Câu 2: Nêu giá trị của 1 thời kỳ kiến trúc

Câu 2: Nêu giá trị của 1 thời kỳ kiến trúc và phát triển công trình đặc thù của thời kỳ đó.

Mỗi quốc gia, mỗi dân tộc đều có những kiến trúc truyền thống với những nét đặc trưng riêng của mình. Nét đặc trưng đó được thể hiện trong bố cục không gian kiến trúc, trong việc sử dụng vật liệu đệ tạo nên công trình kiến trúc với trình độ khoa học, tư duy thẩm mỹ; bằng công cụ và bàn tay khéo léo của mình. Những nét đặc trưng đó toát lên từ tỷ lệ hình khối, kết cấu đến các thành phần chi tiết, các hoa văn trang trí, mầu sắc nội ngoại thất công trình. Và chính từ những yếu tố đó, công trình trở thành tiêu biểu, dấu ấn của thời đại, phản ánh các đặc thù về kinh tế, chính trị xã hội… của dân tộc theo từng giai đoạn phát triển của lịch sử xã hội.

a. Kiến trúc Việt Nam từ thời kỳ dựng nước và hết giai đoạn Bắc thuộc.

Cùng với quá trình phát triển của lịch sử dân tộc, mầm mống của sự tạo ra các không gian ở của con người có thể nói cũng đã bắt đầu từ 4000 năm nay và lịch sử kiến trúc Việt Nam được tính từ thời kỳ khởi dựng đất nước, thời kỳ Vua Hùng (trước 207 trước công nguyên) với nền văn hóa Văn Lang – Âu Lạc, hay là nền văn minh lúa nước, với trình độ kỹ thuật đúc đồng nổi tiếng – thời kỳ văn hóa Đông Sơn.

Đặc điểm kiến trúc của thời kỳ này:             

- Kiểu loại nhà sàn là kiến trúc truyền thống lâu đời, phù hợp với môi trường thiên nhiên của đất nước, phù hợp với khí hậu vùng nhiệt đới nóng ẩm.

- Những di sản kiến trúc trên mặt đất từ thế kỳ x trở về trước đến nay không còn; chỉ còn lại một số di tích dưới lòng đất. Đó là những ngôi mộ thời Hán, các di tích khảo cổ này nói lên kỹ thuật xây dựng cổ truyền Hán Việt  trên đất việt nam thể hiện qua những viên gạch nung có hoa văn xây trong mộ cổ, cũng như kỹ thuật xây mộ.

- Dấu ấn rõ nét nhất của nền kiến trúc cổ Việt Nam còn để lại cho đến ngày nay phải kể từ đời Lý (XI – XVI), Trần (XIII – XIV), Hồ (XV), Lê (XV – XVI), Tây Sơn (XVIII), Nguyễn (XIX).

a.1.Sự hình thành nước Âu Lạc và thành Cổ Loa.

Các nhà khảo cổ học Việt Nam đã chứng minh rằng vào lúc cực thịnh của thời đại đồ đá, trên khắm đất nước đã mở ra nền văn hóa nguyên thủy đặc sắc.

Đặc điểm:

-Thành Cổ Loa được xây bằng đất do thời ấy ở Âu Lạc chưa có gạch nung. Thành có 3 vòng. Chu vi ngoài 8 Km vòng giữa 6,5 km, vòng trong 1,6 km... Diện tích trung tâm lên tới 2 km². Thành được xây theo phương pháp đào đất đến đâu, khoét hào đến đó, thành đắp đến đâu, lũy xây đến đó. Mặt ngoài lũy, dốc thẳng đứng, mặt trong xoải để đánh vào thì khó, trong đánh ra thì dễ. Lũy cao trung bình từ 4-5m, có chỗ 8–12 m. Chân lũy rộng 20–30 m, mặt lũy rộng 6–12 m. Khối lượng đất đào đắp ước tính 2,2 triệu mét khối.

-Thành nội hình chữ nhật, cao trung bình 5 m so với mặt đất, mặt thành rộng từ 6 m-12 m, chân rộng từ 20 m-30 m, chu vi 1.650 m và có một cửa nhìn vào tòa kiến trúc Ngự triều di quy.

-Thành trung là một vòng thành không có khuôn hình cân xứng, dài 6.500 m, nơi cao nhất là 10 m, mặt thành rộng trung bình 10 m, có năm cửa ở các hướng đông, nam, bắc, tây bắc và tây nam, trong đó cửa đông ăn thông với sông Hồng.

-Thành ngoại cũng không có hình dáng rõ ràng, dài hơn 8.000m, cao trung bình 3 m-4 m (có chỗ tới hơn 8 m).

Thành Cổ Loa được các nhà khảo cổ học đánh giá là "tòa thành cổ nhất, quy mô lớn vào bậc nhất, cấu trúc cũng thuộc loại độc đáo nhất trong lịch sử xây dựng thành lũy của người Việt cổ

a.2.Thành Luy Lâu – Trung tâm cai trị của người phương Bắc

- Được xây Trong thời kỳ bắc thuộc nhà Đông Ngô. Sĩ Nhiếp, một quan chức người Hán được vua Ngô cử làm thứ sử Giao Châu, ông đã cho xây dựng lại thành Luy Lâu, Luy Lâu là thủ phủ trị sự của Giao Châu thuộc Đông Ngô (229-280)

Đặc điểm:

-Luy Lâu nằm giữa khu vực giao nhau giữa Sông Dâu và Sông Đuống, giữa trung tâm đồng bằng châu thổ Bắc Bộ

- Các công trình của đô thị chủ yếu dựng đặt, xây cất bên bờ Sông Dâu (thành lũy bên một bờ sông). Trung tâm đô thị là tòa Thành Luy Lâu kiên cố và bề thế - trụ sở chính và căn cứ quân sự của bộ máy cai trị.

- Trong thành là công đường, dinh thất, nhà cửa, đồn trại, kho bãi…

- Mặt lũy thành là tháp canh, đồn trại, bao lấy lũy thành là hào sâu, lũy tre dày đặc nhằm bảo vệ bộ máy cai trị của phong kiến ngoại tộc

- Ngoài thành, ở hai phía Nam - Bắc là nhà ở, dinh thự, lầu gác của quan lại, quý tộc là chủ yếu, mà nay còn lại dấu tích khảo cổ và địa danh Văn Quan, Phương Quan, Mã Quan, Cánh Sở.

a.3. Thành Hoa Lư – kinh đô của nước Đại Cồ Việt

Kinh đô Hoa Lư được bao quanh bởi hàng loạt núi đá vòng cung, cảnh quan hùng vĩ. Khoảng trống giữa các sườn núi được xây kín bằng đất ken gạch, chân thành có gạch bó, đắp cao từ 8-10m, hiện vẫn còn dấu vết của nhiều đoạn tường thành.

Đặc điểm kiến trúc:

- Cố đô Hoa Lư là một kiến trúc hài hòa giữa nhân tạo và thiên tạo. Các triều vua đã sử dụng triệt để sự lợi hại của những dãy núi và hệ thống sông hào làm thành quách để xây dựng cung điện. Qua thời gian, thành nhân tạo chỉ còn là những dấu tích, thành thiên tạo là những vách núi vẫn còn tồn tại mãi.

-Kinh đô Hoa Lư được bao bọc bởi nhiều ngọn núi, các triều vua đã dựa theo địa hình tự nhiên cho đắp 10 đoạn tường thành nối các núi đá, dựng nên thành Hoa Lư với diện tích hơn 300 ha. Toàn bộ công trình chủ yếu được các vua Đinh, Lê dựa vào thiên nhiên hiểm trở làm chỗ dựa, mang nặng tính chất quân sự, không câu nệ vào hình dáng, kích thước.Phía Nam thành Hoa Lư là thành Tràng An (còn được gọi là thành Nam) là khu vực phòng thủ hậu cứ của kinh đô. Thành Hoa Lư có hai vòng: thành Đông và thành Tây, có đường thông với nhau.

a.4 Thành Đại La – trước thời kỳ trở thành kinh đô của Đại Việt

Thành Đại La là một kiến trúc vĩ đại, có đầu tiên ở trên đất này. La thành không phải là một tên riêng, chỉ có nghĩa là một bức thành lớn bao quanh một bức thành nhỏ ở bên trong

Bối cảnh lịch sử: Suốt cả thời kỳ Bắc thuộc, bọn vua quan phong kiến Trung Quốc sang xâm lược nước ta đều đóng căn cứ địa ở mấy nơi bên tả ngạn sông Hồng. Đến đời Đường, thường có quân Chà Và ở ngoài bể tràn vào và quân Nam Chiếu ở mạn Vân Nam tràn xuống, kéo đến vây đánh phủ Đô hộ; hơn nữa nhân dân không chịu nổi sự áp bức bóc lột của bọn xâm lược, cũng thường nổi lên chống đánh. Năm 824, Đô hộ là Lý Nguyên Gia, tin theo thuyết phong thuỷ, cho rằng trước cửa thành Long Biên có dòng nước chảy ngược, nên nhân dân hay nổi lên "làm phản". Lý Nguyên Gia bèn rời phủ trị sang địa phận huyện Tống Bình, gần sông Tô Lịch. Lúc đầu chỉ xây một toà thành nhỏ, sau đó nhận thấy nơi ấy có địa thế hiểm yếu, liền lập phủ trị vĩnh viễn ở đó, đắp rộng cao thêm thành, làm cho dân ta hồi đó phải phục dịch rất khổ sở.

Đến năm 866, nhà Đường đổi An Nam đô hộ phủ làm Tĩnh Hải quân, sai Cao Biền sang làm Tiết độ sứ. Muốn củng cố thêm căn cứ thống trị, Cao Biền cho đắp lại thành Đại La.

Đặc điểm:

-có chu vi 1.982,5 trượng; thành cao 2,6 trượng, chân thành rộng 2,5 trượng, nữ tường bốn mặt cao 5,5 thước, với 55 lầuvọng địch, 6 nơi úng môn, 3 hào nước, 34 đường đi.

-Ông còn cho đắp đê vòng quanh ngoài thành dài 2.125,8 trượng đê cao 1,5 trượng chân đê rộng 2 trượng và làm hơn 400.000 gian nhà.

- Theo truyền thuyết, do thành xây đi xây lại vẫn bị sụt ở vùng sông Tô Lịch, Cao Biền đã cho trấn yểm tại đây để làm cho đất vững và chặn dòng long mạch của vùng đất này. Các di chỉ tìm được trong lòng sông tháng 9 năm 2001 được một số nhà nghiên cứu cho là di tích của bùa yểm này.

b. Kiến trúc Việt Nam trong thời kỳ phong kiến cực thịnh.

Đặc điểm:

- Đô thị: đã hình thành được một  số các đô thị cổ. Trong đô thị cổ có thành cổ (nơi vua quan và binh lính ở), khu thị dân, chợ và hệ thống các công trình tôn giáo tính ngưỡng. Đô thị được hình thành theo thuật phong thủy; cụ thể dựa vào địa hình thiên nhiên và mối quan hệ thiên – địa – nhân. Các phố phường trong đô thị được hình thành và sự quản lý phố phường không khác gì ở các làng xã. Ngăn giữa các phố phường là các cổng ngõ – kiến trúc nhà ở buôn bán là các nhà hình ống. chủ yếu là 1 tầng và một tầng có kèm gác lửng, hạ tầng kỹ thuật đô thị rất sơ lược. các khu phố cổ trong đô thị Việt Nam còn đến nay là dấu ấn của các khu thị dân đô thị cổ.

- Kiến trúc công trình từ cung điện đến kiến trúc tôn giáo tín ngưỡng, nhà ở truyền thống… đều có chung một đặc điểm là cấu trúc theo gian trên cơ sở của một hệ khung kết cấu gỗ chịu lực. kích thước không gian của nhà vừa đủ cho sử dụng và phù hợp với tỷ lệ kích thước hoạt động của người Việt Nam. Sự khác nhau về kiến trúc truyền thống qua các triều đại là ở cấu trúc của các thể loại vì kèo, kẻ hiên, độ cong của mái và kỹ thuật, nghệ thuật thể hiện các hoa văn trang trí trên các thành phần kiến trúc truyền thống.

-Từ tổng thể đến công trình kiến trúc đều không có bản vẽ thiết kế trước khi xây dựng, phần lớn làm theo kinh nghiệm truyền khẩu – dựa trên thước tầm.

- Công trình được xây dựng bằng vật liệu địa phương.

b.1.Thành Thăng Long – kinh đô của nước Đại Việt các thời Lý, Trần, Lê (Thăng Long – Đông Đô - Đông Quan - Đông Kinh)

- Bối cảnh lịch sử:

+ Sau khi lên ngôi năm 1009 tại Hoa Lư, năm 1010, Lý Thái Tổ quyết định dời đô về Đại La. Theo một truyền thuyết phổ biến, khi tới Đại La, Lý Thái Tổ nhìn thấy một con rồng bay lên, vì vậy đặt tên kinh thành mới là Thăng Long.

+ Năm1230, Thăng Long được chia thành 61 phường,

+Cuối thế kỷ 14 nhà Trần suy thoái, Hồ Quý Ly lên ngôi  lập nên nước Đại Ngu, Thăng Long được đổi thành Đông Đô.

+ Năm 1406, nhà Minh đưa quân xâm lược Đại Ngu, Thăng Long bị chiếm đóng và đổi tên thành Đông Quan.

Đặc điểm:

- Khu hoàng thành được xây dựng gần hồ Tây với cung điện hoàng gia cùng các công trình chính trị. Phần còn lại của đô thị là những khu dân cư, bao gồm các phường cả nông nghiệp, công nghiệp và thương nghiệp.

- Hoàng thành được củng cố và xuất hiện thêm những cung điện mới vào thời nhà Trần.

-  Dấu tích công trình nước rộng 2m, cao 2m, được các nhà khoa học nhận định có thể là đường nước, là bể chứa nước, là giếng nước, là ao rồng, đường hầm hoặc kiến trúc mang tính tâm linh. Dấu tích này được xây bằng gạch vuông, gạch bìa, cọc gỗ chạy suốt chiều dài đông-tây.

- Kiến trúc thời Trần gốm: Dải trang trí hoa chanh nằm trên móng tường thời Lý; hệ thống cống thoát nước gồm 2 nhánh chạy dọc theo hướng bắc-nam và đông-tây, nằm trên đường nước thời Lý và đổ trực tiếp xuống đường nước thời Lý; dấu tích móng trụ.

- Dấu tích kiến trúc thời Lê Sơ phát hiện tại đây: Nền gạch vuông và gạch vồ.

-  Dấu tích kiến trúc thời Nguyễn có cống thoát nước dài 2m, rộng 1,1m gồm 2 thành cống được xếp bằng đá xanh và gạch vồ.

- Tại vị trí trung tâm trên đúng trục trung tâm tầng văn hóa Thăng Long - Hà Nội rất dày (ở độ sâu từ 0,5- 4,2m) gồm các lớp văn hóa từ thời Lý đến thời Nguyễn đan xen lẫn nhau và chồng xếp lên nhau rồn tại qua hàng nghìn năm.

b.2Tây Đô – Kinh thành của một vương chiều ngắn ngủi

Thành Tây Đô là công trình quân sự vững chãi bậc nhất được xây dựng từ thời nhà Hồ vào năm 1397, tại huyện Vĩnh Lộc, Thanh Hóa. Cho đến nay, cố đô đá này vẫn được đánh giá là có lối kiến trúc độc đáo bậc nhất Đông Nam Á.

-Bối cảnh lịch sử: thành cổ và kinh đô của vương triều Hồ, xây dựng năm 1397 ở xã Tây Giai, huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hoá.

-Đặc điểm

+Đây là tòa thành kiên cố với kiến trúc độc đáo bằng đá có quy mô lớn hiếm hoi ở Việt Nam.

+ .Vị trí xây thành đặc biệt hiểm yếu, sông nước bao quanh, núi non hiểm trở.

+ Thành bao gồm Thành nội và thành ngoại. Thành ngoại được đắp bằng đất với khối lượng gần 100.000 mét khối, trên trồng tre gai dày đặc cùng với một vùng hào sâu có bề mặt rộng gần tới 50m bao quanh.

+ Bên trong thành ngoại là thành nội có mặt bằng hình chữ nhật chiều Bắc - Nam dài 870,5m, chiều Đông - Tây dài 883,5m.

+. Mặt ngoài của thành nội ghép thẳng đứng bằng đá khối kích thước trung bình 2 m x 1 m x 0,70 m, mặt trong đắp đất.

+ Bốn cổng thành theo chính hướng Nam - Bắc - Tây – Đông. ). Các cổng đều xây kiểu vòm cuốn, đá xếp múi bưởi, trong đó to nhất là cửa chính Nam, gồm 3 cửa cuốn dài 33,8 m, cao 9,5 m, rộng 15,17 m. Các phiến đá xây đặc biệt lớn (dài tới 7 m, cao 1,5 m, nặng chừng 15 tấn).

b.3 Đông Kinh và Lam Kinh của chế độ phong kiến thịnh đạt

- Bối cảnh lịch sử: Lê Thái Tổ tạo lập ra Lam Kinh. Sau 10 năm lãnh đạo cuộc Khởi nghĩa Lam Sơn (1418 - 1428) đánh đuổi giặc giắc Nhà Minh và lên ngôi hoàng đế đóng đô ở Đông Kinh Thăng Long, vua Thái Tổ lấy niên hiệu là Thuận Thiên thứ nhất. Đồng thời nhà vua cho xây dựng ở quê hương đất tổ Lam Sơn một kinh thành gọi là Lam Kinh hay còn gọi là Tây Kinh.

- Đặc điểm:  Thành điện Lam kinh phía Bắc dựa vào núi Dầu mặt Nam nhìn ra sông Chu- có núi Chúa làm tiền án, bên tả là rừng Phú Lâm, bên hữu là núi Hương và núi Hàm Rồngchắn phía Tây. Khu Hoàng thành, cung điện và Thái miếu ở Lam Kinh được bố trí xây dựng theo trục Nam - Bắc trên một khoảng đồi gò có hình dáng chữ vương. Bốn mặt xây thành có chiều dài 314m, bề ngang 254m, tường thành phía Bắc hình cánh cung có bán kính 164m, thành dày 1m. Qua khảo cổ và dấu tích còn lại cho thấy xưa kia ở đây đã từng tồn tại Ngọ môn, sân rồng, chính điện, khu Thái miếu... nguy nga tráng lệ. Khu di tích lịch sử Lam Kinh rộng khoảng 30 ha, gồm những lăng phần, đền miếu và một hành cung của các vua nhà Hậu Lêmỗi lần về bái yết tổ tiên.Mặt trước ngoài hoàng thành khoảng 100m còn lại dấu vết của cổng vào rộng trên 6m, hai bên có xây 2 bức tường thành hình cánh cung kéo dài đến sát bờ sông Ngọc, móng tường thành còn lại dầy 1,08m, qua cổng thành khoảng 10m đến một con sông đào có tên là sông Ngọc. Sông này bắt nguồn từ Tây Hồ, chạy vòng qua trước thành và điện Lam Kinh.

c. Kiến trúc việt Nam cận đại ( triều đại phong kiến cuối cùng – giai đoạn Pháp thuộc).

- Song song với sự bành trướng của CNTB châu Âu sang vùng Đông Nam Á, kèm theo đó là sự xâm nhập của kiến trúc phương Tây

- Các đường phố được nắn thẳng, tạo mạng lưới đường theo kiểu ô cờ, hạ tầng kỷ thuật đường phố được hoàn thiện, đường phố rộng hơn trước, có hè dành cho người đi bộ, đường phố có cây xanh, có đèn đường, cống rãnh thoát nước và cấp nước… Trên các đường phố là các thể loại công trình kiến trúc: nhà ở, nhà hang, công sở và các công trình phục vụ công cộng đời sống, nhà máy… kiến trúc phong phú về thể loại và hình thức mà trước đây chưa hề có.

-Kiến trúc địa phương Pháp được thực hiện mang tính áp đặt .Các kiến trúc truyền thống Việt Nam vẫn tồn tại và đổi mới trên cơ sơ tiếp thu những tinh hoa của kiến trúc Tây Phương với kiến trúc truyền thống Việt Nam

-Đối với công trình 1 tầng: Cấu trúc bên trong nhà vẫn theo hệ thống gian với vì kèo gỗ cổ truyền; tường vây bên ngoài xây bằng gạch với các hình thức sử dụng các hệ cột phương Tây; bên trên kết thúc bằng tường hoa chắn mái. Trên đó sử dụng các trang trí kiểu Châu Âu. Cửa theo kiểu cửa panô; sau đó là cửa 2 lớp; kính, chớp.

-Sự xây dựng nhà 2,3 tầng đã đòi hỏi phải áp dụng các kết cấu cột, dầm, sàn bằng vật liệu bền vững hơn.Cột gạch, dầm thép, sàn gạch rỗng, hoặc vỉa gạch trên hệ thống dầm gỗ lim hay thép (thay cho cột, dầm sàn gỗ của kiến trúc truyền thống) – Hình thức bên ngoài hoàn toàn theo ngôn ngữ kiến trúc Phương Tây song sử dụng các hoa văn trang trí dân tộc (chữ triện…) Sử dụng mái ngói Tây (gần 10 loại khác nhau cho mái).

-Việc sử dụng sắt, thép, xi măng, bê tông cốt thép với kỹ thuật tính toán khả năng chịu lực kết cấu nhà từ phương Tây mang đến đã tạo điều kiện cho kiến trúc Việt Nam phát triển mạnh và có cơ sở khoa học.

-Xu hướng kiến trúc với kết cấu, cấu tạo các bộ phận tạo điều kiện cho việc hình thành không gian khắc phục được những bất lợi của khí hậu nhiệt đới nóng ẩm đã được phát triển. Nét đặc biệt của các công trình này là việc sử dụng các hệ mái với con sơn đỡ mái để che nóc nhà, nhà có tầng hầm để thong thoáng chống ẩm, sử dụng cửa 2 lớp: kính, chớp… phóng áp mái có trần nhà, không gian dưới mái chỉ là để chống nóng có cửa thoát khí… Tất cả những khía cạnh nêu trên bắt nguồn từ các nhà dân gian truyền thống cùng kết hợp với các kinh nghiệm chống nắng nóng trong kiến trúc của các nước.

-Tỷ lệ không gian kiến trúc công trình đáp ứng nhu cầu sử dụng tốt độ cao phòng vừa đủ đảm bảo về khối tích không khí, đảm bảo thoáng mát, đảm bảo thẩm mỹ. Xử lý kiến trúc mặt đứng trên nguyên tắc của phong cách kiến trúc Tân cổ điển Châu Âu. Song sự xuất hiện các yếu tố thông hơi thoáng gió ở trên, dưới cửa sổ, cái mái hiên che, cùng các ban công, lô gia, sử dụng các hoa văn trang trí dân tộc… đó chính là tạo ra những truyền thống mới, bản sắc mới.

c.1 Nội chiến và sự hình thành chiều Nguyễn – Kinh đô Phú Xuân (Huế)

c.2 Kiến trúc Đại nội Huế

Bối cảnh lịch sử:Kinh đô Huế là thủ đô của quốc gia Việt Nam thống nhất từ năm 1802, sau khi Nguyễn Ánh lên ngôi hoàng đế mở đầu cho nhà Nguyễn, vương triều phong kiến cuối cùng trong lịch sử Việt Nam. Huế kết thúc sứ mệnh là thủ đô Việt Nam vào năm 1945 khi vị hoàng đế cuối cùng của nhà Nguyễn là Bảo Đại thoái vị Kinh thành Huế được vua Gia Long và đại thần Nguyễn Văn Yến tiến hành khảo sát thực địa vào hai năm 1803 và 1804. Đến mùa hè năm 1805, công trình xây dựng kinh thành bắt đầu được khởi công xây dựng với địa bàn nằm trên khu vực hai chi lưu của sông Hương là Kim Long và Bạch Yến.

Đặc điểm kt:

+ đựơc xây dựng trên một mặt bằng gần như như hình vuông với mặt trước hơi khum hình cánh cung, tuân thủ chặt chẽ theo nguyên tắc kiến trúc của dân tộc Việt Nam.

+ Vòng tường thành với chu vi 10571 m  được xây bó bằng gạch được xây dựng kiến trúc Vauban  với 24 pháo đài và 10 cửa chính cùng 1 cửa phụ cùng; với một hệ thống hào nước phức tạp.

+ Mặt bằng Ðại Nội xây dựng theo hình gần vuông, mỗi cạnh khoảng 600m, trên một diện tích rộng tới 37,5 ha.

+ Tường thành xây bằng gạch to, cao 4m, dày 1m, ngoài thành là hào vây quanh với 10 chiếc cầu đá bắc qua để ra vào.

+ Hoàng Thành và toàn bộ hệ thống cung điện bên trong là nơi cực kỳ trọng yếu, phân bố chặt chẽ theo từng khu vực, tuân thủ nguyên tắc (tính từ trong ra): “tả nam hữu nữ”, “tả văn hữu võ”.

+ Về tổng thể, các cung điện ở đây đều làm theo kiểu “trùng lương trùng thiềm” – (kiểu nhà kép hai mái trên một nền), đặt trên nền đá cao, vỉa ốp đá Thanh, nền lát gạch Bát Tràng có tráng men xanh hoặc vàng, mái cũng được lợp bằng một loại ngói đặc biệt hình ống có tráng men thường gọi là ngói Thanh lưu ly hoặc Hoàng lưu ly

+ Các cột được sơn thếp theo mô típ long-vân (rồng-mây).

+ Nội thất cung điện thường được trang trí theo cùng một phong cách nhất thi nhất họa.

d. Kiến trúc thành thị và nông thôn của Việt Nam đương thời và sự phát triển của kiến trúc Việt Nam trong thời kỳ mới.

Đặc điểm của kiến trúc Việt Nam thời hiện đại từ 1945 đến nay. kiến trúc Việt Nam vẫn tiếp tục phát triển truyền thống kiến trúc ở giai đoạn trước, nhưng sự thể hiện ở 2 miền có khác nhau.

-Ở phía Bắc, do chính sách tiết kiệm; tiêu chuẩn trong kiến trúc xây dựng có hạn hẹp đã ảnh hướng đến khai thác đặc trưng và tìm tòi sáng tạo trong mọi lĩnh vực tạo ra những tiện nghi thuận lợi nhất cho môi trường sống, làm việc.

Kiến trúc thực hiện theo phương châm “thích dụng, bền vững, kinh tế, mỹ quan trong điều kiện có thể”. Song thích dụng ở đây cũng chỉ đạt tới mức tối thiểu và mỹ quan thực sự chưa được chú trọng – bệnh sơ lược nghèo nàn trong hình thức và đơn điệu tổng thể là điều không thể tránh khỏi. Chủ nghĩa tập thể được đề cao trong kiến trúc, không có khái niệm nhà ổ chuột trong những đô thị phía Bắc trước 1975.

Ở phía Nam – kiến trúc kế thừa phát huy được các giá trị sẳn có từ trước – hình thức kiến trúc nhanh nhẹ, chú trọng trang trí nội ngoại thất, các biện pháp chắn nắng, thông thoáng – kiến trúc theo phong cách hiện đại chung là đặc trưng; chủ nghĩa cá nhân, tính muôn hình muôn vẻ được thể hiện trong kiến trúc – sự tương phản về kiến trúc trong đô thị thấy rõ rệt: Đó là những khu nhà ổ chuột của dân nghèo, dân di cư, dọc các kênh, mương, với các nhà lầu, dinh thự của các tầng lớp giầu có trong đô thị (trước 1975).

Đặc điểm kiến trúc Việt Nam từ 1980 đến nay – Bước đầu của sự hòa nhập quốc tế:

Kiến trúc có nhiều khuynh hướng khác nhau:

- Khuynh hướng phục cổ, nhái cổ… sử dụng các thức cột cổ điển Châu Âu, hoa văn trang trí, ban công bụng chửa…(trong kiến trúc nhà dân tự xây).

- Khuynh hướng hiện đại: Tìm cái đẹp trong tạo khối hình và sử dụng sự tương phản hình, khối; đặc rỗng; sử dụng các mảng tường kính với cửa nhôm. Sử dụng hệ thống điều hòa nhân tạo. Các cửa chớp, cửa gỗ pa nô, hệ thống tắm chắn nắng thịnh hành ở các giai đoạn trước nay thấy vắng mặt trong các công trình hiện đại.

- Khuynh hướng Hậu hiện đại tiếp tục của khuynh hướng hiện đại; song nặng về giải quyết hình khối, tổng thể; sử dụng một số mô típ điển hình của kiến trúc truyền thống cũ, tạo mối liên hệ với truyền thống, với lịch sử. Tạo mối liên hệ không gian trong, ngoài.

- Quy mô nổi trội của các công trình kiến trúc do đầu tư nước ngoài vào các thể loại khách sạn, văn phòng, ngân hang, siêu thị trong tổng thể kiến trúc đô thị hiện có, tạo ra những sắc thái mới trong kiến trúc đô thị.

- Kiến trúc ở đô thị VN trong hơn thập kỷ qua thể hiện rất rõ tính hòa đồng hội nhập quốc tế - thể hiện sự đa dạng hóa và vai trò cá nhân trong sáng taô nghệ thuật kiến trúc đã được khích lệ.

Bạn đang đọc truyện trên: truyentop.pro

Tags: