Chương IX Vấn đề dân tộc trong quá trình xây dựng chủ
Vấn đề dân tộc trong quá trình xây dựng chủ
nghĩa xã hội
Vấn đề dân tộc là một nội dung có ý nghĩa chiến lược của chủ nghĩa
Mác - Lênin và của cách mạng xã hội chủ nghĩa; là vấn đề thực tiễn nóng
bỏng đòi hỏi phải được giải quyết một cách đúng đắn và thận trọng.
I. Dân tộc và hai xu hướng khách quan của sự phát
triển các dân tộc
1. Khái niệm và những đặc trưng cơ bản của dân tộc
Cũng như nhiều hình thức cộng đồng khác, dân tộc là sản phẩm của
một quá trình phát triển lâu dài của xã hội loài người. Trước khi dân tộc
xuất hiện, loài người đã trải qua những hình thức cộng đồng từ thấp đến
cao: thị tộc, bộ lạc, bộ tộc.
ở phương Tây, dân tộc xuất hiện khi phương thức sản xuất tư bản chủ
nghĩa được xác lập và thay thế vai trò của phương thức sản xuất phong
kiến. Chủ nghĩa tư bản ra đời trên cơ sở của sự phát triển sản xuất và trao
đổi hàng hoá đã làm cho các bộ tộc gắn bó với nhau. Nền kinh tế tự cấp, tự
túc bị xoá bỏ, thị trường có tính chất địa phương nhỏ hẹp, khép kín được
mở rộng thành thị trường dân tộc. Cùng với quá trình đó, sự phát triển đến
mức độ chín muồi của các nhân tố ý thức, văn hoá, ngôn ngữ, sự ổn định
của lãnh thổ chung đã làm cho dân tộc xuất hiện. Chỉ đến lúc đó tất cả lãnh
địa của các nước phương Tây mới thực sự hợp nhất lại, tức là chấm dứt
tình trạng cát cứ phong kiến và dân tộc được hình thành.
ở một số nước phương Đông, do tác động của hoàn cảnh mang tính
đặc thù, đặc biệt do sự thúc đẩy của quá trình đấu tranh dựng nước và giữ
nước, dân tộc đã hình thành trước khi chủ nghĩa tư bản được xác lập. Loại
hình dân tộc tiền tư bản đó xuất hiện trên cơ sở một nền văn hoá, một tâm
lý dân tộc đã phát triển đến độ tương đối chín muồi, nhưng lại dựa trên cơ
sở một cộng đồng kinh tế tuy đã đạt tới một mức độ nhất định nhưng nhìn
chung còn kém phát triển và còn ở trạng thái phân tán.
Cho đến nay, khái niệm dân tộc được hiểu theo nhiều nghĩa khác
nhau, trong đó có hai nghĩa được dùng phổ biến nhất:
121
Một là, chỉ cộng đồng người có mối liên hệ chặt chẽ và bền vững, có
sinh hoạt kinh tế chung, có ngôn ngữ riêng và những nét văn hoá đặc thù;
xuất hiện sau bộ lạc, bộ tộc; kế thừa, phát triển cao hơn những nhân tố tộc
người ở bộ lạc, bộ tộc và thể hiện thành ý thức tự giác tộc người của dân cư
cộng đồng đó.Theo nghĩa thứ nhất, dân tộc được hiểu như một tộc người
hay một dân tộc trong một quốc gia đa dân tộc. Với nghĩa hiểu này, Việt
Nam gồm 54 dân tộc hay 54 tộc người.
Hai là, chỉ một cộng đồng người ổn định hợp thành nhân dân một
nước, có lãnh thổ, quốc gia, nền kinh tế thống nhất, quốc ngữ chung và có
ý thức về sự thống nhất quốc gia của mình, gắn bó với nhau bởi lợi ích
chính trị, kinh tế, truyền thống văn hoá và truyền thống đấu tranh chung
trong suốt quá trình lịch sử lâu dài dựng nước và giữ nước. Theo nghĩa thứ
hai, dân tộc đồng nghĩa với quốc gia - dân tộc. Theo nghĩa này, có thể nói
dân tộc Việt Nam, dân tộc Trung Hoa, v.v..
Với nghĩa thứ nhất, dân tộc là một bộ phận của quốc gia; với nghĩa
thứ hai, dân tộc là toàn bộ nhân dân của quốc gia đó - quốc gia dân tộc.
Dưới giác độ môn học chủ nghĩa xã hội khoa học, dân tộc được hiểu theo
nghĩa thứ nhất. Tuy nhiên, chỉ khi đặt nó bên cạnh nghĩa thứ hai, trong mối
liên hệ với nghĩa thứ hai thì sắc thái nội dung của nó mới bộc lộ đầy đủ.
Dân tộc thường được nhận biết thông qua những đặc trưng chủ yếu
sau đây:
+ Có chung một phương thức sinh hoạt kinh tế. Đây là đặc trưng quan
trọng nhất của dân tộc. Các mối quan hệ kinh tế là cơ sở liên kết các bộ
phận, các thành viên của dân tộc, tạo nên nền tảng vững chắc của cộng đồng
dân tộc.
+ Có thể cư trú tập trung trên một vùng lãnh thổ của một quốc gia,
hoặc cư trú đan xen với nhiều dân tộc anh em. Vận mệnh dân tộc một phần
rất quan trọng gắn với việc xác lập và bảo vệ lãnh thổ đất nước.
+ Có ngôn ngữ riêng và có thể có chữ viết riêng (trên cơ sở ngôn ngữ
chung của quốc gia) làm công cụ giao tiếp trên mọi lĩnh vực: kinh tế, văn
hoá, tình cảm...
+ Có nét tâm lý riêng (nét tâm lý dân tộc) biểu hiện kết tinh trong nền
văn hoá dân tộc và tạo nên bản sắc riêng của nền văn hoá dân tộc, gắn bó
với nền văn hoá của cả cộng đồng các dân tộc (quốc gia dân tộc).
Như vậy, cộng đồng người ổn định chỉ trở thành dân tộc khi có đủ các
đặc trưng trên, các đặc trưng của dân tộc là một chỉnh thể gắn bó chặt chẽ
với nhau, đồng thời mỗi đặc trưng có một vị trí xác định. Sự tổng hợp các
122
đặc trưng nêu trên làm cho các cộng đồng dân tộc được đề cập ở
đây - về thực chất là một cộng đồng xã hội - tộc người, trong đó những
nhân tố tộc người đan kết, hoà quyện vào các nhân tố xã hội. Điều đó làm
cho khái niệm dân tộc khác với các khái niệm sắc tộc, chủng tộc - thường
chỉ căn cứ vào các đặc điểm tự nhiên, chẳng hạn màu da hay cấu tạo tự
nhiên của các bộ phận trong cơ thể để phân loại cộng đồng người.
Nghiên cứu khái niệm và các đặc trưng của dân tộc cần thấy rằng:
khái niệm dân tộc và khái niệm quốc gia gắn bó chặt chẽ với nhau. Bởi vì,
dân tộc ra đời trong một quốc gia nhất định, thông thường thì những nhân
tố hình thành dân tộc chín muồi không tách rời với sự chín muồi của những
nhân tố hình thành quốc gia - chúng bổ sung và thúc đẩy lẫn nhau.
Nếu như cộng đồng thị tộc (trong xã hội nguyên thuỷ) mang tính
thuần tuý tộc người, trong đó quan hệ huyết thống còn đóng vai trò chi phối
tuyệt đối, thì ở cộng đồng bộ lạc và liên minh bộ lạc (xuất hiện vào cuối xã
hội nguyên thuỷ) đã xuất hiện dưới dạng đầu tiên những thiết chế chính trị
- xã hội, trong đó những quan hệ tộc người xen với những quan hệ chính
trị - xã hội. Cộng đồng bộ tộc xuất hiện vào thời kỳ xã hội có sự phân chia
rõ rệt hơn về giai cấp và sau đó là sự xuất hiện nhà nước - quốc gia. Từ
đây, sự cố kết bộ tộc là nhân tố quan trọng trong sự hình thành và củng cố
quốc gia; ngược lại, sự hình thành, củng cố quốc gia là điều kiện có ý nghĩa
quyết định sự củng cố và phát triển của cộng đồng bộ tộc, là sự chuẩn bị
quan trọng nhất để cộng đồng bộ tộc chuyển lên một hình thức cao hơn -
tức là dân tộc.
Tính tộc người và tính chính trị - xã hội đó ghi đậm vào tâm trí của
đông đảo dân cư ý thức gắn bó quyền lợi và nghĩa vụ của mình với dân tộc,
với nhà nước, quốc gia. Tình cảm đối với dân tộc hoà nhập vào tình cảm
đối với Tổ quốc và trở thành một trong những giá trị thiêng liêng, bền vững
của nhiều thế hệ con người ở nhiều dân tộc, quốc gia. Tình cảm ấy xuất
hiện và được củng cố trong quá trình lịch sử dựng nước và giữ nước lâu
dài, trở thành nét truyền thống đặc sắc của các dân tộc, quốc gia đó.
Nhận thức vấn đề này không chỉ có ý nghĩa khoa học mà còn có ý
nghĩa thực tiễn quan trọng. Bởi vì, công cuộc cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã
hội mới - từ cơ sở kinh tế đến kiến trúc thượng tầng và các quan hệ xã hội
không thể thiếu nội dung cải tạo, xây dựng cộng đồng dân tộc và các mối
quan hệ dân tộc. Ngược lại, việc cải tạo, xây dựng cộng đồng dân tộc và
các mối quan hệ dân tộc không thể tách rời công cuộc cải tạo, xây dựng
toàn diện xã hội mà trước hết là xây dựng chế độ chính trị - xã hội, xây
dựng nhà nước theo con đường tiến bộ.
123
Dân tộc xã hội chủ nghĩa chỉ xuất hiện do kết quả của sự cải tạo, xây
dựng từng bước cộng đồng dân tộc và các mối quan hệ dân tộc theo các
nguyên lý của chủ nghĩa xã hội khoa học. Đồng thời, dân tộc xã hội chủ
nghĩa chỉ có thể xuất hiện do kết quả của công cuộc cải tạo, xây dựng toàn
diện các lĩnh vực của đời sống xã hội để từng bước củng cố chế độ xã hội
chủ nghĩa.
Tuy nhiên, trong thực tiễn, không nên xem nhẹ hoặc làm lu mờ những
nhân tố dân tộc tồn tại lâu dài trong một cộng đồng quốc gia gồm nhiều dân
tộc. Nhân tố dân tộc đó được biểu hiện nổi bật nhất trong văn hoá, nghệ
thuật, ngôn ngữ, phong tục, tập quán, tâm lý và tình cảm; chúng hoà quyện
vào nhau tạo thành một thể thống nhất trong đa dạng về bản sắc dân tộc; là
căn cứ chủ yếu để phân biệt dân tộc này với dân tộc khác. Điều đó đòi hỏi
nhà nước xã hội chủ nghĩa trong khi hoạch định và thực hiện mọi chính
sách chung của quốc gia, cần chú ý đến tính đặc thù của cộng đồng gồm
nhiều dân tộc, hơn nữa, cần có những chính sách riêng đáp ứng những đòi
hỏi chính đáng mang tính đặc thù của từng dân tộc.
2. Hai xu hướng của sự phát triển các dân tộc và biểu hiện của hai
xu hướng khách quan đó trong thời đại ngày nay
Nghiên cứu vấn đề dân tộc và phong trào dân tộc trong điều kiện của
chủ nghĩa tư bản, V.I. Lênin đã phát hiện ra hai xu hướng khách quan của
sự phát triển các dân tộc.
Xu hướng thứ nhất, do sự thức tỉnh, sự trưởng thành của ý thức dân
tộc mà các cộng đồng dân cư muốn tách ra để xác lập các cộng đồng dân
tộc độc lập. Trong thời kỳ tư bản chủ nghĩa, ở các quốc gia gồm nhiều cộng
đồng dân cư có nguồn gốc tộc người khác nhau. Khi mà các tộc người đó
có sự trưởng thành về ý thức dân tộc, ý thức về quyền sống của mình, các
cộng đồng dân cư đó muốn tách ra thành lập các dân tộc độc lập. Vì họ
hiểu rằng, chỉ trong cộng đồng độc lập, họ mới có quyền quyết định vận
mệnh của mình mà quyền cao nhất là quyền tự do lựa chọn chế độ chính trị
và con đường phát triển. Trong thực tế, xu hướng này đã biểu hiện thành
phong trào đấu tranh chống áp bức dân tộc, thành lập các quốc gia dân tộc
độc lập. Xu hướng này nổi lên trong giai đoạn đầu của chủ nghĩa tư bản và
vẫn còn tác động trong giai đoạn đế quốc chủ nghĩa.
Xu hướng thứ hai, các dân tộc trong từng quốc gia, thậm chí các dân
tộc ở nhiều quốc gia muốn liên hiệp lại với nhau. Xu hướng này nổi lên
trong giai đoạn đế quốc chủ nghĩa. Chính sự phát triển của lực lượng sản
xuất, của khoa học và công nghệ, của giao lưu kinh tế và văn hoá trong xã
hội tư bản đã làm xuất hiện nhu cầu xoá bỏ hàng rào ngăn cách giữa các
124
dân tộc, tạo nên mối liên hệ quốc gia và quốc tế rộng lớn giữa các dân tộc,
thúc đẩy các dân tộc xích lại gần nhau.
Hai xu hướng này vận động trong điều kiện của chủ nghĩa đế quốc gặp
nhiều trở ngại. Bởi vì, nguyện vọng của các dân tộc được sống độc lập, tự
do bị chính sách xâm lược của chủ nghĩa đế quốc xoá bỏ. Chính sách xâm
lược của chủ nghĩa đế quốc đã biến hầu hết các dân tộc nhỏ bé hoặc còn ở
trình độ lạc hậu thành thuộc địa và phụ thuộc của nó. Xu hướng các dân tộc
xích lại gần nhau trên cơ sở tự nguyện và bình đẳng bị chủ nghĩa đế quốc
phủ nhận. Thay vào đó họ áp đặt lập ra những khối liên hiệp nhằm duy trì
áp bức, bóc lột đối với các dân tộc khác, trên cơ sở cưỡng bức và bất bình
đẳng.
Vì vậy, chủ nghĩa Mác-Lênin cho rằng, chỉ trong điều kiện của chủ
nghĩa xã hội, khi chế độ người bóc lột người bị xoá bỏ thì tình trạng dân
tộc này áp bức, đô hộ các dân tộc khác mới bị xoá bỏ và chỉ khi đó hai xu
hướng khách quan của sự phát triển dân tộc mới có điều kiện để thể hiện
đầy đủ. Quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội là sự quá độ lên
một xã hội thực sự tự do, bình đẳng, đoàn kết hữu nghị giữa người và
người trên toàn thế giới.
Hai xu hướng khách quan của phong trào dân tộc do V.I. Lênin phát
hiện đang phát huy tác dụng trong thời đại ngày nay với những biểu hiện rất
phong phú và đa dạng.
* Xét trong phạm vi các quốc gia xã hội chủ nghĩa có nhiều dân tộc:
Xu hướng thứ nhất biểu hiện trong sự nỗ lực của từng dân tộc để đi tới
sự tự chủ và phồn vinh của bản thân dân tộc mình. Xu hướng thứ hai tạo
nên sự thúc đẩy mạnh mẽ để các dân tộc trong cộng đồng quốc gia xích lại
gần nhau hơn, hoà hợp với nhau ở mức độ cao hơn trong mọi lĩnh vực của
đời sống.
ở các quốc gia xã hội chủ nghĩa, hai xu hướng phát huy tác động cùng
chiều, bổ sung, hỗ trợ cho nhau và diễn ra trong từng dân tộc, trong cả cộng
đồng quốc gia và đến tất cả các quan hệ dân tộc. Sự xích lại gần nhau trên
cơ sở tự nguyện, bình đẳng giữa các dân tộc sẽ tạo điều kiện cho từng dân
tộc đi nhanh tới sự tự chủ và phồn vinh. Bởi vì, nó sẽ tạo điều kiện cho dân
tộc đó có thêm những điều kiện vật chất và tinh thần để hợp tác chặt chẽ
hơn với các dân tộc anh em; đồng thời nó cho phép mỗi dân tộc không chỉ
sử dụng tiềm năng của các dân tộc mình mà còn có sự gắn kết hữu cơ với
tiềm năng của các dân tộc anh em trong một nước để tiến lên phía trước. Sự
xích lại gần nhau giữa các dân tộc trong cùng quốc gia có nghĩa là những
tinh hoa, những giá trị của các dân tộc đó thâm nhập vào nhau, bổ sung,
125
hoà quyện vào nhau để tạo thành những giá trị chung. Tuy nhiên, sự hoà
quyện đó không xoá bỏ sắc thái của từng dân tộc, không xoá nhoà những
đặc thù dân tộc; ngược lại, nó bảo lưu, gìn giữ và phát huy những tinh hoa,
bản sắc của từng dân tộc. Trong chế độ xã hội chủ nghĩa, cả hai xu hướng
trên đều loại trừ các tư tưởng và hành vi kỳ thị dân tộc, chia rẽ dân tộc, tự ti
dân tộc, dân tộc hẹp hòi, xung đột dân tộc. Trong văn kiện Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ VI, Đảng ta đã khẳng định: "Sự phát triển mọi mặt của
từng dân tộc đi liền với sự củng cố, phát triển của cộng đồng các dân tộc
trên đất nước ta. Sự tăng cường tính cộng đồng, tính thống nhất là một quá
trình hợp quy luật, nhưng tính cộng đồng, tính thống nhất không mâu
thuẫn, không bài trừ tính đa dạng, tính độc đáo trong bản sắc của mỗi dân
tộc"1.
Mọi sự vi phạm quan hệ biện chứng giữa hai xu hướng khách quan
nêu trên đều dẫn đến những hậu quả tiêu cực.
* Xét trên phạm vi thế giới, sự tác động của hai xu hướng khách quan
thể hiện rất nổi bật. Bởi vì:
Thời đại ngày nay là thời đại các dân tộc bị áp bức đã vùng dậy, xoá
bỏ ách đô hộ của chủ nghĩa đế quốc và giành lấy sự tự quyết định vận
mệnh của dân tộc mình, bao gồm quyền tự lựa chọn chế độ chính trị và con
đường phát triển của dân tộc, quyền bình đẳng với các dân tộc khác. Đây là
một trong những mục tiêu chính trị chủ yếu của thời đại - mục tiêu độc lập
dân tộc.
Xu hướng này biểu hiện trong phong trào giải phóng dân tộc thành
sức mạnh chống chủ nghĩa đế quốc và chính sách của chủ nghĩa thực dân
mới dưới mọi hình thức. Xu hướng này cũng biểu hiện trong cuộc đấu
tranh của các dân tộc nhỏ bé đang là nạn nhân của sự kỳ thị dân tộc, phân
biệt chủng tộc, đang bị coi là đối tượng của chính sách đồng hoá cưỡng bức
ở nhiều nước tư bản.
Như vậy, độc lập tự chủ của mỗi dân tộc là xu hướng khách quan, là
chân lý thời đại, là sức mạnh hiện thực tạo nên quá trình phát triển của mỗi
dân tộc, sẽ làm tiêu tan tất cả những gì cản trở nó.
Thời đại ngày nay còn có xu hướng các dân tộc muốn xích lại gần
nhau để trở lại hợp nhất thành một quốc gia thống nhất theo nguyên trạng
đã được hình thành trong lịch sử. Xu hướng đó tạo nên sức hút các dân tộc
vào các liên minh được hình thành trên những cơ sở lợi ích chung nhất
định. Các dân tộc có những lợi ích mang tính khu vực, dựa trên yếu tố gần
1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1987, tr.98.
126
nhau về địa lý, giống nhau về môi trường thiên nhiên, tương đồng về một
số giá trị văn hoá, trùng hợp nhau về lịch sử và hiện tại trong cuộc đấu
tranh chống kẻ thù chung bên ngoài.
Đặc biệt vào những năm 90 của thế kỷ XX, xu hướng "tập đoàn hoá"
ở các khu vực của thế giới tăng lên rõ rệt không chỉ do tác động của lợi ích
kinh tế mà còn do sức thúc đẩy của các lợi ích chính trị. Hơn nữa, sự liên
minh đó còn tạo nên sức hút trên toàn cầu nhằm tập trung giải quyết những
vấn đề chung của cả nhân loại như: chống nguy cơ chiến tranh hạt nhân,
chống ô nhiễm và bảo vệ môi trường sinh thái, khắc phục nạn đói xảy ra
thường xuyên ở nhiều nơi trên thế giới, kế hoạch hoá sự phát triển dân số
và bảo vệ sức khoẻ... Lợi ích toàn cầu có tác động sâu xa gắn bó loài người
trong một quá trình vận động thống nhất, bởi vì các dân tộc quốc gia trên
thế giới hiện nay còn đang ở trình độ phát triển khác nhau và đang cần sự
hỗ trợ nhau để cùng tiến bộ.
Nhận rõ điều này, mỗi dân tộc, quốc gia phải biết thực hiện chính sách
độc lập tự chủ để mở cửa hội nhập vào dòng vận động chung của nhân loại;
đồng thời phải tìm được giải pháp hữu hiệu để gìn giữ, phát huy bản sắc
của dân tộc mình.
Dựa trên sự phân tích hai xu hướng khách quan của phong trào dân
tộc trong thời đại hiện nay, Đảng ta đã khẳng định: "Giữ vững độc lập tự
chủ đi đôi với mở rộng hợp tác quốc tế, đa phương hoá, đa dạng hoá quan
hệ đối ngoại"1 là nguyên tắc thống nhất của đường lối đối ngoại của Đảng
và Nhà nước ta.
II. Nội dung cương lĩnh dân tộc của Đảng Cộng sản
Dựa trên cơ sở tư tưởng của C. Mác và Ph. Ăngghen về vấn đề dân
tộc; dựa vào sự tổng kết kinh nghiệm đấu tranh của phong trào cách mạng
thế giới và cách mạng Nga; phân tích sâu sắc hai xu hướng khách quan của
phong trào dân tộc gắn liền với quá trình phát triển của chủ nghĩa tư bản,
nhất là khi đã bước vào giai đoạn đế quốc chủ nghĩa, V.I. Lênin đã khái
quát lại thành "Cương lĩnh dân tộc" của Đảng cộng sản. Trong tác phẩm Về
quyền dân tộc tự quyết, Người nêu rõ: "Các dân tộc hoàn toàn bình đẳng,
các dân tộc được quyền tự quyết, liên hiệp công nhân tất cả các dân tộc
lại".
1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
1996, tr. 84.
127
1. Các dân tộc hoàn toàn bình đẳng
Đây là quyền thiêng liêng của các dân tộc trong mối quan hệ giữa các
dân tộc. Các dân tộc hoàn toàn bình đẳng có nghĩa là: các dân tộc lớn hay
nhỏ (kể cả bộ tộc và chủng tộc) không phân biệt trình độ phát triển cao hay
thấp đều có nghĩa vụ và quyền lợi ngang nhau; không một dân tộc nào
được giữ đặc quyền đặc lợi và có quyền đi áp bức bóc lột dân tộc khác, thể
hiện trong luật pháp của mỗi nước và luật pháp quốc tế.
Trong một quốc gia có nhiều dân tộc, quyền bình đẳng giữa các dân
tộc phải được pháp luật bảo vệ và được thể hiện trong mọi lĩnh vực của đời
sống xã hội, trong đó việc phấn đấu khắc phục sự chênh lệch về trình độ
phát triển kinh tế, văn hoá do lịch sử để lại có ý nghĩa cơ bản.
Trên phạm vi giữa các quốc gia - dân tộc, đấu tranh cho sự bình đẳng
giữa các dân tộc trong giai đoạn hiện nay gắn liền với cuộc đấu tranh chống
chủ nghĩa phân biệt chủng tộc, chủ nghĩa sôvanh; gắn liền với cuộc đấu
tranh xây dựng một trật tự kinh tế thế giới mới; chống sự áp bức bóc lột của
các nước tư bản phát triển đối với các nước chậm phát triển về kinh tế.
Thực hiện quyền bình đẳng giữa các dân tộc là cơ sở để thực hiện
quyền dân tộc tự quyết và xây dựng mối quan hệ hợp tác, hữu nghị giữa
các dân tộc.
2. Các dân tộc được quyền tự quyết
Quyền dân tộc tự quyết là quyền làm chủ của mỗi dân tộc đối với vận
mệnh dân tộc mình, quyền tự quyết định chế độ chính trị - xã hội và con
đường phát triển của dân tộc mình. Quyền tự quyết bao gồm quyền tự do
độc lập về chính trị tách ra thành lập một quốc gia dân tộc độc lập vì lợi ích
của các dân tộc (chứ không phải vì mưu đồ và lợi ích của một nhóm người
nào) và cũng bao gồm quyền tự nguyện liên hiệp với các dân tộc khác trên
cơ sở bình đẳng cùng có lợi để có đủ sức mạnh chống nguy cơ xâm lược từ
bên ngoài, giữ vững độc lập chủ quyền và có thêm những điều kiện thuận
lợi cho sự phát triển quốc gia - dân tộc.
Khi xem xét, giải quyết quyền tự quyết của dân tộc cần đứng vững
trên lập trường của giai cấp công nhân. Triệt để ủng hộ các phong trào dân
tộc tiến bộ phù hợp với lợi ích chính đáng của giai cấp công nhân và nhân
dân lao động. Kiên quyết đấu tranh chống lại mọi âm mưu, thủ đoạn của
các thế lực đế quốc và phản động lợi dụng chiêu bài "dân tộc tự quyết" để
can thiệp vào công việc nội bộ của các nước, giúp đỡ các thế lực phản động
dân tộc chủ nghĩa (sôvanh, hẹp hòi) đàn áp các lực lượng tiến bộ, đòi ly
khai và đi vào quỹ đạo của chủ nghĩa thực dân mới, chủ nghĩa tư bản.
128
3. Liên hiệp công nhân tất cả các dân tộc
Liên hiệp công nhân của tất cả các dân tộc là tư tưởng cơ bản trong
cương lĩnh dân tộc của các đảng cộng sản: nó phản ánh bản chất quốc tế
của phong trào công nhân, phản ánh sự thống nhất giữa sự nghiệp giải
phóng dân tộc và giải phóng giai cấp. Nó bảo đảm cho phong trào dân tộc
có đủ sức mạnh để giành thắng lợi.
Liên hiệp công nhân tất cả các dân tộc quy định mục tiêu hướng tới;
quy định đường lối, phương pháp xem xét cách giải quyết quyền dân tộc tự
quyết, quyền bình đẳng dân tộc. Đồng thời, nó là yếu tố sức mạnh đảm bảo
cho giai cấp công nhân và các dân tộc bị áp bức chiến thắng kẻ thù của
mình. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: "Muốn cứu nước và giải phóng
dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản".
Đoàn kết, liên hiệp công nhân các dân tộc là cơ sở vững chắc để đoàn
kết các tầng lớp nhân dân lao động rộng rãi thuộc các dân tộc trong cuộc
đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc vì độc lập dân tộc và tiến bộ xã hội. Vì
vậy, nội dung liên hiệp công nhân các dân tộc đóng vai trò liên kết cả ba
nội dung của cương lĩnh thành một chỉnh thể. Đoàn kết giai cấp công nhân
các dân tộc là sự thể hiện thực tế tinh thần yêu nước mà thời đại ngày nay
đã trở thành sức mạnh cực kỳ to lớn. Nội dung đó phù hợp với tinh thần
quốc tế chân chính đang lên tiếng kêu gọi các dân tộc, quốc gia xích lại gần
nhau.
Cương lĩnh dân tộc của đảng cộng sản là một bộ phận trong cương
lĩnh cách mạng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động trong sự
nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp; là cơ sở lý luận
của đường lối, chính sách dân tộc của các đảng cộng sản và nhà nước xã
hội chủ nghĩa.
III. Đặc điểm quan hệ dân tộc Việt Nam và chính sách
dân tộc của Đảng, Nhà nước ta hiện nay
1. Đặc điểm quan hệ dân tộc ở Việt Nam
Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc thống nhất gồm 54 dân tộc. Dân
tộc Kinh chiếm 87% dân số; 53 dân tộc còn lại chiếm 13% dân số, phân bố
rải rác trên địa bàn cả nước. 10 dân tộc có số dân từ dưới 1 triệu đến 100
ngàn người là: Tày, Nùng, Thái, Mường, Khơme, Mông, Dao, Giarai,
Bana, Êđê; 20 dân tộc có số dân dưới 100 ngàn người; 16 dân tộc có số dân
từ dưới 10 ngàn người đến 1 ngàn người; 6 dân tộc có số dân dưới 1 ngàn
người Cống, Si La, Pu Péo, Rơ Măm, Ơ Đu, Brâu).
129
Đặc trưng nổi bật trong quan hệ giữa các dân tộc ở nước ta là sự cố
kết dân tộc, hoà hợp dân tộc trong một cộng đồng thống nhất đã trở thành
truyền thống, thành sức mạnh và đã được thử thách trong các cuộc đấu
tranh chống ngoại xâm, bảo vệ Tổ quốc, xây dựng đất nước qua mấy ngàn
năm lịch sử cho đến ngày nay.
Do những yếu tố đặc thù của nền kinh tế trồng lúa nước, một kết cấu
công xã nông thôn bền chặt sớm xuất hiện. Trải qua lịch sử liên tục chống
ngoại xâm, dân tộc ta đã hình thành rất sớm và trở thành một quốc gia dân
tộc thống nhất ngay dưới chế độ phong kiến. Đoàn kết là xu hướng khách
quan cố kết các dân tộc trên cơ sở có chung lợi ích, có chung vận mệnh lịch
sử, chung một tương lai, tiền đồ.
Tuy nhiên, bên cạnh mặt cố kết tạo nên tính cộng đồng chung, có nơi
có lúc vẫn xảy ra hiện tượng tiêu cực trong quan hệ dân tộc. Chủ nghĩa đế
quốc và các thế lực thù địch lại luôn luôn dùng mọi thủ đoạn chia rẽ dân
tộc và can thiệp vào nội bộ nước ta. Do đó, phát huy truyền thống đoàn kết,
xoá bỏ thành kiến, nghi kỵ dân tộc và kiên quyết đập tan mọi âm mưu chia
rẽ dân tộc của kẻ thù là nhiệm vụ trọng yếu của nhân dân ta trong sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa hiện nay.
Hình thái cư trú xen kẽ giữa các dân tộc ngày càng tăng, tuy trong
từng khu vực nhất định có những dân tộc sống tương đối tập trung, nhưng
không thành địa bàn riêng biệt. Do đó, các dân tộc ở nước ta không có lãnh
thổ riêng, không có nền kinh tế riêng và sự thống nhất hữu cơ giữa dân tộc
và quốc gia trên mọi mặt của đời sống xã hội ngày càng được củng cố.
Do điều kiện tự nhiên, xã hội và hậu quả của các chế độ áp bức bóc lột
trong lịch sử nên trình độ phát triển kinh tế, văn hoá... giữa các dân tộc còn
khác biệt, chênh lệch nhau.
Tình trạng chênh lệch về trình độ phát triển kinh tế, văn hoá... giữa
các dân tộc, giữa các vùng dân cư là một đặc trưng cần quan tâm nhằm
từng bước khắc phục sự chênh lệch đó để thực hiện bình đẳng, đoàn kết
dân tộc ở nước ta. Nhiều vùng dân tộc thiểu số canh tác còn ở trình độ rất
thấp, chủ yếu dựa vào khai thác tự nhiên. Đời sống vật chất của bà con dân
tộc thiểu số còn thiếu thốn, tình trạng nghèo đói kéo dài, thuốc chữa bệnh
khan hiếm, nạn mù chữ và tái mù chữ còn ở nhiều nơi. Đường giao thông và
phương tiện đi lại nhiều vùng rất khó khăn; điện, nước phục vụ cho sản xuất
đời sống nhiều vùng còn rất thiếu; thông tin, bưu điện nhiều nơi chưa đáp
ứng yêu cầu của đời sống, nhất là ở vùng cao, vùng xa xôi hẻo lánh...
Cùng với nền văn hoá cộng đồng, mỗi dân tộc trong đại gia đình các
dân tộc Việt Nam đều có đời sống văn hoá mang bản sắc riêng rất phong
130
phú. Bởi vì, bất cứ dân tộc nào, dù nhiều người hay ít người, đều có nền
văn hoá riêng, phản ánh truyền thống lịch sử, đời sống tinh thần, niềm tự
hào của dân tộc bằng những bản sắc độc đáo. Đặc trưng của sắc thái văn
hoá dân tộc bao gồm: ngôn ngữ tiếng nói, văn học, nghệ thuật, tình cảm
dân tộc, y phục, phong tục tập quán, quan hệ gia đình, dòng họ... Một số
dân tộc có chữ viết riêng (Khơme, Chăm, Thái, Mông, Giarai, Êđê ). Một
số dân tộc thiểu số gắn với một vài tôn giáo truyền thống (Khơme - với đạo
Phật; Chăm - với Islam, Bàlamôn ); một vài dân tộc gắn với đạo Tin Lành,
đạo Thiên Chúa... Vì vậy, Đảng và Nhà nước ta luôn luôn tôn trọng bản sắc
văn hoá riêng và tôn trọng tự do tín ngưỡng của mỗi dân tộc. Sự phát triển
đa dạng mang bản sắc văn hoá của từng dân tộc càng làm phong phú thêm
nền văn hoá của cả cộng đồng.
Các dân tộc thiểu số tuy chỉ chiếm 13% dân số cả nước nhưng lại cư
trú trên các địa bàn có vị trí chiến lược quan trọng về chính trị, kinh tế,
quốc phòng, an ninh và giao lưu quốc tế, đó là các vùng biên giới, vùng
rừng núi cao, hải đảo... Nhiều vùng đồng bào dân tộc thiểu số trước đây là
căn cứ cách mạng và kháng chiến. Một số dân tộc có quan hệ dòng tộc với
các dân tộc ở các nước láng giềng và khu vực.
Xuất phát từ tình hình, đặc trưng cơ bản của dân tộc Việt Nam, Đảng
và Nhà nước ta luôn luôn quan tâm đến vấn đề chính sách dân tộc xem xét
nó như là vấn đề xã hội - chính trị rộng lớn, toàn diện gắn liền với các mục
tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ
nghĩa.
2. Chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta hiện nay
Dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về vấn đề dân tộc và
thực tiễn lịch sử đấu tranh cách mạng để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt
Nam cũng như dựa vào tình hình thế giới trong giai đoạn hiện nay, Đảng và
Nhà nước ta ngay từ khi thành lập cho đến nay luôn luôn coi vấn đề dân tộc
và xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc có tầm quan trọng đặc biệt. Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã nói: Nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một,
đồng bào các dân tộc đều là anh em ruột thịt, là con cháu một nhà, thương
yêu đoàn kết giúp đỡ nhau là nghĩa vụ thiêng liêng của các dân tộc. Người
còn khẳng định: "Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công, thành
công, đại thành công". Trong mỗi thời kỳ cách mạng, Đảng và Nhà nước
coi việc giải quyết đúng đắn vấn đề dân tộc là nhiệm vụ có tính chiến lược
nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp, cũng như tiềm năng riêng của từng dân
tộc trong sự nghiệp đấu tranh giành độc lập dân tộc và đưa đất nước quá độ
lên chủ nghĩa xã hội.
131
Trong văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Đảng ta đã nêu
rõ: "Vấn đề dân tộc và đoàn kết các dân tộc có vị trí chiến lược lâu dài trong
sự nghiệp cách mạng"1. Thực hiện tốt chính sách các dân tộc bình đẳng,
đoàn kết, tương trợ, giúp nhau cùng phát triển; xây dựng kết cấu hạ tầng
kinh tế, xã hội, phát triển sản xuất hàng hoá, chăm lo đời sống vật chất và
tinh thần đi đôi với "giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá, tiếng nói, chữ
viết và truyền thống tốt đẹp của các dân tộc. Thực hiện tốt chiến lược phát
triển kinh tế - xã hội ở miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới, vùng
căn cứ cách mạng"2, kiên quyết "Chống kỳ thị, chia rẽ dân tộc; chống tư
tưởng dân tộc lớn, dân tộc hẹp hòi, dân tộc cực đoan; khắc phục tư tưởng tự
ti, mặc cảm dân tộc"3.
Những chính sách dân tộc cơ bản của Đảng và Nhà nước ta được biểu
hiện cụ thể như sau:
+ Có chính sách phát triển kinh tế hàng hoá ở các vùng dân tộc thiểu
số phù hợp với điều kiện và đặc điểm từng vùng, từng dân tộc, bảo đảm
cho đồng bào các dân tộc khai thác được thế mạnh của địa phương để làm
giàu cho mình và đóng góp vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Đây là vấn đề cực kỳ quan trọng để khắc phục sự chênh lệch về kinh
tế, văn hoá, bảo đảm sự bình đẳng thực sự giữa các dân tộc. Đi đôi với phát
huy tiềm lực kinh tế của các vùng dân tộc cần chú trọng bảo vệ môi trường
thiên nhiên, ổn định đời sống của đồng bào, phát huy mối quan hệ tốt đẹp,
gắn bó giữa đồng bào tại chỗ và đồng bào từ nơi khác đến, chống tư tưởng
dân tộc hẹp hòi.
+ Tôn trọng lợi ích, truyền thống, văn hoá, ngôn ngữ, tập quán, tín
ngưỡng của đồng bào các dân tộc; từng bước nâng cao dân trí đồng bào các
dân tộc, nhất là các dân tộc thiểu số ở vùng núi cao, hải đảo.
Đây là vấn đề quan trọng và rất tế nhị, cần lắng nghe ý kiến của đồng
bào và có chính sách thật cụ thể nhằm làm cho nền văn hoá chung vừa hiện
đại vừa đậm đà bản sắc dân tộc, ngày càng phong phú và rực rỡ.
+ Tiếp tục phát huy truyền thống đoàn kết và đấu tranh kiên cường
của các dân tộc vì sự nghiệp dân giàu, nước mạnh, chống tư tưởng dân tộc
lớn và dân tộc hẹp hòi, nghiêm cấm mọi hành vi miệt thị và chia rẽ dân tộc.
+ Tăng cường bồi dưỡng, đào tạo đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số;
1, 2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2006, tr. 121-122.
3.Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2001, tr. 128
132
đồng thời giáo dục tinh thần đoàn kết hợp tác cho cán bộ các dân tộc. Bởi
vì, chỉ tinh thần đó mới phù hợp với đòi hỏi khách quan của công cuộc phát
triển dân tộc và xây dựng đất nước. Trong công cuộc đó, không dân tộc nào
có thể chỉ sử dụng đội ngũ cán bộ xuất thân từ dân tộc mình, ngược lại, cần
sự hỗ trợ lẫn nhau giữa các đội ngũ cán bộ thuộc mọi dân tộc trong cả
nước.
Như vậy, chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước mang tính toàn
diện, tổng hợp, quán xuyến tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, liên
quan đến mỗi dân tộc và quan hệ giữa các dân tộc trong cả cộng đồng quốc
gia. Phát triển kinh tế - xã hội của các dân tộc là nền tảng để tăng cường
đoàn kết và thực hiện quyền bình đẳng dân tộc, là cơ sở để từng bước khắc
phục sự chênh lệch về trình độ phát triển giữa các dân tộc. Do đó, chính
sách dân tộc còn mang tính cách mạng và tiến bộ, đồng thời còn mang tính
nhân đạo, bởi vì, nó không bỏ sót bất cứ dân tộc nào, không cho phép bất
cứ tư tưởng khinh miệt, kỳ thị, chia rẽ dân tộc; nó tôn trọng quyền làm chủ
của mỗi con người và quyền tự quyết của các dân tộc. Mặt khác, nó còn
nhằm phát huy nội lực của mỗi dân tộc kết hợp với sự giúp đỡ có hiệu quả
của các dân tộc anh em trong cả nước.
Nhận thức đúng đắn bản chất, nội dung, tính chất của chính sách dân
tộc có ý nghĩa quyết định tới việc định hướng và đổi mới các biện pháp
thực hiện chính sách dân tộc, làm cho chính sách dân tộc đi vào cuộc sống.
Câu hỏi thảo luận và ôn tập
1. Phân biệt các khái niệm dân tộc. Phân tích về hai xu hướng khách
quan của sự phát triển các dân tộc trong thời đại hiện nay?
2. Phân tích nội dung cơ bản "Cương lĩnh dân tộc" của Đảng Cộng sản
Việt Nam?
3. Khái quát tình hình các dân tộc ở Việt Nam và nội dung cơ bản các
chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước?
133
Chương X
Vấn đề tôn giáo trong quá trình xây dựng
chủ nghĩa xã hội
Tôn giáo là một hình thái ý thức - xã hội ra đời và biến đổi theo sự
biến động của điều kiện kinh tế - xã hội. Trong quá trình xây dựng chủ
nghĩa xã hội, tôn giáo còn tồn tại và có những biến đổi nhất định.
Việt Nam là một quốc gia có nhiều hình thức tín ngưỡng, tôn giáo khác
nhau và đang có chiều hướng phát triển trên phạm vi cả nước. Vì vậy, để
tiến hành thắng lợi công cuộc đổi mới ở nước ta, trước hết đòi hỏi Đảng
phải đổi mới tư duy, nhìn nhận và đánh giá đúng những vấn đề lý luận và
thực tiễn, trong đó có vấn đề tín ngưỡng, tôn giáo đang và sẽ có nhiều biểu
hiện mới, đa dạng, phức tạp, cần được giải quyết đúng đắn.
I. Bản chất, nguồn gốc và tính chất của tôn giáo
1. Bản chất và nguồn gốc của tôn giáo
a) Bản chất của tôn giáo
Chủ nghĩa Mác - Lênin coi tín ngưỡng, tôn giáo là một hình thái ý
thức xã hội phản ánh một cách hoang đường, hư ảo hiện thực khách quan.
Qua hình thức phản ánh của tôn giáo, những sức mạnh tự phát trong tự
nhiên và xã hội đều trở thành thần bí. Trong tác phẩm Chống Đuyrinh, Ph.
Ăngghen đã viết: "Tất cả mọi tôn giáo chẳng qua chỉ là sự phản ánh hư ảo -
vào trong đầu óc của con người - của những lực lượng ở bên ngoài chi phối
cuộc sống hàng ngày của họ; chỉ là sự phản ánh trong đó những lực lượng
ở trần thế đã mang hình thức những lực lượng siêu trần thế."1 C. Mác và
Ph. Ăngghen còn cho rằng, tôn giáo là một hiện tượng xã hội, văn hóa,
lịch sử; một lực lượng xã hội trần thế.
Giữa tín ngưỡng và tôn giáo có sự khác nhau, song lại có quan hệ chặt
chẽ mà ranh giới để phân biệt chúng chỉ là tương đối.
Tín ngưỡng là một khái niệm rộng hơn tôn giáo. ở đây chúng ta chỉ đề
cập một dạng tín ngưỡng - đó là tín ngưỡng tôn giáo (gọi tắt là tôn giáo).
Tín ngưỡng là niềm tin và sự ngưỡng mộ của con người vào một hiện
1. C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1994, t. 20, tr. 437.
134
tượng, một lực lượng siêu nhiên, tôn sùng vào một điều gì đó pha chút thần
bí, hư ảo, vô hình tác động mạnh đến tâm linh con người, trong đó bao hàm
cả niềm tin tôn giáo. Còn tôn giáo thường được hiểu là một hiện tượng xã
hội bao gồm có ý thức tôn giáo lấy niềm tin tôn giáo làm cơ sở, hành vi và
các tổ chức hoạt động tín ngưỡng tôn giáo - nghĩa là, tôn giáo thường có
giáo lý, giáo luật, lễ nghi và các tổ chức giáo hội.
Mê tín dị đoan là một hiện tượng xã hội tiêu cực đã xuất hiện từ lâu và
vẫn tồn tại ở thời đại chúng ta. Trên thực tế, mê tín dị đoan thường xen vào
các hình thức sinh hoạt tín ngưỡng tôn giáo. Việc xác định hiện tượng mê
tín dị đoan chủ yếu dựa vào biểu hiện và hậu quả tiêu cực của nó. Mê tín dị
đoan là niềm tin cuồng vọng của con người vào các lực lượng siêu nhiên
đến mức độ mê muội với những hành vi cực đoan, thái quá, phi nhân tính,
phản văn hóa của một số người gọi chung là cuồng tín. Hiện tượng mê tín
dị đoan thường gắn chặt và lợi dụng các hình thức sinh hoạt tín ngưỡng,
tôn giáo để hành nghề. Vì vậy, cùng với việc tôn trọng và bảo đảm quyền
tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân thì chúng ta phải loại bỏ dần mê
tín dị đoan nhằm làm lành mạnh hoá đời sống tinh thần xã hội.
Tôn giáo là sản phẩm của con người, gắn với những điều kiện lịch sử
tự nhiên và lịch sử xã hội xác định. Do đó, xét về mặt bản chất, tôn giáo là
một hiện tượng xã hội phản ánh sự bất lực, bế tắc của con người trước tự
nhiên và xã hội.
Theo C.Mác: "Sự nghèo nàn của tôn giáo vừa là biểu hiện của sự
nghèo nàn hiện thực, vừa là sự phản kháng chống sự nghèo nàn hiện thực
ấy. Tôn giáo là tiếng thở dài của chúng sinh bị áp bức, là trái tim của thế
giới không có trái tim, cũng giống như nó là tinh thần của những trật tự
không có tinh thần. Tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân"1.
Tuy nhiên, tôn giáo cũng chứa đựng một số giá trị văn hoá, phù hợp
với đạo đức, đạo lý của xã hội.
Về phương diện thế giới quan, thế giới quan duy vật mácxít và thế
giới quan tôn giáo là đối lập nhau. Tuy vậy, trong thực tiễn, những người
cộng sản có lập trường mácxít không bao giờ có thái độ xem thường hoặc
trấn áp những nhu cầu tín ngưỡng, tôn giáo hợp pháp của nhân dân. Ngược
lại, chủ nghĩa Mác-Lênin và những người cộng sản, chế độ xã hội chủ
nghĩa luôn tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng và không tín ngưỡng của nhân
dân.
1. Sđd, t.1, tr. 570.
135
Sự khác nhau giữa chủ nghĩa xã hội hiện thực và "thiên đường" mà
các tôn giáo thường hướng tới là ở chỗ trong quan niệm tôn giáo, "thiên
đường" không phải là hiện thực xã hội mà là ở "thế giới bên kia", trên
"thượng giới" (tức là cái hư ảo). Còn những người cộng sản chủ trương và
hướng con người vào xã hội văn minh, hạnh phúc ngay ở thế giới hiện
thực, do mọi người xây dựng và vì mọi người. V.I. Lênin đã chỉ rõ: "Đối
với chúng ta, sự thống nhất của cuộc đấu tranh thực sự cách mạng đó của
giai cấp bị áp bức để sáng tạo nên một cảnh cực lạc trên trái đất, là quan
trọng hơn sự thống nhất ý kiến của những người vô sản về cảnh cực lạc
trên thiên đường"1.
b) Nguồn gốc của tôn giáo
Tôn giáo xuất hiện rất sớm trong lịch sử xã hội loài người, hoàn thiện
và biến đổi cùng với sự phát triển của các quan hệ kinh tế, chính trị, xã hội.
Sự xuất hiện và biến đổi đó gắn liền với các nguồn gốc sau:
- Nguồn gốc kinh tế - xã hội của tôn giáo
Trong xã hội cộng sản nguyên thuỷ, do trình độ lực lượng sản xuất
thấp kém, con người cảm thấy yếu đuối và bất lực trước thiên nhiên rộng
lớn và bí ẩn, vì vậy, họ đã gán cho tự nhiên những sức mạnh, quyền lực to
lớn, thần thánh hoá những sức mạnh đó. Đó là hình thức tồn tại đầu tiên
của tôn giáo.
Khi xã hội xuất hiện những giai cấp đối kháng, bên cạnh cảm giác yếu
đuối trước sức mạnh của tự nhiên, con người lại cảm thấy bất lực trước
những sức mạnh tự phát hoặc của thế lực nào đó của xã hội. Không giải
thích được nguồn gốc của sự phân hoá giai cấp và áp bức bóc lột, tội ác,
v.v., và của những yếu tố ngẫu nhiên, may rủi, con người thường hướng
niềm tin ảo tưởng vào "thế giới bên kia" dưới hình thức các tôn giáo.
Như vậy, sự yếu kém của trình độ phát triển lực lượng sản xuất, sự
bần cùng về kinh tế, áp bức về chính trị, thất vọng, bất lực trước những bất
công xã hội là nguồn gốc sâu xa của tôn giáo.
- Nguồn gốc nhận thức của tôn giáo
Các nhà duy vật trước C. Mác thường nhấn mạnh về nguồn gốc nhận
thức của tôn giáo. Còn các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lênin, lại
quan tâm trước hết đến nguồn gốc kinh tế - xã hội của tôn giáo. Tuy nhiên,
chủ nghĩa Mác-Lênin không phủ nhận nguồn gốc nhận thức của tôn giáo
mà còn làm sáng tỏ một cách có cơ sở khoa học nguồn gốc đó.
1. V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva, 1979, t. 12, tr. 174.
136
ở một giai đoạn lịch sử nhất định, nhận thức của con người về tự
nhiên, xã hội và bản thân mình là có giới hạn. Khoa học có nhiệm vụ từng
bước khám phá những điều chưa biết. Song, khoảng cách giữa biết và chưa
biết luôn luôn tồn tại; điều gì mà khoa học chưa giải thích được thì điều đó
dễ bị tôn giáo thay thế.
Sự xuất hiện và tồn tại của tôn giáo còn gắn liền với đặc điểm nhận
thức của con người. Con người ngày càng nhận thức đầy đủ hơn, sâu sắc
hơn thế giới khách quan, khái quát hoá thành các khái niệm, phạm trù, quy
luật. Nhưng càng khái quát hoá, trừu tượng hoá đến mức hư ảo thì sự vật,
hiện tượng được con người nhận thức càng có khả năng xa rời hiện thực và
dễ phản ánh sai lệch hiện thực. Sự nhận thức bị tuyệt đối hoá, cường điệu
hoá của chủ thể nhận thức sẽ dẫn đến thiếu khách quan, mất dần cơ sở hiện
thực, dễ rơi vào ảo tưởng, thần thánh hoá đối tượng.
- Nguồn gốc tâm lý của tôn giáo
Các nhà duy vật cổ đại thường đưa ra luận điểm "sự sợ hãi sinh ra
thần linh". V.I. Lênin tán thành và phân tích thêm: sợ hãi trước thế lực mù
quáng của tư bản..., sự phá sản "đột ngột", "bất ngờ", "ngẫu nhiên", làm họ
bị diệt vong..., dồn họ vào cảnh chết đói, đó chính là nguồn gốc sâu xa của
tôn giáo hiện đại.
Ngoài sự sợ hãi trước sức mạnh của tự nhiên và xã hội, tín ngưỡng,
tôn giáo làm nảy sinh những tình cảm như lòng biết ơn, sự kính trọng, tình
yêu trong quan hệ giữa con người với tự nhiên và con người với con người.
Đó là những giá trị tích cực của tín ngưỡng, tôn giáo.
Tín ngưỡng, tôn giáo đã đáp ứng nhu cầu tinh thần của một bộ phận
nhân dân, góp phần bù đắp những hụt hẫng trong cuộc sống, nỗi trống vắng
trong tâm hồn, an ủi, vỗ về, xoa dịu cho các số phận lúc sa cơ lỡ vận. Vì
thế, dù chỉ là hạnh phúc hư ảo, nhưng nhiều người vẫn tin, vẫn bám víu
vào. C. Mác đã nói, tôn giáo là trái tim của thế giới không có trái tim, cũng
giống như nó là tinh thần của trạng thái xã hội không có tinh thần.
2. Tính chất của tôn giáo
a) Tính lịch sử của tôn giáo
Con người sáng tạo ra tôn giáo. Mặc dù tôn giáo còn tồn tại lâu dài,
nhưng nó chỉ là một phạm trù lịch sử. Tôn giáo không phải xuất hiện cùng
với sự xuất hiện của con người. Tôn giáo chỉ xuất hiện khi khả năng tư duy
trừu tượng của con người đạt tới một mức độ nhất định.
Tôn giáo là sản phẩm của lịch sử. Trong từng thời kỳ của lịch sử, tôn
giáo có sự biến đổi cho phù hợp với kết cấu chính trị và xã hội của thời đại
137
đó. Thời đại thay đổi, tôn giáo cũng có sự thay đổi, điều chỉnh theo.
Đến một giai đoạn lịch sử, khi những nguồn gốc sản sinh ra tôn giáo
bị loại bỏ, khoa học và giáo dục giúp cho đại đa số quần chúng nhân dân
nhận thức được bản chất các hiện tượng tự nhiên và xã hội thì tôn giáo sẽ
dần dần mất đi vị trí của nó trong đời sống xã hội và cả trong nhận thức,
niềm tin của mỗi con người. C. Mác đã nói: Tôn giáo sẽ mất đi khi mà "con
người không chỉ mưu sự, mà lại còn làm cho thành sự nữa, - thì chỉ khi đó,
cái sức mạnh xa lạ cuối cùng hiện nay vẫn còn đang phản ánh vào tôn giáo
mới sẽ mất đi, và cùng với nó bản thân sự phản ánh có tính chất tôn giáo
cũng sẽ mất đi, vì khi đó sẽ không có gì để phản ánh nữa"1. Đương nhiên,
để đi đến trình độ đó sẽ còn là một quá trình phát triển rất lâu dài của xã hội
loài người.
b) Tính quần chúng của tôn giáo
Tính quần chúng của tôn giáo không chỉ biểu hiện ở số lượng tín đồ
các tôn giáo. Hiện nay tín đồ của các tôn giáo chiếm tỷ lệ khá cao trong dân
số thế giới (nếu chỉ tính các tôn giáo lớn, đã có tới từ 1/3 đến 1/2 dân số thế
giới chịu ảnh hưởng của tôn giáo). Mặt khác, tính quần chúng của tôn giáo
còn thể hiện ở chỗ các tôn giáo là nơi sinh hoạt văn hóa, tinh thần của một
số bộ phận quần chúng nhân dân lao động. Dù tôn giáo hướng con người
niềm tin vào hạnh phúc hư ảo của thế giới bên kia, song nó luôn luôn phản
ánh khát vọng của những người bị áp bức về một xã hội tự do, bình đẳng,
bác ái... Bởi vì, tôn giáo thường có tính nhân văn, nhân đạo và hướng thiện.
Vì vậy, còn nhiều người ở trong các tầng lớp khác nhau của xã hội tin theo.
c) Tính chính trị của tôn giáo
Trong xã hội không có giai cấp, tôn giáo chưa mang tính chính trị.
Tính chất chính trị của tôn giáo chỉ xuất hiện khi xã hội đã phân chia giai
cấp, có sự khác biệt về lợi ích, các giai cấp thống trị đã lợi dụng tôn giáo để
phục vụ lợi ích của mình.
Những cuộc chiến tranh tôn giáo trong lịch sử và hiện tại, như các
cuộc thập tự chinh thời trung cổ ở châu Âu hay xung đột tôn giáo ở bán đảo
Ban Căng, ở Pakixtan, ấn Độ, Angiêri, Bắc Ailen, Bắc Capcadơ (thuộc
Nga)... đều xuất phát từ những ý đồ của những thế lực khác nhau trong xã
hội, lợi dụng tôn giáo để thực hiện mục tiêu chính trị của mình. Trong nội
bộ các tôn giáo, cuộc đấu tranh giữa các dòng, hệ, phái... nhiều khi cũng
mang tính chính trị. Trong những cuộc đấu tranh ý thức hệ, thì tôn giáo
thường là một bộ phận của đấu tranh giai cấp.
1. C.Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 20, tr. 439.
138
Ngày nay, tôn giáo đang có chiều hướng phát triển, đa dạng, phức tạp
không chỉ thể hiện tính tự phát trong nhân dân, mỗi địa phương, mỗi quốc
gia... mà còn có tổ chức ngày càng chặt chẽ, rộng lớn ngoài phạm vi địa
phương, quốc gia - đó là nhiều tổ chức quốc tế của các tôn giáo với vai trò,
thế lực không nhỏ trên toàn cầu và với những trang bị hiện đại tác động
không chỉ trong lĩnh vực tư tưởng, tâm lý... mà cả trong chính trị, kinh tế,
văn hóa, xã hội. Vì vậy, cần nhận rõ rằng: đa số quần chúng tín đồ đến với
tôn giáo nhằm thoả mãn nhu cầu tinh thần; song, trên thực tế, tôn giáo đã
và đang bị các thế lực chính trị - xã hội lợi dụng cho thực hiện mục đích
ngoài tôn giáo của họ.
II. Vấn đề tôn giáo trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội
1. Nguyên nhân tồn tại của tôn giáo trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội
Các tôn giáo vẫn còn tồn tại lâu dài trong các nước xã hội chủ nghĩa là
do các nguyên nhân chủ yếu sau đây:
- Nguyên nhân nhận thức: Trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội
và trong chế độ xã hội chủ nghĩa trình độ dân trí của nhân dân chưa thật
cao; nhiều hiện tượng tự nhiên và xã hội đến nay khoa học chưa giải thích
được.
Hiện nay, nhân loại đã đạt được những thành tựu to lớn về khoa học
và công nghệ, với những tiến bộ vượt bậc của công nghệ thông tin, sinh
học, vật liệu mới... đã giúp con người có thêm những khả năng để nhận
thức xã hội và làm chủ tự nhiên. Song, thế giới khách quan là vô cùng, vô
tận, tồn tại đa dạng và phong phú, nhận thức của con người là một quá trình
và có giới hạn, thế giới còn nhiều vấn đề mà hiện tại khoa học chưa thể làm
rõ. Những sức mạnh tự phát của tự nhiên, xã hội đôi khi rất nghiêm trọng
còn tác động và chi phối đời sống con người. Do vậy, tâm lý sợ hãi, trông
chờ, nhờ cậy và tin tưởng vào Thần, Thánh, Phật... chưa thể gạt bỏ khỏi ý
thức của con người trong xã hội, trong đó có nhân dân các nước xã hội chủ
nghĩa.
- Nguyên nhân tâm lý: Tôn giáo đã tồn tại lâu đời trong lịch sử loài
người, ăn sâu vào trong tiềm thức của nhiều người dân.
Trong mối quan hệ giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội, thì ý thức xã
hội bảo thủ hơn so với tồn tại xã hội, trong đó tôn giáo lại là một trong
những hình thái ý thức xã hội bảo thủ nhất. Tín ngưỡng, tôn giáo đã in sâu
vào đời sống tinh thần, ảnh hưởng khá sâu đậm đến nếp nghĩ, lối sống của
139
một bộ phận nhân dân qua nhiều thế hệ đến mức trở thành một kiểu sinh
hoạt văn hoá tinh thần không thể thiếu của cuộc sống. Cho nên, dù có thể
có những biến đổi lớn lao về kinh tế, chính trị, xã hội... thì tín ngưỡng, tôn
giáo cũng không thay đổi ngay theo tiến độ của những biến đổi kinh tế, xã
hội mà nó phản ánh.
- Nguyên nhân chính trị - xã hội: Trong các nguyên tắc tôn giáo có
những điểm còn phù hợp với chủ nghĩa xã hội, với đường lối chính sách
của Nhà nước xã hội chủ nghĩa. Đó là mặt giá trị đạo đức, văn hóa của tôn
giáo, đáp ứng được nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân. Dưới chủ
nghĩa xã hội, tôn giáo cũng có khả năng tự biến đổi để thích nghi theo xu
hướng "đồng hành với dân tộc" sống "tốt đời, đẹp đạo", "sống phúc âm
giữa lòng dân tộc"... Nhà nước không ngừng nâng cao địa vị, tính tích cực
xã hội của những người có đạo bằng cách tạo điều kiện để họ tham gia
ngày càng nhiều vào các hoạt động thực tiễn. Trên cơ sở đó, nhà nước xã
hội chủ nghĩa làm cho người có đạo hiểu rằng, niềm tin tôn giáo chân chính
không đối lập với chủ nghĩa nhân đạo xã hội chủ nghĩa, và chủ nghĩa xã hội
đang hiện thực hoá lý tưởng của chủ nghĩa nhân đạo trong cuộc sống của
mỗi người dân.
Cuộc đấu tranh giai cấp vẫn đang diễn ra dưới nhiều hình thức vô
cùng phức tạp; trong đó, các thế lực chính trị vẫn lợi dụng tôn giáo để phục
vụ cho mưu đồ chính trị của mình. Mặt khác, những cuộc chiến tranh cục
bộ, xung đột dân tộc, sắc tộc, tôn giáo, khủng bố, bạo loạn, lật đổ... còn xảy
ra ở nhiều nơi. Nỗi lo sợ về chiến tranh, bệnh tật, đói nghèo... cùng với
những mối đe dọa khác là điều kiện thuận lợi cho tôn giáo tồn tại.
- Nguyên nhân kinh tế: Trong chủ nghĩa xã hội, nhất là giai đoạn đầu
của thời kỳ quá độ còn nhiều thành phần kinh tế vận hành theo cơ chế thị
trường với những lợi ích khác nhau của các giai tầng xã hội, sự bất bình
đẳng về kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội... vẫn là một thực tế; đời sống vật
chất, tinh thần của nhân dân chưa cao, thì con người càng chịu tác động
mạnh mẽ của những yếu tố ngẫu nhiên, may rủi. Điều đó đã làm cho con
người có tâm lý thụ động, nhờ cậy, cầu mong vào những lực lượng siêu
nhiên.
- Nguyên nhân về văn hoá: Sinh hoạt tín ngưỡng tôn giáo có khả năng
đáp ứng ở một mức độ nào đó nhu cầu văn hoá tinh thần và có ý nghĩa nhất
định về giáo dục ý thức cộng đồng, đạo đức, phong cách, lối sống. Vì vậy,
việc kế thừa, bảo tồn và phát huy văn hoá (có chọn lọc) của nhân loại, trong
đó có đạo đức tôn giáo là cần thiết. Mặt khác, tín ngưỡng, tôn giáo có liên
quan đến tình cảm, tư tưởng của một bộ phận dân cư, và do đó sự tồn tại
của tín ngưỡng, tôn giáo trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội như một
140
hiện tượng xã hội khách quan.
2. Những quan điểm chỉ đạo giải quyết vấn đề tôn giáo trong quá
trình xây dựng chủ nghĩa xã hội
Tín ngưỡng, tôn giáo là một vấn đề tế nhị, nhạy cảm và phức tạp. Vì
vậy, giải quyết những vấn đề nảy sinh từ tôn giáo cần phải hết sức thận
trọng, tỉ mỉ và chuẩn xác; vừa đòi hỏi giữ vững nguyên tắc, đồng thời phải
mềm dẻo, linh hoạt, đúng như tinh thần của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng ta là: không "tuyên chiến" với tôn giáo
mà tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng và không tín ngưỡng của nhân dân.
Giải quyết vấn đề tôn giáo trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội
cần dựa trên những quan điểm sau:
Một là, chủ nghĩa Mác- Lênin, hệ tư tưởng chủ đạo của xã hội xã hội
chủ nghĩa và hệ tư tưởng tôn giáo có sự khác nhau cơ bản về thế giới quan,
nhân sinh quan và con đường mưu cầu hạnh phúc cho nhân dân. Với hệ
thống tín điều và giáo lý của mình, tôn giáo phần nào hạn chế khả năng
vươn lên làm chủ của con người. Vì vậy, khắc phục dần những ảnh hưởng
tiêu cực của tôn giáo trong đời sống xã hội phải gắn liền với quá trình cải
tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới; là yêu cầu khách quan của sự nghiệp
xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Hai là, một khi tín ngưỡng tôn giáo còn là nhu cầu tinh thần của một
bộ phận quần chúng nhân dân, thì chính sách nhất quán của nhà nước xã
hội chủ nghĩa là tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng và quyền tự
do không tín ngưỡng của công dân. Mọi công dân theo tôn giáo hoặc không
theo tôn giáo đều bình đẳng trước pháp luật, đều có quyền lợi và nghĩa vụ
như nhau. Cần phát huy những nhân tố tích cực của tôn giáo, đặc biệt là
những giá trị đạo đức; chủ nghĩa nhân đạo và tinh thần yêu nước. Nghiêm
cấm mọi hành vi xâm phạm tự do tín ngưỡng của công dân. Đó là sự thể
hiện bản chất của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thể hiện sự quan tâm của
đảng cộng sản và nhà nước của giai cấp vô sản đến nhu cầu tinh thần của
quần chúng nhân dân đối với tín ngưỡng tôn giáo.
Ba là, thực hiện đoàn kết giữa những người theo với những người
không theo một tôn giáo nào, đoàn kết các tôn giáo hợp pháp, chân chính,
đoàn kết toàn dân tộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Nghiêm cấm mọi hành
vi chia rẽ vì lý do tín ngưỡng tôn giáo. Thông qua quá trình cùng nhau đoàn
kết xây dựng đất nước và bảo vệ Tổ quốc, nâng cao mức sống, lối sống và
trình độ kiến thức của quần chúng, những người lao động có tín ngưỡng,
tôn giáo sẽ dần dần đến với chủ nghĩa xã hội. Những người lao động quan
tâm việc xây dựng cuộc sống hạnh phúc thực sự ở thế gian - một thiên
141
đường dưới trần gian - có ý nghĩa thiết thực hơn những cuộc tranh luận
suông về có hay không có "cõi cực lạc", "thiên đường", v.v..
V.I. Lênin nhấn mạnh rằng: Những lời tuyên chiến ầm ĩ với chủ nghĩa
duy tâm, những mệnh lệnh ngăn cấm tín ngưỡng, tôn giáo là những hành vi
dại dột, vô chính phủ, làm cho kẻ thù lợi dụng để kích động tình cảm tôn
giáo của tín đồ, làm cho họ ngày càng gắn bó với tôn giáo, xa lánh, thậm
chí đi đến chống lại công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ
nghĩa xã hội. Đương nhiên, như vậy không có nghĩa là coi nhẹ việc giáo
dục chủ nghĩa vô thần khoa học, thế giới quan duy vật cho toàn dân, trong
đó có những tín đồ tôn giáo, việc làm đó góp phần nâng cao trình độ kiến
thức cho toàn dân.
Bốn là, phân biệt rõ hai mặt chính trị và tư tưởng trong việc giải quyết
vấn đề tôn giáo. Mặt tư tưởng thể hiện sự tín ngưỡng trong tôn giáo. Khắc
phục mặt này là nhiệm vụ thường xuyên, lâu dài, gắn liền với quá trình xây
dựng chủ nghĩa xã hội, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của đồng bào
có tín ngưỡng. Mặt chính trị thể hiện sự lợi dụng tôn giáo để chống lại sự
nghiệp đấu tranh cách mạng, xây dựng chủ nghĩa xã hội của những phần tử
phản động đội lốt tôn giáo. Đấu tranh loại bỏ mặt chính trị phản động trong
lĩnh vực tôn giáo là nhiệm vụ thường xuyên, đòi hỏi phải nâng cao cảnh giác
kịp thời chống lại những âm mưu và hành động của các thế lực thù địch lợi
dụng tôn giáo chống phá sự nghiệp cách mạng của nhân dân, nhằm bảo vệ
thành quả cách mạng, xây dựng xã hội mới - giải quyết vấn đề này vừa phải
khẩn trương, kiên quyết, vừa phải thận trọng và có sách lược đúng.
Năm là, phải có quan điểm lịch sử khi giải quyết vấn đề tôn giáo:
ở những thời kỳ lịch sử khác nhau, vai trò, tác động của từng tôn giáo
đối với đời sống xã hội không giống nhau. Quan điểm thái độ của các giáo
hội, giáo sĩ, giáo dân về các lĩnh vực của đời sống xã hội luôn có sự khác
biệt. Vì vậy, cần phải có quan điểm lịch sử cụ thể khi xem xét, đánh giá và
ứng xử đối với những vấn đề có liên quan đến tôn giáo.
Có những tôn giáo khi mới xuất hiện như một phong trào bảo vệ lợi
ích của người nghèo, người bị áp bức và nô lệ. Nhưng rồi, tôn giáo ấy lại
biến thành công cụ của giai cấp bóc lột, thống trị. Có những giáo sĩ suốt đời
hành đạo luôn luôn đồng hành cùng với dân tộc, nhưng cũng có những
người đã hợp tác với các thế lực phản động, đi ngược lại lợi ích quốc gia,
dân tộc. Có những vị chân tu luôn "kính Chúa yêu nước", thiết tha sống "tốt
đời, đẹp đạo", nhưng lại có những người lầm đường lạc lối nghe theo kẻ
địch phản bội Tổ quốc và suy đến cùng cũng phản lại cả lợi ích của giáo
hội. Điều khiến cho nhà nước xã hội chủ nghĩa luôn cần có thái độ, cách cư
142
xử phù hợp với từng trường hợp cụ thể đó là điều mà V.I. Lênin đã nhắc
nhở: "Người mácxít phải biết chú ý đến toàn bộ tình hình cụ thể"1.
III. Vấn đề tôn giáo ở Việt Nam và chính sách tôn giáo
của Đảng và Nhà nước ta hiện nay
1. Đặc điểm, tình hình tôn giáo ở Việt Nam
a) Đặc điểm tôn giáo ở Việt Nam
Một là, Việt Nam là nước có nhiều tín ngưỡng, tôn giáo.
Hiện nay, ở nước ta có sáu tôn giáo lớn đã được Nhà nước thừa nhận
về tổ chức là: Phật giáo, Công giáo, Tin lành, Hồi giáo, Cao đài, Hoà Hảo
với khoảng 20 triệu tín đồ. Ngoài ra còn hàng chục triệu người khác vẫn
giữ tín ngướng dân gian, truyền thống và cả tín ngưỡng nguyên thuỷ.
Tín ngướng, tôn giáo ở nước ta chủ yếu ở cấp độ tâm lý tôn giáo.
Nhiều tín đồ tôn giáo tuy khá sùng đạo, nhưng hiểu giáo lý rất ít, gia nhập
đạo phần nhiều do lan truyền tâm lý, hoặc do vận động, lôi kéo; ý thức tôn
giáo ở phần lớn tín đồ không thật sâu sắc.
Hai là, các tôn giáo, tín ngưỡng dung hợp, đan xen và hoà đồng,
không có kỳ thị, tranh chấp và xung đột tôn giáo.
Các tín ngưỡng truyền thống và tàn dư tôn giáo nguyên thuỷ in dấu ấn
khá sâu đậm vào đời sống tinh thần của người Việt Nam, theo suốt chiều
dài lịch sử, đó là cái nền tâm linh để dễ dàng đón nhận sự du nhập của các
tôn giáo khác. Sự khoan dung, lòng độ lượng, nhân ái của dân tộc Việt
Nam, cùng với yêu cầu phải đoàn kết toàn dân để bảo vệ nền độc lập, thống
nhất lãnh thổ, nên người Việt Nam tiếp nhận các tôn giáo khác nhau một
cách tự nhiên, miễn là nó không trái với lợi ích dân tộc - quốc gia và truyền
thống văn hoá, tín ngưỡng cổ truyền.
Sự phân bố tôn giáo ở nước ta có đặc điểm nổi bật là giáo dân của các
tôn giáo thường sinh sống thành từng cộng đồng quy mô nhỏ, các cộng
đồng tôn giáo khác nhau có thể sống xen kẽ nhau. ở nhiều nơi, trong một
làng, xã cũng có các nhóm tín đồ của các tôn giáo khác nhau sống đan xen,
hoà hợp nhau, hoặc xen kẽ với những người không theo tôn giáo nào.
Ba là, các tôn giáo chính có ảnh hưởng lớn trong xã hội Việt Nam đều
du nhập từ bên ngoài, ít nhiều đều có sự biến đổi và mang dấu ấn Việt
Nam.
1. V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva, 1979, t.17, tr. 518.
143
Các tôn giáo từ bên ngoài vào Việt Nam vừa theo cách du nhập tự
nhiên qua giao lưu kinh tế, văn hoá như: Phật giáo, Hồi giáo; vừa có sự áp
đặt song hành với quá trình xâm lược của các đế quốc trong lịch sử như
Công giáo, Tin lành... Quá trình giao du, gặp gỡ các tôn giáo vừa thâm
nhập, bổ sung, vừa cải biến lẫn nhau, khiến cho mỗi tôn giáo đều có sự
biến đổi phù hợp với đặc điểm địa lý, lịch sử và văn hoá Việt Nam.
Bốn là, sự pha trộn phức tạp giữa ý thức tôn giáo với tín ngưỡng
truyền thống và tình cảm, phong tục tập quán và nhân dân.
Tín ngưỡng truyền thống dân gian mà nổi bật nhất là phong tục thờ
cúng tổ tiên, đã dung hợp với các tôn giáo, góp phần tạo nên đặc điểm
tình cảm, tâm hồn, tính cách người Việt Nam. Tuy vậy, sự pha trộn phức
tạp giữa ý thức tôn giáo với tín ngưỡng cổ truyền và tình cảm, phong tục
tập quán đã ăn sâu vào đời sống tinh thần người Việt Nam, làm cho một
bộ phận không nhỏ quần chúng lao động rất dễ dàng tiếp nhận tình cảm, ý
thức tôn giáo mới.
b) Tình hình tôn giáo ở nước ta hiện nay
Mặc dù sự hình thành và phạm vi ảnh hưởng đối với số lượng tín đồ
và tác động chính trị - xã hội không giống nhau, đồng bào các tôn giáo đã
góp phần xứng đáng vào sự nghiệp đấu tranh giành độc lập dân tộc, xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, hàng chục vạn
thanh niên có đạo đã tham gia chiến đấu và nhiều người đã anh dũng hy
sinh vì sự nghiệp giải phóng dân tộc. Trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa
xã hội, nhiều tín đồ và giáo sĩ đã nhận thức đúng chính sách, luật pháp của
Nhà nước, làm tốt cả "việc đạo" và "việc đời". Tình hình kinh tế, an ninh
chính trị và trật tự xã hội ở nhiều vùng tôn giáo khá ổn định. Tuy nhiên, do
nhiều nguyên nhân khác nhau, một bộ phận đồng bào có tín ngưỡng tôn giáo
còn băn khoăn, lo lắng cả phần đạo và phần đời.
Những năm gần đây, sinh hoạt tôn giáo có phần phát triển, nhà thờ,
đình chùa, miếu mạo, thánh thất được tu sửa và tôn tạo, xây cất lại, in ấn tài
liệu, đào tạo các chức sắc... Số người tham gia các hoạt động tôn giáo gia
tăng. Những hoạt động lễ hội gần gũi với tôn giáo nhiều, mang nhiều màu
sắc khác nhau, cũng xuất hiện nhiều hiện tượng mê tín dị đoan. Thực trạng
trên, một mặt phản ánh nhu cầu tinh thần của một số đông quần chúng. Từ
khi đổi mới và dân chủ hoá tự do tín ngưỡng càng có điều kiện thể hiện,
đáp ứng nguyện vọng của một bộ phận nhân dân. Mặt khác cũng nói lên
điều không bình thường vì trong đó không chỉ có sự sinh hoạt tôn giáo
thuần tuý, mà còn biểu hiện lợi dụng tín ngưỡng tôn giáo để phục vụ cho
144
mưu đồ chính trị và hoạt động mê tín dị đoan.
2. Quan điểm, chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước ta hiện
nay
a) Quan điểm
Xuất phát từ những quan điểm chỉ đạo trong việc giải quyết vấn đề tôn
giáo dưới chủ nghĩa xã hội và tình hình tôn giáo ở nước ta, Đảng ta đã
khẳng định: "Tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận
nhân dân. Thực hiện nhất quán chính sách tôn trọng và bảo đảm quyền tự
do tín ngưỡng, theo hoặc không theo một tôn giáo nào, quyền sinh hoạt tôn
giáo bình thường theo đúng pháp luật. Đoàn kết đồng bào theo các tôn giáo
khác nhau, đồng bào theo tôn giáo với đồng bào không theo tôn giáo. Chăm
lo phát triển kinh tế, văn hoá, nâng cao đời sống của đồng bào. Nghiêm
cấm lợi dụng các vấn đề dân tộc, tín ngưỡng, tôn giáo để hoạt động trái
pháp luật và chính sách của Nhà nước, kích động chia rẽ nhân dân, chia rẽ
các dân tộc, gây rối, xâm phạm an ninh quốc gia"1.
Nghị quyết Trung ương 7 khoá IX về công tác tôn giáo đã chỉ rõ quan
điểm lớn sau:
- Tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân,
đang và sẽ tồn tại cùng dân tộc trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
nước ta. Đồng bào các tôn giáo là bộ phận của khối đoàn kết toàn dân tộc.
- Đảng, Nhà nước thực hiện nhất quán chính sách đại đoàn kết toàn
dân tộc.
- Nội dung cốt lõi của công tác tôn giáo là công tác vận động quần chúng.
- Công tác tôn giáo là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị.
b) Chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước ta hiện nay:
Theo tinh thần trên, chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước ta
trong giai đoạn hiện nay bao gồm:
+ Thực hiện quyền tự do tín ngưỡng và không tín ngưỡng của công
dân trên cơ sở pháp luật.
+ Tích cực vận động đồng bào các tôn giáo tăng cường đoàn kết toàn
dân nhằm xây dựng cuộc sống "tốt đời, đẹp đạo", tích cực góp phần vào
công cuộc đổi mới kinh tế - xã hội, giữ vững ổn định về chính trị, trật tự và
1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2001, tr. 128.
145
an toàn xã hội. Trên cơ sở đó, chăm lo cải thiện đời sống vật chất và văn
hoá, nâng cao trình độ mọi mặt cho đồng bào.
+ Hướng các chức sắc giáo hội hoạt động tôn giáo theo đúng pháp
luật, ủng hộ các xu hướng tiến bộ trong các tôn giáo, làm cho các giáo hội
ngày càng gắn bó với dân tộc và sự nghiệp cách mạng toàn dân, thể hiện rõ
vai trò trách nhiệm của tôn giáo ở một quốc gia độc lập.
+ Luôn luôn cảnh giác, kịp thời chống lại những âm mưu và thủ đoạn
của các thế lực thù địch lợi dụng tôn giáo chống lại sự nghiệp cách mạng
của nhân dân, chống chủ nghĩa xã hội.
+ Những quan hệ quốc tế và đối ngoại về tôn giáo hoặc có liên quan
đến tôn giáo phải theo chế độ, chính sách chung về quan hệ quốc tế đối
ngoại của Nhà nước.
Đại hội X của Đảng tiếp tục khẳng định: "Đồng bào các tôn giáo là bộ
phận quan trọng của khối đại đoàn kết dân tộc. Thực hiện nhất quán chính
sách tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, theo hoặc không theo
tôn giáo của công dân, quyền sinh hoạt tôn giáo bình thường theo pháp
luật. Đoàn kết đồng bào theo các tôn giáo khác nhau, đồng bào theo tôn
giáo và đồng bào không theo tôn giáo. Phát huy những giá trị văn hoá, đạo
đức tốt đẹp của các tôn giáo. Động viên, giúp đỡ đồng bào theo đạo và các
chức sắc tôn giáo sống "tốt đời, đẹp đạo". Các tổ chức tôn giáo hợp pháp
hoạt động theo pháp luật và được pháp luật bảo hộ. Thực hiện tốt các
chương trình phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống vật chất, văn hoá
của đồng bào các tôn giáo. Tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ
làm công tác tôn giáo. Đấu tranh ngăn chặn các hoạt động mê tín dị đoan,
các hành vi lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo làm phương hại đến lợi ích chung
của đất nước, vi phạm quyền tự do tôn giáo của công dân"1.
Như vậy, chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước ta bao gồm nhiều
mặt, vừa có mặt đối nội, vừa có mặt đối ngoại. Thực hiện chính sách tôn
giáo là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị do Đảng lãnh đạo. Nhà nước
thực hiện chức năng quản lý của mình thông qua chính sách, pháp luật, các
đoàn thể nhân dân và Mặt trận Tổ quốc có nhiệm vụ vận động các tín đồ và
chức sắc trong các giáo hội phấn đấu xây dựng cuộc sống "tốt đời, đẹp
đạo".
Câu hỏi thảo luận và ôn tập
1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2006, tr. 122- 123.
1. Phân tích nguồn gốc, bản chất và những tính chất cơ bản của tôn giáo?
2. Vì sao trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội và trong chế độ xã
hội chủ nghĩa vẫn còn tôn giáo? Quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác-
Lênin đối với tôn giáo như thế nào?
3. Nêu khái quát về tôn giáo ở Việt Nam hiện nay và nội dung cơ bản của
quan điểm và chính sách đối với tôn giáo của Đảng, Nhà nước ta hiện nay?
Bạn đang đọc truyện trên: truyentop.pro