuất hiện bất thình lình và hờ hững trong đầu mình giữa đêm. Đây là hệ lụy sau một ngày đọc quá nhiều Fanfic Trung của một vài CPs khác, cũng như tiếp xúc với quá nhiều từ tiếng Đức.
Fan Fic này sử dụng những cá nhân, sự kiện, địa điểm có thật. Thứ duy nhất khác với sự thật là việc các nhân vật trọng tâm được lồng ghép vào và trở thành một phần của những sự kiện, địa điểm nói trên.
Chúc mọi người có một trải nghiệm đọc vui vẻ.
-----------------------------------------------
I.
Tháng Tám 1919, tại trạm biên giới Kornsjø, một đoàn tàu hơi nước đang khẩn trương lăn bánh để tiếp tục chuyến hành trình tới Kristiania, trung tâm âm nhạc lớn nhất của Na Uy thời ấy.
Băng qua cánh rừng lá kim bạt ngàn cùng những hồ nước xanh thẳm vùng đồi miền Đông Nam, không khí nơi đây vẫn còn vương vấn chút nắng nóng của Hè muộn, song những cơn gió mát mẻ luồng qua khoảng trống cửa sổ cũng là dấu hiệu về sự cận kề khi Thu sang.
Trên toa tàu, Minji dán mắt vào một quyển sách, tay nàng từ tốn lắc đều tách cà phê nóng đủ mạnh để giúp nàng bừng tỉnh khỏi cơn mê giữa ban trưa. Nàng đã ngồi suốt năm ngày qua, gần như không nghỉ, từ ga này đến ga khác, đoàn tàu này sang đoàn tàu khác. Sau chiến tranh, hệ thống đường sắt ở nhiều nơi bị thiệt hại nặng nề, việc kiểm soát biên giới cũng nghiêm ngặt hơn bao giờ hết. Điều đó khiến chuyến đi của nàng bị trì trệ, dù rằng thật đáng mừng làm sao khi tuyến đường từ Stockholm tới Kristiania vẫn hoạt động tương đối ổn định mà chưa có tí bất trắc nào.
Tuy nhiên, việc ngồi một mình suốt cả tuần cũng thật là tẻ nhạt. Biết sao được, thời kỳ kinh tế khó khăn, đâu phải ai cũng rảnh để ngồi lãng phí thời gian chứ.
Minji thở dài, nhưng khi ngẩng mặt lên, một cậu bé ngồi cùng mẹ cách đó không xa đã vẫy tay với nàng. Như được bật công tắc xã giao, nàng rời khỏi ghế, cởi mũ và tươi cười chào hỏi họ bằng thứ tiếng Na Uy mà nàng đã chăm chỉ luyện tập suốt hai năm qua.
Đứa trẻ ấy tỏ vẻ hiếu kỳ với quyển sách trên tay Minji, bởi đối với thằng bé, nó chứa toàn những ký tự xa lạ và chẳng có ý nghĩa. Nàng nhẹ nhàng cười và giải thích rằng đây là tiếng Đức, ngôn ngữ của nơi nàng đã sống trước khi bắt đầu chuyến hành trình này. Về mặt nội dung, nó nói về giai thoại của các nhà soạn nhạc nổi tiếng.
Người mẹ hỏi tại sao Minji lại tìm tới Na Uy xa xôi, lạnh lẽo. Đổi lại, nàng suy tư nhìn vào hình ảnh phản chiếu của bản thân trên lớp cửa kính, rồi thủ thỉ với cô.
"Tôi luôn mong được đến đây một lần."
Ôi, Na Uy, vương quốc chìm mình trong màn sương, bình lặng và bí ẩn. Nàng đã mơ về nơi này được bao lâu rồi nhỉ? Tám năm? Tám năm trôi qua như một giấc mộng dài đằng đẳng, song chỉ tới khi tỉnh giấc, ta mới nhận ra nó ngắn ngủi cỡ nào.
Năm 1911, Die Österreichisch-Ungarische Monarchie, Đế quốc Áo-Hung.
Tiết trời tháng Chín ở Vienna là sự kết hợp lý tưởng giữa cái nắng nhẹ pha trộn với cơn gió khô mát cuối Thu.
Nếu đó không phải là một ngày mưa, thì hẳn ta có thể bắt gặp từng tia nắng vàng ươm chiếu rọi lên mái tôn của hàng dài các kiến trúc cổ kính, soi sáng cả những gian phòng gác mái sâu tít bên trong đại lộ Ringstraße.
Dòng người bộn bề đan vào nhau trên phố như một đường chỉ được may cẩn thận, người có bạn đồng hành, cũng có kẻ đơn độc, tất cả đến rồi đi vì những lẽ cá nhân - tựa hồ một bức tranh mà ai nhìn vào cũng cảm nhận được sự xô bồ và phấn khởi nơi thủ đô sầm uất.
Từ tầng ba của một tòa nhà nằm giữa cung đường tấp nập ấy, Minji ngồi bên bàn làm việc, ánh mắt chậm rãi dõi theo từng chuyển động của cảnh vật bên dưới, mong mỏi ghi nhớ tất cả. Nàng thật sự muốn biến khung cảnh náo nhiệt này thành con chữ, hòng tô điểm cho tác phẩm tiếp theo của mình, song, mỗi khi tay nàng di chuyển ngòi bút để nét mực nhuốm đều từng nét thanh mảnh trên tờ giấy trắng, hàng chân mày rắn rỏi kia đều bất giác mà đanh lại.
Minji chống cằm lên bàn, từng ngón tay điêu luyện xoay xoay chiếc bút lông vũ. Bản thảo này, rồi đến bản thảo khác, và nàng đều không tài nào ưng ý với tất thảy.
Nhà họ Kim định cư ở Áo khi người con gái út vừa lên 10 tuổi. Ngót nghét mà đã mười bốn năm, đứa trẻ lần đầu bập bẹ những câu tiếng Đức đầy vụng về, giờ đã trở thành một tác giả tiểu thuyết hư cấu hiện thực, với đôi ba tác phẩm bán rất chạy.
Nhiều người cho rằng thành công này là nhờ cốt truyện có phần đột phá về những mảnh đời dù bình dị nhưng lãng mạn, truyền tải bằng lối kể chuyện nhẹ nhàng, cách khai thác nội tâm nhân vật sâu sắc. Đâu đó cũng tồn tại một số ý kiến cho rằng nội dung của chúng quá trừu tượng và xốc nổi đối với tiêu chuẩn của xã hội thời bấy giờ.
Tất nhiên, ngòi bút của nàng chẳng thể làm hài lòng tất cả được. Ở trong cái thời đại mà nghệ thuật luôn được đón nhận đa chiều và nghiêm khắc, dù bằng bất cứ phương tiện hay hình thức nào, thì việc được số đông độc giả đánh giá cao tác phẩm của mình đã là niềm tự hào quá đỗi lớn lao rồi.
Ấy vậy mà, vị tác giả vốn đã từng rất tự tin ấy, giờ đây lại đang đánh giá thấp con chữ của chính mình hơn bao giờ hết. Ý tưởng lần này quả thật rất táo bạo, nhưng khi triển khai thì câu từ của nàng lại thiếu sức sống làm sao.
Có phải nàng tham lam quá rồi không, cứ mơ tưởng về một câu chuyện mà bản thân chẳng đủ khả năng để viết. Kể cả những nhân vật dù thốt ra lời hay ý đẹp, lại chẳng mang đến tí cảm xúc nào cho người đọc - cho chính nàng, vì tác giả luôn là độc giả khó tính nhất của bản thân đấy thây.
Kim Minji dần trở nên bế tắc.
Đó là khi thiếu nữ nọ bắt gặp tiếng reo hò của đám đông bên dưới. Đối diện với tòa nhà này là một quảng trường lớn, và cứ vào mỗi buổi chiều, những con người ham vui sẽ tụ tập với nhau để cùng chơi nhạc, nhảy múa.
Vienna, nơi được người đời truyền tai nhau là thành phố của những kẻ mộng mơ, cũng là cái nôi của những con người say mê thứ gọi là âm nhạc đến lạ. Không phải tự nhiên mà đất nước này lại trở thành điểm dừng chân của bao nhiêu nhà lữ hành lang thang ngoài kia - điều đó, nàng biết rất rõ.
Beethoven, Mozart, Schubert, Haydn, và nhiều hơn thế nữa - âm nhạc của họ đã làm rúng động cả thế giới, để lại cho cường quốc này những tác phẩm bất hữu.
Thế nhưng, Minji lại không thể thẩm thấu được sức hút mãnh liệt của âm nhạc đối với người đời. Nàng không phủ nhận rằng nó rất bắt tai, song, dăm ba lời nhận xét cũng chỉ dừng lại ở đó. Nàng chẳng đủ am hiểu loại hình nghệ thuật này, và cũng chẳng quá hứng thú với nó là bao.
Nghĩ ngợi xa xăm một hồi, cảm thấy dù mình có viết thêm bao nhiêu cũng chẳng đến đâu, nàng liền dọn dẹp đồ đạc, cầm theo chiếc vali cùng quyển sổ tay đã sờn gáy, rồi rời khỏi phòng làm việc chất đầy thư từ.
Nơi đây là một tòa soạn, vốn chẳng quá lớn, nhưng đã hái được vàng từ ngày ký hợp đồng dài hạn với Minji, đổi lại, các tác phẩm của nàng đều sẽ do họ chịu trách nhiệm xuất bản ra cả nước. Tất nhiên, kể cả bên trong tòa nhà ấy cũng chẳng có bao người biết được danh tính thật sự của quý cô ngoại quốc này.
Hay nói đúng hơn, liệu có mấy ai biết rằng Kim Minji và tác giả Dorothee M. là một?
Khi được một vị biên tập tò mò hỏi về bút danh ấy, nàng chỉ cười rồi bảo đấy là lời tri ân dành cho nơi nàng đã sống suốt mười bốn năm qua.
Minji đứng trước một trạm dừng cách tòa soạn không xa. Nàng cùng một vài người đang chờ đợi chuyến xe điện vào lúc năm giờ chiều - xấp xỉ sáu phút nữa. Dựa vào phục trang của họ, nàng đoán đây là lữ khách từ phương xa, đến để trải nghiệm thành phố này. Tất nhiên, đó cũng không phải việc mà nàng nên can dự.
Cái đáng nói là khi Minji cố gắng chuyển sự chú ý của mình sang chỗ khác, nàng đã bất giác bị thu hút bởi một giai điệu nọ - như ghé sát bên tai và thì thầm từng lời một. Thật kỳ lạ, nhạc sĩ vốn luôn đầy rẫy trên đường phố Ringstraße, và đối với nàng, âm điệu mà họ tạo ra đều chẳng khác nhau là mấy.
Kể cả vào giờ phút này, cũng phải có ít nhất năm bản nhạc khác nhau vang lên quanh đây, vậy điều gì đã khiến thanh âm đang vọng trong tai nàng đặc biệt hơn thảy?
Minji nhìn quanh, song có vẻ vị nhạc sĩ mà nàng đang tìm kiếm chẳng hề ở gần đến vậy. Ngập ngừng, e ngại, nhưng rồi đôi chân nàng đã rời khỏi vạch kẻ ở trạm dừng để lần mò theo giai điệu nọ, mặc cho chuyến xe nàng mong mỏi chờ đợi đã sắp tới nơi.
Nó dẫn Minji tới một góc nhỏ sâu thẳm bên trong quảng trường - một khuôn viên được bao quanh bởi những tán phong đỏ đang mùa rụng lá. Tiếng violin - nàng nghĩ vậy - từ ban nãy, giờ lại càng rõ hơn bên tai, phóng túng thoát khỏi cái ồn ào của phố thị. Và ở giữa mảnh đất trống trãi ấy, hiện hữu một dáng hình đang hòa mình vào giai điệu, để cho những nốt nhạc từ chiếc vĩ cầm vang lên đầy tự nhiên.
Ánh nắng chiếu qua từng kẽ lá, lốm đốm những vệt sáng rọi lên gương mặt đang nhắm nghiền mắt theo bản nhạc. Ngón tay điêu luyện bấm từng dây đàn không ngơi nghỉ. Thiếu nữ ấy, với mái tóc đỏ như xế tà và thân người nhỏ nhắn, xinh đẹp không chút tì vết, hệt bức tượng thạch cao được chạm khắc tinh xảo bởi nghệ nhân lão làng nhất của thời đại mà Minji có thể dễ dàng bắt gặp tại một triển lãm nổi tiếng.
Khoảnh khắc ấy, nắng, gió, và những chiếc lá phong đỏ hối hả lìa cành, tất cả đều như đang đứng về phía em - vị nhạc sĩ xa lạ.
Và thanh âm phát ra từ cây vĩ cầm đó, chính là thứ khiến tâm tình nàng thêm khó hiểu bộn phần.
Tiết tấu dồn dập đến nghẹt thở, nhưng cũng lại thật nhẹ nhàng, giống như ngọn đèn dầu vô thức bị xa lánh vì con người ta sợ bỏng tay, song bản chất nó chỉ vừa đủ soi sáng một góc nhỏ giữa màn đêm tĩnh mịch.
Chẳng chứa lấy một lời hát nào, nhưng lại diễn cảm hơn hằng hà sa số quyển tiểu thuyết nàng từng đọc qua. Có phải đây là thứ mà mọi người hay nhắc tới không, rằng âm nhạc mang đến cho họ những cảm xúc khó tả?
Từ góc nhìn của một nhà văn, nàng tin rằng thứ đang dần được lấp đầy trong tim mình lúc này giống với thứ "hy vọng" và "kỳ vọng" mà nàng đã từng viết lên cho những nhân vật trong câu truyện giả tưởng.
Cho tới khi hồi kết đã cận, tới rồi đi tựa cơn gió, cho phép cây vĩ cầm rời khỏi vai người nghệ sĩ, Minji lại có chút tiếc nuối khôn nguôi.
"Vừa rồi...là gì vậy?" Trong vô thức, nàng đã để dòng suy nghĩ của mình cất ra thành lời.
Nhận ra bản thân có một vị khách không mời, người con gái ấy ngỡ ngàng nhìn về phía Minji. Nhưng bẵng đi một lúc, em lại khẽ gật đầu - một lời chào hỏi - rồi nở nụ cười ấm áp như chút nắng cuối Thu, dịu dàng đáp, "Là Canon in D - Pachelbel."
II.
Bên trong một cửa hàng nọ, Minji ngó nghiêng vài vòng, trầm trồ với những món hàng được bày trí quanh đây. Khi đã nhìn tới chán chê, nàng đi đến quầy tính tiền, trả một đồng 2 Krone rồi chào tạm biệt ông lão bán hàng hiếu khách. Ra về với chiếc túi giấy trên tay, nhà văn chìm mình vào đám đông ngoài phố dưới ánh nắng nhẹ nhàng của Vienna.
Chuyến xe điện về lại Oper mất tầm hai mươi phút, và sau đó, nàng sẽ phải dành thêm năm phút đi bộ để tới được Dorotheergasse.
Trên toa tàu náo nhiệt, ai nấy cũng đều rất vừa ý với những món hời mà họ tìm được nơi con đường mua sắm nhộn nhịp của Mariahilfer Straße. Ở băng ghế đối diện, nàng trông thấy một gia đình ba người đang cười đùa với nhau, trên tay bé trai ấy là một chiếc violin mới toanh, có vẻ là món quà mà đôi vợ chồng trẻ đã mua cho đứa con của họ.
Nó khiến Minji nhớ về ngày hôm ấy.
Bên dưới mái vòm dẫn vào khuôn viên thoáng đãng, nàng - kẻ vốn chẳng đoái hoài gì tới nhạc phẩm giống bao người, lại trót say mê tiếng vĩ cầm của một thiếu nữ xa lạ.
Những ngón tay thoăn thoắt, từng lần kéo đàn mượt mà, và vẻ thư thái của người con gái đang tận hưởng chính mình trong giai điệu tươi sáng ấy - tất thảy đã hằn vào tâm trí Minji những vết khắc khó có thể nhòa phai.
Đoạn ký ức đó bất giác khiến khóe môi nàng cong lên.
"Trạm kế tiếp: Oper!"
Tiếng thông báo của bác tài - trầm và khàn đặc cái chất giọng của tuổi già, đã kéo Minji trở về thực tại. Ôi trời, nàng vừa mộng tưởng giữa ban ngày sao? Có chút xấu hổ, nàng lúng túng tút tát lại cà vạt rồi xuống xe cùng đoàn người chen lấn, vội vã trở về.
Ngôi nhà của Minji, thoạt nhìn từ bên ngoài thì chẳng khác với kiến trúc nhà cửa tầng lớp trung lưu tại Vienna là bao. Hai tầng lầu và một căn gác xép, với thiết kế nhẹ nhàng, tối giản, được tô điểm thêm bởi những viên gạch nung đỏ bắt mắt.
Bên trong cũng chẳng có gì quá nổi bật, có chăng là vài món đồ nhỏ nhặt mà gia đình nàng đã mang từ quê hương sang đất nước này vào mười bốn năm trước: sách, đồ mỹ nghệ, và bộ sưu tập đồng xu của bố nàng.
Thuở bé, Minji chưa từng hiểu được giá trị của chúng. Giống như cái cách nàng của bây giờ chẳng biết làm sao để khởi động chiếc máy hát trong phòng khách vậy. Đã từ lâu rồi, không ai động vào nó. Nàng cũng chẳng nỡ cất đi, nên vẫn đều đặn lau chùi cho chiếc máy này mỗi ngày.
Thứ này thuộc sở hữu của mẹ nàng. Bà say mê văn hóa phương Tây, và âm nhạc cũng không phải ngoại lệ. Trên chiếc kệ gỗ, bên cạnh những quyển tiểu thuyết do đứa con gái tài giỏi của ngôi nhà này viết nên, chính là hàng chục đĩa than tuyển tập những nhạc phẩm kinh điển nhất của thời đại.
Tối qua, Minji đã thầm chất vấn mẹ rằng tại sao trong cả núi đĩa đó lại không có thứ mà nàng đang tìm.
Nàng lục lọi trong túi giấy để lấy ra một chiếc đĩa mới tinh, bờ môi khẽ lẩm bẩm từng từ được ghi trên vỏ đựng: Canon in D - Pachelbel.
"Quý cô quả thật tinh tế. Nhạc của Pachelbel không quá phổ biến, nên có thể nói đây là một món hàng hiếm có đấy," Ông cụ bán hàng ấy đã hồ hởi giới thiệu với nàng như vậy.
Song, nàng cũng tò mò liệu mẹ sẽ vui khi biết bộ sưu tập quý giá của bà lại có thêm một sự bổ sung mới chứ?
Ít nhất thì nàng hiểu rằng sẽ mất khá lâu để mình có thể nhận được câu trả lời thỏa đáng.
Sau một hồi lọ mọ, thiên tài họ Kim có vẻ đã nắm được cơ chế hoạt động của chiếc máy này, liền để đĩa than lên mâm xoay rồi cẩn thận đặt đầu đọc xuống, lo sợ cây kim nhọn hoắc ấy sẽ làm hư hại chiếc đĩa.
Lặng một tí - đủ lâu để Minji nhầm tưởng bản thân đã khởi động cái máy này sai cách, giai điệu quen thuộc ấy chậm rãi vang lên. Từ những nốt đầu tiên, nàng đã biết chính là nó, hay nói đúng hơn, một bản phối phổ biến của nó, được chơi bởi một dàn nhạc nhỏ ở Berlin. Dù có là Wiener Symphoniker hay dàn nhạc vô danh nào đó, thì sao cũng được mà, kẻ mù nhạc như nàng đây chẳng có quyền kén chọn đến thế.
Ngã lưng lên chiếc sofa đơn, nàng khẽ thổi vào tách trà đen đã pha sẵn, vừa nhấm nháp vừa thưởng thức bản nhạc. Hương thơm của lá trà hòa quyện với giai điệu êm tai, thật kỳ lạ rằng nàng lại cái thích cảm giác này tới vậy.
Tại vì sao? - Nàng tự hỏi.
Minji đặt tay lên cằm đầy trầm mặc, để cho tâm trí mình suy tư về lý do khiến giai điệu này đặc biệt sâu sắc đến thế. Vừa thanh thoát, lại vừa trang nhã. Như một giai thoại yên bình, hoài niệm, nhưng cũng tràn đầy hy vọng.
Tuy nhiên, so với cái hùng hồn, mãnh liệt từ hàng chục nhạc công, thì nàng cho rằng tiếng vĩ cầm đơn lẻ của thiếu nữ nọ lại nhẹ nhàng, sâu lắng hơn cả.
Nàng nhìn đồng hồ trên mu bàn tay mình đầy ẩn ý. Khi bản nhạc vừa hết, Minji lập tức đứng dậy, cầm lấy vali rồi rời khỏi nhà, bỏ lại cốc trà còn uống dở. Đôi chân khỏe khoắn bước những bước khẩn trương trên phố, cho tới khi vị tác giả thành công thoát khỏi đám đông náo nhiệt để tìm đường tới khuôn viên hôm ấy.
Đúng như nàng mong mỏi, hôm nay người đó cũng ở đây.
Em ngồi trên băng ghế, đôi tay ân cần phủ nhựa thông lên cung vĩ của mình. Đôi mắt ấy sắc nhọn tựa lưỡi dao, và hàng lông mi đen dài khẽ run lại đầy diễm lệ. Mái tóc nhẹ bay trong gió của em, khi chìm mình vào màu nắng và những tán lá phong đỏ, khiến nàng có chút lầm tưởng rằng em cũng là một phần đẹp đẽ của cảnh vật nơi này.
Trước khi Minji kịp đưa ánh mắt của mình đi nơi khác, em đã bất chợt ngước mặt lên để bắt gọn kẻ đang nhìn chằm chằm mình. Điều này, khiến nàng chỉ muốn trốn sau chiếc cột gần đấy.
"Chị đã quay lại." Em cất lời, chất giọng mềm mại tựa hồ một dải lụa.
"Tôi đang trên đường từ nơi làm việc trở về. Mong em lượng thứ nếu tôi vô tình làm phiền."
Một lời nói dối trắng trợn, song chẳng hề có chủ đích xấu xa. Nàng chỉ không dám thừa nhận rằng mình muốn được gặp lại người con gái này.
"Chị thích màn trình diễn đó chứ?"
Em khẽ khàng, như thể đã ấp ủ câu hỏi này từ lâu.
Cũng dễ hiểu thôi, vào cái ngày hôm đó, khi người nghệ sĩ vĩ cầm vừa dứt lời, tiếng chuông điểm năm giờ đã vang lên từ một nhà thờ gần đấy. Nhận ra bản thân đã trễ chuyến tàu, nàng vội vã chạy đi mà không kịp ngoảnh lại nhìn đối phương lấy một cái.
Người bình thường sẽ chất vấn chuỗi hành động khó hiểu của nàng. Song, em có vẻ lại chẳng quá dè chừng với điều đó.
"Một trải nghiệm đáng nhớ. Tôi chưa từng nghĩ mình lại có thể bị một giai điệu mê hoặc đến vậy."
Có chút ngạc nhiên, em mở to đôi mắt rồi chậm rãi khép lại, hàng chân mày thả lỏng bày tỏ vẻ hài lòng.
"Các tác phẩm của Pachelbel tuy không quá nổi tiếng, song đã để lại ấn tượng sâu sắc vào cái dịp tôi ghé thăm Berlin."
Minji gật gù. "Quả thật vậy. Tuy nhiên, với vốn hiểu biết còn hạn hẹp của mình, tôi lại nghĩ rằng vẫn còn thứ gì đó em chưa truyền tải được cho tôi."
"Bitte?"
"Là tên em."
Thiếu nữ nọ bật cười trước câu nói của nàng. Quả là cách táo bạo để làm quen với một quý cô đấy.
Em đưa cho nàng một tấm danh thiếp màu xanh lục, trên đó vỏn vẹn cái tên "Haerin Kang" được viết tay bằng mực in nhủ màu vàng, rồi tự giới thiệu bản thân là một nghệ sĩ lang thang. Thật ngạc nhiên làm sao khi cả hai có thể gặp được đồng hương tại một đất nước xa xôi.
Minji cũng định đưa em danh thiếp của mình - trên danh nghĩa là biên tập viên ở tòa soạn, ấy vậy mà, dù nàng đã tìm nát túi áo thì vẫn chẳng thấy gì cả. Có vẻ trong lúc gấp gáp đến đây, nàng đã để quên chúng ở nhà.
Nàng liếc nhìn chiếc vali trên tay, rồi lại trộm nhìn gương mặt khó lòng mà đọc vị ấy.
"Cho hỏi, không biết quý cô đây có đánh giá cao khả năng giữ bí mật của mình chứ?"
"Kỳ thực mà nói, bản thân tôi cũng có không ít điều muốn giữ riêng cho mình đấy thôi."
Trong một khoảnh khắc, Minji đã có thể bắt gặp cái vẻ tinh nghịch thoáng qua trên gương mặt em. Nàng khúc khích rồi lấy từ trong vali ra một quyển sách không quá dày - tác phẩm đầu tay của Dorothee M. vốn chưa từng được xuất bản, và đặt vào tay Haerin.
"Vậy liệu em có thể giữ giúp tôi bí mật này chứ?"
Lên mười sáu, Haerin bắt đầu chu du khắp nơi với chút tiền tiết kiệm, một cái vali nhỏ và cây violin cũ. Thiếu nữ vừa chập tuổi trưởng thành lao mình vào thế giới xô bồ rộng lớn và sống nhờ vào niềm đam mê âm nhạc. Điều đó thật trìu mến, nhất là khi em gợi lại cho nàng về mẹ mình.
Và rồi sáu năm sau, em ở đây, nơi Vienna trữ tình. Giai điệu từ cây vĩ cầm của em du dương hệt khúc hát ru, còn bản thân người thiếu nữ lại xinh đẹp tựa hồ bức tranh của những bậc danh họa, chẳng hạn như Gustav Klimt lừng lẫy.
Họ từ biệt nhau lúc mặt trời đã dần lặn ở miền đồi phía Tây Wienerwald, để cảnh vật chìm vào màn đêm mộng mị.
Suốt ba ngày đêm tính từ lúc đó, Minji ép mình vào công việc không ngơi nghỉ, tới mức nàng ăn ngủ cả thể ở tòa soạn và chỉ trở về nhà vào buổi chiều ngày thứ tư.
Trước bậc thềm, nàng vô tình trông thấy dáng hình nhỏ nhắn của thiếu nữ với cây violin quen thuộc, đang ngó nghiêng từ đăng xa. "Cô...Kang?"
Khi cả hai chặm mặt, em liền tròn xoe mắt rồi chạy về phía Minji.
"Guten Tag. Thật tốt quá, tôi đang đi tìm chị đấy."
Minji ngỡ ngàng nhìn em, như thể thấy ma giữa ban ngày. Nếu dự cảm của cô không sai, thì đừng bảo em đã loanh quanh trên con phố này suốt bốn ngày qua đấy nhé?
Không, không. Đó chẳng phải vấn đề đáng nói nhất lúc này.
"Sao...sao em biết tôi sống ở đây?"
Haerin nở một nụ cười ẩn ý. Trong tay em là một mẫu giấy được gấp làm tư, trên đó viết hai dòng chữ với hai nét bút hoàn toàn khác nhau.
Nàng chợt hiểu ra tất cả.
'Cô Kim, xin lỗi vì đã làm phiền, liệu tôi có thể hỏi rằng bút danh của cô từ đâu mà có không?''
'Nếu muốn ghé thăm tôi, hãy tới phố Dorotheergrasse nhé. ᵔ ᵕ ᵔ '
Ôi, nàng phải bỏ cái thói quen vớ đại một thứ gì đó để làm đồ đánh dấu sách thôi.
III.
Haerin không phải là kiểu người cởi mở, liến thoắng. Đó cũng là lý do em bắt đầu chuyến hành trình xuyên lục địa này một mình mà chẳng có sự đồng bạn của ai.
Song, dù đặt chân tới đâu, thì âm nhạc của em đều như một sợi dây cáp kết nối giữa người với người.
Ngôn ngữ của những người xa lạ, chuẩn mực từ bao nền văn hóa, chúng làm em trở nên lúng túng, vụng về. Nhưng chỉ riêng thanh âm của những bản nhạc lại có thể khiến tất cả mọi người hòa chung vào một giai điệu.
Dù đối phương có là thôn dân bình thường hay một nhạc công giàu kinh nghiệm, buổi diễn cũng sẽ tàn trong tiếng cười hân hoan mà họ trao nhau.
"Nhưng tôi chưa từng gặp ai như chị." Em nói, lòng bàn tay mân mê cốc cà phê nóng vừa được Minji pha cho. Em thích thức uống của mình nguội một chút.
Nàng đặt tách trà của riêng mình lên bàn rồi ngồi xuống chiếc ghế đối diện với em. "Tôi đặc biệt tới thế sao?"
Trong gian bếp ấm cúng của Minji, em có thể ngửi thấy mùi xạ hương và gỗ cháy thoang thoảng. So với khói bụi công nghiệp, căn phòng này làm em nhớ về những cánh đồng bạt ngàn, phủ xanh tới tận chân trời xa xăm kia ở miền Nam nước Ý. Người dân nơi đó đã mời em những ổ bánh mì Pane di Altamura vừa mới ra lò, ăn kèm dầu ô liu, và cũng thân tặng vị nghệ sĩ một chai rượu vang đỏ - loại hảo hạng nhất Puglia, họ bảo vậy. Haerin không thích rượu, song em cảm kích lòng hiếu khách của họ một cách sâu sắc.
Và, để mà nói, nơi đây cũng có một chút hương vị của quê nhà. Tiếc là bây giờ em chẳng thể trở về nơi đó được nữa.
"Chị không thưởng thức âm nhạc như người thường."
Nàng nhấp một ngụm trà trước lời cáo buộc ấy. "In der Tat, bởi vì tôi vốn không mấy hứng thú."
"Jedoch, chị lại thích màn trình diễn của tôi."
Em nhấn mạnh. Mặc cho điệu bộ hờ hững, Haerin không hề có ý mỉa mai. Ngược lại, điều đó khiến em có chút cảm động. Ở phía đối diện, Minji bị làm cho cứng họng chỉ biết ậm ự cho qua.
"Tôi đã đọc nó, ấn phẩm gần đây nhất của cô Dorothee. Bà ấy có ý định viết thêm chứ?"
Minji mém làm đổ tách trà trước cách gọi từ trên trời rơi xuống ấy. Vì chưa từng xuất hiện trước công chúng, nên chẳng ai gọi nàng như thế cả. Ngoại trừ Haerin. Người con gái này thật sự quá khó đoán rồi.
Nàng ái ngại cười rồi bảo, "Dorothee... tôi đang gặp chút khó khăn."
Mỗi khi bị dồn vào đường cùng, nàng đều sẽ đến thư viện của tòa soạn, tìm đọc đủ tác phẩm từ các nhà văn lớn nhỏ để có được chút cảm hứng sáng tác. Ba ngày qua cũng không ngoại lệ, nhưng chẳng có tiến triển gì cả. Bất lực, Minji đã trở về nhà.
"Một viễn cảnh tươi sáng và tràn ngập hy vọng - đó là những gì tôi đã liên tưởng tới vào lần đầu được nghe Canon in D do chính tay em chơi."
Và kỳ thực là nàng trở về cũng chỉ vì muốn ngồi xuống cạnh chiếc máy hát, mong cầu được trải nghiệm lại cái cảm giác đó lần nữa. Nếu trái tim nguội lạnh này có thể được lấp đầy bằng cảm xúc chân thực và mãnh liệt nhất, thì từng câu từ xuất phát từ trong thâm tâm cứ thế sẽ lại tuôn trào như sóng vỗ trên giấy, mà không cần phải nghĩ ngợi quá nhiều, như thể được sống lại cái khoảnh khắc lần đầu nàng cảm nhận được niềm vui của việc sáng tác vậy.
Minji nhìn quyển sổ tay của mình, rồi lại nhìn em. Đôi mắt nâu sẫm màu gỗ lim đó khẽ run nhẹ chút một. Có ai mà ngờ rằng Kang Haerin sẽ xuất hiện trước cửa nhà nàng chứ?
Như hiểu được ý nghĩa của ánh mắt ấy, em phì cười bất lực rồi lấy ra cây violin từ trong hộp đựng bằng da.
"Khoan đã." Trước khi em kịp kéo cung vĩ, Minji đã ngăn em lại. Haerin không nói gì, nhưng đôi mắt mở to đang chăm chăm nhìn nàng và hàng chân mày khẽ cau lại đã đủ để biểu thị sự bất mãn của một người vừa bị làm cho mất hứng. Bị em nhìn cho nát mặt, Minji liền lắp bắp . "Ấy...không...Tôi có thể mạo muội yêu cầu em chơi một tác phẩm khác chứ?"
"Và chị muốn đó là gì?"
"Gì cũng được."
Haerin ngân nga một nốt cao trong cổ họng, như thể em vừa kéo một đường vĩ thật dứt khoát. Em vốn cảm thấy khó xử khi có ai đó bảo em có thể chơi bất cứ thứ gì mình muốn. Chỉ riêng với Minji, em hiểu rõ rằng người này thật sự chẳng thể chọn được gì, bởi không có bất kỳ sự lựa chọn nào được bày ra cho nàng cả.
Ngón trỏ của em gõ vào phần thân rỗng trên cây violin - một thói quen đã có từ lâu mỗi lần em suy tư. Tiếng gõ ấy, lúc nhanh lúc chậm chứ chẳng tuân theo một khuôn khổ nhất định nào, tựa một giai điệu ngẫu hứng mà em tự ứng biến giữa lúc nghĩ ngợi. Minji thấy điều đó mới thú vị làm sao.
Nghĩ một hồi, em cười thầm rồi lại đặt violin lên vai. "Vậy tôi xin mang tới cho chị: Air on the G string - Bach."
Trong giới chuyên môn thời ấy, nhạc phẩm "Orchestral Suite No. 3 in D Major, BWV 1068" của Bach vốn đã chẳng quá xa lạ. Tuy nhiên, Haerin chỉ từng nghe qua nó ở các buổi hòa nhạc, được trình diễn bởi những vị nhạc công ăn mặc lịch thiệp trên sân khấu rực rỡ ánh đèn.
Em chưa từng thử chơi nó trên violin, chí ít là cho tới một ngày vào mùa Xuân của ba năm trước. Khi nhìn qua lớp cửa kính tại một tiệm bánh ngoại trong lòng thành phố Leeds, nước Anh, Haerin đã bắt gặp một người đàn ông nọ đang chơi nhạc với chiếc đàn vĩ cầm ở bên kia đường. Miệng em nhâm nhi chiếc bánh red velvet, còn đôi tai thì bận thưởng thức bản độc tấu ấy.
August Wilhelmj đã biên soạn lại nó cho violin. À, và cả piano nữa. Từ đó, cái tên "Air on the G string" ra đời. Nhưng nếu Haerin biết rằng phiên bản này tuyệt đến vậy, thì em đã thử chơi nó từ lâu rồi chứ đâu đợi gì tới hôm ấy.
Quay trở về với hiện tại, khi nốt nhạc cuối cùng đã lắng xuống, trả sự im lặng lại cho gian phòng nhỏ, Haerin chỉ nghiêng đầu nhìn Minji. Đổi lại, nàng gật đầu, thủ thỉ, "Em có thể lại đến đây và chơi nhạc cho tôi thường xuyên được chứ?"
Cứ bốn ngày một tuần, mấy vị đồng nghiệp của Minji sẽ lại trông thấy một quý cô trẻ đứng chờ trước cửa tòa soạn mỗi giờ tan làm. Gu của mấy gã đàn ông trung niên mà nàng quen biết là phụ nữ trang nhã, kiệm lời. Dù đã ăn mặc hết sức kín đáo, Haerin vẫn không thoát nổi tầm ngắm của họ. Điều đó khiến nàng phải nhanh chóng xua đuổi mấy con sói già này đi. "Nếu em ấy không được thì cô Kim cho tôi cái hẹn nhé?" Một anh chàng đùa cợt rồi khẩn trương chạy trốn trước khi bị Minji tác động vật lý.
"Họ...thú vị thật đấy." Em cảm thán.
"Xin em hãy thứ lỗi cho họ. Cơ mà, hôm nay là gì thế?" Nàng ngỏ ý cầm hộ mấy chiếc túi giấy bốc khói nghi ngút trên tay Haerin.
Để mà nói thì, vị nhạc sĩ ấy không giỏi nấu ăn đến vậy. Kỹ năng của em chỉ đủ để sống qua ngày, và đa phần mọi lúc, em đều sẽ dùng bữa tại các quán trọ mà mình lui tới. Về phần Minji, nàng thích vào bếp để tự chuẩn bị bữa ăn cho mình, song lại chẳng quá ưng cái khâu rửa bát đĩa. Mỗi ngày, hàng quán ở Vienna sẽ lại mọc lên như nấm, nên chỉ cần có chút ngân quỹ, nàng sẽ chẳng lo chết đói. Tóm lại, họ không tự nấu, mà mua đồ ăn bên ngoài, và Minji cũng đã dặn dò em rất cẩn thận rằng mình không ăn rau. Đổi lại, em chỉ khúc khích như muốn bày trò trêu chọc chị. Bữa tối hôm ấy là xúc xích nướng và bánh mì kẹp thịt nguội.
"Ôi dào. Leberkäse ở chỗ này đỉnh ghê nha."
Haerin cười thầm khi nhớ lại lời khẳng định chắc nịch của chủ quán rằng "đây là Leberkäse ngon nhất Innere Stadt" - một tuyên bố hết sức táo bạo, nhưng xét từ phản ứng của Minji, có lẽ ông ấy thật sự có lý do để tự tin đến vậy.
Cả hai vừa thưởng thức bữa tối, vừa cùng nhau trở về căn nhà quen thuộc trên phố Dorotheergasse.
Khi Minji chuẩn bị đồ ăn nhẹ, Haerin sẽ lại phủ nhựa thông lên cung vĩ của mình, và trong lúc vị nhạc sĩ dồn toàn tâm toàn ý vào cây violin để tạo ra những giai điệu mỹ miều nhất, cô nhà văn trẻ tuổi sẽ lại nhắm nghiền mắt, với cuốn sổ tay nằm gọn trên đùi, để có thể tìm được nguồn cảm hứng cho tác phẩm tiếp theo.
Beethoven, Mozart, Strauss II, Bruckner,... chỉ cần em biết chơi, nàng đã đều được nghe qua cả.
Lắm lúc, Minji có thể bắt gặp em đang chăm chú vào bộ sưu tập đĩa than của mẹ nàng. Em tâm sự rằng bản thân cũng muốn sở hữu một chiếc máy hát - một ước muốn có phần viễn vông vì tính chất cuộc sống của em. Nhìn thấy ánh mắt vốn luôn lạnh lẽo nay lại thoáng qua vẻ đuộm buồn, điều đó khiến Minji trầm mặc. "Hãy dùng nó mỗi khi em tới đây," Nàng ngỏ lời. Mặc cho Haerin ngại ngùng từ chối - một phần bởi vì những thứ này là của mẹ nàng, Minji đã khéo léo thuyết phục em rằng đây là quà đáp lễ vì đã chơi nhạc cho nàng nghe.
Em mong chờ gì từ một nhà văn dẻo miệng chứ?
Đó cũng là lần đầu tiên, nàng hiểu được một phần cái niềm vui và cảm giác tự hào của bố mẹ mình khi họ sưu tầm một cái gì đó. Có lẽ một lúc nào đó, nàng sẽ phải viết thư cảm ơn họ thôi.
IV.
So với một Kang Haerin cục mịch và kín tiếng, thì thứ âm nhạc của em lại phóng khoáng và diễn cảm đến bất ngờ, như thể bấy lâu nay, em đã mượn thanh âm của tiếng kéo đàn để bày tỏ suy nghĩ của bản thân.
Có phải đó là lý do vì sao mà những bản nhạc em chơi lại có sức hút đến nhường này?
"Em có ước mơ không?" Minji đã hỏi em vào một ngày nọ, khi cả hai đang ngồi cạnh nhau trên sofa, một người đọc về giai thoại của các nhà soạn nhạc nổi tiếng, người còn lại tút tát câu chữ trong sáng tác của mình.
Em đáp, không chút do dự, như thể đáp án đã nằm sẵn trong đầu từ lâu. "Tôi muốn được tiếp tục chơi nhạc."
Câu trả lời ấy không nằm ngoài dự tính của nàng. Người con gái này yêu âm nhạc hơn bất kỳ ai nàng quen biết ở Vienna, chưa kể, em còn có thiên phú. Chỉ trong ba tuần lượn lờ trên đường phố Ringstraße, tài năng của em đã được bao người công nhận.
Minji tự hỏi rằng ở một cuộc đời khác, em vẫn sẽ tiếp tục theo đuổi âm nhạc chứ, và nàng có thể ở đó để chứng kiến điều đấy không? Sẽ thật buồn cười nếu nàng cũng đứng trên sân khấu cùng em đấy chứ.
Song, dù biết rõ đáp án của Haerin, nàng vẫn tiếp tục hỏi. "Một cái gì đó cụ thể hơn thì sao? Một sự ổn định chẳng hạn?"
Haerin rời mắt khỏi những con chữ trên giấy, em đóng chặt quyển sách lại rồi đặt nó lên đùi. Ngón tay em lại gõ lên bìa sách một giai điệu ngẫu hứng, lần này trầm lắng và nhẹ nhàng hơn. Ánh mắt em nhìn đi xa xăm. Khi đã nghĩ đủ lâu, em đáp lời, giọng nói dịu dàng, thoảng qua như hơi thở.
"Vậy thì, tôi muốn trở thành nhạc công cho một dàn nhạc giao hưởng."
Em ra về vào chín giờ tối như mọi ngày, bỏ lại một Minji trầm tư dõi theo bóng lưng nhỏ nhắn ấy.
"Tin mới nhất đây! Nhật báo Neue Freie Presse và góc nhìn chuyên sâu về các mối quan hệ đối ngoại của Đế quốc!"
Một buổi sáng thứ Hai của tháng Mười, dòng người dưới đại lộ Ringstraße đang đông đúc hơn bao giờ hết. Minji đưa cho cậu bé bán báo một đồng xu, lấy một tờ rồi băng băng luồng lách qua sự hỗn loạn ấy để trở về tòa soạn. Ở tầng trệt, khi thấy nàng, mấy vị đồng nghiệp đã liền vây kín nhau bên cạnh tờ báo. Ôi, so với đám đông ngoài kia, mấy tên này còn thiếu phép tắc hơn thảy.
"Có 10 đồng Heller thôi, tự mua đi..." Nàng lầm bầm.
Mỗi ngày 10 đồng, một tuần 70 đồng, và họ đã xem ké suốt hai tuần nay rồi. Nhiêu đó là 1.4 Krone đấy! Có lẽ, nàng phải đánh thuế thôi.
Chỉ tới khi chủ tòa soạn hét lên về việc bà nên sa thải một vài người vì cạn kiệt ngân sách - chủ yếu là để giải vây cho Minji, họ mới giải tán và quay trở về bàn làm việc của mình, như chưa từng tỏ ra hứng thú với nội dung trên tờ báo đó. Giờ nghỉ trưa, nàng đã mời bà chủ một tách cà phê thay cho lời cảm ơn.
Sau giờ tan làm, Haerin vẫn đứng chờ nàng trước cửa tòa soạn như mọi khi, chỉ là hôm nay, trong tay em không phải bữa tối mà là một bức thư, và điệu bộ của em - cái xoay đầu, đôi mắt mở to khi trông thấy Minji, và câu "Guten Tag" quen thuộc - chúng đều chứa một chút xíu xiu sự tươi mới - chỉ đủ để nàng cảm thấy em khác với thường ngày.
Là tin vui, đúng chứ?
"Một nhạc trưởng mà em từng gặp ở Na Uy vào hai năm trước đã mời em đến học tại Nhạc viện Oslo."
Nghe vậy, một nụ cười rạng ngời từ từ nở trên môi Minji, như thể nàng mới chính là người nhận được tin tốt ấy. Nàng trao cho em cơn mưa lời khen rồi tinh nghịch huých vai em vài cái - vốn là hành động của một đứa trẻ chứ không phải của một quý cô hai mươi tư tuổi. Haerin biết mặt tăng động này của nàng, song em không ngờ nó sẽ đến mức này. Gò má của em nóng lên vì ngượng.
"M-mình ăn tối nha. Tôi đói rồi ạ."
"Em muốn ăn gì? Tôi trả!"
Sau hai mươi phút đi dọc vỉa hè, họ quyết định mua salad khoai tây, tráng miệng bằng bánh táo cuộn thơm lừng. Nhưng có vẻ, như vậy vẫn là chưa đủ với Minji, khi nàng cứ khăng khăng rằng mấy món này sẽ càng ngon hơn nếu có đồ uống phù hợp để thưởng thức cùng.
"Cái gì thì phù hợp?" Em hỏi.
Minji đảo mắt, giả vờ nghĩ ngợi. "Ôi, tôi không biết nữa? Vậy...một chút rượu thì sao, cho một dịp đặc biệt như thế này?"
Đó là khi Haerin nhận ra, nàng đã tia chai rượu vang của em từ cái lần được nghe qua về nó. Được thôi, dù sao không sớm thì muộn, loại rượu đắt tiền đó cũng phải được xử lý, và em thì chẳng có ai để uống chung ngoài nàng.
Với hai ly rượu thủy tinh, đồ ăn đường phố và nến thơm mùi hoa nhài, họ nâng ly chúc mừng thành tựu của vị nhạc sĩ. Tuy nhiên, chẳng mấy chốc, nụ cười của cả hai đã biến mắt, thay vào đó là những gương mặt đỏ ửng.
"Trong phòng mình có ai kìa Haerin."
"Đó là áo khoác của chị mà..." Em thở dài đầy bất lực, mặc cho bản thân cũng chẳng tỉnh táo là mấy.
Haerin biết rõ giới hạn của mình, nhưng điều đó cũng vô nghĩa khi chỉ vài ngụm, em đã say tí bỉ. Về phần Minji, nàng đã hùng hồn tuyên bố về việc tửu lượng mình cao như thế nào, và nếu hai ly được tính là "cao" thì nàng cần phải xem lại tiêu chuẩn của bản thân đấy.
"Không phải đâu, haha...Do nồng độ cồn cao quá thôi..." Minji cầm chai rượu lên rồi dí xát vào mặt em. "15% đó..."
"Vậy thì ngừng uống đi ạ."
Rượu mang đến cho cổ họng con người ta sự cay rát, và đối với nàng, điều đó chẳng mấy dễ chịu. Nhưng thay vì rót cho bản thân một cốc nước mát để làm dịu khoang miệng, nàng lại mượn những cuộc trò chuyện không đầu không đuôi này để tạm quên đi cảm giác khó chịu đó. Nhược điểm của giải pháp này, chính là việc nàng không thèm suy nghĩ, và cứ thế thốt ra những lời sâu thẩm từ trong thâm tâm.
"Em sẽ chờ tôi chứ...?" Minji hỏi trong cơn say.
"Bitte...?"
"Lỡ như mai này, nơi đây mất đi vẻ xinh đẹp vốn có, và...tôi cũng có thể mất đi một cánh tay hay đôi mắt, thì liệu em vẫn sẽ chờ tôi chứ?"
Haerin nhìn đi xa xăm, rồi lại nhìn nàng. Khóe môi em cong lên, rồi thì thầm từng chút một. "Chỉ cần chị vẫn muốn nghe tôi chơi nhạc, thì tôi nhất định sẽ chờ chị mà."
Lần đầu tiên kể từ cái ngày cả hai gặp được nhau, Minji đã có thể thấy được cái gì đó phản chiếu trong con ngươi đen tuyền của Haerin - nàng thấy chính mình.
Khoảnh khắc đó, Minji tưởng rằng tim nàng vừa mới bị gõ một cái "cốc" bởi chiếc búa nhỏ từ trong tay Haerin. Và rồi, nàng cười, một nụ cười pha lẫn những tiếng nấc biểu thị rằng nàng đã quá say rồi. Chỉ tới khi cả hai đã ngủ thiếp đi trên sofa, căn phòng khách ấy mới trở nên im ắng và cứ thế chìm vào màn đêm lạnh lẽo.
Một tuần nữa trôi qua trong một cái chớp mắt, tựa hồ bản nhạc khiến người nghe tiếc nuối vì quá ngắn ngủi. Đứng từ trên ban công, Minji nhìn về nhà ga Bắc Vienna, nơi có cột khói đen đang bốc lên nghi ngút từ đoàn tàu tiến thẳng đến Berlin. Chỉ trong vài ngày tới, Haerin sẽ bình vô sự tới được Na Uy, cất những bước đầu tiên để gần hơn với ước mơ của mình. Nàng mừng cho em vì điều đó.
Nàng càng nhẹ lòng hơn khi biết rằng em sẽ đợi mình, dù mất bao lâu đi nữa.
Mùa Thu ở Na Uy không giống với mùa Thu rực rỡ sắc màu thuở ký ức quê nhà, cũng không như mùa Thu lộng gió của miền Nam nước Ý, và càng chẳng phải mùa Thu với cái nắng nhẹ nơi Vienna trữ tình. Tiết trời nơi đây lạnh, được sương mù bao lấy quanh năm, đem đến cho Kristiania cái vẻ mơ màng, đặc biệt là khi mặt trời dần lặn, nhưng vẫn chưa quá tối để gọi là đêm xuống.
Một ngày cuối tháng Chín, 1919, Haerin rảo bước trên đường phố Cổng Karl Johans, ngó vào những cửa hàng qua khung cửa kính. Hôm ấy là thứ Bảy, và với chút thời gian rảnh trong tay, em đã quyết định lượn lờ vài vòng cho khuây khỏa để giải tỏa sự căng thẳng đang trào trực trong lòng ngực lúc này. Tuy nhiên, đa phần các cửa hàng đều quá đông đúc. Chỉ có một tiệm sách nhỏ nằm ở phía bên kia đường là chẳng quá bộn bề, có vẻ là nơi lý tưởng dành cho em.
Bà lão ở quầy tính tiền chào đón Haerin. Em cũng đáp lại bằng một cái cúi đầu.
Ngay từ khi bước vào cửa, cái tên thân thuộc của một vị tác giả nọ đã đập vào mắt em, như một phát súng bắn thẳng lên trời, thu hút toàn bộ sự chú ý của vị nhạc sĩ. "Die Symphonie des Herbstes" - tác phẩm mới nhất của Dorothee M. không chỉ được dịch sang tiếng Na Uy, mà còn là ấn phẩm tiểu thuyết bán chạy nhất trong hai tháng vừa rồi. Tất nhiên là em chỉ biết điều này sau khi nhìn qua những tấm áp phích quảng bá trong tiệm.
Cầm quyển sách đến quầy tính tiền, em hỏi bà lão về nội dung của nó.
"Một người không thể nhìn và một người không thể nói, họ tìm được đồng bạn ở nhau sau chiến tranh." Bà tươi cười đáp.
Em chần chừ, chuyển ánh nhìn của mình vào quyển sách. "Và có phải...cái người không thể nói là một nhạc sĩ?"
"Ôi, sao cô biết vậy? Đó là một nghệ sĩ cello."
Nghe tới đây, Haerin chợt phì cười, khiến bà lão có chút khó hiểu. Em gõ ngón tay lên bìa sách, một giai điệu bắt đầu chậm rãi nhưng dần tăng tốc khẩn trương, rồi nở nụ cười hài lòng.
"Nếu tiệm mình vẫn còn những tác phẩm khác của tác giả này, có thể cho tôi xem qua chứ? Tôi muốn mua chúng."
Bà cụ gật gù rồi lấy từ một chiếc kệ gỗ gần đó sáu - bảy cuốn sách, vài quyển trong số chúng, Haerin đã quá quen thuộc, nhưng cũng có những ấn phẩm mới toanh mà em chưa từng có dịp đọc qua.
Trông chúng có vẻ nặng nề, nhưng Haerin vốn đã quá quen việc mang vác đồ đạc lỉnh kỉnh bên mình. Em chào tạm biệt bà lão rồi đi tới một toà nhà lớn ở phía trước, nơi có đám đông những người ăn mặc sang trọng đang tụ họp.
Giữa trung tâm thành phố Kristiania, Đại học Oslo đang là địa điểm được chú ý nhất lúc ấy, bởi chỉ vài tiếng nữa thôi, ở tại Đại sảnh của ngôi trường này, một dàn nhạc giao hưởng vừa mới được thành lập sẽ trình làng buổi công diễn đầu tiên của họ. 59 nhạc công và 1 vị nhạc trưởng, nhiều người đã đồn đoán rằng đây chính là dàn nhạc giao hưởng chuyên nghiệp đầu tiên của Na Uy.
Haerin bước những bước khẩn trương trên sân khấu, đôi mắt đảo khắp nơi, còn mồm miệng thì liên tục hỏi "Cô/cậu đã bôi nhựa thông lên cung vĩ chưa??" mỗi khi nhìn thấy ai đó trong nhóm violin của mình. Ba tháng trước, vào ngày lên kế hoạch, nhạc trưởng đã chỉ định cho em một chức vụ, viết là 'Trưởng nhóm Violin 2' và đọc là 'trách nhiệm cao cả'. Nói cách khác, em chính là ngã ba trung gian giữa nhạc trưởng, Trưởng nhóm Violin 1, và các nhạc công trong nhóm mình. Vui thì có vui đấy, nhưng em vẫn lo rằng sự thiếu kinh nghiệm của mình sẽ kéo cả dàn nhạc đi xuống.
Trái lại, mọi người đánh giá cao Haerin, một phần bởi em tài giỏi mà lại rất nhẹ nhàng, kể cả khi có ai đó mắc lỗi. Song vào ngày trọng đại ấy, em dần trở nên hồi hộp và có chút cứng nhắc với lời ăn tiếng nói của mình. Cảnh tượng đó, ấy vậy mà lại đem đến cho dàn nhạc một tràng cười, xua bớt đi sự căng thẳng của họ. Cái gì tới rồi cũng phải tới thôi.
Trên sân khấu sáng đèn, với hàng nghìn đôi mắt đang dõi theo cả dàn nhạc, vị nhạc trưởng chờ cho tiếng vỗ tay râm ran như pháo nổ lắng xuống, rồi bắt đầu vung tay từng nhịp đầy dứt khoát. Những ngón tay không chần chừ hay nôn nóng, chỉ mong được ổn định để dẫn dắt cả dàn nhạc. Bằng không, buổi diễn này sẽ trở thành một thảm họa.
Thật tuyệt làm sao, từ nhạc trưởng tới những vị nhạc công, tất cả đều đã làm rất tốt, không chỉ phần của riêng họ mà còn phối hợp nhịp nhàng với thanh âm của mọi người.
Haerin hiếm khi chơi nhạc với đồng bạn, và càng hiếm khi có cơ hội được chơi ở một nơi quá đỗi đông người. Song, đó là câu chuyện của tám năm về trước. Có thể đứng trước hàng nghìn khán giả, em của hiện tại chính là sự nỗ lực và cố gắng tạo thành. Và, cũng có một chút thiên phú nữa.
Ngày hôm ấy, những nhạc phẩm đến từ Sinding, Wagner, và Beethoven, đã lại lần nữa tỏa sáng rực rỡ. Mọi thứ kết thúc trong tiếng reo hò tán thưởng của mọi người. Có những khán giả đã có tuổi phải gật đầu cảm thán về một màn biểu diễn từ trước đến nay chưa từng có của nền âm nhạc cổ điển Na Uy, cũng có những người trẻ được truyền động lực khám phá âm nhạc. Ai nấy trên sân khấu đều không khỏi hân hoan, Haerin thậm chí còn ngại ngùng đôi chút.
"Thế nào là được chạm tay tới ước mơ của mình vậy?"
Trong gian phòng khách quen thuộc, em hỏi Minji sau khi bản thân đã chơi xong một nhạc phẩm nữa. Lần này là Autumn (L'Autunno, RV 293), bản concerto thứ ba trong chuỗi bốn tác phẩm The Four Seasons dành cho violin của Vivaldi.
Không phải tự nhiên em tọc mạch, chỉ là khi nghe Minji bảo nàng đã muốn sáng tác truyện từ thuở còn bé, em liền có chút ngưỡng mộ vì chị đã thành công trở thành một nhà văn. Haerin có nhiều giấc mơ khác nhau, nhưng tất thảy đều quá xa xỉ. Em không có nhà, không có gia đình, cũng không có ai để nương nhờ vào những lúc khó khăn. Một người như vậy, có thể chạm tay tới ước mơ sao?
Minji rời mắt khỏi bài thơ sonnet đi kèm của bản nhạc này, trả lời em một cách thẳng thắn. "Tôi nghĩ rằng đó là cái cảm giác khi nhìn vào những gì mình làm ra, em có thể tự hào nói 'đây chính là kiệt tác của tôi' đấy."
Em gật gù trước đáp án của nàng. "Tôi nghĩ là mình hiểu."
"Thế, quý cô Haerin Kang đây có ước mơ gì không?"
"Khi nào thân đi, rồi tôi sẽ kể cho chị."
Em nhìn cây violin trên tay, rồi nhìn ra xa xăm, nơi những khán giả đang đứng lên để trao cho họ tràng vỗ tay không ngớt. Một nụ cười nhẹ nhàng - của hạnh phúc, của hy vọng, của khát khao, và của tự hào - dần dần hé nở trên môi em. Dưới ánh đèn sân khấu, thiếu nữ xinh đẹp ấy khẽ thì thầm với chính mình.
"Mein Meisterwerk."
Sau đêm diễn, Haerin không đi liên hoan với mọi người ở dàn nhạc mà chọn ở lại trong khuôn viên Đại học Oslo. Kể từ cái ngày hôm đó, em đã tự dặn lòng mình sẽ không động vào bia rượu nữa.
Em nhìn lên bầu trời, hơi thở phả ra một màu trắng xóa. Miền Nam Na Uy luôn là nơi có khí hậu ít khắc nghiệt nhất Vương quốc, song, nó vẫn đủ để khiến con người ta run rẩy vì lạnh. Vì chủ quan, vị nhạc sĩ đã để quên khăn choàng cổ ở nhà. Chiếc mũi nhỏ xinh và đôi tai của em dần ửng đỏ, còn môi thì có dấu hiệu nứt nẻ bởi cái tiết trời khô khốc này.
Em thổi vài hơi ấm vào đôi bàn tay lạnh buốt của mình. Đột nhiên, từ đằng sau, cổ của em lại được quấn quanh bởi một chiếc khăn choàng cỡ lớn. Cả người em cứng đờ, không dám cử động dù chỉ một chút. Đeo lên cổ em xong, người đó còn sẵn tiện buộc hai đầu khăn thành một chiếc nơ siêu to khổng lồ.
'Đây là...bắt cóc...!!??' Em suy nghĩ trong cơn hoảng loạn. Dường như đối phương có thể đọc được nội tâm em, người ấy khúc khích rồi khẽ khàng cất giọng.
"Nein, tôi chỉ là một khán giả trót say mê tiếng đàn vĩ cầm của em thôi."
Trước giọng nói quá đỗi quen thuộc ấy, Haerin quay phắt lại, và đúng như em nghĩ, Minji đang ở ngay trước mặt em. Em tròn xoe mắt nhìn nàng, rồi nhìn nụ cười tươi rói trên đôi môi nàng. Em đặt một tay lên vai Minji để chắc chắn rằng đây không phải mơ, và chị không phải một linh hồn đang hiện về.
"Ôi, em làm gì khó coi vậy?" Nàng cười nghiêng ngã trước hành động của Haerin, làm cho đối phương có chút xấu hổ.
"Tôi muốn xem chị có mất cánh tay hay đôi mắt nào không thôi." Em bao biện.
Câu nói của em khiến Minji phụt cười. Sau một tràng cười hết sức sảng khoái, nàng lau nước mắt, ân cần nhìn biểu cảm bất mãn của em - đôi mắt mở to và hàng chân mày hơi cau lại. Cô nhà văn lắc đầu nhằm xóa bỏ mọi nghi vấn. "Tôi không mất mấy thứ đó. Song, tôi nghĩ là mình đang thiếu cái gì đó nên đã tới tìm em."
"Bitte?"
"Bí mật của tôi. Em vẫn giữ gìn nó kĩ chứ?"
Vẻ tinh nghịch bỗng thoáng qua gương mặt thanh thoát của Haerin. Đã từ rất lâu rồi, nàng không trông thấy nó, hoặc nói đúng hơn, nàng không trông thấy em. Em gõ vào hộp đựng violin của mình một giai điệu lúc nhanh lúc chậm, không thể nào đoán trước được chuyển động của nó. "Nếu chị muốn tôi trả, thì hãy nói tôi nghe một bí mật khác đi."
"Keo kiệt quá đấy..."
"Tùy chị chọn thôi."
"Được rồi, một bí mật thôi nhé. Một bí mật thầm kín." Nàng nắm lấy tay người thiếu nữ, ghé sát vào tai em và thủ thỉ, chỉ ba từ, nhưng là tất thảy những gì họ đã muốn nói và muốn nghe suốt tám năm qua.
"Tôi yêu em."
Sau cùng thì, có ai nhớ về tác giả Dorothee M. chứ? Bà ấy và những tác phẩm của bà, liệu chỉ là sản phẩm của trí tưởng tượng, hay phải chăng đã thất lạc với thời gian?
Vậy còn vị nghệ sĩ violin chu du khắp thế gian để rồi chọn dừng bước ở Kristiania, Na Uy thì sao? Người ấy có thật, hay chỉ là một câu chuyện cổ được lãng mạn hóa và truyền tai nhau?
Tôi tự hỏi, nếu cả hai người ấy thật sự tồn tại ở ngóc ngách nào đó dưới khoảng trời bao la này, thì liệu họ có thể cùng nhau thưởng thức một bài nhạc, và hòa mình vào điệu vanxơ khi Thu tới trong vòng tay của đối phương chứ?
Ende.
Bạn đang đọc truyện trên: truyentop.pro