Phần 1
Ghi chú: Truyện lấy bối cảnh Đà Lạt, thời gian những năm cuối 1990 - đầu 2000. Thông tin tư liệu về Đà Lạt xưa được tham khảo từ các trang web mạng, có thể không chính xác.
Tình trạng: Hoàn thành 2/2
______________________________
Dưới ánh nắng dịu nhẹ, làn da rắn rỏi phủ thêm ánh nước. Khuê bỗng thấy cổ họng khô rát, vô thức nuốt một ngụm nước bọt. Mặt trời Đà Lạt ban trưa chẳng hề oi ả, nhưng vẫn đủ khiến chàng trai trẻ - người đang cúi người bận bịu giúp anh vác mấy túi đồ lớn - ướt mồ hôi. Từ góc độ của anh, anh có thể thấy rõ hai xoáy tóc tinh nghịch trên mái tóc ẩm ướt và cơ ngực nhấp nhô như dãy núi. Khuê đỏ mặt, vội quay đầu giả vờ quan sát khung cảnh chung quanh, vụng về che giấu sự xấu hổ của mình.
Huân cài xong chiếc túi cuối cùng, nhẹ nhàng vác lên vai rồi đứng dậy. Trông thấy người đứng trước mặt mình đang lúng ta lúng túng nhìn về phía vườn rau mà đầu óc chạy xa tới thác Cam Ly, cậu cười khẽ rồi lên tiếng: "Anh Khuê, mình đi được chưa?"
Đôi vai Khuê run nhẹ một cái bởi vì giật mình, anh húng hắng hừm một tiếng rồi trả lời với chất giọng mềm mại: "Vậy thì nhờ em Huân."
Huân vác chiếc balo to tướng nhẹ như tênh, chậm rãi bước đi phía trước, đi một lúc lại quay đầu nhìn chàng trai phía sau mình. Hành vi cứ như trông trẻ nhỏ làm Khuê ngại ngùng lên tiếng: "Huân cứ đi, tôi theo kịp."
Đùa chứ, tôi đi tay không còn em thì mang mấy chiếc balo to thế, chả nhẽ tôi lại không theo kịp, tôi kém đến thế sao.
Huân cong môi cười, bảo rằng: "Tôi chỉ sợ rằng anh Khuê không quen địa hình Đà Lạt thôi."
Hai người băng qua con đường đất nơi khu sinh hoạt dẫn ra bên hông trường học. Quãng đường không ngắn, cũng không quá dài, nhưng đủ để Khuê - một nhà báo đã quen với những con đường xi măng Hà Nội cảm thấy hơi khó nhọc. Bệnh nghề nghiệp lại trỗi dậy, anh vô thức quan sát hoàn cảnh xung quanh dọc đường. Bên trái là sân thể thao với tốp năm tốp ba sinh viên đang chơi bóng chuyền, bên phải là hồ nước cạnh bên những luống rau vung trồng đều tăm tắp, chếch về phía hướng đông xa xa đặt hàng loạt các tòa ký túc xá trông hơi cũ kỹ với đôi ba chiếc áo treo phất phơ trên ban công đón nắng. Có vài cậu học sinh tò mò ngó ngang ngó dọc người đàn ông trẻ khoác chiếc áo khoác dài lạ mắt, có người còn hồ hởi bắt chuyện hỏi thăm anh đến từ đâu. Khuê, dẫu hơi ngại ngùng, vẫn từ tốn đáp lời, thuận tiện hỏi dăm câu về cuộc sống ở trường.
Chặng đường lẽ ra chỉ 20 phút lại kéo dài hơn 30 phút, mà người dẫn đường vẫn kiên nhẫn đứng tựa vào gốc cây chờ đợi nhà báo Khuê tác nghiệp hăng say. Đợi một lúc lâu, thấy trán anh lấm tấm mồ hôi, cậu mới lớn giọng gọi: "Anh Khuê, nên đi thôi."
Nghe tiếng gọi, Khuê bừng tỉnh, vội chào tạm biệt mấy cậu trai trẻ nhiệt tình rồi bước nhanh về phía người dẫn đường của mình.
Yên vị trên xe, Khuê nhìn thẳng về phía trước đơ như tượng gỗ, không dám quay đầu ngó dọc ngó xuôi. Anh sợ ánh mắt mình lại vô lễ chạm lên cơ bụng lấp ló qua lớp áo của người bên phải. Thấy vậy, Huân buồn cười nhòm xuống hàng ghế sau lấy chiếc áo sơ mi trắng trên đệm ngồi. Khoảng cách giữa hai chiếc ghế không quá xa mà chẳng quá gần, nhưng cơ thể to lớn của Huân vẫn như có như không tiến lại gần Khuê, bắp tay rắn chắc sượt qua bả vai mềm mại. Mùi hương nam tính trộn lẫn mùi mồ hôi quanh quẩn trong không khí, Khuê giật mình né người sang một bên, áp vào khung cửa kính, như con thỏ nhỏ bị dọa sợ. Huân chép môi ngồi về chỗ, nhanh chóng cài vội mấy nút thắt trên chiếc sơ mi hơi nhàu nhĩ. Khuê đảo mắt nhìn đông rồi lại nhìn tây, chỉ duy nhất không dám nhìn sang phải. Nghẹn mất nửa ngày, anh mới lên tiếng: "Người Đà Lạt thích mặc áo ba lỗ giữa trưa lắm sao?"
Huân phì cười, đáp: "Không, có mỗi tôi thôi, tôi sợ nóng."
Trời se se lạnh mà nóng gì chứ. Câu phản bác bật ra trong đầu nhưng không nói thành tiếng. Người ta đã mang vác đồ nặng giúp anh thế này, không nóng mới lạ, móc mỉa người ta thì thật không phải phép.
Huân khởi động xe, tiếng động cơ vù vù che đi tiếng thở của người bên cạnh. Cậu thuận miệng hỏi: "Nhà báo Khuê lên đây ghi phóng sự sao? Anh định ở đây mấy ngày."
Khuê đáp: "Đúng vậy, tiện thể tìm chút tư liệu sáng tác. Tôi chưa biết sẽ ở bao lâu."
Huân gật đầu tỏ vẻ đã hiểu, sau đó hỏi: "Anh tìm được chỗ ở chưa?"
"Thầy Minh bảo tôi hãy ở kí túc xá sinh viên."
"Kí túc xá sinh viên không tiện lắm đâu. Ở đó có giờ giới nghiêm, đi lại cũng bất tiện, không phù hợp với công việc của anh."
"Thế sao?" Khuê hơi ngạc nhiên. Anh cúi đầu, đăm chiêu.
"Hay anh đến nhà tôi đi, nhà tôi ở gần khu vực trung tâm, rất tiện. Tôi cũng có thể dẫn anh đi lấy tư liệu dễ hơn." Huân bỗng đề nghị. Giọng điệu bình thản, vu vơ như thể đó chỉ là câu mời ăn trưa bình thường. Thấy Khuê còn ngây người chưa kịp phản ứng, cậu chêm thêm câu nữa: "Tôi ở một mình cũng buồn. Thầy Minh bảo tôi giúp đỡ và chăm sóc anh, đây là việc tôi nên làm."
Phút ngỡ ngàng qua đi, Khuê dè dặt hỏi lại: "Có ổn không."
Huân quay đầu nhìn anh, đôi mắt mèo cong thành vầng trăng khuyết, vui vẻ đáp: "Tất nhiên rồi."
Nắng dịu rọi qua khe cửa kính, nhảy múa trên lọn tóc rối trên trán chàng trai trẻ, hòa tan làn gió hơi se lạnh của tiết trời Đà Lạt giữa hè. Khuê chợt muốn cầm lấy giấy bút, phác họa ra hình ảnh màn sương mù dày đặc, với một chú mèo cam đang tỏa sáng như ánh nắng mặt trời.
Chiếc xe bon bon trên con đường nhựa mới trải, động cơ cũ thỉnh thoảng phát ra những âm thanh ồm ồm. Khuê cứ mải đăm chiêu nhìn ra ngoài cửa sổ, đầu óc lại thả hồn theo mây trời, về những vần thơ tình dở dang chưa tròn câu vẹn chữ. Chàng trai Huân thấy vậy cũng không nói gì thêm, chỉ lặng lẽ quan sát sườn mặt góc cạnh của người bên phải. Hóa ra người Hà Nội dễ ngại ngùng như thế sao? Cậu nghĩ.
Xe đi được một lúc, chất giọng mềm mại của Khuê bỗng vang lên: "Em Huân làm nghề gì?"
Huân đáp: "Tôi là kỹ sư xây dựng, làm việc cho sở xây dựng tỉnh Lâm Đồng."
Khuê ngạc nhiên: "Ồ, thế em không bận đi làm sao mà lại đi đón tôi?"
Huân cười cười trả lời: "Vừa xong hạng mục lớn nên có mấy ngày nghỉ. Hơn nữa việc đón tiếp nhà báo từ cục báo chí cũng là một phần của công việc mà."
Thời đại bây giờ kỹ sư xây dựng cũng cần có dáng người rắn rỏi như vậy sao? Khuê nghĩ ngợi lung tung, bản năng tò mò của một nhà báo khiến anh vô thức đảo mắt quan sát người bên cạnh từ trên xuống dưới, di chuyển một vòng rồi trở về cơ bụng hơi mờ qua lớp sơ mi.
Chợt, như cảm nhận được ánh nhìn soi xét, Huân quay đầu sang phải. Hai ánh mắt chạm nhau: một bối rối chưa kịp thu lại vẻ hứng thú, một bất ngờ pha lẫn hài hước. Như là axit sunfuric đậm đặc hòa vào nước, sôi sục, trào ra tung tóe. Khuê quay phắt đi, không dám nhìn thêm một lần nào nữa. Anh hắng giọng, tỏ vẻ thản nhiên, hỏi ẩn ý:
"Em Huân khỏe quá nhỉ?"
"Mang vác họa cụ, leo núi, thỉnh thoảng ra công trình giám sát rồi hỗ trợ miết cũng luyện được tí cơ bắp. Mà ở Đà Lạt nhiều, đi leo núi lâu ngày thì anh cũng sẽ mau lên cơ thôi." Huân đùa giỡn, giả vờ như chẳng thấy đôi má ai kia hơi ửng hồng. Đáng yêu thật đấy, giống hệt con alpaca trong quyển tạp chí mà anh Hiền mới cho cậu xem hôm trước.
"Anh Khuê là người Hà Nội gốc sao? Anh có hay đi công tác ở các vùng khác không? Tôi là người Đà Lạt, có thời gian từng theo học kỹ thuật tại Huế. Tôi rất muốn đi đây đó như nhà báo các anh, mà tiếc tôi dốt đặc văn chương để làm báo chí, ha ha." Huân cười toe toét, xoa dịu bầu không khí.
"Tôi sinh ra và lớn lên ở Hà Nội. Tôi từng đến một số tỉnh miền Trung làm phóng sự đưa tin, lần tôi đi xa nhất là đến thành phố Hồ Chí Minh tham gia hội nghị báo chí và văn nghệ. Nhưng đây là lần đầu tôi đến một nơi ở vùng cao như Đà Lạt, thật sự có chút khó thở." Khuê bật cười.
"Tuyệt thật đấy, anh có thể kể cho tôi nghe thêm về những chuyến đi của mình không?" Huân đề nghị.
"Tất nhiên rồi. Đổi lại, Huân cũng phải kể tôi nghe thêm về Đà Lạt nhé?" Khuê gật đầu đồng ý.
Chiếc xe bốn bánh ục ịch lăn về phía hồ Tuyền Lâm, chở đầy tiếng cười nói trong veo vui vẻ như khúc nhạc ngày gặt hái. Câu chuyện của họ trôi đi qua những miền mộng mơ xa lạ: Lăng Hồ Chủ Tịch, phố cổ Hội An, kinh thành Huế, qua những bãi biển và làng mạc Phú Yên, vườn nho Bình Thuận, rồi men theo những con đèo hoang vu trải dài hàng thông ba lá, ngang mấy biệt thự bỏ hoang lẩn khuất trên lưng đồi. Có cái gì đó đang dần ngắn lại, là khoảng cách từ vị trí của họ đến hồ Tuyền Lâm, hoặc một điều chăng mà Khuê chẳng thể gọi tên.
"Đến rồi."
Xe dừng trên con dốc thoai thoải. Huân tươi cười, khẽ nghiêng đầu ra hiệu cho Khuê xuống xe. Trước mắt anh, hồ Tuyền Lâm hiện ra mơ màng tựa một bức họa. Mặt nước loang loáng ánh bạc dưới ánh nắng ban trưa, với từng gợn sóng nhỏ lăn tăn thì thầm to nhỏ. Hàng thông rì rào soi bóng xuống hồ, gió mang hơi nước mát rượi ùa vào mặt, xua đi cái nóng trong lòng người nghệ sĩ đến từ phương xa. Xa xa, vài chiếc thuyền câu lặng lẽ thả neo, trông nhỏ bé tựa vết mực rơi trên bức tranh phong cảnh.
Khuê thoáng khựng lại, ngỡ ngàng, như vừa chạm vào một khoảng trời khác: trong trẻo, xanh mát, yên ả đến lạ thường. Anh hít một hơi thật sâu, để luồng khí mát lành căng đầy lồng ngực, thấy mình như được gột rửa sau bao mệt mỏi của chuyến hành trình xuôi ngược.
Huân vác chiếc ba lô đựng máy ghi hình xuống xe. Sau đó, cậu mở cốp, lôi thêm hai chiếc ghế gấp, khéo léo đặt dưới gốc thông già ven bờ. Xong xuôi, cậu quay lại, giơ tay bảo Khuê hãy tới gần.
Khuê gật đầu, nói cảm ơn. Đoạn, anh lấy máy quay và chân máy, khéo léo lắp đặt và điều chỉnh vị trí để bắt lấy khung cảnh đẹp nhất. Một loạt hành động mây trôi nước chảy, toát lên vẻ chuyên nghiệp.Trong khoảnh khắc ấy, nhà báo Khuê dường như rũ bỏ dáng vẻ ngại ngùng, có phần rụt rè thường ngày. Anh chìm vào thế giới riêng của mình, tập trung đến mức chẳng còn quan tâm đến ai khác. Mà Huân cũng tinh ý giữ yên lặng, lôi cuốn sổ tay ra hí hoáy việc của riêng mình.
Khi hoàn tất cảnh quay, Khuê thở phào một hơi, ngồi xuống ghế bên bờ hồ. Gương mặt anh sáng bừng niềm vui, say sưa chia sẻ với Huân về những đoạn phim vừa ghi được. Huân mỉm cười gật gù, không quên khen ngợi, rồi hỏi:
"Anh định làm phóng sự chủ đề gì?"
Khuê vẫn cúi đầu, tay mở cuốn sổ tay chi chít chữ, trong đó dày đặc dàn ý và tư liệu anh đã sưu tầm về Đà Lạt. Vừa rà lại trang viết, anh vừa đáp:
"Có lẽ là đi tìm câu trả lời, vì sao Đà Lạt lại là một thành phố đáng sống."
Huân khẽ nghiêng đầu, ánh mắt lóe lên sự thích thú. Một nụ cười nhẹ thoáng trên môi, Huân buột miệng:
"Nghe hay đấy. Tôi cũng muốn biết anh sẽ tìm thấy câu trả lời thế nào."
...
Buổi chiều, Huân và Khuê quay trở lại trường học.
Cậu đứng tựa vào cửa xe với dáng vẻ lười biếng, hỏi bằng giọng điệu tinh nghịch: "Thế nào? Anh Khuê nghĩ sao về việc đến nhà tôi ở?"
Khuê xấu hổ, thỏ thẻ: "Thế có phiền em Huân quá không?"
Huân đáp ngay: "Không đâu."
Và thế là một kỹ sư công trình và một nhà báo trở thành bạn cùng phòng tạm thời.
Trong năm ngày tiếp theo, Huân tiếp tục đèo Khuê qua những ngõ hẻm quanh co của Đà Lạt, qua những cung đường nhựa ôm ấp lấy non nước xanh trong. Mỗi chặng đi, Huân đều chỉ cho Khuê những góc nhỏ đầy bất ngờ: một quán cafe nép bên hồ, một ngôi nhà gỗ lặng lẽ giữa đồi thông, hay vài bãi cỏ trải dài nơi những triền đồi sương phủ. Tiếng nói mềm dinh dính kể về những giai thoại chỉ dân Đà Lạt mới biết, như: ngôi biệt thự bỏ hoang trên đèo Prenn, bóng người lấp ló trên Hồ Xuân Hương mỗi dạo ngày 2 hàng tháng. Khuê thừa nhận rằng mình hơi run một chút, có lẽ là do tiết trời Đà Lạt đầu hạ vẫn còn vương vấn vòng ôm của mùa xuân.
Sống cùng nhau mấy ngày, Khuê được Huân chiêu đãi bằng những bữa cơm đậm chất cao nguyên: cơm lam dẻo thơm, rau củ tươi xanh, thịt nướng đậm đà và những món ăn giản dị nhưng đầy tâm huyết. Anh không khỏi ngạc nhiên trước tài nấu nướng tuyệt vời của Huân. Đồ ăn Đà Lạt vốn không hẳn hợp khẩu vị một người Hà Nội như Khuê, nhưng hương vị đặc trưng từ rau củ và thịt trên cao nguyên mang một sức cuốn hút khó cưỡng, khiến chàng nhà báo quyết tâm phải dành một mục riêng để ca ngợi trong phóng sự.
Một buổi tối, Khuê bất ngờ thấy Huân lấy ra một bộ cờ tướng, đặt trên bàn gỗ trong phòng khách.
"Tôi chỉ biết một chút về cờ vua thôi, còn cờ tướng thì..." Khuê vung tay kháng nghị.
Huân cười, lắc đầu: "Giờ chỉ mượn được bộ này thôi, tôi dạy anh."
Khuê ngồi xuống, hơi bối rối, mắt chăm chú nhìn từng quân cờ lạ lẫm. Huân xếp quân, tay thoăn thoắt, nở nụ cười tinh nghịch thích thú. Khuê chợt có cảm giác anh chàng này đang chờ đợi xem trò cười của anh, nhưng anh không có bằng chứng chứng minh.
Huân đặt một nước cờ xuống và khẽ nhếch môi, nhìn Khuê: "Thế nào, nhà báo Khuê anh minh thần võ đừng bỏ cuộc như vậy chứ, cứ chơi thử đi."
Dưới lời hướng dẫn cẩn thận của Huân, Khuê trúc trắc ghi nhớ các nước cờ của mình. Nhưng với một người lần đầu tiếp xúc với cờ tướng, đây đúng là một thử thách cực kỳ to lớn.
"Cái cậu này, xấu tính thật đấy." Anh phản ứng, nửa bực nửa cười.
Huân chỉ cười toe, nhích một quân nhẹ nhàng, như đang trêu chọc: "Thôi, đừng lo, tôi đang huấn luyện anh mà."
Cả hai bật cười. Tiếng cười vang nhỏ trong căn phòng ấm áp. Ánh đèn vàng rọi lên mặt bàn, tạo cảm giác gần gũi và bình yên. Khuê nghĩ, có lẽ người Đà Lạt rất thích trêu ghẹo người khác.
...
Sáng hôm thứ bảy, hai người dậy sớm, bon bon lên đỉnh Robin để "săn mây". Đà Lạt gần sáu giờ sáng thật lạnh, hơi sương rét cóng khiến người Khuê run bần bật, dẫu anh đã quấn mình như một củ khoai tây. Thấy vậy, Huân vội vàng lấy thêm tấm chăn cho anh đắp, đồng thời lên tiếng hỏi:
"Hôm nay có vẻ rất lạnh. Hay mình để hôm khác đi?"
Khuê rụt mình trong chiếc chăn nhung, chỉ lộ ra gương mặt nhỏ nhắn và đầu mũi đỏ bừng tựa chú tuần lộc nhỏ. Âm thanh câu trả lời bị chắn sau chiếc khăn choàng, nhưng Huân có thể nghe rõ loáng thoáng mấy từ: "Không sao... hôm nay trời đẹp... được mấy khi."
Huân cười bất đắc dĩ, chỉ đành nhét vào cổ anh chiếc túi giữ ấm bằng nước nóng nho nhỏ, dặn dò: "Nếu không ổn thì cứ bảo tôi."
Xe dừng bên dốc, gió cao nguyên thổi qua khe cửa kính một làn se lạnh. Hai người bước xuống, bắt đầu men theo một lối mòn nhỏ dẫn lên đỉnh đồi. Con đường không quá dốc, nhưng lại trở nên khó khăn bởi đá lởm chởm với cỏ chen qua những kẽ nứt đất khô. Khuê đi chậm lại, nhấc từng bước cẩn thận để giữ thăng bằng. Huân đeo chiếc balo máy quay, bước đi trước một đoạn, rồi dừng lại, quay người. Không nói lời nào, cậu đưa tay mình ra. Một thoáng sững người qua đi, Khuê khẽ đặt tay mình vào đó. Thật ấm áp, thật vững chãi, như một sợi dây nối liền giữa người dẫn đường và kẻ lạc lối.
Khi cả hai vừa đặt chân lên tới đỉnh đồi Robin, bầu trời như mở toang trước mặt. Màu xanh lơ của sắc trời pha cùng ánh trắng của sương sớm, nhảy múa trên những đồi chè xanh ngát trải dài. Vô số mây trắng xốp lững lờ trôi, tầng tầng lớp lớp chồng lên nhau như chăn bông mềm mịn, phủ lên đại ngàn xa tít mù khơi. Gió lùa qua vai áo, thổi tung mái tóc, len lỏi vào cổ áo, thật lạnh mà lại dễ chịu một cách khó hiểu, như đánh thức mọi giác quan. Trong gió là mùi đất ẩm, mùi thông khô, mùi cỏ dại, mùi sương mai đọng trên cành lá. Tất cả hòa quyện lại, tạo thành thứ mùi hương khoan khoái chỉ riêng Đà Lạt mới có.
Hai người đứng lặng. Chung quanh chỉ còn tiếng gió rít nhè nhẹ qua đỉnh núi, tiếng tim đập hòa cùng hơi thở, tan vào trời đất. Khuê ngẩng lên, hít một hơi thật sâu. Giây phút ấy, anh thấy mình nhỏ bé giữa bao la đất trời thiên nhiên hùng vĩ. Một cảm giác yên tĩnh, bình yên trào dâng, như thể nơi đây là nơi anh thuộc về.
Huân cúi xuống, lặng lẽ mở balo, lấy máy quay ra. Cậu giúp Khuê dựng chân máy, nhìn anh cẩn thận chỉnh góc, xoay nhẹ để bắt trọn toàn cảnh mây trời.
Huân bỗng lên tiếng: "Anh Khuê này, anh đã tìm được câu trả lời đó chưa?"
Cái lạnh làm não của Khuê trở nên chậm chạp, anh đờ đẫn: "Hả?"
"Vì sao Đà Lạt lại là thành phố đáng sống?"
"Có lẽ là..." Khuê đăm chiêu, "Khí hậu mát mẻ ôn hòa, cảnh đẹp nên thơ hùng vĩ, ẩm thực đặc sắc, nhịp sống chậm rãi. Yên bình, tôi nghĩ hai chữ này rất hợp với Đà Lạt."
"Vậy sao." Huân chuyển tầm mắt ra xa, hạ giọng tự lẩm bẩm. "Tôi nghĩ Hà Nội cũng là một nơi đáng sống."
Âm thanh quá nhỏ, biến mất trong làn gió, khiến Khuê không thể nghe thấy. Anh hỏi lại, chỉ nhận lại một câu "tôi cũng nghĩ vậy" qua loa của người kia.
...
Kết quả của một buổi quay đầy sóng gió là, chiều hôm ấy, người Hà Nội - nhà báo Khuê vinh quang hy sinh vì nhiệm vụ. Chính xác hơn, chàng nghệ sĩ ấy đã bị cảm không dậy nổi, chỉ có thể nằm trên giường quấn chăn như chiếc bánh chưng trong nồi. Huân lo lắng không thôi, liên tục chạy tới chạy lui, lúc thì nấu cháo, lúc thì kiểm tra lò sưởi, lúc lại chuẩn bị thuốc men. Cứ chốc chốc, cậu lại thò đầu vào phòng, ghé lại gần giường, khẽ hỏi một câu: "Anh Khuê ơi, anh thấy trong người sao rồi?"
Chăn cựa quậy nhẹ, rồi lại im thin thít. Huân ngồi xuống, lặng ngắm người đang ngủ. Khuê nằm nghiêng, khuôn mặt mềm mềm đỏ bừng vì sốt, tóc bết vào trán, hơi thở nặng nhọc. Nhìn mà thương. Đấy, cái người đàn ông này, luôn tỏ ra cứng cỏi như đá đấy, đến lúc đổ bệnh thì cũng phải nằm bẹp dí trên giường như ai thôi.
Huân thở dài một cái, sau đó rón rén ngồi xuống chiếc ghế gỗ nhỏ bên giường. Cậu lôi cuốn sổ tay ra, rút cây bút màu đen cắm lệch trong gáy sổ, giở đến trang dang dở. Ngoài cửa sổ, trời đã đổ mưa bay, trùm lên những con dốc một lớp nước đọng ẩm ướt. Trong căn nhà, chỉ còn tiếng bút sột soạt, tiếng cháo sôi lục bục dưới bếp và tiếng thở đều đều của Khuê.
Lâu lâu, Huân lại ngẩng lên nhìn người nằm trên giường. Ánh đèn vàng nhẹ rọi xuống sống mũi cao, đôi môi khô khốc và sắc màu đỏ ửng nơi gò má. Cậu lật sang trang trước, trên đó ghi mấy dòng lời bài hát còn bỏ ngỏ. Huân viết nguệch ngoạc thêm hai dòng trong sổ:
"Mù sương tan đi, tà dương dẫn lối.
Người có tình, rồi sẽ tìm thấy nhau."
Cậu sờ trán Khuê, thủ thỉ: "Nếu mai anh khỏe, em sẽ dắt anh đi ăn bánh căn."
...
Hôm thứ mười kể từ ngày Khuê đến thăm thành phố này, thầy Minh bận bịu đã lâu mới chịu xuất hiện. Thầy mời cả Huân và Khuê đến nhà thầy ăn thịt nướng. Nhà Huân cách nhà thầy không xa, nên cả hai người quyết định đi bộ.
Thịt hươu xiên, thịt bò cao nguyên nướng tảng, rau củ xào, cộng với một ít rượu, một bữa ăn phong phú và ấm cúng. Thầy Minh vui sướng ôm lấy Khuê, bày tỏ rất nhớ cậu học trò đã lâu không gặp kể từ dạo hội nghị báo chí và văn nghệ ở thành phố Hồ Chí Minh hai năm trước. Khuê và Huân đều không có tửu lượng tốt, vì vậy Huân chỉ nhấp môi chút ít, từ chối ly rượu của thầy với lý do: cần tỉnh táo để đưa anh Khuê về. Chỉ đáng thương Khuê, thịnh tình khó khước, uống tới nỗi đôi tai cũng đỏ hồng.
Tiệc tàn, đã đến lúc nói lời tạm biệt. Khuê và Huân đứng trước cửa, khẽ cúi đầu chào thầy. Thầy Minh, trong men rượu ngà ngà, vỗ vai Huân một cái, vui vẻ nói: "Cảm ơn con nhiều lắm, Huân. Mấy hôm nay mà không có con, chắc thằng Khuê cứ lóng nga lóng ngóng không biết làm gì mất."
Huân cười cười, không nói gì, chỉ khẽ gật đầu. Ánh mắt cậu chuyển sang Khuê - người vừa mới khỏe hơn sau một ngày nằm bẹp - giờ đang khoác áo khoác dày và đang ngẩn người nhìn sao trời. Cậu bật cười, kéo vai Khuê, ra hiệu anh chào thầy ra về.
Đèn đường vàng nhạt hắt xuống nền đường xi măng, đổ xuống tạo thành hai bóng người kéo dài miên man.
Khuê đi trước, miệng ngân nga khe khẽ một giai điệu lạ lẫm: "Có một ngày, tôi chợt nhận ra. Tôi đã yêu em, từ những những ngày thật thà tuổi trẻ..."
Giọng anh ấm, hơi khàn và lâng lâng bởi men say. Huân đi sau, hai tay đút trong túi áo khoác, mắt vẫn dán chặt vào anh, bước đều đều.
Tới đoạn dốc số bảy, con đường bắt đầu khó đi hơn vì rêu ẩm. Huân chầm chậm bước lên, nắm lấy tay Khuê. Cậu không nói gì, chỉ siết nhẹ và kéo một cái. Năm ngón tay đan cài vào nhau, không một kẽ hở, như thể đang ra hiệu để anh biết rằng có cậu sau lưng mình.
Khuê giật mình, nhìn sang theo bản năng. Huân chuyển ánh mắt sang người anh, khóe môi vẫn thấp thoáng dáng hình cong cong dưới ánh đèn mờ.
"Thế nào?" Cậu hỏi, giọng trầm ấm. "Anh nghĩ ra thêm câu trả lời chưa?"
Khuê khựng lại một nhịp, rồi cười, nụ cười rạng rỡ như mặt trời giữa ngày tuyết tan.
"Có lẽ là... con người rất đáng mến."
Huân gật gật, như thể đã đoán trước đáp án đó. Cậu nhìn về phía trước, ánh mắt xa xăm, âm thanh dịu dàng mà chắc nịch:
"Đúng vậy. Con người luôn là lý do khiến một thành phố trở nên đáng sống. Tôi sẽ vì người tôi thích mà yêu thích thành phố đó."
Khuê ngẩn ra một chút. Gió đêm Đà Lạt đong đưa yêu kiều tựa nàng thiếu nữ, nghịch ngợm khảy chiếc khăn nơi cổ anh khẽ bay. Anh không lên tiếng, chỉ im lặng nhìn Huân, ánh mắt chất chứa điều gì đó chẳng ai thấu rõ. Rồi anh phá lên cười, tràn đầy nhựa sống:
"Tình yêu cũng là một lý do rất đẹp. Có lẽ một ngày nào đó tôi cũng sẽ như vậy."
Huân ngơ ngẩn, nhìn sâu vào mắt Khuê. Lần đầu tiên, cậu thấy vẻ tinh quái và mạnh dạn lóe sáng trong đôi đồng tử ấy. Cậu lắc đầu nhẹ, không đáp, chỉ siết tay Khuê thêm một chút, bước về phía trước.
Xa xa, thành phố chìm trong sương đêm, hàng thông già thầm thì kể lể câu chuyện to nhỏ. Những bóng đèn vàng lặng lẽ, lấp lánh như những vì sao dẫn lối họ về nhà. Và hai người đàn ông cứ thế, tay trong tay, đi xuống con dốc số bảy. Chậm rãi, thật chậm rãi.
(Còn tiếp)
Bạn đang đọc truyện trên: truyentop.pro