ccc-lenghiabk05

Chuyện làng

Hồi cải cách ruộng đất năm 1956 tôi còn nhỏ, nhưng cũng đủ lớn để chứng kiến khá nhiều chuyện xẩy ra trong làng. Mãi đến giờ tôi vẫn không sao quên nổi cái không khí điên khùng, kỳ cục những ngày ấy. Cả làng như đang trong cơn lên đồng tập thể. Đêm nào cũng họp hành và đấu tố. Hàng xóm đấu hàng xóm, thằng ở đấu ông chủ, có cả trường hợp anh em đấu nhau hay thậm chí con cái đấu cha mẹ. Toàn những mày tao chi tớ, nhổ nước bọt, chỉ tay dí mặt trông mà khiếp. Ban ngày thì cả làng kéo nhau đi xem xử bắn bọn “gián điệp” và “cường hào gian ác”. Làng mình không hoặc chưa có thì xem ở làng khác.

Nổi bật nhất là lễ rước “quả thực”, tức là lễ rước khắp làng những của cải, đồ đạc tịch thu của địa chủ trước khi chia cho dân làng. Vui lắm, thích lắm. Nhưng địa chủ thì ít, lại chủ yếu thuộc diện qui chụp theo chỉ tiêu trên giao xuống, nên cũng chẳng có nhiều để chia. Thế mà ai cũng hỉ hả ra mặt. Tự dưng không đâu người ta cho mình cái này cái nọ, hỏi làm sao không vui? Nhà tôi thuộc diện bần cố nông nên cũng được một cái chum và nửa con trâu, chung với ông bác. Bố mẹ tôi cũng hỉ hả lắm, dù tôi biết hai cụ chưa bao giờ phải đi ở hay làm thuê cuốc mướn cho tên địa chủ nào. Qua vụ này, tôi đâm ra ghét mấy ông bà nông dân tham lam, tráo trở.

Chỉ đạo toàn bộ cuộc lên đồng tập thể kéo dài cả tháng ấy là hai ông Đội, một từ Vinh, một từ tận trung ương về. Ông trung ương là người làng, có tên Hoạt, nghe nói ông tự xung phong, chứ cỡ ông không ai xuống cấp xã. Ông này trạc ba mươi lăm, bốn mươi tuổi, người vạm vỡ, ít nói và có thói quen chốc chốc lại ngúc ngắc đầu như đang cố xua một con ruồi vô hình.

Để nêu gương cách mạng, ông chọn ở nhà lão Thọt theo phương châm ba cùng, là cùng ăn, cùng ở và cùng làm việc, mặc dù ông chỉ về ngủ vào lúc đêm khuya, trên cái giường duy nhất trong nhà. Lão Thọt thì ngủ trong ổ rơm dưới bếp, thường có tôi ngủ cùng vì lão có cả một kho truyện ma để kể. Bù lại, ban ngày tôi nhổ tóc bạc và bắt rận cho lão. Không hiểu sao người ta gọi Thọt khi lão đi đứng bình thường như mọi người. Lão còn khỏe mạnh dù đã hơn sáu mươi, trước từng đi lính sang Dijon bên Pháp. Nhưng lão mù, mà cũng mới đây thôi, sau một lần đau mắt và được ông thầy lang làng bên chữa bằng cách đắp hai con nhái đã nướng chín lên mắt.

Mấy ngày sau khi Đội về, đêm nằm lão bảo tôi:

“Chúng nó bắt đầu ăn thịt nhau đấy mày ạ?”

“Sao phải ăn thịt nhau?” tôi hỏi.

“Rồi mày xem. Bọn này chẳng hay ho gì đâu”.

“Bọn nào ạ?”

“Bọn Đội. Bọn chó chết. Nhất là thằng Lan”.

Lan là tên anh Đội thứ hai. Hắn còn trẻ nhưng rất hống hách, chuyên xúi người ta đấu nhau, và là thằng đầu têu đánh dã man những người bị qui oan. Đã thế hắn còn tham ăn và háu gái. Người ta thấy hắn bắt gà vịt và sờ mông, bóp vú đàn bà giữa ban ngày ban mặt mà chẳng ai dám nói gì. So với hắn, ông Hoạt còn tử tế hơn nhiều, dẫu vì ông khối người phải khốn khổ.

Một tối nọ cô Bích, cháu đằng ngoại của lão Thọt, tấm tức chạy đến bảo lão cô bị hắn đè ra hiếp, dọa nếu không chịu, cả nhà cô sẽ bị qui địa chủ, tức là bị xử bắn. Lão Thọt nghe không nói một lời nào. Đêm ấy tôi nghe lão nghiến răng kèn kẹt mãi. Tối hôm sau, lúc ấy đã khuya, lão chui vào ổ rơm, ôm chặt tôi rồi thì thầm:

“Tao giết hắn rồi!”

“Giết ai?” tôi ngạc nhiên hỏi.

“Thằng chó chết ấy chứ còn ai nữa. Chém một phát đứt ngang cuống họng. Ngoài đíếm canh”.

“Nhưng bác mù…”

“Mù ít thôi. Tao giả vờ đấy. Cấm mà bép xép với ai đấy nhé! Tao giết!”

Khỏi phải nói cả làng bị một phen điêu đứng thế nào. Người ta khám từng nhà, tra khảo từng người. Có hẳn một đoàn công an từ huyện về mà cuối cùng vẫn không tìm ra thủ phạm giết thằng Lan. Tất nhiên không ai nghi ngờ lão Thọt, vì lão mù.

Dần dần mọi chuyện cũng lắng xuống. Tiếp đến là sửa sai và làng lại đi vào nếp cũ. Ông Hoạt quay ra Hà Nội với công việc xưa nay của mình trong ngành an ninh. Ông thăng quan tiến chức nhanh chóng và chẳng bao lâu trở thành người danh giá nhất làng, đặc biệt khi ông về thăm quê bằng ô tô con, chiếc đài bé xíu đeo bên hông. Ở thủ đô, lần nào gặp mặt đồng hương xã nhân năm mới ông cũng có mặt, và đương nhiên ngồi ở chỗ nổi bật nhất, được trọng vọng nhất. Tôi cũng nhiều lần bắt tay, nói chuyện với ông, dẫu không mấy thân mật vì chênh lệch tuổi tác và nghề nghiệp. Tôi tặng ông một vài cuốn sách tôi viết, và ngạc nhiên khi biết ông đọc chúng. Thậm chí đọc kỹ, có  lần còn gọi điện nhận xét. Hình như ông thích tôi, tôi không biết vì sao, nhưng có cảm giác như thế. Một lần vui miệng, ông nói ông đã cứu tôi khỏi bị công an bắt.

“Ngày mới về nước, cậu viết mấy bài thơ ủy mị, kêu khổ. Chúng nó đưa vào sổ đen, định bắt nhưng tớ đỡ cho, bảo người cùng làng và thằng ấy tốt nên mới thôi”.

Tôi cảm ơn ông và chẳng biết nói gì thêm. Tôi có biết mình bị theo dõi, nhưng bị bắt và đi tù như một số văn nghệ sỹ lúc ấy thì quả thật không ngờ tới. Mà rồi tôi chỉ mới tập tạnh vào nghề chứ đâu đã thành danh như bây giờ.

Một hôm, cách đây khoảng ba năm, ông gọi điện cho tôi và nói, giọng quan trọng:

“Cậu đến ngay nhà tớ, có việc muốn nhờ!”

Đến nơi, tôi ngạc nhiên thấy ông đang đứng chờ trước cổng nhà, mặc bộ quân phục đại lễ, huân huy chương đầy ngực. Ông vội chui vào xe và nói như ra lệnh:

“Lên Chèm! Khoan hẵng hỏi. Tớ sẽ chỉ đường.” Ông vẫn chưa quên cái giọng nói chuyện với cấp dưới khi ở cơ quan, dù đã về hưu gần hai chục năm nay, và tôi là người làng ông đang nhờ giúp đỡ.

Tôi lặng lẽ làm theo, tò mò muốn biết chuyện gì đang xẩy ra.

Cuối cùng, ông bảo tôi dừng xe bên sông Hồng, cách đền Ông Trọng không xa. Lúc ấy đã sáu giờ và mặt trời đang tắt dần ở phía Tây. Tôi bước theo ông đi xuống mép sông, vẫn hoàn toàn chưa biết ông định làm gì. Ở tuổi tám mươi, trông ông còn khỏe và cao lớn. Cái đầu vẫn thỉnh thoảng lắc lắc như xưa. Thế mà nghe nói như ông đang bệnh nặng.

Chỗ sông này nước xuáy, ăn lõm vào bờ khá sâu. Ông đứng lên tảng đá lớn sát bờ, ra hiệu tôi lại gần và nói, cũng bằng cái giọng ra lệnh lúc nãy:

“Hãy nhìn cho kỹ những gì tớ sắp làm…”

“Bác định làm gì?” tôi hỏi, không dấu nổi sự ngạc nhiên và sợ ông nhảy xuống sông tự tử.

“Cậu sẽ biết ngay đây. Tớ chỉ cần cậu như một người làm chứng”.

Rồi ông thong thả cởi từng chiếc huân, huy chương trên bộ quần áo đại lễ màu trắng, vứt mạnh xuống dòng nước chảy xiết. Khoảng dăm chiếc, và tôi chẳng biết đó là huân, huy chương gì.

“Xong. Ta về! Coi như cậu đã trả ơn tớ không cho công an bắt ngày nào.”

“Vì sao bác làm thế?” tôi hỏi khi đã ngồi trên xe.

“Vì tớ sắp chết”. Biết tôi đang ngạc nhiên, ông nói tiếp: “Mà trước khi chết ai cũng muốn lòng mình thanh thản”.

“Vâng, nhưng chuyện này liên quan gì đến mấy chiếc huân chương?”

“Tại chỗ nước xuáy kia, sau khi cướp chính quyền năm bốn lăm, tớ đã giết một lãnh tụ đảng Việt Quốc. Bắt cóc giữa đường, cho vào bao tải rồi ném úm xuống đó. Ban đêm, tất nhiên, và cùng hai đồng chí khác của Nha cảnh sát cách mạng”.

Tôi ngồi im, chẳng biết nói gì.

“Và người ta tặng huân chương cho tớ về việc ấy”, ông hạ giọng, vẻ chua chát.

Im lặng một lúc, tôi nói, cốt để an ủi ông:

“Cái thời nó thế thì phải thế. Vả lại, đấy là nhiệm vụ cách mạng giao.”

“Đành vậy, nhưng dẫu sao… Nếu là tớ, cậu có thể chết thảnh thơi được không?”

“Không”.

Khi xe về gần đến nhà, tôi hỏi:

“Sao bác không bảo con cháu làm cái việc bác nhờ tôi hôm nay?”

“Cái bọn hời hợt, hãnh tiến ấy, nhờ để chúng phá à? Chúng chỉ có một niềm tự hào duy nhất là con cháu cán bộ cách mạng lão thành”.

Một tháng sau ông chết ở bệnh viện K, suýt đươc an táng trong nghĩa trang Mai Dịch. Tất nhiên các đài, báo trung ương đều đưa tin, long trọng và cảm động.

Nhân quả

Lão sống một mình trong túp lều ngay sát Cầu Sắt. Suốt đời lão chỉ làm một nghề là mài dao kéo cho cả vùng Nho Lâm rộng lớn này, và cũng nổi tiếng cả vùng nhờ cái nghề ấy. Chắc lão phải có một bí quyết hay dụng cụ đồ nghề đặc biệt nào đó nên các con dao lão mài sắc ngọt một cách khác thường. Vả lại, lão kỹ tính và làm cẩn thận lắm. Chiếc dao nhỏ lão mài miết cả tiếng đồng hồ, bao giờ xong cũng lấy một sợi tóc đặt lên lưỡi dao, thổi một cái đứt đôi mới giao cho khách hàng.

Vợ lão chết từ lâu. Cậu con trai duy nhất lấy vợ, ở rể ở huyện trên, nghe nói “chuột sa chĩnh gạo”, và không bao giờ thăm hỏi hay giúp đỡ gì bố. Trước còn khỏe, lão quảy chiếc gánh toòng teng đi khắp vùng. Mấy năm gần đây vì già, vì cả đôi chân phù thũng, lão chỉ quanh quẩn trong làng hoặc ngồi ở nhà, ai cần thì mang dao kéo tới. Bây giờ đồ Trung Quốc nhiều và rẻ nên thậm chí cả ở nông thôn, người ta cũng ít mài, mà mua cái mới. Thành ra việc không nhiều, tức là cái ăn cũng không nhiều. Có hôm lão phải ôm bụng đói đi ngủ. Đáng ra ở tuổi lão, tức là tám mươi trở lên, theo chế độ gần đây của nhà nước, lão phải được trợ cấp mấy chục nghìn một tháng, nhưng do lão không có giấy khai sinh nên đành chịu. Thỉnh thoảng dân làng thương tình, người cho cân gạo, kẻ mấy quả trứng, hay mang những chiếc dao còn sắc đến nhờ lão mài. Có người còn cất công tìm gặp con trai lão. Anh ta hứa sẽ về đưa bố lên ở với mình nhưng mãi chẳng thấy tăm hơi đâu.

Một hôm tôi đến nhà lão và ngồi với lão cả buổi chiều.

Lão nằm thu lu trên chiếc giường tre ọp ẹp, trùm kín đầu chiếc chăn chiên sờn cũ, dù trời không lạnh. Biết tôi đến, lão ngồi dậy ngay.

“Ông giáo quí hóa quá, lúc nào cũng cho quà”, lão nói khi tôi bày ra bàn mấy bắp ngô luộc, xị rượu và ít đồ nhắm.

“Tôi đến nhờ bác mài cho con dao”, tôi cười đáp.

“Tôi biết”, lão cũng cười, miệng méo xệch, một dòng nước đục rỉ ra từ khóe miệng, trông thật tội. “Dạo này bác có vẻ yếu hơn trước”.

“Ừ ừ. Tại đôi chân khốn khổ này. Và cả ho nữa.”

Vốn yêu nghề, lão cùng tôi làm vài ly nhỏ rồi bắt tay vào mài con dao của tôi, vốn còn rất sắc. Thế mà gần ba mươi phút sau lão mới chịu dừng tay, sau khi vừa mài vừa dấp dấp chất gì đó lên lưỡi dao,  chốc chốc dừng lại làm hớp rượu.

“Ông giáo xem này!” lão bảo tôi rồi nhổ sợi tóc bạc trên đầu, đặt lên lưỡi dao. Sợi tóc đứt đôi.

“Sắc quá!” tôi thốt lên.

“Cũng thường thôi,” lão nói, không phải không pha chút tự hào. “Tôi có một con còn sắc hơn nhiều”.

Nói rồi, lão lấy dưới gầm giường ra một con dao được bọc trong lớp giấy xi-măng. Nó dài và mỏng như một thanh kiếm Nhật, đầu nhọn và sáng loáng.

“Tôi lấy từ xác một tên lính Nhật hồi năm bốn tư đấy. Nó bị du kích giết ở Phủ Diễn. Đúng là cái bọn lùn ấy làm cái gì cũng tốt.” Lão nói, bất chợt thở dài: “Có điều chẳng biết dùng nó làm gì.”

Lão lấy tờ giấy quét lên lưỡi dao nhiều lần, quét đến đâu, các vụn giấy rơi đến đấy. Tôi nhìn mà thấy sờ sợ. Lát sau tôi chuyển đề tài:

“Bác đau ốm thế này, sao anh con không về?” Lão im không nói gì. “Mà rồi chính quyền mãi không làm cho bác cái trợ cấp người già. Bác tám mươi tuổi rồi mà”.

“Đúng thế. Tôi sinh đúng ngày mồng Một tháng Năm năm 30, khi bố tôi bị Pháp bắn chết vì tham gia đình công ở Bến Thủy, Vinh.” Tợp thêm chén rượu, lão nói tiếp, mắt rơm rớm: “Nhân quả đấy bác ạ. Cả chuyện thằng con bất hiếu cũng nhân quả nốt!”

Tôi nhìn lão vẻ không hiểu.

“Suốt đời tôi mài dao cho đời. Mà dao thì không chỉ cắt thái mà còn đâm chém. Tức là tôi tham gia vào tội ác. Giờ thì tôi phải chịu cảnh này.”

“Bác nghĩ quẩn rồi. Nghề của bác vô hại, nếu không muốn nói có ích cho đời”, tôi an ủi lão.

“Không. Đêm đêm chúng vẫn đến đấy. Cái bọn trâu bò, lợn gà bị giết ấy mà. Cả người nữa. Thời kháng chiến, thời cải cách ruộng đất tôi mài dao kiếm cho du kích. Bây giờ bọn Việt gian, địa chủ cường hào đến bắt đền tôi, nhiều lắm. Đêm nào cũng đến. Chúng bảo chúng bị oan. Tôi tôi đáng chết. Nhân nào quả ấy thôi, ông giáo ạ”.

*

Cách một ngày, tôi lại đến, và ngạc nhiên thấy lão chết, nằm trên giường, cuống họng bị cắt, tay phải lão còn giữ chặt chiếc kiếm Nhật sáng loáng.

CHO CUA SUA, VÀ TRANG SAO CU SANG

 Thai Ba Tan - Truyen mini

Lại nói về những ngày Cải cách Ruộng Đất kinh khủng ấy.

      Một hôm, vừa ăn tối xong, tôi đã thấy ông tôi đến bảo đi ngay có việc. Không hiểu sao giọng ông bỗng nhiên khản đặc, phải cố lắm mới nghe được.

“Đi đâu ông?”

“Ra Đồng Chùa cho mát”.

“Nhưng hôm nay không nóng!” tôi đáp.

“Sẽ nóng đấy. Rồi chốc nữa cháu biết”.

Điều này thì tôi biết, là ý ông tôi nói tối nay người ta tổ chức đấu tố Lão Hội. Suốt ngày hôm nay loa rao khắp xóm. Lão Hội là em Lão Cương, bảy mươi tuổi, một người thuộc diện ‘địa chủ kháng chiến’ vì có con trai đang làm to trong quân đội cách mạng, nghe đâu đến chức tá hay thậm chí được phong anh hùng. Lão Cương thì người ta để yên, nhưng em lão thì bị đấu tố, chuẩn bị qui lên thành địa chủ, dù lão chỉ là anh nông phu cày sâu cuốc bẫm, khác chăng do biết lo toan nên không đói. Cả tuần nay người ta rậm rịch chuẩn bị việc này. Cán bộ Đội bỏ nhiều giờ dạy người đấu kỹ càng từng lời nói, cử chỉ và cách khóc, cách nhảy chồm chồm trước mặt lão. Nếu buổi đấu tố diễn ra suôn sẻ, mà chắc chắn là suôn sẻ, tên lão sẽ được đưa vào danh sách địa chủ của làng để gửi lên huyện, coi như hoàn thành chỉ tiêu trên giao.

Hai ông cháu tôi ra đến Đồng Chùa thì trăng vừa lên. Trăng non và mờ mờ như ngái ngủ. Phía dưới một chút là Kênh Nhà Lê, nơi ban đêm thường có người làng xuống mò tôm cá, và dẫu ít hơn trước nhưng thỉnh thoảng vẫn có thuyền đi qua, chở cam quýt từ Hà Tĩnh ra Thanh Hóa và chở lúa gạo, hải sản lúc quay vào.

Ồng tôi ngã người, nằm ngửa xuống một gò đất cao rồi khoan khoái thở dài, nói:

“Sướng!”

Ông cởi hết cúc áo, phanh bụng, bảo tôi:

“Cháu cũng nằm xuống đi”.

Cao trên đầu chúng tôi là cả một trời sao thật đẹp. Những chấm nhỏ li ti lấp lánh thức suốt năm canh, yên bình, lặng lẽ dọi ánh sáng huyền diệu của mình xuống thế giới trần gian của những con người, cũng bé nhỏ, li ti nhưng chẳng bình yên chút nào. Từ phía Kênh có tiếng hát đều đều, mỏi mệt của mấy anh chị nhà thuyền vọng lại. Kể cũng lạ, giữa những ngày sôi sục, điên loạn này mà vẫn có người hát được, dẫu những tiếng hát buồn.

Phía làng, chó bắt đầu sủa rộ. Nghĩa là người của Đội đang đi từng nhà giục dân làng ra sân đình tham gia hoặc xem đấu tố. Háo hức nhất là bọn trẻ con, dù không biết chuyện gì đang xẩy ra. Ngoài tiếng chó còn có cả tiếng trống và tiếng chiếc mõ làng bằng gỗ hình con cá, treo ở điếm canh đầu làng.

Cuối cùng các âm thanh ấy hỗn độn, chói tai ấy cũng lắng xuống, và tôi biết cuộc đấu tố đã bắt đầu. Những tiếng kể khổ ngoa ngắt, tiếng chửi rủa, vu cáo, tiếng những cái tát vào mặt người bị đấu, tiếng cán bộ đứng bên gà lời khi người đấu quên, và tất nhiên cả tiếng kèn kẹt nghiến răng chịu đựng của khổ chủ không thể bay xa đến Đồng Chùa nơi chúng tôi đang nằm. Trước đó tôi đã mấy lần chứng kiến những cảnh như thế.

Tôi quay sang bảo ông:

“Ông ơi, cháu sợ.”

“Ông biết. Vì thế ông mới đưa cháu ra đây. Trẻ con không nên biết những trò ấy!”

Rồi ông chỉ tay lên trời, nói:

“Cháu nhìn kìa, cả một trời sao thật đẹp. Kệ những chuyện xẩy ra trong làng. Cháu ngắm chúng đi, đẹp không? Mà bao đời nay đã thế và vẫn mãi mãi như thế.”

Tôi nghe lời ông, lơ đãng nhìn lên bầu trời đầy sao. Vâng, chúng đẹp thật, nhưng vẫn là những ngôi sao bình thường tôi thấy nhiều lần và không mấy quan tâm. Nhưng tôi cũng lờ mờ hiểu được cái triết lý giản dị mà ông tôi muốn cho cháu biết, rằng cái xấu, cái ác luôn tồn tại, nhưng chỉ nhất thời, còn cái tốt, cái đẹp thì trường tồn mãi mãi. Hoặc có thế nói một cách nôm na: Chó cứ sủa, và trăng sao cứ sáng!

“Hôm kia, thằng Bình bảo ông phải đấu tố Lão Hội, nhưng ông không chịu.” ông tôi chợt nói, giọng mơ màng.

Bình là tên anh cán bộ Đội cải cách huyện cử về phụ trách làng tôi.

“Tố gì ạ?”

“Hắn bảo tố lão bóc lột, đánh đập ông, đại loại như thế”.

“Nhưng có đúng như vậy không?”

“Bậy. Lão hiền như cục đất. Còn nhiều lần giúp nhà ta khi thiếu đói đấy”.

“Thế sao người ta phải đấu tố bác Hội?”

“Thì bảo chúng điên mà lị. Nên ông phải ăn uống mấy thứ linh tinh cho cổ họng khản đặc thế này, bảo bị ốm không làm cách mạng được. May chúng tin mà tha cho, không khéo bị qui địa chủ thì khốn”.

Một tuần sau Lão Hội bị xử bắn, vì ngoài tội địa chủ cường hào gian ác, lão còn một khác nghiêm trọng hơn là tội làm gián điệp cho đế quốc, do khi khám nhà, người ta phát hiện thấy dưới mái hiên một cuốn sách chữ Tây, cuốn Từ Điển Tiếng Pháp, do ông em sĩ quan cách mạng để lại. Đó là bằng chứng không thể chối cãi được.

*

Suốt nhiều năm, thậm chí cả bây giờ, tôi vẫn chưa hết băn khoăn sao người ta có thể nghĩ ra hay du nhập những trò bất nhân, ngu xuẩn đến thế. Những trò ấy phần lớn bắt nguồn từ nước Trung Hoa cộng sản, và được các đồng chí Việt Nam làm theo, tự nguyện hoặc do ép buộc.

Nhưng rốt cục, ông tôi đã đúng. Vào đêm đấu tố và cả đêm Lão Hội bị xử bắn trăng và sao vẫn sáng. Những đêm sau đó cũng vậy, khi có chủ trương sửa sai từ Trung Ương gửi về. Trăng và sao vẫn sáng, vẫn đẹp cả những thời điểm về sau, khi con người và đất nước đau thương này của chúng ta phải chứng kiến nhiều điều oan trái khác.

Tháng Chín năm 1967, đi xe lửa từ Hà Nội sang Matscơva học tập, chúng tôi bị kẹt lại nhiều lần ở Trung Quốc do hai phái kình địch đánh nhau. Tôi nhớ ở Vũ Hán, lúc ấy ban đêm, nhìn qua ô cửa sổ bé nhỏ, tôi thấy cảnh các Hồng Vệ Binh bắt bớ, đánh đập người dân của họ. Bên ngoài là ánh đêm bàng bạc, và tôi biết cao trên đầu, những vì sao vẫn không ngừng nhấp nháy, dọi những tia sáng lung linh, huyền diệu của mình xuống trái đất nhỏ bé và đầy đau khổ này.

Tóm lại, chó cứ sủa và trăng sao cứ sáng!

MẶT NẠ - truyện mini

Người viết: Thái Bá Tân   

27/08/2011

Nhà đông người, nhưng không ồn ĩ, vì người ta đang tập trung trước giờ hấp hối của một trong những người thân của họ. Hơn thế, người hấp hối lại danh giá, nổi bất nhất và là niềm tự hào xưa nay của cả dòng họ. Một ông quan. Quan xưa đã ghê gớm, quan cách mạng bây giờ còn ghê gớm hơn.

Với nét mặt đau buồn hoặc cố gượng đau buồn, người ta khe khẽ trao đổi với nhau đôi câu thường thấy trong những trường hợp thế này. Những lời hỏi thăm, an ủi chiếu lệ. Những cái chép miệng, thậm chí cả những giọt nước mắt. Bà vợ và cô con gái đã lớn của người hấp hối luôn đi lại trong căn phòng chật cứng, mời nước, mời thuốc và thi thoảng nói đôi lời, cũng rất chiếu lệ.

Người hấp hối nằm ở phòng bên, trên chiếc giường rộng trải vải trắng toát. Trong phòng không có ai vì bác sĩ yêu cầu để ông được yên tính dẫu chỉ một chốc.

Đó là một người đàn ông da ngăm đen, khá gầy nếu xét qua đôi tay và chân trần lộ ra dưới lớp vải. Nhưng bù lại, ông có khuôn mặt đầy đặn, hồng hào, có thể nói rất ưa nhìn, dẫu ít nhiều xa lạ. Nhìn nó, người ta chẳng biết nó đang khen hay chê mình, đang cười, dửng dưng hay thậm chí đang khóc. Thành ra, khuôn mặt đầy đặn có vẻ cởi mở ấy rốt cục vẫn kín mít và vô cảm. Ông còn trẻ, chưa đến sáu mươi nhưng đã là một cán bộ cấp cao, rất cao, và chắc chắn sẽ còn lên cao nữa nếu không bị căn bệnh ung thư quái ác này cản đường. Có thể khuôn mặt mở mà kín đáo, thân thiện mà vô cảm ấy của ông có góp phần mình trên con đường thăng tiến.

Ở phòng ngoài, bà mẹ bảo cô con gái:

“Con vào với bố đi. Đừng để bố một mình như thế”.

Cô gái, một sinh viên năm cuối trường Ngoại Giao, lẳng lặng làm theo lời mẹ. Vừa mở cửa, cô chợt nghe có tiếng gì đấy rơi, kêu đánh keng trên sàn nhà đá cẩm thạch. Trên giường, người hấp hối nằm đầu ngoẹo sang một bên. Cái vật rơi ấy chắc từ người ông. Cô vội chạy lại và thấy bố đã chết. Đúng lúc định kêu lên gọi mẹ thì cô phát hiện thấy một điều rất khác thường. Đó là khuôn mặt bố cô. Nó không còn hồng hào, dễ mến và đầy đặn như vốn có. Thay vào đó là một khuôn mặt xa lạ, xấu, gian hiểm, gầy và đen xạm như đôi chân và tay. Cô ngạc nhiên không tin vào mắt mình, đến mức không biết phải làm gì. Bất chợt cô nhìn xuống sàn nhà và thấy cái gì đấy mỏng, bằng kim loại. Mặt nạ! Chiếc mặt nạ bố cô vẫn đeo suốt đời mình. Có lẽ giờ chết không cần nữa, nó mới rơi xuống. Cô cúi xuống cầm nó trên tay, không phải không thoáng lo sợ và ghê tởm.

Lưỡng lự một chốc, cô sửa đầu bố nằm thẳng rồi vội vàng đặt nó lên mặt ông. Khuôn mặt ông lại ửng hồng, cởi mở và đôn hậu. Nó nhìn cô với vẻ hài lòng.

Trong tiếng khóc thút thít, tiếng chia buồn và tiếng những bước chân cuống quít, người ta liệm người chết vào quan tài. Tiếp đến là dòng người xếp hàng để nói lời vĩnh biệt, bày tỏ lòng thương xót và kính trọng với chiếc mặt nạ nằm sau ô kính nhỏ.

Gian lận với trời, truyện ngắn

Người viết: Thái Bá Tân   

21/02/2012

Người đàn bà ôm bụng chửa, nhăn nhó.

“Gì thế?”

Chồng bà ta, một gã mặt quắt, da đen, vẻ lạnh lùng gian xảo ngồi bên, cau có hỏi.

“Nó đạp. Đau lắm”.

“Thì tôi bảo đi bệnh viện, sao còn cãi. Tại nó muốn ra đấy”.

“Không, ngược lại. Nó không muốn ra nên nhắc tôi cách ấy. Phải chín tháng mười ngày, các cụ nói. Mà nó mới tám tháng tròn. Thiếu những một tháng mười ngày nữa...”

“Chờ đến lúc ấy thì nói làm đếch gì. Tôi bảo hàng trăm lần rồi mà cô không chịu hiểu. Sáu mươi năm mới có một lần. Mà chỉ cho con trai thôi. Nếu ra đời lúc này nó sẽ thành đạt, thành quan, thành thủ tướng, thành tỉ phú. Muộn là hỏng. Hỏng hết. Thành thằng ăn mày, thằng mất dạy. Nó ở trong bụng, biết gì. Vớ vẩn. Nó không chịu ra thì mổ bụng lôi ra! Đủ rồi, không lôi thôi thêm nữa. Đi!”

Gã thô lỗ túm tay vợ kéo ra khỏi phòng. Bên ngoài một chiếc ô tô loại xịn đang chờ. Người lái xe riêng vội vàng mở cửa xe cho ông chủ, bà chủ.

“Chỉ sợ con nó chưa phát triển hết, ngộ nhỡ thiếu cái gì đó thì sao. Chưa nói đẻ non thế có sống được không...”

Người đàn bà lí nhí nói, nước mắt lưng tròng. Nhưng lúc ấy xe đã nổ máy, gã chồng không nghe, mà có nghe chắc cũng cộc lốc đáp:

“Kệ!”

Thế là hắn bắt vợ đến bệnh viện, không phải để đẻ mà “mổ bụng lôi con ra” như hắn nói.

Bà chủ là người ít nói, nhút nhát, luôn trong tâm trạng lo sợ mơ hồ, đối với chồng chỉ trên người ở và dưới người tình. Trong nhà bà chẳng có chút quyền hành nào, cả quyền giữ tiền hộ chồng. Đơn giản chỉ là cái bóng để làm vì. Một cái máy đẻ như gã chồng vẫn đùa bảo bạn bè. Bà chẳng bao giờ dám trái ý hắn trừ lần này, khi bị lôi đi mổ bụng lấy cái thai mới tám tháng.

Trong xe, gã chồng ngồi im không nói gì, nhưng đang suy nghĩ lung lắm, và không phải không thoáng chút lo sợ. Hắn có cảm giác như đang dính vào một vụ rất lớn. Một cú liều quan trọng. Đời hắn đầy những cú liều quan trọng. Chính nhờ dám liều hắn mới được như ngày nay - một người giàu, cực giàu nhờ buôn đồ cổ, nhờ gian lận và ăn cắp. Mới bốn lăm tuổi hắn đã có năm con, hai thằng con trai đều nghiện ngập chích choác, coi như bỏ đi. Ba đứa con gái bình thường, nhưng là con gái cũng coi như bỏ đi nốt. Mà hắn thì đang cần một thằng con ra con. Năm Quí Mùi này nghe nói cực tốt, hơn nửa thế kỷ mới có một lần. Thế là ngay từ đầu năm hắn bắt tay thực hiện kế hoạch năm nay có con bằng được, bỏ bồ bịch tối tối về ngủ với vợ. Một cuộc chạy đua lặng lẽ mà dữ dội. Hắn ra đường thấy toàn bà chửa mà thằng con hắn mong đợi vẫn chẳng thấy đâu. Cuối cùng thì vợ hắn cũng có bầu, siêu âm thấy con trai, nhưng bị muộn mất mấy tháng. Tính ra bình thường thì nó sẽ sinh đầu tháng Giêng năm sau, thế mới chết. Hắn quyết định chơi canh bạc này, tức là phải có con đúng lúc hắn muốn, bất chấp tự nhiên, bất chấp qui luật. Hắn phải chọn hoặc thêm một thằng nghiện nữa, hoặc sẽ có một quí tử xứng đáng thừa kế gia tài hắn. Nhưng để thành quí tử thì nó phải sinh ngay bây giờ. Chậm hơn là vứt! Vứt!

Trong đời, hắn từng nhiều lần gian lận và ăn cắp. Toàn những vố lớn. Vậy mà lần này hắn thấy lo lo, dù chỉ gian lận thời gian, bắt đứa bé ra đời sớm hơn một tháng mười ngày. Xưa nay hắn mánh khóe với đời, với người, nay với trời, với tự nhiên, liệu có đi quá xa không? Liệu con hắn có “thiếu cái gì đấy” như mụ vợ gở mồm vừa nói không? Hay chí ít cũng thành ngớ ngẩn? Không, không thể thế được. Suốt đời hắn luôn liều và luôn thắng, vậy lần này không thể thất bại. Cứ mổ bụng lôi nó ra!

Bên ngoài trời bỗng đổ mưa. Con đường đất chẳng mấy chốc trở nên nhão nhoét, té bùn bẩn lên chiếc Mercedes mầu đen bóng lộn. Qua tấm kính mờ nước, những bụi cây thấp ngả màu đen xỉn, lạnh lẽo và có hình thù quái dị. Chốc chốc chớp lóe, tiếp đến là những tiếng sấm giận dữ. Một điều hiếm vào dịp này trong năm. Nỗi sợ mơ hồ cứ ngọ ngoạy không để hắn yên, dường như mỗi lúc một lớn thêm.

Đường vắng. Người đàn bà mặt tái nhợt đầy tuyệt vọng, thỉnh thoảng lại ôm bụng nhăn nhó. Nếu can đảm, bà đã kêu cứu, nhưng vì nhu nhược, bà chỉ biết ngồi im. Mà có kêu cũng chẳng ai nghe. Tiếng đạp chân phản đối của đứa bé trong bụng lại càng khó được nghe hơn.

Chỉ còn một hy vọng là các bác sĩ sẽ từ chối không làm điều bất nhân, trái tự nhiên này, nhưng bà không biết thằng chồng đã đút tiền mua họ từ trước. Mọi âm mưu ăn cắp hoặc gian lận, cả gian lận với trời, đều luôn có kẻ tòng phạm.

Tội nghiệp đứa bé. Thằng bố ăn cắp của trời mà hóa ra lại ăn cắp của chính con hắn. Những một tháng mười ngày trong vẻn vẹn chín tháng mười ngày được yên ổn nằm trong bụng mẹ.

Trời mưa nặng hạt hơn. Người đàn bà khốn khổ đã không còn rên rỉ, nhăn nhó, hai mắt nhắm nghiền, có thể do khuất phục số phận hoặc ngất đi. Phía trước đã nhìn thấy bệnh viện, một khối đen ảm đạm đáng sợ như một lò mổ, nơi có những tên đồ tể đang đợi...

                                                  *

Hắn đã có được đứa con như mong muốn. Con trai. Để đúng năm đẹp, ngày đẹp, giờ đẹp. Không chết yểu và cũng không “thiếu cái gì” như mụ vợ ngu ngốc của hắn lo sợ. Còn thừa. Thừa một cái đuôi nhỏ và lớp lông dày màu vàng trên da con hắn.

Chín tháng mười ngày trong bào thai, con người trải qua toàn bộ lịch sử phát triển sự sống trên trái đất, từ sinh vật đơn giản nhất rồi đến loài nhuyễn thế, loài cá, loài bò sát, sau thành loài linh trưởng, nôm na là khỉ, giai đoạn cuối cùng trước khi phát triển thành người. Vì bị vạch bụng mẹ lôi ra sớm, nên con hắn chưa kịp rụng đuôi và rụng lông. Chỉ duy nhất một khiếm khuyết ấy, chứ mọi cái khác đều ổn. Thằng con khỉ của hắn mạnh khỏe, mặt hiện rõ vẻ quí tướng và rất giống hắn.

Dẫu không toại nguyện hoàn toàn nhưng hắn cũng mừng. Tháng sau đưa vào bệnh viện, cắt đuôi, cạo lông là xong. Lo gì!

Mùi sữa

Truyện ngắn Thái Bá Tân

Người đàn ông - một ông già sáu mươi, khô gầy, với mái tóc bạc gần hết và nét mặt căng thẳng - từ từ kéo dây khóa chiếc áo len mỏng mịn của người đàn bà đang nằm trên giường, hai mắt nhắm chờ đợi, trán lấm tấm mồ hôi dù lúc ấy đã cuối thu, trời lạnh.

Bên trong là chiếc sơ-mi lụa sẫm màu với một dãy cúc dài bằng xà cừ lấp lánh. Tuy cố giữ bình tĩnh, những ngón tay thon dài của ông vẫn run run khi lần mở chiếc cúc thứ nhất sát cổ, rồi chiếc thứ hai, thứ ba, để lộ dần làn da rất trắng và mịn. Các động tác của ông thong thả, dịu dàng như khi người ta nhâm nhi tách trà ngon, dù bản năng đàn ông đang rạo rực thôi thúc.

Bỗng một ý nghĩ ngồ ngộ xuất hiện trong đầu. Ông có cảm giác việc ông đang cởi quần áo người đàn bà này cũng giống như khi thận trọng mở hộp đàn vi-ô-lông. Ðầu tiên là kéo khóa lớp vải nỉ cứng bọc ngoài, rồi mở chiếc hộp gỗ bên trong lót nỉ, cuối cùng bỏ tấm nhung mềm phủ kín chiếc đàn. Về hình dáng, không loại nhạc cụ nào đẹp bằng đàn vi-ô-lông. Một tác phẩm nghệ thuật tuyệt mỹ luôn được bọc dưới nhiều lớp vải.

Phải mất mấy phút ông mới đưa được chiếc đàn - người ra khỏi hộp quần áo của mình. Và ông chợt sững sờ trước vẻ đẹp cơ thể trần truồng của người đàn bà, một cô gái trẻ, còn rất trẻ. Về cơ bản, nó có nhiều đường cong giống chiếc đàn, và chỉ vẻ đẹp của nó mới sánh được.

Mấy phút trước đó, cô gái trẻ ấy nói với ông:

 Sớm hoặc muộn, con cũng thành đàn bà. Con muốn điều ấy xẩy ra với thầy!

Rồi cô lặng lẽ lên giường nằm chờ, nhắm mắt để khỏi phải thấy ông  phản ứng thế nào. Có lẽ cả vì xấu hổ.

Ông đứng lặng, ngắm cô rất lâu. Cô gái vẫn nằm bất động. Hình như  đã thiếp đi. Có thể ngủ được trong những trường hợp thế này ư?

Cô đã hai mươi hai tuổi nhưng dường như cơ thể chưa phát triển hoàn toàn. Cặp vú nhỏ và nhọn, núm hồng hồng. Túm lông dưới bụng thưa, ngắn và mềm. Người cô nhỏ nhưng không gầy, có thể nói mũm mĩm. Sự mũm mĩm của một đứa trẻ hơn một cô gái trưởng thành. Cả kiểu nằm ngoẹo đầu một bên, môi chúm lại phụng phịu cũng giống một đứa trẻ. Ông cúi xuống, giơ tay định chạm vào cái cơ thể trẻ con ấy nhưng bỗng bàn tay ông chững lại, treo lơ lửng trên người cô. Bàn tay xương xương, lốm đốm những nốt đồi mồi trở nên đen xạm, xấu xí trên nền trắng mịn của da thịt cô gái.

... Ông là giáo sư vi-ô-lông. Cô gái là học trò yêu của ông hơn mười năm qua, từ sơ cấp cho đến hết đại học. Ngày mai cô đi Pari học cao học, có thể quay về mà cũng có thể không, cô bảo thế. Và hôm nay cô đến từ biệt ông.

Cô luôn là một học trò giỏi, thông minh, xinh đẹp và cũng rất cá tính. Con gái của người quen, một trí thức nổi tiếng. Ông đặc biệt cảm tình với cô, coi như con, và đoán cô cũng nghĩ thế về ông. Khi còn nhỏ, đi đâu ông cũng đưa cô theo, có khi cả mấy ngày. Năm ngoái ông đi nghỉ Ðồ Sơn một mình, cô cũng đòi theo. Ông thấy bất tiện nên từ chối, cô khóc xin, ông phải báo với bố mẹ cô và họ nhờ ông cho đi. Tất nhiên ông thuê phòng riêng và hai người đối xử với nhau như bố con.

Từ bé cô luôn gọi thầy xưng con. Ông cũng thế. Một mức thân mật hơn so với quan hệ thầy trò bình thường. Tuy nhiên, khi trở thành cô gái, mối quan hệ trong sáng ấy bắt đầu có ít thay đổi, những thay đổi rất tinh tế, từ phía cô chứ không phải ông.

Cô trở nên hay rụt rè e thẹn. Ðôi khi ông chợt bắt gặp cô nhìn ông với cái nhìn khác hẳn. Mãi sau này mới đoán hiểu cô yêu ông. Ông chỉ mỉm cười, tuy lúc đầu thoáng chút bối rối. Ông là người có tài, đáng kính về mọi mặt, tế nhị và hay mặc cảm. Sự tế nhị, mặc cảm ấy không cho phép ông vượt qua mức chênh lệch bốn mươi tuổi giữa hai người. Nhưng dường như cô thì không. Cô ngưỡng mộ, yêu ông một cách bồng bột, bất chấp tất cả, tất nhiên không bộc lộ ra ngoài. Chỉ do tinh tế ông mới nhận ra điều ấy. Nhận ra mà vờ như không nhận ra để khỏi làm cô bối rối và cũng để tự kiềm chế mình.

Hôm nay thì tự cô nói thẳng, lại còn nảy ra cái ý định xin được ông cho thành đàn bà. Cô đang nằm kia, trên giường, trần truồng, sau khi được ông cởi bỏ hết quần áo như như cởi nhiều lần vải bọc chiếc đàn vi-ô-lông.

Ông bị bất ngờ trước lời đề nghị khác thường ấy. Tuy có tuổi nhưng còn là người đàn ông khỏe mạnh, sau chút ít do dự, ông đã buông mình cho tình cảm lôi cuốn. Vả lại ông nghĩ nếu làm khác, có thể cô sẽ thấy bị xúc phạm và đau khổ. Tất nhiên giữa hai người không thể có cái tình yêu theo nghĩa thông thường, nhưng lẽ nào ông không thể vượt qua mặc cảm để chiều cô và cũng là chiều mình một lần, chỉ một lần duy nhất trước khi hai người chia tay, có thể chia tay mãi mãi?

Ðúng thế, trên nền da trắng của cô gái, bàn tay ông, vốn thon dài và đẹp như ở những nghệ sĩ vi-ô-lông khác, bỗng trở nên xấu xí, đen đủi. Như tay phù thủy, ông nghĩ và thầm ngạc nhiên với phát hiện mới của mình. Tuổi già. Chính tuổi già đã tạo nên sự tương phản ấy. Giá ông trẻ hơn hai, ba mươi tuổi thì chẳng sao. Lúc ấy chắc mọi việc sẽ diễn ra một cách tự nhiên, ông khỏi bị mặc cảm, bàn tay ông khỏi bị treo lơ lửng thế này. Ông có cảm giác như nếu chạm vào, nó sẽ để lại những vết đen bẩn, làm ô uế cơ thể thanh khiết của cô.

Cuối cùng, bàn tay ấy chỉ dám khẽ chạm mái tóc cô, âu yếm ve vuốt, nhất là phía sau gáy. Cô gái dường như đã thiếp đi thật. Cũng có thể còn thức nhưng cố tình nằm yên, mắt vẫn nhắm, hơi thở đều đều.

Ông cúi xuống định hôn cô, vẫn chưa quyết định sẽ hôn vào đâu - mắt, trán hay môi. Trước đây ông nhiều lần hôn lên trán và mắt cô, nhưng môi thì chưa lần nào. Cũng từng chạm vào người, cố tình chạm, vì điều đó mang cho ông một cảm giác thích thú khó tả. Thậm chí ông có thể làm hơn nếu muốn, nhưng ông đã luôn kìm mình để không bước qua cái vạch ngăn cách vô hình do ông đặt ra. Có thể lần này sẽ khác chăng?...

Khi cúi xuống sát mặt cô gái, lần nữa bất chợt ông chựng lại. Có mùi gì như mùi sữa. Mùi sữa từ miệng những đứa trẻ còn bú mẹ! Không hoi gắt, chỉ thoang thoảng dễ chịu, nhưng đúng là cái mùi ấy. Thật kỳ cục, ông thầm nghĩ. Cô gái này đã hai mươi hai tuổi và chỉ có thể uống sữa đặc, sữa tươi, sữa cốc-tây... Hay từ vú? Không, ở đấy chỉ có mùi thơm mát của da thịt và mùi tuổi trẻ.

Vẫn mặc nguyên quần áo, ông lặng lẽ nằm xuống cạnh cô gái. Sự ham muốn thôi thúc giảm nhiều từ khi không dám chạm tay vào người cô, giờ bị cái mùi kia làm tan biến. Vì sao, ông không hiểu và đang cố hiểu.

Mấy năm trước, trong một cuộc vui với bạn bè, bị hoàn cảnh đưa đẩy, ông đã bỏ tiền mua tình yêu của một cô gái. Ngậm vú cô, ông thấy trên lưỡi có cái gì ngòn ngọt. Khi được hỏi, cô kia bảo mới sinh, cần tiền nuôi con nên phải làm nghề này. Ông mất hết hứng thú, đứng dậy mặc quần áo, cho cô kia gấp đôi số tiền đã hứa rồi bỏ về nhà với cảm giác gần như tội lỗi. Sau đấy ông không bao giờ tới những chỗ tương tự.

Ông có đứa cháu ngoại còn bé và thường thích thú ẵm nó trên tay để ngửi mùi sữa mẹ thoang thoảng từ miệng nó. Sao cũng chính một mùi trong ba trường hợp lại có cái gì đấy vừa giống, vừa khác hẳn nhau? Vô tình, ông liên tưởng cô gái đang trần truồng nằm bên với đứa cháu mà không ít khi ông cũng bế trần truồng như thế.

Mà sao cô học trò của ông lại làm thế nhỉ? Vì tình yêu? Hiến dâng vì ngưỡng mộ, biết ơn? Hay đơn giản chỉ là cơn bột phát của tuổi trẻ? Thanh niên bây giờ hiện đại thật. Nhiều người già bây giờ cũng hiện đại không kém. Họ tự cho phép mình những điều mà đáng lẽ vì tuổi tác và địa vị, họ không được phép làm. Còn ông, ông hiện đại hay cổ hủ? Ông có được phép cư xử với cô bé nằm bên như với một người đàn bà không? Có phải là sự sa đọa đạo đức không, khi một người già như ông hăm hở chiếm đoạt một cơ thể trẻ trung, trong trắng như thế?

Ông quay người, dịu dàng luồn tay vào mái tóc cô, đặt môi mình lên đôi mắt đang nhắm, hết mắt này đến mắt khác. Có vị mằn mặn. Vẫn phảng phất mùi sữa...

Ông nhớ đã đọc đâu đấy cuốn sách nói ở Nhật có những nhà nghỉ dành riêng cho các ông già bất lực. Ở đấy, họ vào những căn phòng có các cô gái chờ sẵn, trần truồng và đang ngủ. Họ chỉ cần được có cảm giác suốt đêm nằm cạnh một cô gái trẻ còn trinh tiết. Cô gái được cho uống thuốc ngủ đặc biệt, không thể tỉnh dậy trước giờ đã định, nên khách không bị mặc cảm về sự bất lực của mình. Các cô giúp họ sống lại những kỷ niệm thời trẻ, vui cũng như buồn, và lần nữa chiêm nghiệm cả cuộc đời dài mình đã sống. Cách giải trí này mang lại cho họ sự thư giãn lạ lùng. Nhiều người muốn được chết với một cô gái như thế bên cạnh. Trong truyện có một ông ngẫu nhiên chết thật, nhưng chủ nhà nghỉ kịp đưa ông ta đi nơi khác, còn cô gái thì, như những cô gái khác, sáng dậy không hề biết ai đã qua đêm với mình, không biết có người đã chết bên cô.

 Người Nhật lắm trò kỳ cục thật , ông thầm nghĩ và chợt nhớ trong cuốn truyện ấy cũng có một ông già giống ông lúc này, chưa bất lực, suốt đêm nằm bên cô gái trinh tiết trần truồng mà không dám chạm tay vào người cô, sợ làm ô uế tuổi trẻ trong trắng. Ông ta cũng ngửi thấy mùi sữa từ hơi thở cô gái. Mùi hoi hoi sữa mẹ. Tiếc là đêm ấy, để được ngủ say bên cô, ông ta uống thuốc ngủ quá liều, và trong mơ đã bóp cổ cô gái. Xác chết bị đưa đi ngay, một cô khác được đem vào thế chỗ, và sáng ngủ dậy ông ta không hề biết mình đã phạm tội giết người. Thậm chí không nhận thấy có gì khác lạ.

Ông rùng mình khi nghĩ về chi tiết kinh khủng ấy.  Ðáng lẽ ông nhà văn kia không nên viết nó, cả khi có thật những chuyện như thế.

Cuối cùng ông nhỏm dậy, và lại hôn lên mắt cô gái. Vẫn có vị mằn mặn.

 Con ngủ à?  ông hỏi.

Cô gái khẽ gật đầu.

 Con chưa bao giờ hôn người đàn ông nào, và cũng chưa được hôn?

Gật đầu.

Ông im lặng một lúc, vẻ bối rối:

 Thầy xin lỗi. Thầy mặc quần áo cho con nhé?

Cô gái lại gật đầu, mắt vẫn nhắm.   

Ông bắt đầu mặc quần áo cho cô, từng cái một, thong thả và thận trọng như khi mỗi lần biểu diễn xong ông cho đàn vào hộp. Cô gái vẫn nằm yên, chỉ khẽ cử động những lúc cần giúp ông. Khi cơ thể tuyệt đẹp của cô lại được bọc trong chiếc hộp quần áo, ông có cảm giác như hẫng hụt điều gì.

Cô gái đứng dậy, nhìn ông với vẻ ngơ ngác rồi bất chợt bỏ chạy ra ngoài. Hình như cô khóc.

Sáng hôm sau ông ra sân bay tiễn cô. Ðến lúc phải bước vào khu vực chỉ dành riêng cho hành khách, cô bỗng ôm chầm lấy ông, nước mắt dàn dụa:

 Em yêu anh!... Chính vì vậy mà em phải ra đi và có lẽ không quay về nữa...

Ông hôn nhẹ lên trán cô, định nói  Thầy cũng yêu con . Một câu nói có thể hiểu theo hai cách - tình yêu giữa đàn ông, đàn bà, và tình yêu giữa bậc cao tuổi với con cháu. Nhưng ông chỉ đứng im, lần nữa đặt môi lên mái tóc cô. Thật lạ, cả mái tóc cũng phảng phất mùi sữa.

Bất chợt, ông thấy mình như già hơn thêm chục tuổi.

Khiếm nhã

Khuya, ông gấp sách đứng dậy. Phòng ngủ của ông cạnh phòng làm việc. Gọn gàng, sạch sẽ và được bài trí theo kiểu người già, dù ông chưa già lắm.

Cửa phòng ngủ khép hờ. Một sự lạ vì nó vẫn luôn đóng. Ông đẩy cửa bước vào và thấy vợ đang nằm trên giường. Lại một sự lạ nữa, vì ba chục năm nay kể từ ngày cưới mỗi người ngủ riêng một phòng. Các con ông cũng vậy. Như tây. Nhà ông có điều kiện để sống như tây. Cả hai ông bà cùng học lâu năm ở nước ngoài, cưới nhau ở nước ngoài, cách sinh hoạt, cư xử cũng giống tây. Lịch sự, điềm đạm, trọng hình thức đến mức lạnh nhạt và hơi kiểu cách. Mỗi người một phòng riêng, một thế giới riêng, và như thỏa thuận trước, không ai can thiệp vào thế giới người khác. Các thế giới riêng ấy bây giờ trở nên xa hơn, khép kín hơn khi các con đã lớn và đi xa.

Thế mà đêm nay bà tự xuống phòng ông, đang nằm trên giường và chắc đã thiếp đi vì phải chờ lâu. Gần như trần truồng với chiếc áo ngủ vải mềm mỏng tang không cài cúc. Màu hồng hơi sẫm, cái màu ngày mới cưới một lần ông nói ‘rất đẹp và khêu gợi’.

Bà chưa đầy năm mươi, kém chồng năm tuổi, người còn căng và chưa xồ ra như thường thấy ở nhiều phụ nữ tuổi này. Da bà trắng mịn, khuôn mặt đẹp với đôi môi mọng rất gợi cảm. Môi của những người đa tình. Có lẽ bản chất ông cũng đa tình, chí ít là người bình thường khỏe mạnh. Có điều đầu óc ông duy lý, rất duy lý. Cái gì cũng rạch ròi, kế hoạch và điều độ. Bạn bè nói ở ông chất máy nhiều hơn chất người. Ông thấy có phần đúng, nhưng đáng lẽ phải tăng chất người thì ông làm ngược lại. Cả trong chuyện tình cảm vợ chồng. Rồi dần dần thành thói quen, thành xuất hiện một đường ranh vô hình, một lớp kính ngăn cách trong suốt tưởng như không có gì mà thực ra rất dày, rất chắc.    

Vậy là hôm nay bà đã phá nó để bước sang thế giới của ông. Hơn thế, còn chủ động khêu gợi. Hơi thiếu tế nhị và gây sốc chút ít với một người suốt đời nghiên cứu Mạnh Tử và các bậc thánh hiền khác như ông.

Ông nhíu mày nhìn vợ một lượt từ đầu đến chân rồi lặng lẽ quay lại phòng làm việc.

... Mạnh Tử lấy vợ lúc mười chín tuổi, vừa trở về sau khi theo học thầy Tư Đồ Ngưu ba năm ở nước Lỗ. Một cuộc hôn nhân do bà mẹ sắp đặt trước. Điền thị, vợ ông, là người nết na, hiếu thảo. Một hôm bất chợt bước vào phòng, ông thấy bà đang thay áo, để ngực trần. Theo Nho giáo nghiêm khắc ông lĩnh hội được và đang ra sức thuyết giảng, đấy là một khiếm nhã lớn, một sự xúc phạm đối với chồng. Và ông đã lớn tiếng đuổi bà ra khỏi nhà...    

Giờ không là lúc người ta dễ dàng đuổi nhau ra khỏi nhà, (nếu thực tình muốn đuổi), nhất lại vì những lý do như thế. Hơn hai nghìn năm đã trôi qua kể từ thời Mạnh Tử. Cuộc sống và quan niệm, kể cả quan niệm về đạo đức, đã khác. Thay áo trước mặt chồng là chuyện bình thường. Nằm trần truồng trên giường chờ chồng cũng bình thường. Vậy sao ông cảm thấy khó chịu?

Hơn nữa chỉ mấy phút trước đó ông chợt hứng, nẩy ý định muốn gần vợ, dù chưa nói trước. Ông bà vẫn có lệ “nói trước” chuyện ấy. Thế mà bây giờ cái cơ thể chờ đợi cùng màu áo ông thích kia chẳng làm ông mảy may xúc động. Ngược lại, nó còn khiến ông nguội lạnh. Vì sao? Ông cố tự cắt nghĩa mà không được.

Thực ra thì Mạnh Tử đuổi vợ không hẳn vì lý do đạo đức, mà cái chính là vì Điền thị xấu xí, ngay từ đầu ông đã không ưng nhưng không dám trái ý mẹ. Lần này Mạnh mẫu cũng quyết không để người con dâu yêu quí phải nhục nhã ra khỏi nhà. “Thế trước khi vào phòng con có gõ cửa không?” Bà hỏi. “Không.” “Vậy con mới là người khiếm nhã, xúc phạm vợ con!” Mạnh Tử phải xin lỗi vợ và mời bà ở lại. (Tào Nghiêu Đức: Mạnh Tử Truyện).

Hôm nay ai khiếm nhã, ai xúc phạm ai? Vợ ông, người bỗng dưng đến nằm xuống giường chờ chồng? Hay ông, chồng bà, thấy thế còn bỏ sang phòng làm việc?

Cỗ máy trong ông hình như gặp một trục trặc nhỏ. Ông ngồi thừ người, chẳng biết nghĩ thế nào.

Giáo lý “nam nữ thụ thụ bất thân” của Khổng được Mạnh nâng lên tới mức vợ vô tình thay áo để lộ ngực trần với chồng cũng là tội lớn. Thế mà theo dã sử, đã có lần ông cùng bạn tới lầu xanh. Đạo đức giả? Hay đàn ông được phép làm điều đó?

Phụ nữ ở những nước đạo Hồi nghiêm khắc thậm chí đến nay vẫn không được phép để đàn ông nhìn thấy mặt mình hoặc nhìn mặt họ, trừ chồng, bố và các anh, em trai. Khách đàn ông đến nhà không được ra tiếp, mà phải đưa nước uống, thức ăn qua cái lỗ ở vách tường. Vì sao có sự phi lý ấy? Sao phụ nữ những nơi ấy và phụ nữ thời Mạnh Tử không vùng lên như vợ ông hôm nay?

Cuối cùng, khi ông quay lại phòng ngủ thì bà vợ đã không còn trên giường.

                    *

Sáng hôm sau, mãi đến tám giờ ông mới dậy. Vợ ông đang ngồi chờ chồng xuống ăn sáng bên chiếc bàn đá trong vườn. Trên bàn có chiếc khay nhỏ với ổ bánh mỳ, hộp bơ, đĩa trứng tráng và hai cốc nước cam rót sẵn. Bà đang đọc báo như thường lệ. Ông lại gần, cúi hôn nhẹ lên má vợ. Nét mặt và điệu bộ bà vẫn bình thường như mọi ngày, như không hề có chuyện đêm trước. Tất nhiên ông cũng tỏ ra như vậy.

Bà đưa tờ báo cho ông, trỏ ngón tay vào chỗ bà muốn ông đọc.

Đó là tin về một phụ nữ trẻ người Nigeria, một nước châu Phi theo đạo Hồi luôn chìm trong bạo lực và nghèo đói. Người này bị tòa án Hồi giáo kết án tử hình theo luật Sharia về tội trót sinh con ngoài giá thú. Tức là sẽ bị chôn xuống đất chỉ chừa lại cái đầu để người ta ném đá cho đến chết. Cả thế giới xúm vào xin tha cho cô nhưng không được. Trong khi đó, trên đường phố của chính cái thành phố cô ta phạm tội tầy đình ấy ban đêm vẫn nhan nhản gái điếm đứng đợi những người đàn ông mộ đạo, nghiêm khắc đã kết án một trong những người bạn khốn khổ của họ.

“Ông thấy có kinh khủng không?” bà hỏi.

“Ừ, kinh khủng thật”.    

Ông khẽ đáp rồi quên cả ăn, ngớ người nhìn bà. Ông lại nhớ chuyện Mạnh Tử nhẫn tâm đuổi vợ khỏi nhà vì tội khiếm nhã thay áo, vô tình để chồng thấy ngực mình.

Ông còn nhớ cả chuyện, không hiểu sao mãi đến giờ mới nhớ, rằng (cũng theo Tào Nghiêu Đức) sau khi bị mẹ mắng, Mạnh Tử mới nghĩ đến việc suốt hàng chục năm liền vợ ông phải hy sinh, chịu đựng thế nào để ông lĩnh hội và truyền bá cái đạo lý mà bà trở thành nạn nhân. Nghe nói từ đó Mạnh Tử trở thành người chồng mẫu mực về mọi phương diện và rất yêu thương vợ.

Chiến tranh

Một cô thanh niên xung phong bị phát hiện đang lén lút làm cái việc “tự sướng” bên con suối nhỏ sâu trong rừng.

Suốt ba đêm liền, từ sau bữa ăn tối cho đến gần sáng, cô bị đồng chí của mình, toàn nữ, kiểm điểm gay gắt và không ngớt lời sỉ vả. “Ghê tởm, thật ghê tởm!”  “Một biểu hiện suy đồi đạo đức!” Một hành động bêu xấu hình ảnh người chiến sĩ cách mạng, đi ngược với lý tưởng và lối sống cách mạng tốt đẹp!” “Xử bắn con đĩ tư sản thối nát ấy đi!”. Vân vân.

Sang ngày thứ tư, không chờ đồng đội xử bắn, “con đĩ tư sản thối nát” ấy đã treo cổ tự tử trên cành cây bị bom chặt đứt một nữa.

Chủ trì và cũng lớn tiếng sỉ vả nhất trong ba đêm đấu tố ấy là cô Duyên. Đơn giản vì cô là đội trưởng đội thanh niên xung phong ấy. Duyên là người làng tôi, thậm chí suýt thành chị dâu, nếu anh trai con ông bác tôi không hy sinh ở Quảng Trị năm 68. Tự cô kể tôi nghe chuyện này khi hết chiến tranh trở về nhà.

“Tội nghiệp nó! Người ta bảo thì bọn chị phải làm thế chứ thương lắm!” cô nói, rơm rớm nước mắt. “Khối đứa như nó. Chị biết”.

“Cả chị?” tôi hỏi.

Ngập ngừng một lúc, chị nói, giọng thách thức:

“Thì sao? Chị không là người chắc? Cả bầy con gái thui thủi một mình trong rừng không một mống đàn ông suốt mấy năm trời! Đơn vị chị thì không, nhưng nghe nói ở Đrao, Tây Nguyên, có mấy chục đứa phát cuồng, lúc ôm nhau cười mãi không thôi, lúc xé hết quần áo kéo chạy tồng ngồng gữa rừng như những con điên.

Mắt chị lại rưng rưng.

Về làng được bốn năm, do lỡ thì, và cũng do chẳng còn đàn ông nào nữa mà lấy, chị Duyên xuống tóc đi tu, ở ngay Chùa Mít bên sông Bùng. Vợ chồng bác tôi thương lắm, nhưng chẳng can ngăn. Trong thâm tâm hai cụ vẫn coi chị là con dâu. Có người nói chị bị ai đó trên tỉnh lừa tình. Chuyện này thì tôi không rõ, mà cũng chẳng quan trọng. Tôi chỉ thấy ngỡ ngàng, thậm chí đau nhói trong ngực khi hình dung chị dâu hụt của tôi, - một người xinh đẹp, yêu đời, từng nhiều năm làm đội trưởng đội văn nghệ xã, - lại tự nguyện giam mình trong ngôi chùa hiu quạnh, đổ nát, với bộ quần áo màu nâu nhà Phật. Mấy ngày sau, tôi đến tìm chị, định hỏi cho ra chuyện, nhưng tôi đã không vào chùa khi đứng từ xa nhìn thấy chị đang thẫn thờ đưa chổi quét đi quét lại cái sân vốn đã sạch.

Lặng lẽ ra về, tôi cố lý giải mà không lý giải nỗi cái gì đã biến một cô gái tươi vui, hồn nhiên, tràn trề hạnh phúc và xứng đáng được hưởng hạnh phúc thành một người yếm thế, bất hạnh như vậy.

Chiến tranh? Phải chăng đây là cái giá của chiến tranh?

Bẵng đi nhiều năm, tôi lại vào chùa Mít.

Nó vẫn thế. Hai cây nhãn trước chùa vẫn thế, và vẫn thế, chúng không chịu cho quả.

Đang vắng người, tôi vào thẳng phòng riêng sư trụ trì, sư thầy Đàm Duyên. Sư thầy chứ không phải sư cô như ngày nào.

“Chào chị Duyên,” tôi lên tiếng, không hiểu sao còn cố tình nói to.

“Mô phật. Xin xưng hô với kẻ tu hành này theo đúng cách của nhà phật. Chào chú.”

Đứng chắp tay trước mặt tôi, đầu hơi cúi, là một bà già nhỏ bé, khô đét và không còn tí dấu vết nào của cô Duyên ngày xưa cũng như sư cô Đàm Duyên sau đó tôi gặp. Nét mặt bà không chỉ vô cảm mà bất động như được nặn bằng sáp. Cái đầu trọc bóng loáng cũng có lớp sáp nhờn nhợt ấy.

Bất giác, tôi chợt nghĩ: “Nếu không trọc, không biết tóc chị sẽ bạc đến đâu?”

“Chị khỏe chứ?”        

“Mô phật.”

“Người ta nói nay mai chùa Mít bị đập bỏ để xây đường lớn lên Đô Lương và sang Lào?”

“Mô phật,” và chị khẽ cúi đầu.

“Thế chị và mọi người đi đâu?”

Sư thầy Đàm Duyên không đáp. Chất sáp trên mặt và cái đầu trọc của bà càng trở nên rõ nét hơn. Hình như bà đang khóc, dù đôi mắt sâu vô hồn vẫn ráo hoảnh.

Lát sau tôi bỏ về, vô cớ hậm hực với ngôi chùa tội nghiệp sắp bị phá bỏ, với hai cây nhãn xum xuê mà không chịu cho quả. Với cả chính tôi vì mãi vẫn lấn cấn tìm lời giải thích cho số phận chị dâu mình và những người như chị.

Chiến tranh! Ừ, chiến tranh! Tiên sư thằng chiến tranh!

Tôi thấy có cái gì nghèn nghẹn trong cuống họng, muốn văng tục chửi ai đó, đập phá cái gì đó mà không được. Chửi cái thằng gây ra chiến tranh chẳng hạn. Tiên sư thằng gây ra chiến tranh!

Đừng nói với tôi về chiến tranh bảo vệ tổ quốc và chính nghĩa. Tôi đã đủ khôn lớn để hiểu rằng cái cuộc chiến tranh ấy, nếu quả là bảo vệ tổ quốc và chính nghĩa như người ta nói, cũng chẳng là gì nếu nó là thủ phạm của hàng triệu cái chết dân Việt, hàng chục triệu cuộc chia ly đau đớn, thủ phạm của một sự đảo lộn triệt để các giá trị truyền thống dân tộc. Nó trở thành nhảm nhí khi vì nó các cô gái của chúng ta phải “tự sướng” và tự treo cổ, khi một người trẻ trung, tươi vui và tràn trề nhựa sống như chị Duyên của tôi phải biến thành một hình sáp vô hồn.

“Ừ, mà nếu không cạo đầu, tóc của chị sẽ bạc đến đâu nhỉ?”

Điều không thể nói

Thực ra chẳng có gì đáng nói về hắn, một thanh niên nông thôn chất phác, nếu không muốn nói ngờ nghệch ở một nước Nam Âu cũng chất phác và ngờ nghệch như hắn.

Năm bốn mươi mốt thế kỷ trước, hắn sung lính để tránh khỏi chết đói, mà lại sung lính cho phe Trục Phát Xít. Ba năm sau hắn bị quân Pháp bắt làm tù binh. Chiến tranh kết thúc, cũng vì miếng ăn, thay cho việc trở về quê hương, hắn tình nguyện làm lính lê-dương sang Việt Nam.

Vừa chân ướt chân ráo đến mảnh đất nhiệt đới này, hắn bị tống vào chiến trường Khu Năm và chẳng bao lâu sau bị Việt Minh bắt trong một trận càn. Ở với Việt Minh, lúc đầu hắn sợ, sau quen dần và cuối cùng thì thấy thích. Thích những con người nhỏ bé, hiền lành. Thích cái không khí yên ả ở căn cứ. Thích cái tiếng Việt kỳ lạ nhưng hay hay mà hắn học rất tấn tới. Rồi hắn quyết định ở lại với họ, chiến đấu trong hàng ngũ của họ. Trước kia cũng như lúc này, hắn chẳng bao giờ có khái niệm chính nghĩa hay phi nghĩa. Lý tưởng lại càng không. Hắn nghĩ đơn giản đã cầm súng thì phải bắn, bắn thật mạnh vào phía bên kia, nếu không sẽ bị bắn lại và tiêu diệt.

Như những anh phổi bò khác, hắn chiến đấu dũng cảm, nhiều lần lập chiến công, được đề bạt làm tiểu đội trưởng, trung đội trưởng. rồi người ta bảo hắn vào Đảng. Hắn hỏi: Đảng là gì? Người ta bảo thế này, thế này. Thế là hắn thành đảng viên, chẳng hiểu và cũng chẳng mấy quan tâm đến lý tưởng của nó.

Năm năm mươi tư, chiến tranh kết thúc, hắn cùng đơn vị tập kết ra Bắc. Khác với những người cùng cảnh ngộ, hắn không về nước mà ở lại Việt Nam, sống và làm việc như một người Việt Nam bình thường. Từ lâu hắn đã mang tên Việt, tên Tây xưa chỉ còn trong giấy tờ và ký ức. Theo phân công, hắn làm khá nhiều nghề, từ thợ xây cầu đến lái máy cày, thậm chí cả đóng phim. Lao động nặng nhọc và sinh hoạt kham khổ chẳng là gì với hắn vì hắn vốn là anh nông dân nghèo. Có điều bây giờ, sống hòa bình ở thủ đô, đầu óc chậm chạp của hắn bắt đầu lờ mờ thấy có gì đấy không ổn với cái đảng hắn tham gia. Hắn ghét và luôn tìm mọi cách trốn các buổi sinh hoạt chi bộ, cả trước kia cũng vậy. May người ta thấy hắn hiền lành, gốc gác Tây nên cũng châm chước phần nào.

Ở Hà Nội, hắn hay lui tới Khâm Thiên, phố ả đào nổi tiếng trước giải phóng. Một hôm, mặt ngời ngời hạnh phúc, hắn báo với bạn bè hắn sắp lấy vợ, lấy một cô đào hát ở đấy. Thời đó đào hát cũng na ná như đĩ điếm bây giờ. Trong khi lặng lẽ chuẩn bị cho lễ cưới của mình, hắn không biết người ta đang điều tra nhân thân cô vợ tương lai của hắn. Cuối cùng, hắn được ông bí thư đảng bộ xí nghiệp nơi hắn đang làm việc mời lên gặp.

“Đồng chí không được lấy cô L. làm vợ!” ông này nói.

“Vì sao?” hắn hỏi.

“Vì đồng chí là đảng viên...”

“Thì sao?”

“Quy định của đảng không cho phép đảng viên kết hôn với những người thuộc tầng lớp không tương xứng. Trong trường hợp của đồng chí là lấy đĩ điếm”.

Dẫu đã Việt hóa khá nhiều, nhưng chất bộc trực của người Âu vẫn còn, hắn phải vất vả lắm mới không đấm và mặt ông kia vì sự xúc phạm ghê gớm ấy. “Đ. m. cái quy định của mày!” hắn nghĩ. Hắn cũng rất giỏi chửi thề những lúc tức giận.

“Nhưng bây giờ chế độ mới, cô ấy không hành nghề nữa, nếu trước kia cô ấy từng làm nghề này”.

“Không được.”

“Thì tôi cưới, coi như cứu cô ấy khỏi bùn nhơ...”

“Không được.”    

“Vậy tôi phải ra khỏi đảng mới được lấy cô ấy?”

“Cũng không được”.

“Vì sao?”

“Vì cán bộ nhà nước không được lấy người ngoài biên chế”.

Đấy là một cú đòn rất mạnh đánh vào hắn, một người đang yêu và quyết tâm bảo vê tình yêu của mình. Đầu óc chậm chạp của hắn không thể nào hiểu nổi vì sao lại có những qui định kỳ cục như vậy.

Một tuần sau, hắn trả thẻ đảng và bỏ việc. Ba tháng sau nữa, hắn đưa “con đĩ”    của mình về nước.

*

Nhiều năm đã trôi qua kể từ ngày ấy. Thỉnh thoảng báo chí trong nước lại có bài về hắn, một chiến sĩ cách mạng quốc tế, tình nguyện tham gia cuộc đấu tranh chính nghĩa của dân tộc. Hắn được tặng huân, huy chương, được lãnh đạo nhà nước tiếp và mời sang Việt Nam tham dự các dịp lễ long trọng.

Tôi, tác giả truyện này, cũng nhờ những bài báo ấy mới biết đến hắn, từ giờ xin được gọi là ông. Năm 1994, nhân một chuyến công tác, tôi cất công tìm đến nhà ông. Ông sống trong một chung cư cao tầng. Tôi đứng phía dưới, bấm chuông chờ gần ba mươi phút không thấy ai xuống đưa lên nên đành bỏ đi. Mấy tháng sau, gặp ông trong một khách sạn nhỏ ở phố Mai Hắc Đế, ông bảo tôi khi xuống đến nơi thì không thấy ai nữa. Chả là ông đã già, chân lại đau nên đi đứng chậm chạp.

 Chuyện trò với nhau cả buổi trong khách sạn, ông đã kể tôi nghe câu chuyện cuộc đời mình.

“Vợ tôi là một người đàn bà tuyệt vời!” Ông nói khi kể chuyện vợ chồng ông phải vất vả thế nào những ngày đầu về nước. “Bà ấy không hé răng kêu ca một lời. Một sự chịu đựng nhẫn nhục và dịu dàng tôi nghĩ chỉ phụ nữ Việt Nam mới có. Nhờ bà ấy mà cả khu phố chúng tôi ai cũng yêu quí Việt Nam đấy!”

Ông cũng hào hứng kể lại những kỷ niệm xưa. Tôi chăm chú lắng nghe, thầm xấu hổ nghĩ mình người Việt mà có lẽ không yêu đất nước mình bằng ông già người Tây này.

“Nếu phải làm lại từ đầu, tôi vẫn sẽ làm như mình đã làm!” ông nói chắc như đinh đóng cột khi chia tay tôi.

“Tiếc lần này bà nhà tôi không thể về cùng. Một người đàn bà tuyệt vời! Thế mà người ta nhất quyết không cho tôi lấy bà ấy! Kỳ thật.” Rồi ông quay sang hỏi tôi: “Ông, người Việt, ông có hiểu nổi không?”

“Không,” tôi đáp. “Và cả nhiều điều khác nữa.”

Ông thở dài:

“Ừ, cả nhiều điều khác nữa”.

Đùa

Như trong những trường hợp tương tự, câu chuyện phiếm của mấy người bạn bia nhanh chóng nhảy từ đề tài nọ sang đề tài kia. Lúc này họ đang kể cho nhau nghe các chuyện đùa, của mình và của người khác.

- Có chuyện này hay lắm, để mình kể các cậu nghe nhé, - một người trạc bốn mươi, mãi bây giờ mới lên tiếng lần đầu. Ông ta cầm cốc bia, tu một hơi thật dài rồi khoan khoái đưa bàn tay chùi mép.

                    *

Chuyện xảy ra đã lâu, khi mình mới tốt nghiệp đại học và được phân về dạy ở thị trấn N. Hồi ấy trường mình có cô giáo dạy văn rất xinh, tên Kiều Hoa. Kiều Hoa học tổng hợp, ra trường sau mình một năm, từng nổi tiếng hoa khôi của trường và làm không ít các chàng trai si mê đau khổ. Còn ở cái trường tỉnh lẻ kia của bọn mình thì khỏi nói. Mới xuất hiện, Kiều Hoa lập tức trở nên nổi bật hẳn, thành trung tâm chú ý của cả trường. Điều đó dễ hiểu vì như đã nói, cô xinh, rất xinh, lại vốn dân Hà Nội nên biết ăn diện đúng mốt mà thanh lịch. Thêm vào đó, Kiều Hoa không vì thế mà đỏng đảnh, kiêu kì như nhiều cô xinh đẹp khác. Cô còn thông minh, dạy giỏi và chịu khó học tập. Lại khiêm tốn, dịu dàng nữa chứ... Tóm lại, không nói các cậu cũng biết, tất cả cánh giáo viên trẻ bọn mình đã chạy theo Kiều Hoa thế nào.

Đúng, tất cả, hay ít ra cũng gần như thế. Mình nói hầu như vì có ý trừ mấy ông đã có vợ (nhưng chắc không dửng dưng nếu điều kiện cho phép), và trừ mình. Lúc ấy mình còn quá vô tư, thích đùa nghịch hơn yêu đương thật sự.

Thế mà thật lạ, không hiểu sao Kiều Hoa chẳng thèm để ý tới ai. Trong trường có nhiều cậu cũng khá, nhưng không cậu nào lọt được vào mắt nàng. Hay nàng có người yêu đâu xa chăng? Bọn mình lén lút theo dõi thư từ và những người lạ đến thăm Kiều Hoa nhưng không phát hiện thấy điều gì khác thường. Cứ thế kéo dài một năm. Các cậu nên nhớ rằng đối với các cô gái, nhất là những cô gái xinh đẹp, một năm là quãng thời gian quá dài để kén chọn một chàng trai nào đấy. Kiều Hoa thì cứ như không, như chẳng hề quan tâm điều ấy. Thói đời, các cậu biết đấy, nhất lại ở tỉnh lẻ, anh càng khác đời, người ta càng tò mò muốn biết, thậm chí ghen ghét, càng dễ trở thành đối tượng của những việc làm ngu ngốc và tai hại mà chuyện mình đang kể là một thí dụ.

Một hôm, sau buổi họp hội đồng giáo viên thường lệ, bà hiệu trường nói bằng giọng tự nhiên và rất dễ nghe hàng ngày bà vẫn nói:

- Cô Kiều Hoa hình như đánh rơi cái này. Lúc nãy vào đây sớm, tôi nhặt được.

Rồi bà chìa ra một tờ giấy gấp đôi. Vì Kiều Hoa ngồi cuối phòng nên trước khi tờ giấy đến tay cô, vài người chuyền nhau đã kịp đọc nó. Ai đọc xong cũng lộ vẻ ngạc nhiên. Còn Kiều Hoa thì khi liếc qua những gì ghi trên đó, mặt cô bỗng đỏ bừng, rồi từ đỏ thành tái nhợt. Cô ngồi im ngơ ngác một phút rồi vụt đứng dậy, vội vã chạy về phòng mình, chắc phải cố lắm mới không òa lên khóc.

Mọi người bàn tán sôi nổi. Thì ra đó là tờ giấy chứng nhận của bệnh viện, ghi rõ rằng cô Kiều Hoa đã đến khám ở bệnh viện X, rằng cô mắc bệnh vô sinh do tắc cái gì đấy và có thể ảnh hưởng đến tính mạng nếu không chú ý giữ gìn. Cuối cùng là câu kết luận, yêu cầu nhà trường miễn cho cô Kiều Hoa, vì lí do trên, không phải tham gia công việc lao động nặng nhọc. Rồi bác sĩ kí tên,  đóng dấu.

Vâng, nội dung tờ giấy kia đúng như thế. Các cậu thấy nó ngớ ngẩn và vô lí chứ gì? Hẳn vậy. Chính bọn mình lúc ấy cũng không thể nào nghĩ khác. Không bác sĩ, bệnh viện nào có thể chứng nhận một điều tương tự. Đây chắc do một anh chàng tinh nghịch nào đó đùa vui quá trớn mà thôi. Thật láo lếu và ngu xuẩn. Vậy mà các cậu biết không, cái điều láo lếu, ngu xuẩn ấy được truyền đi khắp nơi với tốc độ chóng mặt.

Ở tỉnh lẻ, bất kì tin đồn nhảm nhí nào cũng được lan truyền với tốc độ ấy. Hơn nữa đây lại chuyện liên quan đến cô Kiều Hoa nổi tiếng, về một việc quan trọng có tính giật gân như vậy. Thành ra mấy ngày sau, không chỉ giáo viên và học sinh trong trường mà cả người ngoài thị trấn đều biết hết mọi chuyện, biết một cách tường tận, tất nhiên không thể không kèm theo những chi tiết mới được sáng tác thêm, mỗi người theo cách riêng của mình.

Người ta bắt đầu gắn vào cái tên đẹp đẽ của cô một vài từ kém văn hóa nhưng phải thừa nhận là rất ấn tượng, như Kiều Hoa Điếc, Kiều Hoa Tịt! Các nữ đồng nghiệp trẻ ghé tai nhau thầm thì điều gì đó, rồi nhìn cô bạn "tội nghiệp" của mình bằng đôi mắt ái ngại không che giấu. Họ an ủi Kiều Hoa bằng những câu đại loại thế này: "Chà, cái thằng nào đùa đểu thật", hoặc: "Ừ, đau thật, nhưng cứ cho đúng thế thì cũng chẳng quái gì phải buồn. Càng đỡ lo chồng con thêm khổ!" Có người còn nói: "Dù sao đợt lao động sắp tới, nếu cần, Kiều Hoa cứ yêu cầu nhà trường..." Vân vân và vân vân.

Còn thái độ của Kiều Hoa thì sao? Điều này mới thực sự làm bọn mình ngạc nhiên. Sau phút choáng váng ban đầu, cô nhanh chóng bình tĩnh trở lại và có vẻ như hoàn toàn thờ ơ với những gì đang xảy ra xung quanh. Cô không thanh minh, cũng chẳng căn vặn ai tung ra tờ giấy ấy. Rõ ràng cô cho những gì xảy ra với cô là trò ti tiện đáng khinh. Cô tự xem cô cao hơn bọn mình, những người cô nghi đã làm cái trò ti tiện đáng khinh đó. Có điều cô trở nên ít hồn nhiên hơn, ít giao thiệp với người khác và một thời gian sau thì tự tách mình khỏi cái tập thể giáo viên trẻ, vui nhộn đến mức ngu ngốc và nhẫn tâm của trường. Sau này mình mới hiểu Kiều Hoa đã đau khổ và khinh bỉ bọn mình chừng nào.

Tất cả chỉ vì một trò đùa ngu ngốc, các cậu ạ. Tuy nhiên đến đây câu chuyện chưa chấm dứt, đúng hơn, mới bắt đầu. Những lời đồn không hề giảm bớt, phần vì người ta muốn thế, phần do Kiều Hoa im lặng nên càng có cớ để tin là thật. Cuối cùng, như người ta vẫn nói, một điều giả dối được nhắc đi nhắc lại hàng trăm, hàng nghìn lần có ngày sẽ thành điều có thật, cả đối với người nghe lẫn người nói. Thế là dần dần, các cậu tin hay không thì tuỳ, cái chuyện vô lí ấy về Kiều Hoa, rằng cô không có khả năng sinh đẻ, rằng cô hỏng tắc cái gì đó và cần phải tránh việc nặng để bảo vệ sức khoẻ, vân vân, đã không còn làm ai nghi ngờ. Thậm chí mình nghĩ hình như cả Kiều Hoa cũng tin điều đó, vì sau này lần nào có lao động, trường cho nghỉ, cô cũng nghỉ.

Lại một chuyện vô lí nữa chứ gì? Có thể, nhưng quả đúng như vậy. Cuộc đời vốn vẫn thế, nếu cái gì cũng xảy ra đúng lô-gích, cái lô-gích do chúng ta phịa ra, thì cuộc đời chẳng còn là cuộc đời nữa, dù nó ngu ngốc và độc ác. Các cậu thử tưởng tượng xem, một người như Kiều Hoa mới ngày nào được chú ý, ngưỡng mộ nhường ấy, vậy mà bây giờ bị người ta nhìn bằng con mắt khác hẳn. Không một chàng trai nào tìm đến cô với ý định nghiêm túc, mà chỉ để chơi bời thì Kiều Hoa không phải hạng người như thế.

Ở tỉnh lẻ, các cậu biết đấy, không có nhiều chàng trai tử tế để kén chọn, còn ở thị trấn N. này thì có thể nói cánh nam giáo viên trường mình là tinh hoa nhất, nhưng bọn mình lại bị Kiều Hoa ra mặt khinh bỉ. Người từ xa đến không có, nếu có, chẳng bao lâu cũng bỏ đi khi được thông báo một cách tỉ mỉ mọi chuyện. Suy cho cùng, ai muốn lấy một người khi biết trước người ấy "điếc", "tịt", nghĩa là không có khả năng tạo ra những cô bé, cậu bé mũm mĩm để kế tục dòng dõi cao quý của mình, đúng không?

Cứ vậy, một năm, hai năm rồi năm năm trôi qua mà Kiều Hoa vẫn không lấy được chồng. Thật trớ trêu, Kiều Hoa, cô gái xinh đẹp, thông minh, hoa khôi một trường đại học lớn ở thủ đô, cuối cùng suốt đời phải độc thân, không được hưởng cái hạnh phúc gia đình cô có quyền và xứng đáng được hưởng...

- Sao, suốt đời? - Một người ngồi cạnh ngừng uống bia, hỏi.

- Vâng, suốt đời, - người kể chuyện đáp, rồi sau một phút trầm ngâm, nói thêm: - Vì cuộc đời của Kiều Hoa không dài - cô chết khi vừa tròn ba mươi tuổi.

- Chết?

- Đúng thế, chết. Chết vì băng huyết sau khi sinh... Mình biết các cậu đang ngạc nhiên. Cũng đúng thôi. Số là Kiều Hoa có chửa. Không chồng mà chửa mới ngoan... Chà, nếu các cậu biết điều ấy tác động đến trường mình và thị trấn N. mạnh như thế nào. Cô ấy chẳng hề giấu giếm, có vẻ như muốn phô trương khiêu khích nữa là khác. Cô không chịu nói ai là bố đứa bé. Mãi sau này, khi Kiều Hoa chết mình mới hiểu cô ấy chủ tâm làm thế để trả thù đời, trả thù bọn mình. Phụ nữ rất khó hiểu, Kiều Hoa càng khó hiểu hơn. Không ai biết cô ấy nghĩ gì trong đầu. Một người thông minh, cứng rắn đến thế mà cuối cùng không chịu nổi để làm việc cực đoan, vô nghĩa như vậy.

- Rốt cục người ta vẫn không biết kẻ tung tờ giấy kia là ai à, cái thằng khốn kiếp ấy? - một người hỏi.

- Không, nhưng mình biết. - Người kể chuyện ngừng nói, im lặng hồi lâu. - Thằng khốn kiếp ấy là mình.

Mọi người không ai nói gì. Mãi lúc sau người kể chuyện mới lên tiếng:

- Xin thề với các cậu rằng mình không phải người độc ác. Mình chỉ đùa. Đùa một tí cho vui thôi mà. Lúc ấy mình có người bà con làm bác sĩ ở bệnh viện X, nơi mình thường đến lấy những tập giấy sẵn có chữ kí và con dấu để ngộ nhỡ muốn nghỉ ngày nào thì điền vào đấy. Một hôm, không hiểu nghĩ thế nào, tiện tay mình viết tờ giấy tai hại kia và lén để nó trong phòng giáo viên trước giờ họp. Tất nhiên sau đó mình rất hối hận. Lúc đầu mình không đủ can đảm tự thú, còn sau, khi sự việc đi quá xa thì có nói ra cũng chẳng giải quyết được gì. Thế là mình im, im suốt chừng ấy năm, cho đến hôm nay lần đầu đem kể các cậu nghe. Phải nói thêm rằng mình rất yêu Kiều Hoa. Yêu ngay từ lúc mới gặp, sau này càng yêu hơn nhưng mình không dám thổ lộ, trước hết vì xấu hổ với lương tâm, như thể mình bày ra cái trò ấy để chiếm đoạt cô. Sau nữa vì biết chắc Kiều Hoa sẽ khinh bỉ từ chối như sẽ từ chối bất kì anh nào trong bọn mình. Vì sao thì các cậu đã rõ...

- Còn đứa bé? - một người hỏi.

- Rất may đứa bé còn sống. Sau khi Kiều Hoa chết, mình đến báo với tổ chức rằng mình là bố của đứa bé và xin nhận nó về nuôi. Các cậu biết không, người ta tin điều ấy cũng dễ dàng như tin Kiều Hoa vô sinh. Từ đó đến nay nó sống với mình. Bao giờ cũng chỉ hai bố con như các cậu thấy.

- Và suốt đời nó không được biết điều bí mật này của bố mẹ nó?

- Không, nếu các cậu không bẻm mép mách lại với nó, tất nhiên. Mà thôi, cho mình thêm cốc nữa!

Ma quỷ trong long ta

Tháng trước ở phường B. thị trấn Ðức Giang, huyện Gia Lâm, nơi tôi về nghỉ hưu mấy năm nay, đã xẩy ra một vụ trọng án có nhiều tình tiết rất kỳ lạ, có thể nói bí ẩn không sao giải thích nổi, đến mức cuối cùng người ta quay sang cho rằng nhất định phải có yếu tố thần linh ma quỷ trong vụ này. Thần linh, ma quỷ là gì thì chẳng ai biết, chẳng ai nhìn thấy bao giờ, khoa học chính thống có thái độ gần như phủ nhận, thế mà ai cũng thích nói, thích nghe, nhiều khi tranh cãi nẩy lửa về đề tài này. Ðề tài muôn thuở của những người rỗi rãi và thường yếu bóng vía. Vụ án ở Ðức Giang là cái cớ tốt để người ta quay lại với nó.

  - Ai bảo không có ma? Có quá đi chứ. Nhiều nữa là khác, - một trong mấy người đang ngồi uống bia ở quán Hải Xồm, hùng hổ nói, bàn tay múp míp vuốt vuốt cái đầu hói đến tận gáy. - Chỉ những người học vấn ít mới không tin chuyện ma. Ma là cả một thế giới có thật tồn tại ngoài tầm hiểu biết của chúng ta. Chừng nào khoa học hình sự chưa tiếp cận được cái thế giới ma ấy thì vụ Ðức Giang vừa rồi còn lâu mới sáng tỏ

.

  - Ma với quỷ quái gì! - một người khác bác lại không kém phần hăng hái. - Hiện trường giả đấy. Thế mới cao tay.

          Vài người nữa chen vào, thế là cả nhóm tự lúc nào không biết chuyển sang nói chuyện ma, người bảo có, người không rất sôi nổi như phần lớn các cuộc tán gẫu vô bổ khác bên cốc bia. Ðể minh họa, người ta đem ra kể đủ chuyện, của mình và của người khác, ai cũng cam đoan là có thật nhưng ai cũng biết là bịa. Có thể câu chuyện dưới đây cũng vậy, tuy nó được kể trong một trường hợp khác, cụ thể là trong một lần chúng tôi, mấy ông già về hưu kinh tế khá giả, tới khu vui chơi Cầu Ðôi ở Ðông Anh câu cá thể thao , tức là ăn uống nhiều, tán gẫu nhiều, câu ít, mà có câu được con nào lại thả ngay xuống nước con ấy. Một trò giải trí mà theo cách nhìn nhận thẳng thắn của nhiều người là ngớ ngẩn và mang tính trưởng giả.

          Theo yêu cầu của người kể, tôi sẽ không nói tên ông ra đây, vả lại điều ấy không quan trọng với người đọc. Chỉ cần biết đó là một người đã đứng tuổi, một cựu quan chức cao cấp đáng kính về nhiều phương diện.

                                                                 *  

Lúc ấy là những năm đầu Mỹ mở rộng chiến tranh ra Miền Bắc. Cách Phủ Lý độ mấy cây số về phía Nam có một ngôi chùa nhỏ bình thường, cả cái tên cũng bình thường, chùa Dền. Trong chùa chỉ có một ông sư già trụ trì và một ni-cô trẻ do thất tình hay vì lý do nào đấy vừa mới xuống tóc đi tu. Cầu Phủ Lý bị máy bay đánh phá nhiều lần nên chùa Dền cũng chịu vạ lây, may chưa lần nào bom rơi trúng chùa, và người dân các làng lân cận vẫn tới hương khói đều đặn. Ông sư đã già nhưng còn khỏe, ngoài giờ chay tịnh, ông giúp ni-cô trồng trọt trên mảnh đất hai sào sau chùa. Hai người sống nhờ vào nó, chứ đồ tế lễ của người cúng viếng chẳng là bao vì bản thân họ còn chưa kiếm đủ ăn.

           Một đêm nọ, lúc ấy đã khuya, nhà sư đang ngồi lần tràng hạt như thường lệ trong phòng riêng của mình thì chợt thấy có ai đi ngang qua cửa sổ. Trời mưa phùn dai dẳng đã mấy ngày liền.  Chắc mình nhầm, - ông nghĩ. - Ai có thể tới đây vào giờ này, mà vào thế nào được khi cổng chùa đã đóng? Ni-cô thì càng không vì cô ấy luôn đi ngủ sớm. Ông quay lại với công việc buồn tẻ của mình, định chốc nữa cũng sẽ lên giường. Tuy nhiên, chỉ mấy phút sau cái bóng ấy lại xuất hiện, lần này bước chậm hơn như cố ý để ông nhìn thấy, và ông đã kịp nhận ra đó là một người phụ nữ.  Lạ thật,  - ông bỏ chuỗi tràng hạt xuống chiếu, lòng chưa hết ngờ vực. Khi  người ấy đi ngang lần nữa thì ông đứng dậy, mở cửa bước ra ngoài.

           Mưa đang nặng hạt. Gió từ cánh đồng vắng bên cạnh thổi mạnh, làm những giọt nước lớn rơi xuống mặt và cổ nhà sư. Tiếng côn trùng râm ran khắp nơi. Trời tối nên ông không nhìn thấy gì.

           - A di đà Phật. Ai đấy?  - ông hỏi. Không có tiếng đáp. Khi ông định quay vào thì chợt thấy có cái gì trăng trắng bên gốc nhãn già đối diện. Ðúng là cái bóng lúc nãy.  - Ai đấy?  - ông tiến thêm mấy bước nữa, hỏi to.

Vẫn không trả lời, cái bóng màu trắng lặng lẽ bước đi. Vị sư già đi theo, khi ông bất ngờ đứng lại, nó cũng đứng lại. Hình như nó muốn dẫn ông đi đâu đấy. Lúc này, do đã quen với bóng tối và nhìn kỹ hơn, ông biết đó là một phụ nữ mặc đồ trắng suốt từ chân đến đầu. Là người tu hành lâu năm, lại già, nên ông không sợ, chỉ thấy tò mò, nghĩ bụng một khi có người đến gọi ông thế này thì chắc phải việc hệ trọng. Thế là ông cũng lặng lẽ đi theo. Người đàn bà bước ra ngoài qua chiếc cổng con để mở sau chùa mà ông nhớ rất rõ đã được cài then cẩn thận từ lúc trời chưa tối.

Một chốc sau họ tới đồng Vạc. Cánh đồng lúc này vừa thu hoạch khoai lang xong, lổn nhổn đất bị xới tung, gặp mưa lâu ngày dính bết dưới chân. Người đàn bà áo trắng rõ ràng đang muốn dẫn vị sư già đi theo mình. Ði đâu ông không biết, vì họ không đi đường chính mà men theo các bờ ruộng nhỏ. Gặp chỗ trơn khó đi, người kia cố ý dừng lại chờ.

           Cuối cùng, nơi họ tới hóa ra là nghĩa địa làng Hưng Dũng, cách chùa Dền gần một cây số. Ðến đây chợt nhà sư không thấy người đàn bà kia nữa. Ðang ngơ ngác không hiểu vì sao thì bỗng có tia chớp khan lóe lên. Ông nhìn thấy nghĩa địa có mấy ngôi mộ mới, nhiều que hương cháy chưa hết, chắc vì mưa. Trên một trong những ngôi mộ đó ông thấy có cái bọc trắng. Mấy giây sau ông nghe có tiếng trẻ mới sinh đang khóc ở đấy.

           - A di đà Phật!  - vị sư già chắp hai tay trước ngực. Ông đưa mắt nhìn quanh khi có tia chớp khác. Vẫn không thấy người đàn bà áo trắng bí ẩn kia đâu. Thế là ông rõ: Người ấy dẫn ông đến đây vì đứa bé này. Nhưng sao bà ta không tự bế nó vào chùa? Xưa nay không ít trường hợp người ta làm thế lúc cùng quẫn. Mà sao đứa bé lại nằm đây, giữa đêm hôm mưa gió thế này? Nó là con nhà ai?...

           Nhà sư đứng hồi lâu dưới trời mưa với những câu hỏi như thế trong đầu. Ðạo của kẻ tu hành là cứu nhân độ thế, cho dù hoàn cảnh thế nào. Thế là ông cúi xuống bế đứa bé lên tay rồi quay về chùa. Ông chạm vào người nó thấy lạnh buốt. Nó thôi không khóc nữa, nhưng hơi thở rất yếu. Ông đoán nó mới sinh được vài ngày, có thể vài giờ. Ôm chặt đứa bé vào lòng, ông cố đi thật nhanh, chỉ sợ nó chết khi chưa kịp về đến chùa. Lúc này ông lại nhìn thấy người đàn bà áo trắng lặng lẽ đi phía trước, rõ ràng để dẫn đường. Mấy lần ông cố ý rảo bước để hỏi mà không lần nào đuổi kịp, cho đến khi tới gần chùa thì cái bóng trắng ấy biến mất hẳn.

           Vị sư già gọi ni-cô dậy pha sữa cho đứa bé rồi làm những gì họ có thể làm để cứu nó. Sáng hôm sau ông cho cô vào làng Hưng Dũng hỏi xem hư thực thế nào, thì được người ta cho biết tuần trước có chiếc xe đâu từ Thanh Hóa ra Hà Nội, lúc qua đây không may trúng tên lửa máy bay Mỹ. Cả năm người trên xe đều chết và được chôn ở nghĩa địa làng, trong đấy có một phụ nữ khoảng ba mươi tuổi đang bụng to vượt mặt, chắc sắp đến ngày sinh. Ni-cô được sư cụ dặn trước không nói gì về việc ông nhặt đứa trẻ ngoài nghĩa địa nên không người nào biết nó là ai, càng không thể nghĩ nó là con của người đàn bà đã bị chôn xuống đất những mấy ngày trước đó.

           Nó là một đứa bé gái, được nuôi lớn bằng tình yêu của hai nhà tu hành và bằng sữa của một bà nông dân mới sinh con trong làng mà ni-cô một ngày hai lần bế tới xin bú nhờ. Năm tháng trôi qua, nó lớn lên chẳng khác mấy những đứa trẻ bình thường, hơn thế lại xinh, cái xinh đẹp của cô bé có dáng người gầy gò thanh tú, nước da rất trắng với đôi mắt to đượm buồn. Vẻ buồn ấy càng tăng thêm khi suốt ngày im lặng, vì nó bị câm, câm từ lúc mới lọt lòng.

           Cô bé cứ thế lớn lên trong cảnh chùa u tịch cùng vị sư già. Người con gái thất tình kia hoàn tục từ lâu và nghe nói đã tìm thấy lại hạnh phúc. Vì câm nên cô bé chẳng bao giờ hỏi bố mẹ mình là ai, cũng chẳng ai có thể cho cô biết điều ấy. Thời gian lặng lẽ trôi qua, cũng lặng lẽ như thế cô bé lớn lên thành cô gái xinh đẹp có thể nói nhất nhì cả vùng Phủ Lý. Nhưng cô và vị sư già của cô chẳng quan tâm đến vẻ đẹp trần tục ấy, vì mọi cái đã được quyết định - cô sẽ suốt đời là người của Phật để một ngày không xa thay sư cụ trông coi ngôi chùa này...

            Thế mà một việc tầy đình đã xẩy ra, làm đảo lộn tất cả. Số là năm cô mười bảy tuổi, một thằng khốn nạn nào đó cưỡng hiếp cô, và cô đã treo cổ tự tử ngay sau đó. Vị sư già thấy thế ngất đi, chứng đau tim vốn có lâu nay cũng làm ông chết theo. Do vậy người ta không bao giờ biết được tên khốn nạn nỡ làm hại cuộc đời cô bé khốn khổ kia là ai...

                                                                  *    

 Tôi chính là tên khốn nạn đó!  - Người kể im lặng một lúc rồi khẽ nói thêm, không quay sang nhìn mọi người đang chăm chú lắng nghe, phần nào hơi sững sờ trước câu tự thú chân thành ấy. Ông cũng không tỏ ra xúc động và hình như từ lâu đã chuẩn bị cho cuộc nói chuyện này.

            Chúng tôi im lặng chờ nghe tiếp vì biết một khi ai đó đã bắt đầu câu chuyện xám hối của mình thì chắc chắn không bao giờ dừng lại giữa chừng.

          - Lúc ấy tôi đã là một người đàn ông trưởng thành, gần bốn mươi tuổi, một cán bộ có cỡ ở Phủ Lý. Thế mà tôi nỡ làm cái điều tội lỗi ấy. Vì sao thì có lẽ chẳng cần nói ra đây, vì tự thân việc đó sẽ mang tính nguỵ biện. Tất nhiên có yếu tố hoàn cảnh, có rượu, có giây phút mềm yếu dẫn đến sa ngã như người ta thường nói, nhưng tôi đủ tỉnh táo để tự biết tôi là thằng khốn nạn. Tiếc rằng tôi chưa bao giờ đủ dũng cảm để tự nộp mình đền tội...

          -  Sao bây giờ bỗng dưng ông đem ra kể? - ai đó lên tiếng hỏi. - Ông giữ kín nó hàng chục năm nay và tất nhiên có thể làm vậy với những năm còn lại

.

         - Thì một phần cũng vì cái vụ Ðức Giang này và những chuyện ma quỷ của các vị. Tuy nhiên, lý do chính là tôi không thể tiếp tục im lặng được nữa. Tôi không thể mang nó xuống mồ cùng cái chết. Mà tôi sắp chết rồi. Bác sĩ bảo giỏi lắm chỉ kéo dài thêm dăm tháng. Tôi bị ung thư cuống họng. Vợ con chưa biết đâu nhưng chẳng bao lâu nữa sẽ biết. Việc này thì được, còn cái việc kia thì tôi muốn giấu họ. Vì họ thôi chứ chẳng phải vì tôi. Ðiều ấy dễ hiểu. Kể ra được thế này, tôi nhẹ hẳn người, dù có thể bây giờ các vị đang khinh bỉ tôi. Chẳng sao. Tôi đáng bị khinh bỉ và trừng phạt. Các vị thấy đấy, hóa ra tôi, một con người thậm chí còn được coi là người tốt, mà lại xấu hơn cả ma. Ma, nếu có thể gọi người đàn bà đáng thương kia là ma, còn cố gắng đẻ con cả sau khi chết và đưa nó ra khỏi mồ nhờ người đời nuôi hộ. Vậy mà tôi đang tâm giết nó...

       - Ông có tin vào ma quỷ không? Vào cái người ta hay gọi là ân oán chẳng hạn?  - một người nữa hỏi.

         - Không! - ông kia đáp vẻ dứt khoát. - Lúc đầu quả tôi có tin và rất sợ. Tôi sợ hồn ma mẹ con cô câm và vị sư già sẽ bắt tội tôi. Tôi thấp thỏm chờ đợi những tai họa ghê gớm. Cuối cùng chẳng có chuyện gì xẩy ra, và như các vị biết, tôi được thăng quan tiến chức, vợ con, kinh tế bình thường như mọi người. Nghĩa là chẳng có ân oán hay ma quỉ nào cả. Nếu có chỉ có ma quỉ trong lòng ta. Chính ma quỉ đã xúi tôi gây tội ác và rồi ma quỉ đã bắt tôi trả giá âm thầm suốt bao năm nay. Không nói các vị cũng biết tôi đã ân hận, đau khổ nhường nào, nhất là khi luôn phải lo che giấu điều ấy. Năm nào rằm tháng Giêng tôi cũng lén về Phủ Lý thắp hương cho mẹ con cô ấy và vị sư già. Vâng, tôi nghĩ thế đấy. Không có ma quỉ nào ở đời này cả. Chỉ có ma quỉ trong lòng mỗi chúng ta mà thôi. Trong các vị cũng có, nhưng may các vị thắng được chúng, còn tôi thì không.

Đổi đời

Như ta biết, trong khoa học đôi khi các sự việc tình cờ lại giúp con người có được những phát minh vĩ đại. Xin hãy nhớ quả táo của Niutơn, cuộc chạy trần truồng của Acsimet từ bờ sông về nhà và nhiều thí dụ khác. Trong cuộc sống hàng ngày, chúng ta ai cũng từng gặp những trường hợp tương tự, khác chăng chỉ ở qui mô và ý nghĩa. Và đây là trường hợp của Cái Tý. Một phát hiện giúp nó đổi đời, từ con bé nhà quê chân đất thành “bà quí phái” lọc lõi chốn đô thành, nhiều tiền, nhiều tình và do vậy nhiều cả quyền.

Năm mười sáu tuổi, nó được đưa ra Hà Nội làm ô-xin cho một gia đình khá giả. Chỉ mấy ngày sau, ông chủ, năm mươi tuổi, một người có học và vẻ ngoài rất tử tế, giở trò tán tỉnh rồi cưỡng đoạt nó. Nó sợ tất nhiên, nhưng khốn nỗi nó cũng thích. Thích nhất là sau đó được cho những một trăm nghìn đồng, nghĩa là nửa tháng lương. Không bị quả táo ngẫu nhiên rơi đúng đầu, có thể Niutơn đã chẳng phát minh được định luật vạn vật hấp dẫn. Không bị ông chủ giở trò, tất nhiên nó không biết được nó đang có cái gì và phải khai thác cái ấy như thế nào. Một phát hiện tuyệt vời, có thể nói vĩ đại. Mà khi đã thấy đường đi, biết cách làm thì cứ thế thẳng tiến. Mỗi lần một trăm nghìn đồng ngon ơ, lại còn được thích. Sau đó tuần nào nó cũng đều đều nhận vài lần một trăm nghìn như thế. Số tiền này nó giấu riêng rồi đem gửi nơi khác, chẳng mấy chốc lên tới tiền triệu, rồi nhiều triệu.

Một hôm “xong việc”, chỉ đùa thôi chứ chẳng hề có chủ định gì, nó nói: “Cháu có thai!” Ông kia sợ tái mặt, lúc đầu ngồi thần người rồi cuống quýt căn vặn, cuống quýt gợi ý cách “giải quyết”. Nó bảo: “Không. Cháu muốn để nuôi!” Cũng buột miệng nói cho vui. Nhưng khi thấy ông chủ hốt hoảng đến líu cả lưỡi thì nó bắt đầu nghĩ. Mà nó nghĩ nhanh lắm, vì nó vốn là đứa thông minh, hay gọi là ranh ma cũng được. Nó nghĩ một khi việc ấy đáng sợ đến thế đối với ông chủ thì tại sao không nhân dịp này kiếm một vố. Một vố lớn chứ không kiểu cò con mỗi lần một trăm nghìn. Rồi nó giả vờ đau khổ và khóc. Điệu bộ và tiếng khóc còn vụng, vì đây mới là bước chập chững đầu tiên trên con đường nghệ thuật chài đàn ông moi tiền rất thành công sau này. Tuy nhiên, sự vụng về ấy cũng đủ bắt ông kia móc túi đưa luôn năm triệu để nó chịu “nạo thai”. Nó lấy làm tiếc không đòi luôn mười triệu. Đến bệnh viện, nó dúi cho bà bác sĩ hai mươi nghìn rồi lại leo lên xe ông chủ về nhà. “Người Hà Nội buồn cười thật, - nó nghĩ. - Ở quê mà thế thì được hai mét vải lụa đã mừng rơn, không khéo còn bị đánh, bắt đi nạo”.

Nó ngồi trước gương, suy nghĩ rất lung về việc vì sao có thể kiếm được nhiều tiền một cách dễ dàng như vậy. Bỗng nhiên nó phát hiện thêm một điều bất ngờ nữa: Nó xinh! Trời ơi, phải nói là rất xinh! Ông trời bắt đói ăn, làm lụng vất vả từ bé, nay bù lại, ban cho nó một ngoại hình có thể gọi tuyệt mỹ, lại được hoàn thiện thêm nhờ một năm làm đàn bà và ăn ngon. Mặc cũng đẹp hơn, dẫu chỉ quần áo thừa của bà chủ. Người nó cao, tròn lẳn với những đường cong thật khêu gợi; da trắng hồng, khuôn mặt xinh đẹp và thật dễ thương với vẻ thơ ngây hiếm có, thậm chí cả vẻ có học, gia giáo kiểu con nhà lành. Chút việc còn lại phải làm là học cách ăn nói, đi đứng, mồi chài và đưa con mồi vào bẫy. Một việc không khó với nó.

Nó sống thêm  một thời gian nữa với ông chủ mà thực chất bây giờ đã thành ô-xin của nó, đòi mỗi lần hai trăm chứ không phải một trăm nghìn như trước. Mê sắc đẹp và cách chiều chuộng của nó, ông kia đành chấp nhận. Cuối cùng, khi cảm thấy đủ lông đủ cánh và thời điểm chín muồi, nó quyết định “ra đời làm ăn lớn”. Cái chức ô-xin và khoản thu nhập kia đã không còn làm nó hài lòng.

Thế là một hôm nó tống tiền ông chủ bằng cách dọa mách bà chủ rằng ông đã làm hại cả đời con gái trinh trắng của nó. Tất nhiên nó lại thành công, cầm thêm năm triệu đồng nữa rồi thuê xe ôm dọn đến căn hộ đầy đủ đồ đạc nó mua sẵn trước đó mấy tháng. Ông kia còn tiếp tục đưa tiền cho nó bằng cách thỉnh thoảng đến thăm, bây giờ đã ba trăm nghìn đồng mỗi lần nhưng nó chẳng quan tâm nhiều tới ông, vì người sẵn sàng chịu chơi giá ấy không ít. Tự lúc nào không biết, nó đã lên hàng “thượng lưu”, thậm chí “siêu thượng lưu”. Ý thức được giá trị bản thân, cả về nhan sắc và nghệ thuật mồi chài, nó muốn một cái gì đấy sang hơn, cao hơn và phải nhiều tiền hơn.

Cái ấy chỉ có thể có được ở giới giám đốc loại cỡ tiêu tiền chùa. Tiếp cận đối tượng này không khó. Nó thường nhắm trước con mồi, tìm hiểu kỹ tính tình, khả năng tài chính rồi xin vào làm thư ký, tất nhiên với vẻ ngây thơ, bẽn lẽn và gia giáo hết mực. Chưa hề có vị nào từ chối. Còn sau đó rút ruột ông ta, hay đúng hơn, rút ruột nhà nước thì nó chỉ cho là chuyện vặt. Trong năm năm kể từ ngày thôi chức ô-xin, nó kịp “làm thư ký riêng’ cho ba vị, kiếm được ba xe máy xịn (nó có thể moi được cả ô tô nhưng không muốn), cộng với hai căn hộ, ba chuyến du lịch nước ngoài và vô số quà cáp cùng một tài khoản “nho nhỏ” ở ngân hàng. Một vị tỏ ý sẵn sàng bỏ vợ cưới nó nhưng nó chẳng dại. Vốn còn nhiều, cơ hội làm ăn chưa hết, tội gì phải trói mình với ai. Khi nào cần mới rút, mà nó biết rút đúng lúc và rất êm, nhờ biệt tài đoán gần như chính xác trăm phần trăm lúc nào thủ trưởng sẽ sụp đổ.

           *                

    Cái Tý bây giờ đã là Diễm Hạnh (cái tên tự nó đặt sau khi quyết định ra đời “hành nghề” độc lập, chắc hàm ý mình là người kiều diễm và hạnh phúc). Cô Diễm Hạnh, bà Diễm Hạnh, con Diễm Hạnh, mụ Diễm Hạnh. Giới mày râu thường gọi là “nàng”. Ta cũng tạm gọi “nàng” cho tiện, vì một người xinh đẹp, giàu có với vẻ ngoài quí phái như thế mà gọi khác e bị coi là nhỏ nhen.

Mấy hôm nay nàng vừa “cắt” một ông. Ông thứ tư. Cái ghế ông này còn lâu mới đổ nhưng nàng ghét vì mụ vợ tỏ ra ghê gớm, còn ông thì keo kiệt đến mức vừa rồi không chịu bỏ mấy nghìn đô mua cho nàng chiếc nhẫn kim cương. Vả lại, nàng phục vụ ông và lấy của ông chừng ấy cũng có thể coi là đủ. Vậy giờ là lúc phải săn con mồi mới. Nhưng nàng không vội. Nàng thừa điều kiện để tự cho phép mình nghỉ ngơi chút ít, cả thể xác lẫn tâm hồn. Kia, nàng vừa bước ra khỏi tắc-xi (nàng ít khi đi xe máy), và đang thơ thẩn dạo quanh Bờ Hồ. Nàng đẹp một cách sang trọng, kín đáo và rất hợp mốt. Đố ai dám nghĩ khác rằng nàng không phải con nhà quyền quí và trong sạch đến từng bước đi, ý nghĩ. Nàng thong thả, kiều diễm lướt qua, thích thú với cảm giác biết bao con mắt ngưỡng mộ, thèm thuồng đang dán lên người nàng.

Nàng ghé vào Nhà Thủy Tạ, gọi một ly kem ngoại, châm thuốc hút rồi lơ đãng nhìn ra mặt hồ buổi xế chiều thơ mộng. Tất cả đàn ông có mặt ở cửa hàng quay sang nhìn nàng, trong đó có một người mới vào, chỉ sau nàng khoảng dăm phút. Người này ngồi xuống chiếc bàn bên, cũng gọi một ly kem, châm thuốc và cũng bâng quơ nhìn ra hồ. Kinh nghiệm cho biết điều này không ngẫu nhiên, nhưng nàng không thèm nhìn sang lần nào, dù vẫn thấy hết, nghe hết. Một biệt tài chỉ những người siêu hạng như nàng mới có.

Đó là một người đàn ông khó đoán tuổi nhưng chắc chưa đến năm mươi, mặc toàn đồ xịn, đang cố gắng một cách vụng về để tỏ ra vẻ thạo đời. Những dấu hiệu ban đầu tốt đẹp. Để xem trong túi có đồng nào không đã. Khi cô nhân viên bê ly kem ra, ông ta bo một tờ mười đô còn mới. “Khá. Chịu chơi đấy!” - Nàng nghĩ, biết chắc tờ mười đô được chi hào phóng không vì cô kia mà vì nàng. Chỉ lúc này nàng mới ban cho ông ta một cái nhìn vừa cao ngạo vừa e lệ.

Ông này có khuôn mặt dễ coi, nước da tai tái nhưng may không sần sùi. Mặc dù ít quan tâm đến hình thức con mồi, điều này cũng làm nàng dễ chịu. Đôi mắt ông thật đặc biệt, đẹp, vừa sâu, buồn, đồng thời vừa có ánh đam mê mãnh liệt. Suốt từ nãy đến giờ đôi mắt ấy luôn nhìn nàng, chủ yếu đoạn từ ngực đến đầu gối, nhìn chằm chằm, khiến một người như nàng cũng thoáng chút ngượng ngùng. Bản thân cái nhìn ấy chẳng có gì đáng nói. Xưa nay đàn ông vẫn chiêm ngưỡng nàng cách ấy. Có điều nàng thấy lạ là đôi mắt ông giống hệt mắt một cụ già bảy, tám mươi tuổi nàng gặp hôm kia khi cùng đi thang máy lên tầng hai Tràng Tiền Plaza. Ông cụ cũng nhìn nàng đúng như vậy - sâu, buồn, rực lửa, và cũng chỉ từ ngực tới đầu gối. “Chết đến đít rồi mà còn dê!” lúc ấy nàng nghĩ, mặc dù không ghét cụ chút nào. Đàn ông có “dê” thì nàng mới sống được. Thậm chí cả khuôn mặt hai người cũng có cái gì giông giống. Buồn cười thật, không hiểu sao nhìn ông này, nàng cứ vẩn vơ nghĩ tới cụ già lẩm cẩm đó. Sự quan tâm của nàng tới “con mồi” gia tăng hẳn khi một thanh niên bước vào hỏi ông kia còn phải chờ lâu nữa không để đem ô tô đến bãi gửi. Ông kia bảo còn lâu.

Cân nhắc thêm một chốc, nàng quyết định hành động. Nàng liếc sang bàn bên và...

Nửa giờ sau, nói cười như quen nhau đã lâu, hai người đi bộ tới khách sạn Phú Gia ăn tối. Ăn xong, xe đưa nàng về nhà ông. Rồi một tuần sau, khoảng thời gian cần thiết để không bị chê là quá dễ dãi, nàng dọn đến ở hẳn với ông. Mọi cái đều tốt đẹp. Mọi cái đều đúng như nàng mong muốn. Chỉ tiếc ngôi nhà lớn sang trọng họ đang ở không phải của ông mà nhà thuê, vì theo lời ông, ông là giám đốc một công ty tư nhân ở miền nam có mối làm ăn rộng nên ít khi được ở lâu một chỗ. Về nhiều phương diện, có thể nói đây là con mồi “ngon nhất” của nàng từ trước đến nay. Li dị vợ, nhiều tiền, dễ bảo, mỗi tuần chỉ về nhà một hoặc hai lần. Hơn thế “lão” lại rất yêu, có thể nói si mê nàng một cách chân thành. Điều này lúc đầu có làm nàng chút ít bối rối vì nó nằm ngoài kế hoạch, nhưng sau nghĩ kỹ thấy cũng chẳng sao. Cùng lắm có thể dừng lại ở bến này và lấy “lão” làm chồng nếu “lão” thực sự giàu. Còn trong khi chưa chắc điều ấy thì nàng phải tranh thủ moi càng nhiều càng tốt. Khoản này thì nàng đã thành nghề điêu luyện.

Sống với ông chưa đầy một năm, nàng đã kịp moi được khối thứ, khối tiền. Có lẽ ông giàu thật. Ông chi tiền thoải mái, có khi một lần mấy chục triệu, vì ông thực sự yêu và không thể sống thiếu nàng. Thậm chí không hỏi nàng cần tiền làm gì. Chỉ thỉnh thoáng, khi phải cho nàng một khoản lớn, ông cười, nói: “Em tiêu tiền vậy thì anh chỉ chóng chết mà thôi!” Nàng không hiểu và không muốn hiểu ông nói thế nghĩa là gì, thường chỉ ngăn lại bằng một nụ hôn khêu gợi vào cái miệng đang kêu chết ấy cùng vô số những cử chỉ âu yếm khác. Tuần trước nàng đánh “quả” lớn nhất và quyết định nhất, là xin ông mua ngôi nhà họ đang thuê, tất nhiên đứng tên nàng. Ông chững lại mấy giây, rồi buồn rầu đáp: “Em đang xô anh đến chỗ chết đấy!..” Nàng đã chuẩn bị để nghe câu ấy, cũng như các ngón đòn nàng sẽ tấn công sau đó. Cuối cùng thì nàng cũng đạt được mục đích, chỉ ông hơi buồn, thậm chí nàng thấy như ông gầy sọp và già hẳn đi. Nàng cũng phần nào ái ngại cho ông, nhưng cuối cùng lại nghĩ: “Cho chết. Dại gái cho chết, anh yêu ạ”.

Hôm nay, như để bù cho món quà hậu hĩnh ấy, nàng tỏ ra yêu thương ông hơn hẳn mọi lần. Đêm khuya, bốn xung quanh yên tĩnh. Hình như ông đã ngủ, hơi thở nhẹ đều đều, một tay để trên ngực nàng, còn nàng thì nằm bên, mỉm cười hài lòng với số phận và cũng thiếp đi lúc nào không biết.

Gần sáng, chợt tỉnh vì tiếng xe máy rú ngoài đường, nàng quay người, âu yếm xoa ngực ông nhưng liền rút tay lại như bị điện giật. Có cái gì ươn ướt, nhơm nhớp. Có cả mùi tanh lợm. Nàng hoảng sợ nhảy ra khỏi giường, bật đèn rồi đứng đớ người, hai tay ôm miệng: người đàn ông nàng ôm ấp suốt đêm đang nằm kia, dưới ánh sáng rực rỡ của ngọn đèn chùm hai chục bóng. Nhưng lúc này ông ta là một xác chết đang thối rữa, thối rữa rất nhanh và ngay trước mắt nàng. Da thịt ông ngã xám, chương phình rồi từ từ rữa ra, xẹp xuống để nhô hai gò má cao, hai hố mắt sâu dần và chừng năm phút sau chỉ còn lại chiếc sọ dừa trắng hếu. Bộ xương ngực, các xương tứ chi dài ngoẵng cũng trắng như thế. Không bám tí thịt nào. Dần dần mùi tanh lợm cũng biến mất. Cảnh tượng hãi hùng và bất ngờ đến mức một người lõi đời như nàng cũng phải bỏ chạy sang phòng bên, khóa chặt cửa ôm mặt khóc.

                         *                       

Rạng sáng hôm sau, có người đến gõ cửa nhà nàng. Vẫn co ro ngồi trong phòng riêng, nàng cuống quýt chạy sang phòng ngủ định lấy cái gì che bộ xương, thì ngạc nhiên sao, không thấy nó đâu nữa. Trên giường chỉ còn tấm ga trắng nhàu nát và chiếc chăn rơi một nửa xuống sàn. Tiếng gõ cửa nghe to và có vẻ sốt ruột.

Khách là một ông già nhỏ thó vẻ đáng ngờ, người gầy đét, có con mắt xoi mói và gian xảo.

- Bà là Nguyễn Thị Tý?

- Bà Diễm Hạnh.

- Cũng thế cả. Xin lỗi bà, tôi đến đây để đòi nợ...

- Đòi nợ? Ai nợ, nợ ai? - Nàng ngạc nhiên nhưng cố tỏ ra bình tĩnh và đáo để trước con người mà nàng thấy trước là không phải tay vừa.

- Ông Lương bạn bà có nợ tôi một khoản tiền lớn. Chắc bà không biết, nhưng tôi sẽ chứng minh...

- Ông ấy mà thèm nợ ông? Nếu quả có nợ, sao không tìm ông ấy mà đòi? Hiện giờ ông ấy không có đây.

- Với tôi, bà không cần giấu diếm điều gì. Ông ấy có ở đây, chính xác là cho tới nửa đêm hôm qua. Còn bây giờ thì ông ấy đang ở chỗ cần phải ở, tức là nghĩa trang Văn Điển. Vì ông ấy đã chết cách đây một năm...

- Ông nói gì tôi không hiểu.

- Cũng đúng thôi. - Lão già thích thú nhìn bộ mặt ngơ ngác, bối rối của người đứng trước lão. - Chuyện nghe hơi kỳ, nhưng đúng là có thật. Tôi và ông Lương là chỗ bạn bè thân thiết. Năm ngoái gặp bà ở Tràng Tiền Plaza, ông ấy bị bà hớp hồn. Ông là ngưòi tốt, chỉ tội hơi yếu đuối trước phụ nữ, nhất là một người quyến rũ như bà. Khốn nỗi lúc ấy ông đã trên bảy mươi, lại đang ung thư sắp chết. Ông đến gặp tôi, năn nỉ giúp đỡ - chả là tôi có chút tài vặt mà. Ông thực sự yêu bà, ngưỡng mộ bà, vì sao thì tôi quả không hiểu. Tôi lựa lời khuyên ngăn nhưng ông không nghe. Thôi thì đành giúp vậy. Chẳng dám dấu bà, tôi là thầy thuốc, có loại thuốc làm cho người ta trẻ lại. Không chữa khỏi bệnh, nhưng trẻ lại thì được. Trường hợp ông Lương hơi khó một chút. Ông mắc bệnh ung thư sắp chết như đã nói, nhưng tôi vẫn giúp được ông kéo dài sự sống, dù chỉ sống ảo, vì thực sự ông đã chết cách đây một năm, chính xác là chỉ vài tuần sau khi gặp bà lần đầu. Hơn thế, tôi còn làm ông trẻ lại những ba mươi tuổi để tận hưởng hạnh phúc với bà. Bà đang thắc mắc muốn biết bằng cách nào? Đơn giản thôi, một tuần hai lần ông uống những viên thuốc đặc biệt do tôi bào chế để giữ cơ thể không chỉ không phân hủy mà còn khỏe mạnh thành người tình của bà. Làm được loại thuốc này tốn kém lắm, và dẫu bạn bè thân thiết, ông Lương vẫn phải trả tôi rất nhiều tiền. Ông giàu, bà biết điều ấy, nhưng thậm chí cả khi giàu như ông, đó cũng là một số tiền lớn khó có thể kham nổi trong một thời gian dài. Hơn nữa, bà lại tham lam moi của ông ấy nhiều quá. Ông ấy chẳng bảo bà đang đẩy nhanh ông ấy đến chỗ chết là gì. Nhất là cái vụ bắt mua ngôi nhà này. Vì quá yêu bà, ông ấy không thể từ chối nhưng đồng thời cũng không thể không uống thuốc của tôi, thành ra ông lâm vào cảnh nợ nần, và khi tôi ngừng cấp thuốc thì ông chết, ngay trên giường với bà như bà đã biết. Hôm nay tôi đến đòi lại số tiền thuốc ông ấy còn nợ. Có giấy ghi chép đầy đủ cả đây...

- Nhưng ông ấy đã chết, và tài sản hiện chẳng còn gì.

- Còn đấy, thưa bà, ngôi nhà này chẳng hạn, và nhiều thứ khác.

- Ngôi nhà này đứng tên tôi và là của tôi! - Nàng giận dữ  kêu lên.

- Bà nghĩ thế à?

- Tất nhiên. Và đừng hòng ai cướp nổi nó. Đây, ông xem đi, rồi mời ông ra khỏi đây ngay! - Nàng vội móc túi lấy tờ giấy chứng nhận sở hữu ngôi nhà mà nàng luôn giữ chặt bên mình. - Ông đọc đi!

Nàng dí tờ giấy tận mặt lão già.

- Thì nó ghi tên tôi đấy thôi, xin bà hãy xem lại. - Ông kia thản nhiên đáp, rồi đến lượt mình chỉ ngón tay vào tên người sở hữu trên tờ giấy. Nàng trố mắt ngạc nhiên khi thấy đó không phải tên mình mà là một cái tên lạ hoắc. - Thôi, đã đến lúc tôi phải đi, - lão già vừa nói vừa cho tờ giấy vào túi. - Tôi nghĩ ba ngày đủ để bà dọn đi nơi khác. Trường hợp sớm hơn, xin bà báo tôi biết theo địa chỉ này... - Lão đưa cho nàng mẩu giấy có ghi số nhà và một tên phố.

Chờ lão già ra khỏi, nàng chạy bổ vào phòng, run rẩy móc từ chỗ cất giấu một bọc tiền lớn, giở ra chỉ thấy toàn những tập giấy bạc âm phủ. Thử các dây chuyền và nhẫn vàng, cả chiếc có hạt kim cương lớn, cũng thấy chỉ đồ giả. Xót của, nàng kêu to một tiếng rồi ngất xỉu...

                     *                      

Sau đấy nghe nói nàng ốm một trận phải vào viện nằm cả năm trời chưa khỏi. Có người bảo nàng hóa điên, xé quần áo, bôi đen mặt đi giữa phố. Cả lúc ấy, vẻ đẹp trời cho vẫn hiện ra lồ lộ, và nàng đã mấy lần bị bọn lưu manh lôi vào bụi rậm. Có người lại bảo, điều này nghe có lý hơn cả, rằng mấy năm sau, khi thấy mình không còn trẻ, nàng đã tìm đến lão già kia mua thuốc, nhưng vì vô tình, cũng có thể cố ý, nàng uống quá liều nên lại biến thành Cái Tý tuổi mười sáu đúng như ngày nó lên thành phố làm ô-xin năm nào. Lần này không may nó phải hầu hạ một bà già góa giàu có không con cái, do vậy nó không bị ai cưỡng hiếp nên không có điều kiện biết được cách kiếm tiền dễ dàng. Bà này nổi tiếng nghiêm khắc và thương người. Bà dạy nó đủ điều hay lẽ phải, lại cho tiền ăn học tử tế như con. Vậy là nó đổi đời, từ con bé nhà quê đến ăn không đủ no thành cô tiểu thư thành phố nết na, xinh đẹp. Nó thi đậu đại học, thành hoa khôi trường, hoa hậu thành phố rồi làm kế toán trong một cơ quan nhà nước. Nó, tức là cô Tý, mới lấy chồng năm kia, sinh đứa con rõ xinh và cô có vẻ hạnh phúc lắm. Cô cũng loáng thoáng nghe người ta nói về câu chuyện ly kỳ của một mụ đàn bà xinh đẹp, hư hỏng nào đó tên là Diễm Hạnh, nhưng vì bận việc công, việc nhà, cô chẳng hơi đâu quan tâm tới mụ.

Hảo nhạn

Lúc ấy chiến tranh mới bắt đầu. Trong một đơn vị pháo cao xạ đóng ở làng N. tỉnh Quảng Bình có anh sinh viên người Hà Nội mới học hết năm thứ ba khoa văn tổng hợp thì nhập ngũ. Anh được phân công làm anh nuôi và ngày nào cũng xuống chợ Cồn trong rừng phi lao sát biển mua thực phẩm.

Đường tới chợ phải qua một cánh đồng rộng và một nghĩa trang nhỏ đủ các mộ mới cũ xen nhau. Mấy lần anh để ý thấy có bà lão xách nước từ xa đến tưới cho cây chuối trồng ngay trên một ngôi mộ còn mới. Điều này làm anh thắc mắc, vì thường thì nghĩa trang không là nơi thích hợp để trồng loại cây này, lại trồng ngay trên mộ.

Mới đến đây được bốn tháng nhưng anh cựu sinh viên thủ đô đã kịp quen và yêu một o dân quân địa phương có cái tên hơi lạ và kiểu cách là Hảo Nhạn. Tất nhiên yêu bí mật vì kỷ luật quân dân thời ấy nghiêm lắm. Anh đem chuyện này hỏi o Nhạn thì được biết ở đây có lệ khi người đàn bà chửa chết, người ta trồng lên mộ một cây chuối rồi nóng lòng chờ nó nở hoa để yên tâm “dưới ấy” mẹ tròn con vuông. Con dâu bà cụ kia mới chết khi đang có bầu năm tháng. Chồng cô cũng bộ đội và đang ở tận bên Lào.

Một lần, ngẫu nhiên anh và Nhạn gặp nhau cạnh nghĩa trang đúng lúc máy bay đến bắn phá. Hai người vội chui xuống một trong nhiều hầm trú ẩn được đào dọc đường xuống chợ. Không hiểu vô tình hay cố ý, chúng phóng một quả tên lửa đúng nghĩa trang, tạo thành một hố khá lớn, làm tung tóe gỗ quan tài, mảnh tiểu sành và cả xương người. Còn cây chuối kia thì bị mảnh đạn chém đứt ngang. Đúng lúc ấy, giữa tiếng máy bay còn gầm rú, họ thấy bà cụ kia từ đâu hớt hải chạy tới. Hồi lâu bà ôm nửa thân chuối non còn lại, vuốt ve nó như ru trẻ, rồi bất chợt bà đứng thẳng người, chỉ tay vào chiếc máy bay đang lượn trên đầu, tru tréo điều gì đó một cách giận dữ. Thì ra bà đang chửi thằng Mỹ giết cháu bà. Chửi tục lắm. Bà cứ quay người theo hướng hắn bay mà chửi. Xong một câu, bà vén váy, vén cao lên tận bụng trắng hếu rồi vỗ vào “cái ấy” của mình. Các bà già nông thôn ít ai mặc đồ lót.

Anh thư sinh thủ đô và cả o Nhạn xấu hổ không dám nhìn, nghĩ vừa thương vừa buồn cười.

Bỗng nhiên Nhạn quay sang hỏi anh:

- Nhỡ em chết, anh có trồng cho em một cây chuối trên mộ không?

- Đừng nói gở. Chết làm sao được. Vả lại nếu chết, chắc gì em đang có bầu.

Nhạn im lặng một chốc rồi nói:

- Hình như em có rồi đấy.

Anh nhíu mày và dù cố giấu, vẫn lộ vẻ bối rối.

- Bậy.

- Thật mà. - Nhạn nhìn anh nghiêm túc. - Anh sẽ trồng chứ? Anh không muốn con chúng ta ra đời à, cả khi không may em phải chết?

- Em chỉ khéo đùa. - Anh ôm hôn cô, một phần để cô không nhìn thấy mặt mình lúc ấy. - Đùa gì nghe mà khiếp.

- Ừ thì em chỉ nói thế thôi. Anh sợ à?

- Không. Tất nhiên là không. Tất nhiên anh sẽ trồng một cây chuối thật khỏe, để nó trổ không phải một mà hai hoa một lúc. Bố mẹ anh thích có nhiều cháu. -  Anh cười.

- Tham thế! -  Nhạn cũng cười theo.

Hai người lại hôn nhau. Khi hết máy bay, họ chui lên khỏi hầm và mỗi người đi một hướng.

Không ngờ một tháng sau Nhạn chết thật, do ngẫu nhiên trúng đạn pháo từ tàu Mỹ ngoài biển câu vào. Thêm một tháng nữa thì đơn vị anh chuyển vàoNam.

     * 

Anh bộ đội - sinh viên ngày ấy từ lâu đã là một nhà văn nổi tiếng. Vốn đồng nghiệp, lại chơi thân với nhau, ông kể tôi nghe chuyện này, khi bị bệnh nặng nằm viện hơn nửa năm chưa khỏi và biết có lẽ không còn được sống lâu nữa. Ông đã không trồng cho o Nhạn người yêu của ông một cây chuối trên mộ cô như đã hứa. Ông đã không tạo cơ hội cho đứa con của ông, có thể hai, được lọt lòng mẹ, trên hay dưới đất không quan trọng. Đơn giản vì lúc ấy ông hèn nhát không dám để mọi người biết sự thật. Ông định thú nhận mấy lần mà không dám. Nhưng ông đau lắm. Đau mà không dám nói to, không dám chửi, vén váy lên mà chửi như bà cụ nọ. Suốt chừng ấy năm ông chỉ còn biết chua xót tự trách mình. Có lần ông bảo tôi ông sợ nhất khi chết mà lòng không thanh thản.

Kia, ông đang nằm kia, bất động, nhăn nhúm trên chiếc giường bệnh viện. Mỗi tuần hai lần đều đặn vào chiều thứ tư và chủ nhật tôi đến thăm ông và thường ngồi ở đấy suốt buổi, lúc ông tỉnh và nói được thì nói chuyện với ông, còn không thì tôi ngồi đọc sách. Có lẽ cuộc sống của ông đang được đếm từng ngày. Mặt ông xám ngoét, các nếp nhăn hằn sâu, đôi mày nhíu lại vì đau và căng thẳng. Suốt hai giờ liền tôi không thấy ông trở mình, không nói lời nào, nhưng nhìn thái dương thỉnh thoảng giật giật, tôi biết ông còn sống.

Bỗng trong phòng xuất hiện một người đàn bà mặc đồ đen, trùm khăn đen, khoảng bốn mươi tuổi. Tôi thầm ngạc nhiên không hiểu bà ta vào từ lúc nào. Một người lạ tôi chưa hề gặp. Cả bề ngoài cũng lạ, không ra thành thị cũng chẳng nông thôn. Không gầy, thậm chí hơi đẫy đà, nhưng không hiểu sao tôi cứ có cảm giác như rất nhẹ, như không phải người thật và có thể nhìn xuyên qua được.

Bà kia không nhìn tôi, dù lúc ấy chỉ mình tôi trong phòng. Bà đi thẳng đến giường bệnh, quỳ xuống nâng bàn tay nhăn nheo của ông rồi âu yếm áp lên má mình. Ông tỉnh dậy ngay, nét mặt rạng rỡ như chờ ai từ lâu và bây giờ người ông chờ đã đến. Ông đưa mắt nhìn tôi. Tôi đoán ông muốn hai người được nói chuyện riêng nên lặng lẽ bước ra ngoài.

Khoảng mươi phút sau, người kia ra khỏi phòng, cũng lặng lẽ và nhẹ nhàng như khi đến, rồi đột nhiên biến mất, dù chưa đi hết hành lang bệnh viện.

Ông vẫy tay, ra hiệu tôi lại gần.

- Con tôi đấy! Con o Nhạn đấy! Mẹ nó bảo về nói họ đã tha lỗi cho tôi.  - Giọng ông thều thào nhưng nghe rất rõ. - Tôi biết mà. Tôi biết thế nào cũng được tha thứ. Hảo Nhạn, cảm ơn em. Cảm ơn con...

Rồi ông nhắm mắt. Bên khóe môi đọng lại cái gì như một nụ cười rất mỏng và yếu ớt. Như có phép lạ, khuôn mặt ông bỗng dãn ra, thư thái và ửng hồng. Tôi đứng ngây, ngạc nhiên nhìn.

Cũng có thể do quá xúc động, tôi không nhận thấy lúc ấy xế chiều và những tia nắng cuối ngày đã dọi vào phòng.

Mất ngủ

Như nhiều người già khác, ông Dụng mắc chứng mất ngủ, đặc biệt thời gian này, khi ông mới về hưu. Mấy chục năm ông làm ở ủy ban chăm sóc, bảo vệ bà mẹ, trẻ em của thành phố. Công việc nhàn, chẳng có gì lý thú, thậm chí “vô bổ” như nhiều khi ông nghĩ. Thế mà bỗng nhiên không còn được làm cái công việc tẻ nhạt và vô bổ ấy nữa, ông cảm thấy hụt hẫng, người cứ thế nào, thừa tay chân, thừa thời gian, thừa những suy nghĩ chẳng đâu vào đâu, đáng lẽ cũng thừa cả ngủ vì ông nằm rất nhiều. Nhưng ông lại mất ngủ.

Vào một đêm mất ngủ như thế, lúc ấy đã khuya, chắc phải đến mười hai giờ, ông bỗng nghe con Mực nhà ông sủa gắt. Thường nó vẫn sủa vu vơ khi có ai trong xóm về khuya. Nhưng lần này thì tiếng nó khác. Tiếng sủa báo có kẻ gian. Nó khôn lắm, về mặt này có thể nói còn khôn hơn cả người. Rồi im. Chừng mười lăm, hai mươi phút sau lại sủa. Ông nghe nó nhảy xổ lên cánh cổng và hình dung thấy nó bám hai chân trước lên thanh sắt nhìn “kẻ gian” với vẻ hăm dọa, cái mõm đầy nanh sắc nhô ra ngoài.

Ngõ nhà ông tối, chỉ được chiếu sáng bằng ngọn đèn tròn tù mù sáu mươi watt treo trước cổng nhà ông Hoạch cuối ngõ theo yêu cầu của tổ dân phòng, nhưng chắc con Mực nhìn rõ. Nghe nói không chỉ mũi mà mắt loài chó cũng tinh lắm. Con béc-giê của vợ chồng ông Bàn giàu nhất xóm này, chủ một quán nhậu lớn ở chân cầu Long Biên, cũng sủa gay gắt không kém. Ở đây nhiều nhà nuôi chó, vậy là chúng đua nhau đánh thức cả xóm dậy. Cả con chó Nhật bé bằng nắm tay nhà ông Hoạch cũng ti toe phụ họa. 

Ông Dụng đi ra ban-công, nhìn xuống và thấy hai thằng choai choai đang đèo nhau bằng xe đạp, tới nhà ông Hoạch kịch đường, chúng quay ra rồi biến mất. Bầy chó tiếp tục sủa chốc nữa rồi cũng im. Ngõ phố lại chìm trong im lặng. Đôi nhà còn đỏ đèn. Mọi người chắc đã ngủ, hoặc giả vờ ngủ, coi như không có gì xẩy ra. ít nhất đối với nhà mình. Đây là xóm mới, nằm khuất trong một ngõ cụt sát phố Nguyễn Văn Cừ, gồm mười tám căn nhà riêng biệt do thành phố xây để bán, ai có tiền thì mua, do vậy được coi là khu xịn, thậm chí trong giấy tờ bán nhà ghi là Khu biệt thự, mặc dù nhà cái nọ dính vào cái kia. Người mua là dân các nơi khác đến, thuộc loại khá giả, nhưng nhà ai biết nhà nấy và chỉ giao tiếp ở mức lịch sự vừa phải. Ông Dụng đưa mắt nhìn một vòng, chẳng thấy động tĩnh gì bèn quay vào nằm.

“Cái bọn choai choai này là ghê lắm đấy, - bà vợ ông thường nói. - Chúng nghiện ngập, cờ bạc, giết người như ngóe. Tốt nhất đừng dây, nhỡ gặp chúng phải tránh thật xa!” Ông thấy vợ nói đúng. Chuyện gì bà ấy nói cũng đúng. Cả xóm này mọi người nghĩ như bà. Có lẽ vì thế mà như nhiều hôm khác, hôm nay chẳng ai, kể cả ông trưởng xóm kiêm tổ viên tổ tuần tra mà ông ta không bao giờ tham gia, chạy ra đuổi chúng, chí ít hỏi chúng đêm hôm vào đây làm gì. Nhiều lần chúng ngang nhiên tụm ba tụm bảy đánh bạc hoặc tiêm chích cả ban ngày mà không người nào dám nói một câu. Coi như không thấy. Không biết. Không dây! Dây vào ngộ nhỡ chúng đâm cho một nhát mà chết à?

Lát sau chó lại sủa ran. Chắc hai thằng kia quay lại. “Kệ. Nhà mình không là đối tượng của chúng, - ông nghĩ. - Vả lại con Mực sẽ chẳng chịu để yên cho chúng muốn làm gì thì làm.” “Tao thách bọn mày vào đấy!” - Chắc đầu ngõ ông chủ quán nhậu có con béc-giê hung dữ cũng đang nghĩ như ông. Các nhà khác thì có lẽ cảm thấy yên tâm vì nhà mình kín cổng cao tường, cửa đóng chặt cả trên lẫn dưới.

Chó vẫn tiếp tục sủa và mỗi lúc một gay gắt. Con Mực nhảy chồm chồm lên tấm cửa sắt. Chắc có chuyện. Ông Dụng định dậy ra xem, nhưng không hiểu sao lại thôi. Nhiều người trong xóm lúc ấy có lẽ cũng chung tâm trạng như ông, và vẫn nằm yên trong nhà. Sau đấy bỗng có tiếng kêu thất thanh. Tiếng kêu cứu của một đứa bé. Bé gái. Hình như tiếng cái Hồng, con vợ chồng cậu Châu cách nhà ông một nhà về phía phải, sát nhà ông Hoạch.  Mọi người, trong đó có ông Dụng, chạy bổ ra ban công, và từ vị trí an toàn ấy, tất cả gần như đồng thanh kêu to: “Trộm! Có trộm!” Chủ yếu để bọn kia thấy động bỏ đi. Rồi mọi người xuống gác, cố nói thật to, cố mở khóa cổng thật chậm để biết chắc mình không là người đầu tiên bước ra nơi nguy hiểm. Nhiều người còn dắt theo cả chó, những con chó trước đấy bị nhốt sau song sắt.

Khi mọi người đổ ra ngõ thì tất nhiên bọn bất lương đã biến mất, vì ít nhất đã năm phút trôi qua kể từ lúc có tiếng kêu cứu, có thể còn lâu hơn. Người ta thấy cánh cổng nhà vợ chồng anh Châu mở toang, còn cháu Hồng, mười ba tuổi, con gái duy nhất của họ thì nằm chết ngay ở bậc tam cấp, máu me đầm đìa. Nó nằm ngửa, bị đâm một nhát khá lớn ở bụng, lòi cả một đống ruột ra ngoài. Đến bây giờ dân trong xóm mới biết nó ở nhà một mình đã ba hôm nay vì cả bố lẫn mẹ đang theo cơ quan Bộ ngoại giao nghỉ mát ở Cửa Lò, nó bận thi học sinh giỏi tin học toàn thành phố nên không đi. Sau này, khi công an bắt được thủ phạm - hai tên lưu manh choai choai ở khu tập thể nhà máy xe lửa Gia Lâm - người ta biết thêm rằng nó bị đâm chết khi vừa kêu cứu, vừa cố giữ chiếc vi tính xách tay bố mẹ mới tặng. Một trong hai thằng kia giật mãi không được, cáu tiết dùng con dao Thái đâm một nhát vào bụng, nó ngã gục làm vết đâm rộng thêm nên ruột mới trào ra. Thằng này sau bị kết án tử hình. Bạn hắn tù mười năm. Còn dân trong xóm thì bị chính lương tâm mình kết án, nặng nhẹ tùy sự nhạy cảm và cách nhìn nhận sự việc của từng người...

     *                   

Có lẽ người bị ‘kết án” nặng hơn cả là ông Dụng, vì ông hay mặc cảm và bị cái gọi là lương tâm dằn vặt nhiều hơn. Như những người khác, khi công an điều tra hỏi vì sao biết có kẻ gian mà không ra can thiệp ngay, ông nói bình thường chó vẫn sủa như vậy, và rằng ông già, khi tới nơi thì đã muộn. Ông biết ông nói dối. Chừng này tuổi mà còn nói dối một cách trơ trẽn. Ông đã có thể ra ban-công lần chó sủa rộ thứ hai, thứ ba, và nếu vẫn thấy hai thằng ấy mà ông biết chắc đến đây chỉ để ăn trộm, đáng lẽ ông phải ra hỏi chúng, đuổi chúng đi, cùng lắm gọi to mọi người dậy. Chắc chắn lúc ấy chúng không dám ra tay và cháu Hồng sẽ không bị giết một cách thảm thương như vậy. Nhưng ông đã hèn nhát không dám làm thế. Ông sợ bị chúng chém hoặc dùng kim chích ma túy đâm vào người. Sao ông không đi ra cùng con Mực? Chắc nó biết cách bảo vệ chủ. Ừ nhỉ, ông quên không nghĩ tới điều đó. Quên một phần vì “không muốn dây vào chúng”, vì đơn giản nghĩ con chó giữ riêng nhà ông đã đủ. Ông chủ cửa hàng nhậu có lần từng chỉ vào con béc-giê của mình, nói:

“Lúc ấy mà tôi kịp thả con này ra thì hai thằng kia chỉ có chết!” nhưng ông ta đã không thả. Người khác cũng không. Lũ chó ngu ngốc, không khôn như người, nhất định chúng sẽ chịu chơi, chịu “dây” với bọn kia và do vậy chắc sẽ ngăn được vụ án mạng. Nếu có lương tâm, lương tâm lũ chó bây giờ trong sạch.

Càng nghĩ, ông Dụng càng buồn và thấy mình có tội. Không nghi ngờ gì nữa, trong cái chết của cháu Hồng ông chịu một phần trách nhiệm. Ông đã tính tới chuyện thú hết với công an, rằng chính ông và những người hàng xóm của ông mới là thủ phạm thực sự. Nhưng liệu tòa án có thể vì thế mà kết tội ông được không? Không có bộ luật nào kết tội những người không kịp ra cứu giúp người khác khi gặp nạn. Không ai bắt bẻ ông được. Vâng, không ai trừ lương tâm, mà lương tâm ông bây giờ đang cắn rứt. Ông đã có thể cứu được đứa bé nhưng ông hèn, ông sợ chết, ông quá khôn. Thế mà hàng chục năm trời ông được gọi là cán bộ bảo vệ trẻ em cơ đấy. Suốt mấy chục năm ấy và cả đời mình thực ra ông chẳng bảo vệ được ai. Việc ông làm chung qui chỉ là nói những lời đạo đức giả, tham dự các cuộc họp triền miên và mỗi năm vài lần trao những túi quà người ta chuẩn bị sẵn. Tên ông là Đinh Hữu Dụng mà thực sự ông là người vô dụng. Bạn bè, đôi khi cả chính ông, cũng nhiều lần nói đùa như thế.

Choáng váng vì cái chết của con gái, vợ chồng anh Châu xin đi làm tại một Đại sứ quán ở châu Phi, để lại ngôi nhà trống rỗng và khu xóm nhỏ đang bối rối dằn vặt với những gì mới xẩy ra. Không ai bảo ai, mọi người  cố tránh không nhắc đến chuyện này. Cũng chẳng ai lên tiếng tự bào chữa hay trách cứ mình.

                 *     

Chứng mất ngủ của ông Dụng ngày một thêm trầm trọng. Nhiều đêm liền ông không hề chợp mắt. Thậm chí ông bắt đầu xem nó là bệnh, đi khám bác sĩ và uống đủ các loại thuốc vợ ông mua về bắt uống. Dạo này bị công an truy quét, bọn nghiện ngập và tội phạm không dám đến đây nữa, cả ban ngày cũng như ban đêm. Chó cũng ít sủa hơn. Tuy nhiên, ba hôm nay ông nhận thấy một điều khác thường, là lúc gần sáng con Mực nhà ông cứ tru lên khe khẽ. Tiếng tru nghe rất lạ, như thể nó đang sợ hãi điều gì. Con chó Nhật ông Hoạch cũng ngứa mồm sủa theo. Các con chó khác, trong đó có con béc-giê hung dữ của ông chủ quán bia, không thấy lên tiếng. Cả ba hôm ông đều ra xem nhưng không thấy gì.

Đấy, bây giờ con Mực lại sủa đấy, hay đúng hơn, đang rên ư ử. Ông  nhìn đồng hồ. Ba giờ sáng. Trời tối, lại có gió lạnh. Xung quanh không tiếng động, trừ tiếng con Mực. Ông rón rén nhỏm dậy. Khác mọi lần, ông không ra hẳn ngoài ban-công mà chỉ đứng bên trong, vén rèm cửa sổ nhìn ra. Lối đi phía dưới vắng tanh. Ngọn đèn sáu mươi watt trước nhà ông Hoạch chiếu tù mù, nhưng cũng đủ sáng để nhìn thấy bất kỳ người nào, nếu có. Nhưng ông nhìn mãi mà chẳng thấy ai. Trong khi đó con Mực vẫn tiếp tục khẽ sủa một cách lo lắng và sợ hãi. Nghĩa là có chuyện. Không ngẫu nhiên nó sủa như thế. Nuôi nó mười năm nay, ông biết.

Ông khoác thêm chiếc áo, lặng lẽ đi xuống, lặng lẽ mở cửa rồi mở cổng bước ra ngoài, không quên mang theo chiếc gậy đề phòng bất trắc. Con Mực thấy ông, vẫy đuôi rối rít. Nó rón rén đi trước, tai cụp, đầu cúi sát đất. Có nó, ông thấy yên tâm hơn. Bên ngoài trời vẫn tối đen và ẩm ướt. Xung quanh yên ắng lạ thường. Bất chợt ông nhìn thấy có cái bóng mờ mờ trước mặt. Ông định kêu to đánh thức mọi người, nhưng nghĩ có thể nhìn nhầm nên lại thôi. Cái bóng nhỏ màu trăng trắng đứng co ro bên cửa nhà anh Châu, chỉ cách ông khoảng mươi mét. Trộm chăng? Hình như không, vì nếu thế nó đã bỏ chạy khi nghe ông cố tình hắng giọng. Vậy thì là cái gì? 

“Ai đấy?” - ông hỏi to rồi mạnh dạn bước lại gần. Con Mực đi theo, sủa lên một tiếng đầy hăm dọa. Cái bóng trắng vẫn đứng yên. Nó không có ý bỏ chạy hoặc sợ hãi. Khi lại gần, ông Dụng thấy hình như đó là một đứa trẻ. Nó đứng tựa lưng vào tường rào, hai tay ôm cái gì đấy trước bụng.

“Trời ơi, Hồng đấy à, cháu?” ông khẽ thốt lên, quên mất rằng con bé đã chết hai tháng nay.

Cái bóng gật đầu, không nói gì. Ông Dụng cúi xuống nhìn kỹ thì thấy đúng là nó. Nó đang đỡ mớ ruột bầy nhầy trên tay. Dưới ánh điện tù mù, ông thấy nó khóc, đôi mắt mở to đau đớn nhìn ông.

“Trời ơi!” - ông Dụng lại thốt lên, kinh hoàng nhìn mớ ruột. “Cái gì thế này?” Con bé im lặng, nhìn xuống chiếc bụng bị đâm thủng rồi nhìn ông, vẻ van nài. Con Mực không rên nữa. Nó cuống quýt chạy quanh chủ và cái bóng ma. Ông Dụng chẳng hiểu nó muốn gì. Ông đứng lặng, lúng túng hồi lâu. Cuối cùng ông ngồi xuống ngang tầm đưa bé, nhẹ nhàng nâng từng đoạn ruột bầy nhầy dính máu nhét lại vào bụng nó. Ông làm việc này thong thả, thận trọng như một bác sĩ phẫu thuật và bình tĩnh một cách lạ lùng. Thậm chí tay ông không run. Con bé vẫn lặng lẽ đứng yên, chỉ thỉnh thoảng khẽ co giật như bị đau. “Cháu gắng chịu chút nữa. Bác xong ngay bây giờ. Cháu ngoan lắm. Giỏi lắm!” - Ông dỗ nó như dỗ đứa cháu ngoại năm tuổi mỗi lần bắt uống thuốc đắng.

Con bé mấp máy môi điều gì đó khi ông làm xong, thận trọng đưa cả lòng bàn tay vuốt lại lần nữa như vá chỗ rách ở bụng nó. Ông kéo quần nó cao lên, cài cúc áo thật chặt cho nó rồi ngước mắt, có ý hỏi “Bây giờ cháu đỡ đau rồi chứ?” Con bé gật đầu nhìn ông và con Mực lần chót, rồi từ từ tan trong lớp sương mù ẩm ướt. Ông Dụng ờ lên một tiếng vì ngạc nhiên. Ông thực sự không hiểu chuyện vừa rồi là có thực hay chỉ một giấc mơ. Dạo này ông hay có những giấc mơ kỳ quái như vậy. Khi vào nhà bật đèn, ông thấy hai tay dính đầy máu...

Từ hôm ấy, đêm đêm vào lúc gần sáng, con Mực nhà ông thôi không sủa nữa. Hồn ma cái Hồng không quay lại thêm lần nào. Tuy vậy, chẳng vì thế mà ông Dụng đỡ mất ngủ. Bây giờ đến lượt ông, bị chứng mất ngủ hành hạ, cứ gần sáng ông lại ra khỏi nhà vật vờ đi đi lại lại trong ngõ. Lúc đầu lũ chó sủa ghê lắm, nhưng rồi dần dần chúng quen, không còn làm ầm ĩ bắt mọi người tỉnh dậy.

Một chuyện đau long

Vâng, quả đúng đây là câu chuyện đau lòng. Lại khó tin nữa. Bây giờ những chuyện khó tin kiểu này ít xẩy ra, nhưng thời ấy, ý tôi nói cái thời còn chiến tranh, chúng không phải hiếm. Chiến tranh chấm dứt đã lâu, tuy nhiên hậu quả của nó vẫn còn đó và chắc sẽ còn kéo dài. Một câu nhàm chán, nghe cứ như trích từ bài xã luận nào đó, nhưng trong trường hợp này tôi không thể nói cách khác, vì thực sự nó đúng như thế. Nó là một trong vô vàn những hậu quả chiến tranh theo nghĩa ấy.

 Các bạn thử hình dung và đặt mình vào hoàn cảnh một bà mẹ hàng chục năm trời phải sống với cảm giác đau đớn mơ hồ, rằng có thể đứa con mình đang nuôi bằng tất cả tình mẫu tử không phải con mình, mà do một sự nhầm lẫn ngẫu nhiên, là con người khác. Nhầm? Nhầm cả chính đứa con mình rứt ruột đẻ ra? Vâng, đúng thế. Thì tôi đã nói là chuyện khó tin, nhưng nó xẩy ra với nhân vật của chúng ta, mà tôi xin được gọi bằng một từ đơn giản là "bà". Không phải không phịa ra được một cái tên nào đó, đơn giản tôi thích gọi thế hơn. Nếu chú ý, các bạn sẽ nhận thấy trong nhiều truyện tôi viết, ở những trường hợp có thể, tôi luôn tránh việc đặt tên cho nhân vật. Thói quen của từng nhà văn thôi, và chẳng mấy quan trọng.

 Chuyện thế này. Xin được kể đúng như nó vốn có.

 Vào một trong những đêm đáng nhớ cuối năm 1972, khi máy bay B-52 Mỹ ném bom rải thảm Hà Nội, bà được đưa vào khoa sản bệnh viện Bạch Mai, Phòng đẻ đêm ấy ngoài bà còn có mấy bà nữa, đã, đang hoặc chờ đẻ.

Đúng khi đứa con bà ra đời (hay có thể đang ra đời, tôi không biết chính xác) thì bỗng có còi báo động máy bay. Người ta làm nốt những phần việc không thể trì hoãn rồi vội vàng đưa bà ra hầm trú ẩn. Cả con bà cũng vậy. Nó cũng được các y tá đưa đi cùng những đứa trẻ khác. Cả thành phố chìm trong bóng tối. Chỉ có ánh sáng đạn pháo phòng không và bom nổ. Hôm ấy bệnh viện Bạch Mai chưa bị bắn phá. Khi bà ra viện và đã ở nhà, nó mới bị biến thành đống gạch vụn. Cuối cùng có còi hết lệnh báo động và bà được đưa trở lại giường đẻ. Chồng bà đang ở chiến trường. Bà con thân thích đã sơ tán về vùng nông thôn. Bà là công nhân một cơ sở sản xuất bánh mì nên phải ở lại thành phố. Quá mệt mỏi, bà ngủ thiếp lúc nào không biết.

Sáng hôm sau tỉnh dậy, người ta trao con cho bà, một bé gái khỏe mạnh, xinh xẻo và "giống mẹ như đúc!” Cô y tá bảo thế. Cô là người hay chuyện, da trắng hồng, đẫy đà, nếu không muốn nói hơi béo, một điều hiếm vào cái thời đói ăn ấy. Ca đẻ diễn ra bình thường, với những cơn đau bình thường và công việc của các nhân viên bệnh viện cũng bình thường. Thậm chí vào những ngày ấy của năm ấy, việc đẻ giữa chừng phải xuống hầm trú ẩn cũng bình thường nốt.

Được hai ngày, bà thuê xích lô tự về nhà, "mẹ tròn con vuông" như người ta vẫn nói. Cô y tá da trắng hồng tiễn bà ra tận cổng bệnh viện, vẫy tay nói theo:

- Sau này gả chồng cho con nhớ mời em nhé!

- Thì cô hẵng sớm lo chuyện chồng con cô đi đã, rồi nói chuyện ấy sau. - Bà mẹ trẻ hạnh phúc cười đáp. Một nụ cười mệt mỏi.

       *

Chiến tranh kết thúc, chồng bà đã không trở về. Lúc ấy bà còn trẻ, không xinh đẹp nhưng cũng chẳng xấu. Sau ba năm, bà đi bước nữa và lại vào bệnh viện Bạch Mai, sinh đứa con gái thứ hai. Chồng bà là cán bộ thăm dò địa chất luôn lang thang khắp các vùng núi rừng của đất nước, có mặt ở nhà mỗi năm tổng cộng chưa đầy một tháng, vào dịp nghỉ phép và những lần bất chợt ghé qua nhà vài hôm. Thành ra một mình bà phải quán xuyến hết việc nhà và nuôi dạy con cái.

Như bao đứa trẻ khác cùng thời, các con bà lớn lên trong cảnh thiếu thốn đủ thứ, nhưng đó là cái thiếu thốn chung của cả xã hội nên ít ai lấy thế làm bất hạnh. Bà hài lòng về chúng, đặc biệt đứa con đầu. Lúc nhỏ nó ham ăn chóng lớn, ít đau ốm. Lớn lên nó học giỏi, ngoan ngoãn, lại xinh đẹp như cô y tá kia đã nói. Còn việc nó "giống mẹ như đúc" thì bà không thật chắc lắm. Nhìn kỹ, bà thấy giữa bà và nó hình như có nét giống nhau mà cũng hình như không. Hai người có cùng khuôn mặt trái xoan ưa nhìn nhưng da nó trắng, da bà đen, tạng người nó to chắc, còn bà thì nhỏ và mảnh dẻ. Nó cũng chẳng có nét nào giống con em, cả bề ngoài lẫn tính tình. Còn giống bố thì dứt khoát không. "Ông ấy thuộc loại người khác hẳn. Mà thôi, chuyện ấy chẳng quan trọng. Có phải con cái ai cũng giống bố mẹ cả đâu!" Bà nghĩ thế và không còn để ý tới việc ấy nữa. Còn khối việc khác cấp thiết hơn phải làm.

Vậy mà nhiều khi bà cứ hay suy nghĩ vẩn vơ, để rồi tự cười diễu mình về những suy nghĩ vẩn cơ ấy. Bà nghĩ về cái đêm bà đẻ nó ở bệnh viện Bạch Mai, về quãng thời gian bà và nó xuống hầm trú ẩn, mỗi người một nơi, về cô y tá có nước da trắng hồng, dễ mến, xởi lởi. "Con gái kiểu ấy là hay đãng trí lắm. Để đâu quên đấy, lầm lẫn lung tung". Bà chậc lưỡi, vừa mỉm cười vừa lẩm bẩm một mình. Rồi ý nghĩ bình thường, vô hại ấy bỗng dẫn đến một ý nghĩ khác làm bà co rúm người vì sợ hãi: "Thế nhỡ cô ấy đãng trí hay bất cẩn ấy nhầm con mình với con người khác thì sao?" Bà lắc đầu cố xua cái ý nghĩ kỳ cục ấy và không dám nghĩ tiếp.

Thường vẫn thế, khi một ý nghĩ nào đó, cho dù phi lý nhất, len lỏi chui được vào đầu thì khó mà thoát được nó. Điều này cũng xẩy ra với bà y hệt như thế. Bà cứ luôn quẩn quanh với ý nghĩ có thể người ta đã trao nhầm con cho bà. Đến lúc này bà mới chịu tự thừa nhận rằng từ lâu bà đã linh cảm có cái gì không ổn giữa bà và con bà. Bà ôm nó mà cứ có cảm giác như đang ôm con người khác. Bà thấy ý nghĩ ấy thật ngớ ngẩn nhưng linh tính, vâng, linh tính của người mẹ lại như bắt bà phải tin vào điều ngớ ngẩn ấy.

Là đàn ông, lại chẳng phải chuyên gia về tâm lý, tôi không thể nói gì về linh tính người mẹ. Thậm chí tôi chẳng biết chính xác có tồn tại hay không cái gọi là linh tính ấy. Và nếu có, liệu có thể tin được không. Tôi đơn thuần chỉ nêu lên sự việc, đúng sai xin tùy vào sự phán xét của bạn đọc, nhất là các bạn đọc nữ đã từng làm mẹ. Tôi chỉ biết bà tin vào cái linh tính ấy, một niềm tin không giải thích được bằng lý trí. Có thể ví thế này thì hơi thô lỗ và bất nhẫn, nhưng bà quả như con gà mái bị người ta đánh tráo, bắt nuôi nhờ người con không phải máu mủ mình. Nhưng bà không là con gà vô tâm. Bà là con người và bà mơ hồ đau khổ.

Một hôm, lúc này đứa bé đã mười tuổi và đang học lớp ba, không chịu thêm được nữa, bà quyết định đến bệnh viện Bạch Mai tìm gặp cô y tá nọ để hỏi cho ra chuyện.

- Ấy chết, làm sao có thể thế được! - cô y tá, lúc này đã là bà trưởng khoa sản, một phụ nữ chững chạc, đeo kính trắng vội thốt lên khi bà lựa lời ướm hỏi điều bà băn khuăn từ lâu. Nói chung cô thay đổi không nhiều, vẫn xởi lởi, vẫn nước da trắng hồng, chỉ già hơn và mập hơn chút ít. Bà không ngạc nhiên trước câu trả lời của cô.

- Thế bệnh viện còn lưu được hồ sơ các ca đẻ hôm ấy không?

- Tôi sợ là không. Chiến tranh mà. Vả lại đã mười năm rồi còn gì. - Bà trưởng khoa thở dài đáp. - Nhưng tôi có thể cam đoan với bác là không thể có chuyện nhầm lẫn. Ai có thể nhầm một chuyện tầy trời như thế?

- Nhưng lúc ấy đang báo động máy bay, điện tắt, mỗi người chạy một nơi... - bà rụt rè nói.

- Vâng. Lúc ấy quả có lộn xộn thật, nhưng nhầm lẫn thì không. Hôm ấy tôi là y tá trực duy nhất. Tôi không đỡ đẻ. Bác sĩ Phương Thảo cơ. Chính tôi đã đánh dấu từng cháu và bế ra hầm trú ẩn...

- Chị đánh dấu thế nào và bằng cái gì?

- Đánh dấu con nào mẹ ấy chứ sao nữa. Bằng gì thì tôi không nhớ. Nếu bác thực sự cần, tôi cho lục lại hồ sơ. Biết đâu còn giữ được. À mà hôm ấy là ngày nào nhỉ, bác có nhớ chính xác không ?

- Có. Ngày 22 tháng Mười Hai năm bảy hai.

            *

Một tuần sau, đích thân bà trưởng khoa tìm đến nhà bà. Thật may, bà này đã không ngại vất vả bới lục cả đống hồ sơ bám đầy bụi bẩn và tìm được cái cần tìm. Bà cho biết đêm ấy trong phòng bà trực có bốn ca đẻ. Một ca thai lưu, tức là khi sinh ra đứa bé đã chết từ trước trong bụng mẹ. Một ca chuyển dạ lâu, đến hai hôm sau mới sinh được. Vậy là ngoài con bà, còn có một đứa trẻ khác chào đời đêm ấy. Bà trưởng khoa cho bà biết họ tên người mẹ và địa chỉ của bà ta, vì trong hồ sơ có ghi đầy đủ những chi tiết ấy.

Tiếp đến là những ngày tìm kiếm lặng lẽ mẹ con người đàn bà nọ, một người bà chưa hề biết mặt và chỉ một lần cùng nằm chung phòng, lại trong hoàn cảnh như thế cách đây những mười năm. Điều duy nhất bà biết là họ tên, ngày tháng và nơi bà ta sinh con. Con trai, theo lời bà trưởng khoa.

Ngôi nhà bà tìm đến theo địa chỉ được đưa, bây giờ là một cửa hàng bán đủ loại tạp phẩm ở khu phố cổ. Nó đã đổi chủ nhiều lần. Mất nửa tháng trời bà lần hỏi dần dần, cuối cùng cũng tìm ra được.

Họ là một gia đình viên chức, sống trong căn hộ tập thể ở khu Giảng Võ. Bà quyết định không vào gặp ngay. Lân la rất lâu ở quán nước một bà già cạnh đó, bà khéo léo dò hỏi và biết được khá nhiều chi tiết về họ. Ông chồng là cán bộ một cơ quan nghiên cứu khoa học ở Nghĩa Đô. Hàng ngày ông đi làm bằng chiếc xe máy Babetta màu đỏ, dấu hiệu của những người khá giả hoặc đã từng ở nước ngoài thời đó. Bà vợ là giáo viên trường cấp hai cách đấy không xa. "Một gia đình tử tế", bà thầm nghĩ, không hiểu sao lấy thế làm mừng. Họ có hai con, một trai, một gái. Cậu con trai kém hơn chị ba tuổi, cùng tuổi với con bà. Tất nhiên, bà chỉ chú ý tới nó.

Khi lần đầu tiên bà già quán nước chỉ nó cho bà, thoạt nhìn, bà bàng hoàng cảm thấy nghẹt thở, đến mức phải cúi xuống, hai tay ôm mặt. Không nghi ngờ gì nữa, nó chính là con bà. Bà biết chắc như thế. Trước hết vì nó giống, rất giống người chồng cũ của bà. Không sai vào đâu được. Cũng tạng người ấy, dáng đi ấy. Cũng những đường nét dễ nhận thấy ấy trên khuôn mặt. Sau nữa vì đơn giản bà biết nó là con bà, đứa con bà rứt ruột đẻ ra và suốt chừng ấy năm không lúc nào không nghĩ đến. Phải chăng lần nữa linh cảm người mẹ mách bảo bà như thế?

"Phải làm gì bây giờ?" Một cách vô thức, bà vội vã đạp xe đi theo thằng bé cho đến lúc nó tới trường và biến mất trong đám bạn bè cùng lớp.

Giờ tan trường, bà lại lén lút chờ nó trước cổng rồi cũng lén lút như thế, theo nó về nhà. Sau này, suốt nhiều năm bà còn phải nhiều, rất nhiều lần lặp lại việc này. Một cách lặng lẽ, vụng trộm, hệt như một mụ ăn cắp. Bà cảm thấy chua xót, xấu hổ về điều đó. Nhưng thử hỏi bà có thể làm được gì khác?

Bà đã từ bỏ ý định gặp bố mẹ nó. Biết nói gì với họ? Không lẽ bảo họ đây là con tôi, kia là con ông bà, ta đổi lại cho nhau? Bằng chứng đâu? Không khéo còn bị họ mắng. Cũng vì lý do thiếu căn cứ xác đáng, bà biết pháp luật chẳng thể làm được gì để giúp bà. Đấy là chưa nói đến việc các con bà, cả đứa bà đang nuôi và đứa người khác nuôi, sẽ phản ứng thế nào khi biết sự thật? Liệu chúng có hạnh phúc hơn không? Bấy lâu nay bà tìm con chỉ vì tình mẫu tử thúc dục, chứ đâu phải vì bà không yêu quí đứa con nhầm. Mà rồi liệu bản thân bà có dễ dàng chia tay với nó không, một đứa bé kháu khỉnh, ngoan và cũng rất mực yêu thương bà?

Cứ thế hết năm này đến năm khác, bà lặng lẽ sống với những câu hỏi day dứt không lời đáp ấy. Bà chỉ còn biết tự an ủi rằng cũng như con họ, con bà đang được nuôi dạy tử tế trong một gia đình tử tế. Phải đến hàng nghìn lần bà lén lút đứng từ xa quan sát con trai. Hàng nghìn lần muốn chạy đến gọi nó bằng tiếng "con" trìu mến. Nhưng cả hàng nghìn lần ấy bà không đủ dũng cảm làm điều đó, một điều dường như bình thường và bà, với tư cách một người mẹ, hoàn toàn có quyền chính đáng để làm.

"Không hiểu đã bao giờ ông bà ấy cũng có cảm giác nhầm con như mình không nhỉ? Nếu có, họ có đau khổ như mình không?" Bà tự hỏi. Cả câu này, bà cũng không trả lời được.

         *

Thời gian thấm thoắt trôi qua. Lại thêm mười lăm năm nữa bà sống trong tâm trạng ấy. Bà lặng lẽ chịu đựng một mình, không cho chồng con hay bất kỳ ai khác biết.

Với tôi, người viết, và các bạn, người đọc, mười, mười lăm hay hai mươi năm - những con số ấy dường như chỉ là một chi tiết nhỏ. Ta có thể dễ dàng nói bao nhiêu cũng được, nhưng nếu thử gấp sách suy nghĩ một chút và đặt mình vào hoàn cảnh bà, ta sẽ thấy các con số có ý nghĩa khác hẳn. Vâng, vậy là bà đã sống thêm mười lăm năm nữa trong tâm trạng một bà mẹ nuôi nhầm con. Lúc này đứa con nuôi nhầm ấy đang ở xa. Nó đã hăm lăm tuổi, học cao học ở Anh, nhờ suất học bổng thủ khoa trường đại học kinh tế. Còn em cô, hăm hai, vừa tốt nghiệp một trường cao đẳng và sắp sửa đi làm cho một công ty nhà nước ở ngay Hà Nội

     *

Hôm nay dường như nó có điều gì khác thường, cứ đi ra đi vào mãi. Bà biết nó có chuyện quan trọng sắp nói với mẹ.

- Mẹ ơi, - cuối cùng nó lên tiếng. - Con có người yêu rồi đấy. Chúng con quen nhau đã lâu, nhưng con chờ lúc nào chắc chắn mới báo với mẹ. Mẹ có vui không? - rồi nó âu yếm ôm vai bà, cười khúc khích. - Chắc mẹ muốn có cháu bế rồi chứ gì?

- Cha cô, - bà mắng yêu nó. - Chưa lo học hành, công việc tử tế đã nghĩ chuyện chồng con. - Ấy là nói vậy chứ trong lòng bà vui, và nó đã nói đúng. Bà muốn sớm có cháu để bế.

- Anh ấy tốt lắm, mẹ ạ...

- Khi yêu ai chẳng tốt.  Hãy cẩn thận, không thì khổ cả đời đấy, con ạ.

- Mẹ đừng lo. Vậy mẹ cho phép con đưa anh ấy về đây giới thiệu với mẹ chứ?

- Có muốn, tôi cũng chẳng cấm được, - bà lấp lửng đáp. Tức là bà bằng lòng.

Mấy ngày sau, nó dẫn người yêu về giới thiệu với mẹ. Đó chính là đứa con đẻ của bà và cũng là anh trai nó!

Tôi xin nhường bạn đọc tự hình dung tâm trạng bà trước việc này. Chỉ xin nói ngắn gọn là bà đã cương quyết không chấp nhận mối tình đó. Bà cấm. Bà dọa. Bà khóc, van xin và thuyết phục. Bà đã làm tất cả những gì có thể làm được để ngăn cản. Nhưng bà lại không làm được điều quan trọng nhất để bào chữa cho thái độ không khoan nhượng một cách phi lý ấy của bà: Bà không thể cho con biết lý do bà nhất quyết không để họ lấy nhau. Mà cô con thì phẫn nộ vì oan ức, cứ luôn miệng kêu lên: Vì sao? Vì sao? Vì sao?...

- Vì nó là anh trai mày! Anh trai ruột của mày, mày biết không? - bà ôm mặt khóc to khi cuối cùng phải nói ra cái sự thật bà che dấu hàng chục năm nay. - Trời ơi. Trời ơi... Sao lại trớ trêu thế này...

Cô gái không dám nghe tiếp, cũng ôm mặt vừa khóc vừa bỏ chạy ra ngoài.

        *

Tôi vốn thích những câu chuyện có hậu, cả chuyện người khác tôi đọc lẫn chuyện chính tôi viết. Hôm nọ có ông bạn già đùa bảo tôi: "Cánh nhà văn các ông sướng thật. Muốn giết ai thì giết mà chẳng sợ bị công an bắt" Tôi không thuộc loại nhà văn như thế. Tôi không thích giết người cả ngoài đời và trong tác phẩm. Nhưng lần này là một ngoại lệ, vì tôi đã hứa sẽ kể đúng sự thật. Cái sự thật đó là: Buổi sáng sau đêm bà nói ra điều bí mật của mình, người ta phát hiện thấy con gái bà và người yêu đã uống thuốc sâu tự tử bên chân đê sông Hồng, đoạn phía bắc cầu Long Biên. Họ chỉ để lại một bức thư tuyệt mệnh ngắn ngủi: "Xin bố mẹ hãy tha thứ cho chúng con. Chúng con không thể làm khác". Bản thân tôi cũng không biết họ chết vì tuyệt vọng không được lấy nhau, hay vì cảm giác tội lỗi của việc loạn luân.

Toàn bộ câu chuyện đau lòng này chỉ có thế, và đã đến lúc tôi có thể đặt dấu chấm hết. Ấy thế mà tôi cứ có cảm giác như còn điều gì chưa nói hết.

Khi viết những dòng này, bất chợt tôi nhớ tới "Sự tích hòn đá vọng phu" của Việt Nam, về chuyện hai anh em ruột do ngẫu nhiên mà lấy nhau. Tôi cũng nhớ tới vở bi kịch nổi tiếng "Ơđip làm vua" của một tác giả cổ Hy Lạp, kể chuyện vua Ơđip bị số phận bắt phải giết cha và lấy chính mẹ mình; cũng như câu chuyện của Hoàng tử chột trong cuốn "Một nghìn một đêm lẻ" về mối tình tội lỗi giữa hai anh em ruột một nước Trung á xa xưa nọ. Cả ba câu chuyện trên đều có kết cục bi thảm.

"Một chuyện đau lòng" của chúng ta cũng không tránh khỏi kết cục ấy. Nó là kết quả tất yếu một bi kịch quá sức chịu đựng của con người do những nguyên nhân khác nhau gây nên. Trong trường hợp câu chuyện tôi đã kể, nguyên nhân ấy là chiến tranh. Chính chiến tranh đã làm cô hộ lý trao nhầm những đứa trẻ sơ sinh. Chính chiến tranh đã làm các bà mẹ những đứa trẻ ấy phải âm thầm đau khổ. Và tất nhiên, cũng vì chiến tranh mà những người cầm bút như tôi buộc phải viết về những chuyện buồn của quá khứ, trong khi có thể và rất muốn viết những chuyện vui hơn của hiện tại và tương lai. Chiến tranh thật kinh khủng và đáng sợ. Đáng sợ hơn cả sự ngẫu nhiên, định mệnh và tình yêu tội lỗi.

Con chó hoang

Con chó nhỏ và đứa bé gái đang chơi với nhau trên hè phố tráng xi măng loang lổ. Cạnh đấy là một chợ cóc đông người nhưng chẳng ai để ý đến chúng. Có lẽ hôm nào chúng cũng ở đây nên thành quen. Con chó nhỏ, nửa Nhật nửa ta, trước màu trắng, giờ chẳng ra màu gì vì quá bẩn. Hơn thế, nó lại có hai vết ghẻ lớn, ở hông phải và đỉnh đầu. Nó là con chó hoang.

Còn đứa bé, nếu dùng được từ này với người, thì cũng có thể gọi là đứa bé hoang hay đại loại như thế. Nó khoảng năm sáu tuổi, không bị ghẻ nhưng cũng bẩn và nhếch nhác như bạn nó là con chó. Nó có khuôn mặt bầu bĩnh, da ngăm ngăm, có thể gọi là xinh nếu được rửa ráy sạch sẽ. Tóc nó rối bù do lâu không gội nên thỉnh thoảng nó đưa tay gãi rất mạnh. Nó mặc bộ quần áo hoa vải phin mỏng, hai ống tay cứng đờ và đen xịt vì luôn được dùng để quệt nước mũi. Chừng ấy tuổi, nó đã là đứa trẻ bụi đời. Cũng có thể không, đơn giản ai đó hàng ngày đưa nó đến đây, mẹ nó chẳng hạn, rồi bỏ đấy đi kiếm sống trong chợ - buôn bán vặt, bưng bê vặt, hay ăn cắp vặt. Những người như thế khó có thể làm khác.

 Con chó vừa ăn xong. Nó đã gặm trụi một cục xương lớn tha từ chợ về. Con bé nhìn nó gặm xương mà không có ý thèm. Nghĩa là chưa đói lắm. Lúc này chúng đang chơi với nhau có vẻ rất vui.

Con bé ôm một con búp bê được làm bằng vải vụn nhiều mầu mà người ta thường thấy các bà già xách từng dây rao bán trong các hẻm phố. Con búp bê bị cụt nửa cánh tay, một bên vai rách lòi bông. Nó đang chơi trò ru con, ra chiều âu yếm lắm. Còn ư ử  hát. Con chó thì ngồi cạnh, ngoẹo đầu nhìn, thỉnh thoảng ngoe nguẩy đuôi chẳng hiểu muốn gì. A, thì ra nó chờ đến lượt mình. Thấy "con" đã ngủ, con bé nhẹ nhàng đặt nó xuống đất, phủ một mảnh báo rách làm chăn, rồi giả bộ tất bật quay sang làm việc khác như một bà mẹ thực thụ.

Con chó chỉ chờ có thế. Nó rón rén lại gần rồi ngoạm con búp bê kéo đi. Nó dùng chân lật lật con búp bê, chạy đi chạy lại xung quanh, đuôi vẫy tít, rồi khe khẽ sủa như đang trò chuyện. Con búp bê không đứng mà nằm ngửa, cánh tay gãy giơ lên trời. Nó thờ ơ im lặng. Cũng có thể nó đang nói chuyện với các bạn nó mà người ngoài không nghe thấy.

Con bé vẫn giả vờ bận công việc "nội trợ". Nhưng nó nghe hết, biết hết. Có điều nó phải chờ đến lúc con chó xong trò "rủ búp bê trốn nhà đi chơi" mới quay lại. Luật chơi là vậy. Lúc ấy nó sẽ giả bộ tức giận, hốt hoảng "gọi con", mắng bạn của nó. Và con chó, dù miễn cưỡng, lại ngoan ngoãn kéo lê con búp bê về chỗ cũ. Con bé bế "con" vào lòng, vừa giả vờ mắng yêu vừa ru ngủ, cuối cùng đặt nó xuống mặt hè phố đầy bụi bẩn và "đắp chăn" bằng mảnh báo rách như cũ.  Sau đó lần nữa nó quay mặt để con chó lại lôi búp bê đi.

Cứ thế trò chơi đơn điệu này được lặp đi lặp lại mấy lần cho đến lúc cả hai  thấy chán, bỏ con búp bê vô tri giác sang một bên để ngồi cạnh nhau, thân tình như hai chị em ruột. Hình như hai đứa đang tâm sự điều gì. Con bé vừa mấp máy môi vừa bắt chấy cho con chó. Nó còn dùng những móng tay dài cáu ghét gãi gãi lên hai vết ghẻ của nó. Con chó tựa người vào chân bạn với vẻ thỏa mãn lười biếng, thỉnh thoảng lại "gâu" một tiếng góp chuyện. Nó thè cái lưỡi ươn ướt đỏ hỏn liếm tay con bé. Khi con bé cúi xuống nựng, nó liếm cả lên mặt. Những chỗ chó liếm trở nên sạch hơn, như được lau bằng khăn ướt...

 Lúc ấy ngày mới ngả sang chiều, mặt trời mùa đông chiếu sáng một cách ấm áp, dễ chịu. Cả hai đứa, một con chó hoang và một đứa bé hoang, cùng thiu thiu rồi thiếp đi lúc nào không biết. Một tay con bé ôm con búp bê bằng giẻ vụn, tay kia để lên lưng con chó ghẻ.

 Như mọi bé gái khác cùng tuổi, đứa bé hoang này khi ngủ cũng có những giấc mơ đẹp. Trong mơ, tất cả trẻ con đều hạnh phúc như nhau.

Lần này nó mơ thấy một bà tiên tuyệt đẹp bay đến với nó bằng đôi cánh mỏng như cánh chuồn chuồn. Đến nơi, đôi cánh khép lại sau lưng thành bộ áo dài lấp lánh như được gắn hàng nghìn mảnh gương nhỏ. Bà tiên đưa nó bay một vòng khắp thế giới, đến tận Nhà hàng Thủy Tạ ở Bờ Hồ, nơi nó được ăn một lúc hai mươi que kem có màu khác nhau. Bỗng nhớ tới con chó hoang, nó đòi bà đưa về. Họ lại bay một vòng nữa khắp thể giới để quay về chỗ cũ, nơi con chó đang hậm hực chờ họ.

Con chó không thèm ăn que kem tuyệt ngon bạn nó mang về. Nó dỗi vì không được cho đi chơi cùng. Bà tiên mỉm cười. Để bù lại thiệt thòi ấy, bà vuốt nhẹ tay lên người nó. Ngay lập tức cả hai vết ghẻ lớn biến mất. Bà hỏi con bé muốn gì để bà cho nhưng nó chỉ cười, lắc đầu. Với nó chừng ấy đã quá đủ.

Nhìn thấy con búp bê bằng giẻ nó vẫn ôm khư khư trên tay, bà tiên liền đưa nó vào cửa hàng đồ chơi bên cạnh. Cửa hàng này lớn và đẹp lắm. Đầy ắp búp bê và thú nhồi bông đủ loại. Trước đó nó và con chó nhiều lần đứng ngắm từ xa chứ chẳng dám đặt chân vào. Bà bảo thích cái gì cứ nói nhưng nó chẳng dám. Cuối cùng, bà chọn mua cho nó một con búp bê to bằng người thật, tóc vàng, váy hồng, biết chớp mắt, biết khóc, biết nói chuyện như người thật. Còn con chó thì chẳng được bà cho gì. Nhưng nó không lấy thế làm buồn...

           *

 Khi con bé đang ngủ trên vỉa hè cạnh con chó hoang thì chính từ cái của hàng sang trọng ấy có một ông già và đứa cháu gái khoảng mười tuổi đi ra, tay ôm một bó lớn đồ chơi. Cô bé chợt đứng lại nói gì đấy với ông nó. Ông già mỉm cười gật đầu. Nó vội chạy lại, nhẹ nhàng đặt một con chó nhồi bông rất đẹp cạnh đứa bé tội nghiệp lúc ấy đang mỉm cười trong mơ.

Lát sau, có gã đàn ông mặt mũi sần sùi đi ngang, chốc chốc lại ngoác rộng mồm ngáp. Thấy món đồ chơi đắt tiền bên cạnh một đứa bé đang ngủ và con chó ghẻ, hắn bỗng đứng khựng lại, lấm lét nhìn trước ngó sau rồi cúi xuống cầm lên, rảo bước đi thẳng. Con chó ghẻ thấy hết, biết hết. Nhưng nó vẫn nằm im như không có gì xẩy ra. Trường hợp khác thì nó đã nhảy bổ lên mà cào cắn thằng ăn cắp kia, dẫu nó chỉ là con chó hoang bé xíu. Chắc nó đã kịp hiểu rằng con chó bông kia sẽ là đối thủ đáng gờm trong việc tranh dành tình yêu của con bé bạn nó. Một đứa bạn tốt gớm.

 Con bé tỉnh dậy, ngạc nhiên vì không thấy con búp bê bà tiên cho. Nhưng rồi nó cũng hiểu đó chỉ là giấc mơ. Đây không phải lần đầu nó nhận được nhiều thứ trong mơ mà lúc dậy chẳng thấy gì. Con chó ghẻ cũng ỉm chuyện thằng ăn cắp có bộ mặt sần sùi và hay ngáp vặt. Tuy nhiên, hình như nó cảm thấy xấu hổ về thái độ không trung thực của mình, nên đáng lẽ phải rúc vào lòng bạn như mọi lần ngủ dậy trước đấy, bây giờ nó quay mặt, lơ đãng nhìn đâu đó.

Lát sau hai đứa lại chơi cái trò nhàm chán của chúng với con búp bê cụt tay bằng giẻ. Có điều lần này không còn thích thú như trước. Con chó vẫn chưa hết băn khoăn về sự phản bội của nó. Đứa bé thì còn tiếc món quà của bà tiên. Nó cũng buồn vì thấy con chó chưa khỏi ghẻ. Tuy nhiên chúng vẫn tiếp tục chơi, bình thường và vô hại. Chúng không biết một tai họa lớn đang đến gần...

         *

 Lúc ấy khoảng bốn, năm giờ chiều. Hai đứa chơi chán và đang ngồi tán gẫu với nhau theo cách riêng của chúng. Nắng mùa đông vẫn còn rực rỡ. Mọi việc diễn ra theo đúng trình tự và qui luật thường ngày. Phố đông hơn vì đang là giờ tan tầm, nhưng không vì thế mà người ta chú ý hơn tới chúng. Càng tốt. Con bé đang gãi chỗ ghẻ cho con chó, con chó thì nhìn nó vẻ biết ơn, đôi mắt ươn ướt.

 Bỗng một chiếc xe hòm từ đâu phóng tới, đỗ xịch phía bên kia đường. Hai gã thanh niên nhảy xuống, một đứa cầm gậy, một đứa cầm chiếc vợt lưới như vợt trẻ con bắt bướm, có điều to hơn nhiều. Trong xe có tiếng rên ư ử như tiếng chó. Nhiều tiếng một lúc.

"Ta làm thật gọn nhé!'" Một đứa nói, rồi cả hai tiến lại gần đứa bé và con chó. Con chó tinh lắm. Nó lờ mờ đoán có chuyện chẳng lành, liền vùng dậy định bỏ chạy, nhưng con bé đã kịp giữ chặt nó. Vì thế mà hai gã kia dễ dàng giật lấy con chó rồi ném vào thùng xe cùng những con chó hoang khác. Chính quyền đang có chủ trương giảm bớt, nếu triệt hết càng tốt, số lượng chó hoang đông đúc trong thành phố. Chúng có vẻ hài lòng, vì thêm một con, chúng được thưởng thêm một số tiền. Rồi chúng rồ máy cho xe đi tiếp. Bầy chó lại tru lên, trong đó chắn chắn có tiếng tru không nhỏ của con chó ghẻ.

Còn con bé tội nghiệp thì mãi lúc sau mới hiểu hết tai họa vừa bất ngờ đổ xuống đầu nó. Người ta đã bắt mang đi và có thể sẽ giết chết con chó ghẻ, người bạn duy nhất của nó. Thế mà lúc ấy nó lại ngu ngốc giữ chặt con chó để người ta bắt. Nếu không, chắc nó đã thoát.

Con bé lặng lẽ khóc. Hai dòng nước mắt chảy trên má. Trước đây mỗi lần nó khóc, con chó liếm nước mắt cho nó. Bây giờ nó còn lại một mình. Từ nay sẽ không có ai chơi, trò chuyện cùng, và quan trọng nhất là vào chợ tha nhặt những mẩu thức ăn thừa cho nó nữa. Mà nó thì đã bắt đầu đói. Vì còn bé, nó chưa có khái niệm thế nào là những con chó hoang và những đứa trẻ hoang như nó. Thế cũng may, nếu không, nó sẽ lo người ta có thể bắt và giết nó như con chó bạn nó.

 Khi không còn nước mắt nữa để khóc, nó cúi xuống bắt chấy cho con búp bê cụt tay bằng giẻ rách. Như mọi ngày, mọi người vẫn thản nhiên đi ngang, và vẫn không ai mảy may để ý đến nó.

Người rách bong

Dạo ấy tôi trẻ và còn hăng lắm. Chưa vấp váp, chưa khổ đau, cứ  ngẩng cao đầu bước đi giữa phố. Những bước đi tự tin không biết sợ, và thường được nhấn thêm bằng đế đôi giày da bóng lộn.

Một hôm tôi chững chạc bước như thế trong công viên thành phố, còn thích thú di di gót giày sau mỗi bước đi. Lúc ấy là xế chiều một ngày đầu đông nắng đẹp. Công viên ít người, gió từ hồ Bẩy Mẫu thổi nhẹ, các luống hoa mới được tưới tươi rói, không tỏa mùi hương, mà mùi đất hăng nồng. Vâng, tôi bước đi như thế với cảm giác lâng lâng, yêu đời và yêu mình.

“ối!” bỗng ai đó kêu lên đau đớn.

Tôi giật mình đứng lại. Trên ghế đá ngay bên cạnh có người đang ôm mặt nhăn nhó. Đó là một ông già khoảng sáu mươi lăm, bảy mươi tuổi, tóc bạc gần hết, đeo kính mắt tròn gọng kim loại, mặc bộ vét màu lông chuột đã cũ nhưng khá tươm tất, tuy hơi rộng so với thân hình gầy yếu của ông. Chiếc cà vạt rất ngay ngắn trên cổ nhưng hơi nhàu. Chiếc mũ phớt dạ bóp lõm phía trước đã sờn bóng ở các mép gờ. Chiếc ba-toong tựa bên ghế, hơi ngắn vì dùng nhiều đã mòn, tay cầm cong cong khảm bạc. Tóm lại, vẻ ngoài của ông toát ra cái gì đấy cổ kính một cách lạc lõng, một trí thức cũ không muốn hoặc không thể hòa nhập với cuộc sống mới.

Tôi nhìn đôi mắt sáng ươn ướt chắc vì đau của ông già:

“Thưa bác, có chuyện gì thế ạ?”

Ông già ngước nhìn lên. Một khuôn mặt nhân hậu đầy nếp nhăn và những nốt đồi mồi.

“Anh đang dẫm lên bóng tôi, anh bạn trẻ ạ. - Ông nói bằng tiếng Pháp. - Xin làm ơn bước sang bên!”

“Dẫm lên bóng? - Tôi ngạc nhiên thầm nghĩ. - Dẫm lên bóng mà lại đau, đến mức phải ôm mặt?” Chỉ lúc ấy tôi mới để ý thấy chiếc bóng ông dưới chân mình. Mặt trời đã ngả về tây, không bị mây che nên sáng rực, chiếc bóng vì vậy khá dài, dù ông ngồi trên ghế. Tôi dẫm đúng vào vai chiếc bóng ấy.

“Vâng, xin làm ơn đứng xê ra hộ. Nhanh lên!”

Tôi vội lùi lại. Thật kỳ lạ. Chiếc bóng của ông bị kéo rê theo gót giày tôi, như thể nó dính vào đấy. Trong khi đó, ông già cúi xuống, nhẹ nhàng làm động tác luồn hai tay nâng chiếc bóng lên, kéo về phía mình. Rồi ông nhỏm dậy bảo tôi giơ chân để ông gỡ một góc chiếc bóng khỏi đế giày. Thì ra nó bị vướng một chiếc đinh. Thời đó, để gót giày không bị mòn vẹt, người ta thường đóng một lớp cao su bên dưới. Lớp cao su của tôi bị sứt một góc, để lộ mấy chiếc đinh. Chắc vì thế nó mới làm ông già đau.

“Anh xem này, nó bị thủng mấy chỗ!” - ông già nói rồi giơ ngón tay chỉ, nhưng tôi không thấy gì.

Tôi nhìn ông nâng niu đỡ chiếc bóng trên tay, ngạc nhiên đến mức không thốt nên lời. Trông nó như tấm vải phíp thật mịn, mỏng và nhẹ, màu xanh thẫm chứ không hoàn toàn đen như thoạt tưởng.

“Lần sau xin anh nhẹ chân và cẩn thận nhìn xuống lúc đi đường”. Ông già khẽ nói, vẫn bằng tiếng Pháp, thứ tiếng Pháp của những năm bốn mươi thế kỷ trước.

Ông thận trọng trải chiếc bóng xuống đất vào vị trí cũ.

Không phải không thoáng lo sợ, tôi ấp úng xin lỗi rồi vội bỏ đi, vẫn chưa hết bàng hoàng với những gì mới xẩy ra.

Nửa tháng sau tôi lại đi dạo trong công viên, lại thấy ông già ấy ngồi sưởi nắng trên chiếc ghế đá quen thuộc. Dưới chân ông là chiếc bóng đang lặng lẽ nằm yên. Tôi bước nhẹ chân, cố không dẫm lên nó.

“Cảm ơn”, ông già nói khi nhận ra tôi, mỉm cưòi yếu ớt.

Cảm ơn vì tôi đã tránh không dẫm lên chiếc bóng! Thấy ông thân thiện, tôi nhìn xuống nửa ghế trống ra ý muốn ngồi cùng. Ông gật đầu. Thực ra tôi chẳng hào hứng gì khi tiếp xúc với một người kỳ dị như ông, nhưng sự tò mò không cho phép cưỡng lại.

Trông ông có vẻ ốm yếu hơn trước, như người đang bệnh, lưng hơi còng, đôi mắt sáng có phần đờ đẫn.

“Không ngờ cú dẫm của anh hôm nọ làm tôi đau đến thế. - Ông nói. - Nhưng tôi không trách, vì anh chỉ vô tình. Người trẻ thường hay vô tình”.

“Cháu xin lỗi, - tôi đáp. - Thế... Thế cái bóng của bác lành lại chưa ạ?”

“Chưa. Tồi tệ hơn, vết thương còn lây sang chỗ khác. Nên tôi mới thế này”.

Tôi do dự một chốc rồi rụt rè hỏi điều cứ làm tôi băn khoăn mãi:

“Thú thật với bác, cháu không hiểu vì sao ai đó có thể thấy đau khi bóng mình bị người khác dẫm lên”.

“Đơn giản vì anh bạn còn trẻ. Khi người ta già, từng trải, nếm hết mọi cái vui, cái buồn của đời, người ta sẽ trở nên nhạy cảm hơn với nỗi đau của mình và của người khác. Vì trẻ, anh chưa thấy đau, thậm chí chưa bao giờ nghĩ nghiêm túc rằng cái bóng là một bộ phận không thể tách rời của anh. Tôi dám chắc nhiều khi anh chẳng chút băn khoăn để bóng anh rơi xuống chỗ bẩn?”

Tôi gật đầu một cách thành thật.

     *

Lần sau vào công viên, từ xa tôi thấy ông già đang ôm ngực, cúi người trên ghế đá. Chiếc bóng dưới chân không còn dài, màu cũng trở nên nhợt nhạt hơn. Nghĩa là bệnh ông nặng hơn. Vết rách trên chiếc bóng chắc rộng lắm, có thể đã lan khắp nơi. Hoặc sưng tấy, mưng mủ mà tôi không  thấy. Tôi ái ngại nhìn ông, lòng bứt rứt và không dám lại gần.

Lần sau nữa thì chẳng thấy ông đâu. Có lẽ ông đã chết. Chết vì vết thương tôi vô ý gây nên.

Từ ấy đến nay đã nhiều năm trôi qua, nhiều đến mức bản thân tôi cũng trở thành một ông già, thỉnh thoảng cũng ra công viên ngồi sưởi nắng. Tôi vẫn thường nghĩ tới ông già có chiếc bóng rách ấy với mặc cảm day dứt của người có lỗi.

Thỉnh thoảng cũng có người vô ý dẫm lên bóng tôi, nhưng tôi chưa bao giờ thấy đau. Việc này, thú thật, có làm tôi hơi buồn. Chẳng cắt nghĩa nổi vì sao, nhưng cứ buồn. Tôi không là người mê tín, không tin vào phép lạ và các chuyện ma quỉ. Đến bây giờ tôi vẫn không hoàn toàn tin chuyện đã xẩy ra với ông già kia mà tôi có phần can dự. Nhưng cũng không hoàn toàn phủ nhận.

Chí ít thì sau cái chết của ông, bao giờ tôi cũng nhắc mình cẩn thận không để bóng rơi vào chỗ bẩn thỉu, không dẫm lên bóng người khác và cũng không để người khác dẫm lên bóng mình. 

Đoạn dây thừng

-         Bà cho tôi đoạn dây thừng. Khoảng dăm mét.

- ở đây nhiều loại, ông cần loại nào?

- Loại bền bền ấy, càng trơn càng tốt.

- Để làm gì?

- Để treo cổ tự tử.

Bà bán hàng, một người phốp pháp trạc năm mươi, ngừng nhai chiếc bánh rán đang ăn giở, lặng lẽ nhìn ông khách từ đầu đến chân. Một ông già có vẻ tử tế chứ chẳng phải điên. Rồi bới bới trong đống hàng, bà ta giơ lên cuộn dây ni-lông màu xanh to bằng chiếc đũa:

- Ông gầy thế, chắc loại này cũng được?

- ừ, chắc thế, nhưng tôi vẫn muốn loại to hơn một chút.

- Thế thì tôi không có. Ông sang bên hàng bà Lợi ở cuối phố, cạnh cây bàng ấy. - Bà kia thản nhiên đáp, và nhai nốt miếng bánh.

- Cảm ơn bà. - Ông già nhỏ nhẹ nói rồi đi về phía được chỉ. Ông dừng lại mấy giây trước cửa hàng bà Lợi, rồi bất chợt bỏ đi.

“Cả đến cái chết của mình người ta cũng chẳng thèm quan tâm! Thậm chí không mảy may ngạc nhiên hay tò mò khi có người hỏi mua dây thắt cổ!” Ông già chua xót nghĩ. Chính điều này làm ông thay đổi ý định. Ông chậm chạp chống gậy đi về phía khu phố của mình, nơi có ô đất trống ông ưa thích và được mọi người gọi là “Vườn công cộng”.

Cái “Vườn” ấy chỉ rộng già nửa sân bóng đá, lọt thỏm giữa mấy tòa nhà cao tầng mới mọc lên một cách khoa trương, kiêu ngạo nhìn xuống xung quanh bằng những con mắt cửa sổ nhôm kính sáng lóe vì ánh mặt trời. Chỉ một lối đi lát gạch đỏ, ba bồn hoa không người chăm sóc, mấy chiếc ghế đá và ít cây xanh. Nó hoàn toàn tách biệt khỏi sự ồn ào của các phố cạnh, là ốc đảo yên tĩnh, dễ thương, dù nằm sát khu phố cổ chật chội luôn sôi động. Buổi sáng là chỗ tập thể dục của những người đứng tuổi, buổi chiều, tầm tan học, là nơi đùa nghịch của lũ trẻ. Trừ ban đêm thuộc quyền chiếm hữu của bọn nghiện ngập và các thành phần bất hảo khác, phần thời gian còn lại trong ngày thường chỉ lác đác vài ông già nhàn rỗi hoặc cô đơn như ông.

Nó chẳng phải công viên hoặc vườn hoa với đúng nghĩa của từ này. Đơn giản chỉ là một khoảng trống không hiểu sao còn tồn tại đến tận bây giờ, tuy lúc nào cũng đầy kẻ lăm le muốn chiếm. Năm ngoái, nếu người ta không kêu mạnh thì nó đã bị biến thành chỗ xây ngôi nhà mười lăm tầng làm văn phòng cho thuê. Tuy thế, mối đe dọa vẫn lơ lửng còn đó, và không ai dám chắc sẽ giữ được bao lâu nữa.

Ông nhắm mắt, ngả người lên thành ghế đá, hồi lâu suy nghĩ về chuyện vừa rồi. ánh mặt trời cuối thu ấm áp làm ông nguôi ngoai dần, người như mềm ra một cách dễ chịu, hơi buồn ngủ, và có lúc ông đã thiếp đi thật. Trên đời này ông chẳng còn ai, chẳng còn gì ngoài chút nắng và khu vườn bé nhỏ này.

Ngày nào ông cũng ra đây ngồi, từ khi uống xong tách cà phê đen ở quán cô Vui, cho đến giờ tới quán cơm bụi bà Thành Lác phố bên. Buổi chiều, nếu không ngủ được trong căn phòng ẩm lạnh, vắng vẻ nhưng rất gọn sạch của mình, ông diện bộ com lê cũ lạc mốt, đội mũ phớt rồi chống gậy đi lang thang các phố. Không chủ ý đi đâu hoặc gặp ai. Mà rồi ông cũng chẳng muốn gặp ai, dù đang cô đơn ghê gớm. Buổi tối ông đến vũ trường “Hoàng Hôn”, nơi vợ chồng ông trước đây khiêu vũ mỗi tuần đều đặn ba lần vào thứ tư, thứ bảy và chủ nhật. Cái tên “Hoàng Hôn” chắc để chỉ câu lạc bộ dành cho người già, giá rẻ. Tuy nhiên, vì giá rẻ mà ngày càng có nhiều thanh niên tìm đến chen lấn, làm các cụ ngượng ngập vì các kiểu nhảy và cách cư xử của họ.

Từ khi vợ chết, ông vẫn giữ lệ đến đây vào những ngày đã định, nhưng không khiêu vũ, chỉ ngồi yên nhìn người khác, tận khi đóng cửa mới về. Vũ trường này chỉ mở đến mười một giờ. Người ta coi ông như ông già lẩn thẩn, đến mức không bắt mua vé vào cửa. Một khách quen lịch sự và vô hại không nỡ không cho vào. Nhưng chẳng ai chú ý tới ông.

Ông đã hơn bảy mươi. ở lứa tuổi ấy người ta cảm thấy cô đơn và lạc lõng cũng bình thường, nhất là khi bên cạnh không còn ai thân thích. Nhưng với ông thì không đơn giản như vậy. Có thể nói cái cảm giác cô đơn ấy đã đeo đuổi ông gần như cả cuộc đời. Cảm giác rằng mặc dù đã rất cố, cố hết sức để yêu mến, phục vụ người khác, mà không hiểu sao người ta như cố tình giữ khoảng cách, thậm chí xa lánh ông. Trong ông có cái gì khác người chăng? Không. Ông ăn ở không chân thành, đúng mực chăng? Không. Người ta còn luôn khen ông tốt, có học và lịch sự. Vậy thì vì sao? Chịu. Nếu trên đời này có số như người ta nói, thì có lẽ cái số ông nó vậy.

*

Xuất thân từ một gia đình gia giáo và giàu có ở Hà Nội, năm 45, ở tuổi mười tám và đang học giở trường Canh Nông, với niềm say mê lý tưởng bồng bột của tuổi trẻ, ông từ bỏ gia đình theo cách mạng, sống chín năm ở chiến khu, khi quay về thì cả nhà chẳng còn ai ở lại Việt Nam. Rồi vẫn bừng bừng nhiệt huyết cách mạng trong đầu, trước đó không lâu ông được cử phụ trách chỉ đạo cải cách ruộng đất một huyện ở tỉnh H...

Chà, cái huyện chiêm trũng ấy của tỉnh H. Những năm tháng kỳ cục ấy! ở đó, ông đã ký lệnh cho từng làng phải tìm bằng đủ số lượng địa chủ ông cần có, hay chính xác hơn, cấp trên ông cần có. Ông ký giấy khiển trách, kỷ luật cán bộ nơi nào không tìm đủ con số ấy, với lý do “chưa đủ năng lực và bản lĩnh chính trị để phát hiện hết kẻ thù giai cấp”. Ông cũng ký giấy xác nhận ai đích thực là “kẻ thù nguy hiểm”, tức là ký vào bản án tử hình của họ, dù về hình thức thì điều này phải do tòa án cách mạng quyết định. Số người loại này, tức là những người bị chết vì chữ ký của ông, hình như không ít. Ông không nhớ mà cũng chẳng muốn nhớ.

Oái oăm thay, vợ ông sau này lại chính là con gái của một trong những người ấy. Những người bị ông giết oan.

Số là khi có chỉ thị sửa sai từ trung ương về, ông mới bàng hoàng nhận thấy mức độ nghiêm trọng những việc ông làm. Vốn nhạy cảm và chân thành, thậm chí hơi ủy mị (là điều ông từng nhiều lần bị phê bình như biểu hiện của tầng lớp tiểu tư sản trí thức, cũng vì nó mà người ta không hoàn toàn tin tưởng hay cố ý giữ khoảng cách), ông cảm thấy lương tâm cắn rứt và cuối cùng quyết định ngỏ lời lấy cô Ngần con ông Tứ, một trung nông bị ông nâng lên thành địa chủ. Cũng vì lý do chỉ tiêu trên giao. Thành thực ông không ngờ ông Tứ sẽ bị xử bắn. Chẳng qua tòa hăng quá mà đưa ra mức án ấy.

Ngần là cô gái không xinh nhưng có nhiều nét dễ thương, kém hơn ông bảy tuổi. Trước hai người vẫn thường nhìn thấy nhau, nhưng cô không thể có thái độ nào khác ngoài cảm giác sợ sệt, coi ông như một cán bộ trung ương đầy quyền lực. Có lẽ cô không biết gì về chữ ký của ông đối với số phận cha cô. Lúc ấy gia đình đang gặp khó khăn, lại được cán bộ cấp cao người Hà Nội ngỏ ý, nên cô đã nhận lời, thầm xem mình gặp may.

Với tổ chức, cuộc hôn nhân này được coi là sự tiến bộ vượt bực về giác ngộ cách mạng. Ông đã từ bỏ gia đình, tự nguyện hiến nhà nước cả mấy ngôi nhà lớn bố mẹ để lại, bây giờ còn tự nguyện hòa mình để lấy một cô gái nông thôn mù chữ, chân đất. Tổ chức tin ông hơn, dẫu chưa hoàn toàn, và đã kết nạp ông vào Đảng.

Thế là cô Ngần và bà mẹ già ốm yếu dọn về thủ đô sống với ông. Những năm tiếp theo diễn ra yên ả. Ông làm việc ở bộ Y tế, được giao phụ trách một phòng chuyên môn và ở mãi cái phòng chuyên môn ấy cho đến lúc về hưu. Thêm một bằng chứng cho thấy người ta chưa tin, chắc do ông chưa hết mình rũ bỏ chất tiểu tư sản trong người, rằng bố mẹ, bà con ông có thể còn sống đâu đó ở nước ngoài. Tuy nhiên ông không lấy thế làm buồn. Sau cú sốc vụ huyện H., trong ông chất cách mạng dần dần nhường chỗ cho chất đời thường. Ông trở thành một con người của gia đình. Lặng lẽ, yếm thế và luôn mặc cảm.

Cái hòa nhập giai cấp trong cuộc sống thường ngày hóa ra khó khăn và vất vả hơn lý thuyết. Là trí thức Hà Nội, lại kỹ tính và gia giáo, thời gian đầu ông thấy thật khổ sở khi phải sống chung với hai người đàn bà thuộc giai cấp mà ông có nghĩa vụ phải yêu mến và hết lòng phục vụ. Họ là những người tốt, bộc trực và giản dị. Nhưng chính sự bộc trực và giản dị ấy cùng các thói quen thoải mái ở nông thôn làm ông thấy bất tiện và khó chịu, cho mình và cho bạn bè. “Âu cũng là cái giá phải trả vì lý tưởng!” ông chặc lưỡi, im lặng chịu đựng. Được cái bà già chỉ mấy tháng sau đã qua đời, vì bệnh lao và vì đau buồn. Còn cô Ngần còn trẻ, có thể nói thẳng và bày vẽ dần. Cô rất thông minh nên chẳng mấy chốc đã học hết các phép xã giao phức tạp của chốn thành thị. Thậm chí còn biết và thích khiêu vũ, không ngại ngần cùng chồng đi khiêu vũ tập thể ở Nhà Đấu Xảo vào các tối thứ bảy, hay trong những dịp liên hoan cơ quan, cho đến khi chớm chiến tranh, không có lệnh mà hình thức giải trí này tự nhiên mất hẳn. Những năm gần đây, nhờ mở cửa và dù đã có tuổi, họ vẫn tìm đến các sàn nhảy.

Cô còn được ông đích thân dạy văn hóa, sau ba năm đã thi lấy bằng trung học bổ túc và được nhận vào làm việc cùng bộ với ông. Sau này cô học thêm dần rồi trở thành bác sĩ, một chuyên gia tim mạch có tiếng. Họ sống với nhau không nồng thắm, nhưng hòa thuận. Được hai con, anh con đầu là lính xe tăng, hy sinh ở Khe Sanh năm 1970. Cô con gái đi học ở Đông Đức rồi ở luôn bên ấy, lấy chồng, có con và đã năm năm nay không về thăm nhà, cả khi mẹ mất. Rốt cục ông còn lại một mình. Vật chất không thiếu, vì lương hưu ông cao, nhu cầu lại rất ít, nhưng ông ngày càng rơi sâu thêm vào sự cô đơn và trống trải.

*

Lúc hấp hối, mãi đến lúc hấp hối, vợ ông, một người ít lời và kín đáo, cố gượng dậy, nhìn thẳng vào chồng hồi lâu rồi hỏi:

“Có phải ông đã ký giấy bắt bố tôi thành địa chủ, do vậy bị xử bắn không?”

“Vâng”, ông đáp gần như không suy nghĩ. Như thể ông chờ đợi câu hỏi này từ lâu. “Đó là lỗi của tôi. Mà cũng không phải lỗi của tôi”. Im lặng một chốc, ông nói thêm: “Bà tha lỗi cho tôi chứ?”

Bà ngã người xuống giường, nằm bất động nhìn lên trần nhà, mặc cho chồng cúi mặt đứng chờ bên cạnh. Cuối cùng, bà khẽ lắc đầu, rồi tắt thở.

Hóa ra suốt gần năm mươi năm sống với nhau, hai người vẫn luôn bị dằn vặt và thường nghĩ đến điều này, nhưng không ai đủ sức nói thành lời.

Ông cúi xuống, quì một chân cạnh vợ, nâng bàn tay lạnh của bà áp lên mặt mình hồi lâu.

“Xin bà và ông cụ hãy tha thứ cho tôi! Cái thời ấy nó thế. Có thể tôi không có lỗi, nhưng hãy tha thứ cho tôi. Bà sẽ được thanh thản. Tôi cũng vậy!”

Rồi ông đứng dậy, chậm chạp đi đến trước bàn thờ tổ tiên, và cũng chậm chạp như thế ông thắp hương vái lạy, lầm bầm hồi lâu. Người ông vốn đã nhỏ nay co rúm lại, trông thật tội nghiệp.

“Con cũng xin cả bố mẹ, ông bà tha lỗi cho người con bất hiếu này”.

Tiếp đến là những ngày vật vờ, vô nghĩa, có thật mà như không có thật. Sáng ra “vườn” ngồi, chiều lang thang khắp phố, tối đến “Hoàng Hôn” nhìn người khác khiêu vũ. Không nói, không suy nghĩ. Không đọc sách báo, không xem truyền hình hoặc nghe đài như những người già khác. Chỉ cảm thấy buồn, lạnh và trống trải.

*

Ông ngồi bất động, chiếc mũ phớt và chiếc gậy trúc để bên cạnh. Chính ông cũng chẳng biết mình đang ngủ hay thức. Trên chiếc ghế xi măng sứt mẻ nhiều chỗ ở góc đối diện là một bà điên ăn mặc rách rưới và bẩn như mụ phù thủy ngồi huơ tay bắt những con ruồi vô hình trước mặt và cười một mình. Hai thằng bé trốn học đang giành nhau quả bóng nhựa. Mỗi lần túm được bóng, bà điên giữ chặt, có lúc giấu sâu trong váy, và chỉ trả lại khi hai thằng kia chịu xì ra một tờ năm trăm đồng. Khi chưa lấy được bóng, chúng van xin tử tế lắm, lấy được rồi, chúng trở mặt chửi bới, chế diễu. Đối với ông thì chúng coi như không thấy, không biết. Cả khi đá bóng trúng người ông, chúng cũng không thèm xin lỗi.

Trời đã ngả về chiều. Hai đứa bé và bà điên kia bỏ đi. Chỉ còn lại ông, một mình giữa sự trống trải lạnh lẽo...

*

Một tuần sau, “Hoàng Hôn” được nâng cấp, đổi tên thành vũ trường Eden (Vườn Địa Đàng), chỉ dành cho lớp trẻ và giá vào cửa tăng gấp ba. Còn ở “Vườn Công cộng” thì xuất hiện chiếc xe tải loại lớn chở đi mấy chiếc ghế đá và chiếc xe ủi san phẳng ba bồn hoa tàn tạ. Nghĩa là số phận của nó đã được định đoạt dứt khoát. Bên cạnh người ta dựng tấm biển lớn vẽ hình một tòa nhà hiện đại mà chắc chắn sau này báo chí sẽ tha hồ ca ngợi như một sự thay da đổi thịt của thành phố. Thời buổi kinh tế thị trường, tấc đất tấc vàng, chỉ ngớ ngẩn mới giữ cái “vườn” cổ lỗ này để chiều mấy ông bà già cũng cổ lỗ và bọn trẻ mất dạy.

Chẳng còn nơi nào để tới, ban ngày cũng như ban đêm, một sáng nọ ông già lại đi mua dây thừng.

- Để làm gì?

Không hiểu sao lần nào người ta cũng hỏi để làm gì. Mà ông thì có thói quen không bao giờ nói dối.

- Để treo cổ tự tử?

Người bán hàng, lần này là bà Lợi, người từng được giới thiệu có đủ các loại dây cần thiết cho mục đích treo cổ, ngước lên nhìn khách:

- Cho ông?

- Vâng, cho tôi.

- Đây, cả đống đây. Bác thích loại nào thì chọn lấy.

Ông mua một đoạn ông cho là thích hợp nhất.

Bà Lợi lấy mẩu báo gói lại, nhét vào chiếc túi nhựa mỏng, trao cho khách. Đúng kiểu mua bán văn minh lịch sự ngày nay.

Lần nữa bà ta nhìn khách, nói nhỏ nhẹ:

- Tôi nghĩ có lẽ bác ra cầu Chương Dương thì hơn. à, cầu Long Biên. Chương Dương cấm người đi bộ. Nước sông Hồng đang lớn. Không lạnh lắm đâu. Lại đỡ mất tiền mua dây.

Ông cúi đầu lịch sự:

- Cám ơn. Có lẽ bà nói phải.

Rồi ông chậm chạp bước đi, lưng hơi còng về phía trước. Đang có gió thổi mạnh. Chiếc mũ phớt cũ bay xuống đất, để lộ mái tóc thưa bạc trắng.

*

Mãi mấy ngày sau người ta mới phát hiện thấy ông chết, do xác chết bắt đầu bốc mùi, khiến mấy hộ xung quanh nghi ngờ, phá cửa vào phòng.

Ông chết ngồi, mặt gục lên bàn, cạnh chiếc túi nhựa chưa mở với cuộn dây thừng trong đó. Trên bàn thờ là một đống tàn hương, với ba bức ảnh của bố mẹ và vợ ông đang nhìn xuống bằng cái nhìn nghiêm khắc.

Các cô gái làng tôi

Viết truyện này, tức là vô tình tôi đã chạm đến một nỗi đau khác của chiến tranh. Một nỗi đau âm thầm, đặc biệt và khó nói. Cũng vì thế mà xưa nay dù biết, người ta cứ ngài ngại không muốn nhắc tới. Vì tế nhị, và cả vì thương mà đành bất lực. Ðó là việc từ chiến tranh trở về, hàng vạn, có thể hàng triệu các cô gái nhỡ thì không lấy được chồng. Với phụ nữ, thử hỏi còn nỗi đau nào lớn và "khó nói" hơn?

Tôi được nghe kể và biết khá nhiều chuyện như thế. Trong một truyện ngắn gần đây tôi có sử dụng ít chi tiết từ câu chuyện của một bà bạn. Bà kể với tôi mà cứ như xưng tội với cha đạo. Theo bà thì chính bà đã giết chết một cô thanh niên xung phong tội nghiệp.

Số là vào cuối năm 1971, cái cô gái thanh niên xung phong trong một đơn vị toàn nữ suốt nhiều năm liền ở rừng Trường Sơn heo hút ấy đã bị phát hiện "làm chuyện bậy bạ" bên bờ suối khi lén đi tắm một mình. Và bà bạn tôi, lúc đó là người phụ trách đơn vị, chẳng nhiều tuổi hơn bao nhiêu, đã đem cô ra kiểm kiểm trước mọi người. "Chúng tôi "quần" cô ấy ghê lắm. Ðặc biệt là tôi. Chỉ huy mà. Tuy nhiên, miệng nói vậy thôi, chứ trong lòng thì thương. Tôi chủ trì buổi họp ấy. Bây giờ nghĩ lại thấy thật chua xót và cũng buồn cười. Nghĩ một đường, nói một nẻo. Không ít người cũng lớn tiếng phê bình cô gái đó như tôi. Ðem cả đạo đức cách mạng và lý tưởng ra mà phê bình. Cái thời ấy là thế và nó phải thế" Bà buồn bã nói thêm: "Sáng hôm sau chúng tôi thấy cô ấy treo cổ chết trên cành cây sau lán. Tất cả do tôi, do tôi hết!" Bà còn cho biết cũng vì lý do tâm, sinh lý ấy mà đơn vị bà ngày càng có nhiều chuyện kỳ cục, thí dụ bỗng dưng vô cớ mấy đứa cười sằng sặc như một lũ điên, rồi sau lại ôm nhau khóc. "Có đứa điên thật. Cứ trần truồng chạy tồng ngồng giữa rừng. Tội nghiệp."

Ở chiến trường đã thế, về nhà các cô càng khổ hơn, vì phần lớn đã ngoài ba mươi, lại ở nông thôn. Mà nông thôn thì ai lấy gái già, nếu còn người để lấy?

Khoảng mươi năm đầu sau chiến tranh, một số tờ báo mạnh dạn đề cập vấn đề này. Cũng chỉ nói chung chung, thương chung chung, chứ chẳng gợi ra được giải pháp cụ thể nào. Cả xã hội biết. Cả xã hội muốn làm cái gì đó giúp họ, cuối cùng vẫn bất lực. Không lẽ cho quay lại chế độ đa thê? Thế là hàng vạn, hàng chục vạn các cựu thanh niên xung phong cứ lầm lũi sống một mình và chuẩn bị tinh thần để kéo dài như thế suốt đời. May công đoàn và các cấp chính quyền không còn khắt khe như trước về tội chửa hoang. Con ngoài giá thú cuối cùng cũng được luật pháp và người đời thừa nhận.

Tôi nhớ một lần, năm 1983, trên đường đi Bảo Lộc, Cao Bằng, thì xe chết máy và chúng tôi phải ngủ lại qua đêm ở một đơn vị sửa chữa đường bộ, đúng ngày đơn vị này được tuyên dương thành tích gì đấy. Liên hoan, ăn uống vui vẻ lắm. Nhưng chỉ toàn đàn bà, và đều đã ba bốn chục tuổi. Thì ra họ cũng là thanh niên xung phong chuyển ngành. Cụ thể là sau chiến tranh, cả một đơn vị được bê hầu như nguyên xi từ Trường Sơn ra đây.

Ðêm hôm ấy, sau bữa liên hoan mà chúng tôi được mời dự, tôi nghe có tiếng khóc, không phải một mà hình như nhiều người. Thủ trưởng đơn vị, một ông già hom hem đang chờ về hưu, bảo tôi:

- Các bà ấy vẫn thế đấy. Cứ có dịp vui lại đêm nằm ôm nhau khóc. Chuyện chồng con ấy mà. Tội nghiệp.

- Thế quanh đây không có đàn ông à? - tôi hỏi. - Các cơ quan, xí nghiệp hay đơn vị bộ đội nào chẳng hạn?

- Trong vòng bán kính hai mươi cây số thì không. Xa hơn một chút có công trường khai thác đá và một đội biên phòng. Cũng kết nghĩa, giao lưu, thăm hỏi nhau đủ chuyện, nhưng chẳng ích gì. Chỉ thêm nhiều vụ chửa hoang. - Rồi ông thủ trưởng của hơn hai mươi bà công nhân ấy thở dài chép miệng: - Tôi đến khổ với các bà ấy!

Tôi không hiểu ông nói khổ là khổ theo nghĩa nào.

                                                                       *

Nếu làng là hình ảnh xã hội thu nhỏ, thì làng tôi phản ánh đầy đủ tình trạng này của toàn xã hội. Thời chỗng Mỹ, nhiều cô gái làng tôi là thanh niên xung phong, một số hy sinh nhưng phần lớn sống sót trở về, (bỏ lại đằng sau gần mười năm tuổi trẻ, cái tuổi dễ lấy chồng nhất) và rồi... ế CHỒNG. Ở quê tôi, con gái ngoài hai mươi lăm chưa lấy được chồng thì bị chính thức coi là ế, bị gạt khỏi danh sách những đối tượng có thể đặt vấn đề.

Như những người cùng tuổi thời ấy, từ những cô bé tóc vàng hoe vì chang nắng suốt ngày ngoài đồng để chăn trâu, bắt cua, làm ruộng, tất cả các cô gái làng tôi học xong phổ thông đều đua nhau viết đơn xung phong, rồi ra đi, miệng hát vang bài ca "đường ra trận ngày này đẹp lắm". Mọi người, mọi chuyện thật hồn nhiên, vô tư. Thật vui. Thật đẹp. Và cái cuộc sống dẫu gian nguy nhưng hồn nhiên và vui vẻ ấy chỉ bị hẫng hụt khi chiến tranh kết thúc, họ bất chợt thấy mình đã không còn trẻ, lờ mờ cảm thấy những mối lo đang đợi. Tôi có một bài thơ thế này, viết trong một dịp về quê và gặp một vài người trong số họ.

                                          Các cô gái làng tôi

                                          Lên đường đi diệt Mỹ,

                                          Khoác ba-lô, và rồi

                                          Từ cô, thành đồng chí.

                                          Họ đi vào chiến tranh

                                          Mà như đi vào hội,

                                          Những cô gái hiền lành,

                                          Vui, hồn nhiên quá đỗi.

                                          Nhiều, nhiều năm chiến trường

                                          Họ cũng vui như vậy,

                                          Dù đói, dù bị thương,

                                          Bom rơi và lửa cháy.

                                          Và chỉ ngày hòa bình

                                          Họ buồn khi trở lại

                                          Bỗng sững sờ thấy mình

                                          Không còn là con gái.

                                          Buồn càng buồn gấp đôi,

                                          Vì hình như lúc ấy

                                          Không người nào làng tôi

                                          Biết họ buồn như vậy.

Nói trong làng không ai biết họ buồn là cách nói của thơ, để nhấn mạnh nỗi buồn và sự mặc cảm của họ. Trên thực tế ai cũng dễ dàng nhận thấy điều đó. Gì thì gì, với phụ nữ, nhất là phụ nữ nông thôn, chuyện chồng con vẫn là điều quan trọng nhất. Nó không đơn thuần là hạnh phúc riêng tư, mà còn uy tín của cả gia đình. Dân làng thông cảm và thương họ lắm. Tuy vậy, khi kén vợ cho con trai thì lại chọn những cô mới lớn.

Ở quê tôi người ta lấy vợ gả chồng cho con rất sớm. Ðàn ông ở tuổi các cô mà chưa vợ thì chỉ có thể là mới đi bộ đội về - số này không nhiều do đã hy sinh hay được bố mẹ lo cưới xin trước khi lên đường - hoặc những người "nhỡ nhàng" do vợ chết, li dị, hoặc những người tật nguyền và cả loại thuộc "thành phần bất hảo". Không còn ai khác, một số cô thành vợ những người ấy. Số khác xin đi làm công nhân ở mỏ đá Hoàng Mai để cạnh tranh với những cô khác cũng đang ế chồng ở đấy. Còn phần đông ở lại làng làm ruộng, sống cùng nhà với bố mẹ già, hoặc nếu bố mẹ chết thì thui thủi một mình. Ðơn giản là sự cân bằng của cái quy luật cung cầu tự nhiên về nam nữ trong hôn nhân đã bị phá vỡ.

Thường vẫn thế, trong muôn vàn cái thiếu thốn sau chiến tranh, có một cái thiếu mà phụ nữ thấm thía hơn ai hết. Ðó là thiếu đàn ông để lấy chồng. Thời nào cũng vậy, ở đâu cũng vậy. Viết đến đây, tôi chợt nhớ đến bài thơ của Iulia Ðrunhina về đề tài này. Bà từng là nữ sinh trung học xung phong ra trận trong cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại của nhân dân Liên Xô. Ðời tư bà cũng không mấy xuôn xẻ. Bà mới tự tử chết cách đây mấy năm, nghe nói có liên quan đến sự sụp đổ của nhà nước Xô-viết mà bà đã hy sinh tuổi trẻ mình để bảo vệ.

                              Thắng trận, trở về nhà,

                              Các nữ sinh - chiến sĩ

                              Mang hai mươi tuổi đời

                              Như hai mươi thế kỷ.

                              Các huân chương, dù sao,

                              Vẫn ít hơn vết sẹo.

                              Hình như đời còn dài

                              Mà đã thành các "cựu".

                              Các cô gái về nhà.

                              Nhà không còn, giặc đốt.

                              Không cha mẹ, anh em,

                              Không chiếc dao, cái cột...

                              Nghĩa là lại từ đầu

                              Bắt đầu vào cuộc sống.

                              Bắt đầu diện đôi giày

                              Kiểu nhà binh thô rộng.

                              Vâng, nhưng diện với ai

                              Khi khắp làng không thấy

                              Bóng một chàng trai nào?

                              Sau chiến tranh là vậy.

                              Thiếu đàn ông để yêu

                              Ðã trở thành nỗi khổ.

                              Các thế hệ sau này

                              Chắc khó tin điều đó.

Ba mươi năm sau, ở Việt Nam, các cô gái làng tôi cũng rơi vào hoàn cảnh tương tự. Còn bây giờ, tức là thêm ba mươi năm nữa, chúng ta vẫn cảm thấy khó tin vào cái sự thật ấy, dù nó đã thực sự tồn tại. Ngay trong làng ta, quanh ta, hay thậm chí với người thân của ta. Một nỗi đau nhức nhối mà xưa nay chẳng ai có thể làm gì được để giúp đỡ. Không cả một lời an ủi hay một cử chỉ nhỏ để bày tỏ sự thông cảm âu yếm.

                                                                          *

Cuối năm 1978, trên đường công tác từ Hà Nội vào Sài Gòn, tôi ghé thăm nhà và được biết cô Duyên đi tu. Cô cũng là một trong những cựu thanh niên xung phong ở làng tôi và cùng cảnh ngộ.

Cô Duyên là con gái nhà hàng xóm, hơn tôi hai tuổi, nhập ngũ từ năm 1965. Không hiểu sao phải hơn một năm sau khi chiến tranh kết thúc mới thấy cô trở về. Cô là người nổi tiếng xinh đẹp trong làng. Nghe nói đã có hẹn ước gì đó với ông anh con bác tôi. Sau này, khi anh tôi hy sinh ở Quảng Trị năm 1968, không thấy ai nhắc đến chuyện ấy nữa. Có thể người ta ý tứ  tránh cho cô những phiền toái trong việc chồng con sau này.

Ðúng như trong bài thơ của Ðrunhina, khi cô trở về thì chẳng còn gì. Nhà trúng bom, cả bố mẹ và cậu em trai cô đều chết. Cô cũng phải tự mình làm lại tất cả, bắt đầu từ việc dựng một ngôi nhà lá, sắm sửa đồ đạc, rồi hòa dần vào nếp sống chung của làng và... để ý tìm chồng. Chính xác hơn là chờ người ta đến hỏi mình làm vợ. Nghe kể lại thì cũng có khá nhiều người tìm đến với cô, nhưng vẫn chỉ là những người "có vấn đề", chắc vì thế nên cô từ chối. Có vẻ như cô sẵn sàng sống độc thân suốt đời chứ không chịu lấy những người cô thấy không xứng đáng.

Trước đây, tuy thuộc hạng em út, nhưng nhờ ông anh, tôi thường được cô cho đi chơi cùng, kể cả những đêm hai người và đám thanh niên lớn hơn ra bờ Kênh Nhà Lê hát đối cùng con trai, con gái làng Phúc Nhạn bên kia kênh. Cô hát hay, đối đáp nhanh và sắc sảo. Chắc thời ấy nhiều người mê cô chứ không riêng gì anh tôi. Hơn thế, cô lại chín chắn, có bản lĩnh và luôn được bầu làm bí thư chi đoàn. Sau chiến tranh, dù không tích cực như trước nhưng cô vẫn tham gia đầy đủ các hoạt động xã hội trong làng xã. Cô cũng là người lao động giỏi, biết lo toan, sống hòa thuận với xóm giềng và được mọi người yêu mến. Tóm lại, trừ chuyện chồng con, mọi việc với cô đều ổn. Vậy sao bỗng nhiên cô bỏ đi tu?

Theo người ta kể lại thì cách đấy độ nửa năm có anh cán bộ tỉnh về làm việc ở xã. Chắng hiểu quan hệ hai người thế nào mà sau đó cô Duyên bỏ làng vào Vinh, nói đã xin được việc làm nhà nước ở đấy. Thế mà chưa đầy hai tháng sau thì thấy cô quay về, rồi xin vào nhà chùa, cũng cắt tóc, mặc áo nâu và sống hẳn ở chùa.

Ðó là chùa Yên Quang, nằm cạnh quốc lộ, phía bên kia sông Bùng, chùa lớn nhất trong cả huyện Diễn Châu, cách làng chúng tôi khoảng mười cây số. Cô chẳng giải thích vì sao. Người ta chỉ có thể đoán già đoán non, rằng phải có chuyện gì đấy nghiêm trọng xẩy ra giữa cô và anh cán bộ nọ, nên một người bản lĩnh và yêu đời như cô mới có một quyết định cực đoan như vậy. Có người bảo cô bị lừa, rằng anh kia đã có vợ và chỉ muốn quan hệ với cô như bồ bịch hay một dạng vợ lẽ. Cũng có người nói chuyện phức tạp hơn nhiều.

Dần dần sự kiện giật gân này cũng lắng xuống. Người ta đã ít bàn tán về cô, và cuối cùng chấp nhận mọi việc như nó hiện có. Thay cho hai tiếng "cô Duyên" giản dị trước đây, bây giờ mọi người, cả già lẫn trẻ, đều gọi cô là "sư cô Ðàm Duyên". Không biết nhà chùa có chức danh "sư cô" không, hay chỉ sư ông, sư bà và chú tiểu thôi. Cũng không biết vì đâu có chữ "Ðàm" ấy. Tôi thấy dân làng gọi thế: Sư cô Ðàm Duyên.

Lần ấy vì vội, tôi không có thời gian tới chùa Yên Quang xem cụ thể thế nào, nhân tiện nói chuyện đôi câu với cô Duyên, nếu cô chịu nói. Dù sao cô cũng suýt là chị dâu tôi, và ngày trước chúng tôi từng chơi thân với nhau.

Mãi ba năm sau tôi mới gặp cô, lần gặp thứ hai kể từ ngày cô đi thanh niên xung phong. Hôm ấy trời không mưa nhưng u ám, lại không đúng ngày lễ nên cảnh chùa có vẻ buồn và cô tịch.

Tôi dựng xe vào gốc cây bên đường, định không vào chùa vội mà đứng bên ngoài quan sát một chốc đã. Chùa chỉ có bốn người. Một vị sư già trụ trì, một bà sư nữa cũng già, và hai người khác trẻ hơn. Một trong hai người ấy là cô Duyên, bây giờ là "sư cô Ðàm Duyên".

Khi tôi đến, cô đang quét sân chùa. Mặt cô buồn buồn nhưng thanh thản và vô cảm. Một khuôn mặt còn giữ được nhiều nét đẹp, khiến tôi không thể không nhớ tới một cô Duyên linh hoạt, yêu đời ngày nào, khi cô cho tôi đi theo trong những đêm hát ghẹo bên Kênh Nhà Lê. Tôi thử hình dung mà không được khuôn mặt ấy thế nào suốt mười năm chiến trường khói lửa. Mỗi người một số phận, một hoàn cảnh, tất nhiên. Một khi cô chọn cách sống thoát tục này thì hẳn phải có lý do của nó. Tôi không có quyền và không muốn can thiệp. Tuy nhiên, đứng nhìn cô từ từ đưa những nhát chổi trên sân chùa vốn đã sạch bóng, tôi cbỗng cảm thấy buồn, và thầm nghĩ:

                              Ðường đời lỡ bước nhân duyên,

                              Cô bước chân vào cửa thiền,

                              Quét nhặt từng bông hoa đại,

                              Ðể qua cái thời con gái.

                              Nay già... Nếu không trọc đầu,

                              Chẳng biết tóc bạc đến đâu.

Tôi đứng thêm chốc nữa rồi lặng lẽ đạp xe về làng, không muốn khuấy động sự yên tĩnh trong lòng cô sau bao sóng gió của cuộc đời. Nhưng cô có thực sự cảm thấy thanh thản trong lòng không? Cô có hoàn toàn dửng dưng với những gì sôi động đang diễn ra xung quanh không?

Từ đấy, những lần hiếm hoi về thăm quê (cả nhà tôi từ lâu đã dọn lên thành phố), tôi đều tranh thủ tới chùa Yên Quang. Lần nào cũng chỉ đứng ngoài nhìn vào. Sau lần gần đây nhất, tức là vào năm 1995, trở lại Hà Nội, tôi có viết bài thơ về cô Duyên, một trong những cô gái làng tôi mà cũng là của nhiều làng khác khắp cả nước. Bài thơ đã đăng báo. Tôi nghĩ nó nói đủ những gì tôi muốn nói về nỗi đau này của chiến tranh. Nỗi đau không của riêng ai.

Gánh xiếc ông lùn

Câu chuyện tôi sắp kể dưới đây xảy ra đã lâu, chính xác là khoảng giữa những năm bốn mươi. Chuyện có thật nhưng bị cắt vụn thành từng mẩu rời rạc, lại phân tán nhiều nơi nên tôi phải mất công đi tới nhiều nơi ở Nghệ An để thu lượm và chắp vá các mẩu rời rạc ấy thành chuyện. Chuyện về gánh xiếc ông Lùn.

Tên là Lùn, nhưng ông không lùn, chỉ hơi thấp, to ngang, cộng thêm điệu bộ chậm chạp và nghề nghiệp độc đáo nên mới bị người ta gọi thế.

Ông Lùn và gánh xiếc mang tên ông từng một thời rất nổi tiếng ở hai tỉnh Thanh - Nghệ. Ngày ấy ở nông thôn chất phác và lạc hậu, cái gì cũng có thể làm người ta ngạc nhiên... Dễ hiểu vì sao các tiết mục xiếc, dù của một gánh xiếc rong, ngay lập tức được mọi người chú ý. Lời đồn về ông Lùn và gánh xiếc của ông có nhiều và được truyền đi rất nhanh, rằng ông có tài ném dao phi thường, (và bằng cái biệt tài ấy đã giết chết ba bà vợ, có người nói năm), rằng ông có ô tô riêng đi biểu diễn, có hàng tá người giúp việc, có con chó biết nói, cái hộp sắt biết hát và đặc biệt là kiếm được rất nhiều tiền, giàu có đến bạc triệu, vân vân. Những lời đồn ấy - như phần lớn các lời đồn khác - trên thực tế đều không có thật, trừ việc ông có tài ném dao trăm phát trăm trúng, có con chó khá thông minh và chiếc máy hát quay tay ọc ạch với một chiếc đĩa duy nhất.

Ông Lùn xuất thân là nông dân, do gặp chuyện phẫn uất hoặc không kiếm nổi miếng ăn nên bỏ làng lên thành phố. Ông đã phải trải qua khá nhiều năm tháng gian khổ, thử đủ nghề trước khi học được nghề xiếc rong này. Người ta chỉ biết khi vào Nghệ rồi "định cư" hẳn ở đó, ông là chủ "Gánh xiếc ông Lùn", gồm ông, hai cậu con trai, chiếc xe kéo có khung bịt vải chở mấy thứ đồ nghề và xoong chảo. Con chó và chiếc máy biết hát mãi sau này mới xuất hiện. Chiếc xe được trang trí lòe loẹt, bốn góc cắm bốn chùm hoa bằng lông gà nhuộm xanh đỏ. Đầu xe treo chiếc chuông, vừa đi vừa kêu leng keng. Cùng chiếc xe ấy, ông lang thang nơi này sang nơi khác, mưa thì ngủ trên xe, nắng trải chiếu nằm dưới đấi, hôm sau lại dậy lại đi tiếp. Thường thì ông Lùn kéo xe, thằng con lớn mười hai tuổi đẩy phía sau, thằng nhỏ bẩy tuổi được ngồi trên xe, nhưng phải vừa luôn tay đánh trống, vừa chốc chốc lại kêu to. "Xiếc! Xiếc đây! Xiếc ông Lùn đây!" Khi con chó được nhập bọn thì nó lẽo đẽo chạy theo sau.

Gánh xiếc của ông thường biểu diễn ở các bãi chợ và sân làng, nếu được nhà chức trách cho phép sau khi nộp một số tiền mà bây giờ gọi là tiền thuê địa điểm.

Ông Lùn lôi từ xe ra tấm vải dày hình tròn rộng bằng mấy chiếc nong, được chắp nối từ các mảnh vải có màu khác nhau. Nếu không gọi tiếng trống dồn dập là tiết mục, thì tiết mục đầu tiên là chiếc máy hát. Nó có nhiệm vụ thu hút khách xem và nếu cần, lấp thời gian trống giữa các tiết mục. Thằng lớn bê nó ra một cách long trọng, nhẹ nhàng và từ từ nhấc tấm vải phủ màu đỏ trước con mắt tò mò háo hức của mọi người. Rồi nó quay tay lên dây cót. Lát sau, cùng tiếng khùng khục lạo xạo là tiếng một bài hát vui nhộn bằng tiếng Pháp bay ra. Bao giờ cũng đúng những thủ tục ấy, cũng bài hát ấy.

Tiếp đến là phần của con chó. Con chó này chân và mõm đều ngắn, lông dài màu xám , người lại nhỏ nên trông như chó nhồi bông. Cổ nó đeo ruy-băng xanh, mỗi chân leng keng chiếc lục lạc bé tí. Ngoài những trò thông thường như đi bằng hai chân, nhào lộn và nhảy vòng, nó còn biết làm các phép tính đơn giản. Đến cái trò trí tuệ này thì thằng lớn ra điều khiển chó thay em, vì em nó chưa biết tính nhẩm. Nó yêu cầu ai đó trong đám người xem ra đề bài, thí du hai cộng hai, năm trừ ba hay thậm chí mười sáu chia cho bốn là bao nhiêu. Nhẩm tính trong đầu xong, nó ra hiệu cho con chó lúc nào thì sủa và lúc nào dừng lại. Tất nhiên cũng có lúc sai. Người xem tưởng lỗi do con chó nên họ rộng lượng bỏ qua, vì trong họ không phải ai cũng biết làm các phép tính phức tạp ấy.

Đến lượt thằng lớn trổ tài. Nó là diễn viên tổng hợp. Trên hình tròn bằng vải sặc sỡ ấy, nó có thể làm rất nhiều trò, từ uốn dẻo tung hứng đến thăng bằng, nhào lộn, nhưng đặc sắc nhất vẫn là trò ảo thuật. Trước con mắt ngạc nhiên của mọi người, nó ung dung hút thuốc rồi nhả khói qua hai lỗ tai, uống xăng phun ra lửa mà không sợ bỏng, hoặc để thằng em trói nó, trói thật chặt khắp người, nó chỉ rùng mình một cái là các sợi dây sổ tung rơi xuống đất.

Cuối cùng đến phần đặc sắc nhất và cũng thường để kết thúc buổi diễn - tiết mục ném dao găm của ông Lùn.

Ông cho bê ra một chiếc bàn và dựng một chiếc bảng cao trên đó. Thằng nhỏ mang đến chiếc hộp đựng đầy dao găm, những chiếc dao nhỏ, ngắn chỉ độ nửa gang, mũi nhọn và rất sắc. Như hai cậu con trai ông Lùn mặc bộ quần áo nhà nghề áo sặc sở ông tự may, tương xứng với tài năng và túi tiền của ông.

Thằng lớn găm lên bảng một quả quýt. Ông Lùn đỡ lấy con dao thằng nhỏ đứng cạnh đưa cho, và ở khoảng cách mười mét, hầu như không ngắm, ông ném một nhát trúng đích, cắt nó làm đôi. Người xem chưa hết ngạc nhiên thì thằng lớn đã lấy phấn gạch một đường chéo trên bảng. Ông lại ném. Cứ thế năm lần liên tiếp. Khi thằng lớn nhổ con dao thứ năm lên thì mọi người chỉ thấy trên bảng một lỗ cắm duy nhất. Tiếp đến ông mời người xem vẽ lên bảng một hình gì đấy. Cũng không ngắm, ông liên tiếp cắm hết mũi dao này đến mũi dao khác theo hình ấy. Không chệch phát nào. Xong, ông ra hiệu thằng lớn cho chiếc máy hát hoạt động trở lại. Một lúc sau mọi người tản đi trong tiếng trống bì bùm và tiếng bài hát Pháp vui vẻ.

Sự thật thì ông Lùn và gánh xiếc của ông rất nghèo. Thời ấy moi được đồng xu của anh nông dân không dễ, phần vì họ keo, phần chẳng có gì để moi. Bán vé thu tiền là điều không thể, vì nếu thế sẽ chẳng ai đến xem, thành ra chỉ còn biết trông chờ vào lòng tốt tự giác của người đời, nghĩa là cũng phải để chiếc mâm xin tiền như anh xẩm mù để mũ, dù đây là một gánh xiếc với những tiết mục hấp dẫn như vậy. Thường thì ngày nào họ chỉ kiếm đủ ăn ngày đó. Nhiều ngày trời mưa không diễn được, hoặc bị xua đuổi không cho diễn. Đấy là chưa kể những lúc ốm đau hay gặp sự cố.

ở Đô Lương có người kể chính ông ta một hôm nhìn thấy thằng bé lẻn vào vườn moi trộm khoai lang, ông tóm được. Khi nhận ra nó là thằng nhỏ gánh xiếc ông Lùn, ông tha cho đi, thậm chí không giữ lại những củ khoai nó vừa moi được.

Thế thì sao lại có lời đồn ông kiếm tiền dễ dàng và "giàu có đến bạc triệu?" Tôi đã thử tìm hiểu điều đó, cả việc vì sao gánh xiếc thiếu vắng phụ nữ, vợ ông hay ai đó chẳng hạn. Tiếc là đến bây giờ tôi vẫn chưa tìm ra sự thật.

Có người quả quyết với tôi rằng trước đây ông Lùn luôn có vợ đi theo. Bà này thay cho các hình vẽ trên bảng, đứng dang tay để chồng ném dao găm theo hình người bà. Đó là tiết mục hết sức mạo hiểm và giật gân, nhờ thế thu hút được nhiều khách, và cùng với khách là tiền. Tiếc rằng bà này một lần vô ý lắc đầu xua con ruồi trên môi, bị mũi dao đâm xuyên qua óc. Từ đó gánh xiếc bắt đầu sa sút. Có người lại nói người bị ông ném chết không phải vợ mà thằng con cả, anh của hai đứa hiện giờ. Còn vợ ông, khi thấy con chết đã ôm đứa bé nhất, đứa thứ tư, bỏ ra Bắc. Cũng có người nói ông Lùn không bao giờ ném người, vì ông tốt bụng, sợ nhỡ người đứng mẫu không chịu nổi sẽ nhúc nhích hay ngất ngã. Tóm lại, ý kiến có nhiều và khác nhau không ít, nhưng tất cả đều thống nhất ở một điểm, rằng ông Lùn và gánh xiếc của ông trước đó từng làm ăn phát đạt hơn nhiều.

Còn lúc này thì nó đang gặp khó khăn. Các tiết mục có lạ mắt, hấp dẫn thật đấy, nhưng vẫn chưa đủ độc đáo để bắt được người nông dân bỏ công việc kéo nhau đến xem, và - điều này mới quan trọng nhất - chịu móc túi lấy tiền, tất nhiên nếu trong túi có tiền.

Cứ thế mấy cha con ông Lùn kéo xe lang thang khắp nơi, hết huyện này đến huyện khác. Chương trình biểu diễn của họ trở nên phong phú hơn. Hai thằng bé lớn lên học thêm được một số trò mới. Bản thân ông Lùn cũng kiêm luôn một số mục khác, như nằm ngửa để hòn đá to lên bụng cho người khác cầm búa đập vỡ, hoặc bắn cung, tung tạ, vân vân. Chiếc máy hát thì ọc ạch hơn trước, tuy vẫn phát ra được bài hát Pháp vui nhộn nọ. Chỉ có hai cái không thay đổi, là con chó thông minh và món tiền ít ỏi thu được sau mỗi buổi diễn.

Vào một năm mất mùa và gánh xiếc đang trong tình trạng tồi tệ nhất, một đêm nọ ở sân ga Vinh, khi bố con ông Lùn đang ngồi ăn phần cơm ít ỏi của mình, thì một người phụ nữ bước đến chìa tay xin ăn. Người này chưa đến ba mươi, ăn mặc khá tươm tất, mặt dễ coi nhưng xanh gầy bởi đói ăn lâu ngày. Cô ta đội chiếc nón tùm hụp, tay nải bên hông, ngượng ngập chìa tay, miệng lí nhí câu gì không rõ. ở cô toát lên cái gì đấy dễ thương và tử tê, chứng tỏ trước đây không lâu còn thuộc con nhà tử tế.

Sau này cô cho biết rằng cô không may lấy phải người chồng giàu nhưng độc ác. Hắn muốn có con trai thừa tự, mà cô chỉ sinh toàn con gái. Sau khi sinh đứa con gái thứ ba, hắn thẳng tay đuổi cả bốn mẹ con ra khỏi nhà. Không nơi nương tựa, mẹ con cô bồng bế nhau đi ăn xin, khi gặp ông Lùn là vừa tròn ba tháng. Vì không muốn con chết đói, cô lần lượt tìm nơi tin cậy cho hết đứa này đến đứa khác. Đứa cuối cùng chưa đầy một tuổi, cô đem cho một bà hàng bún ở Bến Thủy cách đấy vài ngày.

Vốn thương người, ông Lùn mời cô ngồi xuống cùng ăn. Ngày ấy chia cái ăn cho người khác là việc dũng cảm. Lát sau ông quyết định một việc khác còn dũng cảm gấp bội là mời cô đi theo gánh xiếc.

Tên cô là Lý. Từ ngày có cô Lý, gánh xiếc ông đỡ vất vả hơn trong lo toan hàng ngày, còn ông thì thấy đời cũng ấm áp thêm đôi chút. Nhưng cũng dễ hình dung rằng từ đấy, có thêm một miệng ăn, gánh xiếc của ông trở nên túng thiếu thế nào. Thu nhập ngày một ít; người xem bắt đầu chán những tiết mục diễn đi diễn lại nhiều lần. Họ muốn cái gì đấy mới, hấp dẫn và độc đáo. Nhưng cái gì? Ông Lùn ngày càng ít nói. Hai thằng con thấy ít người xem, mất hứng, sao nhãng chuyện tập tành. Còn cô Lý thì vốn nhẫn nhục và hay mặc cảm, nay thấy mình là gánh nặng cho người khác, nên rất khổ tâm. Cô tự cho cô là người duy nhất có lỗi. Cô cố gắng làm vừa lòng mọi người một cách vụng về, nhiều khi định lén học một vài trò nhưng không được. May không ai trách cô. Ngược lại, cô được mọi người yêu mến, đặc biệt ông Lùn.

Thời gian lặng lẽ trôi qua, chiếc xe của gánh xiếc ông Lùn vẫn lọc cọc lăn trên những con đường quanh co của xứ Nghệ, chở theo nó vẫn những khó khăn và lo âu ấy.

Một hôm tình cờ cô Lý nghe ai đó nói nếu có người chịu đứng làm mẫu cho ông Lùn ném dao, người ta sẽ tới xem đông hơn. Suốt ngày cô nghĩ mãi điều này. Phải chăng đây là khả năng duy nhất cô có thể giúp ân nhân mình trong công việc? Cô chỉ việc nhắm mắt đứng yên, dang hai tay hai chân, còn tài ném dao của ông Lùn thì cô không mảy may nghi ngờ. Có điều tính nhút nhát, mới nhìn mũi dao đã bủn rủn chân tay, liệu cô có đứng vững được không? Hình dung chuyện ấy, cô thấy ớn lạnh nơi sống lưng, trống ngực đập thình thịch. Thật kinh khủng, nhưng không còn cách nào khác...

Tối ấy cô nói ướm với ông Lùn, và như ta dễ đoán hiểu, ông cương quyết từ chối. Ông cũng nhất định không thay đổi ý kiến những lần sau, cả khi cô nói gánh xiếc sẽ kiếm được nhiều tiền và có thể giúp cô chuộc lại con.

Thế mà chưa đầy nửa tháng sau, ở chợ Vinh, thằng nhỏ đã oang oang quảng cáo "ném dao găm theo hình người thật, một tiết mục mạo hiểm rùng rợn nhưng vô cùng hấp dẫn mấy năm chỉ diễn một lần của Gánh xiếc ông Lùn"... Nghĩa là cuối cùng cái đói đã thắng tất cả, và bắt được một người tốt bụng, hiền lành như ông Lùn mạo hiểm với tính mạng của người ông yêu quý.

Hôm ấy mọi việc diễn ra giống mọi ngày - vẫn trình tự các tiết mục ấy, vẫn con chó và chiếc máy hát ọc ạch ấy. Điều khác duy nhất là người xem, do được quảng cáo và kháo nhau từ trước, lần này kéo đến rất đông,.

Trước con mắt hồi hộp của mọi người, cô Lý đi ra, khẽ mỉm cười yếu ớt rồi bước lên bục, đứng dán người vào chiếc bảng lớn kê sát phía sau. Cô mặc bộ quần áo đen bó sát người, hai tay để thẳng ngang vai, chân choãi ra thành hình chữ V lật ngược. Mặt cô trắng nhợt, đôi mắt mở to không nhấp nháy.

Ông Lùn đứng trước cô ở cách mười mét, bề ngoài vẫn bình tĩnh như mọi ngày. Bên cạnh là thằng nhỏ, hai tay bê hộp dao. Ông với tay lấy một chiếc, hất đầu ra hiệu với cô Lý, rồi nhanh như tia chớp mũi dao lóe lên, cắm phập sát đỉnh đầu cô. Cô cảm thấy như có dòng điện vừa chạy khắp cơ thể. Chưa kịp định thần trở lại, một mũi khác đã chạm nhẹ bên tai trái. Mấy giây sau, mũi dao xuyên xuống cổ, bờ vai rồi chạy theo cánh tay đến đầu ngón, xuống nách, hông... Cô nhắm mắt. Nỗi sợ làm tê liệt các dây thần kinh cảm giác. Thậm chí cô không còn nghe tiếng những mũi dao liên tiếp cắm vào bảng gỗ sắc gọn, và chỉ chợt tỉnh lại khi ông Lùn ném xong mũi dao cuối cùng bên tai phải.

Sau những phút nín thở theo dõi, người xem bùng lên vỗ tay tán thưởng. Cô Lý loạng choạng bước xuống khỏi bục, để lại phía sau một hình người được cắm bằng những mũi dao tua tủa.

Sau đó, như một số người kể lại, cô Lý đã ngất trong cánh tay ông Lùn vừa kịp đến đỡ. Cũng có người nói cô ốm liệt giường mấy ngày liền. Nói chung người ta còn nhớ và kể lại nhiều chi tiết giật gân về buổi biểu diễn hiếm có ấy. Tất nhiên chính xác đến đâu là chuyện khác.

Tôi có bà cô già rất mê các trò múa hát. Cô tôi kể rằng hôm ấy, khi mọi người bỏ đi hết, có hai cô gái nông dân bẽn lẽn đến gặp ông Lùn. Sau một hồi đùn đẩy, hai cô xin ông từ nay đừng ném dao theo hình người thật, vì ném thế sợ lắm, nguy hiểm lắm. Ông Lùn nhìn hai cô mỉm cười hiền lành, cảm ơn và hứa sẽ làm theo. Hai cô gái không nói gì thêm, vội giúi vào tay ông mấy tờ giấy bạc cầm sẵn rồi xấu hỏ bỏ chạy. Chuyện này thì tôi tin chắc có thật, vì một trong hai người ấy là bà cô tôi. Cô tôi nói:

- Thế mà chỉ mấy tháng sau ông ta đã ném chết cô Lý. Con người trông bề ngoài hiền lành, thật thà, hóa ra...

Bà cô tôi nói đúng: Ba tháng sau, ở Phủ Diễn, nay là thị trấn Diễn Châu, cũng vì cái đói bắt buộc, ông Lùn và cô Lý lại mạo hiểm lần nữa. Không may lần này, cô Lý ngất đúng khi ông Lùn ném mũi dao vào nách phải. Cô ngã người, và mũi dao đâm trúng trái tim cô lúc ấy đang đập mạnh vì sợ...

          *        

Tôi yêu xiếc, nghệ thuật của cái đẹp và sự dũng cảm. Một phần vì thế mà tôi bỏ công lần theo truyền thuyết về ông Lùn và gánh xiếc của ông. Để làm gì ư? Để ít ra cũng biết được con người của môn nghệ thuật tôi yêu ấy trước kia đã sống và phải trả giá cho nghề nghiệp của mình như thế nào. Tiếc là sau cái chết của cô Lý, tôi không biết gì thêm về ông Lùn, ngoài một điều chắc chắn rằng từ đấy ở quê tôi không ai còn thấy gánh xiếc của ông. Có người nói ông đem con trở về Bắc, chọn nghề khác kiếm sống. Cũng có tin đồn, rằng ông vào một tỉnh nào đấy phía trong, tiếp tục biểu diễn và còn làm chết thêm mấy bà vợ nữa; rằng ông tự tử chết theo cô Lý; rằng ông bị bắt vì tội giết người, vân vân...

Mới đây, một ông giáo ở Quỳnh Lưu nói với tôi là sau khi miền Bắc giải phóng, gánh xiếc ông Lùn đã nhập vào đoàn xiếc Trung ương, hiện giờ chắc hai con ông đang làm việc ở đó. Đây là giả thiết có vẻ tin được. Khi trở ra Hà Nội, tôi tìm đến đoàn xiếc ấy và cả trường xiếc ở Mai Dịch, nhưng không biết gì thêm.

Bây giờ, mỗi lần vào rạp xiếc thưởng thức những tiết mục hấp dẫn của các diễn viên trẻ đẹp, hạnh phúc, tôi không thể không bùi ngùi nghĩ tới ông Lùn và gánh xiếc của ông, một thời lọc cọc lăn trên những nẻo đường nông thôn xứ Nghệ.

            Nha Trang, 1985

CÔ GÁI GÙ

Ở làng tôi có một cô gái gù. Chúng tôi là bạn thân với nhau thời nhỏ, dù cô hơn tôi những năm tuổi...

Mà thôi, trước khi bắt đầu câu chuyện ấy, có lẽ độc giả hãy đọc bài thơ dưới đây của Eđuardas Mêgiêlaitis mà theo tôi là hay và cũng có chung đầu đề như câu chuyện của tôi.

Đúng là cả truyện ngắn chỉ trong một bài thơ nhỏ - một truyện ngắn cổ điển với đầy đủ các chi tiết cần thiết.

Tôi rất yêu thơ Mêgiêlaitis (1), thậm chí còn quen ông và suốt một thời gian dài chúng tôi trao đổi thư từ với nhau. Cách đây hai mươi năm tôi từng dịch và in hai tập thơ riêng của ông. Nếu được chọn chỉ một nhà thơ xô-viết để trao giải Nôben, nhất định tôi sẽ chọn Mêgiêlaitis. Tất nhiên không phải vì ông là bạn tôi, mà vì theo tôi, ông là nhà thơ số một của nền thơ Xô-viết, xứng đáng hơn nhiều nhà thơ nước khác từng được nhận giải thưởng cao quí này. Mở đầu tập thơ "Nghịch lý của bàn tay" xuất bản ở Việt Nam năm 1984 ông có lời tựa với những dòng cảm động về tình cảm của ông đối với con người và đất nước chúng ta.

Khi đọc xong "Cô gái gù" trong số sách ông mới gửi tặng - lúc ấy khoảng cuối năm 1980 - tôi liền viết thư hỏi ông xuất xứ  bài thơ này, và nói thêm rằng thưở nhỏ tôi cũng chơi thân với một cô bé gù bất hạnh. Ông cho biết nội dung bài thơ hoàn toàn có thật, trừ những chi tiết được thi vị hóa, và bảo tôi hãy viết một bài thật hay về bạn mình. Tôi định thử nhiều lần nhưng cuối cùng lại thôi, vì biết có viết gì và hay đến đâu, cũng sẽ chỉ là sự lặp lại mờ nhạt những điều Mêgiêlaitis đã nói. Bây giờ, khi cho in lại lần thứ ba tác phẩm của ông trong một tuyển tập mới, và lần nữa đọc "Cô gái gù", tôi quyết định quay lại đề tài này, không bằng thơ mà bằng văn xuôi.

 ở đời quả có nhiều sự trùng hợp ngẫu nhiên. Cô gái gù của tôi ngày nhỏ cũng có khuôn mặt xinh đẹp, đặc biệt là đôi mắt. Tôi không biết vì sao cô bị gù, do bẩm sinh hay hậu quả một căn bệnh nào đó chăng?  Lớn lên tôi đã thấy cô mang chiếc bướu sau lưng. Chiếc bướu to khiến người cô co rúm lại, khuôn mặt xinh đẹp như lọt thỏm trong đôi vai nhô cao. Dù hơn tôi năm tuổi, nhưng vì là con gái, nhỏ người hơn, có thể vì gù nữa, nên tôi xưng hô tao mày như  bạn bè cùng tuổi.

Tên cô là Hồng, một cái tên đẹp, có vẻ hơi kiểu cách ở quê tôi thời ấy, nhưng mọi người chỉ đơn giản gọi "con gù". Tôi cũng gọi thế, ít ra thời gian đầu. Mẹ tôi bảo cô mồ côi từ nhỏ và sau đấy, cũng giống cô gái gù trong thơ Mêgiêlaitis, cô sống với bà nội, một người bán hàng xén ở chợ Hôm, không giàu nhưng chẳng nghèo lắm. Thậm chí cô còn được đi học một thời gian. Sau đó bà cô bệnh nặng chết, để cô một mình không nơi nương tựa. Cô chẳng còn ai thân thích trừ vài người thuộc đằng ngoại ở Hà Tĩnh mà từ lâu đã mất liên lạc.

Chẳng còn cách nào khác, cô phải đi xin ăn ở chợ Hôm và các làng lân cận. Cuối cùng, động lòng thương, một địa chủ trong làng đưa cô về nuôi như con cái trong nhà. Cái khái niệm địa chủ thời ấy chủ yếu mang tính giai cấp chứ không vì sự giàu có hay bóc lột. Vợ chồng, con cái người địa chủ ấy cũng hàng ngày ra đồng làm quần quật từ sáng đến tối như mọi người. Khác chăng, họ có nhiều ruộng hơn, biết lo toan, nên sống khá giả và có được ngôi nhà ngói ba gian. Họ có ba người con đi bộ đội cách mạng, một người sau này thành vị chỉ huy có tài, được gọi là "con hùm xám quốc lộ 6". Theo sách vở thì địa chủ phải độc ác lắm. Có thể nói chung như vậy thật, nhưng ông địa chủ này chẳng giống thế chút nào. Ông hiền, tốt bụng và hay giúp đỡ người khác nên trong làng ai cũng quí mến ông.

Cô bé gù làng tôi không chăn ngỗng mà chăn trâu, một việc bình thường của lũ trẻ trong làng. Ngày nào tôi và cô cũng dắt trâu ra bãi hoang Ðồng Chùa. Không phải tôi có cảm tình gì đặc biệt, mà thực tình chỉ muốn lợi dụng cô. Chả là tôi có nhiều sách, cô lại ham đọc, nên tôi cho mượn, với điều kiện mượn một cuốn, cô phải trông trâu cho tôi một tuần để tôi yên tâm đọc sách, nằm ngủ hoặc chơi lang thang đâu đó.

Từ nhỏ, vốn không hiếu động, tôi ít chơi với bọn con trai cùng các trò ồn ĩ của chúng. Tôi không "cùng tết hoa, đi dạo" hay "đọc thơ, thổi sáo cô nghe" như Mêgiêlaitis, dù lúc ấy tôi đã võ vẽ làm thơ và biết chơi đàn măng-đô-lin nhờ bố tôi dạy. Nhưng "cùng đốt lửa ngồi sưởi" với nhau thì có, và khá thường xuyên, vì bãi hoang Ðồng Chùa trống trải, mùa đông rất lạnh. Với lợi thế "có sách", tôi bắt cô làm mọi việc, coi như chuyện đương nhiên, mặc dù trong thâm tâm tôi thích cô, vì khuôn mặt đẹp, vì sự dịu dàng bẽn lẽn, và cả vì nói chuyện với cô rất thú vị. Cô không có bạn nào khác, cả trai lẫn gái. Như "cô gái gù" của Mêgiêlaitis, cô luôn mặc cảm về bệnh tật của mình, và cũng thường "qua đôi mắt rưng rưng ngấn lệ" lén nhìn các bạn cùng tuổi vui chơi từ sau cánh cửa.

Năm 1952, quê tôi phát động phong trào đấu tranh chính trị. Làng tôi là cái làng Nho Lâm được nhắc đến trong cuốn "Chuyện làng ngày ấy" của nhà văn đồng hương Võ Văn Trực viết về những chuyện kỳ cục thời đó.

Ông địa chủ tốt bụng kia bị đem ra đấu tố. Cả làng họp mấy đêm liền để đấu ông. Ðược mớm lời từ trước, ai cũng xông vào chửi rủa, đấm đá, té nước đái và cứt vào mặt ông, buộc tội ông là tay sai, là gián điệp ngầm của đế quốc. Lý do là người ta thấy trong nhà ông có mấy cuốn sách tiếng Pháp do anh con chỉ huy cách mạng từng học xong tú tài để lại. Chắc những cuốn tiểu thuyết hay giáo khoa gì đó, nhưng vì không ai biết đọc nên đương nhiên chúng phải là "tài liệu phản động".

Không hiểu sao chính những người được gia đình ông xưa nay giúp đỡ nhiều nhất lại đấu ông quyết liệt nhất và cũng đánh ông đau nhất. Cứ theo lời tố thì suốt đời họ bị thằng địa chủ Việt gian này bóc lột, bòn rút tận xương tủy! Người ta cũng bắt cô gù, lúc ấy mười tuổi, tham gia đấu tố, tất nhiên có sự chuẩn bị rất kỹ từ trước. THẾ MÀ TRƯỚC "cán bộ" và tất cả dân làng, cái con bé khốn khổ ấy lại nói ngược hết những lời được dặn.

- Ðồng chí Hồng, có phải tên địa chủ Việt gian phản động, tên tay sai đế quốc này đã bắt đồng chí làm việc hai mươi giờ một ngày, và chỉ cho ăn mỗi ngày một bát cám không?

"Ðồng chí Hồng  nhìn thẳng vào mắt người vừa hỏi, nói rành rọt từng tiếng. Ðứng lẫn trong đám trẻ tò mò chen chúc phía sau, tôi thấy hình như cô đang cố ưỡn thẳng cái lưng gù của mình.

- Không. Cháu chăn trâu hàng ngày ở Ðồng Chùa. Thỉnh thoảng nếu cậu Tục bận học bài thì cháu rửa bát. Quét nhà là việc của cháu. Cháu ăn một ngày hai bữa với cả nhà. Có hôm buổi sáng được ăn khoai luộc, cũng với cả nhà.

- Nhưng hắn luôn đánh đập đồng chí rất tàn nhẫn!

- Không, bố cháu không bao giờ đánh cháu. Ông ấy rất tốt và thương cháu...

- Không thể như thế được. Bọn địa chủ, tay sai đế quốc không bao giờ thương người, nhất là những kẻ mồ côi như đồng chí. Ðồng chí cố nhớ lại xem. Có gì cứ nói ra. Ðừng sợ. Cách mạng sẽ bảo vệ đồng chí. Rõ ràng ý thức giác ngộ giai cấp của đồng chí còn kém, lập trường cách mạng mơ hồ! Nào, hãy nói đi! Hãy nhổ một bãi nước bọt vào mặt nó đi!

"Ðồng chí Hồng" vẫn đứng im, rơm rớm nước mắt nhìn ông địa chủ bố nuôi đang bị trói quặt tay sau lưng, mặt mày thâm tím. Cô là người duy nhất dám công khai bênh vực ông. Trong khi đó đám đông giận dữ bắt đầu nhao nhao la hét:

- Ðánh dập cái lưng gù của nó đi!

- Con phản cách mạng! Tay sai đế quốc!

- Bắt nó ra đấu luôn!

- Treo ngược nó lên mà đánh!

Thấy cứ để tiếp diễn như thế sẽ bất lợi, ông cán bộ được cử từ tỉnh về chỉ đạo phong trào bèn giang tay tát mạnh vào mặt "đồng chí" Hồng, làm nó loạng choạng suýt ngã. Rồi "đồng chí" bị ai đó tức giận đá đít đuổi đi, nhường chỗ cho những người có lập trường giai cấp vững hơn.

Cô bé gù bỏ ra đồng ngồi khóc một mình. Tôi lặng lẽ đi theo. Lúc ấy tôi chưa hiểu thế nào là đấu tranh giai cấp, là tay sai đế quốc hay phản cách mạng. Tôi cũng không hiểu vì sao dân làng tôi xưa nay vốn hiền lành, chất phác mà bỗng dưng trở nên hung dữ và độc ác như vậy. Tôi chỉ biết cô nói đúng sự thật, và càng quí cô hơn vì đã dũng cảm nói lên sự thật đó.

Xét vì còn bé, lại tật nguyền nên người ta tha không đem cô ra đấu tố và đánh đập như nhiều người khác. Sợ bị vạ lây, bố mẹ tôi cấm không cho tôi chơi với cô, nhưng chúng tôi vẫn lén lút gặp nhau.

Mấy hôm sau, người ta treo ngược ông địa chủ bố nuôi cô lên cành cây, cho đốt rơm phía dưới để bắt ông khai đã giấu tài liệu đế quốc ở đâu. Nóng quá không chịu nổi, ông nhận ông là gián điệp nước ngoài và xin được thả xuống để dẫn đi lấy tài liệu mật. Ông dẫn cả đoàn người háo hức đi khắp đồng, khắp làng nhưng chẳng thấy tài liệu nào. Người ta lại đánh đập, lại treo ông lên để đốt vì tội ngoan cố, còn dám đùa với cách mạng. Nửa tháng sau ông chết vì các vết bỏng quá nặng, hai ngày trước khi có giấy ở trên gửi xuống "sửa sai" và minh oan cho ông.

Những năm cải cách ruộng đất, đồ đạc, thóc gạo và cả ngôi nhà của ông đều bị tịch thu đem chia cho nông dân. Nhà tôi cũng được chia một đôi chum rất to, bị vỡ trong lần máy bay Mỹ ném bom trúng nhà năm 1966.

Rồi mọi việc cũng dần dần đi vào ổn định. Với bà mẹ nuôi tháo vát, biết tính toán làm ăn, gia đình cô lại khá giả và lần nữa lại có thể giúp đỡ hàng xóm, kể cả những người từng đánh đập và châm lửa đốt chết bố cô. Giữa năm 1967, tất cả thanh niên làng tôi cùng viết đơn xung phong ra trận. Cả tôi, cô gái gù và Tục, con trai ông địa chủ phản động. Nhưng ba chúng tôi không được nhận. Tôi được gửi sang Liên Xô học để sau này hòa bình về xây dựng lại đất nước. Hồng vì cái bướu trên lưng. Còn Tục thì vướng "thành phần không cơ bản".  Sau này, khi chiến tranh trở nên ác liệt, Tục được nhập ngũ, và anh đã hy sinh ở Quảng Trị.

Thú thật từ ấy, do bận bịu học hành, rồi công tác, hoặc đơn giản do vô tâm, tôi ít khi nghĩ tới cô bạn gù tuổi thơ của mình. Suốt bảy năm ở nước ngoài tôi chẳng một lần gửi thư cho cô, cũng không một lời thăm hỏi. Về nước, tôi được biết cô đã là bà cán bộ phụ nữ cấp huyện, một điển hình tốt về mọi mặt, được dự đại hội chiến sĩ thi đua toàn tỉnh. Bà, và cả tôi nữa, rất vui những lần hiếm hoi chúng tôi gặp lại nhau. Bà nói ít, chỉ nhìn tôi và cười, nụ cười bẽn lẽn như ngày nào. Tôi cũng chẳng biết nói gì hơn ngoài những câu xã giao nửa đùa nửa thật mà người ta vẫn nói trong những trường hợp tương tự. Thậm chí chúng tôi không nhắc tới chuyện cũ. Chuyện tuổi thơ chúng tôi đẹp đấy, nhưng cũng buồn lắm.

Năm ngoái tôi về thăm quê đúng lúc bà mới chết ngày hôm trước, và người ta đang chuẩn bị làm lễ quàn. Hơi chút ít sững sờ, tôi vội tới để được nhìn bà lần cuối. Bà nằm đó trên giường sạch sẽ trải nệm dày bên chiếc quan tài đợi sẵn. Khuôn mặt bà vẫn đẹp, đặc biệt rất thanh thản, như suốt bao năm nay bà không hề có sự mặc cảm của người bị tật nguyền, không hề từng xẩy ra những sự kiện khủng khiếp của cái năm 52 nọ. Bà chết như một người thực sự hạnh phúc. Bà xứng đáng được hưởng hạnh phúc trọn vẹn như bất kỳ người phụ nữ bình thường nào. Nghe nói có lần ai đó đem lòng yêu thương bà, muốn hỏi làm vợ nhưng không hiểu sao bà từ chối. Sau này có người bảo suốt đời bà chỉ thầm yêu một người nhưng chẳng bao giờ nói ra. Người ấy là tôi. Ðể chứng minh, người ta cho tôi xem bà đã nâng niu cất giữ thế nào những cuốn sách tôi viết, cả những bài báo nhỏ nhất của tôi mà không biết bà gom nhặt từ bao giờ và bằng cách nào. Tuy nhiên, tôi không tin như thế, và nghĩ người ta chỉ đùa.

Còn lúc này, thắp hương xong, tôi lặng lẽ cúi đầu đứng bên bà. Ðang giữa trưa, trời u ám và có mưa lất phất. Bất giác tôi chợt nhớ bài thơ "Cô gái gù" của Mêgiêlaitis, bài thơ của ông mà cũng là của tôi.

                              ...Một tối nọ, cô nằm yên không dậy.

                              Cả trời sao sà xuống, tỏa ánh vàng.

                              Như món của hồi môn, trời sao ấy

                              Cô gái gù cho vào bướu đang mang.

                              ...Tôi cúi xuống chiếc quan tài nhỏ bé -

                              Cô nằm yên bên cửa sổ, che mình

                              Bằng tấm lụa ánh trăng thêu đẹp đẽ

                              Dính một vài ngôi sao sáng lung linh...

                              Cô gái ấy đã làm gì nên tội

                              Ðể phải mang một số phận thế này?

                              Trước cô gái tôi thấy mình có lỗi

                              Và đau buồn, và day dứt lâu nay...

                                                                                          Hà Nội, 7.4.2001

(1). Eđuarđas Mêgiêlaitis (1919 - 1997), nhà thơ lớn Litva, trước đây là một nước cộng hoà của Liên bang Xô-viết; anh hùng lao động Liên Xô, giải thưởng Lênin về văn học.

Quả báo

Không khí có vẻ lắng xuống, nhưng vì còn sớm nên chưa ai muốn về. Sau mấy chén rượu thuốc bữa tiệc mừng tân gia, mấy ông bạn già vẫn còn hăng lắm. Ít khi được gặp nhau nên họ tranh thủ nói đủ chuyện. Từ chuyện "thời xưa" họ học hành hoặc đi lính với nhau, (cái thời mà khi nhắc lại ai cũng kèm theo hai tiếng "khó khăn" nhưng "tốt đẹp", mặc dù các ông thừa biết cái thời ấy cũng khối thứ chẳng hay ho gì), đến chuyện làm ăn kinh tế "thời nay" cùng trăm nghìn loại tiêu cực của nó. Tuy nhiên nói gì thì nói, các ông vẫn phải thừa nhận một thực tế không thể phủ nhận, là bây giờ các ông sống sướng hơn xưa, nếu không muốn nói đổi đời. Bằng chứng là thỉnh thoảng vài năm một lần các ông lại được gặp nhau để mừng nhà mới cho bạn.

- Các vị có tin chuyện quả báo không? Tức là cái chuyện ân oán ở đời ấy mà? - một ông chợt hỏi, chẳng ăn nhập với những gì họ đang nói . Ông này có cái tên nghe rất kêu - Cao Lý Tưởng, mặc dù ông chỉ làm một nghề rất thực dụng là kinh doanh phế liệu, và sống chẳng có lý tưởng nào cao cả ngoài kiếm tiền. - Tôi hỏi thế là vì vừa mới đọc xong cuốn sách có nói đến chuyện quả báo. Chuyện một tên tri huyện rất gian ác thường cậy quyền thế đánh đập, tù tội dân lành. Sau cách mạng bốn lăm, hắn bị người ta trói quặt cánh khuỷu dẫn đi khắp phố huyện làm nhục, rồi bị một người tức giận quá đập vỡ đầu. Nhưng chính người đập vỡ đầu hắn sau này bị qui là phản động và xử bắn. Còn người tuyên án xử bắn anh ta thì hiện đang ốm nằm một chỗ trên giường hơn mười năm nay... Tác giả cuốn sách đó là một ông nhà văn quân đội hàm tướng cơ đấy.

- Nhà văn mà có đến cấp tướng cơ à? - ai đó ngạc nhiên hỏi.

- Sao lại không? Nước ta có hai ông như thế, còn tá thì đầy.

- Tướng nhà văn chắc phải viết hay lắm nhỉ. - Ông kia lại nói, chậc lưỡi thán phục. - Không biết những ông như Sêkhốp và Tônxtôi thì cấp gì. Bét ra cũng phải nguyên soái. Nguyên soái nhà văn!

Không ai đáp lại vì nghĩ hoặc ông ta đang giễu, hoặc ú ớ đến mức không biết hai nghề viết văn và làm tướng chẳng liên quan gì đến nhau.

- Cái chuyện ân oán ấy mà, tôi thì tôi tin, rất tin nữa là khác. - Ông chủ nhà lên tiếng. Ông là cán bộ nghỉ hưu, trước làm chân gì đó ở ủy ban quận. Ông mới được đứa con trai bên Tiệp cho tiền dựng lên ngôi nhà ba tầng trên diện tích chưa đầy ba mươi mét vuông ở tít trong ngõ này. Vốn mê tín, trước khi xây ông mời thầy địa lý chọn ngày chọn hướng, mặc dù trên mặt bằng hẹp ba bên đã xây nhà, có muốn ông cũng chẳng quay theo hướng thầy chọn. - Các cụ chả nói "Ðời cha ăn mặn, đời con khát nước" là gì. Về chuyện này, các tích tây tàu xưa nay không hiếm. Nói đâu xa, hôm nọ tôi vào bệnh viện thấy có thằng oe con bị ngộ độc phải rửa ruột. Hóa ra do hắn uống một lon cô-ca thó được trong nhà chùa. Bố mẹ hắn lu loa định bắt hãng nước ngọt Mỹ bồi thường. Người của hãng và cán bộ y tế đến kiểm tra phần nước còn lại trong hộp, chẳng phát hiện thấy gì độc hại. Thế mà hắn ngộ độc suýt chết đấy. Các bác bảo hắn không bị thần phật bắt tội là gì? Khi xây cái nhà này, tôi cũng bị mất trộm mấy bao xi măng. Tôi biết thằng nào trộm, - ông đưa mắt nhìn phía ngôi nhà hàng xóm vừa mới nhà xây xong. - Tôi tin là nhà hắn nay mai sẽ đổ vì mấy bao xi măng đó. Không thoát được đâu! - Ông nói một cách dứt khoát và tự tin, đến mức mấy ông bạn ngồi nghe cứ tưởng như nhà ông hàng xóm kia sắp sụp đến nơi, nên vô tình xịch xa bức tường thêm chút ít.

- Còn tôi, tôi chẳng tin. Ðơn giản chỉ là sự ngẫu nhiên. - Một ông khác lên tiếng. Ông này trước ở cùng đơn vị bộ đội với chủ nhà, hiện là trưởng một phòng gì đó ở sở giáo dục, và là người gần đây nhất mời mọi người đến "rửa nhà mới" như ông nói. - Cứ theo ý ông thì ắt con cháu lũ trộm cắp sau này sẽ bị người ta trộm cắp lại, còn bọn lừa đảo, tham nhũng thì sẽ thành ăn mày hết. Thực tế như ông thấy, lại chẳng vậy. Có điều chắc chắn là người làm việc thiện sẽ thấy thư thái hơn, hạnh phúc hơn, và ngược lại. Thế thôi. Nếu có gì xẩy ra thì chỉ là do ngẫu nhiên, ngẫu nhiên hết.

Cứ thế, vô tình chia thành hai phe, mấy ông bạn già tranh cãi hồi lâu về đề tài này, dù chẳng mấy hăng hái, vì cái họ tranh cãi thực ra chỉ chuyện đâu đâu, đúng hay sai chẳng chết ai. Rồi một người trong số họ quay sang một ông già từ nãy tới giờ chỉ ngồi im. Ông là chủ một cửa hàng thuốc tư nhân, trước làm dược sĩ quân y. Ông vốn được mọi người kính nể vì tính chín chắn và hào hiệp.

- Còn ý ông thế nào, ông Bảo?

- Tôi ấy à? - Ông cựu dược sĩ quân y lên tiếng với giọng miễn cưỡng của người bị bắt tham gia góp chuyện. - Tôi cũng không tin, dù từng gặp những trường hợp đáng lẽ khiến tôi phải tin. Năm kia có một gã ăn cắp thuốc ở cửa hàng tôi, về uống không đúng bệnh suýt chết. Nhưng tôi nghĩ đó chỉ do người ta mách cho hắn không phải thứ thuốc hắn cần. Ngẫu nhiên thôi chứ chẳng phải ác giả ác báo gì hết. Mới đây tôi còn biết một trường hợp nữa đại loại như thế. Nếu các vị muốn, tôi sẽ kể.

Tất nhiên mọi người muốn. Ông cựu dược sĩ quân y sửa lại thế ngồi cho thoải mái rồi bắt đầu.

                                                                      *                                         

Hắn ở khu Bách Khoa, trong căn hộ tập thể cách nhà tôi không xa. Bố hắn chết sớm, bà mẹ về hưu non. Hắn còn đứa em gái học phổ thông. Bản thân hắn chỉ học hết lớp mười rồi phải nghỉ để đi làm, sau này là trụ cột của cả nhà. Hắn làm thợ nề tự do, kiêm nghề chỉ trỏ, nếu có dịp. Có vẻ cũng kiếm được, vì em hắn vẫn đi học và hắn còn dành dụm mua được chiếc xe cúp cũ. Hắn rất ham đọc sách, sách văn học nghiêm túc chứ không phải loại kiếm hiệp rẻ tiền. Tóm lại, so với những đứa khác cùng tuổi ở đây, hắn không ÐẾN NỖI NÀO. Thế mà hắn đã vào tù một lần, mấy lần bị gọi ra đồn, và dưới con mắt chính quyền là thành phần bất hảo. Do tuổi trẻ đua đòi, quấy phá thôi, chứ bản chất hắn không xấu như tôi đã nói. Hắn bị tù vì bọn xấu rủ rê ăn cắp vật liệu xây dựng công trường bên cạnh để tiêu xài nhậu nhẹt. Mà việc này xẩy ra cũng lâu rồi. Bây giờ hắn tu chí lắm, không thấy gây gổ đánh nhau với ai. Hắn đã bước sang tuổi hăm lăm, cái tuổi phải lo làm ăn, trước để nuôi mẹ và em, sau nữa để còn lấy vợ. Có lẽ hắn thấm thía bài học mười tám tháng tù, và đang quyết chí làm người lương thiện.

Một tối nọ đi chơi khuya về, hắn phóng xe nhanh trên đường Nguyễn Khát Chân mới mở, không hiểu thế nào va phải bà công nhân vệ sinh đang gom rác trên đường. Bà kia ngã xuống đất, còn xe hắn chỉ loạng choạng chút ít. Lúc ấy trời đang mưa, phố vắng người. Hắn đã định dừng lại xem sao, nhưng rồi phóng đi luôn.  Ngã thì dậy chứ quái gì. Ðứng lại có khi thêm rách việc , hắn vừa đi vừa nghĩ, thực sự tin bà kia cùng lắm chỉ xây xát chút ít.

Ðêm ấy hắn cũng thoáng băn khuăn một tí về chuyện này, nhưng sáng hôm sau thì đã hầu như quên hẳn. Và rồi các vị biết không, chỉ hai ngày sau chính mẹ hắn bị một thằng choai choai phóng xe đánh võng húc ngã ở đường Bạch Mai khi bà đi chợ Mơ về. Lại giữa ban ngày ban mặt lúc phố đông người. Người ta hô hoán, có ông xe ôm còn phóng rượt theo nhưng nó chạy mất. Bà già bị gãy chân, đưa vào bệnh viện bó bột mấy hôm rồi về nhà, phải nằm một chỗ hàng tháng trời.

- Các vị thấy chưa! - ông Cao Lý Tưởng kêu lên, gần như sung sướng. - Ðấy, cứ bảo là không có chuỵện ân oán nữa đi!

Ông dược sĩ chờ mọi người im lặng trở lại:

      - Tùy các vị cho thế nào cũng được. Tôi chỉ kể sự việc thôi. Phải nói thêm là thằng cha tôi đang kể đây rất thương mẹ. Lại còn sợ nữa. Hắn chẳng bao giờ dám làm trái ý bà điều gì. Vì vậy dễ hiểu hắn tức giận thế nào cái thằng choai choai đâm mẹ hắn gãy chân rồi bỏ chạy ấy. Hắn thề sẽ tìm bằng được để trị tội. Hắn phác họa trong đầu kế hoạch thực hiện điều này. Tôi dám chắc nếu tìm được, thế nào cũng có án mạng.

Một hôm đang nghỉ trưa, hắn bật ti-vi đúng lúc người ta phát bài phóng sự về những nỗi cực nhọc và nguy hiểm của công nhân vệ sinh đường phố. Hắn định chuyển sang kênh khác thì chợt dừng lại vì thấy nói về trường hợp một bà quét rác bị ai đó đâm xe ngã rồi bỏ chạy, bị thương nặng phải vào bệnh viện. Tôi nghĩ có người trong số các vị đã xem chương trình này. Chỉ cách đây vài tháng thôi. Quả đúng một trường hợp rất thương tâm. Vì làm hợp đồng nên bà ta không có bảo hiểm y tế nên phải chi trả mọi khoản thuốc men và viện phí, trong khi ông chồng thất nghiệp, lại kèm theo ba đứa con còn nhỏ. Bài phóng sự nói rõ ngày giờ, địa điểm xảy ra tai nạn, cả việc hiện công an đang truy tìm thủ phạm.

Hắn lặng người khi nghe tin này. Tối đến, hắn hồi hộp chờ xem phát lại lần nữa. Sau đó, các vị biết không, hắn bắt đầu rơi vào trạng thái ta thường gọi là lương tâm cắn rứt, hối hận hay đại loại như vậy. Thì tôi đã nói hắn bản chất không phải người xấu mà. Hắn ngơ ngác không biết phải làm gì. Cùng cảnh ngộ, hắn thừa biết hắn tội lỗi và đáng bị nguyền rủa thế nào. Hắn nghĩ đến chuyện ra trình công an, nhưng liền gạt ngay ý nghĩ đáng khen đó, vì sợ phải vào tù. Vả lại, hắn không thể vào tù lúc này. Cuối cùng hắn quyết định phải bằng mọi giá giấu việc hắn là thủ phạm, và tìm cách giúp đỡ bà kia. Cách nào thì hắn chưa biết, nhưng phải giúp.

Hắn tìm đến bệnh viện và thấy bà ta thực sự đang ở trong tình trạng rất nguy kịch. Bà ta ngã nhẹ nhưng đầu va phải gờ đá vỉa hè, bị chấn thương sọ não đang hôn mê. Bên cạnh là hai đứa trẻ mười và tám tuổi vừa thút thít khóc vừa gặm bánh mì. Chiếu cố hoàn cảnh, bệnh viện tạm ứng tiền thuốc men, sẽ yêu cầu cơ quan thanh toán sau. Một tuần trôi qua mà hắn vẫn chưa biết phải giúp nạn nhân của hắn thế nào. Nếu có tiền, hắn sẽ tìm được cách đưa cho gia đình bà ta mà không bị phát hiện. Khốn nỗi tiền là cái hắn không có và hiện đang rất cần, để nuôi cả nhà và thuốc thang cho mẹ hắn. Bán xe? Không được. Hắn đang làm phụ xây tận Ðức Giang, hơn mười cây số. Mà rồi hắn biết có bán cũng chẳng được bao nhiêu. Tuần sau hắn tới bệnh viện thì nghe nói bà kia đã chết trước đó hai ngày.

Bây giờ thì hắn hoảng hốt thực sự. Hắn đã là một tên giết người. Giết người chứ không phải trộm cắp vặt hoặc gây gỗ đánh nhau như trước. Hắn nghĩ tới chuyện ân oán mà ớn lạnh dọc xương sống. Hắn sợ mẹ hắn sẽ chết. Mạng đòi mạng mà. Hắn đâm xe vào người ta, mẹ hắn bị người ta đâm xe. Nay người ta chết thì có thể mẹ hắn cũng sẽ chết. Không. Phải làm sao để chuyện này không xẩy ra. Hắn đã giết bà kia, không thể chính hắn lại giết mẹ. Hắn suy nghĩ lung lắm, luôn thẫn thờ cứ như người mất hồn. Cùng một lúc cả dằn vặt lẫn sợ hãi đang ám ảnh, thôi thúc hắn phải làm cái gì đấy.

Một cách khôn khéo, hắn đến bệnh viện dò hỏi được địa chỉ bà quét rác nọ. Ðó là một căn nhà cấp bốn tuềnh toàng sát bờ sông Tô Lịch luôn bốc mùi thum thủm. Hắn thận trọng đứng từ xa nhìn vào.

Nhà không cổng, cửa lại mở toang hoang nên hắn nhận ra ngay hai đứa bé đã gặp ở bệnh viện. Ðứa nhỏ đang khóc, không hiểu vì sao. Còn đứa lớn thì lúi húi trong bếp, khói bốc mù mịt. Bố chúng không có nhà. Thoáng nhìn, hắn biết trong nhà không có gì đáng giá. Ngay sát chiếc giường ọp ẹp là giá thờ với tấm ảnh của ngưòi xấu số và mấy que hương đã tắt. Hắn tự hỏi không hiểu ông chồng bà ta là người thế nào, nhưng đoán chắc chẳng ra gì một khi không kiếm nổi việc làm nuôi vợ con. Không khéo lại là tay cờ bạc, nghiện ngập hoặc vũ phu cũng nên. Hắn thấy tội cho mấy đứa nhỏ. Chưa chắc chúng đã được ăn hàng ngày.

Hắn ra ngồi trong quán nước gần đấy, lân la hỏi thêm cho rõ. Ðúng như hắn đoán, mấy đứa trẻ đang đói. Số tiền ít ỏi cơ quan cũ mẹ chúng giúp đỡ chẳng kéo dài được bao lâu. Cũng may ông bố không phải người xấu, chẳng nghiện ngập gì, chỉ tội hơi đần và hay đau ốm. Trước còn dựa vào vợ, nay vợ chết, đói quá phải bò đi kiếm cái ăn bằng cách nào có trời mới biết.

Vốn tìm đến đây chưa có mục đích cụ thể nào trong đầu, giờ hắn ngồi thần người, cảm thấy cái tội của hắn thật lớn. Hắn không chỉ giết chết người vợ, mà còn có thể đẩy người chồng vào con đường tội lỗi, và quan trọng nhất là bắt mấy đứa con họ phải nhịn đói. Cuối cùng hắn đứng dây. Như người mộng du, hắn lửng thửng quay lại ngôi nhà kia. Hắn cho tay vào túi quần. Còn đúng mười nghìn. Hắn mân mê mấy tờ giấy bạc nhàu bẩn trong tay, rồi bất ngờ với cả chính mình, hắn chọn lúc hai đứa bé quay mặt vào bếp, vứt tiền vào sân rồi bỏ đi. Lúc đầu hắn cố đi bình thường để khỏi gây nghi ngờ. Rồi hắn bước nhanh, dáng sợ sệt và vội vã như một tên ăn trộm.

Sau đó, tuần nào hắn cũng đến để lén lút ném tiền vào nhà người ta theo cách ấy. Tháng đầu hắn đến vào ban ngày, sau sợ lộ chuyển sang ban đêm. Chỉ phóng xe đi ngang rồi ném tiền vào. Thế thôi. Thường chỉ dăm nghìn, nhưng cũng có khi mấy chục. Hắn đoán bố con ông kia phải ngạc nhiên lắm khi mỗi sáng dậy lại thấy tiền ai "đánh rơi" ngoài sân nhà mình. Nhưng đang đói thế, chắc họ chẳng ngạc nhiên lâu.

Cuối cùng, cái phải đến đã đến. Không còn cách nào khác, hắn bán chiếc xe dẫu cà tàng nhưng vô cùng cần thiết ấy của hắn, với giá ba triệu rưỡi. Hắn chỉ dám chi một trăm nghìn mua chiếc xe đạp cũ để đi làm. Hắn để riêng một triệu giúp gia đình người kia. Còn lại hắn dành vào việc thuốc thang cho mẹ và những thứ tối cần thiết trong nhà. Tuy nhiên, sau khi bán xe, hắn cũng tự thưởng cho mình hai vại bia hơi và một bao Vina mà đã lâu hắn không dám mơ tới.

Một thời gian sau mẹ hắn lành chân và đã có thể tập tễnh ra hè phố bán thuốc lá, chè chén như trước. Hơn hai triệu đồng hắn định để dành chi dùng cho gia đình không ngờ lại hết trước số tiền hắn cất riêng cho mục đích sám hối. Nhưng tuyệt nhiên hắn không động tay lấy một đồng nào từ đấy. Vậy mà nó cũng chỉ đủ cho hắn kéo dài được mấy tháng.

Một hôm, hắn chẳng còn tiền để vứt vào nhà kia nữa. Mà hắn thì không thể ngừng việc này được, phần vì cảm thấy vẫn còn trách nhiệm giúp đỡ, tất nhiên không phải suốt đời, nhưng lâu chừng nào hay chừng ấy, phần vì hắn sợ nếu thôi, có thể mẹ hắn sẽ ốm trở lại hoặc thậm chí chết. Rủi nữa, việc làm của hắn dạo này lại hôm có hôm không, nên hắn gần như tuyệt vọng.

"Phải làm gì bây giờ?" Câu hỏi ấy cứ bám lấy hắn suốt mấy ngày liền mà không sao tìm được câu trả lời. Chợt một ý định xuất hiện. Lúc đầu chỉ thoáng qua như một sự điên rồ bị hắn xua đuổi ngay, nhưng nó cứ quay lại, mỗi lúc một rõ nét hơn. Cuối cùng thì hắn quyết định dứt khoát: Phải ăn trộm! Không còn cách nào khác.  n trộm để có tiền giúp mấy đứa trẻ kia. Ðúng thế, hắn sẽ không đụng tới một xu trong số tiền ăn trộm được vì bất kỳ mục đích nào khác, cho hắn cũng như gia đình.  n trộm một vố thật lớn rồi thôi, thôi vĩnh viễn như trước đây hắn từng thề với mình. "Ngộ nhỡ bị bắt thì sao? Thì coi như mình đi tù thay cho việc làm bà kia chết. Sẽ không khai, nhưng tự biết như thế. Ðời có ân có oán, mình làm mình chịu. Mình chịu còn hơn để mẹ chịu!"

Hắn nghĩ thế và bắt đầu các khâu chuẩn bị cần thiết để hành động. Hắn sẽ rất thận trọng, quyết không để bị bắt. Và hắn đã gặp may. Chọn đúng giờ ít ai ngờ nhất - bảy giờ tối, khi mọi người đang ăn cơm, - hắn đột nhập vào một nhà cạnh đấy được theo dõi từ trước, cậy tủ lấy gần chục triệu đồng và một cây vàng tấm còn nguyên giấy bọc nhựa trong suốt. Hắn lách ra khỏi nhà kia cũng nhẹ nhàng, chẳng bị ai phát hiện như khi vào.

Một chốc sau hắn thở dài nhẹ nhõm đạp xe đi giữa phố, thầm nhẩm tính số tiền vừa trộm sẽ giúp được gia đình nạn nhân hắn trong bao lâu, với mức trăm rưởi, vài trăm nghìn đồng một tháng chẳng hạn. Hắn không muốn đưa nhiều một lúc, dù làm thế sẽ tiện hơn cho hắn, vì sợ ông bố ngù ngờ kia cậy nhiều tiền lại hoang phí, rốt cục con vẫn không có gì ăn. "Mà dạo này sao chẳng thấy lão đi làm đâu cả. - Hắn nghĩ. - Cứ suốt ngày ở nhà chờ người ta ném tiền vào sân cho mình. Sau lần này thì phải tự lo mà sống nhé. Không ai nuôi báo cô suốt đời được đâu..."

Ðúng lúc hắn vừa đi vừa nghĩ như thế thì bỗng ai đó phóng xe máy ngang qua, quệt vào xe hắn, làm hắn ngã xuống đường. Nhẹ thôi. Chỉ xây xát chút ít ở khuỷu tay, và tự hắn đứng dậy được ngay sau đó. Người kia, một thanh niên trạc tuổi hắn, vẻ ngoài tử tế, cho xe dừng lại xem có gì nghiêm trọng không. Thấy không sao, thay cho câu xin lỗi, anh ta văng một câu: "Lần sau nhớ đi cẩn thận, con nhé!"

Từ ngày mẹ bị xe đâm, hắn đã vô cùng căm thù những tay phóng ẩu. Bây giờ nghe thế, hắn lộn ruột, vội nhảy xổ vào người kia, đấm đá túi bụi trong cơn điên khùng không kiềm chế được. Chỉ loáng sau, những kẻ hiếu kỳ đã bu kín xung quanh. Rồi công an đến, đưa cả hai về đồn.

Lúc này hắn mới nhận thấy hắn đã phạm một sai lầm nghiêm trọng thế nào. Người đâm xe được thả ngay sau vài lời cảnh cáo, còn hắn thì bị giữ lại, vì người ta thấy có vàng và tiền trong người hắn, kẻ từng có tiền án, tiền sự...

                                                       *

Kể đến đây, ông cựu dược sĩ quân y dừng lại, đưa mắt nhìn quanh một lượt rồi nói:

- Bây giờ thì các vị tha hồ mà kêu lên rằng đời này có báo ân báo oán nhé!

- Tất nhiên!  - Ông Cao Lý Tưởng hùng hổ nói. - Còn ông thì không chắc, sau khi chính ông kể câu chuyện này, một câu chuyện nghe như bịa nhưng cũng có thể xẩy ra lắm. Rồi sau đó thì sao?

- Sau đó tôi được mời ra đồn công an.

- Ông? - mọi người nhao nhao hỏi. - Sao lại dính ông vào chuyện này?

- Ðơn giản thôi, - người kể chuyện thong thả đáp, có vẻ như cố tình kéo dài để mấy người kia phải sốt ruột. - Vì hắn ăn trộm nhà tôi, là điều khiến tôi ngạc nhiên. Xưa nay hắn có vẻ quí tôi và thường qua nhà tôi mượn sách. Cũng có thể vì thế mà hắn biết tôi cất tiền ở đâu. Nếu theo cách lập luận của các ông thì tại sao tôi đối xử tốt với hắn mà lại bị hắn ăn trộm? Chính tôi cũng băn khuăn điều đó, vì như đã nói, tôi vẫn luôn nghĩ hắn là người tốt. Nên ở đồn công an, tôi yêu cầu được gặp riêng với hắn một chốc. Hắn đã thành thật kể tất cả những gì tôi vừa cho các vị biết.

- Nghe cứ như trong tiểu thuyết ấy nhỉ ? - Ai đó xen vào.

- Rồi tôi phịa chuyện nói với công an rằng hắn là cháu xa của tôi, rằng hắn tới vay tiền tôi mua xe máy nhưng vợ tôi không cho, nên mới nông nổi làm bậy, và rằng bây giờ tôi bảo lãnh, xin tha cho hắn về giáo dục trong gia đình.

- Sau rồi sao?

- Chẳng sao cả. Tôi lấy lại cây vàng, đưa cho hắn mười triệu kia để làm nốt công việc sám hối của hắn. Bảo cho vay, khi nào có thì trả. Tôi tin hắn sẽ trả, mà không trả được cũng chẳng sao. Vì cái việc ấy mà hắn dám liều mình ăn trộm để có thể bị vào tù lần nữa, thì với tôi, mười triệu đồng cũng không lớn lắm.

Ðể kết thúc câu chuyện của mình và cũng là đề tài tranh luận của mấy ông bạn già, ông cựu dược sĩ quân y nói thêm, vẻ triết lý:

- Tóm lại, tôi không tin mà cũng chẳng phủ nhận chuyện có hay không ân oán ở đời. Tôi chỉ nghiệm thấy rằng nếu mình sống ngay thẳng, làm được điều gì đấy tốt cho đời thì lòng mình sẽ thanh thản. Và đó là sự báo ân lớn nhất theo cái nghĩa các vị nghĩ. Nếu muốn, hôm nào tôi giới thiệu hắn với các vị. Dạo này hắn khá lắm. Khá lắm!

Chỉ là mụ đàn bà

Không ai biết chính xác lão từ đâu tới và tên là gì. Chỉ thấy người ta gọi là Lão Xẩm, hoặc đôi khi Lão Xẩm Chột. Xẩm là gọi theo nghề, vì lão chỉ biết có mỗi nghề duy nhất là hát xẩm để kiếm sống. Còn Chột là vì lão mù. Mù mà được gọi là chột vì lúc mới xuất hiện ở vùng này, người ta tưởng lão chỉ chột nhưng giả vờ mù. Chẳng bao giờ lão chịu bỏ cặp kính tròn đen xịt khỏi mắt nên người ta nhầm. Sau thấy lão mù thật, cũng chẳng ai đổi lại thành Lão Mù, phần vì đã quen, phần vì với một người ở địa vị lão, Mù hay Chột thì cũng vậy. Không quan trọng.

Khác những người hát xẩm xưa nay ta thường gặp, lão to khỏe, thậm chí phốp pháp. Chỉ nước lão da đen trũi, có thể vốn trời sinh ra thế, cũng có thể do phơi nắng suốt ngày và ít tắm rửa. Lão chẳng già chút nào, cùng lắm hơn bốn mươi một tý. Chữ  lão  ở đây rõ ràng không vì tuổi tác mà đơn thuần là cách gọi nhằm biểu thị thái độ.

Công bằng mà nói, từ ngày đến đây lão chẳng làm điều gì đáng trách. Tại cái tạng người lão mà người ta đâm ra khó chịu. Hàng ngày lão ra chợ huyện hành nghề. Lão hát hay, mùi mẫn, đúng khẩu vị người nghe, lại kéo nhị giỏi, thành ra cũng kiếm đủ sống qua ngày, mặc dù lão chẳng bao giờ mở miệng xin xỏ như nhiều đồng nghiệp khác. Lão cứ để chiếc mũ cối bộ đội sờn cũ trước mặt, ai cho thì lấy, không thì thôi. Chính điều này, tức là việc lão không chịu  lạy ông lạy bà cho con xin...  cũng làm không ít người ghét lão.

Lão Xẩm sống trong chiếc miếu hoang trên gò đất cao ngay sát sông Cấm. Chẳng biết ai mách mà lão tìm được nó, một nơi lý tưởng với lão - có mái che mưa nắng bằng ngói hẳn hoi, dù đôi chỗ dột. Tường miếu tất nhiên đã long lở, xiêu vẹo, nhưng điều ấy không quan trọng vì lão mù. Chợ huyện, nơi lão kiếm sống hàng ngày lại gần, cứ theo chân đê bằng phẳng mà đi, chưa đầy cây số là đến. Lâu dần, lão nghiễm nhiên thành chủ nhân chiếc miếu. Nó không còn bị gọi miếu hoang, mà là  nhà Lão Xẩm .

Tối nay, như những buổi tối mùa hè nóng nực khác, Lão Xẩm lại trải chiếu trước nhà, ngồi ngoảnh mặt về phía sông hóng mát. Lúc nào cũng vậy, cứ ở nhà là lão chỉ mặc độc chiếc quần cộc vừa ngắn lại vừa rách, để lộ cả cái mà người ta phải luôn che giấu. Nhưng lão thì không cần, vì biết chẳng có ai nhìn.  Càng mát!  lão nghĩ,  nhiều khi còn cố tình cho cả ra ngoài.

Gió nhẹ hây hây thổi. Không nhìn thấy nhưng lão biết đêm nay trăng đẹp. Trời tước của lão đôi mắt. Bù lại sự thua thiệt ấy, trời cho lão đôi tai rất thính và khả năng đoán hiểu sự việc cực kỳ nhanh nhạy. Lão sống được chính  nhờ những khả năng có một không hai ấy. Chẳng hạn lúc này lão biết chắc chắn mấy cô gái làng bên đang tắm truồng dưới sông. Ngay trước mặt lão, một người đàn ông khỏe mạnh, lại giữa lúc khao khát cái chuyện ấy nhất.

Việc này xẩy ra hầu như vào tất cả các buổi tối mùa hè. Lúc đầu lão cáu lắm, coi mình bị xúc phạm ghê gớm.  Bọn này láo thật, cứ như mình là tượng gỗ không bằng!  Khi nghe các cô cười bảo nhau  Cởi hết ra chúng mày. Lão Chột không nhìn thấy đâu mà sợ! , lão giận dữ cho hết của quí của lão ra ngoài quần, dứ dứ nó về phía các cô, lẩm bẩm:  Ðây không nhìn được nhưng làm được đấy. Làm khỏe nữa là khác! Ðứa nào giỏi, muốn thử cứ lên đây!" Tất nhiên chẳng ai lên. Nhiều hôm lúc về có cô còn tinh nghịch ném viên sỏi vào nhà lão rồi khúc khích cười, không biết cười gì. Cả những lúc như thế, lão cũng chẳng chịu che giấu cái ấy của lão. "Ðể mặc chúng nhìn, khối đứa lại chẳng thèm rỏ dãi".

Dần dần rồi lão cũng quen, nhưng vẫn ấm ức chịu cảnh trớ trêu ấy. Không biết làm gì khác, lão đem rượu ra uống, dù chẳng là người nghiện ngập. Rồi lão nghêu ngao hát, xuyên tạc những câu ca dao bình dị thành những lời tục tĩu lão phịa ra để xả bớt cái ham muốn đang anh ách dưới bụng.

Một tối nọ, cũng trong hoàn cảnh tương tự, khi đêm đã khuya và dưới sông không còn tiếng nước té, tiếng cười nói hồn nhiên của các cô gái nông thôn tắm truồng, lão bỗng nghe có tiếng động khẽ. Tiếng chân người! Tai lão rất thính. Lão biết chắc là tiếng chân người, dù lúc ấy đầu còn chếnh choáng hơi men và đang thiu thiu ngủ. "Ai  nhỉ?" lão tự hỏi, có ý đề phòng. Thực ra, lão chẳng có gì cho kẻ gian lấy trộm. Bản thân lão cũng không thuộc loại người khác có thể mưu giết. Thế mà lão vẫn thấy lo.

Hình như tiếng bước chân đang tiến lại gần, rất gần. "Ai đấy?" lão hỏi to. Im lặng. Lão hỏi lần nữa. Vẫn im lặng. Lão đứng dậy, và đang lúc quờ quạng định vào nhà lấy chiếc gậy thì tay lão bỗng chạm phải cái gì đấy âm ấm, mềm mềm, tròn tròn.

Ngực đàn bà! Lão nhận ra ngay điều ấy. Theo bản năng, lão vội rụt tay lại, định kêu lên, nhưng cũng liền lúc ấy lão kịp trấn tĩnh. Và như sợ để mất cái vừa có được, lão chìa tay về phía trước. Vẫn cái vật âm ấm, mềm mềm, tròn tròn ấy. Lão thầm ngạc nhiên vì sao người đàn bà bí ẩn kia không bỏ chạy, không kêu lên hoặc làm cử chỉ chống trả nào đấy, mà cứ để bàn tay thô kệch của lão, lúc đầu một, rồi sau hai, tự do mân mê hết đôi vú để trần, đôi vai, chiếc cổ, vành eo bụng và còn xuống thấp hơn nữa.

Như trong cơn mơ, lão ngây ngất mơn trớn khắp cơ thể lõa lồ của người đàn bà, chỉ trừ khuôn mặt, là nơi bàn tay tham lam của lão bị những ngón tay thon dài gạt ra không cho chạm tới. Chẳng cần. Lão biết phải làm gì trong trường hợp này, và đã làm điều ấy không gặp chút chống cự nào. "Làm tốt nữa là đằng khác" như có lần lão từng dọa các cô gái. Suốt thời gian việc ấy xẩy ra, người kia luôn im lặng. Lão cũng chẳng nói gì, vì sợ có thể lời nói sẽ làm hỏng mọi chuyện.

Xong, người kia vội vùng dậy bỏ đi rất nhanh, hình như chạy. Còn lão thì vẫn tồng ngồng nằm dưới ánh trăng. Mọi việc diễn ra quá bất ngờ, khiến lão đớ người hồi lâu, không biết nên nghĩ thế nào. "Hay mình đang mơ?" lão tự hỏi, tay sờ xuống bộ hạ, thấy không mặc quần và còn ươn ướt...

Lâu lắm lão mới được nếm lại mùi vị đàn bà. Suốt đêm ấy lão không sao ngủ được, tự đặt cho mình hàng trăm câu hỏi mà cuối cùng chẳng thể trả lời rành mạch được câu nào. Lão nằm ngửa, hướng đôi mắt mù lên bầu trời mà lão đoán có rất nhiều sao, những ngôi sao tuyệt đẹp. Lão thích thú tận hưởng giây phút hạnh phúc bỗng dưng trời mang đến ban thưởng cho lão.

Sáng dậy, để kiếm cái ăn, lão lại vác nhị xuống chợ như mọi ngày.

Ba hôm sau, người đàn bà ấy lại đến. Vẫn cơ thể lõa lồ âm ấm ấy. Vẫn sự im lặng ấy. Vẫn bàn tay tham lam của lão ve vuốt khắp người, và vẫn lặp lại chuyện ấy. Khác chăng, lần này lão bình tĩnh hơn, đủ bình tĩnh để kéo dài thêm những giây phút hạnh phúc của lão. Rồi sau đó, người đàn bà ấy lại vội vã lặng lẽ bỏ chạy khỏi nhà lão như trước.

Từ hôm ấy đêm nào lão cũng chờ, nhưng đúng một tháng sau người đàn bà mới xuất hiện để tự nguyện trao thân cho lão. Ba ngày sau lại đến lần nữa, rồi  biệt tăm cho tới hầu như cùng ngày của tháng tiếp.

Việc này lặp đi lặp lại trong bốn tháng liền, như theo lịch vạch sẵn. Lão lấy làm ngạc nhiên nhưng không dám hỏi, vì dù không nói ra lời, hai người như đã thỏa thuận sẽ luôn giữ im lặng. Cuối cùng lão cũng lờ mờ đoán hiểu. Lão biết sau kỳ kinh nguyệt có một quãng thời gian nào đấy người đàn bà không thụ thai được. Người kia đã chọn chính lúc ấy để đến với lão. Nhưng người ấy là ai và vì sao chọn lão thì lão chịu không hiểu nổi. Linh cảm sắc bén của lão cũng đành bất lực.

Qua bàn tay vuốt ve (trừ khuôn mặt), lão biết người này không còn trẻ, ít nhất phải ngoài ba mươi, thậm chí còn hơn. Ðiều này chẳng làm lão bận tâm. Cái thực sự lão lo lắng là đáng lẽ theo lịch, người ấy đã phải đến tuần trước, nhưng lão chờ mãi vẫn không thấy. Lão biết có chuyện không bình thường đã xẩy ra. Lão buồn. Linh tính báo có lẽ người đàn bà bí ẩn kia sẽ không bao giờ đến với lão nữa. Nhưng lão hy vọng và vẫn chờ. Ðêm nào lão cũng chờ...

Một tối nọ, đã khuya, lão ra ngồi ỉa cạnh một trong những bụi cây um tùm mọc bên sông. Vốn bụng không tốt lắm nên đêm nào lão cũng một vài lần phải làm cái việc chẳng mấy thú vị này. Ðoạn sông ở đây nước sâu, chảy xiết và mạnh, cách khá xa chỗ sông bồi nơi các cô gái làng bên thường đến tắm. Mặc dù dạn dĩ và sẵn sàng để phụ nữ nhìn thấy  cái ấy  của mình không chút ngượng ngùng, nhưng để người khác bắt gặp trong tư thế ngồi ỉa thì lão chẳng muốn chút nào. Vì thế lão mới chui vào bụi rậm, bất chấp mối nguy hiểm có thể vô ý rơi xuống sông chết đuối.

Khác với mọi lần, lần này lão phải ngồi khá lâu, cố gắng khá vất vả mà không sao trút bỏ được cái muốn trút bỏ. Ðang khi nhăn nhó khổ sở, lão bỗng nghe có tiếng động khẽ. Tiếng chân người. "Không lẽ cô ấy?" lão lo lắng nghĩ. Ngay sau đó bỗng có tiếng kêu thất thanh:

- Ðừng! Chị Tâm! Ðừng, đừng nhảy xuống sông!

Ðó là tiếng một cô gái, giọng còn trẻ như giọng trẻ con mới lớn. Lão Xẩm lặng người, nín thở, quên cả cái việc bức bách đang làm. Tiếp đến lão nghe có tiếng chân vội vã chạy ngang và dừng lại ở một bụi cây khác cách đấy không xa.

-Sao chị làm thế? Em van chị. Chị tưởng em không biết chị đang muốn tự tử sao? Mấy ngày nay em luôn theo dõi chị. Em biết. Em biết hết mọi chuyện. Biết từ lâu rồi cơ...

Có tiếng người khóc tấm tức.        

- Em nói em biết, biết hết mọi chuyện? - người định tự tử cuối cùng lên tiếng, vừa khóc vừa nói khe khẽ, nhưng vốn rất thính tai nên lão Xẩm nghe được.

- Vâng. Em biết chuyện mấy tháng nay chị đi lại với lão Xẩm. Em chồng, chị dâu mà. Và bây giờ chị có bầu. Chị xấu hổ. Chị muốn tự tử. Em biết hết nhưng không nói, vì em hiểu chị, em thương chị. Có điều em không hiểu tại sao chị chọn lão ấy chứ không phải người khác.

- Vì lão mù, không biết chị là ai.

- Nhưng sao chị cứ phải chết?

Lại có tiếng khóc. Lần này to và lâu hơn.

- Em biết hết, còn hỏi chị làm gì nữa. Em nghĩ làm sao chị có thể sống nổi khi chị, vợ bộ đội ở chiến trường, một cán bộ xã, một điển hình "trung hậu đảm đang" của toàn huyện, mà lại chửa hoang! Vác cái bụng to vượt mặt mà nhìn thẳng vào mắt mọi người được sao? Không, em thương chị thì cứ để chị chết. Chị xấu hổ lắm. Nhục nhã lắm. Chị có tội với anh trai em, với mẹ, với em. Với tất cả mọi người. Chị chẳng cán bộ, điển hình gì hết. Người ta muốn thế thì phải chịu. Chị chỉ là mụ đàn bà trời bắt thèm muốn tình cảm hơn những mụ đàn bà khác. Chị đã cố, rất cố mà không giữ được. Khốn khổ thân chị. Chị có muốn thế đâu, nhưng không sao cưỡng lại được...

- Em hiểu. Em cũng là đàn bà mà. Nhưng chị không được chết, vì cái chết của chị sẽ vô nghĩa. Chị vẫn mang tiếng xấu...

- Ðúng thế, nhưng dẫu sao chị sẽ không phải nghe người ta kiểm điểm, không phải chịu những cái nhìn khinh bỉ. Em cứ để chị chết. Chị quyết rồi. Chị nhờ em chăm sóc mẹ thay chị, sau này xin lỗi anh trai hộ chị. Có thể anh ấy sẽ tha thứ. Nếu không cũng chẳng sao. Cứ nói là chị rất yêu anh ấy, nhưng chị là người yếu đuối và đã không cưỡng lại được con quỉ tội lỗi trong người chị...

- Không. Không bao giờ! Chị phải về với em. Về ngay bây giờ! - Cô gái cao giọng một cách dứt khoát. - Sáng mai em và chị sẽ lên thành phố. Em có đứa bạn bác sĩ ở đấy. Nó sẽ giúp chị thoát khỏi cái thai kia. Em thề suốt đời giữ kín chuyện này. Nào đi! Chị đi về nhà với em! Không lôi thôi gì nữa.

Im lặng một chốc, rồi có tiếng giằng co. Cuối cùng lão Xẩm nghe tiếng chân hai người đi ngang qua chỗ lão ngồi. Cô em chồng đi trước, kéo bà chị dâu đi theo. Mãi lúc sau, lão Xẩm mới dám đứng dậy đi vào nhà. Lão bàng hoàng đến mức quên cả cái của nợ kia trong bụng.

Hai ngày sau, khi đang hát ngoài chợ huyện, lão Xẩm nghe người ta kháo nhau chuyện chị Tâm, người làng Vĩnh Yên, cán bộ phụ nữ xã Diễn Lộc, đi tắm đêm cùng cô em chồng, không may sẩy chân rơi xuống chỗ nước xoáy chết đuối. Cô em chồng thấy mà chẳng thể làm gì vì không biết bơi. Khi cô gọi được người đến cứu thì không thấy xác chị đâu nữa.

Lời nói thêm của người viết:

Anh Thoan, chồng chị Tâm  hy sinh trong đợt tổng tiến công Tết Mậu Thân 68 (một năm trước khi chị Tâm chết), nhưng mãi đến cuối năm 70 gia đình mới nhận được giấy báo tử. Bà cụ mẹ anh chết hai năm sau đó. Còn cô Vinh, em gái anh Thoan, hiện là một chuyên viên kinh tế giỏi làm việc tại một bộ quan trọng ở Hà Nội. Vì là người cùng làng, chúng tôi thường gặp nhau. Tuy không ngăn được chị dâu tự tử, nhưng cô đã giữ đúng lời hứa năm nào. Cô vẫn khăng khăng bảo tôi chị Tâm chết đuối, đúng như trong truyện tôi viết. Tôi cũng vờ tin như thế. Lần nào có dịp cùng về quê, tôi và Vinh đều ra viếng mộ anh Thoa, chị Tâm. Có lần chúng tôi còn vào phòng truyền thống xã, nơi vẫn treo tấm bằng khen trung hậu đảm đang Hội phụ nữ huyện Diễn Châu tặng chị, đề ngày 30 tháng Năm năm 1967. Dù biết hết sự thật, tôi vẫn luôn nghĩ chị xứng đáng với danh hiệu cao quí đó. Còn về lão Xẩm thì tôi không biết thêm một tí gì. Vả lại, cũng chẳng quan tâm mấy đến lão. Không phải vì ghét, đơn giản vì tôi còn nhiều việc quan trọng hơn cần làm.       

Cái chết được báo trước

Tại bệnh viện, người ta cho biết ông bị bệnh ung thư gan và chỉ còn sống được sáu tháng nữa, nhiều nhất là tám. Thông báo này chỉ được đưa ra sau khi bệnh nhân nằng nặc yêu cầu cho biết sự thật. "Tôi là người có nghị lực. Xin thế nào cứ nói thẳng. Tôi sẵn sàng đón nhận tất cả!"

- Vâng, đó là tất cả sự thật mà tôi, với tư cách một bác sĩ, một chuyên gia đầu ngành như người ta vẫn gọi, có thể cho anh biết. Theo yêu cầu của anh. - Vị giáo sư già người khô héo, khuôn mặt nhọn với cặp kính tròn sệ xuống tận đầu mũi, nói. Và ông lắc lắc đầu ái ngại nhìn bệnh nhân, một người đàn ông mới khoảng bốn mươi, to béo, thậm chí da dẻ hồng hào.

- Thật không còn cách nào nữa sao, thưa bác sĩ ?

- Với những trường hợp như anh, tạm thời khoa học còn bất lực. Tất nhiên  có thể chạy hóa chất, dùng các loại biệt dược, nhưng cũng khó lâu hơn cái thời hạn tôi đã nói. - Vị giáo sư đưa tay nâng kính lên, nhưng ngay lập tức nó lại tụt xuống vị trí cũ. - Với  người khác, chúng tôi thường giấu để họ được sống thanh thản quãng thời gian còn lại. Nhưng vì anh... anh là người có nghị lực... Tôi hy vọng anh sẽ vượt qua được cú sốc này. - Rồi ông chìa bàn tay cũng khô héo của mình về phía trước.

Bệnh nhân, một chủ thầu xây dựng đang phất, trước là kỹ sư công trình làm công ăn lương cho nhà nước, sau bỏ biên chế ra làm ngoài. Trong giới ai cũng biết ông, vì ông thành đạt, có thế lực, và cũng vì ông ranh ma, keo kiệt, gian dối và đủ các mánh khóe mà chỉ những người trong nghề mới hiểu.

Ông bàng hoàng bước ra khỏi bệnh viện. Ðầu óc trống rỗng, chỉ thoáng chút ngạc nhiên về sự trớ trêu của cuộc đời, rằng người vừa tuyên án ông, vị giáo sư gầy đét chỉ còn da bọc xương kia lại có thể sống lâu hơn ông vốn xưa nay chưa hề biết bệnh tật là gì. Chết đúng lúc đang ở thời kỳ sung mãn nhất cả về thể lực lẫn công việc làm ăn.

"Có số cả. Trời bắt ai, người ấy chết, cưỡng sao được!" ông nghĩ, mặc dù chẳng tin trời phật và số phận. Về nhà, ông uống một lúc hai viên thuốc ngủ, định làm một giấc thật dài, thật say rồi tính sau.

                                                                     *

Người ta nói: Tính cách con người bộc lộ vào những giờ phút gay go nhất của cuộc đời. Ðiều này đúng với ông, người chủ thầu xây dựng chỉ còn vẻn vẹn sáu tháng nữa để sống. Rõ ràng lời tuyên bố của vị giáo sư mà ông không mảy may nghi ngờ đang tạo nên trong ông một sự thay đổi lớn. Thay đổi theo chiều hướng tốt. Chả là xưa nay, đúng như người ta nhận xét, ông không là mẫu người tốt để làm gương, nếu không muốn nói ngược lại.

Sinh ra trong một gia đình nông dân nghèo mồ côi cả cha lẫn mẹ, từ nhỏ ông phải làm trẻ bụi đời lang thang ở thành phố. Cũng lạ là hoàn cảnh ấy đã không biến ông thành tên tội phạm, dù ông có đủ tố chất để thành hạng người như vậy: gan lì, táo tợn, hận đời và ranh ma. Thay vào đó, ông hướng những đặc tính ấy vào một mục đích khác hiền lành hơn, là kiếm tiền, kiếm thật nhiều tiền. Ðể trả thù đời bắt bố mẹ, ông bà, tổ tiên ông và cả chính ông phải luôn nghèo đói. Thế là bằng mọi cách, cả hợp pháp và không hợp pháp (nhưng chưa bao giờ đến mức phải vào tù), từ đứa bé không nơi nương tựa, ông khôn khéo xin được vào một trại mồ côi, học hết phổ thông, làm đủ nghề để kiếm sống, rồi tốt nghiệp đại học tại chức, đút tiền xin chân biên chế trong một viện nghiên cứu và cuối cùng, khi kinh tế bung ra, ông trở thành chủ thầu xây dựng và phất lên từ đó.

Tiền bạc chảy vào nhà ông ngày một nhiều, nhiều đến mức chính ông đôi khi cũng phải ngạc nhiên. Nhưng ông chưa thấy đủ mà cứ muốn kiếm thêm nhiều, thật nhiều nữa. Tiền là ma lực không thôi ám ảnh ông, dường như là mục đích sống duy nhất. Vì thế mà ông nổi tiếng keo kiệt, với người khác và cả với chính mình. Cũng vì mải làm giàu mà đến nay ông vẫn độc thân, sinh hoạt hết sức đơn giản, không có khái niệm giải trí, không nghiện bất kỳ một thói xấu tốn tiền nào, thậm chí cả bia rượu, thuốc lá. Hàng ngày ông ăn cơm bụi như đám công nhân ông thuê làm. Vì ranh ma, ông luôn tránh không dính vào pháp luật, và đã thành công dù không phải những gì ông làm đều hoàn toàn hợp pháp. Cứ thế, ý thức và không ý thức, ông bị cuốn đi trong cơn lốc kiếm tiền hết năm này đến năm khác. Chắc cơn lốc ấy sẽ còn kéo dài nữa, nếu không có cái vụ ung thư oái oăm này.

Vậy là bây giờ, như người đang chạy nhanh bỗng va phải bức tường đứng khựng lại, ông  ngơ ngác không biết làm gì với quảng thời gian ngắn ngủi còn được sống, với số tài sản có thể gọi kếch sù của ông, gồm bốn ngôi nhà lớn, trong đó có hai ở phố chính mặt tiền rộng, và hơn ba tỉ đồng tiền mặt, chưa tính những khoản đang chờ bàn giao công trình mới thanh toán.

                                                                    *

Mấy hôm sau, khi ít nhiều bình tĩnh trở lại và trong đầu đã hình thành một số dự định dẫu còn mơ hồ, ông rủ một thuộc hạ đến nhà hàng Bistro thuộc loại xịn nhất trong thành phố.

- Tớ chi. - Ông nói khi anh kia tỏ ý ngạc nhiên. - Thì sống cũng phải hưởng thụ chứ. Cậu biết rồi đấy, có thể nói xưa nay tớ chưa sống chút nào. Có chăng chỉ là cuộc sống chó má. Suốt đời hùng hục kiếm tiền như thằng điên. Mà thử hỏi để làm gì? Chết có mang theo xuống mồ được không?

Anh kia, một người cũng trạc tuổi ông, mặt nhọn và choắt như mặt chuột, thái độ xu nịnh không che giấu, vội xuýt xoa kêu lên:

- Ông anh nói chí phải, chí phải. Nhiều tiền như anh mà không hưởng lạc thì thật phí. Thật phí. Nếu anh muốn, em sẽ hết lòng giúp anh. Khoản này thì anh phải gọi em là sư phụ. - Rồi hắn bỗng im lặng, vẻ tư lự: - Mà sao bỗng nhiên ông anh có được cái ý nghĩ tuyệt vời này nhỉ?

- Chẳng sao cả. Ðến lúc thích thì chơi, thế thôi.

- Ðúng! Thích thì chơi. Ðời sống được mấy. Hay bây giờ ông anh mới bắt đầu sợ chết non không được hưởng lộc đời? Ðã thế, theo em ông anh nên lấy vợ đi. Có vợ cũng rách việc lắm, nhưng suy cho cùng không thể không có, nhất là anh...

- Nhảm nhí. Vợ con gì. Nào, ta đi.

Tối hôm ấy ở nhà hàng Bistro, anh mặt chuột tranh thủ ăn uống đủ thứ đắt tiền, thầm ngạc nhiên không hiểu cớ gì một người nổi tiếng keo kiệt như ông chủ lại bỗng dưng hào phóng với cánh đàn em như hắn.. Còn ông thì lặng lẽ khinh bỉ nhìn hắn. Không chỉ vì bản chất tiếc tiền cố hữu chợt thức dậy khi ông giật mình liếc nhìn bảng giá, mà vì cái cách hắn ăn, cách hắn xu nịnh, vì cả cái mặt chuột của hắn. Ðược cái hắn trung thành, giỏi việc và là một tay chân đắc lực nên ông mời hắn, coi như trả công cho bao năm tận tụy. Ông ăn uống không thấy ngon vì nó khác những thứ bình dân xưa nay ông đã quen. Cái không khí sang trọng, sạch sẽ và yên tĩnh ở đây cũng làm ông thấy lạc lõng. Còn anh kia thì khi ra về đốp luôn:

- Ở đây chán bỏ mẹ. Nhà hàng Tây nên đếch có em út nào. Phí tiền! Lần sau em dẫn anh đi. Hết ý. Anh phải thử cho nó biết! Cả nước này em thấy anh là một đấy. Tiền tỉ mà chẳng biết ăn chơi chút nào. Em nói anh đừng giận: Không bằng thằng nhà quê. Tại ông anh tiếc tiền hay không thích?

- Cả hai.

Hôm sau, dù không chút hứng thú, ông vẫn theo anh chàng mặt chuột và hai người bạn cũ đi ăn ở "nhà hàng ta, có dịch vụ từ A đến Z". Cũng là để cho biết kẻo phí.

Các nơi khác người ta phải trương biển thật to, đèn thật sáng để câu khách, nhưng nhà hàng họ vào tối ấy thì như cố thu mình lại. Với tấm biển xộc xệch có hai chữ "Ðặc sản" rất mập mờ, nó nằm trong một ngõ hẻm thuộc khu phố "điểm nóng xã hội". Lần này được giao toàn quyền đạo diễn nên gã mặt chuột xăng xái đi đầu với vẻ rất sành điệu. Hắn thì thầm câu gì đó với chủ quán, một lão béo đen trũi đầu hói nhưng bộ râu lại rất rậm, mặc quần xoóc lửng và áo phông màu cháo lòng.

Ngay lập tức có bốn cô gái trẻ đi ra, đều mặc váy dài bó có màu khác nhau, xẻ cao quá gối, cổ sệ thấp và hai cánh tay trần. Cô áo đỏ, xinh và trẻ nhất, được bố trí phục vụ ông, có lẽ vì người ta biết ông là người chủ chi hôm nay. Cô ta hôn đánh chụt một cái vào má ông, mùi son phấn sực nức. Rồi các cô dẫn khách vào một căn phòng chỉ độ mười mét vuông, tối tù mù, không bàn ghế, chỉ có bốn chiếc thảm mỏng trải sẵn từ trước.

- Ông anh của anh đây là khách mới, xộp lắm đấy, các em nhớ mà chiều cho khéo nhé. - Gã mặt chuột nói như ra lệnh. Rồi như thể làm gương cho ông bắt chước, hắn nửa nằm nửa ngồi, tựa vào tường để cô gái của hắn ngồi lên đùi, còn tay hắn thì bắt đầu thô bạo lần khắp cơ thể cô ta. Hai người kia cũng làm theo. Chỉ có ông là vẫn ngại ngần đứng yên.

Liền sau đó các em khác của nhà hàng bê vào mấy khay đầy đồ uống. Bốn cô áo dài xinh đẹp thi nhau bật nắp tanh tách. Ông nhẩm đếm có hai chai rượu ngoại, hơn chục lon bia, chục lon nước ngọt, hai bao thuốc lá và vô số các gói thức ăn nhẹ.

- Các anh khai vị đi! - cả bốn cô nói gần như đồng thanh, và cũng gần như  cùng một lúc rót rượu đưa lên tận miệng khách, sau khi đã dùng khăn ấm lau sạch mặt mũi cho họ. Cứ như khách là những đứa trẻ đang ốm nặng được các cô dỗ uống thuốc đắng.

- Anh không thích em à? - cô áo đỏ ỏng ẹo nói khi thấy ông ý tứ không cho  ngồi lên đùi.

- Ờ ... thích. Thích chứ, - ông lúng túng đáp.

- Thế sao không yêu em đi, hoặc để em yêu?

Ông chưa thật hiểu "yêu" nghĩa là gì. Rất thành thạo và tự nhiên, cô ta luồn tay vào cổ ông ve vuốt, sau đó xuống nữa, xuống sâu nữa...

- Thôi, khoan đã, để sau! - Ông nói, hơi ngạc nhiên và khó chịu.

Gã mặt chuột từ chiếu bên nói vọng sang:

- Ông anh chưa muốn thì hẵng chờ. Ngu thế. Hay ông anh không thích nó thì ta đổi cho nhau?

Tất nhiên đây không phải lần đầu ông vào các nhà hàng kiểu này. Công việc đôi khi vẫn bắt ông mời hoặc nhận lời ai đó đi chiêu đãi. Nhưng mức độ trơ trẽn và trắng trợn như ở đây thì quả ông chưa quen, do vậy ông thấy ngượng, gần như  bị xúc phạm. Ông đi ăn nhậu chứ đâu phải vào nhà thổ? Tò mò, ông quyết định ngồi yên xem chuyện gì xẩy ra tiếp theo.

Tiếp theo, người ta mang vào các món mặn đủ loại, đủ kiểu. Cũng với ý định làm mẫu cho người khác bắt chước, gã mặt chuột há to mồm để cô gái của hắn bón từng miếng thức ăn nhỏ, sau mỗi lần lại lấy khăn ướt lau cẩn thận. Hai tay hắn vẫn luôn đâu đó dưới bộ quần áo mỏng của cô ta. Hắn có vẻ thích lắm, đôi mắt lươn lim dim tận hưởng. Hai người bạn kia của ông cũng bắt đầu làm theo, tự nhiên và thạo việc. Hình như không ai ngượng ngùng, xấu hổ, dù chỉ chút ít hoặc giả vờ. "Thật bỉ ổi, thật bẩn thỉu!"

- Thằng Khánh ra đây tao bảo! - ông đứng bật dậy, bước mạnh ra khỏi phòng. Cô áo đỏ giật mình, làm rơi cốc bia xuống sàn nhà.

- Mày làm cái trò gì vậy? - ông quát gã.

- Dạ, em không hiểu. - hắn khúm núm, ngơ ngác nói. - Em ăn. Như mọi người cả thôi. Vâng, chắc tại ông anh chưa quen kiểu này. Bây giờ ở đâu cũng thế cả...

- Tởm!  Thế thì vào mà ăn tiếp theo cái cách của mày đi ! Tởm! Tao ra ngoài chờ. Tao sẽ thanh toán. Ðừng lo.

Rồi ông cương quyết bỏ đi. Thằng Khánh chạy theo, nói khẽ:

- Hay ông anh đã muốn "chuyện ấy" rồi? Thế thì mời lên tầng trên. Vô tư đi.  Hoặc ngay phòng đang ăn cũng được...

Ông quắc mắt giận dữ, khiến hắn vội im bặt. Lão béo chủ quán lo lắng hỏi có chuyện gì, nhưng ông bảo không sao, chỉ muốn ra ngoài một tí cho thoáng. Lát sau ông nghe tiếng lão quát to và tiếng thút thít của cô áo đỏ. Ði ngang qua mấy phòng khác, ông cũng gặp những cảnh "ăn uống" như thế. Ông cảm thấy buồn nôn thực sự.

"Ðúng thật mình là thằng nhà quê, chẳng biết gì về các kiểu ăn chơi bây giờ", ông thầm nghĩ. "Nhưng thế thì tởm lợm quá!" Trước đây ông cũng đọc báo hoặc nghe kể nhiều chuyện tương tự, nhưng vì mải làm ăn, vì không quan tâm, nên chỉ lờ mờ hình dung mà thôi. Coi như chuyện của người khác. Nhu cầu của ông không nhiều. Nhu cầu sinh lý cũng chẳng bao giờ trở nên quá thúc bách, phần vì tạng người ông thế, phần vì quá bận, và cả vì ông không muốn "phí tiền vô bổ cho những trò ấy". Những gì ông vừa chứng kiến rõ ràng không còn đơn thuần là ăn nhậu hay thậm chí hành vi mua bán dâm bình thường, mà là một sự đồi bại về đạo đức, một sự xúc phạm nhân phẩm. Ông là thằng cầu bơ, cầu bất thật đấy, hồi bé có lúc phải ăn cắp để kiếm sống, lớn lên dùng mọi thủ đoạn kiếm tiền, nhưng với tư cách là con người, ông chưa bao giờ cho phép hạ thấp mình đến mức ấy.

Thằng Khánh đã đành, còn hai ông bạn cùng học đại học ông mời hôm nay thì sao? Một người là giáo viên đại học, người kia là cán bộ văn hóa thành phố. Sau một đêm "ăn uống" kiểu ấy, sau khi bỏ tiền mua một cô gái kiểu ấy trên tầng hai hay ngay tại phòng ăn theo kiểu bầy đàn ấy, không lẽ ngày mai họ có thể thản nhiên trở lại làm giáo viên đại học và cán bộ văn hóa như không hề có gì xẩy ra? Không lẽ cả xã hội đã "hiện đại" và "mở cửa" đến mức những trò như thế trở thành bình thường và không còn bị lên án, nhân danh tự do cá nhân, nhân danh đổi mới? Mà thành phố này đâu chỉ có nhóm bốn người của ông đêm nay, đâu chỉ có một nhà hàng này? Ông biết các tế bào ung thư đang âm ỉ tấn công và sắp hủy diệt cơ thể khỏe mạnh của ông. Phải chăng những con người này, những nhà hàng ổ chứa trá hình này không phải là những tế bào ung thư đang hủy diệt dần đạo đức xã hội? Ông được sống sáu tháng nữa, còn xã hội thì bao lâu?

Ông ngồi xuống chiếc ghế xa-lông kê trong góc phòng ngoài, mà ở những nơi khác gọi là phòng lễ tân. Nó chẳng đến nỗi nào. Sạch sẽ, bài trí đẹp, chỉ hơi chật và tối. Lão béo đang ngồi sau quầy, vẻ yên tâm hơn vì biết sẽ được thanh toán.

- Có gì ông anh bỏ quá cho. Các em chúng nó chưa có kinh nghiệm, - lão nói rồi cười cầu tài. Tiếng cười như bị kẹt giữa tiếng thở phì phò nặng nhọc.

Vì không biết hút thuốc, lại thấy cái gì nghèn nghẹn trong cuống họng, ông hỏi xin một cốc nước lọc. Bê nước ra cho ông là một cô gái rất trẻ, hay đúng hơn còn là một đứa bé, trạc mười sáu, mười bảy tuổi, gầy, khuôn mặt dễ coi với dáng điệu của người nông thôn đang tập làm sang nhưng hơi vụng. Tuy nhiên, cô còn giữ được cái gì đấy chân chất, ít ra chưa đến mức trắng trợn khó chịu như mấy cô lúc nãy. Ðặc biệt cô có đôi mắt buồn. Cơ thể chưa phát triển hết của cô cũng toát ra cái buồn ấy. Không phải cái buồn tư lự của cô gái đau khổ vì đời, vì tình, mà là cái buồn của một đứa trẻ bị bắt làm những việc nó không muốn. Ông nhận ngay ra điều ấy. Bao năm lăn lộn trong đời giúp ông có được cách đánh giá nhanh và chính xác về người khác.

- Cháu cũng là nhân viên ở đây à? - ông hỏi, không gọi "em", mà "cháu".

- Dạ vâng.

- Sao không tiếp khách?

- Vì không đến lượt... - cô ngập ngừng không biết nên xưng hô thế nào. - Vì không đến lượt em. Chỉ lúc nào thiếu người, em mới được gọi. Em vụng lắm.

Ông mời cô ngồi. Cô rụt rè làm theo. Phía quầy rượu có tiếng lão chủ e hèm như nhắc điều gì.

- Anh mời em uống rượu nhé? - cô lí nhí nói.

- Cháu biết uống rượu à?

Cô cúi  mặt không đáp. Nhưng ông hiểu.

- Mang cho tôi chai rượu! - ông gọi to. Lão béo vội mang đến ngay một chai rượu mạnh. Tất nhiên đồ ngoại và loại đắt tiền. Lão xun xoe rót rượu vào hai chiếc ly lớn, nhưng không ai chạm tay vào.

- Tên cháu là gì?

- Dạ, Mỳ ạ. Nhưng ở đây người ta bắt đổi thành Ngọc. Thúy Ngọc.

- Cháu bao nhiêu tuổi?

Cô bé ngập ngừng một chốc rồi đáp, mặt đỏ ửng. Rõ ràng cô chưa quen nói dối.

- Mười tám.

- Mười lăm hay mười sáu?  - ông nhìn thẳng vào mắt cô.

- Dạ... mười sáu. Sắp mười bảy.

- Cháu quê ở đâu?

- Cháu ở Nông Cống, Thanh Hóa.

- Sao không ở nhà đi học lại đến đây?

Mỳ không đáp. Hình như cô đang hoặc sắp khóc.

- Cháu ở đây bao lâu rồi?

- Dạ, ba tháng.

- Tiền công thế nào?

- Không có tiền. Chỉ cho ăn và ngủ. Thỉnh thoảng được ít tiền "bo", nếu gặp khách tốt.

Ông ngồi nói chuyện với Mỳ khá lâu, nói khẽ chỉ đủ nghe, vì biết lão béo sau quầy rượu đang theo dõi họ.

Mỳ đã kể ông nghe hoàn cảnh của mình. Nhà cô có bảy chị em, cô là chị cả. Sau cô còn hai em gái, rồi đến hai em trai. Ðứa thứ sáu lại con trai, và đứa út là con gái, còn rất nhỏ. Cả làng đều nghèo chứ không riêng nhà cô. Và cũng cả làng theo nhau cho con lên thành phố kiếm sống bằng đủ nghề khác nhau. Con trai lớn thì làm cửu vạn, thợ xây dựng theo mùa, bán hàng rong hoặc ai thuê gì làm nấy. Con gái đi buôn, làm ô-xin, phần nhiều làm "nhân viên nhà hàng" như cô. Bọn nhỏ hơn thì đánh giày, bán báo, ăn cắp hoặc làm trẻ lang thang bụi đời để nhà nước cho vào đâu đó, được ăn hàng ngày, được học và cấp quần áo. Bố cô máu mê cờ bạc, lại nghiện rượu nên thường đánh mẹ và chị em cô rất đau, nhất là khi trong nhà không có tiền. Mà nhà thì chẳng bao giờ có tiền. Chỉ mình cô học hết lớp tám, còn lại đến lớp năm là cùng. Có đứa chẳng bao giờ đi học. Việc này ở làng cô cũng chuyện thường. Cách đây ba tháng, bố cô bắt cô theo một bà nào đó ra Hà Nội, nói để xin làm chân quét dọn ở cơ quan, nhưng lại đưa đến đây. Hôm đầu bị ép "tiếp khách", (cô đã bị lão chủ đánh khi định từ chối) người ta bảo cô được hai triệu, nhưng số tiền ấy đã đưa trước cho bố cô ở nhà, không biết có đúng thế không. Cô tưởng mỗi lần "đi khách" được chừng ấy tiền, nhưng những lần sau người ta không cho gì. Cũng không được đi đâu nếu ông chủ không đồng ý. Tất cả ở đây đều thế. Sau này bạn cùng làm cho cô biết đấy là tiền bán trinh, và như thế là rẻ. Cô nhiều lần định  bỏ trốn nhưng không biết đi đâu. Về nhà thì không dám vì sợ bố đánh. Cô biết hai thằng em trai cũng đang ở Hà Nội, nhưng không rõ chúng đang ở đâu và sống bằng gì...

- Hóa ra làng cháu là nơi cung cấp trẻ lang thang cho thủ đô Hà Nội? - Ông  nhếch mép cười.

- Không riêng làng cháu. Bây giờ đang có phong trào như vậy. Cứ tống hết trẻ con lên thành phố. Gia đình không phải nuôi, lại được nhà nước cho ăn học sướng hơn ở nhà. Bố cháu bảo sẽ cho chị em cháu đi hết. Càng sớm càng tốt.

Ông biết các cô gái làm nghề này thường phịa rất giỏi hoàn cảnh khó khăn của mình để moi tiền khách. Câu chuyện mùi mẫn này của cô quen quen như đã nghe đâu đó. Nhưng lần nữa, với sự nhạy bén vốn có khi đánh giá người khác, ông tin cô nói thật. Im lặng hồi lâu, ông hỏi:

- Cháu bảo cháu muốn trốn khỏi đây?

- Vâng.

- Và cháu không dám về nhà vì sợ bố đánh?

- Vâng. Bố cháu hay đánh lắm. Nhưng nếu nhà có tiền thì bố cháu lại rất hiền.

- Nhà cháu có ruộng không?

- Có, nhưng đất xấu, không đủ ăn.

- Nếu bây giờ chú giúp đưa cháu về, cháu nghĩ sao? Chú sẽ có cách làm bố cháu không đánh và không bắt cháu ra đây nữa.

- Cháu sợ không được đâu, - Mỳ nói rất khẽ, đưa mắt ra hiệu về phía lão béo.

- À, chú hiểu. Nhưng nếu chú lo được cả chuyện ấy và đưa cháu về, thì cháu đồng ý chứ?

Cô gái gật đầu. Ông đứng dậy, đi lại gần lão chủ quán:

- Tôi muốn đưa cô bé này đi...

- Ông anh tinh lắm. Nó ngon lắm đấy. Mới toanh. Hương đồng gió nội trăm phần trăm! - lão nói, và lại cười nhăn nhở.

- Không, không phải chuyện ấy. Tôi muốn đưa nó đi hẳn.

- Ði hẳn? Nhưng nó là nhân viên nhà hàng này... Tạm thời chưa được việc, nhưng rồi sẽ quen. Phải vất vả lắm tôi mới kiếm được nó...

Ông mở ví, rút ra ba tờ giấy bạc loại một trăm đô-la.

- Thì tôi đền cho ông. Chừng này đủ chưa?

Lão chủ quán thầm ngạc nhiên vì sự hào phóng của ông khách kỳ cục. Hắn muốn vòi thêm, nhưng sợ không khéo sẽ mất cả chì lẫn chài, nên làm ra vẻ luyến tiếc nói:

- Thôi được. Tôi chiều ông anh. Nhưng ông anh định làm gì với nó? Nếu không tiện trả lời thì thôi.

- Ðưa về quê trả lại cho bố mẹ nó. Chỗ của nó không phải ở đây.

- Ðúng, đúng thế. Ông anh thật hào hiệp. Chính tôi cũng nghĩ môi trường ở đây không thật lành mạnh đối với cháu. Ông anh thấy đấy, tôi có bắt cháu tiếp khách bao giờ đâu. Tôi luôn...

Ông ra hiệu không muốn nghe thêm. Sau này Mỳ cho ông biết rằng sau lần bán trinh, chính hắn là người đầu tiên ngủ với cô, suốt mấy ngày liên tục cho đến lúc chán "của lạ" mới thôi. Còn thì thỉnh thoảng, khi muốn, hắn vẫn bắt cô, cũng như tất cả các "nhân viên" khác ở đây phải chiều hắn. "Thằng khốn nạn!" - Ông thầm nghĩ, rồi thanh toán bữa ăn (một món tiền lớn mà trước đây chắc ông phải xót lắm). Ông bảo Mỳ chuẩn bị đồ đạc, và đưa cô về nhà ông.

Ông dẫn cô vào căn phòng đầy đủ tiện nghi trong một biệt thự mới xây, dặn sáng mai dậy sớm để về Thanh Hóa. Chưa hết ngỡ ngàng vì mọi chuyện diễn ra quá nhanh chóng, đột ngột, Mỳ tắm rửa, thay quần áo và lên giường nằm. Cô đoán chỉ lát nữa người đàn ông tốt bụng nhưng hơi kỳ lạ kia sẽ quay lại. Cô đã là đàn bà và biết đàn ông cần gì ở đàn bà, nhất là những người đang trong hoàn cảnh như cô.

Nhưng ông không quay lại. Sáng hôm sau hai người lên lên ô tô về quê cô Mỳ.

                                                                      *

Những điều Mỳ kể đều đúng sự thật, trừ việc nhà cô có tám chứ không phải bảy chị em, vì bà mẹ mới sinh đứa nữa. Một bầy nhếch nhác, bẩn thỉu như ngôi nhà tranh chúng đang sống. Anh bố tuổi chỉ bằng ông hay ít hơn, lúc ấy đang lè nhè chửi ai đó. Hắn có bộ mặt và dáng điệu chẳng nhà quê chút nào. Nhất là đôi mắt. Ðỏ ngầu, độc ác và tinh quái. Ðôi mắt của một thằng đểu. Hắn ngạc nhiên khi thấy cô con về cùng một người ăn mặc lịch sự và ra giáng ông chủ, lại bằng ô tô. Nếu cô về một mình, chắc hắn đã chửi rủa, bắt đưa tiền ngay. Nhưng bây giờ, dẫu đang say, hắn cũng lờ mờ đoán có chuyện quan trọng. Chuyện tốt lành.

- Ôi, con về đấy à? - Hắn vội chạy ra, nói như hát. Chỉ còn thiếu việc ôm hôn con trước mặt khách. - Mời bác vào chơi. Mời vào. Chết, nhà cửa lộn xộn quá, bác bỏ quá cho. Còn chúng mày đi chơi! - Hắn quát lũ trẻ con hắn, nhưng chúng chỉ lùi ra một chút, tò mò đứng nhìn. - Thế nào con? Công việc làm ăn thế nào? Sao chẳng thư từ, tin tức gì cho bố mẹ cả? - Rồi hắn quay sang khách nói một thôi như sợ bị ngắt lời: - Bác biết đấy, dân quê chúng em vất vả, quanh năm quần quật ngoài đồng mà chẳng đủ ăn, nên đành phải đứt ruột để cháu đây ra thành phố kiếm thêm chút tiền giúp đỡ gia đình. Em nghe nói ngoài ấy tiêu cực nhiều lắm, nhưng được cái cháu nó ngoan nên ở nhà chúng em cũng yên tâm. Hai cháu gái tiếp nó em cũng định sắp tới cho ra ngoài ấy cho có chị có em. Chúng nó ngoan và chịu khó lắm. Xa chúng, em thương lắm, nhưng mà trước sau cũng phải cho đi thôi. Vì tương lai của các cháu mà. Chứ bác tính, ở nhà chân lấm tay bùn chúng sẽ khổ suốt đời...

Ngồi trên chiếc chõng ọp ẹp, bê bát nước vối đục ngầu mà hắn cứ ấn vào tay, ông nghe hắn kể lể, vừa sốt ruột vừa ghê tởm. Cuối cùng, ông ngắt lời khá sỗ sàng, làm hắn chưng hửng:

- Thôi, không cần nói nữa. Tôi hiểu hết rồi. Anh đã nhận được hai triệu đồng tiền bán trinh con gái anh chưa?

- ẤY chết, bác nói gì vậy? Sao một người bố như tôi có thể làm cái điều thất đức đó?

- Tôi đã biết hết mọi chuyện. Do vậy tôi mới về đây. Ðừng lo, không phải để bắt anh đâu. Ngược lại, tôi có ý định giúp gia đình anh. Thế nào, anh nhận tiền rồi phải không?

Thấy khách có vẻ cương quyết, lại bảo còn giúp đỡ, hắn đành chống chế:

- Chỉ triệu rưỡi thôi chứ không phải hai triệu. Tiền người ta ứng trước lương cho cháu Mỳ... Phải thế không con? À mà bác đây là người thế nào với con đấy nhỉ?

- Chẳng thế nào cả. Tôi chỉ muốn cứu cô ấy khỏi cái nơi tội lỗi anh đã đẩy con gái anh vào. Thế này nhé. Tôi sẽ giúp gia đình anh mười triệu đồng, với điều kiện anh chí thú làm ăn như mọi người và không bắt các con anh ra thành phố nữa. Vì sao thì anh thừa biết. Số tiền ấy tôi sẽ bảo cô Mỳ gửi tiết kiệm, chỉ khi thật cần mới lấy ra, mà cũng từng ít một...

- Ôi, bác thật quí hóa! Thật quí hóa! - hắn rên lên vì sung sướng khi nghe nói đến số tiền lớn như vậy. - Em sẽ chí thú, rất chí thú làm ăn. Và không một đứa con nào của em phải lang thang kiếm sống ở cái đất Hà Nội nhơ bẩn, tội lỗi ấy nữa. Em thề với bác như vậy. Thề! Bác cứ tin em đi!

Ông gọi Mỳ ra một nơi, đưa tiền cho cô, (không phải mười mà mười lăm triệu), đưa cả địa chỉ và số điện thoại để khi cần có thể liên lạc. Rồi ông lên ô tô trở về Hà Nội. Ông không muốn ở thêm chút nào nữa với gã bố nát rượu, láu lỉnh và trơ trẽn kia. Bà vợ của hắn ông chỉ thấy thoáng một lần. Một người đàn bà nhu nhược, ốm yếu. Một cái máy đẻ để cung cấp trẻ lang thang và đĩ điếm cho thủ đô, như bao máy đẻ khác trong làng này.

Lúc lên xe, gã bố chép miệng bảo ông:

- Nếu chưa vợ, bác lấy quách con Mỳ nhà em thì tốt biết mấy. Hay bồ bịch gì cũng được. Em cho không bác đấy!

                                                                      *

Quả đúng ông thực sự không biết phải làm gì với gia sản khổng lồ của mình trước khi chết. Ở quê, ông chẳng còn ai thân thích, cũng không có bạn bè, trừ những người cùng làm ăn trong nghề, và thường là đối thủ ngầm của nhau. Ông giấu thực trạng bệnh tình của ông, ít ra để nhiều người trong họ không lấy thế làm mừng. Mọi phần việc còn lại, ông giao cho người tin cậy làm nốt, còn ông thì viện cớ bận việc riêng, suốt ngày đóng cửa ngồi ở nhà. Cần lắm, ông mới ra ngoài, đôi khi dạo quanh quẩn đâu đó, hoặc phóng xe ra ngoại ô thay đổi không khí.

Ông tắt hết các máy điện thoại, không tiếp xúc với ai. Cái ý định "hưởng thụ cuộc đời" ban đầu bị ông gạt bỏ từ lâu. Ông chỉ muốn được yên tĩnh một mình, và dù cố không nghĩ gì, ông vẫn luôn quẩn quanh suy nghĩ đủ chuyện. Ông không có cái cảm giác hoảng hốt của những người biết mình sắp chết. Ngược lại, ông thấy bình tĩnh một cách đáng ngạc nhiên. "Mình vơ vét của đời nhiều rồi, bây giờ đến lượt phải trả, - ông nghĩ. - Thế cũng công bằng. Có điều trả thế nào cho đúng và có ý nghĩa nhất mới là chuyện khó".

Ông lập một danh sách dài những nơi ông sẽ cúng tiền, trong đó có trại mồ côi ông từng sống ngày nào; một số cơ sở nuôi dưỡng trẻ em khuyết tật; nâng cấp nhà thờ và nghĩa trang dòng họ ông ở quê, là nơi ông cũng dự định giúp xây một trường học ba tầng; tu sửa một ngôi chùa ông yêu thích, vân vân. Toàn những việc tốt đẹp, nhưng số tiền còn lại vẫn nhiều, nhất là khi ông bán các ngôi nhà của ông, trừ chiếc biệt thự đang ở. Ông không quên những đứa trẻ lang thang hiện nay. Chúng thật đáng thương và rất cần được giúp đỡ. Hơn ai hết, ông biết rõ điều ấy, nhưng cứ nghĩ tới thằng bố của Mỳ cùng việc hắn và cả làng hắn thi nhau đẻ con để tống lên thành phố bắt người khác nuôi, là ông lại do dự. Hôm từ Thanh Hóa về, ngồi trong xe, ông đã mường tượng cảnh hắn sẽ đánh cô, bắt đưa tiền để uống rượu, cờ bạc, và sau một thời gian hết tiền, chắc lại sẽ bắt cô lên thành phố "đi làm".

Không thấy Mỳ thư từ hoặc gọi điện cho ông. Có thể như thế nghĩa là mọi việc không đến nỗi. Ông thôi không băn khuăn về cô nữa.

Một hôm, ba tháng sau ngày theo Mỳ về Thanh Hóa, ngồi ăn cơm bụi như mọi ngày ở góc phố cạnh nhà, ông bỗng thoáng thấy cô đang ngồi sau xe máy của người nào đó đi ngang qua. Không thể nhầm được. Ông vội gọi xe ôm đuổi theo nhưng không kịp.

Thế là Mỳ đã trở lại Hà Nội, và chắc vừa rồi đang "đi khách". Có thể cô bị bố đánh bắt làm thế. Cũng có thể chính tự cô. Dẫu sao thì, nếu không tính đến yếu tố tinh thần (mà một cô gái nông thôn có hoàn cảnh như Mỳ, điều ấy chắc gì đã quan trọng), ở thành phố vẫn sướng hơn nhiều so với cuộc sống đồng ruộng cùng ông bố vũ phu, nát rượu và bầy em nheo nhóc.

Thực ra ông chưa có tình cảm nào đặc biệt với cô. Những việc ông làm chỉ mang tính nguyên tắc chung chung - ông muốn đưa một con người ngẫu nhiên ông gặp trở về với cuộc sống lương thiện. Bây giờ con người ấy quay lại đường cũ, vì lý do nào không quan trọng. Cái quan trọng là ông đã thất bại trong ý định tưởng dễ mà hóa ra rất khó ấy. Ông không tiếc tiền, hẳn thế. Ông chỉ thấy chua xót và bất lực.

Vốn không bao giờ chịu đầu hàng một cách dễ dàng, ông quyết tâm tìm Mỳ bằng được để hỏi cho ra nhẽ, nếu cần, sẽ thử giúp cô lần nữa. Lần này dứt khoát và mạnh mẽ hơn. Ông đã tính đến chuyện mua cho cô một căn hộ, tìm việc làm và mai mối cô với một trong những thuộc hạ tử tế của ông. Ông đến nhà hàng lão chủ béo nọ nhưng không thấy. Ông hứa sẽ cho lão một khoản tiền lớn nếu tìm được cô. Gã mặt chuột cùng mấy đứa bạn của hắn rất tích cực trong việc này vì cũng được hứa như vậy. Bản thân ông thỉnh thoảng thuê xe ôm đi khắp thành phố để tìm Mỳ, nhưng cô vẫn mất tăm. Ông làm tất cả những việc này vì cô một phần, thực ra vì ông là chính. Ông muốn được an ủi rằng nếu tiền bạc không cứu nổi ông khỏi cái chết được báo trước do căn bệnh hiểm nghèo, thì biết đâu nó có thể cứu được ai đấy, dù chỉ một người là Mỳ, khỏi rơi vào con đường tội lỗi.

Ngày tháng cứ lặng lẽ trôi qua, dửng dưng và không chút thương xót. Cái chết đang đến gần. Nó không làm ông hoảng sợ hoặc đau buồn. Cái luôn dày vò ông và đáng sợ hơn cả là cảm giác bất lực. Ông biết ông chỉ còn được sống một vài tháng nữa, nhưng theo bản năng tự vệ, ông vẫn đều đặn uống thuốc. Ông cũng biết khó có thể tìm được Mỳ ở thành phố rộng lớn này, nhất là khi cô đang cố tình lẩn tránh ông, nhưng ông tiếp tục cho người tìm kiếm. Ông vẫn chưa hết

Cái chết của con voi chột

Người viết: Thái Bá Tân   

10/10/2006

Thái Bá Tân

1

Biết tôi viết văn, một anh bạn hiện là kỹ sư lâm nghiệp ở lâm trường S.V miền Tây Nghệ An, có gửi cho tôi một bức thư. Trong thư anh kể chuyện con voi kéo gỗ duy nhất của lâm trường, để như anh nói, tôi dựa vào đó viết một truyện ngắn mà theo anh (nguyên văn) "có thể thu hút được sự chú ý của người đọc".

Bức thư nằm trên bàn đã hai tháng nay. Tôi đọc đi đọc lại mấy lần và quyết định ghi lại toàn bộ dưới đây, trừ những đoạn riêng tư không cần thiết. Bản thân nó, theo tôi đã là một câu chuyện hoàn chỉnh, chỉ cần chữa chút ít văn phong. Người viết văn không nhất thiết bao giờ cũng phải thêm thắt cái này cái nọ vào một câu chuyện có thật, cho dù làm thế có thể tăng thêm hiệu quả.

"Anh T. thân mến,

Ðúng vào ngày thành lập lâm trường, tức cách đây ba mươi năm, có đơn vị bộ đội tặng chúng tôi một con voi từng tải đạn và kéo pháo phục vụ quân ta trong nhiều trận đánh lớn ở Hạ Lào. Vì thành tích chiến đấu, nó được thưởng một huy chương và nhiều bằng khen, giấy khen, hiện đang trưng bày trong Phòng Truyền thống lâm trường. Về nó, người ta có cả một bộ hồ sơ với đủ các mục cần thiết - trước hồ sơ kháng chiến, nay là hồ sơ lao động, - và tất nhiên được giữ ở Phòng tổ chức cán bộ. Hàng năm người có trách nhiệm sẽ ghi thêm vào đó những lời nhận xét về thái độ công tác, sức khoẻ và "đạo đức" của nó.

Ðó là một con voi đực, rất to và hiền. Ba mươi năm nay nó cần mẫn làm việc phục vụ con người, niềm tự hào và là vốn quý của cả lâm trường. Ðể anh dễ hình dung, tôi xin dẫn một thí dụ so sánh. Lâm trường có hai đội khai thác nằm sâu trong rừng hai mươi cây số. Một đội có ba máy kéo và hai mươi con trâu đực. Ðội kia chỉ có một con voi và một máy kéo, lại hay hỏng, số công nhân ít hơn, thế mà luôn đạt sản lượng gấp rưỡi đội bạn, dù hoạt động ở địa bàn khó khăn hơn. Khâu khó nhất trong khai thắc là vận chuyển gỗ ra bãi tập kết, từ đó ô tô mới có thể chở đi. Không có đường, cây thường mọc trên vách núi, rừng nhiều tầng, nên nhiều khi con voi là không thể thiếu được.

Chính vì giữ vai trò quan trọng như vậy mà Lâm trường đặt riêng cho nó một chế độ nghiêm ngặt về làm việc, ăn uống và chăm sóc. Cụ thể là một ngày nghỉ, một ngày làm; tiêu chuẩn ăn mỗi ngày mười ki-lô gạo nấu thành cơm, từ năm đến bảy quả bí đỏ, mỗi tháng mười ki-lô đường, hoặc thường xuyên phải trồng một héc-ta mía cho voi ăn dần. Về y tế, người ta lập hẳn một tủ thuốc riêng có đủ từ thuốc cảm (voi cũng cảm cúm và viêm họng, sổ mũi như người) đến các loại kháng sinh liều cao.

Ngày làm việc của con voi này bắt đầu từ bốn giờ sáng, khi người quản tượng ra tìm nó trong rừng, nơi nó được thả cho ăn tự do suốt từ chập chiều hôm trước. Sau đó nó được dẫn tới khu vực khai thác. Quãng đường không xa, nhưng nó đi chậm, nên thường một tiếng sau mới bắt đầu làm việc thực sự.

Những cây gỗ to, có khi đường kính đến một mét, được đẵn và chặt hết cành. Nó có nhiệm vụ đưa chúng xuống chân núi, rồi từ đó kéo ra bãi. Trước hết phải mở đường. Nó cúi đầu, dùng cả thân hình đồ sộ rướn lên phía trước, dẫm bẹp, phá tung tầng dưới của rừng nhiệt đới, tạo thành một luồng nhỏ hình ống, theo đó gỗ sẽ được đưa xuống. Vì đường không phẳng, nó phải liên tiếp dùng chiếc ngà cụt duy nhất hoặc dùng chân, dùng đầu đẩy gỗ đi. Cây nào nhỏ thì uốn vòi nhấc bổng quẳng xuống. Nói chung đây là loại công việc khó khăn và nặng nhọc, rất nặng nhọc. Thế mà, anh có tượng tượng được không, con voi to lớn, vẻ ngoài vụng về ấy đã có những động tác thông minh và khéo léo ngoài sức tưởng tượng.

Do nhiều năm kinh nghiệm, tự nó biết lúc nào cần làm gì, tuy người quản tượng đứng bên luôn miệng quát những từ ngắn gọn bằng tiếng Lào, là thứ tiếng quê hương mà ngày xưa, trước cả khi phục vụ kháng chiến, người ta đã dạy nó hiểu. Dân gian có câu "Làm hùng hục như voi". Theo tôi, nói thế không đúng lắm. Con voi này của Lâm trường S.V làm khỏe, nhưng không "hùng hục", ngược lại rất từ tốn, thong thả. Nó lặng lẽ làm việc không nghỉ, đều đặn, đôi tai to luôn phe phẩy. Vào những ngày hè nóng nực, chốc chốc nó lấy nước dự trữ trong dạ dày, tự phun lên người cho mát. Chiều bốn giờ, nó lững thững về nhà, ăn khẩu phần quy định, xuống suối tắm rồi vào rừng ăn thêm chuối cây và cỏ lá cho đầy cái dạ dầy khổng lồ của mình.

Cuộc sống lao động của nó cứ đều đều trôi qua như thế. Nó là con voi cần cù và hiền lành như tôi đã nói. Nó gắn bó, tận tuỵ phục vụ con người, và cùng con người, nó chia sẻ bao cái buồn, cái vui của hoàn cảnh. Những năm chiến tranh, nó cũng bị cắt bớt khẩu phần, những ngày cuối năm phải làm thêm giờ để hoàn thành kế hoạch. Tất nhiên khi công nhân lĩnh thưởng, nó được ăn nhiều hơn, ngon hơn. Nghĩa là con người thương yêu, chăm sóc nó, và hình như nó chẳng có điều gì phải chê trách con người. Tất cả có vẻ tốt đẹp, nhưng...

Vấn đề chính ở cái "nhưng" ấy.

Nhưng thật không may, suốt chừng ấy năm và có thể cả trước đó, con voi hiền lành, chịu khó ấy luôn mắc một "chứng bệnh" mãn tính mà cả sự chăm sóc nhiệt tình của lâm trường và cả tủ thuốc dành riêng cho nó đành bất lực. Số là đều đặn mỗi năm mấy lần, đến kì động dục, nó phải trải qua những cơn vật vã khổ sở. Anh thử hình dung xem: một con vật khổng lồ nặng hàng tấn như thế phải mang anh ách đâu đấy trong người một khối lớn năng lượng thừa, cần giải tỏa mà không giải tỏa được. Những lúc ấy, người ta phải dùng xích sắt xích nó lại. Cái vẻ lờ đờ chậm chạp hàng ngày biến mất. Nó cong vòi, há cái miệng đỏ đầy dãi dớt như muốn kêu lên điều gì mà không kêu được thành tiếng. Nó bỏ ăn, vật lộn với cái xích, xéo nát cả một vùng xung quanh. Ðôi lúc có thể vì quá mệt, cũng có thể do cái nóng trong người tạm lắng, nó ủ rũ đứng im, vòi buông thõng, hai tai cụp xuống không  buồn phe phẩy. Ở phía dái tai ri rỉ những dòng nước nhờn vàng vàng. Những lúc như thế con người chẳng biết làm gì để giúp nó, ngoài việc chờ một thời gian sau, cũng theo đúng chu kỳ, "cơn bệnh" tự qua đi, và nó bình phục trở lại.

"Căn bệnh" chỉ có thế, như tôi nói, rất nguy kịch và cần được cứu chữa. Thế mà con vật tội nghiệp phải chịu đựng nó bao năm nay. Lúc đầu người ta quả có lo lắng. Có người đề nghị tiêm thuốc khử dục hoặc thiến - nhưng mà ai thiến được voi! Có người bảo thả nó vào rừng tìm voi cái, vân vân. Nhưng rồi không ý kiến nào trong số những ý kiến hay ho kia được thực hiện.

Cách đây mấy năm, một anh cán bộ thú y trẻ bỏ công tìm đến tất cả những nơi cần đến, hăng hái chứng minh sự trái tự nhiên, thậm chí "dã man" như anh ta nói, của việc giữ một con voi đực biệt lập lâu như vậy. Anh ta đề nghị nhường nó cho một lâm trường khác trong tỉnh, là nơi nhiều năm nay chỉ có một con voi cái. Hay chí ít phải cho nó đến đấy "làm khách" ít bữa mỗi lần phát dục. Nhường thì tất nhiên không thể được, nhưng dẫn nó đi hàng trăm cây số đường rừng rồi dẫn về cũng không đơn giản, nên cuối cùng, cái ý kiến rất hay và được lắng nghe một cách nghiêm túc ấy vẫn không không được thực hiện. Lâm trường lắm việc, người ta quên, khi nhớ được thì con voi đã bình phục trở lại. Thế là dần dần người ta quen với điều xảy ra, quen với sự đau khổ của con vật họ yêu quý, vì một lẽ cũng khá đơn giản là sau mỗi lần ốm dậy, nó vẫn tiếp tục làm việc, ngoan ngoãn và cần mẫn như trước. Nhưng... - lần nữa, xin lỗi, lại "nhưng", - nhưng cái gì cũng có giới hạn.

Một lần, trong cơn bệnh dữ dội hơn bao giờ hết, nó phá tuột xích, chạy vào rừng với đồng loại và bị cả một đàn bảy con voi đực khác đánh bị thương gần chết, không cho lại gần con voi cái duy nhất của chúng. Vất vả lắm nó mới lần về được với những người chủ của nó, với một mắt bị chọc thủng (cái tên Chột bắt nguồn từ đó) và những vết húc sâu gần gang tay đầm đìa máu hai bên hông.

Cả lâm trường cuống lên vì lo sợ. Ðược tin, lập tức chính ông thủ trưởng ngành đi xe con từ Hà Nội vào. Nghe nói khi nhận được điện "Voi bị đánh gần chết", tưởng do người đánh, ông mang theo sẵn quyết định cách chức giám độc và phó giám đốc lâm trường S.V. Dù được hết lòng cứu chữa, phải nửa năm sau, con Chột mới trở lại làm việc được. Nhưng nó đã đổi khác. Nó không còn khỏe như trước, điều đó dễ hiểu. Thông thường tuổi thọ của voi là bảy, tám mươi năm. Theo hồ sơ phòng tổ chức cán bộ, con Chột lúc này chưa đến năm mươi, nghĩa là còn ở độ sung sức, thế mà trông nó đến thảm hại, da bạc thếch, nhăn nheo và không còn sợi lông nào; cái lưng gù càng gù thêm. Những lúc không làm việc, nó rầu rĩ đứng im một mình, con mắt còn lại lim dim như đang thiu ngủ, hoặc suy nghĩ xa xôi về một điều mông lung nào đấy. Con Chột đã quá yếu, mọi người luyến tiếc nghĩ thế, thầm hy vọng từ nay căn bệnh nguy hiểm kia sẽ không tái phát nữa.

Thế mà chẳng bao lâu sau, đúng chu kỳ, nó lại phát dục. Lần này có vẻ còn dữ dội hơn. Vẫn những triệu chứng và biện pháp xử lý cũ. Theo thường lệ, đến ngày phải bình phục trở lại, người ta thả nó ra. Nhưng lạ thay, sáng hôm sau, khi người quản tượng tới dẫn nó đến khu khai thác, lần đầu tiên trong đời, nó không chịu nghe, không cho đến gần, thậm chí còn suýt quật chết ông ta. Nó lồng lên chạy khắp nơi - không phải vào rừng vì bài học vừa rồi còn chưa quên. Nó giận dữ xéo nát, quật gãy tất cả những gì gặp trên đường đi. Nó đánh chết một con trâu, xô đổ một chiếc máy kéo đứng chênh vênh trên vách núi.

Rõ ràng sau vụ đánh nhau suýt chết với voi rừng, thần kinh con Chột đã quá yếu, không còn chịu nổi những chấn động dữ dội của cơn bệnh thường kì. Nó đã phát điên, gây không ít tai họa cho lâm trường và cần áp dụng gấp những biện pháp mạnh.

Ðảng uỷ và ban giám đốc Lâm trường họp bàn suốt một ngày, ngày hôm sau đem ra lấy ý kiến công nhân. Kết quả cuối cùng thế nào anh biết không? Người ta quyết định xử tử con Chột. Có văn bản hẳn hoi và đủ chữ ký của những người, những cấp cần thiết. Phải nói đây là một quyết định đau đớn, bị nhiều người phản đối, nhưng không còn cách nào khác. Hơn thế, bản án cần được thi hành càng sớm càng tốt. Nhưng ai sẽ giết nó, giết như thế nào? Vấn đề này hóa ra không đơn giản như thoạt tưởng. Vì thương và vì quá quen thân với con Chột, không một tay súng nào trong đội tự vệ lâm trường chịu bắn vào nó. Buộc phải sang cầu cứu trung đoàn bộ đội kết nghĩa bên cạnh.

Ngày hôm sau con Chột bị bắn chết, xác được xe xích kéo đi chôn ở một chiếc hố sâu và rộng đào sẵn từ trước. Nhiều người đến chào tiễn biệt nó. Và khóc. Ông quản tượng người Mường thì nghe nói trước đấy mấy ngày viết đơn xin nghỉ hưu, và mặc dù chưa được đồng ý, đã tự động bỏ về bản..."

2

Ðấy, bức thư anh bạn kỹ sư lâm trường S.V Nghệ An gửi cho tôi là thế. Tôi biết viết gì thêm, thậm chí với ý định "làm" một truyện ngắn như anh gợi ý?

Cách đây không lâu, tôi có dịp tới tận lâm trường này, và với tư cách cán bộ một nhà xuất bản trung ương, xin được gặp giám đốc và bí thư Ðảng ủy. Những điều bạn tôi kể là hoàn toàn có thật. Tôi còn được cho biết sắp tới lâm trường sẽ cử người vào Ðắc Lắc mua voi về thay thế con Chột đã chết.

- Mấy con? - tôi vội hỏi.

- Một.

- Sao lại một? Chẳng phải vì sống một mình mà con Chột...

- Vâng, chúng tôi biết, nhưng lâm trường không đủ vốn. - Ông giám đốc nhìn tôi với vẻ gần như bình tĩnh, là điều làm tôi vừa ngạc nhiên, vừa buồn. - Anh có biết một con voi giá bao nhiêu không?

Trước khi rời lâm trường, tôi tới thăm mộ con Chột. Ðó là một gò đất nhỏ, cây và cỏ dại đã kịp mọc um tùm.

"Một con voi giá bao nhiêu nhỉ?" Bất giác nhớ tới lời ông giám đốc. Chắc phải đến bạc triệu. Tôi không biết chính xác, nhưng biết rõ một điều rằng hiện trước mặt tôi, dưới gò đất cỏ mọc um tùm kia là cả một nửa năng suất khai thác của lâm trường SV, là một con voi hiền lành, cần cù nhưng đã bị đẩy đến chỗ điên và cuối cùng bị giết chết. Chung quy chỉ vì một lí do hết sức đơn giản là con người đã không tạo cho nó những điều kiện sống sơ đẳng nhất, cần thiết nhất để nó được phục vụ con người tốt và nhiều hơn.

Không hiểu rồi con voi người ta sắp mua từ Ðắc Lắc về liệu có được số phận may mắn hơn không?

16 mét vuông

hưa đến mùa mưa mà ông trời đã giở trò keo bẩn trong trách nhiệm rót nắng. Thế nên cả ngày cứ âm âm u u. Buổi sáng thức dậy, hai hàng cây trên phố lười rửa mặt, dật dựa gục đầu vào nhau, cố gắng che giấu những chiếc lá ủ rũ bám đầy bụi khói, thỉnh thoảng hé mắt thờ ơ nhìn xuống dòng người nhung nhúc chen lấn nhau chạy quáng quàng trên phố. Hệt như một bức tranh có bố cục chật chội lại bị dùng quá nhiều tông màu lạnh, để rồi gây nên một cảm giác trầm uất và khó thở cho người xem.

Thứ bảy cơ quan ít việc nên phải “sáng tác” ra một lý do để lẩn trốn, bèn bịt mũi khiến giọng nghèn nghẹt đúng kiểu người bị cảm cúm, gọi điện xin sếp cho nghỉ. Chẳng biết sếp có tin không nhưng vẫn “ừ” một cách miễn cưỡng, mà nếu không cho thì nhân viên cũng đã quyết “ngã bệnh” rồi, đành phải “ừ” thôi! Nằm trăn qua trở lại một chốc thì chán. Bật ti-vi kênh nào cũng thấy toàn những chương trình ca nhạc nếu không nghèo nàn tẻ nhạt thì cũng rặt một thứ lai căng! Đành cưỡi xe xuống phố, định bụng ra quán cà phê quen. Nhưng vừa ló mặt ra đường đã thấy đám đông nghẹt cứng, mặt mũi liền tối sầm. Thấy người bỗng dưng mệt ra, có vẻ như bị cảm cúm thật. Bèn lập tức hiểu ngay ra rằng sáng thứ bảy thế là đã bị phá hỏng rồi. Vì trời âm u và vì người nhung nhúc. Rốt cuộc là quay xe trở về. Mà về đâu? Còn về đâu nữa, ngoài căn phòng mười sáu mét vuông?

Tôi sống và làm việc trong những căn phòng mười sáu mét vuông. Những căn phòng mười sáu mét vuông luôn được tận dụng triệt để mọi khoảng không gian từ mặt bằng cho đến mặt đứng, nhằm đặt-để-treo-mắc-ốp... nhiều loại máy móc.

Tôi sống và làm việc trong những căn phòng mười sáu mét vuông. Những căn phòng mười sáu mét vuông luôn được tận dụng triệt để mọi khoảng không gian từ mặt bằng cho đến mặt đứng, nhằm đặt-để-treo-mắc-ốp... nhiều loại máy móc.

Có quá nhiều loại máy móc tồn tại trong những căn phòng mười sáu mét vuông! Nào là máy in trắng đen nhãn hiệu HP LaserJet 5M, nào là máy in màu Epson Stylus Color 900, nào là máy Scanjet 4C, nào máy Scanner Epson 1600 Pro., nào máy lạnh hiệu Philco ngựa rưỡi hay hai ngựa, rồi thì các máy vi tính thuộc hệ PC và Macintosh, cả những loại máy móc khác nhỏ bé hơn nhưng cũng “tinh vi” hơn như máy quay phim kỹ thuật số hiệu Kodak, máy ảnh cũng kỹ thuật số hiệu Nikon... và...

Đấy là văn phòng thiết kế, nơi tôi cật lực lao động tám tiếng không muốn và cả không dám mệt mỏi hay nói đúng ra là phải cố gắng che giấu sự mệt mỏi. Rồi khi trở về nhà, cũng với căn phòng mười sáu mét vuông, nơi tôi thường xuyên bật nút “Power” chiếc máy vi tính PC (lại máy vi tính?) với bộ vi xử lý Pentium III đang trở nên lạc hậu thê thảm, để thiết kế vài việc vặt có được từ những mối quan hệ hoặc ơ hờ hoặc thân thiết, rồi còng lưng gõ văn bản, trao đổi e-mail hay nghe nhạc MP3. Chiếc máy hát cũ mèm chỉ có giá trị kỷ vật hơn là giá trị sử dụng, vứt chỏng chơ nơi góc tường giăng đầy bụi và mạng nhện; chiếc tivi hiệu Samsung loại 17inches màn hình phẳng, tuy còn mới cáu nhưng một hôm nọ nổi máu “hâm”, tôi đã cho vài vệt sơn dầu màu vàng cam khiến nó đánh mất vẻ hài hòa sang trọng và trở nên cực kỳ lố bịch. Khi tôi hiểu ra thì đã quá muộn, đành quay ra o bế cái đầu máy DVD có linh kiện ngoại được lắp ráp tại nội địa, nhưng chỉ chuyên đọc những đĩa VCD Tàu kém chất lượng nên mắt đọc đã “mù” đi nhanh chóng, khiến sáu tháng một lần tôi phải vác đi cân chỉnh lại!

Còn gì nữa nhỉ, trong căn phòng mười sáu mét vuông? Còn rất nhiều! những thứ linh tinh được đặt-để-treo-mắc-ốp... vào mọi khoảng trống có thể, những vật dụng cần thiết tối thiểu cho một đời sống độc thân và cả những thứ chỉ có tác dụng trang trí, mà vì phút ngẫu hứng nào đó hoặc thậm chí là đua đòi, tôi đã tha về “khủng bố” thêm cho căn phòng một vẻ chật chội quá tải. Bằng cách đó, tôi khai thác triệt để tuổi trẻ của mình trong những căn phòng mười sáu mét vuông!

Những đêm mất ngủ, tôi nghĩ rằng rất có thể suốt quãng đời thanh niên, tôi sẽ phải lặn ngụp trong khói bụi phố phường và trú ẩn trong những căn phòng mười sáu mét vuông hiếm khi có cửa sổ. Sáng tôi ra đi và khuya tôi trở về. Những chiếc máy đủ thứ kiểu dáng, đủ thứ nhãn hiệu, đủ thứ công năng được bật lên, tỏa ra đủ tầng nấc nhiệt lượng, vang lên đủ thứ tiếng kêu sinh động và khắc khoải. Tôi khai thác chúng và chúng khai thác lại tôi. Chúng hút lấy tôi, bám lấy tôi, tiêu phí tiền bạc - sức khỏe - thời gian của tôi; và, tôi nuôi nấng nỗi cô đơn lẫn ích kỷ của mình trong những căn phòng mười sáu mét vuông có quá nhiều máy móc!

“Mày giàu có quá!” – “Nghệ hâm” khẽ nói cái câu đã nói đi nói lại quá nhiều lần, khiến tôi thấy chúng vô hồn như thứ âm thanh digital được ghi sẵn vào đĩa rồi phát ra từ một trong những cái máy đang hiện diện trong phòng. Ba mươi phút trước đây “Nghệ hâm” đã rời bỏ căn phòng cũng mười sáu mét vuông của nó, chạy rong trên phố mà không hề dừng lại một nơi nào. Dù những quán cà phê bây giờ đã được “deco” công phu với nhiều kiểu dáng quyến rũ và sang trọng, những quán vườn thích hợp với “type” người ưa sự trầm tư cũng đã trầm tư hơn (nghĩa là các em phục vụ mặt cố ra vẻ man mác buồn, nhạc vặn nhỏ volume cho rỉ rả, còn các chậu cây cảnh thì lòa xòa không cắt tỉa thái quá hòng tạo cảm giác thật tự nhiên). Tôi hiểu bạn tôi, rất nhiều lần tôi cũng đã chạy trốn căn phòng của mình bằng cách chạy rong trên phố như thế, với hy vọng những tiếng động ầm ĩ của xe cộ, tiếng la hét, chửi bới của những người bán rong trên hè phố... sẽ khiến tôi có cảm giác như đang vào cuộc bận rộn. Xét cho cùng đó là một sự bận rộn “ảo”, một đối xử độc ác với chính bản thân mình. Tôi thảy tôi ra đường với mục đích chối bỏ một thứ, để rồi phải hứng chịu nhiều thứ khác. Bằng cách đó, tôi đang giết dần tuổi trẻ của mình bên ngoài những căn phòng mười sáu mét vuông!

“Nghệ hâm” lại hỏi: “Lâu rồi có gặp Min không?”. Tôi bảo rằng không thường lắm. Min là một trong những gương mặt bạn bè thân mà mỗi tháng chúng tôi chỉ còn có khả năng gặp nhau chỉ vài lần, còn phần lớn là liên lạc qua điện thoại. Bằng cách thông qua những thứ máy móc diệu kỳ, chúng tôi chia sẻ những câu chuyện đáng lý ra phải được nói trong một không gian khác. Tôi nhớ một đôi lần, Min đến, thái độ uể oải và dè dặt. Trông nó bắt đầu béo ra ở bụng vì ngồi quá lâu trước máy vi tính vào ban ngày và các quán bia vào ban đêm. Nó nhìn quanh căn phòng của tôi như so sánh rằng giữa tôi và nó ai sẽ giàu hơn, bằng cách đếm và ước lượng tổng số tiền tôi mua sắm những thứ máy móc hiện đại đó. “Tao không còn sống chật vật như trước, nhưng đã nếm thấy mùi nhàn nhạt của đời. Hình như tao đang chai sạn và lạnh lùng. Thấy mọi thứ đều vô nghĩa!”. “Bệnh của những người thành đạt sớm đấy mà” – tôi nhận xét, hơi mai mỉa và thoáng chút đố kỵ. “Mày nghĩ như thế thật à? Thành đạt? Hừ, cái câu “chưa mua được đất – chưa cất được nhà” là nỗi ám ảnh thường trực của tất cả những kẻ ngụ cư và nhập cư như tụi mình. Tao đã vượt qua được vế đầu, nhưng đã cảm thấy mệt mỏi vì hai từ thành đạt?”. “Mày mông lung quá! Có người cả đời không vượt qua được phân nửa câu nói ấy đâu. Mày phải biết hài lòng chứ?”, nói xong thì cảm thấy lòng quặn đau một chút và trái tim gần như bị tổn thương một chút. Có ai mà biết hài lòng về mình bao giờ? “Ừ, nhưng tao bỏ vẽ rồi”. “Vẽ vời! Máy tính có thể đẻ ra tiền nhưng không ai nặn sơn dầu ra mà ăn cả” – tôi chống đối yếu ớt. Câu chuyện vẫn miên man và rối rắm như thế, cho đến lúc chiều ập xuống. Thật ra, căn phòng tôi ở không có những buổi chiều, khái niệm chuyển biến về thời gian là không tồn tại. Vì nó tối tăm mờ mịt, tôi luôn phải bật tất cả các đèn nhưng không đem lại hiệu quả ánh sáng như mong muốn. Tôi luôn thèm khát một căn phòng có thật nhiều cửa sổ, một căn phòng tràn trề ánh sáng. Khi hiểu ra sự “thèm khát” trong tôi, Min đã kết luận: “Mày đòi hỏi quá!”.

“Mày đòi hỏi quá! Căn phòng của tao còn tối hơn!” – “Nghệ hâm” cũng kết luận, hệt như Min, khiến tôi hoang mang nghĩ rằng có lẽ mình đòi hỏi thật. Nó lại rít thuốc, ngồi dựa lưng vào tường, thở ra những vòng khói mang hình “còng số 8”. Đúng là bi kịch: khi nó công phu tập luyện cái trò ấy cho điệu nghệ thì khốn thay, chiếc còng số 8 ấy còng cuộc đời nó vĩnh viễn vào khói thuốc. Nhưng nó chẳng hối tiếc. “Ở đời ai cũng phải lệ thuộc vào một thứ gì đó. Như giống đực và giống cái phải lệ thuộc vào nhau. Tách riêng ra, đàn ông lệ thuộc quyền lực còn đàn bà lệ thuộc tình cảm. Chia nhỏ ra nữa, tao lệ thuộc vào ảo giác còn mày lệ thuộc vào những cái máy”. “Và tổng kết lại là tất cả chúng ta đều bị lệ thuộc vào những căn phòng, rằng không ai đủ can đảm phơi cuộc đời mình ra dưới ánh sáng mặt trời và những đám mây. Người ta gọi những kẻ không có chỗ chui ra chui vào là dân lang thang cùng quẫn, là dân màn trời chiếu đất. Đấy mày xem, rồi ai cũng phải dính chặt đời mình vào những căn phòng. Cả khi chết đi, chúng ta cũng bị lèn chặt lại bởi xác trà và hàng mớ vật dụng khác, rồi nhét vào một chiếc hòm chật chội tù túng. Không ai dám nằm chết thong thả dưới ánh mặt trời. Người ta sẽ gọi đó là một cái chết bất hạnh của những kẻ vô gia cư”.

Chúng tôi bỗng dưng im lặng sau câu nói ấy. Không gian chuyển động rậm rịch bên ngoài nhưng chẳng thể xua đi sự ngưng đọng trong căn phòng. Tia nắng, sợi gió rủ nhau đi hoang, nhòm ngó vào những căn phòng tăm tối bằng thái độ sợ hãi và tránh né. Cuối cùng, không chịu đựng nổi cảm giác tù túng, chúng tôi phải rời phòng đi ra quán.

Ở cái quán nhỏ cũ kỹ, không tên, nơi giọng Thái Thanh nhả tơ vướng vít trên những tán cọ vây bọc khắp lối đi, chúng tôi cùng nhau bàn luận về âm nhạc, điện ảnh, sân khấu, văn học và muôn vàn những vấn đề phức tạp trong nghệ thuật. Nói say sưa, nói như bị bệnh dịch, nói về tất cả nhưng lại cố tránh né nói về tình trạng của chúng tôi, rằng làm cách gì để chúng ta thoát ra khỏi những căn phòng mười sáu mét vuông?

Rất khuya, tôi trở về nhà. Như một thói quen, tôi lại bật quạt cho chạy ro ro rồi khởi động máy tính để kiểm tra email, nhận mấy mẩu quảng cáo hấp dẫn truyền đi trên mạng, tìm kiếm và download vài ca khúc MP3 mà mình quan tâm. Sau đó tắt hết tất cả đèn và đi ngủ. Lúc ấy, vũ trụ chợt hiện ra. Bao giờ vũ trụ cũng sẽ hiện ra khi tôi tắt hết đèn. Đó là một bầu trời sao vĩ đại nằm trong diện tích trần mười sáu mét vuông. Khi tôi dọn về nơi ở mới, tất cả đã hiện diện như thế. Chủ nhân trước của căn phòng đã kỳ công đính những ngôi sao nhỏ li ti bằng một loại chất liệu hấp thụ nhiệt và phản quang trong đêm tối, khiến chúng trở nên lung linh huyền ảo như một bầu trời sao thật sự. Hàng đêm, để dỗ mình vào giấc ngủ, tôi luôn chong mắt ngước nhìn “bầu trời” để đếm sao mà chưa bao giờ biết chính xác có bao nhiêu ngôi sao tất cả. Bằng cách đó, tôi đã nuôi dưỡng ước mơ của mình trong những căn phòng mười sáu mét vuông!

“Ở lại với anh đêm nay!”. Khi tôi nói ra câu này, mặc dù đã thay chữ “ngủ” bằng chữ “ở” cho có vẻ “trong sáng”, nhưng thật lòng tôi vẫn thèm dùng chữ “ngủ” hơn, em tát cho tôi một cái khiến tôi phút chốc thấy được cả bầu trời sao khi chưa kịp tắt đèn. Tình huống này hệt như một cảnh phim tôi và em từng xem. Nhưng khác trong phim, sau khi giáng một cái tát cực mạnh, thay vì bỏ đi, em đã ở lại. Và đúng như lời cầu khẩn của tôi, em đã “ở lại” mà không “ngủ” với tôi. Khi nhìn thấy bầu trời sao, em đã khóc rưng rức

Nhưng rồi một ngày kia em không đến nữa. Ước mơ của tôi cũng sụp đổ hoàn toàn. Tôi không thể dùng từ “phản bội” để quy tội cho em. Trong đời sống có muôn vàn những cuộc chia tay không đoán trước, có rất nhiều lý do để biện minh.

vì xúc động. Tôi nhanh trí dối em rằng tôi đã kỳ công làm ra “vũ trụ” ấy cốt để em vui. Và em vui thật, sau khi ngừng khóc, em cùng tôi vẽ ra một viễn cảnh về một tương lai rực rỡ. Rằng chừng vài ba năm nữa, bằng tất cả nỗ lực của hai đứa, “chúng mình” sẽ vượt qua được cả hai vế của câu nói ám ảnh với dân ngụ cư: “Chưa mua được đất, chưa cất được nhà”. “Chúng mình” sẽ nhân bản hình thức “vũ trụ” như thế này cho tất cả các căn phòng, bất kể nó có nhỏ hơn diện tích mười sáu mét vuông, bất kể nó là phòng ngủ, phòng ăn hay toilet. “Con chúng mình cũng sẽ được sinh ra dưới vòm trời đầy sao như thế này. Vì em sẽ không đi Từ Dũ, mà sẽ rước hẳn bác sĩ sản khoa về nhà...”. Em nói miên man, miên man..., cho đến khi chìm vào giấc ngủ, bỏ tôi bay lượn một mình với niềm hạnh phúc choáng ngợp. Vậy là, tôi đã tìm kiếm được tình yêu của mình trong những căn phòng mười sáu mét vuông!

Nhưng rồi một ngày kia em không đến nữa. Ước mơ của tôi cũng sụp đổ hoàn toàn. Tôi không thể dùng từ “phản bội” để quy tội cho em. Trong đời sống có muôn vàn những cuộc chia tay không đoán trước, có rất nhiều lý do để biện minh. Dù rất đau buồn, tôi vẫn phải đi đi về về căn phòng nhỏ của mình, chia sẻ những tiếng động khắc khoải tỏa ra từ các loại máy móc, ngước mặt nhìn bầu trời sao trước khi đi ngủ và cố hy vọng đêm nào đó, em hoặc một người tương tự em sẽ quay lại. Tôi luôn tin là em sẽ quay lại. Tôi sẽ cố gắng để không đánh mất niềm hy vọng của mình trong những căn phòng mười sáu mét vuông!

Min đã xây được nhà và chuẩn bị cưới vợ. Nó hay điện cho tôi, cười nhiều và hứa giúp đỡ tôi về mặt tài chính cho đợt triển lãm tranh sắp tới. Trong những buổi chiều thứ bảy, tôi vẫn đến quán nhỏ một mình, nơi tiếng hát sầu não của Thái Thanh lan dài trên những tán lá cọ loang nước vì cơn mưa trút xuống ban chiều. “Nghệ hâm” thỉnh thoảng ngủ lại phòng tôi, tranh luận đủ thứ về âm nhạc – điện ảnh – sân khấu - văn học... Sau cùng chúng tôi bàn về một kế hoạch cụ thể hơn là mở một văn phòng thiết kế, chúng tôi sẽ vay vốn của Min, dù sao nó cũng là bạn tốt. Hàng đêm, tôi vẫn không ngừng xây dựng tương lai của mình trong những căn phòng mười sáu mét vuông!

Ôi những căn phòng mười sáu mét vuông có quá nhiều máy móc

Gò ông thức

Trên mỗi chặng đường công tác, chiến sĩ giao liên luôn đối mặt với hiểm nguy, đi dưới làn đạn, luồn qua đồn địch. Nhưng được bù đắp lại là cuộc sống ở Giao bưu T26* rất trẻ trung và yêu đời, anh em thương yêu nhau như trong một gia đình và ấm tình đồng đội.

Đời sống trong chiến tranh ở đâu cũng rất kham khổ, nhưng ở Giao bưu T26 có khá hơn so với các cơ quan khác trong căn cứ. Bởi vì, lính giao liên lên xuống vùng sâu thường xuyên, kết hợp mang theo mắm cái, vị tinh, cả thuốc lá thơm… do đồng bào trong vùng tạm chiếm gửi ra, dưới vùng Đông gửi lên. Chung quanh khu vực cơ quan giao bưu lại được núi rừng hào phóng ban cho cơ man nào là rau má, mọc ken dày theo bờ tre, dọc bờ rào, lá xanh mướt to như lá khoai lang, cộng dài và mập như rau muống. Đến bữa, chị nuôi chỉ cần ra khoắn một lúc là có đủ rau nấu một nồi canh to. Món ăn đặc sản sang trọng của cơ quan giao bưu là canh rau má nấu với mắm cái nêm bột vị tinh. Khách đi qua ghé lại, được nếm thử bát canh như thế là khó có thể quên cơ quan giao bưu.

Một câu vè không biết do ai đặt ra rồi trở thành câu ca cửa miệng của mọi người:

        Ra đi lòng cứ vấn vương

        Nồi canh rau má dọc đường giao liên.

Canh rau má nấu với mắm cái ăn hoài không những không chán mà trở nên nghiện. Nghiện thuốc, nghiện chè đã đành, đằng nầy lính giao liên nghiện thêm mắm cái. Một thùng mắm cái đến được với căn cứ là cả một sự gian khổ, có khi phải đổi bằng xương máu.

Cơ quan Giao bưu hết mắm ăn. Hết súng đạn, hết thuốc hút không lo; đang đêm anh em giao liên có thể bám theo cánh trinh sát mò vào tận đồn địch tuồn ra dễ như trở bàn tay, nhưng hết mắm lại là một vấn đề nan giải. Hình như chiến sĩ Giao bưu T26  thiếu mắm cái là yếu đôi chân!

Kết hợp với chuyến công tác vùng Đông, gần như giao bưu huy động tổng lực vận chuyển lên căn cứ hai thùng mắm cái. Giai đoạn nầy bọn địch phục kích tuyến Quốc lộ I dữ quá, nên khó có thể vận chuyển mắm trên đường dây vào ban đêm. Cõng một thùng mắm qua đường dây là đồng nghĩa với “Ông ơi tôi ở bụi nầy”. Bởi vì mắm cái là một chất lỏng đặc sóng sánh, loại ngon có thể bốc mùi thơm xa đến cả mấy mươi thước, nên rất khó đùm gói mà phải đóng vào thùng thiếc. Mà đóng vào thùng thiếc hàn kín thì dù có đong đầy bao nhiêu đi nữa cũng không thể lèn chặt được. Cõng trên lưng, mỗi bước đi cứ phát ra những tiếng “óc...ách, ọc... ạch” đều đặn theo mỗi bước chân; trong đêm thanh vắng những tiếng ấy nghe càng rõ.

Không thể để cơ quan thiếu cái ăn, kế hoạch vận chuyển mắm được vạch ra, giao cho tổ công tác hợp pháp của tôi và chị Ba Phong kết hợp với anh Thức tuyến đường dây thực hiện. Anh Thức là một chiến sĩ giao liên kì cựu và gan dạ, gần như đặc trách tuyến đường dây, lên xuống quốc lộ số I như đi chợ. Anh còn có thêm sắc khoẻ tuyệt vời, đi không biết mệt, một lần có thể cõng được ba thùng mắm leo dốc lội rừng.

Y như kịch bản đã dựng sẵn. Trong đêm, anh Thức vượt tuyến trở lên trước và đón đợi tại Gò Dài-Giáp ranh giữa vùng tạm chiếm Bình Quí với  khu giải phóng. Sáng sớm hôm sau, tôi và Ba Phong cải trang thành hai chị em đi buôn gánh hòa vào dòng người đi chợ, gánh mắm đi qua đường quận lỵ Hà Lam như những người đi bán dạo. Tôi là một cậu bé cọc còi chậm lớn, thêm nước da đen nhẻm, tóc vàng hung cháy nắng như lông bò. Chị Ba Phong có thể nói là một người phụ nữ kém phần nhan sắc, lại có giọng nói hơi chợ búa chua ngoa, nên rất hợp khi “vào vai” này.

Hai chị em đưa được gánh mắm qua mặt bọn nguỵ quân không phải chuyện dễ dàng, phải lần lượt bị săm soi qua hệ thống trạm gác của nhiều sắc lính: Bảo an, dân vệ và cả những cập mắt cú vọ mèo hoang của mật thám chỉ điểm. Mắm không thể để nguyên thùng mà phải đổ ra thúng-một loại thúng đan bằng tre quang dầu rái chuyên dùng đựng mắm. Cứ đến một trạm gác lại phải sang qua đổ lại vài lần cho bọn lính kiểm tra, chúng sợ dưới đáy thúng có cất dấu tài liệu và vũ khí. Ỷ eo với bọn lính gác năm lần bảy lượt, đến gần trưa thì hai chị em tôi qua trạm gác cuối cùng tại ga Phú Cang rồi thẳng hướng vào Gò Dài.

Anh Thức đã ngồi chờ sẵn, thay cho lời chào hai chị em tôi bằng một câu nói xuýt xoa tiếc rẻ:

-Hồi khuya bò ngang qua chỗ Cống Cao, phát hiện bọn lính Bảo an nằm phục kích, anh định quăng một trái lựu đạn hốt trọn ổ, nhưng sợ sáng nay bọn nó giận cá chém thớt, kiểm soát gắt gao tụi em kẹt đường, không đem hai thùng mắm lên được. Đành thôi! Tiếc quá trời!

Từ đây trở vào là đường rừng chật hẹp, qua nhiều dốc đá nên không thể quang gánh thúng gióng lòng thòng được nữa. Anh Thức đã chuẩn bị sẵn hai cái giỏ bội. Chúng tôi bẻ là lót bên ngoài, lấy vải ni-lon trải bên trong và đổ mắm vào giỏ, lấy một ít lá cây đậy lên trên giả làm người đi cắt lá. Anh Thức sẽ quảy giỏ lội nhanh qua quãng đồng trống Hà Châu vào gò Chà Là nằm đối diện trước mặt, rồi từ đó theo đường rừng về cơ quan.

Nguy hiểm nhất là vượt qua quãng đồng trống ấy. Nếu bọn tàu gáo, tàu rọ xuất hiện bất ngờ thì khó trở tay kịp. Đây là hai loại máy bay lên thẳng chuyên hoạt động ở tầm thấp, săn mồi lanh hơn quạ. Nó cơ động trong nhiều thời tiết, có khả năng bay nhanh chậm, lên xuống, tới lui, có khi đứng yên một chỗ xoay tròn như làm xiếc trên không.

Trời lất phất mưa. Ở giữa ruộng có một tốp người đang cày cấy. Tôi với Ba Phong thì không sợ vì đi người không, nhưng anh Thức thì ngoài  gánh mắm trên vai, anh còn mang theo khẩu súng ak và yếm đạn quanh người.

Anh Thức quảy gánh lên nhún thử mấy cái, nhìn hai chị em tôi cười rất tươi:

-Gọn gàng, nhẹ tênh! Anh quảy chạy u một hơi là qua khỏi cành đồng trống này. Hai chị em từ từ theo sau nghen.

Anh Thức quảy gánh bước ra đồng, chị Ba Phong nói với theo:

-Nguy hiểm lắm đấy, coi chừng nghe anh!

Chúng tôi gióng tai nghe ngóng, không gian yên lặng. Anh Thức quảy gánh chạy trước, tôi và Ba Phong theo sau.

Mấy anh em vừa mới ra đến giữa đồng, một chiếc tàu gáo bất ngờ từ hẻm núi chui ra. Phát hiện có tốp người trên cánh đồng, nó quay ngoặt lại đứng ngay trên đầu. Trên tầm chiếc tàu gáo, chiếc HU  IA đảo quanh yểm hộ. Tôi và Ba Phong lội ngay xuống ruộng hòa vào với mọi người làm đồng. Anh Thức tiếp tục gánh “gánh lá” đi thêm một đoạn, rồi anh không thể đi thêm được nữa. Bởi chiếc HU IA đã hạ độ cao cùng với chiếc tàu gáo dùng cánh quạt ép gió như muốn thổi tung những gì có trên mặt đất. Hai chiếc máy bay xuống thấp đến độ thấy rõ khuôn mặt mấy tên Mỹ đang nhe răng cười. Mấy tên Mỹ ở trên máy bay nhoài người ra khỏi cửa, chỉa đại liên xuống hùng hổ chỉ trỏ quát tháo. Dưới sức gió quần xoáy khủng khiếp của cánh quạt trực thăng, mũ nón, áo tơi của mọi người tung bay hất ngược lên trời. Anh Thức để gánh xuống, ngồi quỳ trên bờ ruộng, hai tay cố ghì chặt giữ hai mép tấm áo mưa để che khẩu súng. Chiếc tàu gáo sán lại vần ngay trên đầu anh. Tiếng động cơ máy bay đột ngột gầm lên như sấm nổ. Tấm áo mưa trên người anh Thức bị xé toạc. Khẩu súng AK lộ ra. Tức khắc hai chiếc máy bay trồng đứng lên. Anh Thức bật dậy, như một mũi tên bắn, lao nhanh về hướng gò Chà Là. Hai chiếc máy bay lao theo bám lấy anh như hai con hổ đói sẩy mồi. Anh Thức nhảy vào cố thủ trong căn hầm đất bỏ hoang ở lưng chừng đồi.

Trong khi bọn chúng quây theo anh Thức, mọi người kéo tôi và Ba Phong chạy ngược trở lại xóm Gò Dài.

Trận chiến một phía xảy ra giữa mặt đất với bầu trời. Hai chiếc máy bay thi nhau quay tròn trên căn hầm. Chiếc tàu gáo chà đi, chà lại, có lúc đứng ngay trên căn hầm thò cái thang dây xuống rồi lại kéo lên. Chúng nó muốn chụp quân bắt sống anh Thức nhưng còn e sợ, vì anh đang có súng. Lại thêm hai chiếc HU IA nữa đến tiếp viện. Chiếc tàu gáo nâng độ cao. Phi đội HU IA bắt đầu thay phiên nhau oanh kích quanh căn hầm.

Bọn HU IA mà tấn công thì thật đáng sợ. Từng chiếc, từng chiếc một, chúng vòng lên lấy đủ độ cao rồi chúc đầu lao xuống mục tiêu. Trước tiên phóng những quả Rốc-két rít lên như xé gió, tiếp đến là loạt M 79 liên thanh liên hồi như giả gạo chày ba, trước khi vòng lên, nó trút xuống những tràng đại liên xối xả như mưa rào, cùng với tiếng động cơ phạch phành chuyển rung trời đất.

Cả khu gò Chà Là bị nhấn chìm trong khói Rốc-két. Sau trận oanh kích kéo dài, căn hầm đất lở loét, chung quanh cây cỏ xác xơ. Với một khối lượng súng đạn trút xuống như vậy, căn hầm đất lẻ loi đơn độc không đủ sức chở che. Tôi cầu mong rằng có một phép nhiệm màu nào đó chở che cho anh Thức chạy thoát.

Bọn trực thăng tiếp tục bâu lại trên căn hầm, chiếc tàu gáo sà sát đất đang đáp xuống cạnh căn hầm. Chắc là chúng muốn thu chiến lợi phẩm, nếu không còn người thì ít ra cũng nhặt được khẩu súng. Chiếc máy bay vừa chạm mặt đất thì một loạt súng AK đanh thép từ căn hầm quạt thẳng ra. Nó chỉ mới kịp chổng đuôi nhấc mình, thì một loạt súng như thế nữa vang lên.  Chiếc tàu gáo xịt khói đen chúi ngay xuống chân gò cùng với một tiếng nổ “ Bùng” và một khối lửa bao trùm lấy nó.

Bị phản công bất ngờ, bọn HU IA trồng ngược lên rồi cắm xuống điên cuồng nã Rốc-két vào căn hầm. Trong chốc lát mấy chiếc phản lực cơ ập tới gầm rú xé nát bầu trời, thi nhau giội bom như muốn san phẳng gò Chà Là.

Sau trận bom dữ dội ấy, bọn địch điều máy bay vận tải đến cẩu chiếc tàu gáo còn lại như một cái khung sắt cháy đen sì bay thẳng ra hướng biển Đông.

Ngưng tiếng bom, vắng tiếng máy bay, chỉ còn lại cơn mưa lất phất, cả khu gò Chà Là dường như chết lặng trong khói mù nồng nặc. Mọi người chạy tuông lên gò Chà Là. Không ai còn tin vào mắt mình nữa-Thay vào chỗ căn hầm đất, nơi anh Thức cố thủ là một hố bom sâu hoắm. Mặt đất gò Chà Là thẫm đen, ướt nhoà như thấm máu, bầm tím trong chiều mưa!

Thật diệu kì, sau trận mưa bom ấy, chiều nào vùng trời gò Chà Là cũng có những cơn mưa lất phất, báo hiệu mùa xuân đến sớm. Cây cỏ lại vươn mầm xanh hơn và nhanh hơn.

Không lâu sau, ngay tại chân gò Chà Là, nhân dân dựng lên một cái khám thờ nho nhỏ và cạnh đó là một ngôi mộ gió xếp bằng đá núi. Gò Chà Là có thêm một tên gọi mới: Gò Ông Thức.

Mỗi lần chiến sĩ giao liên và nhân dân quanh vùng đi qua, họ lại bỏ thêm vào chỗ ngôi mộ một hòn đá hay nắm đất, thay cho nén tâm nhang tưởng nhớ người chiến sĩ giao liên đã hoà thân vào sông núi. Ngôi mộ gió cứ lớn dần. Sau Mùa Xuân 1975, khi chiến tranh kết thúc, ngôi mộ gió ấy đã thành một cồn đá uy nghi.

Đến hôm nay, tôi tin rằng cồn đá ấy đã lớn lên thành núi.

Thằng câm

Mỗi người đều có một cái tên. Người tên hay, người tên dở. Nhưng chắc chắn là ở mỗi cái tên đều gắn với một sự kiện và mang một ý nghĩa nào đó. Có thể nói, cái tên cũng có lịch sử của nó, có khi lại là cả một câu chuyện tình thơ mộng. Như chị Hai tôi chẳng hạn. Năm ấy, trong một trận càn của địch, o du kích nọ dắt một anh bộ đội chủ lực chui xuống căn hầm bí mật trên bờ sông Thu Bồn. Họ ở trong ấy một ngày một đêm và sau trận càn ấy có chị Hai tôi. Tên chị là  Hồ Lệ Dạ Thu.

Còn nó, tôi dám đánh cược với cả khu Tam Hoà, cả phường An Hạ, cả thành phố nầy, thậm chí cả nước nữa, đố ai biết nó tên khai sinh là gì? Ngay mẹ nó có khi cũng không biết. Mọi người cứ vô tâm lấy cái dị tật của nó gọi thành tên-thằng Câm. Nó bị câm điếc bẩm sinh. Với người câm điếc thì cái tên dở hay, xấu đẹp không có ý nghĩa gì hết.

Tuy là thế, nhưng nghe nói thằng Câm cũng có một cái lai lịch trắc ẩn. Mẹ nó mắc căn bệnh “chập cheng” thời vụ, thỉnh thoảng động trời là lên cơn ngẩn ngơ rồi đi lang thang. Chị ta là một phụ nữ rất khó định dạng, nhìn nhận ở góc độ nầy, bộ phận nọ có thể là đẹp, nhưng ở góc độ khác, bộ phận kia lại là xấu, rất xấu. Không thể có một cách nhìn thẩm mĩ toàn diện về chị ta được. Bởi vì người đàn bà ấy có một thân hình chắc lẳng, nếu đem tính số đo ba vòng ngực, hông, mông chắc là khá chuẩn, nên mới nổi lên những đường cong thiên thu rỡ ràng đến vậy. Không biết có ai bày vẽ cho hay không, mà chị ta cứ hay mặc áo bà ba chít li, xẻ nách hơi cao, để hé lộ ra những vùng eo nguy hiểm chết người. Nhưng oái oăm thay, đời lại gắn vào cái thân hình hoàn mĩ ấy một bộ mặt khó coi trông đến dị dạng: hàm ếch hở quá rộng, rộng đến mức có thể nhìn thông thống đến tận cuống họng; cái mũi khoằm như mõ két lại bị vẹo và hai mắt không đều nhau, một con to tròn như con ốc bươu, một con dẹt lét như cái lá rau răm, kèm theo lé hết khẩu độ. Khen cho tạo hoá cũng biết tiên lường mọi việc, nên có cách lắp ghép khập khênh như thế, cốt là để may chi làm triệt tiêu hết những đôi mắt hiếu sắc và ham hố dục vọng của cánh đàn ông. Nhưng rồi tạo hoá đành chào thua. Trong một lần đi lang thang, chị bị anh chàng nào đó rủ rê tặng cho một cái bụng chang bang vô thừa nhận, để rồi sinh ra một thằng cu bụ sữa. Sau lần sinh ấy, bệnh viện đành triệt sản luôn cho chị ta.

 Đúng là “Cha mẹ cú đẻ con tiên”! Thằng cu ú na ú nần, múp míp như cái hột mít trông đến là sướng mắt, nhưng có nét gì đó hơi là lạ, hình như nó không biết khóc, không biết cười. Là cục vàng của chị, nó lần lữa lớn lên trong vòng tay mẹ và sự bảo bọc của các cậu, các dì, trong sự thương cảm của mọi người. Thật tội nghiệp! Lớn lên nó bị câm. Chẳng ai trách cứ gì mẹ nó cả, có trách thì trách một gã đàn ông vô hình nhục súc nào đó mà lại mang bộ mặt con người. Nhưng biết đâu rằng, tai ương rơi vào một người như chị ta lại là một sự hạnh ngộ. Mà cũng ngộ thật! Sau khi sinh thằng nhỏ, chị ta gần như hết triệu chứng chập chen ấy; thỉnh thoảng khi trời động, cũng còn đi lang thang thơ thẩn, nhưng đi một lúc rồi trở về ngay.

Nhiều người tò mò hỏi thằng Câm là của ai? chị trả lời mỗi lần một khác. Khi thì của một bác nào đó giàu lắm ở cái bãi rất nhiều xe. Bác ta kéo chị lên một cái xe to, nói là lên đó ngủ cho ấm, nhưng lại là để làm cái chuyện ấy. Xong việc, bác ta đóng cửa xe lại đi luôn, chị phải trèo qua cửa sổ để ra. Có khi, lại là một cậu thanh niên choai choai rủ chị đi dạo chơi, vào một cái vườn rộng lắm, rộng đến nổi không nhìn thấy bờ rào. Nó đè chị xuống cái ghế đá mát ơi là mát, rồi dấn lấy dấn để mạnh ơi là mạnh. Chị bấu vào lưng, càng bấu nó càng hăng hơn. Xong rồi, nó lội vội như có ma đuổi đằng đít, bỏ chạy mất để chị lại một mình. May là nó còn có chút đức độ ném trả lại cái quần, chị ngồi dậy tự mặc quần đi về. Lại của một anh nào đó nữa ăn mặc đẹp và đi cái xe sang lắm. Anh ta lấy cái bịt miệng bảo chị đeo vào, chạy xe lòng vòng đưa chị vào một ngôi nhà rất to trong hẻm; vật chị ra giường, hôn chùn chụt lên vú, lên bụng... Miệng thì thào “Thân hình em đẹp quá!”, tay sờ mông, nắn eo; rồi vồ lên người chị hùng hục, rên hừ hừ, cái giường nhún lên tưng tưng, rung rinh mà êm ru. Khi đã mệt lử, ông ta quay mặt, rút túi cho chị tiền rồi mở cửa đi đâu mất, chị lần tìm mãi mới thấy lối ra, tự tìm đường về...

Nghe người ta hỏi hoài, tức cái mình, chị trả lời cụt lủn, “của thằng cha nó!” Hết hỏi.

Khi gia đình tôi chuyển đến ở khu Tam Hoà nầy thì thằng Câm đã ra dáng một thanh niên, nước da ngăm đen bóng như tượng đồng, cơ bắp nổi cuộn thừng, tay chân rắn chắc như dùi đục; không thuộc loại đô con nhưng có thể sánh ngang trai lực điền. Đặc biệt thằng Câm có đôi mắt rất sáng, sáng quắc, thường ánh lên khi giận dữ cũng như lúc vui buồn. Đúng là mắt của người câm! Thằng Câm quí tôi chắc là vì nó biết tôi làm Nhà báo, cũng vui tính và thỉnh thoảng đi đâu về hay gọi cho nó mấy điếu thuốc ba số năm (555). Tôi không hút thuốc nhưng có ai mời là tôi cầm luôn, có khi cầm cả gói về cho nó.

Cả khu phố ai cũng biết và quí mến thằng Câm. Hai mẹ con nó làm công nhật cho cửa hàng buôn bán phế liệu của gia đình tôi ngay nơi đầu hẻm. Hình như đấng tạo hoá lấy mất của nó âm thanh và ngôn ngữ, nên bù đắp lại những đức tính quí giá khác. Người ta cho rằng người câm hay cộc. Thằng Câm chẳng cộc cằn tí nào mà lại vui tính và rất tốt bụng. Đang đứng cân phế liệu mà thấy người già, con nít xớ rớ qua đường, lập tức nó bỏ việc chạy ra ngay, miệng la “hoắy...Hoắy...”, tay huơ lên ngăn xe lại, áp tải người qua đường. Lúc nào cũng thấy Câm cười, ngay cả bị ai trêu ghẹo, chỉ tội là cười không thành tiếng, cố lắm cũng chỉ nghe được vài âm “hục... hặc...” trong cổ họng. Câm rất nhanh nhẹn và chịu khó, ai gọi nhờ việc gì cũng làm, làm cho bằng xong mới chịu ngơi tay. Tiền công trả bao nhiêu tuỳ theo hoàn cảnh từng người và tính chất công việc, gặp nhà khó hay công chuyện giản đơn nó giúp không công, nhưng chẳng ai lợi dụng hay chèn ép hẹm công sức của nó. Ngược lại, có ai đó đưa tiền hơi nhiều và có ý bố thí thêm, nó trả lại liền.

Ở thằng Câm còn có một khả năng đặc biệt “xem mặt bắt hình dong” khi nhìn vào mắt người khác. Có thể nói đó là yếu tố thiên nhãn bẩm sinh. Thấy tôi vừa dắt xe ra, nó chạy tới đứng trước mặt nhìn rồi xuống thế trung bình tấn, khuỳnh hai tay ra phía trước lắc lắc cái cổ tay. Tôi gật đầu. Đúng y rằng tôi đang tìm cậu em cột chèo thường hay đi chiếc xe mô-tô nhãn hiệu Bờ-rô 125 phân khối. Nhìn thấy mấy người đàn ông lơ ngơ đi vào hẻm, nó đón lại nhìn rồi cong ngón tay cái với ngón tay trỏ thành hình tròn để lên mắt. Đúng là họ đang tìm cậu Ti “cận” buôn xe. Nó dẫn chỉ ngay. Ti “cận” đang ngồi nhậu ngoài quán. Một anh chàng nọ dừng xe đầu ngõ có vẻ sốt ruột đứng chờ ai. Nó đi lại nhìn thoáng qua, ưỡn người đưa hai tay vồng trước ngực, rồi chạy vào gọi  ngay chị Gái tiếp viên nhà hàng Trùng Dương, người có bộ ngực bốc lửa. Chị Gái ngúng nguẩy chạy ra ngồi tót lên yên sau, anh ta rồ ga chở chị ta đi mất hút.

Tôi có công việc cần phải đi vắng một thời gian, khi trở về không thấy thằng Câm đâu cả.

Nghe tôi hỏi, mẹ nó trả lời niềm vui lộ ra mặt:

-Nó đã sung vào đội quân bốc vác ở bến cảng rồi chú nờ.

-Thôi thì như thế cũng được. Khoẻ mạnh, nhanh nhẹn và chịu khó, công việc ấy chắc là hợp với nó đấy.

Nghe chừng làm ở đấy cũng vất vả lắm, bận bịu tối ngày, sáng dậy đi từ mờ sáng, chiều đến tối mịt mới về, nhưng bù lại nghe nói dạo này thu nhập của nó cũng khá.

Thăng Câm đi làm rồi, mỗi người một việc, tôi với nó ít có dịp gặp nhau, thậm chí có mấy điếu thuốc thơm bỏ túi không gặp mà cho, để đến mốc meo rồi đem ném vào thùng rác.

Bỗng dưng tôi nghe có tin đồn rằng: Thằng Câm gặp được một ông bố đỡ đầu làm sếp ở cảng giàu ú hụ, không chừng nó cũng sắp sửa làm sếp nay mai. Hằng ngày, xong công việc ở cảng, cậu ta cũng áo quần bảnh bao, rủng rỉnh đồng ra đồng vào, ăn nhậu bù khú như ai. Gặp được vận may, lập tức đời người một bước lên sang, cũng mừng cho nó. Có người lại đoán già đoán non rằng, biết đâu ông bố đỡ đầu ấy lại chính là ông bố thật của nó cũng nên. Kiếp đời người vòng vo ai biết đâu mà lần (?!) Nếu đúng như vậy thì hạnh phúc cho nó quá, lại càng thú vị hơn với cuộc đời!

Máu nghề nghiệp kích thích, tôi la cà xuống cảng, không phải để viết báo mà chỉ để biết thêm, và cũng để thoả tính tò mò. Mà nếu sự thể đúng như thế, thì tôi phải chia vui với nó và có cái để viết. Tính nhân văn cũng lăn lỏi trong từng thân phận con người, cũng đáng được khai thông thành báo, thành văn.

Nhưng, sự việc hoàn toàn không phải như thế, không có một ông bố, ông sếp nào ở đây cả. Chỉ có thằng Câm là sự thật một trăm phần trăm, y như lời đồn thổi - “Hằng ngày, xong công việc ở cảng, cậu ta cũng áo quần bảnh bao, rủng rỉnh đồng ra đồng vào, ăn nhậu bù khú như ai.”

Thời gian đầu vào cảng, thằng Câm làm bốc vác thật, với đức tính như nó, ai cũng thương cũng quí. Mọi người coi nó như cháu con, muốn giúp đỡ gánh gồng nặng nhẹ, có ăn chia thì nó cũng được ưu ái phần hơn. Trong những khi mọi người ngồi nghỉ ngơi châm điếu thuốc, uống ly nước có nó là vui, chọc ghẹo chiêu dụ tiếng cười cho khuây khoả nỗi nhọc nhằn trong khi còng lưng, trần vai lo miếng cơm manh áo. Và rồi, dần dần không biết bắt đầu từ ai và từ lúc nào, thằng Câm trở thành con cưng của tất cả mọi người trong cảng. Từ vị lãnh đạo đến các anh chị ở cảng vụ, hải quan, lao công tạp dịch; từ thuyền trưởng, đại phó tàu viễn dương đến các chàng thuỷ thủ; từ chủ hàng, chủ tàu đến chủ xe, cai thầu bốc xếp; từ các chị bán hàng quanh cảng đến các anh chạy mánh, đội ngũ tiếp viên tiệm rượu, ca ve vũ trường... nó đều bá cổ bá vai được tất; ai có dịp cũng chèo kéo “nịnh nọt” nó, cưng chiều hơn con em trong nhà.

Lạ lắm ư! Bình thường thôi! Cũng có thể coi như chuyện bày binh bố trận trong một cuộc cờ. Thua thiệt đường nầy lại lợi thế đường kia. Trong tất cả các mối quan hệ chằng chịt và phức tạp lắt léo ấy, thằng Câm là chiếc cầu nối, là đầu múi rối rắm của nắm tơ vò. Đó là bí quyết? Tất cả cũng chỉ để tồn tại trong guồng quay chóng mặt của qui luật phố thị sinh tồn. Người có của, nhưng chưa thấy đủ, cần tìm đường làm ăn thêm phú quí sang giàu. Kẻ còn thiếu trước hụt sau phải bươn chải cuộc mưu sinh mong đắp đổi tháng ngày. Và cũng có cả những ai đó mánh mum chụp giật, nhăm nhe cơ hội đánh quả ăn xổi ở thì.

Tàu đi nước ngoài về cập bến có mang theo những thứ ngoài luồng muốn qua mặt Hải quan, cần phải lót đường cho một ai đó mới êm trôi; hàng về cảng cần phải giải phóng nhanh để bớt đi chi phí lưu kho, lưu bãi; cần phải có chất xúc tác bôi trơn ở khâu nào mới mong được cất cầu sớm... Chủ tàu, chủ hàng phải gói ghém “năm lít”, “mươi vé” đi luồn cửa sau, nhưng trong tình hình chống tham nhũng, chống buôn lậu căng như dây đờn, chốn chốn nơi nơi tai vách mạch rừng như thế, bố ai dám đưa, cha ai dám nhận. Đến khi bể bạc, đương sự khai ra, cả đám mất chức, sa vào con đường lao lý, không lo liệu được đường êm đành vào nhà lao ngồi gỡ lịch mọt gông như chơi.

Muốn tránh tiếng né mặt mà được việc, ông anh cứ ngoắt tay gọi thằng Câm lại, nhờ nó vậy. Nó nhìn vào mắt người này biết đưa cho ai, chiếu vào mắt kẻ kia biết có nhận hay không. Xong bén liền. Trôi tuột hết. Đã đi cửa sau phải nín thin thít, lẹ mắt, nhanh tay và biết xoá dấu vết, nên biết trọng dụng thằng Câm là thượng sách. Trong những vụ như thế, lúc đầu thằng Câm chỉ nghĩ là làm giúp người ta thôi, nhưng về sau có ai đó bày cái trò tính chi phần trăm cho nó, cả hai phía đưa và nhận. Đồng tiền không cần ngôn ngữ, trông thấy nó ai lại chẳng ham. Nghĩ cho cùng cũng hợp lý và sòng phẳng theo luật chơi không văn tự. Giới làm ăn họ tự hiểu. Đó là một công việc nguy hiểm đa chiều.

Thuỷ thủ lênh đênh hàng tháng trên đại dương, nay đặt chân lên đất liền, ai đó muốn có một tí mèo mỡ lạ hơi, xả gió. Các em mỏi lòng trông ngóng cánh mày râu cao dàng, khoẻ mạnh, đẹp trai và trong túi rung reng rung rẻng kim ngân, nhưng khát tình đến cháy họng. Chàng, nàng muốn nhắn anh gọi ả nào sạch mũi thơm da, cứ bắn mắt cho thằng Câm là cởi dạ đẹp lòng mà đóng kín như bưng, im hơi lặng tiếng. Riêng cái khoản nầy, thằng Câm chạy chơi miễn phí, nhưng tất cả đều chơi đẹp với nó. Đời thuỷ thủ phong sương và đa tình, các anh chị ăn chơi đẹp lòng, ưng ý, quân tử giai nhân thường rộng rãi phóng tay.

Và còn có biết bao nhiều mối lái mồi chài trong quan hệ làm ăn, mua bán khác trên bến, dưới thuyền; những mối quan hệ không nhìn thấy hình hài, không gọi được thành tên và bóng dáng thằng Câm thấp thoáng đây đó, vẫn là một gạch nối con thoi.

Không phải tất cả công việc môi giới chỉ trỏ trong cơ man mối quan hệ làm ăn, giao du bến bãi chợ trời đều là bất hảo. Nhưng, nhiều mánh lới làm ăn nhì nhằng dích dắc tại cảng, ai còn lạ gì. Có thể nói không ít vụ phải gọi đúng tên là hối lộ, là tham ô, là đút lót... chắc chắn khi đã khởi sự điều tra là cấu thành tội phạm và có đậm nét dấu vết của thằng Câm vào cuộc. Nó là bí quyết của “nhân chứng vật chứng”. Hãy đợi đấy!

Nghe nói cũng đã có lần cơ quan công an triệu thằng Câm đến, vì có ai đổ vấy cho nó chủ mưu trong một vụ đánh người gây thương tích, nhưng không làm cung được. Người câm không không biết nghe và không biết nói, nên họ cũng không biết khai.

Tôi bị dằn vặt. Nhân gian có câu “Ở bầu thì tròn, ở ống thì dài”. Biết đâu đồng tiền có ánh kim loá mắt, làm cho thằng Câm trượt chân vào vòng xoay ma quỷ của nó. Mà cũng có thể thằng Câm đã nhầm lẫn khái niệm, lòng tốt dễ bị lợi dụng và bị xô vào cuộc rồi trở thành nạn nhân. Trình độ như thằng Câm, biết làm sao để lý giải cho nó hiểu được như thế nào là giúp đỡ khác với tiếp tay, là tội phạm và tòng phạm, hối lộ và môi giới hối lộ, mại dâm và môi giới mại dâm... Câm điếc bẩm sinh không phải là đối tượng miễn trừ của pháp luật, là không phải chịu trách nhiệm hình sự. Với nghiệp vụ hình sự, có thể người ta có thừa chứng lý để bắt một người Câm.  Nhưng làm cách nào để thành cung, kết án thì thuộc về nghiệp vụ của cơ quan điều tra.

Tôi cảm thấy mình có lỗi với thằng Câm, cần phải làm một điều gì cho nó khi chưa muộn. Nhất định tôi phải tìm cách khuyên nhủ nó, thà trở về nhặt nhạnh phế liệu với mẹ, ít tiền nhưng đó là những đồng tiền sạch sẽ và lương thiện.

Với suy nghĩ ấy, tôi rông vào cảng tìm thằng Câm. Gặp tôi, nó cũng tỏ thái độ hơi mừng rỡ, chúng tôi chiếu cái nhìn vào mắt nhau. Một lúc lâu, thằng Câm xoè bàn tay trái ra, tay phải làm động tác cầm bút để lên ngoáy ngoáy nhì nhằng. Nó muốn hỏi tôi rằng: “Anh tìm đến để viết báo đấy à?”. Nó liền xua tay và quay đi ngay. Ý nó muốn nói là “Không nên!” và “Không tiếp!”

Tôi buông thõng hai tay buồn rười rượi. Như vậy là thằng Câm không đoán được ý nghĩ của tôi nữa rồi! Nó quay lưng đi thẳng xuống hầm tàu.

Thời niên thiếu của tôi.

Tác giả: Long Nguyễn

,

 Ai trong chúng ta có mấy người lại chối cãi là trong quãng đời niên thiếu của mình thấp thoáng đâu đó hình ảnh ông tầu già, miệng trễ xuống điếu thuốc lá vấn vụng đứng bên xe xực tắc nghi ngút khói? Tiếng chó sủa, tiếng mưa reo vui trên mái lá, mái tôn, tiếng côn trùng hoà lẫn tiếng gõ nhịp nhàng của thằng bé rao hàng văng vẳng gần xa tạo nên một âm thanh gần gũi quen thuộc mà giá như đêm nào bỗng nhiên không gian im bặt đi những thứ tiếng đó ta sẽ cảm thấy lạ lùng lắm.

Xóm tôi ở có hai xe xực tắc. Trong quãng đời niên thiếu của chúng ta, tiếng xực tắc thiết yếu như 1 điều kiện ắt có và đủ, nghĩa là không có không được thì hai xe xực tắc lại trở nên thừa thãi. Quá thừ thãi, thừa đến nỗi gây phiền phức.

Chuyện phiền phức như thế này. Nhắc lại, xóm tôi có những hai xe xực tắc, một ăn rất ngon lại do một ông tầu già làm chủ. Không riêng tôi mà mọi người trong xóm đều công nhận là ngon. Nếu 1 kiệt tác nghệ thuật là 1 tập hợp của những chi tiết tinh vi dầy sáng tạo tính, nếu 1 công trình vĩ dại được xây dựng bằng vô số các tiểu xảo nhà nghề thì có những thứ lắt nhắt không tên gọi làm nên 1 món ăn ngon. Tô hủ tiếu ngon không hẳn chỉ ở nước dùng trong, ngọt mà còn ở những thứ khó nhận ra như tóp mỡ dòn băm đều tay, bắp cải muối ( tàu gọi là cải tằn xại) đậm đà hương vị, nhấm nhấm bằng răng cửa để cảm được cái vị mẳn mẳn khó tả của nó. Không ngòi bút nào có thể diễn tả được cái vị độc đáo ấy. Hôm nào các bạn có thì giờ di ăn tiệm, kêu 1 tô hủ tiếu, gắp 1 chút mẩu vàng vàng rắc trên mặt, nhấm nhấm bằng răng cửa mới hiểu được ý tôi muốn nói, mới hiểu được chữ nghĩa cũng vô dụng khi phải diễn tả những thứ có phẩm tính phi thường. Như 1 bức tranh ngoạn mục tô hủ tiếu còn là sự kết hợp hài hoà của màu sắc. Màu trắng nõn của sợi bánh chen lẫn với những miếng xá xíu xắt mỏng , mỏng đến độ lớp phẩm đỏ viền quanh lát thịt nhỏ như sợi chỉ điều trông dến hay, điểm chút màu nâu của tóp mỡ, màu vàng cải muối, màu xanh của hẹ và xà lách được sắp xếp lên trên theo 1 chủ ý nào đó chứ không phải cứ vứt bừa vào tô. Chỉ nhìn thôi cũng thấy ngon mắt. Bạn ạ con mắt cũng biết ngon.

Trở lại câu chuyện xe xực tắc của ông tầu già. Người Tầu dù ở đâu cũng có những điểm giống nhau. Đó là giấu nghề. Đố các bạn cạy miệng họ để họ chỉ cho cách giữ nóng. Tô hủ tiếu bưng từ xe nấu lần qua dăm bảy ngõ hẻm dưới cơn mưa tầm tã đến tay thực khách vẫn nóng như vừa mới múc. Còn đặc điểm giống nhau nữa là bất kể xe bò viên, sâm bổ lượng hay xực tắc đều có trang trí tranh vẽ trên kiếng. Bên cạnh mấy chữ tàu nhăng nhít chẳng hiểu nghĩa ra làm sao là hình vẽ những điển tích trong truyện tàu như Trúc lâm thất hiền, Ngư tiều canh độc, Bát tiên quá hải, Đào viên kết nghĩa . . . Xe của ông tàu này có hình ba anh em Lưu, Quan, Trương kết nghĩa trong vườn đào. Tôi còn nhớ ông Quan Công có chòm râu dài, mặt đỏ như trái cà chua, ông Trương Phi bụng phệ râu quai nón mặt đen như trôn chảo và 1 ông mặt mũi bình thường chẳng có gì đặc biệt. Tôi đoán là ông Lưu Bị. Trót nói ông Lưu Bị không có gì đặc biệt tôi mới sực nhớ thêm 1 chi tiết đặc biệt là cái nhà ông Lưu Bị trong hình vẽ với lão chủ xe xực tắc có gương mặt giống nhau. Giống lắm các bạn ạ, giống tới nỗi bố tôi gọi là ông Lưu Bị.

Mua cho bố 1 tô hủ tiếu của ông Lưu Bị.

Dần dà cả xóm chẳng ai bảo ai đều gọi là lão Lưu Bị Dường như món ăn muốn được nổi tiếng cũng cần có một cái tên gọi nên ông tầu già cũng vui vẻ chấp nhận danh xưng xực tắc lão Lưu Bị không một lời phản đối.

Lão chủ chiếc xe xực tắc thứ hai ở xóm tôi có cái tên rất khó quên nhưng nếu quên rồi rất khó nhớ lại : Lão Gọn, tên cha sanh mẹ đẻ là Gọn chứ không phải tên thế nhân đặt . Dân Bắc kỳ di cư , có bộ răng đen hùng hồn tố cáo sinh quán. Vì sinh kế chuyển nghề xực tắc chứ không cha truyền con nối như lão Lưu Bị cho nên hẳn nhiên hủ tiếu lão Gọn nhạt như nước ốc lại thiếu cả những thứ thiết yếu để được gọi là hủ tiếu là hẹ và tóp mỡ băm. Tôi còn ngờ xá xíu lão Gọn chỉ là thịt heo luộc nhuộm phẩm đỏ chứ chẳng ướp gia vị gì cả vì khoắng đũa một cái phẩm đỏ nhuộm ngoài miếng thịt phai màu làm tô hủ tiếu trở nên đỏ nhờ nhợ trông hết muốn ăn. Tôi vẫn đinh ninh bắc kỳ chỉ nên nấu phở và chỉ nên nấu phở mà thôi. Hủ tiếu chỉ có người tàu hay dân nam kỳ nấu mới tới. Ăn phải tô hủ tiếu lão Gọn thực khách có cảm giác như bị vu oan điều gì đó, rất bực bội, rất khó chịu.

Đời tôi khổ vì lão Gọn. Thật vậy tôi không nói quá đâu. Cả một quãng đời quá khứ vàng son của tôi chỉ vì lão Gọn mà vẫn cứ vương vấn cái gì đó thiếu toàn bích . Bắt chước lời Chu Công Cẩn trong Tam quốc chí lúc mất Kinh Châu về tay Khổng Minh: "Trời đã sinh ra Du sao còn sinh ra Lượng". Tôi đã có lúc than thầm : "Giời đã sinh ra Bị sao còn sinh ra Gọn" mỗi khi lỡ ăn lầm phải hủ tiếu lão Gọn. Ghét của nào trời trao của đó, tôi bị ăn lầm hoài. Chuyện khá dài dòng, hãy để tôi kể cho có đầu có đuôi nhé.

Em gái của mẹ tôi dĩ nhiên là dì ruột tôi, dì tôi dĩ nhiên là vợ của dượng tôi và tôi dĩ nhiên là cháu của dượng tôi. Hehehe hết dĩ nhiên rồi đến ngẫu nhiên. Một cách ngẫu nhiên dượng tôi làm nghề hớt tóc dạo. Một cái ghế xếp, một tấm khăn choàng, một cái tông đơ cũ mèm, kéo lược . . . tất cả những thứ ấy được bỏ gọn vào trong cái thùng gỗ đằng sau cái pọt ba ga xe đạp. Đồ lề chỉ có thế nên hớt tóc dạo rẻ lắm, chỉ bằng tiền ăn quà sáng của tôi thôi. Xin phép được lạm dụng chữ nhiên một lần nữa. Mặc nhiên tôi và bố tôi là khách hàng hớt tóc quen thuộc của dượng tôi.

Giấc Nam Kha khéo bất bình

Bừng con mắt dậy thấy mình . . . đau quá

Thơ của tôi thế đấy chẳng biết có đúng luật không mà có vẻ ngang ngang thế nào ấy, các bạn đừng cười nhé, tôi chả biết làm thơ đâu. Tiền nào của nấy, khách hớt tóc dạo thường bị cái nạn tông đơ cắn tóc, nghĩa là tóc lên cả rễ lẫn ngọn đau thấu ông bà ông vải. Lim dim thả hồn vào trong giấc Nam Kha xao xác tiếng gà, nỉ non ve sầu gọi nắng, tiếng lạch xạch chiếc tông đơ bóp bằng tay, khách thí phát quy y thỉnh thoảng giật bắn mình lên vì cái tông đơ giở quẻ. Thay vì xin chủ nhà 1 bát nước để mài dao cạo , thể hiện câu tự túc tự cường, thợ hớt tóc dạo thấy nước đâu là dùng nấy cho tiện. Hehehe đối với ông thợ hớt dạo, nước trong mồm là tiện hơn cả. Nhổ phẹt một bãi nước bọt lên tấm da đen xịt rồi cứ thế xoèn xoẹt mài, con dao cũng trở nên sắc ra phết. Bố tôi vốn lo xa, mỗi lần dượng tôi sủa soạn bày đồ nghề ra trước sân nhà đều sai tôi múc sẵn một bát nước lã.

Mẹ tôi với dì tôi thân nhau lắm. Cả hai chị em tính tình đằm thắm nên chẳng mấy khi mất lòng nhau. Ấy thế mà thân nhau lắm cắn nhau đau. Một hôm chẳng biết chuyện gì hai chị em cãi nhau một trận tới bến, lại còn gọi nhau bằng mày tao nữa chứ .Bố tôi rủ tôi với em tôi đi trốn vì sợ bị chửi lây. Ba cha con ngồi tịt ở quán thịt chó đầu ngõ tị nạn . . . Cộng Sản mãi đến tối mới dám mò về. Tưởng chỉ cãi nhau qua loa rồi thôi, giận cá chém thớt : từ nay cấm chỉ hai bố con mày không được hớt tóc nhà "thằng" Tư nữa. Bù lại mỗi tháng mẹ tôi phát tiền cho hai bố con tôi đi hớt tóc trên phố, hớt tiệm đàng hoàng. Tiệm hớt tóc này có cái quạt trần quay vù vù mát lạnh người. Xung quanh tường có treo hình đào kép cải lương nổi tiếng đương thời. Tôi vẫn còn hình dung kép Minh Vương có bộ tóc chải bi ăng tin trông như đít con vịt. Đặc biệt hớt xong có xịt nước hoa thơm phức và bảo đảm tông đơ không cắn tóc. Chỉ phải cái giá tiền đắt gấp mười lần hớt tóc dạo. Phải, chỉ mỗi tội giá tiền quá đắt.

Mẹ tôi tuy đang giận vợ chồng dượng Tư nhưng cũng tính toán dữ lắm. Này nhé mẹ tôi trù tính cơn giận không lâu quá ba tháng. Ba tháng là ba lần hớt tóc, tốn kém đấy nhưng tự ái mà biết sao bây giờ? chẳng lẽ muối mặt để chồng con vẫn hớt dượng nó thì kỳ quá. Một buổi chiều bố tôi thầm thì với tôi :

- Đừng nói với mẹ nghe không, hôm qua ba sang nhà dượng hớt tóc đấy.

Câu nói như 1 sự cho phép ngầm. Chẳng mấy chốc tới phiên tôi được mẹ cho tiền đi cắt tóc:

- Ra viện uốn tóc Ngọc Oanh mà hớt nghe không. Từ nay không hớt dượng Tư nữa.

Tôi dạ dạ vâng vâng rồi phóng thẳng đến nhà dượng Tư hớt tóc. Điều làm tôi ngạc nhiên là hớt xong tiền còn dư nhiều quá , đủ để ăn mấy tô hủ tiếu. Một âm mưu, một ý định phôi thai trong đầu.

Nhà tôi có hai tầng. Vì lợp tôn đêm đêm cả nhà ngủ ở tầng dưới để tránh nóng. Riêng tôi từ khi lên 12 tuổi tôi xin mẹ cho ngủ trên lầu một mình . Nóng đấy nhưng tự do. Nghĩ cho cùng tôi cũng chả làm điều gì khuất tất đâu nhưng một mình một cõi tôi vẫn thấy thích hơn. Có lẽ đến tuổi nào đó người ta bắt đầu nhen nhúm ý chí tự lập.

Đứng trên ban công cầm cái đèn bão đưa lên đưa xuống ra dấu, thằng bé gõ xực tắc hết bỡ ngỡ ngay khi tôi thòng cái gà mên trong có để tiền bằng sợi dây thừng. Vài phút sau cái gà mên được kéo lên nghi ngút khói thơm ngát mũi . Những lần sau thằng bé bán hàng không còn bỡ ngỡ nữa.

Ngay đêm thưởng thức gà mên hủ tiếu đầu tiên, một trục trặc nhỏ làm tôi ân hận mãi : quên đóng cái cửa dẫn xuống cầu thang . Mùi thơm theo luật vật lý thì bay lên nhưng oái oăm thay lại bay xuống dưới nhà. Đặt cái gà mên xuống giường tôi bắt gặp cặp mắt tròn xoe của bé Thảo. Con bé theo mùi thơm mò lên lầu từ lúc nào :

- Anh "Nhong" cho em ăn với. ( Tôi tên Long) .

Nói xong, tự nhiên như ruồi, nó leo lên giường, ngồi xếp bằng, làm dấu Thánh Giá rồi há mồm chờ bón. Thế có tức không cơ chứ.

Mỏng môi hay hớt, dầy môi hay hờn. Chẳng biết môi em tôi thuộc loại gì mà vừa hay hờn mà vừa hay hớt. Hơi tí là nhè, hơi tí là mách mẹ. Vì bí mật quốc phòng, hễ cứ ăn một miếng tôi lại phải đút cho nó một miếng, miếng của nó thường không có thịt. Khi nào lỡ ăn hai miếng mà quên đút, nó ư một tiếng nghe mà phát ghét.

Xin lỗi các bạn . Sáng hôm sau hai anh em bị té re. Chắc có bạn chẳng biết té re là gì đâu , là Tào Tháo đuổi đấy. Nghe người ta nói lão Gọn mỗi khi bán hết hàng họ chuẩn bị về mà vẫn còn khách, lão châm thêm nước lã vào nồi nước dùng để vớt vát được đồng nào hay đồng ấy. Cái Thảo cằn nhằn :

- Sao anh không mua của ông Lưu Bị vừa ngon vừa không sợ Tào Tháo rượt. Bố bảo Tào Tháo sợ ông Lưu Bị lắm mà.

Em tôi thường lẫn ông Tào Tháo trong truyện với ông Lưu Bị ngoài đời như thế. Hậu sinh thường ngu dốt , tôi thấy chẳng cần phải giải thích cho nó hiểu .

Thời gian thấm thoắt thoi đưa . Cũng như tôi em tôi ngày ngày mong cho tóc tôi chóng dài ra. Có lần nó thỏ thẻ với mẹ làm tôi điếng người :

- Mẹ ơi con muốn đi hớt tóc.

Con gái mà bày đặt hớt tóc. Cũng may mẹ tôi chỉ cười không để ý. Mỗi khi tôi mang cái đầu mới cắt về nhà nó nịnh tôi ra mặt :

- Anh Nhong ơi cúi đầu cho em ngửi đi. Đầu anh "xơm" quá hà . (thơm) .

Nó có lối nói chuyện làm xao xuyến lòng người các bạn ạ. Vừa thủ thỉ nói vừa tựa hẳn tấm thân gầy guộc vào người nghe, mặt thì áp vào ngực, tay thì tẩn mẩn nhặt tóc hoặc phủi bụi trên vai áo người nghe. Tôi đoán sau này ai là chồng nó sẽ thương yêu nó lắm .

Tôi có cả tháng trời nghiên cứu tiếng gõ xực tắc. Y như thời Tam quốc, xe lão Gọn bên này thì xe lão Lưu Bị ở bên kia đường, chưa bao giờ tôi thấy cả hai chung một đường hay đụng đầu nhau. Dường như họ có một thoả ước phân chia lãnh thổ hẳn hoi. Mỗi xe xực tắc đều có hai thằng bé trạc tuổi tôi làm giao liên, vừa gõ nhịp vừa nhận tiền vừa giao hàng. Ông chủ chỉ việc múc múc thái thái thôi. Kể cũng nhàn. Lâu ngày tôi học được sự khác biệt trong nhịp gõ rao hàng của 2 lão. Đúng ra cái Thảo là người khám phá ra sự khác biệt đó. Một hôm hai anh em đi mua báo cho bố. Hồi trước tôi hay đi một mình có rủ nó cũng chả thèm đi, bây giờ vì sợ tôi đi ăn lén một mình, nó theo tôi như hình với bóng. Đang đi bỗng nó bấu tay tôi :

- Anh Nhong ơi anh có nghe gì không?

Hai anh em đứng lại lắng tai.

- Tiếng xực tắc. Muốn ăn thì để đến tối.

- Không phải anh à. Lão Lưu Bị kia kìa.

Theo ngón tay chỉ cái Thảo tôi thấy xe xực tắc lão Lưu Bị bên kia đường . Cái Thảo tiếp :

- Tiếng gõ khác với tiếng ông Gọn anh ạ.

À thì ra con bé tinh thật. Nghe kỹ tiếng gõ rao hàng của lão có vẻ khang khác với tiếng của lão Gọn. Hai anh em ngây người đứng nghe một lúc cho quen tai. Tối nay . Phải , tối nay ăn cho bằng được hủ tiếu Lưu Bị.

*  *

  *

Đặc tính của thời gian là làm biến đổi sự vật cũng như phai nhoà đi sự việc. Trải qua những cuộc bể dâu , những điều trông thấy mà đau đớn lòng. Cụ Tiên Điền Nguyễn Du bảo vậy Hùng vĩ như non cao, bao la như biển cả mà thời gian còn làm cho dời đổi huống gì lòng người, nhất là người có tính xởi lởi như mẹ tôi.

- Tóc mày dài rồi đấy . Hễ thấy xe dượng Hai qua đây gọi vào mà hớt.

Câu nói lịch sử này đánh dấu chấm dứt cuộc chiến tranh lạnh giữa mẹ với dì tôi . Cái Thảo đứng hóng chuyện kêu lên phảng phất giọng Nam Ai :

- Mẹ hết giận dì Tư rồi hả mẹ?

Ngần ngừ 1 lúc nó nói tiếp:

- Hay mẹ giận thêm một tháng nữa được không mẹ?

Đã nói con bé này nhiều lúc làm tôi điếng người.

Tổng kết lại hai anh em tôi được ăn vụng dòng dã suốt mấy tháng. Giận một nỗi cứ phải ăn của lão Gọn nhiều hơn lão Lưu Bị. Nấu hủ tiếu dễ thế không học, đằng này lão dạy trẻ con nhái tiếng gõ của lão Lưu Bị, Như thể đoán biết âm mưu lão Gọn, Lưu Bị đổi kiểu gõ soành soạch mà tài tình thay chỉ vài bữa trẻ con nhà lão Gọn bắt chước được ngay. Riết rồi tôi với bé Thảo đành chịu không phân biệt nổi nữa, thỉnh thoảng hai đứa vẫn đi té re. Hehehe !!!

  *   *

    *

Thời niên thiếu của anh em tôi chấm dứt đột ngột khi đất nước được giải phóng, dù tôi mới 13 tuổi và bé Thảo lên chín. Lũ người rừng rú sống đói khát từ lâu làm như ganh tức với dân miền nam thành thị. Khoác lên cổ chúng tôi cái khăn quàng đỏ, mỗi tuần một lần rời trường học phối hợp với công an đi làm công tác đạo đức cách mạng. Bổn phận chúng tôi là theo lũ đầu trâu mặt ngựa đứng ở đầu chợ, thấy các bà các cô mặc quần túm ống là thổi còi, bắt họ đứng yên cho lũ quỷ sứ thọc cái chai vào ống quần phụ nữ nếu không lọt tức là không có đạo đức cách mạng, chúng lấy kéo rạch ống quần người ta lên tận bẹn rồi ngoạc mồm cười hô hố. Chúng không phải thực sự cách mạng. Chúng chỉ là loại người ăn theo cách mạng mà bây giờ, cám ơn nhà nước, bọn ăn theo ấy đã trở về cái thân phận thực thụ của nó: Hạng theo thời húng hiếp dân lành.

Lúc đó người lớn đối với chúng tôi không còn là thần tượng nữa. Có còn lại chăng là mảnh hình hài lam lũ, gặp chúng tôi không dám nhìn thẳng, len lét như rắn mùng năm. Phần chúng tôi cũng nhìn họ bằng con mắt nhìn vào kẻ tội đồ. Chúng tôi không nói những câu đầy ắp tin yêu như trước nữa, chẳng hạn : tao về tao mách mẹ tao, hoặc ba ơi thằng kia nó đánh con . . . . Mất nhân phẩm, người lớn trở nên hèn yếu quá. Trừ đám đầu trâu mặt ngựa của nhà nước còn gọi chúng tôi bằng mỹ từ các em thiếu nhi bác Hồ, người lớn gọi chúng tôi là lũ quỷ sứ, ngay đến bé Thảo bé bỏng của tôi cũng bị gọi là con nhãi ranh, tôi biết thời hoa mộng của tôi, của chúng tôi đã thực sự chấm hết. Khoác lên vai cái khăn quàng đỏ, tròng vào cổ cái còi tu huýt, những thiên thần xinh xắn biến thành bầy ngạ quỷ đi gieo rắc sợ hãi cho muôn người.

Giá mà đừng có cách mạng, đừng có công an, đừng có khăn quàng đỏ thì quãng đời niên thiếu của tôi sẽ có nhiều hoa mộng hơn để kể lại hầu các bạn. Cách mạng đến , chẳng còn gì nữa mà nói. Tạm biệt các bạn nhé!

Kỷ niệm

Thơ của Khuyết Danh

Cho tôi lại ngày nào

Trăng lên bằng ngọn cau

Me tôi ngồi khâu áo

Bên cây đèn dầu hao

Cha tôi ngồi xem báo

Phố xá vắng hiu hiu

Trong đêm mùa khô ráo

Tôi nghe tiếng còi tàu

Cho tôi lại chiều hè

Tôi đi giữa đường quê

Hai bên là hương lúa

Xa xa là ngọn tre

Thấp thoáng vài con nghé

Tiếng nước dưới chân đê

Tôi mê trời mây tía

Không nghe mẹ gọi về

Cho tôi lại nhà trường

Bao nhiêu là người thương

Không ai thù ai oán

Ai cũng bảo tôi ngoan

Tôi yêu thầy tôi lắm

Nhớ tiếng nói vang vang

Tôi theo tà áo trắng

Cô em bạn cùng trường

Cho tôi lại một mùa

Mưa rơi buồn ngoại ô

Đêm đêm đèn trong ngõ

Soi sáng mảnh tim khô

Tôi mơ thành triệu phú

Cứu vớt gái bơ vơ

Tôi mơ thành thi sĩ

Đem thơ dệt mộng hờ

Cho tôi lại còn nhiều

Cho tôi lại tình yêu

Tôi không cần khôn khéo

Tôi không đòi bao nhiêu

Cho tôi lòng non yếu

Dễ khóc dễ tin theo

Cho tôi thời niên thiếu

Cho tôi lại từ đầu

Cho đi lại từ đầu

Chưa đi vội về sau

Xin đi từ thơ ấu

Đi vui và bên nhau

Trong tim thì sôi máu

Khoé mắt có trăng sao

Bông hoa cài trên áo

Trên môi một nguyện cầu :

Cho đi lại từ đầu

Không đi vội về sau

Ðĩa Tóp Mỡ

                                       * Xuân Vũ TRẦN ÐÌNH NGỌC

        Phùng chậm rãi bước trên hè phố Sàigòn. Tám năm qua, từ ngày Phùng đi trình diện để vào trại tù cải tạo - số phận hẩm hiu của hơn một triệu quân, cán, chính miền Nam Việt Nam từ ngày 30-4-1975 -  hết Phan đăng Lưu đến Long Thành, đến Bù gia Mập, Nam Hà, Quảng trị và nhiều trại khác Phùng nhớ không xuể, để cuối cùng, sau gần 10 năm lại trở về Bù gia Mập và bây giờ được tha, Sàigòn dưới mắt Phùng đã có nhiều thay đổi. Những nhà hai, ba tầng lầu mới tinh nhan nhản mọc lên, những con phố lạ xưa kia không có, những tên đường được thay bằng tên mới ...tất cả nhìn Phùng với cái nhìn vô cùng xa lạ.

Phùng dừng lại tần ngần nhìn những căn nhà mới, những căn nhà xưa kia miền Nam chưa mất vào tay Việt cộng, Phùng vẫn thầm mơ ước. Bây giờ, Phùng nghĩ, chủ nhân những căn nhà này không ai khác hơn là những cán bộ Cộng sản, đa phần từ miền Bắc vào Nam sau ngày Sàigòn thất thủ 30-4-1975. Miền đồng bằng sông Cửu Long, vựa lúa Ðông Nam Á, chắc chắn sẽ thu hút những con người vốn sống trong thiếu thốn, kiệt quệ từ cả thế kỷ qua.  Chiến tranh 30 năm, họ chỉ có súng đạn từ Nga Sô, Trung Cộng, Tiệp Khắc, Ðông Ðức...gửi tới cho họ di chém giết.  Họ không đủ cơm ăn, nói gì những xa hoa, hưởng thụ. Và bây giờ có cơ hội hưởng thụ, không bao giờ họ để lỡ dịp may. 

Phùng vừa đi vừa lan man nghĩ đến cuộc tấn công tết Mậu Thân (1968). Dù điên  cuồng tàn sát đồng bào Huế dã man theo lệnh “bác Hồ”, nhiều cán binh Cộng Sản  và thanh thiếu niên theo Cộng Sản ở miền Nam cũng bị quân lực VNCH đánh giết tơi bời. Như hai thằng cháu con người anh họ Phùng, thằng La và thằng Liệt, tuổi mới 15 và 16, cùng với đám bạn hữu, xung phong đi đầu tiến chiếm các mục tiêu của  binh sĩ VNCH, bị bắn chết, thây ngả như rạ. Ðám cán bộ  gốc Bắc la hò phía sau khi thấy “không nuốt nổi” nên đã rút lui an toàn. Còn bây giờ, những người này là chủ nhân ông cả miền Nam trù phú, thóc nhiều tiền lắm, chất xám cũng nhiều, hơn hẳn hai miền Bắc và Trung.  Sở dĩ chất xám trội phát vì trong 21 năm, từ 1954 đến 1975, nền giáo dục Nam Việt nam đã được sửa dổi và cải thiện rất nhiều. Chương trình Pháp - Việt khập khiễng xưa kia đã bị bãi bỏ hẳn để nhường chỗ cho một chương  trình hướng về đất nước Việt, người Việt, chữ Việt, để ươm trồng những mầm non nhiều hi vọng cho tương lai.

Lan man nghĩ, Phùng đã về đến đầu đường Bà Hạt, chỉ còn một khoảng ngắn nữa là đến nhà. Phùng thấy phập phồng trong dạ, nỗi mừng gặp lại vợ con làm đôi chân Phùng quýnh quíu bước không muốn vững. Bộ quần áo tồi tàn trên người, râu tóc đâm tua tủa, đoạn tre già làm gậy chống đi cho vững và cái túi đeo trên vai trong đựng dúm thuốc vấn, cái bàn chải đánh răng và giấy tờ tuỳ thân, Phùng ngó lại mình thấy ngượng ngùng khi mang hình ảnh tàn tạ thế này gặp vợ con. Nhưng liền đó anh lại nghĩ, đây là quốc nạn, đâu chỉ riêng mình anh chịu. Có những người bạn đồng tù không còn được trở về trông thấy gia đình như anh thì sao? Họ đã chết trong tù vì không chịu nổi đói khát, bệnh hoạn và lao động nhọc nhằn, như hai người cùng phòng với anh, Thể và Xước. Còn Tiết ở phòng bên thì bị đánh đập và nhốt trong cô-nếch đến chết vì dám vượt ngục cùng với mấy anh khác. Bỗng nhiên Phùng thở dài. Nỗi ngao ngán hình như không bao giờ rời khỏi tâm trí anh.

Phùng nhìn số nhà trên mỗi tấm vách. Kia, số 187A/124, căn nhà của người em vợ có nhã ý cho vợ con Phùng tá túc từ vài năm nay. Nhà của Phùng, ở mặt đường Trần quốc Toản, đã bị tịch thu ngay từ cuối năm 1975 vì Phùng bị ghép vào tội “nguỵ ác ôn” có nợ máu với nhân dân. Phùng nguyên là Ðại Úy Cảnh Sát trưởng Bót Bà Hạt trước 30-4-1975.

Phùng vừa ló dầu vào cái cửa khép hờ đã nhìn thấy ba đứa con. Thằng Phụng lớn thế này rồi sao ? Hai đứa em nó, con Phương và con Mai cũng lớn. Hồi Phùng đi trình diện, thằng Phụng mới bảy tuổi, con Phương và con Mai mới năm và bốn. Gần chục năm rồi còn gì?

         Ba đứa trẻ đã nhận ra Phùng. Chúng la lớn và chạy ra ôm lấy Phùng:

         “Ba đã về ! Ba đã về ! Ba ngồi xuống đây đi ba !”

         Ðứa đỡ cây gậy, đứa đỡ cái túi vải, Phùng ngồi xuống ghế:

         “Má tụi con đi đâu ?”

         Con Phương nhanh nhẩu:

         “Má đi chợ bán hàng đấy ba.”

         “Mấy giờ má con về ?”

         Thằng Phụng nói hớt:

         “Thường thì gần tối má mới về nhưng hôm nay có ba về, để con ra báo cho má về sớm.”

 Nói rồi nó mở cửa chạy đi. Hai đứa con gái đi lấy nước và khăn mặt cho Phùng rửa mặt. Phùng cảm thấy một niềm an ủi lớn lao và đỡ mệt như vừa được uống một liều thuốc bổ.

         “Chú dì Tân đâu con ?” Phùng hỏi con Phương.

         “Chú sửa xe ở đầu đường, còn dì cũng bán ở chợ như má.”

         “Chị Phượng đâu ?”

         “Chị đi làm, ba. Chị làm ở hợp tác xã đan len.”

         “Ở mãi đâu hả con ?”

         “Ðâu ở Xóm Củi, Chợ lớn ấy ba.”

         “Chị đi bằng gì tới đó ?”

         “Chị có cái xe đạp. Con rót nước trà ba uống nhé ?”

         “Ừ, cho ba một ly.”

         Phùng ngồi ở bàn, vừa uống nước vừa nhìn căn nhà. Bề ngang không được 3m, bề dài chỉ khoảng 9m, còn hơn 1m là vừa bếp vừa cầu tiêu, nhà tắm, vừa chỗ rửa chén. Ba cái giường kê một dẫy dài. Vợ chồng Tân ở trong cùng, giữa là mấy đứa trẻ nằm chung với nhau, ở ngoài cùng là vợ Phùng. Trẻ con, người lớn cứ liệu mà nằm với nhau sao cho thích hợp. Ở Sàigòn bây giờ nhà cửa đắt như vàng, có được chỗ ở tàm tạm thế này là may rồi. Vợ chồng Tân rất thương chị và các cháu nên mới nhường cơm sẻ áo chứ phải người khác, họ cho thuê vài giường tháng tháng cũng có món tiền khá.

Ngồi chờ vợ về, Phùng hỏi hai đứa con gái về việc học hành của chúng. Mai nói:

         “Tụi con chỉ được học đến hết lớp 9 là may rồi. Con cái Ngụy không được học cấp  3 và Ðại học. Thi vào Ðại học, người ta lấy tiêu chuẩn thành phần kỹ lắm.”

         “Thế tụi con định làm gì ?”

         “Tụi con định xin vào hợp tác xã đan len như chị Phượng nhưng không biết có được không ?”

 Phùng và hai đứa con nói đến đó thì Liên cũng về tới. Thằng Phụng gánh gánh hàng cho má. Ðó là hai cái vại, một bên dưa nén, một bên cà pháo muối bằng mắm nêm. Thoạt nhìn Liên, Phùng suýt nhận không ra. Người vợ đẹp đẽ, hồng hào, khoẻ mạnh ngày xưa đã biến mất. Trước mắt chàng bây giờ là một người đàn bà già dặn, nhuốm nhiều nét ưu tư, phong trần, bộ quần áo tầm thường mặc trên người làm tăng vẻ nghèo nàn nhưng vẫn còn phảng phất những nét đẹp quí phái khi trước với đôi mắt tinh anh và nụ cười rất có duyên. Liên nhìn chồng ứa nước mắt. Nàng  tiến lại gần chồng và hai người ôm nhau khóc. Nhưng chỉ mấy chục giây, Liên lấy tay áo quệt nước mắt và đẩy Phùng ra.

         “Khóc không tốt. Tai vách mạch rừng. Anh ngồi nghỉ đi để em làm cơm anh ăn. Nhưng anh đã đi khai báo phường, khóm chưa ?”

         “Anh mới về được hơn giờ đồng hồ, đâu đã biết chỗ nào mà khai với báo !”

         Liên quay bảo con:

         “Mai đưa ba tới Phường để ba khai.”

         Do kinh nghiệm từ những lần trước, con bé  lại ngăn kéo lục đủ giấy tờ xong mới dẫn ba nó đi. Kể không xa gì nhưng đi bộ tới trụ sở Phường 11 cũng phải hơn 15 phút. Khi Phùng vào đến bàn giấy thì đã có hai, ba người ngồi chờ ông chủ tịch Phường và ông Công an Phường. Nhưng họ không có mặt, chỉ có một anh ngồi làm giấy tờ, bảo Phùng ngồi đợi. Cả giờ đồng hồ sau, ông chủ tịch Phường mới về nhưng chưa kịp nói gì thì ông ta đã xua như xua tà:”Tôi đang có công việc khẩn cấp, không thể tiếp các anh, các chị được. Về đi, mai tới !” Cha con Phùng và mấy người kia phải bước ra.”Thì đành vậy.” Phùng thở dài, “đồng bào vô tội” còn bị đối xử như thế huống hồ mình, một thằng tù bị quản chế.”

         “Sao ba con mày đi lâu thế ?” Liên ở trong bếp hỏi vọng lên con Mai.

         “Ông chủ tịch Phường đuổi về, nói mai hãy đến, má.”

         “Tụi bay xuống sắp cơm ba ăn !”

 Cả nhà quây quần quanh cái bàn và 4 cái ghế đóng bằng ván thùng, tác phẩm đầu tay thợ mộc của Tân. Rau cải bắp luộc, nước dầm cà chua, một đĩa dưa nén. Có cơm ăn cho no với vài món tạp nhạp đó cũng quí rồi chẳng hơn nhiều gia đình không kiếm được bấy nhiêu để ăn mỗi ngày trong lúc quá khó khăn này.

 Mấy đứa nhỏ, chắc là Liên đã dặn chúng ở dưới bếp, không đứa nào tơ hào đến một cái đĩa nhỏ để phía Phùng. Ðó là một đĩa tóp mỡ chưa rán kỹ lắm, cố ý để lại những miếng mỡ còn trắng tươi và mập mạp, mọng những nước chứ không phải những miếng tóp mỡ như thường lệ: vàng đậm muốn gần cháy, xác, bã, và khô cong, nghĩa là nước mỡ đã bị vắt ra hết. Thứ tóp mỡ đó trẻ con cũng thích ăn, nhất là trộn chung với một chút nước mắm, một chút đường, ăn với cơm nóng bốc hơi hay với mảnh bánh đa dòn tan, cứ là ngon hết ý.

Nhưng tóp mỡ rán nhội nhội  như nói trên lại còn ngon gấp bội. Cắn miếng mỡ cảm ngay thấy nước mỡ còn phinh phính bên trong ứa ra chân răng , những cái chân răng vốn khô hạn chất béo lâu ngày, và nó với một miếng cơm trắng, ôi cha là ngon, và con tì con vị dường như nhảy nhổm lên ở trong bụng. Tóp mỡ thế mới đúng nghĩa tóp mỡ, và ngày hôm nay, để mừng chồng được tha về, Liên đã cố mua một miếng mỡ vai, bên ngoài có da, thái hơi dầy và chiên sơ lên  gạn bớt nước mỡ ra, sau đó mới cho chút đường, chút hành hoa, chút nước mắm.

“Anh ăn đi ! Món này dành phần anh đó !” Liên cầm đôi đũa chỉ vào đĩa tóp mỡ bên phía Phùng. Phùng nhìn thấy đĩa thịt mỡ mắt sáng lên từ lúc vợ con sắp ra bàn. Mùi thơm mấy nhát hành rán già như trêu ngươi đôi lỗ mũi làm Phùng cứ nuốt nước miếng ừng ực. Từ ngày vào trại tù, duy nhất Tết năm rồi được hai miếng mỡ lợn mỏng tanh, dài hơn hai đốt ngón tay, miệng thằng nào to thì bỏ vào nó lạc đâu mất tiêu, bọn Phùng thường nói đùa với nhau những lúc được chuyện trò cho bớt khổ. Khu nhà bếp ở đây có một anh chặt thịt gà thật giỏi. Một con gà vừa vừa, anh ta có thể chặt chia thành 300, 400 miếng như không mà thịt gà không vụn, không nát. Anh ta nói chỉ cần con dao hơi nặng và thật sắc là ăn tiền. Bởi vậy, thái thịt lợn mỏng và đều như thế, đâu có gì là khó?

Phùng đẩy đĩa tóp mỡ ra giữa bàn, trong lòng chợt nhớ Dần, một anh tù cùng trại, đã có lần xin nhà bếp một lon gô mỡ nước và uống một hơi sạch. Phùng bảo vợ con:

         “ Em và các con ăn mỗi người một miếng cho vui.”

         “Không, anh ăn đi,” Liên nhìn Phùng,”Mới về cực khổ thiếu thốn thì ăn cho lại sức. Mẹ con em cũng mới ăn tóp mỡ hôm qua !”

 Liên phải nói dối để Phùng ăn chứ có mấy khi Liên dám mua mỡ lợn rán lên cho con ăn. Dưa, cà muối, rau luộc, xì dầu, nước mắm, cơm không độn ngô khoai được ăn no là sang lắm rồi. Mười năm Phùng đi tù, ngay ngày Tết Nguyên đán nhiều năm cũng không có miếng thịt bởi thịt đắt quá. Tiền mua nửa kí thịt heo có thể mua được vài chục lít gạo thì ăn làm chi cho phí? Hàng thịt chỉ nguyên thấy vợ cán bộ mua, người dân Nam phải quay về với giưa cải và những con cá, tép vụn vợ cán bộ không bao giờ ngó. Nhiều lúc Liên nghĩ, nếu gọi cách mạng là đổi đời thì cái chuyện mua bán đổi đời này chính là một cuộc cách mạng và không cần nhìn ở đâu xa, nhà khảo sát chỉ nhìn ngay ở chợ là thấy cái hố giầu nghèo sâu sắc do cách mạng đẻ ra.

Dù Phùng gắp cho vợ con người một miếng, nhưng không ai ăn, thảy đều bỏ trở lại đĩa. Phùng thấy ép không được, phải gắp một miếng. Chao, sao nó ngon ! Mới cắn nhẹ vào cái thân dòn dòn, mềm mềm, nước mỡ bùi béo thơm tho đã rịn ra thấm chân răng. Phùng bẻ một miếng bánh đa cho vào miệng nhai chung với tóp mỡ. Bánh dòn tan, những hạt vừng đen lấm tấm trên cái bánh làm bùi và hấp dẫn thêm. Phùng vừa nhai vừa nghĩ từ hồi cha sinh mẹ đẻ đến giờ, Phùng chưa ăn món nào ngon như món tóp mỡ hôm nay. Ðường và nước mắm Liên nêm thật vừa, không ngọt quá, không lợ quá, không nhạt quá, không mặn quá. Phùng vừa nhai vừa nghĩ đến câu chuyện trạng Quiỳnh hầm đá cho vua ăn mà tự nhiên bật cười. Liên thấy chồng vui cũng vui:

         “ Anh có gì thích thú ?”

         Phùng nuốt xong miếng cơm:

         “ Anh đang nghĩ đến chuyện trạng Quỳnh hầm đá. Má con em cũng phải thưởng thức một tí tóp mỡ chứ ?”

Nhưng mấy đứa trẻ ăn nhanh đã đứng lên, cầm luôn mỗi đứa cái chén và đôi đũa của nó xuống chậu rửa bát, chỉ còn Phùng  và Liên. Liên gắp thêm tóp mỡ vào bát Phùng:

         “ Em tính cố bớt ra mua một chai la-de để anh uống cho vui nhưng ngại có đứa nó thấy rồi nó lại đưa ra tổ học tập kiểm thảo, rằng tiền ở đâu mà anh mới về đã đi mua la-de.”

         Phùng thương vợ nhiều hơn:

         “ Thôi em ! Ðược thế này cũng là mừng lắm rồi. Từ ngày vào trại tù cải tạo, có bao giờ anh được ăn cơm không và ăn no như thế này. Em lo cho anh và các con nhiều quá, em bệnh quị xuống đó thì lại khổ cả nhà. Vả lại, như em nói đó, tai vách mạch rừng, ăn uống một chút không bõ bị phê bình kiểm thảo. Cứ bình bình lại hơn.”

Phùng bẻ thêm một mảnh bánh đa,”Thế làm sao em biết cái nghề muối dưa, muối cà này ? Trước 30-4, em có biết những thứ này đâu ?”

         “Ðói bụng đầu gối phải bò,” Liên nói ngọn ngành cho chồng hiểu, “Ông bà mình bảo vậy. Mà thiệt anh à. Anh đi trình diện rồi, còn lại em với bốn đứa con nhỏ. Lúc đó chúng bé tí chứ đâu có được như bây giờ, đã được nhờ cậy. Em nghĩ cách gì cũng phải bung ra buôn bán chút đỉnh mới sống được. Ngồi ăn núi lở, lúc hết trơn vốn liếng thì có muốn xoay xở cũng không xoay xở được nữa. 

Ðầu tiên em tính mở quán cà-phê. Ra phía đầu hẻm che cái bạt lên và đặt cái bàn, ấm nước sôi và mấy cái ly tách. Cũng có khách uống nhưng chỉ được vài ngày là bị đuổi. Chỗ đó sau này người khác làm mà không sao. Người ta nói mụ ấy là bà con của ông Phó chủ tịch Phường. Giờ này họ vây hàng rào, trang hoàng đẹp đẽ và bán khá lắm. Em phải quay ra bán rau trái ở chợ. Nhưng rau trái cũng khó ăn. Bạn hàng đưa tới mình phải lấy nhiều, không lần sau họ không giao nữa. Lấy nhiều phải bán được nhiều, bán ế rau trái hư, lỗ trông thấy. Vì vậy lấy rau trái bán được vài tuần, em phải ngưng xoay qua cái khác. Em nghĩ giưa cải bẹ và cà pháo bán được mà lại lâu hư, cái chợ nhỏ đầu dường này bây giờ đa số dân nghèo chỉ giưa mắm qua ngày, tiền đâu mà ăn cá ăn thịt nên giưa cà chắc phải đắt.

Em bèn đi chợ Cầu Ông Lãnh mua cải muối giưa và cà pháo. Em hỏi cách làm từ chị Ban, trước ở khu gia binh Nguyễn tri Phương với mình đó, anh còn nhớ vợ chồng chỉ không ? Em làm y như sự chỉ dẫn của chỉ nhưng lạ này, cái dưa mặt đen đen, xám xám làm sao, trông không ngon lành gì, không bắt mắt người mua. Mẻ giưa em lựa ra đổ đi gần hết vì sợ người ta chỉ mua một lần, không đến hàng mình nữa. May mắn sao bữa đó em sang nhà bác Tám trong xóm hỏi vay bác chén muối làm dưa vì chiều hôm lúc về, em vội vàng quên tuốt. Trong lúc vui chuyện, em phàn nàn với bác Tám sao giưa em làm lúc ngấu nó không vàng như giưa người ta mà mặt nó lại mét mét, xám xám nên bán không được.”

Bác Tám cười bảo em:

         “Làm giưa, muối cà là cả một kỹ thuật đấy cháu.  Bác sẽ cho cháu công thức muối, đường, hàn the bao nhiêu cho 10 kí rau giưa. Nhưng trước hết, cháu hãy sang mấy nhà lối xóm gần đây như nhà ông Vịnh, bà Chắt... xin lấy vài xô nước họ ngâm đậu hũ. Ðem nước đó về rửa rau cải bẹ cho sạch ngâm vào, sau khi đã phơi cho rau tái tái. Qua một đêm mới vớt rau ra làm. Bảo đảm dưa có mầu vàng ươm, ăn dòn và ngon.

         Còn cà ghém thì cháu lựa những trái ngon để nguyên. Những trái sâu sia hay có tì vết cần khoét bỏ chỗ không ngon đi, cả hai thứ đó đều ngâm riêng mắm nêm. Thứ kém bán rẻ tiền, thứ ngon giữ nguyên giá. Cà mắm bán được cũng có tiền lắm, cháu à !”

        Anh biết không, từ đó em nghe lời bác Tám, giưa cà làm ra, theo đúng sự chỉ dẫn của bác, bán chạy lắm. Có ngày em bán cả vại giưa và vại cà. Ði mua, phơi, ngâm, muối không kịp. Nhờ vậy mấy mẹ con mới có miếng ăn. Giưa mắm tuy cũng vất vả nhưng còn đỡ hơn nhiều thứ khác vì nó ít hư thối. Giưa em vừa chua đã bán dóc tay. Các bà vợ cán bộ từ ngoài Bắc vào đi chợ là thế nào cũng mò đến hai vại giưa, cà của em vì người nọ chỉ người kia. Họ nói họ ghiền, ăn canh mồng tơi, rau đay mà không có giưa hoặc cà muối của em là mất ngon một nửa. Tiền có được để  em với Phượng đi thăm anh mấy chuyến tiếp tế cũng do hai vại giưa, cà này đấy. Nếu không có bác Tám chỉ nghề cho thì không biết em sẽ làm cái gì để mấy mẹ con sinh sống. Xin vào làm nơi này nơi kia thì phải đút lót, hối lộ, có người phải bán cả thân xác cho bọn cán bộ. Lại còn xét thành phần ráo riết lắm. Em là vợ Sĩ quan “Nguỵ” đi học tập cải tạo thì chẳng nơi nào mướn, đi mỏi chân nạp đơn thôi. Thật là một thời buổi hãi hùng ghê gớm, anh à !”

Phùng càng nghe càng thương vợ con. Con người ta, lúc phú quí giầu sang khó đo được lòng dạ, khó biết được khả năng. Chỉ khi hoạn nạn, đau khổ cùng cực mới thấy ai xấu, ai tốt, ai hay, ai dở.

         Chiều dần dần xuống trên xóm nghèo Bà Hạt chen chúc, bí hơi, ngột ngạt. Vài làn khói mỏng manh từ bếp củi nhà ai toả trên mái bếp, lượn lờ, dính dấp như chưa muốn tan loãng vào không gian đặc sệt, hầm hập nóng và rít rít mồ hôi. Những nhà có quạt điện thì chạy quạt điện, có máy lạnh như những nhà cán bộ giầu có thì chạy máy lạnh. Nhà không có gì hết như vợ chồng Phùng thì đành chờ những trận mưa đầu mùa hoặc phe phẩy cái quạt giấy trên tay.

Vừa lên đèn thì Phượng về. Nó vừa thấy Phùng là chạy đến ôm lấy ba mà khóc. Sau mấy câu hỏi han, Phượng đi kiếm cơm ăn. Phượng đang ăn cơm thì vợ chồng Tân - Lệ và hai đứa con cũng về tới. Tân gặp lại Phùng rất mừng vì chẳng những là anh em cột chèo, Phùng còn là ân nhân của gia đình Tân khi xưa khi cha của Tân vướng vào một vụ làm ăn bị nghi ngờ là có bàn tay của Việt cộng ở “cục R” nhúng vào và cha Tân bị bắt. Phùng kiếm tài liệu, chứng nhân trong cuộc để minh oan cho ông cụ đã trên 65 tuổi và nhờ thế, ông được tha. Mối ân tình khó quên nên khi Phùng mắc vào vòng lao tù cải tạo, ông thân sinh ra Tân bảo Tân hãy bao bọc vợ con Phùng để trả cái ơn khi xưa.

 Tân bảo thằng con trai xách cái vỏ chai để đổi, đi mua một chai la-de nội hoá nhắm với mấy củ đậu phọng rang để cùng Phùng mừng ngày tái ngộ.

         “Kệ nó, lâu lâu ăn mừng một tí cũng không được sao ? Tôi với anh Phùng tối nay là phải say.”

         Không hiểu Tân muốn nói say là say làm sao ? La-de nội hoá nhạt như nước ốc không thì lại có cồn uống nhức đầu, một mình Tân uống thả dàn phải 6 chai mới thấm. Nay có thêm Phùng mà chỉ một chai. Chắc là say tưởng tượng,  không thì vợ nó đâu có đưa thêm tiền đi mua. Chẳng phải Lệ quá dè sẻn nhưng hoàn cảnh bắt thế. Tân sửa xe không lấy gì làm đông khách, có ngày chỉ đủ mua bữa cơm trưa. Còn Lệ cũng như Liên, lần hồi chợ này chợ kia với vài vại giưa, vại cà, lo cho gia đình đủ ăn đã mừng khấp khởi.

Lúc Tân với Phùng đang chén chú chén anh với đĩa rau muống luộc và mấy hột đậu phọng thì có tiếng gõ cửa. Người nhà chưa kịp ra thì người đó đã tự mở lấy vì cửa khép hờ. Anh ta vào tới nơi. Tân vừa nhìn thấy y đã hoảng hồn:

         “ Thưa cán bộ. Mời cán bộ ngồi.”

         Anh Công an Phường tên Dỏng không ngồi. Hai con mắt anh ta láo liên kiểm soát những món ăn trên bàn xem có gì đáng giá. Chai bia lừng lững mầu nâu sậm mới rót hết một nửa có vẻ oai phong hơn cả.

         “ Anh này là ai ?” Dỏng hất hàm hỏi Tân.

         “Thưa cán bô, anh Phùng, chồng chị Phùng và ba các cháu. Mới được tha về từ trại cải tạo.”

         “ Về bao giờ ? Khai báo gì chưa ?”

         Phùng trả lời:

         “ Thưa cán bộ, tôi về đến nhà buổi trưa nay. Tôi ra ngay trụ sở Phường để khai với ông Phường trưởng và cán bộ nhưng tôi không được gặp cán bộ, còn ông Phường trưởng thì nói về sớm mai ra.”

         “Vợ anh đâu ?” Y vẫn giọng trịch thượng.

         Liên vội nhích người ra từ góc phòng cho y nhìn thấy.

         “ Thưa cán bộ, tôi đây ạ. “

         Y nhìn chăm chăm vào  người Liên như muốn ăn tươi nuốt sống Liên:

         “ Tôi đã báo cho chị một năm nay, gia đình chị phải đi Kinh tế mới mà chị cứ chần chờ. Lần nầy là lần chót tôi cho chị hay, nếu trong vòng một tháng kể từ hôm nay, gia đình chị không đi thì chúng tôi cắt hộ khẩu và đưa xe xúc chị và con cái chị di. Nghe không ? Bây giờ lại có thêm chồng chị, nhập vào sổ gia đình của chị và đi luôn.”

Liên tái mặt, nước mắt rơi vòng quanh, trong lòng thầm nghĩ chỉ vì Liên cự tuyệt y nhiều lần trong khi y say mê Liên như điếu đổ, đã nhiều lần y tới lều bán hàng của Liên để hẹn hò Liên đi chơi sau khi Liên dọn hàng về. Lẽ ra Liên đã phải đi Kinh tế mới lâu rồi nhưng vì có y che chở, nói với Phường trưởng cho,  nên mẹ con Liên được ở lại cho đến ngày hôm nay. Bây giờ Phùng về, dù sao Phùng cũng là cái chướng ngại lớn cho y khi y muốn ra chợ nhìn mặt Liên cho đỡ nhớ và hẹn hò đi chơi với y dù chưa một lần Liên đi.  Ðôi khi y mang bánh trái đến lều cho Liên nhưng Liên từ chối khéo, không nhận, y càng yêu mê mệt hơn  trong khi y đã có vợ và bốn đứa con 12 tuổi sấp xuống. Vợ y,  dăm ba ngày lại đến Liên mua giưa, cà nén. Chị này già hơn y nhiều, xấu, quê mùa, nói ngọng như nhiều chị cán bộ khác từ Bắc vào: quả tứng, con tâu, con nợn, bộ nòng, cái lón, cái lồi....Nghe nhiều người nói thì chị này do Ðảng tác thành cho Dỏng  mặc dù Dỏng không ưng lấy thị. Nhưng lệnh của Ðảng, y phải giả bộ sung sướng mà cám ơn. Có lần y nói với Liên, nếu Liên bằng lòng lấy y, y sẽ xin li dị vợ để sống với Liên và sẽ yêu chiều Liên hết mức. Con cái Liên y cũng sẽ bao bọc săn sóc luôn.     

Liên năn nỉ:

         “ Thưa cán bộ, xin cán bộ thương. Chồng tôi vừa mới về hôm nay. Anh ấy đau yếu bệnh hoạn như cán bộ thấy đó. Xin cán bộ cho chúng tôi hoãn thêm một năm nữa kẻo đi Kinh tế ngay bây giờ thì e chồng tôi không chịu nổi lam sơn chướng khí mà thuốc men thì nghèo quá không có tiền mua.”

Vì ai thì còn được chứ vì cái thằng chồng của chị ? Cho nó chết sớm đi hay hơn. Tên Dỏng  muốn nói lớn những ý nghĩ,  y gằn giọng mai mỉa:

         “Chắc chị là mẹ tôi đó. Mẹ tôi lệnh trên bắt đi cũng phải đi, đừng nói là chị. Tôi thương chị nhưng trên có thương tôi không ? Tôi đã chần chờ cho chị quá lâu rồi. Chị biết điều đó mà !”

Y dằn mạnh hai câu cuối để Liên nhớ ra ơn huệ y đã làm cho Liên nhưng Liên không thoả mãn đòi hỏi của y  và sở dĩ Liên còn ỏ lại Sàigòn hôm nay là vì y gia ơn cho Liên, hi vọng Liên sẽ đổi ý và ngả vào vòng tay của y. Liên nghe y nói với giọng điệu đó cũng biết y muốn kể ơn.  Ði ăn, đi chơi với y một buổi tối, thoả mãn cái y thèm muốn cũng có thể nán lại Sàigòn được sáu tháng, môt năm nữa. Nhưng Liên không thể phản bội Phùng, từ ngày Phùng đi tù, chẳng phải chỉ tên Dỏng này mà còn nhièu tên Dỏng khác. Ấy là Liên đã lam lũ, vất vả, tiều tụy, xấu đi rất nhiều chứ như còn thời Phùng đang là Ðại Úy thì không biết chúng mê mệt Liên đến đâu. Khi Phùng còn đang ở trong tù, Liên nói dối mấy đứa con đi chơi rất dễ, Liên còn không làm huống hồ nay Phùng đã về. Y làm tình làm tội sao cũng phải chịu. Nước mất, nhà tan là lẽ đương nhiên.

 Trong khi tên Dỏng, một chân đặt trên ghế, một chân đứng trên nền nhà, hai tay chống nạnh nhìn Liên trừng trừng như muốn ăn tươi nuốt sống Liên thì Liên đứng cúi mặt lặng lẽ khóc, chẳng biết làm sao. Liên nghĩ trong lòng giá Liên xấu xí thì có lẽ đỡ khổ hơn. Trẻ con, người lớn trong nhà rầu rầu như có đám tang. Trước khi đi, tên Dỏng còn nói:

         “ Ngày mai chị dẫn chồng chị ra Phường khai nhâp hộ khẩu cho chồng chị và trình diện ông Phường trưởng và tôi luôn thể. Chị phải ký vào tờ giấy hứa đi kinh tế trong vòng một tháng. Nghe không ? ”

         Nói xong, y nhìn Liên một cái nhìn dài từ đầu đến chân, nuốt nước miếng rồi bỏ đi.

Ngày hôm sau, sau thủ tục tại Phường, Liên lại ra chợ. Vừa sắp hàng ra xong được mười lăm phút thì tên Dỏng đi xe gắn máy tới. Liên thất sắc nhưng y đã ngồi xuống cái ghế dành cho khách ngồi, bảo nhỏ với Liên:

         “ Vì tôi thương em lắm, thế nào cũng phải lấy em cho bằng được, vậy tôi hỏi em một lần chót. Nếu em ưng tôi thì mọi chuyện tôi sẽ lo liệu. Em và gia đình sẽ được ở lại đây sáu tháng, sau đó đi Kinh tế mới nhưng lên đến trên đó một tuần là tôi lên đón em về Sàigòn với tôi. Tôi sẽ li dị vợ tôi. Còn em lúc đó đã có người làm đơn cho em li dị chồng em. Mọi chuyện sẽ ổn thoả. Em sẽ sung sướng chứ không cực khổ như thế này. Em ưng nha, để tôi còn lo liệu ?”

Liên biết không thể bẳn gắt với y, phải dịu dàng là hơn:

         “ Không được đâu, cán bộ ! Chồng tôi đi trại cải tạo chục năm trời nay mới về, tình nghĩa vợ chồng ai có thể làm thế được. Hơn nữa, tôi còn bốn  đứa con. Chúng không thể sống thiếu tôi. Thôi thì cán bộ kiếm người khác không bận chồng con. Cán bộ có lòng nghĩ đến tôi, tôi xin cám ơn nhưng không thể nào làm gì được.”

         “Sao em cứ tôi với cán bộ? Em gọi tôi bằng anh xưng em cho tôi sung sướng một tí nào? Mất mát gì không?”

Giọng y thực tha thiết:

“Bởi vậy từ lâu nay, tôi bảo em thương tôi đi mà em chẳng chịu. Em có biết không, hình ảnh em không lúc nào rời trí óc tôi, nhiều đêm tôi không ngủ được, cứ nằm trăn trở mà nhớ em. Tôi sẽ yêu em mãi mãi, lo cho em và cả các con em mãi mãi. Tin tôi đi!”

Ngưng một chút, y lại nói tiếp:

“Giờ này lỡ hết cả. Tự em không nghe lời tôi mà ra. Tôi giận em lắm! Tôi không lo cho em nữa là em sẽ thấy ngay! Em sẽ khổ, con em sẽ khổ, chồng em sẽ khổ!”

 Liên năn nỉ y:

         “ Thôi xin cán bộ đi làm việc để tôi bán hàng kẻo hôm nay ra Phường đã mất bán buổi sáng. Con tôi nó trở lại đây ngay bây giờ, nó nhìn thấy không tiện.”

        Dỏng móc túi:

         “Thế em có cần tiền tiêu tôi đưa ?”

         “ Không, tôi không cần đâu, cán bộ.”

Nhưng tên Dỏng móc trong túi một xấp bạc mới tinh trao Liên:

“Đây là 300 đô và 5 triệu. Em cứ cầm, tiêu gì thì tiêu. Tôi biết em cần tiền! Sau này còn nhiều chứ không phải chút xíu thế này đâu. Em cứ tiêu cho tôi vui!”

Liên không cầm:

“Tôi không cần tiền đâu cán bộ. Cán bộ cất đi kẻo người ta nhìn thấy lại lôi thôi. Thôi cán bộ đi làm việc đi!”

Dỏng thở dài sườn sượt. Ngoài cấp trên, y chưa từng chịu thua ai mà đến người đàn bà vợ thằng “Nguỵ” này y cảm thấy như thằng đi ăn xin. Nhưng y nghĩ xin ái tình có gì là nhục? Mai mốt y làm chủ cái thân thể nõn nường và khuôn mặt có duyên, nhất là nụ cười, giọng nói ấy thì y hoàn toàn sung sướng. Y nhìn đắm đuối Liên một lần chót, nuốt nước miếng rồi nổ máy phóng ra đường. Cái con người mới khó làm sao, mà xinh đẹp làm sao! Y có tính ghen kinh khủng nên người đàn bà nào càng khó tán y càng mết bởi y cho rằng như thế khó mất. Dễ với mình ắt dễ với người khác, thứ đó y không chơi. Từng nghe bạn bè nói nhiều thằng phải dâng vợ cho thủ trưởng vì thủ trưởng khoái vợ nó, Dỏng rùng mình. Y nghĩ khi có Liên rồi là phải giam ở nhà, hội hè, họp hành cứ nói dối là bệnh, không cho chường mặt ra là xong!

Thời bao cấp

Ngày trước những lúc rảnh rỗi tôi với thằng bạn nối khố cùng phố và bố tôi thường đứng ở trước cửa nhà vừa nói chuyện vừa lơ đãng nhìn dòng người gánh gồng rau quả từ ngoại thành vào thành phố. Hồi đó không có xe máy thồ như bây giờ và hình như cũng hiếm những người buôn bán lớn cho nên hầu hết đi chợ đều là các bà các chị quang gánh tuềnh toàng: bên mấy bó rau, bên mấy củ khoai dong riềng, bên này mấy con trai con hến bên kia là mớ tôm đồng dù được che bằng cành lá xoan xanh biếc vẫn cứ nhảy lao xao, bên thì xảo rau tập tàng hái trong vườn nhà thêm mấy bông thiên lý điệu đàng, bên là cái lồng nhốt độc chú gà trống choai chốc chốc hứng chí vươn cái cổ có màu lông đỏ tía lên gáy te te.

Thi thoảng có bà còn treo lắt lẻo nơi đầu đòn gánh một con cá chép to bằng bàn tay tươi rói, cái đuôi màu đỏ của nó cứ quẫy hết bên này sang bên khác. Họa hoằn lắm chúng tôi nhìn thấy cũng treo ở đầu đòn gánh là một con ba ba to bằng cái vung nồi cơm. Con ba ba thò cái cổ dài ngóc bên nọ ngóc bên kia theo nhịp gánh. Sự kiện này đặc biệt thu hút sự chú ý của bọn trẻ con. Lũ trẻ xoắn xuýt chạy theo. Đúng lúc ấy mà gặp người  hỏi mua, bà bán hàng dừng lại là cả bọn xúm xít vây quanh. Có đứa còn cầm một cành que dứ dứ vào mồm con ba ba. Rất nhanh con ba ba đớp lấy thanh que và rụt ngay cổ lại mặc cho mấy thằng tha hồ kéo nó vẫn không chịu nhả ra. Cho đến khi bà bán hàng không kiên nhẫn được nữa quát một tiếng là cả bọn kêu ré lên rồi chạy tán loạn. Thời đó những người nông dân đem bán tất cả những gì trồng được trong vườn nhà, nuôi được trong sân nhà, bắt được tại ao nhà. Cái thời mà kinh tế mang nặng tính tự cung tự cấp theo kiểu sản xuất nhỏ cộng với sự hỗ trợ phần lớn của nhà nước – thời mà sau này được định danh là "Thời bao cấp".

Hồi đó, tôi nghĩ, chắc không có khái niệm kinh tế thị trường hay kinh tế bao cấp. Vì đơn giản, giống như ta còn đang sống ở trong quả bầu thì không thể biết hình thù nó ra sao, chỉ khi chui ra khỏi nó rồi mới biết nó có hình tròn. Cho nên những khái niệm này chắc chắn xuất hiện sau thời "sụp đổ" của chủ nghĩa bao cấp. Nghe nói năm ngoái năm kia gì đó Hà nội mình có tổ chức triển lãm "Hà nội thời bao cấp" đã thu hút được rất đông người đến xem, đủ các thành phần, đủ mọi lứa tuổi. Những người thế hệ U40-50 đến để nhớ về một thời gian khó nhưng cũng rất đỗi tự hào. Những người thế hệ 8X, 9X đến để mong thấu hiểu hơn cuộc sống một thời của bố mẹ, ông bà và cả vì tò mò nữa. Không tò mò sao được khi nghe nói những thứ bây giờ chỉ cần một cú phôn là có người mang đến tận nơi với lời cám ơn chân thành, với thái độ ân cần như của thần dân đối với Thượng đế cộng thêm bao nhiêu ưu đãi khuyến mại nữa thì ngày xưa phải mua có định lượng, phải có bìa, có sổ, có tem phiếu, phải xếp hàng, phải giành giật mới mong đến phần mình.

Tôi hỏi con trai mình, cũng thế hệ 8X có biết gì về thời bao cấp không? Nó hỏi lại, bao cấp là cái gì? Tôi muốn nói để nó dễ hiểu nên trả lời: Bao cấp là xếp hàng. Nó bảo, thế thì con biết rồi, vì hồi 5-6 tuổi con có mang can đi xếp hàng mua dầu cho mẹ. Thế hệ con trai tôi có lẽ là sản phẩm cuối cùng của thời bao cấp. Vì hồi mới đẻ nó, tôi còn phải khổ sở cầm giấy chứng sinh của nó nhờ vả chạy chọt mãi mới kiếm được phiếu mua sữa cho con. Rồi làm sổ gạo, tem phiếu thực phẩm. Vợ chồng tôi mới ra trường phiếu loại E, tháng được mua 3 lạng thịt. Con tôi loại phiếu TR dành cho trẻ con tháng được lạng rưỡi thịt nhưng cũng tháng có tháng không. Vì nhiều khi cửa hàng không có thịt tươi thì đành lấy thịt ướp muối, lấy mỡ thậm chí lấy đậu phụ trừ vào tiêu chuẩn thịt. Ít ỏi vậy mà hồi đó người ta giữ gìn sổ gạo và tem phiếu thực phẩm còn hơn giữ gìn con ngươi của mắt mình. Vì tất cả các loại tem phiếu chỉ cấp mỗi năm một lần và chỉ một lần thôi nên để mất cầm chắc là đói. Cho nên không có bộ mặt nào thảm hại hơn bộ mặt bị mất sổ gạo. Vì thế "mặt nghệt như bị mất sổ gạo" đã trở thành thành ngữ phổ biến một thời.

Mỗi nền kinh tế đều có sản phẩm đặc trưng tiêu biểu của mình. Nền kinh tế thị trường đã cho ra đời một từ mới "cave"- để chỉ một bộ phận đông đảo các em chân dài, mắt xanh mỏ đỏ chuyên sống bằng nghề tiếp thị thân xác. Từ này và nghề này không biết đã đã có nhà khảo cứu nào công bố chính xác niên đại xuất hiện của chúng chưa? Tôi không rõ. Nhưng theo sự hiểu biết hạn hẹp của tôi thì đến tận năm 90 của thế kỷ trước nghề này mới chỉ là manh nha. Bây giờ Karaoke đã là món khoái khẩu của đại bộ phận dân cư từ nông thôn đến thành thị. Nhưng ngày ấy Karaoke chưa có trong đầu bất cứ người dân Việt nào dù chỉ là ý niệm. Nhà hàng đã hiếm nhà hàng sang trọng lại càng cực hiếm. Quán Hoa hồng ở Trần Quốc Toản là một trong những quán đầu tiên ở Hà nội mọc lên vào thời kỳ đổi mới và mang phong cách phục vụ hoàn toàn khác lạ nên rất được dân sành điệu thời đó thường xuyên lui tới. Tôi, một cán bộ khoa học nghèo kiết xác tất nhiên không đủ mác mỏ để đến những nơi như thế. Nhưng nhờ chơi với những ông bạn có đẳng cấp nên đã một lần tôi được hiện diện và tận thưởng không khí ở đây. Bởi quá quen với cảnh phải chen lấn giành giật nơi cửa hàng ăn Mậu dịch, quá quen với thái độ lườm nguýt chao chát của mấy cô nhân viên quốc doanh nên khi bước vào đây tôi đã thật sự bị choáng. Thức ăn sơn hào hải vị đầy bàn, rượu bia ngoại có người rót, ăn có người bón đút. Những người đó, những cô gái xinh đẹp ngồi bên thực khách khi đó chỉ có một tên gọi rất trung tính: Nhân viên nhà hàng, phục vụ nhà hàng. Và công việc của họ là rót, là gắp cả cho mình cả cho khách càng nhiều càng tốt miễn sao cuối buổi nhận tiền lương tiền thưởng của chủ, cuối tiệc nhận tiền bo của khách. Khái niệm tiền bo, vì thế, có lẽ cũng ra đời từ thời này. Còn chuyện "đi" khách và việc họ được xã hội phong tặng là "cave" thì chắc là chuyện của hồi sau - hồi mà các quán karaoke mọc nhanh và nhiều như nấm sau mưa. Rất tiếc hồi đó tôi không còn ở Việt nam nữa nên không được mục sở thị.

Nếu các em cave là sản phẩm nhãn tiền của thời kinh tế thị trường thì các chị phe tem phiếu là con đẻ tiêu biểu của thời bao cấp. Nếu các em cave lấy nhan sắc của mình làm kế sinh nhai thì các chị phe tem phiếu lấy bản lĩnh của mình làm kế tác nghiệp. Nếu các em cave sống nhờ vào tiền bo của khách thì các chị phe tem phiếu sống nhờ vào sự chênh lệch giữa giá cả chợ đen với giá mậu dịch. Cũng là phụ nữ nhưng nhìn các em cave màu mè đài các bao nhiêu  thì các chị phe tem phiếu nhếch nhác bụi bặm bấy nhiêu. Nhưng những lúc nhàn tản ngồi đợi khách thì cả các em cave thời nay hay các chị phe tem phiếu ngày xưa đều "thở“ ra những ngôn từ không thể tiêu hóa được. Để chê một phụ nữ nào đó ăn nói cong cớn xấc xược, người Hà nội ngày ấy thường nói kiểu so sánh: "ăn nói như mấy con mụ phe tem phiếu“. Nhưng dù khen dù chê, như một sản phẩm tất yếu, các chị vẫn chềnh ềnh tồn tại ngay trên mặt tiền của các cửa hàng mậu dịch hay đứng ngay trước các quầy bán thực phẩm trong các chợ. Hễ ai có nhu cầu bán tem phiếu là các chị lao ra giành giật làm người bán nhiều khi phát hoảng. Cảnh thường thấy ở các quầy bán thực phẩm hồi đó là rổ rá sứt cạp, gạch ngói vỡ, nón mê, mũ bẹp nằm chen nhau thay thế người xếp hàng. Chỉ cần một tiếng hô, hàng về, là lập tức mọi người nhốn nháo nhận gạch nhận rổ của mình và như một lẽ đương nhiên các chị phe tem phiếu vẫn là những người xếp hàng đầu. Và vì đứng hàng đầu lại móc ngoặc với các nhân viên bán hàng nên miếng thịt nào ngon các chị chọn trước. Đến lượt mình hoặc là hết hàng hoặc chỉ còn vài miếng bèo nhèo nếu cất lời chê bai thì thể nào cũng nhận được một cái nguýt dài của bà bán thịt kèm theo câu đe dọa: không mua thì thôi, để người khác mua. Thế là dù trong lòng hậm hực nhưng vẫn phải mua vì nếu không lại mất  thêm một buổi  xếp hàng nữa mà kết quả đã chắc gì hơn.

Hàng hóa khan hiếm, đời sống khó khăn nhọc nhằn như vậy nhưng những người đã sống qua thời đó, giờ nghĩ lại, vẫn thấy như mình đã sống qua một thời đáng nhớ. Giống như chẳng ai thích chiến tranh, nhưng nếu ai đã từng cầm súng trong cuộc chiến tranh vệ quốc  thì dù trong lòng còn nặng trĩu những nỗi đau mất mát vẫn không giấu được cảm giác tự hào vì những năm tháng hào hùng mình đã đi qua. Tương tự như những người dân đông Đức bây giờ và cả những người Việt lao động thời đông Đức đều càng ngày càng cảm thấy nuối tiếc một thời DDR măc dù họ biết không thể quay lại và cũng không nên quay lại. Thế mới biết vật chất là quan trọng nhưng không phải là tất cả. Cái mà ai cũng nuối tiếc và ghi nhận ở thời đó chính là tình người. Bố tôi đã vĩnh viễn rời xa cuộc đời này cách đây đã 15 năm rồi, nhưng tôi vẫn nhớ như in nụ cười rạng rỡ trên khuôn mặt của bố tôi khi ông chen từ đám đông ra trên hai tay hai bát mỳ "không người lái" còn bốc khói mang đến cho tôi khi tôi đang đói dài cổ ngồi chờ bên chiếc bàn ăn nơi cửa hàng ăn mậu dịch đầu phố. Tôi cũng không quên bộ mặt rạng rỡ xen lẫn tự hào của bạn tôi khi mồm ngậm hai gói lạc bán kèm, tay cầm hai cốc bia chỉ còn vơi độ nửa chui ra từ đám đông chen chúc của quầy bia Cổ tân. Buổi trưa hè nắng nồng hôm đó trong tiếng ve ngân ri rả trên những vòm cây cổ thụ bên cạnh nhà hát Lớn, những ngụm bia mới mát lành làm sao. Lại nhớ lần tôi được cử đi hội nghị ở thành phố Hồ Chí Minh, biết tôi không có tiền, vẫn người bạn ấy, lấy cớ tiễn tôi về, cho đến tận đầu dốc đường Thanh niên mới ngập ngừng giúi cho tôi một nắm tiền. Nhìn nắm tiền ấy tôi không nỡ từ chối vì đó toàn là những đồng tiền lẻ chẳng đáng là bao so với số tiền tôi đang cần nhưng đó lại là tấm lòng và cũng là tất cả tài sản mà bạn tôi có được giành cho tôi.

Hết chiến tranh, khi tôi đang cùng đơn vị tham gia sản xuất ở nông trường Cờ đỏ thì nhận quyết định xuất ngũ dành cho những người đang học dở đại học hoặc đã có giấy gọi đại học được trở về trường học tiếp. Từ ga Hàng cỏ tôi đi bộ về nhà theo con đường Điện Biên Phủ, Hùng Vương. Mặc dù trong trạng thái hồi hộp và háo hức tôi vẫn không khỏi bồi hồi khi đi qua lăng Bác. Vẫn kịp nhận ra hàng chò chỉ chạy dọc đường Hùng vương khi đó chỉ cao ngang đầu tôi và lá cũng rất thưa thớt. Trở về nhà, mẹ tôi đã mua cho tôi một chiếc xe đạp Diamon màu cá vàng bằng số tiền dành dụm bao nhiêu năm của mẹ tôi cộng với số tiền mười đồng một tháng dành cho gia đình có con đi B mà mẹ tôi luôn nghĩ là  tiền xương máu của tôi và giữ cho tôi. Chiếc xe đạp là niềm kiêu hãnh của tôi và cũng là ước mơ của bao người cùng thế hệ với tôi khi đó. Nó gắn bó với tôi thân thiết như một người bạn và rong ruổi cùng tôi suốt cả thời trai trẻ. Nhưng xe chạy mãi lốp cũng phải mòn. Mà hồi đó mua được chiếc lốp để thay thế còn khó hơn một sinh viên nghèo thời nay muốn mua một chiếc xe máy Tầu. Hàng phân phối theo cơ quan một năm chỉ có đôi lần mà phải bốc thăm. Mà số tôi đen đủi làm sao bốc lần nào cũng trượt. Nên đành phải: lốp chỗ nào mòn thì độn, đứt tanh thì khâu, nặng quá thì vá chín. Thời đó nếu ai đi xe mà lốp không vá, mặc quần mà không có một vài miếng tích kê, đi dép nhựa mà không có vài mối hàn thì chắc chắn không phải là công nhân viên chức Thủ đô. Nhưng lốp vá nhiều quá thì tanh bị hở lòi cả xăm không thể đi được nữa nên tôi đành để xe ở nhà đi làm bằng phương tiện công cộng. Đến ngày thứ ba khi trở về nhà trong trạng thái mệt mỏi vì chen tầu chen xe tôi ngán ngẩm nhìn chiếc xe dựng nơi góc nhà thì chợt nhận thấy đôi lốp xe vá chằng vá đụp của tôi đã được thay bằng đôi lốp cao su Sao vàng mới tinh mầu còn đỏ tươi. Tôi nhìn sang phía mẹ, thấy mẹ tôi vẫn đang cặm cụi ngồi may bên đống hàng gia công may thêm với giá rẻ mạt, mà không thể nói nên lời. Tôi biết để mua được đôi lốp đó, để tôi đỡ phải đi lại vất vả mẹ tôi đã phải thức khuya bao đêm, thậm chí còn phải vay mượn nữa. Tôi đành nhìn đi chỗ khác mà nghe sống mũi mình cay cay.

Hồi tôi học lớp 8, mẹ tôi mua ở cửa hàng mậu dịch cho tôi một chiếc áo len dệt của Liên xô. Chiếc áo có ba đường kẻ chạy ngang với ba màu xanh, trắng, nâu rất đẹp. Mỗi lần tôi diện chiếc áo đó, đội thêm chiếc mũ lông màu xanh tím, trông tôi nổi bật trước đám bạn bè cùng phố và bạn học cùng lớp. Nó đẹp và ấn tượng tới mức mẹ tôi mang tôi với bộ đồ đó đi chup ảnh ở hiệu ảnh Phương đông tận phố Cửa nam. Khi tôi đi B mẹ tôi phóng to tấm ảnh đó lại còn cho tô mầu và treo ở giữa nhà. Mẹ tôi định, nếu chẳng may tôi hy sinh thì cũng dùng tấm ảnh đó làm ảnh thờ, mặc dù trong lần về phép trước khi đi B mẹ tôi cũng đã dẫn tôi ra hiệu ảnh ở đầu phố chụp một tấm ảnh chân dung với đầy đủ quân hàm quân hiệu. Hồi đó chẳng ai nói nhưng ai cũng hiểu tấm ảnh ấy dùng để làm gì. Sau này cũng đôi lần tôi nhìn lại bức ảnh đó thấy khuôn mặt mình ngày ấy sao mà sầu thảm và ánh mắt dài dại như mắt của oan hồn. Vậy mà nhờ Trời, nhờ Phật, nhờ phúc đức của tổ tiên tôi đã được lành lặn trở về.

Những năm tháng tôi ở chiến trường mẹ tôi vẫn giữ gìn chiếc áo len đó chỉ có điều khi trở về nhờ cơm bộ đội tôi đã lớn lên và không còn mặc vừa nữa. Tuy thế tôi vẫn giữ nó như giữ môt kỷ vật trong ngăn tủ của mình. Cuối năm thứ ba thời đại học tôi yêu một cô bạn cùng lớp. Nghe tôi kể về chiếc áo len, cô ấy muốn được xem. Sau khi xem cô ấy muốn tháo ra để đan lại thành chiếc áo len mới vừa để giữ kỷ niệm, vừa có áo mặc chống rét. Tôi nghe thấy cũng hợp lý, phần vì cho đến thời điểm đó tôi cũng chẳng có một chiếc áo len nào, phần vì tôi nghĩ để đan chiếc áo len đó chắc cũng đơn giản. Nhưng lúc trực tiếp cùng bạn gái tháo chiếc áo cũ tôi mới biết nhiệm vụ đan chiếc áo khó khăn chẳng khác xây dựng một thành phố mới từ trong hoang tàn và đổ nát. Bởi cả chiếc áo khi được tháo ra chỉ còn là những đoạn sợi ba mầu dài ngắn khác nhau mà đoạn nào dài nhất cũng chỉ độ 20cm. Tất nhiên tôi đã khuyên bạn gái mình không nên tiếp tục thực hiện ý đồ dù muôn phần tốt đẹp đó nữa. Nhưng tôi vẫn thấy cô ấy hàng ngày sau giờ học, hàng đêm trước khi đi ngủ, bên ánh đèn, miệt mài chắp chắp nối nối, đan đan lát lát.

Bắt đầu từ mùa hè nóng nực với những cơn mưa rào lúc bất chợt thoáng qua, lúc dữ dội dai dẳng. Qua một mùa thu mát mẻ với bầu trời lúc trong xanh ngăn ngắt, lúc xám xịt mà tịnh không một gợn mây. Tới những đợt gió mùa đầu tiên mới chỉ se se lạnh báo hiệu mùa đông về mà chiếc áo vẫn chưa thành hình như mong đợi. Đêm Nôen và cả những ngày nghỉ tết dương lịch năm ấy trong khi mọi người vui vẻ rong chơi tụ bạ thì bạn gái tôi vẫn lặng lẽ ngồi đan. Đến tận đêm giao thừa khi ngoài đường tiếng pháo mừng năm mới đã nổ rộn ràng tôi mới chính thức được mặc  chiếc áo ấy trong ánh mắt hân hoan của người đã cần mẫn tạo ra nó. Tết năm đó tôi mặc chiếc áo len mới cùng bố mẹ đi chúc tết họ hàng. Ai cũng khen chiếc áo được đan rất đẹp, pha mầu rất khéo. Nhưng chẳng ai biết chiếc áo ấy được đan như thế nào. Đêm ấy về mẹ tôi đã cầm chiếc áo lên xem. Lúc lộn phía bên trong ra, mẹ tôi đã lặng đi như không tin vào mắt mình khi nhìn thấy hàng trăm nghìn mối nối ngổn ngang sần sùi  chạy chằng chịt dưới mặt áo. Trước đấy đã có đôi lần tôi dẫn bạn gái mình về ra mắt nhưng mẹ tôi cũng chẳng mặn mà gì. Sau sự kiện chiếc áo len, mẹ tôi đã chính thức xem cô ấy như con dâu trong nhà. Bốn tháng sau chúng tôi cưới nhau.

Từ đó đến nay cũng đã gần ba mươi năm trôi qua rồi. Gia đình tôi cả về kinh tế lẫn tình cảm lúc thịnh, lúc suy, lúc làng nhàng nhưng tôi chưa bao giờ được nhìn thấy cảnh vợ tôi dịu dàng nhẫn nại ngồi đan áo cho tôi nữa. Cũng có lần tôi nhìn thấy những cuội len trong tủ những tưởng vợ mình định lập lại kỳ tích cũ nhưng đợi mãi vẫn chẳng thấy chi. Rồi những cuội len đó cũng không cánh mà bay. Hy vọng trong tôi cũng bay đi mất. Mặc dù bây giờ tôi có thiếu thốn gì đâu. Riêng áo len hãng hiệu hẳn hoi tôi cũng có không dưới hai mươi chiếc. Cái thiếu, có chăng chỉ là cái không khí thấm đẫm tình người của một thời gian khổ kể cả ngoài xã hội lẫn trong mỗi gia đình. Vẫn biết là không thể và không nên quay lại thời bao cấp – thời của những thiếu thốn và đói khổ - nhưng sao mỗi lần nhớ lại thời kỳ đó, lòng mỗi chúng ta không thể không bâng khuâng và cả một chút nuối tiếc xen lẫn tự hào.

Ẩm thực ký

Đã là đàn ông Hà Nội, cứ 10 ông thì chắc 7, 8 ông phải  dính đến bia hơi. Mà đã uống  bia hơi ắt phải có cái gì để „gắp“ cho cái răng, cái lợi đỡ thấy „trống trải“ . Tôi không nằm ngoài mấy ông đó nên cũng hay ngồi lê bia hơi ở Hà Nội. Mấy năm vừa qua, vì công việc tôi ở Việt Nam liên tục và càng có cơ hội „khai thác „ cái gọi là „tiềm năng ẩm thực“ của bản thân. Thật ra tôi là thằng khảnh ăn ( cứ nhìn thân hình „vạm vỡ“ như Hiệp „gà“ của tôi thì biết) nên tôi hay „ngắm“ thức ăn và thưởng thức nó chủ yếu  thông qua khứu giác. Hôm nay nhân lúc nhàn rỗi, tôi viết một bài kiểu „mỳ ăn liền“ về ẩm thực  tặng các anh,chị hội người Hà Nội.

Bắt đầu từ năm 1990, khi đất nước , trong đó có Hà Nội bước vào thời kỳ đổi mới, cái ăn , cái uống của người Hà Nội đã được cải thiện đáng kể. Sau đó, chỉ trong vòng 1 thập niên, diện mạo của Hà Nội thay đổi đến chóng mặt khiến người xa xứ trở về phải bàng hoàng. Từ chỗ chỉ lo „ăn no, mặc ấm“, người Hà Nội bắt đầu „ăn ngon, mặc đẹp“ và để phục vụ nhu cầu của hàng triệu cái bao tử khao khát được hưởng thụ sơn hào hải vị sau đêm dài bao cấp, hàng quán ở Thủ đô mọc lên với tốc độ phi thường. Đầu tiên là các quán phục vụ những món thiết thực hàng ngày. Quà sáng vẫn là phở, bún, cháo , miến, mỳ… Về phở thì ngoài phở Thìn Bờ Hồ ( sau này mới có „Niederlassung“ ở Lò Đúc!!) có thể kể đến phở Tư Lùn ở Hai Bà Trưng. Hai hàng này nước dùng ngon, thit bò mềm vì không tận thu loại bò cày kéo, bò ngã bệnh. Phở gà ngoài hàng ở phố Đỗ Hành thì lâu đời vẫn là nhà Lâm „béo“ trên Nam Ngư, ăn cũng được nhưng nhìn bà chủ thì sự ngon miệng giảm đi ½ vì mặt bà lúc nào cũng nặng như cối đá. Khổ cho  người  Hà Nội chính là cái cơ sự này. Cứ đông khách là kiêu, là coi ai cũng như thằng đánh giày, bán báo… Khách ăn phở khó tính về chỗ ngồi, ưa sạch sẽ thì chọn phở Ngon, phở 24, phở Vuông…vì được ngồi phòng máy  lạnh, dùng khăn ướt, có người phục vụ chu đáo. Phở loại này nhìn bắt mắt vì cách bài trí nhưng vị phở lại không đạt tiêu chuẩn truyền thống. Ăn loại phở này ta hay nhớ đến phở ở quận 13 (Paris), nơi bán các tô phở „khủng long“ mang tên „xe lửa, tàu bay“, to bằng cỡ cái….chậu giặt. Ăn phở mà có cả húng quế, mùi tàu và giá sống thì rõ là phở lai..hủ tiếu Sài Gòn rồi!! Miến lươn (món khoái khẩu của các bà , các chị) chắc vẫn phải lên Hàng Điếu chỗ xế cửa chợ Hàng Da, sau này khách mới về Triệu Việt Vương. Bún riêu ăn ở Thi Sách cũng được, ghét mỗi tội chủ quán chắc quê ở…miền núi nên cho cả giò sống, đậu phụ, thịt bắp bò vào  bát bún. Bún riêu  của Hà Nội như mẹ tôi vẫn nấu cho các con ăn vị phải thanh, nước đạt màu „chuẩn“ và chỉ dùng đúng có gạch cua. Vị chua thì không thể thiếu giấm bỗng, cà chua, mẻ và thêm quả dọc nướng vàng.

Ăn cháo có thể qua bà Mỹ ở Lý Quốc Sư, vẫn được gọi là cháo „chửi“ vì con mẹ này hơi ngoa ngoắt. Thật ra tôi nếm nhiều loại cháo ở đây rồi: cháo gà, cháo cá, cháo trứng vịt muối kèm ca-la-thầu, cháo thịt bằm…Chẳng bằng về nhà mua con gà quăng vào nồi, thêm dúm gạo và nắm đỗ xanh, ngon ngọt hơn chục lần!!

Quà trưa Hà Nội thời trước thịnh hành nhất là bún chả. Ngày nay Hà Nội dùng cơm bụi cho chắc da. Quán cơm nhiều vô kể nhưng tiêu biểu trong phố cổ là cơm Vinh-Thu ở Lý Thường Kiệt. Ở đây có món tôi thích nhất là cá diếc trứng kho tương Bần, chả mực Hạ Long. Muốn khác lạ thì lên cơm „Làng tôi“ hoặc cơm niêu Phương Lộc trên Huỳnh Thúc Kháng để nghe tiếng đập niêu chan chát. Cái sự ăn trưa của đa số người Hà Nội ngày nay cũng rất đơn giản, gọi mấy thằng bạn rồi „ngã“ vào bất cứ ngã tư, ngã năm nào gần nhất là đã có cái ăn.

Một đặc điểm không thể không nhắc đến của người Hà Nội là thói quen ăn đêm. Vì thành phố có lệnh cấm bán hàng sau 24 giờ nên việc ăn đêm là cả một công phu. Tụi tôi hay ra cơm rang nhà Tâm ở Nguyễn Du ngồi nhâm nhi lòng mề, cổ cánh gà. Đông vui hơn thì lên 36 Hàng Dầu ngồi lẫn lộn cả tây với ta đến sáng. Phố ẩm thực Tống Duy Tân tuy đông hàng quán nhưng nhà nào cũng  nhõn món cơm rang, mỳ xào, gà tần thuốc bắc, chim quay… nên khách  bỏ đi dần. May còn được hàng xôi ngõ Cấm Chỉ-Hàng Bông  là đông đúc kéo lại. Hôm nào muốn ăn chút đồ tử tế sau 1, 2 giờ sáng thì chỉ còn mỗi cách lên khách sạn Hà Nội. Món ăn ở đây phong phú tuy hơi đắt. Cái đen nhất cho các „tao nhân mặc khách“ là lên đây hay phải ngồi chung với „ Cave“ vì các em toàn „giao ban“ tại địa điểm này. Mà „công ty“ của các em lại làm ăn phát đạt , quân số đến vài trăm lận!!

Phần ăn là vậy, phần nhậu có vẻ phức tạp hơn. Nhậu tất nhiên phải „phân chia giai cấp“, tức là sau khi „nội soi ví“ bạn sẽ tự biết mình sẽ ngồi ở đâu, dùng cái gì với  số „lương khô“ bạn có. Nếu muốn ăn hải sản trong không gian lộng lẫy thì mời bạn lên Long Đình ở Quán Sứ hoặc đi thêm vài bước là vào San Hô bên Lý Thường Kiệt. Tại đây có đủ món cho bạn chọn : tôm hùm, bào ngư, hải sâm, cá mặt quỷ, tu hài Canada, vi cá mập… „Mềm“  hơn 1 chút thì sang phố Biển bên Tràng Thi hoặc „Biển Nhớ“ cũng nằm trên phố này, cạnh công an quận Hoàn Kiếm. Hợp với túi tiền hơn thì về ăn hải sản ở Tô Hiến Thành, ra Kim Anh ở  Phan Chu Trinh hay vào ủng hộ luôn chợ hải sản Đông Du ngay bên cạnh, nơi tôi đã có thời kỳ góp vốn làm ăn. Đông vui, ầm ĩ thì ra chợ biển Sầm Sơn ngoài dốc Bác Cổ.

Thịt bò anh chị em ở Đức  hay ăn ở Block House hoặc Escado. Ở Hà Nội muốn ăn kiểu đó thì ngoài Sofitel Metropol bạn có thể ăn ngay dưới hầm nhà hát lớn hoặc chạy ra „ Thế giới bò“ ở Ngô Quyền. Giá cả tại những địa chỉ này có phần còn „ qua mặt“ bên „Đức quốc xã“. Bình dân thì thiên hạ vẫn lên Hiếu „béo“ trên Nghi Tàm, quán này lúc nào cũng đông nghet. Nhớ Sushi thì về Triều-Nhật dưới Bà Triệu, có cả gan ngỗng, chân ngỗng rút xương tần hải sâm… Lẩu thì lên Phú Sỹ trên hồ Trúc Bạch hoặc rẽ vào Nguyễn Khắc Cần

Có vài món đặc sản nhiều người ưa thích là  ba-ba và thịt thú rừng. Trước đây mọi người hay ngồi Thủy-Bình ở Bát Sứ ( nay chuyển về Hàng Gà). Sau này họ chạy về Bảo „lốp“ trên Âu Cơ vì có chỗ đỗ xe. Từ ngày nhà nước kiểm soát chặt việc săn bắt thú rừng, các quán này cũng không còn rầm rộ về cầy hương, cầy vòi, tê tê..như trước nữa. Thi thoảng có „mật báo“ là „hàng „ về, các tay chơi đành phi sang Lệ Mật cho kín đáo.

Ở đầu bài viết, tôi có nói đến bia. Động đến ẩm thực Hà Nội mà không nói đến bia thì quả là mắc tội. Nhớ thời bao cấp, cầm được vại bia hơi sứt mẻ trên tay sau một hồi chen lấn , xô đẩy mà thấy sướng như trúng..xổ số. Ngày đó Hà Nội có lèo tèo vài ba điểm bán bia hơi: Cổ Tân, Đặng Dung, Hoàng Hoa Thám, Nguyễn Cao.. Bia chai cũng chỉ có 2 loại : bia Hà Nội và bia Trúc Bạch. Đồ nhắm chỉ có vài hạt lạc rang, bìa đậu phụ chấm mắm tôm, sang hơn thì là con mực nướng, góc thịt chó con con…

Bây giờ bia hơi chỗ nào cũng có. Bia Hải Xồm, Lan Chín, bia Việt Hà và rất nhiều loại bia liên doanh. Đi qua những „bãi“ bia này vào buổi chiều nhiều khi không còn chỗ chen chân. Ngày xưa bạn bè mời nhau chén trà, ly cà phê, nay họ tiếp nhau bằng bia.

Mấy năm gần đây Hà Nội có thêm bia tươi Hoa Viên ( nay về số 1- Tăng Bạt Hổ) rồi Legend Beer ở Vũ Ngọc Phan và các loại bia lon, bia chai nhập từ Đức, Bỉ, Tiệp về. Ai cũng tò mò uống thử một đôi lần nhưng đa số vẫn quay về với bia Hà Nội. Chưa chắc đã vì tình yêu Hà Nội mà họ dùng thứ bia này nhưng bia Hà Nội quả là dễ uống. Có lẽ vì nấu bằng nguồn nước nơi địa linh, nhân kiệt nên bia Hà Nội có vị rất đặc trưng và phải nói là…ngon vì không nặng vị cồn, không đắng vị men chưa ngấu và giá cả rất phải chăng.

Tản mạn về vài địa chỉ ẩm thực của Hà Nội hôm nay ( tôi biết còn thiếu rất rất nhiều) đã hơi quá đà, tôi xin thay cho lời kết bằng bài thơ kiểu „Bút Tre“ của anh bạn xứ Nghệ tôi quen, người đã chọn Hà Nội làm quê hương thứ hai, người cũng yêu Hà Nội , yêu ẩm thực đất Thăng Long:

Đường vô xứ Nghệ quanh quanh

Non xanh , nước biếc như tranh họa đồ

Ai vô xứ Nghệ thì vô

Còn „choa“ „choa“ cứ Thủ đô „choa“ mần

Bạn đang đọc truyện trên: truyentop.pro

Tags: