Chuyen lang ngay ay-Lenghiabk05
Bác Chắt Kế đã về…
…là tiếng xôn xao của cả làng, tiếng reo vui của con nít:
“Thế là mình sắp được đi học, sắp được tập hát, tập múa, sắp được ăn chung ở chung với bạn bè cùng lứa tuổi trong làng. Còn gì sung sướng hơn?”.
Bác Chắt Kế là ai mà trở thành niềm tin yêu, trông đợi của cả làng vậy?
“Các cụ đồ trong làng bảo rằng Cố Kế là cụ thân sinh bác Chắt Kế, một lần đi vận động phong trào Văn Thân từ Yên Thành về qua giếng thần, thần hiện lên trao cho thanh gươm… Còn bác Chắt Kế là người của thần linh sai phái xuống để cứu nhân độ thế… Từ năm 15, 16 tuổi bác đã tham gia “hội kín”. Năm 1927, bác đứng ra thành lập chi bộ Thanh Niên Cách Mạng Đồng Chí Hội của làng tôi… bác đi khắp bốn phương trời… Rồi bác bị đi đầy ở Lao Bảo, Ban Mê Thuột…”
À… thì ra bác Chắt Kế chính là cộng sản, là Đảng…
Một buổi sáng cờ bay
Thế rồi Đảng cũng đã về làng qua một ngọn cờ đỏ rất lớn treo ở ngọn cây phượng ngay trước sân nhà thờ. “Tôi bộn chộn cả người. Ngước nhìn màu cờ đỏ tung bay, đẹp, đẹp quá. Biết bao mùa nắng, lũ trẻ chúng tôi thường trèo lên cây phượng để hái hoa. Bây giờ trên cái tán cây đơm đầy kỷ niệm đó đã bay bổng ước mơ của chúng tôi. Tôi chưa biết cách mạng là gì, chỉ nghe bác Chắt Kế là cách mạng, bác Chắt Kế về là cách mạng về, là ăn no mặc ấm, được đến trường học hành…”
Dân làng tập trung quanh ngọn cờ đỏ, “bác Chắt Kế đứng chính giữa, mặc bộ đồ soóc vải nâu mới nguyên. Bác nói những gì dài, dài lắm. Nào là đồng minh thắng lợi rồi, trục phát xít bại trận rồi. Nào nước Nga xô viết vạn tuế. Nào là chủ nghĩa Mã Khắc Tư vô địch… Hai tay bác giơ lên rồi hạ xuống, trông rất oai vệ…”
Rồi bác Chắt Kế đi tới ông quan hưu ở trong làng – ông hàn Hạp, oai vệ:
“Việt Minh khoan hồng những người trước đây làm tay sai cho Pháp cho Nhật. Mọi người phải ủng hộ Việt Minh. Ai chống lại Việt Minh thì bị xử tử…”
Ông hàn Hạp chắp hai tay miệng lẩm bẩm: “Dạ… dạ…”. Từ đó, “bác Chắt Kế đi đâu vai cũng mang khẩu súng trường, hai thanh niên cầm dao sáng quắc đi hai bên để bảo vệ…”, từ đó “đoàn người đến làng nào thì làng ấy nổi trống dân kéo như ngày hội. Bác Chắt Kế lại hiểu thị lại diễn thuyết. Tiếng trống vang dội chuyền từ làng này sang làng khác”, từ đó “tuy đang trong trận đói, nhưng không khí trong làng thanh bình như thời Nghiêu Thuấn. Nhà nào nhà nấy cửa bỏ ngỏ, ríu rít mời nhau uống nước chè xanh…”
Mẹ tôi
Cách mạng về làng gây bao đổi thay, ngay cả mẹ tôi, “chẳng mấy tối mà mẹ không đi họp. Có hôm họp đến quá nửa đêm mới về. Sáng hôm sau vẫn dậy từ gà gáy để lo cơm nước cho mọi người trong nhà ăn đi làm đồng… Một hôm, mẹ bảo tôi lấy mấy tờ giấy đóng quyển vở để mẹ đi học bình dân học vụ. Chừng sau một năm mẹ đã cầm tờ báo vừa đánh vần vừa đọc lẩm nhẩm…”
Rồi mẹ tôi trở thành đảng viên cộng sản “Tôi nghe lõm bõm người lớn nói chuyện với nhau: bà Đoan – tức mẹ tôi – là người của Đoàn thể, bà ấy vừa mới được kết nạp vào Đoàn thể…”.
Mấy làng Hậu Luật, Văn Tập, Thanh Lý, Xuân Viên được gom lại để thành lập xã Đồng Tâm. Ngày tuyên bố thành lập xã, “mẹ tôi trang phục hoàn toàn khác hẳn, không ăn bận bình thường như trước nữa: mặc quần đùi, cắt tóc ngắn, đi dép cao su trắng nhãn “Con hổ”, cả xã chỉ có dăm bà ăn mặc như thế…”
Vào ngày giỗ, tôi thường theo mẹ về quê ngoại, mẹ tôi là con cả nên phải ở lại từ sáng đến tối. Nhưng năm nay cách mạng rồi, cúng xong mẹ tôi về ngay. “Vừa tới nhà, đã thấy bác Chắt Kế đang ngồi đợi. Bác nói nặng lời: Tôi phê bình đồng chí về chậm, lần đầu đồng chí phạm kỷ luật sắt của đoàn thể”… Bác Chẳt Kế nói gì với mẹ tôi nhiều lắm, có vẻ quan trọng lắm. Trước khi đứng dậy ra về, bác nhìn chúng tôi vui vẻ:
“Tụi này lớn lên được hưởng thế giới đại đồng, sướng lắm…”
Tết độc lập
“Quên làm sao được Tết độc lập đầu tiên năm 1946. Suốt từ ngày 19 tháng Tám đến ngày mồng 2 tháng Chín, mọi người nô nức mặc quần áo mới đi dự hội…”. Trong những ngày này, dân quân du kích tổ chức tập trận, các cụ bô lão “rào làng chiến đấu”, đến ngày 2 tháng Chín thì diễn kịch do bác Chắt Kế viết kịch bản đả phá mê tín dị đoan. Kịch vừa diễn xong, dân quân đã bắt trói ông Tường trong làng về tội… uống rượu.
“Bà Tường vừa chạy theo vừa khóc, chắp tay xin bác Chắt kế: “Bác tha tội cho nhà em. Người dưng nước lã bác cũng phải tha tội giữa ngày vui này, huống hồ bố nó là bậc em út họ hàng của bác.” Bác Chắt Kế giơ tay nói đĩnh đạc: “Em út họ hàng cũng phải phạt. Bây giờ cách mạng không có cái lối một người làm quan cả họ được nhờ… cách mạng phải nghiêm, không nể nang ai hết…”
Tết cách mạng đã có, tết dân tộc phải dẹp bỏ là cái chắc:
“Thêm được ngày hội “tết độc lập”, nhiều ngày hội cổ truyền khác bị phế bỏ: rằm tháng Giêng, Thanh Minh, tết Đoan Ngọ, rằm tháng Bảy… đó là phong kiến cổ hủ, là mê tín dị đoan. Thế là cả làng làm cách mạng triệt để, thay cũ đổi mới hoàn toàn…”
Cứ với giọng bình thản, rỉ rả như vậy, tác giả bóc dần, bóc dần từng lớp cái vỏ bên ngoài của cuộc cách mạng làng quê “long trời lở đất”:
“Gặp nhau ngoài đường giơ nắm tay phải lên ngang tai “chào đồng chí”. Nhất là trong các cuộc hội nghị, mẹ gọi con bằng “đồng chí”, con gọi bố bằng “đồng chí”, anh gọi em bằng “đồng chí”…”
Thật là một bức tranh vui được vẽ đơn sơ mà hóa ra là thực. Cười mà hóa ra mếu ở trong lòng.
Ngày Tết độc lập phế bỏ hết các ngày hội truyền thống chỉ trừ ra tết nguyên đán nhưng cũng bị giản lược đi nhiều thứ lắm. Trước hết là lễ “khai canh” với ngày hội “mở đường cày” có từ ngàn xưa bị dẹp bỏ. Tục “mở hòm gỗ trắc” đem ra nào câu đối, hạc đồng, lư hương… để cúng tết cũng bãi luôn.
“Chiều 29 tết, ông tôi mở hòm gỗ trắc, lau bụi đôi hạc đồng, xếp lại đôi câu đối rồi… khóa hòm. Tôi ngỡ ngàng hỏi: “Sao ông không đem ra cúng tết”. Ông trả lời ngậm ngùi: “Bây giờ là cách mạng khác rồi cháu ạ…” Vĩnh viễn các đồ tế khí linh thiêng ấy nằm trong hòm khóa kín như tấm lòng ông tôi khóa lại niềm tôn kính thờ phụng tổ tiên…”
Tổ tiên không còn thờ phụng nữa thì niềm tôn kính của người dân dành cho ai? Lẽ tất nhiên “bàn thờ tổ tiên” được thay bằng “bàn thờ tổ quốc” trên đó có ảnh ông Hồ Chí Minh và “ảnh ba ông Tây” theo cách nói dân gian tức ba ông Mác, Lênin và Stalin. Từ nay người dân Việt Nam sẽ phải thờ mấy ông đó thay vì thờ tổ tiên.
“Tết đến. Các gia đình cũng gói bánh tét, bánh chưng, cũng thắp hương đơm cỗ. Nhưng đó là việc của từng gia đình không liên quan gì tới xã hội. Sáng mồng 2 tết, xã đã phát động phong trào “động canh”, nghĩa là tất cả mọi người đều phải xuống đường, nghĩa là tết chấm dứt…”
Để chống lãng phí, loại bỏ các loại bánh truyền thống “tốn kém” như bánh mật, bánh ít, bánh nổ, bánh ong, bánh tày… bác Chắt Kế phát minh ra một loại bánh gọi là “bánh Độc Lập” làm bằng… khoai lang. “Chẳng qua đó là một loại bánh của con nhà nghèo, ăn chẳng ngon lành gì…”
Thông thường ngày tết người ta chỉ ăn cá, thịt gà, thịt lợn, vậy mà sáng mồng một tết, ông Chắt Kế chơi “món độc”, sai con bắt chó làm thịt.
“Thật là to gan. Tin này truyền đi nhanh. Các cụ trong làng ngồi uống rượu bàn tán:
“Ông Chắt Kế liều thật…”
“Không phải liều đâu, làm cách mạng phải thế chứ!”
“Sao làm cách mạng lại ăn thịt chó giữa ngày mồng một tết?”
“Để làm gương cho người khác, để phá đầu óc cổ hủ của dân…”
Như vậy đấy, để phá bỏ tập tục cũ của cha ông, người cách mạng sẵn sàng… ăn thịt chó vào sáng mồng một Tết.
Trong những ngày hội xuân, tuồng cổ bị dẹp hết, “bao nhiêu đồ trang phục của hội tuồng sắm sanh qua hàng chục hàng trăm năm bị vứt bỏ.” Tuồng bị thay thế bằng kịch nói, kịch dân ca “viết theo từng thời vụ, từng chủ trương chính sách của cấp trên đưa xuống…”. Nhưng cũng “chỉ có thanh niên kéo nhau đi xem diễn những đêm ấy, còn các cụ già thì trùm chăn ngủ khoèo giữa ngày Tết Nguyên Đán…”.
Thế rồi sau vài cái Tết, cách mạng cũng nhận ra “vắng tiếng trống tuồng, làng xóm buồn tẻ. Nhưng mà diễn lại các tích vua quan phong kiến thì chỉ có hại…”. Thế là bác Chắt Kế cho viết vở tuồng “Núi Nam Sơn” nói về các đồng chí cách mạng đánh Pháp. Đêm công diễn người ta kéo nhau đi đông nghịt, nhưng chỉ vài đêm là vắng teo, chẳng ai thèm coi, hội tuồng coi như tan rã. Tác giả bùi ngùi viết:
“Một nền nghệ thuật được xây dựng qua mấy trăm năm bị phế bỏ hoàn toàn. Trong tâm tưởng của lớp người cao tuổi vẫn lưu lại những hình ảnh đẹp đẽ: Thúy Văn Long xông vào hang quỷ để cứu nàng công chúa, vua Trần Anh Tôn cởi áo bào đắp cho người ăn mày nằm bên vệ đường…”
Sự cấm kỵ trong sáng tác văn học không cho phép Võ Văn Trực bình luận gì thêm, nhưng chỉ một câu như vậy cũng đủ sức tố cáo sự mông muội, ngu dốt của những kẻ phá hủy những giá trị tinh thần của cha ông mà vẫn vỗ ngực xây dựng thiên đàng cộng sản.
Đám cưới O Thèo – anh Mẫn
“Cách mạng về, cái gì cũng mới cũng lạ. Việc cưới xin hệ trọng đến cả đời của con người mà người ta cũng xem nhẹ bẫng như không có gì xảy ra…”
Cô Thèo anh Mẫn, cô dâu chú rể đều có chân trong đội du kích. Ngày cưới loa phát oang oang: “Mời bà con dân làng tối nay đến nhà anh Mẫn dự đám cưới đời sống mới… a lo a lo… o Thèo đã nêu một tấm gương sáng: không đòi lễ cưới linh đình mà chỉ đòi bên nhà trai mang sang… hai quả lựu đạn… a lo a lo…”.
Nhà gái nhận được hai quả lựu đạn, chuyện như đùa mà hóa thật, bà mẹ cô dâu còn chạy đi khoe khắp làng:
“Cách mạng thành công rồi… bây giờ khác rồi, ai cũng phải có ý thức tiết kiệm…”.
Suốt cả ngày hôm đó, cô dâu chú rể vẫn hăng say sản xuất ngoài đồng ruộng. Mãi đến xâm xẩm tối, nhà anh Mẫn mới chật ních người và đám cưới bắt đầu:
“Tất cả mọi người… nghiêm” – có ai đó hô lên dõng dạc, oai nghiêm.
Từ ngoài ngõ, ai đó lại hô tiếp: “Chú ý, đi đều… bước. Một hai… một hai…” Đám người rẽ ra hai bên. Anh Mẫn, o Thèo ăn vận theo kiểu quân sự, dây da thắt ngang lưng, vai đeo súng đĩnh đạc tiến vào. Bác Chắt Kế đứng dậy, giơ tay:
“Cho các con ngồi xuống…”
Mẫn và Thèo ngồi trên chõng tre đã đặt sẵn giữa nhà. Bác nói dài lắm: Phe đồng minh đã thắng lợi hoàn toàn ở châu Âu cũng như châu Á. Nước ta đã giành được độc lập. Tư tưởng canh tân vô sản phải được thực hiện… Hử… Việt Minh lãnh đạo toàn dân đứng lên vừa kháng chiến vừa cứu quốc. Hử… đám cưới cũng phải tiết kiệm… Các con đứng dậy…”
Cô dâu chú rể đứng im nghe bác “hiểu thị”:
“Hai con vui duyên mới không được quên nhiệm vụ canh tân vô sản… Hử… các con là công dân mới của nước Việt Nam độc lập. Hử… bọn thực dân Pháp đang lăm le quay lại…”
Cứ như thế bác Chắt Kế bắt cô dâu chú rể hết “các con ngồi xuống” lại “các con đứng lên…” làm con nít trong làng phải phì cười. Ngày nay, có nhà làm phim nào muốn dựng lại cảnh đám cưới tại một ăngca của dân Campuchia trong thời Pôn Pốt – Iêng Sary xin cứ tham khảo “đám cưới đời sống mới” mà Võ Văn Trực đã mô tả rất tỉ mỉ và chân thực trong cuốn “chuyện làng ngày ấy” này.
Chúng mình sắp được ở chung rồi
Chung ăn chung ở là tinh thần cốt lõi của chủ nghĩa cộng sản trong tổ chức cuộc sống mới ở làng xóm. “Ngay từ năm 1927, bác Chắt Kế vừa thành lập chi bộ Thanh Niên Cách Mạng Đồng Chí Hội (tiền thân Đảng Cộng Sản) làng Hậu Luật, người ta đã phác thảo một bản đồ ăn chung ở chung. Thời kỳ Mặt Trận Dân Chủ, những người cộng sản trong làng cũng xúm nhau ngồi dưới chân núi Hai Văn vẽ bản đồ ăn chung ở chung…”
Từ những năm 1940-1941, “mô hình chủ nghĩa cộng sản đã được xây dựng ở trại cày Thọ Lộc” – đó là một trại trong đó “họ ở chung, ăn chung, tài sản chung, tạo ra một mô hình về xã hội cộng sản…”. Ngày nay, cách mạng đã thắng lợi, “ta nắm chính quyền rồi, ta lại không tổ chức được làng cộng sản giỏi hơn Thọ Lộc à?”.
Thế là “mấy ông lãnh đạo đứng trên cồn đất chỉ trỏ bốn phương và bàn với nhau những điều rất hệ trọng: “dãy nhà lão ông xây ở Đập Tràn, dãy nhà của lão bà xây ở Mo Nạng, dãy nhà của nữ thanh niên xây ở Giếng Trầu, dãy nhà của thiếu nhi xây ở Cồn Rùa…”
Không hiểu vài chục năm sau, các “đồng chí Khơ-me Đỏ” khi xây dựng các ăngca cho dân có học tập các đồng chí cán bộ của Đảng ở làng Hậu Luật huyện Diễn Châu tỉnh Nghệ An này không? Thế là từ đó, con nít trong làng đều phải ngủ tập trung ở Cồn Rùa. Ngày xưa, cách mạng chưa về, trẻ con trong làng có Hội Mục Đồng. Hội đã đắp cồn Mục Đồng có miếu thờ Thần Nông, có cây đa cổ thụ rợp bóng mát. Cách mạng về, lập tức Hội Mục Đồng bị giải tán thay vào đó lập Hội Nhi Đồng. Công việc đầu tiên của Hội Nhi Đồng là phá bỏ cồn Mục Đồng có đền thờ Thần Nông để… chống mê tín dị đoan.
“Tất cả chúng tôi như một đội quân đi làm nhiệm vụ tiêu thổ kháng chiến, xông vào, cuốc… xông vào, đào… đào, phá, cuốc, xới không tiếc tay. Chuột chạy tứ tung. Chim bay tung tóe. Có đứa vô tình cuốc phải tổ chim, trứng vỡ rơi ra, con chim non bé xíu ngọ nguậy… Thôi vĩnh biệt nhé, vĩnh biệt cồn đất thân thuộc của tuổi chăn trâu…”
Rồi đến cả cây đa cũng bị chặt hạ:
“Cây đa đổ xuống… ầm. Vòm trời trống quang. Một vầng xanh mãi mãi chết đi cùng với thời bé dại hồn nhiên…”
Quả thực rừng phá có thể trồng lại, người chết có thể vẫn còn sự sinh sôi, nhà cháy sập mai sau có thể xây dựng lại “to đẹp hơn, đàng hoàng hơn”, nhưng cái “vòm trời trống quang” kia, cho đến ngày nay vẫn chưa có gì lấp đầy, cái “vầng xanh mãi mãi chết đi kia” vẫn chưa có gì thay thế. Đó là cái giá của một mô hình mang tinh thần “ăn chung ở chung” bao năm qua đã áp đặt lên làng quê Việt Nam.
Sau khi đã thực hiện xong “chiến tích” chặt cây đa và phá cồn Mục Đồng cổ xưa, đám con nít trong làng “xông vào những ngày vui triền miên: cắm trại, hành quân, tập võ, tập hát… cờ trống tưng bừng”.
Một hôm đang họp tại nơi cắm trại, bất chợt trời đổ mưa, đứa nào đứa ấy ướt rượt, nhưng “vẫn cứ ngồi họp – họp với tinh thần cách mạng cao cả”.
Con nít họp hành thì bàn chuyện gì ghê gớm vậy?
Hóa ra nghe “báo cáo tình hình trong nước”: “Mấy chục ăn mày ở chợ Mới đã về quê hết rồi. Quê họ ngoài Bắc cũng giành chính quyền rồi. Từ nay ở chợ Mới và trong khắp nước không còn có ăn mày nữa…”, tất cả vỗ tay hoan hô.
Sang phần “kiểm điểm nội bộ”, một thằng con nít đứng lên tố giác: “Lúc chiều đồng chí Trực vào nhà ông Giai, con chó lài xồ ra sủa, đồng chí Trực quát “đồng chí chó lài không được sủa”. Gọi con chó lài như thế là phạm lỗi. Nhiều bạn khác nhao nhao: “Gọi chó bằng đồng chí là phản động…”
Bác Chắt Kế quàng áo đi mưa bước vào bất ngờ (hóa ra Đảng theo dõi cả cuộc họp của con nít) lên nòng súng lách cách: “Thằng Trực gọi chó bằng đồng chí à? Đội viên đội Nhi Đồng Cứu Vong mà như thế à?”. Thế là người ta giải ngay tác giả tức thằng bé Trực tới nhà giam và cùm lại: “cái cùm này đã cùm mấy người phạm lỗi với cách mạng: hai ông say rượu nói lè nhè, một bà ăn cắp váy của hàng xóm, một ông thầy xem tướng ở chợ Mới… Bây giờ đến lượt tôi bị đưa chân vào cùm vì tội gọi chó là “đồng chí”.”
Cùm chân một thằng bé con chỉ vì một câu nói đùa đã thấy “dã man thời bán khai” rồi, tác giả lại còn cho đứa trẻ bị cùm không hề giận dỗi mà lại còn thấy… tự hào nữa kia: “Tuy có xấu hổ nhưng tôi vẫn cảm thấy tự hào rằng: “Mình không phải thằng bé bình thường, mà là đội viên đội Nhi Đồng bị cùm…” Vậy là “cháu ngoan bác Hồ” có đi ăn cắp thì vẫn cứ tự hào mình là “cháu ngoan bác Hồ ăn cắp”. Viết thế này, tội của Võ Văn Trực thật đáng xử trảm.
Vĩnh biệt những cây cổ thụ
“Làng tôi” nhờ những cây cổ thụ mà trở nên sầm uất.
“Mỗi cây gắn liền với một chuyện kể, một bài vè hoặc một câu ca. Cổ thụ là tình yêu là máu thịt của quê hương. Bao nhiêu thế hệ nối tiếp nhau sinh ra, lớn lên và qua đời, gửi lại cho cây những chứng tích kỳ diệu của thời gian…”
Tưởng rằng những cây cổ thụ đó sẽ trường tồn cùng với thời gian, với làng xóm. Vậy mà không! Cách mạng thành công, người ta nghĩ ngay tới chuyện chặt bỏ những cây cổ thụ đó. Tại sao vậy? “Cây” cũng là “phản động” sao? Tác giả giải thích:
“Hầu như trong tâm tưởng của một số người nào đó, trong một phút cuồng nhiệt, họ muốn chặt phá đi tất cả những gì xưa cũ để rồi vun trồng lên những gì non tơ hơn, mới mẻ hơn, giàu sức sống hơn. Và từ một số ít người, ý nghĩ đó được lan truyền, được kích động vào số đông. Thế là chính những con người đã tự tay mình chăm bón, đã từng gắn bó máu thịt cuộc đời mình với cây, lại thản nhiên xông ra chặt cây…”
“Một số người nào đó” chính là những người cộng sản mà tác giả không dám nói thẳng ra. Ngoài lý do “cổ thụ” là thuộc thời xưa cũ phải chặt bỏ, “theo bác Chắt Kế, những thân cây to lớn này và những cồn đất làm địa thế cho cây mọc lên, địch có thể lợi dụng làm pháo đài. Vì thế, phải phá tất, chặt tất…” Triệt hạ những thứ “là tình yêu, là máu thịt của quê hương” như vậy, nếu đầu óc không bị “quỷ ám” thì chắc chắn đó cũng phải là những con người cuồng tín mà dốt nát.
Ông Mác hay ông Lênin gì đó, những ông tổ của chủ nghĩa cộng sản có nói một câu đại ý rằng “quyền lực cộng với sự ngu dốt chính là thảm họa”. Thời Nhân Văn Giai Phẩm ở miền Bắc, mấy ông nhà văn bị trừng trị cũng vì đã phát biểu một câu nổi tiếng: “l’ ignorance au pouvoir” (dốt nát nắm chính quyền). Cho tới tận ngày nay, kỷ nguyên tin học, cái thảm trạng đó xem ra vẫn đè nặng trên phận số của dân tộc Việt Nam. Đưa nhà máy lọc dầu Bà Rịa ra tuốt ngoài Dung Quất tốn cả trăm ngàn tỷ, xây dựng nhà máy đường ở những nơi không có… mía, rồi cảng cá, cảng biển, chợ búa, khu vui chơi… xây xong bỏ xó thành phế tích, rồi mưu toan xây dựng nhà máy điện hạt nhân tương lai bất chấp sự phản đối của các nhà khoa học, sự ngu dốt của những kẻ nắm quyền sẽ còn tiếp tục gây tổn hại nhiều nữa.
“Tử tội” đầu tiên trong “chiến dịch” chặt hạ cổ thụ là “cây muỗm đền thờ Bạch Y thần dễ chừng cao tới bốn, năm chục mét. Cách xa mười cây số có thể thấy ngọn cây mờ xanh như một đám mây. Dáng cây thẳng tắp. Cành tỏa đều đặn xung quanh. Càng lên cao càng bé dần. Từ xa trông tới, cây giống như tháp canh hùng vĩ…”
Cây muỗm cổ thụ và ngôi đền đã gắn bó với nhau hàng trăm năm nay như trời với đất, như âm với dương, thế mà bây giờ phải chia lìa. Tác giả tả cảnh đốn cây:
“Sáng hôm ấy, hơn mười trai làng vác rìu ra chặt thì chợt thấy chân hương cắm chi chít quanh gốc…”
Không biết ai đã cắm hương cho cây nhưng chính điều đó làm các trai làng sợ không dám chặt. Thế là đồng chí cán bộ cộng sản Chắt Kế phải tới thúc giục:
“Các đồng chí chưa bắt đầu chặt à? Các đồng chí mê tín dị đoan à? Tối hôm qua bọn phản động lại bày ra cái trò này để cản trở công cuộc kháng chiến kiến quốc…”
Người của Đảng cầm quyền đã nói vậy thì bố thằng dân nào còn dám cãi! Thế là… chặt. Còn đền thờ, từ hôm không còn được cây che bóng mát, “người ta đồn rằng có một đám mây trắng ngày đêm lởn vởn trên đó – đám mây ấy chính là áo trắng của vị thần hiện về đòi lại cây…”
“Nạn nhân” tiếp theo là “cây đa Cồn Rộng đứng sừng sững giữa đồng không mông quạnh… người ta xây miếu nhỏ dưới gốc đa và hương khói thờ phụng những ngày rằm mồng một hằng tháng… Cây đa bủa rễ phụ chằng chịt như những vòng tay hung dữ ôm chặt ngôi miếu. Rễ chẻ đôi bệ thờ. Rễ quấn chặt bát hương…”
Cây đa lớn tới mức “mấy chục dân quân to khỏe như trâu mộng vác rìu, búa, cưa, cuốc chim xông thẳng tới, trương khẩu hiệu:“Cách mạng quyết thắng thần thánh ma quỷ… Đào tận gốc trốc tận rễ đầu óc mê tín dị đoan…”. Thế là họ hùng hục đào, cuốc, chặt. Bát hương vỡ tung tóe. Bệ thờ nát thành vôi vụn gạch vụn. Bỗng một tổ rắn bung ra, rắn con rắn mẹ bò lổm ngổm. Tất cả bỏ chạy tán loạn. Mấy chục dân quân đánh tháo về nhà ngồi im thin thít…”
Tất nhiên đời nào Đảng cho dân bỏ cuộc, bác Chắt Kế lại lệnh cho dân quân trong làng: “Các đồng chí hãy gột sạch đầu óc cổ hủ thì mới xứng đáng là thanh niên của thời đại dân chủ cộng hòa… Hử… thanh niên mà sợ ma quỷ, sợ rắn rết thì tức là thanh niên của thời phong kiến đế quốc…”
Đảng đã răn dậy thế, thằng nào còn dám cãi, thế là cây đa cổ thụ Cồn Rộng bị đốn ngã.
Rồi đến cây đa Đập Trùn tỏa rộng tán giữa cánh đồng màu, nơi ngồi nghỉ mát cho cả bà con trong làng những buổi trưa nắng gắt. Cây đa xóm Bắc, các cụ gọi là “cây đa phù Lê” vì có công giúp vua Lê đánh giặc Minh, tuổi thọ chừng hai trăm năm, “chứng nhân của nhiều thời đại, pho sử của làng. Bộ rễ bủa tung ra, xoắn xuýt, hăm hở, dữ dằn, trìu mến như cuộc đời người nông dân cắm sâu vào đất đai quê hương…”. Cây đa xóm Trung gắn với câu ca dao:
“Xóm Trung mà đổ cây đa…
Cả làng Hậu Luật đàn bà chửa hoang…”.
Cây mọc trên một cồn đất dài dài trông giống hình một cái b…, đối diện với một cồn đất khác hình tam giác giống như một cái l…” Bởi vì cái b… hoang chĩa vào cái l… hoang thì con gái chửa hoang nhiều, cho nên phải trồng lên cái đầu b… một cây đa để chặn lại sự dâm dục. Nghe nói khi cây đa mới được trồng, cứ nửa đêm là cái cồn b… này quẫy đành đạch và cái cồn l… cũng rung lên chờ đợi…”…
Tất cả những cây cổ thụ “huyền sử” ở trong làng đều đã bị đốn hạ, riêng cây phượng vĩ trường làng khi dân quân vác rìu ồ ạt đứng quanh gốc cây chuẩn bị chặt hạ, thầy hiệu trưởng đứng ra van xin:
“Năm mươi năm tôi trồng cây lớn được chừng này các ông chặt nó thì tôi khổ tâm lắm…”
Mặc, những lưỡi rìu phũ phàng vẫn chém vào gốc cây như chém vào lòng thày giáo vì từ nay sẽ không còn nữa “ba cây phượng sân trường tuổi thọ nửa thế kỷ, bóng rùm ròa tỏa mát sân rộng, khi tiếng ve dóng dả thì hoa phượng cũng nở đỏ. Hoa phượng là hình ảnh thân thương của tuổi học trò. Hoa rụng xuống sân dày đặc như một tấm thảm đỏ…”
Mặc kệ thần thánh, mặc kệ kỷ niệm, những cây cổ thụ trong làng vẫn bị chặt hạ hết, bất chấp:
“Bây giờ thần hát giặm đi đâu? Những người kể vè dưới gốc cây phiêu dạt phương trời nào. Những cặp trai gái lấy nơi nào để hò hẹn? Cây đa bị triệt hạ như tổ ấm bị phá vỡ. Một khoảng trống của nỗi tiếc thương ngày ngày hiện ra đầu cổng xóm và hiện ra trong lòng người. Cho đến bao giờ, đến bao giờ mới có vòm đa khác thay thế che rợp cái khoảng trống ấy.”
Cho đến bây giờ, nhà văn Võ Văn Trực đã có câu trả lời: không bao giờ còn có cái vòm cổ thụ che rợp ấy nữa và cái khoảng trống ấy, vĩnh viễn vẫn chỉ là những khoảng trống…
Cuộc cách mạng đã làm thay đổi hẳn bộ mặt của làng xóm: những cây cổ thụ bị chặt hạ hết, con người phải ngủ tập trung, tết nhất, hội hè, tuồng chèo bị dẹp bỏ… Tuy nhiên cách mạng vô sản không bao giờ dừng lại, nó luôn luôn đi tới, luôn luôn quét cái nhìn xăm xoi của nó vào mọi ngóc ngách để triệt tiêu những cái cũ. Nạn nhân sắp tới của nó là ai đây?
Thật chẳng ai ngờ tới, các “nạn nhân” kế tiếp lại chính là những người đã khuất bóng, các ông bà ông vải và tổ tiên.
Tập trung tổ tiên
“Hôm nay cả làng nghỉ lao động để làm một trong những việc trọng đại nhất trong lịch sử làng: tập trung tổ tiên”.
Quả là độc đáo!
Tại sao cách mạng vô sản lại “chủ trương” tập trung tổ tiên?
Hóa ra chặt cây cổ thụ để xóa cái cũ là chuyện dễ ợt, nhưng tập trung cả làng vào một ngôi nhà lớn để ăn chung, ngủ chung dưới một mái nhà “đại đồng” chứ không chỉ đêm đêm mới đến ngủ tập trung như hiện tình thì lại đòi hỏi lắm thứ ngoài tầm tay: “phải có gạch, phải lắm tiền nhiều của để xây từng dãy nhà dài cho từng giới và từng lứa tuổi nam phụ lão ấu. Lại cần phải xây một cái bếp thật lớn có nhiều nồi, nhiều bát đũa nhiều mâm. Nhiêu khê lắm.” Vậy là công trình “nhà đại đồng” cho người sống thì cứ tạm để đấy, chưa làm được.
Thế còn người chết? Tại sao không nhỉ? Mỗi người chết chỉ còn tồn tại như một cái bài vị, ảnh thờ, hoặc bát hương. Vậy thì căn “nhà đại đồng” cho quý vị đã chầu âm phủ bất quá cũng chỉ bằng một cái phòng thôi chứ gì? Cách mạng thừa sức xây dựng được. Chỉ cần đem tổ tiên tập trung lại, có khó khăn gì!
Phong tục làng tôi cũng như khắp nơi nơi trên cái nước Việt Nam này là người chết mang ra đồng chôn, hoặc hỏa táng và ít ra mỗi người cũng còn có một cái linh vị trên bàn thờ mỗi gia đình để khói nhang giỗ tết. Ấy thế mà đùng một cái… “Phong tục hình thành bền vững hàng trăm hàng ngàn năm, nhưng “cách mạng” cái phong tục này lại quá đơn giản…”
Đơn giản như thế nào?
Lẽ ra một “chủ trương lớn” như vậy, tập trung ông bà tổ tiên của cả làng vào một nơi chứ bỡn – phải tiến hành lần lượt theo từng bước. Nào tổ chức quán triệt trong nội bộ Đảng, nào phổ biến ra toàn dân thông suốt, nào thực hiện theo đúng phương châm “mục tiêu một, quyết tâm hai, biện pháp ba” nắm chắc thắng lợi mới tiến hành. Đằng này không, “đêm hôm trước, tập trung bà con để giải thích ý nghĩa của công việc. Sáng hôm sau, từng gia đình đã phải rước tổ tiên đến nhà thờ họ. Rồi từ nhà thờ họ, tổ tiên lại được rước đến nhà thờ đại tôn. Như vậy là cả làng chỉ có một nơi thờ tự, tất cả mọi bàn thờ cá thể bị phế bỏ”. Vậy là từ nay tổ tiên, ông bà ông vải “chung sống đại đồng”, đến ngày giỗ con cháu cứ mang đồ cúng tới thắp nhang và tất nhiên được chia đều cho tuốt luốt mọi “vong linh” không phân biệt già trẻ, sang hèn, coi như “chủ nghĩa cộng sản đã thắng lợi trước hết ở dưới… cõi âm!”
Tuy nhiên, tập trung tổ tiên là quyết định dễ dàng đối với Đảng nhưng lại cực kỳ day dứt đối với người dân, trước hết là do tình cảm của họ đối với bậc sinh thành. Với gia đình tác giả, lẽ ra chỉ cần rước đi cái bài vị ra nơi tập trung là xong, nhưng “cha tôi đã sửa soạn từ chiều hôm trước. Để bà con láng giềng không biết, mãi đến tối mịt cha mới đem trưng ra tất cả những đồ tế khí vốn chỉ dùng trong ngày tết như đũa sơn, bát trái hồng, đĩa cây trúc, đĩa con phượng, đôi hạc đồng ngậm hoa sen…”. Tuy không phải ngày tết nhưng ông cũng cúng vái y như ngày tết là bởi vì:
“Ông bà tổ tiên chỉ được hưởng những thứ này lần cuối cùng thôi. Sáng mai ông bà đi tập trung rồi, có về nhà mình nữa đâu…”
“Có về nhà mình nữa đâu” – tác giả hạ một câu nhẹ nhàng mà lòng như xát muối, ôi chao ôi, cách mạng là ưu việt, là thần kỳ, là giải phóng cho nhân dân, nhưng chẳng hiểu vì sao lại đuổi tổ tiên ra khỏi nhà?
Chuyện ngang ngược như vậy ngay đến “mẹ tôi” là đảng viên cộng sản cũng không thông được, nhưng bà cũng chỉ biết ngậm đắng nuốt cay mà không dám nói ra. “Mẹ tôi hình như thâu đêm không ngủ, quá khuya mới đi họp về. Mẹ lo vo nếp, làm thịt gà để cúng. Trước khi rước ông bà đi tập trung, mẹ tôi đứng chắp tay khấn. Ồ, sao lạ thế, chưa hề bao giờ tôi thấy mẹ khấn. Những ngày giỗ ngày tết chỉ có ông hoặc cha khấn, chứ đàn bà con gái có được khấn đâu. Thế mà bây giờ, lần đầu tiên, mẹ khấn. Đang khấn dở chừng, bỗng nhiên mẹ òa khóc, chạy vào buồng. Mẹ nói nhỏ với tôi qua nước mắt: “Con ra khấn ông bà đi, lớn lên con không được khấn nữa đâu…”.
Ở đây người ta thấy rõ phẩm chất tuân phục đến mù quáng của người đảng viên cộng sản, một khi Đảng đã “ra nghị quyết” thì người đảng viên dẫu thấy sai trái mười mươi cũng vẫn cứ phải nhắm mắt vâng theo mà không được phép buông một lời oán thán.
*
Và rồi cái ngày rước tổ tiên ra nơi tập trung cũng đã tới!
“Có đám rước nào trên thế gian độc đáo như đám rước của làng tôi ngày hôm nay? Hai trăm gia đình tổ chức hai trăm đám rước cùng một lúc. Mỗi gia đình một vẻ, muôn hình nghìn sắc. Nhà giàu thì rước to, nhà nghèo thì rước nhỏ. Nhà đông con cháu thì đám rước đông, nhà ít người thì đám rước bé. Bố, mẹ, con, cháu rối rít thành đoàn thành lũ. Có nhà rước giá gương. Có nhà rước cọc đèn sơn đỏ. Có nhà rước bát hương…”
Quả thật trên thế giới chưa có dân tộc nào phải hai lần rước người thân về nơi chín suối như ở cái làng Bùng này: một lần ra nghĩa địa và thêm một lần về nhà tập trung!
Có lẽ chưa nhà xã hội học nào đã bỏ công ra nghiên cứu xem tại sao chủ nghĩa cộng sản lại đẻ ra những yêu cầu trái khoáy như chuyện tập trung tổ tiên tại cái làng Bùng nhỏ bé ở cái nước Việt Nam này. Chắc nó có cội nguồn sâu xa ở chủ thuyết vô thần của cuộc cách mạng vô sản. Đám rước tổ tiên về nơi tập trung được tác giả khắc họa rất giản dị, chân thực như một bức tranh ký họa nhưng lại ẩn chứa rất nhiều điều kỳ quặc về cuộc cách mạng đang diễn ra trên làng quê vốn đã xơ xác và khốn khổ.
Cố Tuấn không vợ không con, chỉ có mình cố bưng cái bát đàn sứt mẻ cắm mấy nén hương đen. Bà Đồn suốt ngày đi làm thuê, tối về nằm còng queo trong cái túp lều lụp sụp có hai cái bát để ăn cũng phải dành một cái đi rước. Riêng nhà bà Cựu Diệm rước to nhất, có người bê giá gương, có người cầm cọc đèn, người cầm chuông vừa đi vừa gõ, tiếp đến những người cầm câu đối và liễn thờ màu đỏ màu vàng… Dù giàu hay nghèo nhưng tất cả mọi người có chung một cảm giác đau đớn, buồn tủi đuổi tổ tiên khỏi nhà mà không ai dám hé răng nói một lời.
Tuy nhiên, mọi sự đều có giới hạn của nó, đồng chí cán bộ Đảng Chắt Kế cũng gương mẫu rước tổ tiên ra nơi tập trung nhưng lại đi “quá đà” biến ngay gian thờ cũ thành phòng ở cho cô con gái mới lấy anh bộ đội. Đến nước này thì dân làng không còn chịu nổi chướng tai gai mắt nữa. Họ bất bình, xầm xì: “Có đời thuở nhà ai lại đem nhà thờ làm cái nơi ngủ của bà O với ông Dượng. Đời sống mới gì lạ thế? Đời sống mới đến đâu cũng phải giữ lấy nề nếp gia phong chứ…”.
“Nề nếp gia phong” nghĩ lại mà thấy tội nghiệp cho những người dân quê, họ đâu có biết rằng chỉ vài năm sau, khi Đảng phóng tay phát động quần chúng làm cải cách ruộng đất thì chẳng những cái “gia phong” ấy không còn nữa mà một thảm trạng kinh hoàng đã xảy tới, con tố cha, vợ tố chồng… đau đớn, tủi nhục trước nay chưa hề thấy.
Sau khi tất cả tổ tiên trong làng đã được tập trung vào một nơi, cách mạng bắt đầu cho phá tất cả những nhà thờ họ trong làng. “Có nhà thờ biến thành địa điểm hội họp. Có nhà thờ biến thành kho phân.”
Tại sao chốn linh thiêng nhất của mỗi dòng họ đều bị phá hủy mà người dân chẳng những không phản đối mà lại còn tích cực hưởng ứng?
Họ hết sợ trời Phật, quỷ thần rồi sao? Không phải, mà chính là do cách mạng đã khôn khéo đánh vào lòng tham của họ: “Hầu hết các nhà thờ đều rỡ ra cùng với những đồ tế tự, đem chia đều cho mọi người: người được gạch, người được cái án thư, người được cái trướng, người được chục bát…”
Hóa ra cách mạng đã biến công cuộc cải tạo xây dựng đời sống mới thành một cuộc cướp ngày chia chác cho những người tham gia. Bởi thế trách gì người dân trong làng chẳng rần rần cầm búa cầm cuốc theo lệnh cách mạng đi phá đền đài, miếu mạo?
Khi công cuộc “tập trung tổ tiên” đã hoàn thành, tác giả phải than trời: “Thế là thôi, hết nơi thờ tự, hết nơi sum họp huyết tộc. Các dòng họ bỗng dưng ly tán…”.
Các dòng họ quy về một nơi tưởng sẽ gắn kết nào ngờ tan tác hết, ảo tưởng “đại đồng” của những người cộng sản hóa ra phản tác dụng “càng tập trung, lòng người càng ly tán”.
Tại sao vậy?
Nguyên là bảy trăm năm trước, có một người từ miền Bắc vào chiêu dân lập ấp. Trong một lần ngủ mơ, ông thấy được rồng cõng lên, bay chu du khắp vòm trời. Khi tỉnh dậy ông vươn vai hóa thành người khổng lồ giết hết rắn rết, hổ báo, gọi dân về cày cấy. Từ đó làng suy tôn ông là đức tổ Triệu Cơ, lập nhà thờ đại tôn, mấy trăm năm qua chỉ thờ riêng mình ông một cách trang nghiêm.
Từ ngày cách mạng tập trung tổ tiên, đức ông Triệu Cơ phải ngồi cùng với vong hồn bá tánh “thậm chí cả lưu manh, kẻ cắp và ăn mày…”… “nhiều cụ tỏ vẻ không bằng lòng, nhưng cũng đành im cho xong chuyện, thời nào theo phép ấy, chống lại làm sao được?”
Từ đó ngôi nhà thờ đại tôn oai nghiêm phải đặt hổ lốn đủ đồ tế sự: “lọng ngai, hạc gỗ, giá gươm, bát hương sứ, bát hương sành thậm chí cả bát sắt bát mẻ, nhiễu điều rách che giá gương…”. Tác giả phải thốt lên: “Ôi thôi, trăm thứ bà rằn chen chúc nhau lộn xộn. Còn ra thể thống gì. Còn gì là tôn nghiêm…”
Ngay từ hồi chủ nghĩa cộng sản mới giành được thắng lợi ở nước Nga Sa hoàng, một nhà báo tên là Prudon đã vạch trần: “chủ nghĩa cộng sản là sự đánh đồng cái đẹp với cái xấu, cái thiện với cái ác, cái cao thượng với cái ti tiện…”. Việc tập trung tất cả tổ tiên vào một nơi ở làng Bùng quả là một hình ảnh sinh động minh chứng cho ý kiến trên.
Khi Đảng đã “ra chủ trương”, tất nhiên người dân không dám ra mặt phản đối, tuy nhiên họ vẫn tỏ thái độ theo cách riêng của họ “nhiều cụ thấy tình cảnh vậy, chán nản không muốn đến ngày giỗ Tổ. Nhà thờ đại tôn ngày càng hoang vắng. Ngói vỡ. Tường gạch loang lổ từng mảng. Câu đối bị đánh cắp. Trẻ em viết nguệch ngoạc, bậy bạ lên cánh cửa…”
Cái nhà thờ tổ tiên đã tan hoang, vậy nhưng Đảng vẫn chưa… tha. Thờ tự đâu có quan trọng bằng sản xuất, thế là “đùng một cái, ông Bí thư Đảng ủy xã quyết định lấy nhà thờ đại tôn của họ Võ làm… kho thóc…”
Đến mức đó thì các cụ trong làng không thể ngồi yên. “Cả làng chỉ còn lại một nhà thờ mà ông Đảng cũng đòi chiếm làm kho thóc thì thờ cúng vào đâu? Con cháu vô ơn bội nghĩa với tổ tiên à? Phải kêu lên tận Đảng ủy…”
Than ôi, con kiến mày kiện củ khoai, Đảng cấp dưới, Đảng cấp trên, Đảng ở đâu mà chẳng vậy, quả nhiên ông Bí thư nghe tin các cụ định kiện đã nói như búa bổ:
“Đồng bào miền Nam hy sinh xương máu không tiếc, bà con ta ngồi ở hậu phương lại tiếc cái nhà thờ à?”
Đồng chí Bí thư đã đưa “xương máu của đồng bào miền Nam ta” ra như vậy, cố nội thằng nào còn dám cãi. Muốn bị kết tội “phản động”, tập trung cải tạo hả? Thế là các cụ trong làng im thít, “đành phải buông tay xót xa nhìn ngôi nhà thờ biến thành kho thóc”.
Vậy là chỉ trong vòng vài tháng cách mạng thành công tại làng Bùng, những người cộng sản đã đạt được những “thành tích” rực rỡ: nào biến phụ nữ thành “nữ tướng” vác súng, mặc quần đùi, cưới đời sống mới trong đó cô dâu thách cưới bằng… lựu đạn, nào bỏ tết cổ truyền cũng như các hình thức văn nghệ dân tộc như tuồng, chèo… bắt dân làng ngủ chung, chặt hạ các cây cổ thụ, tập trung tổ tiên của mọi nhà vào một xó… Tuy nhiên, cuộc cách mạng vẫn tiếp diễn, và Đảng lại mở một chiến dịch mới, kỳ quặc nhất trong lịch sử nhân loại:
Tập trung thần, thánh, Phật
Làng tôi có con sông Bùng chảy qua, “bao nhiêu đêm trăng, đám trai trong làng đã đóng bè chuối vượt sông để hát đối đáp với đám con gái làng bên. Con sông tình ca và cũng là con sông thần thoại”.
Sông Bùng của tác giả là cái nôi sản sinh ra nhiều vị thần. Vì thế trong làng cũng có nhiều đền thờ thần như “ông Đùng đã dùng tay không xẻ đất mở nền sông Bùng tiêu nước đồng trũng ra bể…”,“thần Cửa Thung đánh nhau với lũ thủy quái để ngăn nước mặn tràn vào đồng”, “thần Áo Trắng đã cứu vua Lê thoát khỏi tay giặc Minh ngay bên bờ sông…”.
Ngoài các vị thần còn có các vị thánh, các nhân vật lịch sử có công với làng xóm, có cả chùa thờ Phật, miếu thờ những vong hồn bất hạnh… Ấy thế đùng cái, “lệnh của chính quyền địa phương không ai được cưỡng: “tất cả các thánh, thần, phật ở rải rác trong thôn trong xã đều phải về tập trung tại đền Hàng Khoán dưới chân núi Hai Vai…”
Tại sao cách mạng mới lên còn bộn bề công việc bận rộn như vậy mà lại đi làm cái việc “gây chiến” với thần thánh vậy? Có phải do trình độ cán bộ lúc đó còn thấp, mắc bệnh tả khuynh “ấu trĩ cộng sản” không?
Không phải vậy, bởi lẽ sự triệt phá thần thánh, “lấy đền miếu làm kho hợp tác” còn kéo dài suốt cả một thời bao cấp sang tới thời kinh tế thị trường vẫn chưa thôi.
Từ thượng cổ, con người vẫn có hai cơ chế kiểm soát: ở bên trong là trời Phật, ở bên ngoài là luật pháp và miệng tiếng người đời. Chủ nghĩa cộng sản xóa bỏ cả hai cơ chế kiểm soát con người bên trong và bên ngoài để thiết lập một cơ chế kiểm soát toàn trị bằng một ý thức hệ thô thiển, giản lược hóa con người vào những mô hình kinh tế, bằng các tổ chức quản lý thực chất là kìm kẹp, bằng những chủ trương, chính sách đường lối dựa trên một “khế ước xã hội” áp đặt lên toàn dân: Đảng là mặt trời duy nhất, và quyền lợi của Đảng là tối cao, cao hơn cả dân tộc và lịch sử.
Để tuyệt đối hóa vai trò bao trùm của mình lên toàn xã hội, vào thời kỳ đó, Đảng chủ trương phải xóa bỏ cơ chế kiểm soát bên trong con người cũ, thiết lập cơ chế kiểm soát mới bằng xóa bỏ giáo lý của tôn giáo, chôn vùi huyền thoại của tín ngưỡng, thay thế chúng bằng những tín điều cộng sản, xóa bỏ thần Phật thay thế bằng hình ảnh các lãnh tụ.
Người dân trong làng đâu có biết tới những căn nguyên sâu xa đó, bởi vậy “cái cú tập trung ông bà, ông vải, tổ tiên đã làm cho mọi người choáng; bồi thêm cái cú tập trung thần thánh này nữa có thể làm cho dân làng bị ngất…”
Nhưng dù có ngất đi thì cũng phải tỉnh lại để mà tỉnh táo thực hiện chủ trương của Đảng. Lệnh ban ra quá gấp, thời gian thực hiện Đảng chỉ cho đúng một đêm “làm lễ tiễn đưa thần thánh”.
Thế là “nhiều ông cụ, bà cụ tất tưởi chạy hết miếu này tới đình kia qua chùa nọ để thắp hương, để khấn vái, nhỡ bỏ sót một nơi nào trong giờ phút thiêng liêng này thì sợ thần thánh giận…”
Thực hiện cái công việc vô ơn với người xưa này, ngay cả mẹ tác giả là đảng viên cộng sản trong thâm tâm cũng không đồng tình mà đâu dám nói ra. Ngoài mặt bà vẫn nói cứng:
“Cách mạng triệt để con ạ. Chủ nghĩa cộng sản là tập thể hóa. Thần thánh tập thể trước, sau đó sẽ tập thể con người…”
Bà chỉ nói ngoài miệng vậy thôi, thực chất bên trong có điều gì đó làm mẹ “mệt nhừ người, mặt bệch bạc vì mất ngủ…” và bà khóc thầm. “Hình như trong lòng mẹ đang nén lại một điều gì khó bộc lộ cho ai biết…”
Tuy nhiên, bất chấp các cụ trong làng ta thán, nhiều đảng viên ngấm ngầm thở dài, công tác tập trung thần, thánh, Phật vẫn được tiến hành và người dân vẫn cúi mặt chấp hành và rỉ tai nhau những tin đồn “Pho tượng đức thánh Khổng tử ở nhà thánh của hội Tư Văn bỗng nhiên mặt đỏ bừng bừng, Pho tượng Phật ở ngôi chùa xóm Trang Hà bỗng lắc lư làm rung cả tòa sen. Bình hương ở ngôi miếu sau đền bỗng nhiên bốc lửa, long ngai ở nhà Thánh tông bỗng nhiên chảy máu…”
Tất nhiên với Đảng những lời đồn thổi như vậy chẳng qua là sự phá hoại của kẻ địch giấu mặt và lập tức Đảng dùng nó như cái cớ để ép buộc dân thu gom thần Phật tích cực và khẩn trương hơn nữa…
Tất cả chư thần, chư Phật trong làng phải được tập trung trong có… một đêm. Lệnh Đảng đã ban ra như vậy, thằng dân nào dám chống? Thế là cái đêm hôm ấy thực sự là đêm đất trời đảo điên, quỷ khốc thần sầu khi dân làng phải đưa hết thần Phật ra khỏi đền chùa miếu mạo để tập trung tất cả vào một xó.
Ngôi đền lớn nhất và linh thiêng nhất trong làng là đền thờ Bạch Y thần. Trong cuốn “Lam Sơn thực lục” Nguyễn Trãi có ghi rõ vua Lê cùng với Lê Liễu chạy giặc Minh đến sông Khả Lam thì thấy thi thể một người đàn bà mặc áo trắng nằm chết ở đó. Vua khấn rằng ta bị giặc Minh đuổi đến đây, xin người giúp ta mai sau thành sự nghiệp lớn sẽ lập đền thờ. Vừa khấn xong thì giặc và chó ngao đuổi tới, người đàn bà hóa thành con chồn trắng chạy đi cho chó ngao đuổi theo, nhờ thế vua Lê thoát được sau này phong thần áo trắng làm Hoằng Hưu đại vương. Vậy là ngôi đền có thần phả được cất giữ trong hộp sơn son thếp vàng đặt ở thượng điện. Thần rất linh thiêng và có công trạng thế nhưng sang thời cách mạng thần cũng phải rời đền đi tập trung trong “cái đêm đó”:
“Trong điện thờ, các cụ từng đôi một đi hai bên dâng rượu, dâng hương. Cụ chủ tế mặc áo thụng đỏ vừa “hương bái”… vừa nước mắt chảy ròng ròng. Các cụ khác cứ ba người một thay nhau vào tấm chiếu hoa trải trước thư án quỳ lạy. Có cụ thụp đầu xuống rất lâu ngỡ như bị ngất vì cơn xúc động lớn. Không xúc động sao được? Thần đã cứu vua Lê thoát khỏi nanh vuốt giặc Minh, thần đã phù hộ cho dân làng vượt qua trăm nghìn trận nguy nan. Sáng mai Thần phải đi tập trung, Thần phải vào thế giới đại đồng cùng với các vị thần khác trong xã…”
Xưa nay “thế giới đại đồng” theo cách hình dung của người của cộng sản chỉ là thế giới của các cộng đồng người, cộng đồng các quốc gia không biên giới, không Nhà nước… Thật không ngờ, trong quá trình thực hiện cái “mô hình lý tưởng vĩ đại ấy” ở cái xứ nhà quê Việt Nam lại nảy sinh “thế giới đại đồng” của các thần linh, thực là một cách vận dụng chủ nghĩa Mác đầy thông minh sáng tạo của các nhà cách mạng Việt Nam.
“Lễ hội kéo dài đến tận tàn canh. Trời hửng sáng. Không thể nấn ná thêm được nữa. Đã đến giờ tiễn đưa Thần. Lòng các cụ rối bời như tơ vò. Ông chủ tế trong các ngày lễ chỉ đứng làm nhiệm vụ “xướng” như người chỉ huy dàn nhạc, bỗng nhiên ông phá bỏ luật lệ bình thường, chạy đến gục dưới chân Ngài khóc nức nở như trẻ thơ… Không ai bảo ai, tất cả mọi già làng đều òa khóc.”
Và Võ Văn Trực cũng kêu lên đau đớn:
“Thế là thôi, thế là xong, kiệu đã ra khỏi cửa tam quan… cuộc tiễn biệt đau buồn như cuộc vĩnh biệt…”
Thần, thánh, Phật tập trung hết cả lại một chỗ còn lại các đền chùa miếu mạo sẽ ra sao?
Tác giả than trời:
“Ôi tan hoang đến tột cùng sau các cuộc rước các thánh các thần về thế giới đại đồng… Thần đã đi rồi. Thánh đã đi rồi. Phật đã đi rồi. Nhưng ngôi đền, ngôi chùa, ngôi miếu như cái xác không hồn. Dân tứ chiếng tranh nhau cướp giật mang đi: người được hòn đá tảng, người được cái cửa vọng, người được viên ngói viên gạch, người được cái cửa gỗ… Tại nhà thờ thánh, tượng Khổng Tử lăn long lóc như người ăn mày tha hương bị trẻ con ném cứt vào mặt. Đền thờ thần Bạch Y thì cây muỗm mấy trăm năm đã bị đào tận gốc trốc tận rễ. Thượng điện biến thành kho phân. Hạ điện biến thành nơi hội họp. Cửa tam quan bị san bằng…”
Nơi ở cũ thì như vậy, còn khu “tái định cư” cho các thần thánh Phật thì ra sao?
Tất cả thần thánh Phật, ma quỷ đều tập trung về đền Hàng Khoán để cùng nhau chung sống trong không khí thế giới đại đồng. Khổ nỗi, đền có nhà thượng nhà hạ, nhưng tất cả thần Phật tập trung về đây hóa ra chật chội. Cái hình ảnh “thế giới đại đồng” của thần Phật được tác giả vẽ ra rất hài hước:
“Từ ngoài cửa đền trông vào rất buồn cười: tượng ông Khổng Tử đứng cạnh ông Thích Ca Mâu Ni. Ngai thờ Bạch Y thần xếp cùng án thư với thần ăn mày, bài vị ông Đùng đặt kề lư hương đất thờ thần dâm, giá gương thờ cụ tổ nghề làm nón làng Xuân Viên để sát vào thanh gươm thờ tên ăn cướp…”
Rõ thật là một hình ảnh tiêu biểu cho bản chất của chủ nghĩa cộng sản là đánh đồng mọi giá trị, cái cao thượng đặt cạnh cái ti tiện, cái ác ngồi lên cổ cái thiện.
“Mọi tôn ti trật tự bị đảo lộn lung tung phèo. Xã hội thần linh đang bình yên bỗng như bị trận lốc xô tới bất ngờ…”
Vậy nhưng cái nơi tái định cư của thần Phật ấy đâu có tồn tại được lâu dài:
“Dần dà về sau không ai nhòm ngó, không ai hương khói, đền Hàng Khoán vắng tanh và bị phá phách. Ván cửa bị giật. Ngói vỡ, mưa nắng dột nát. Hạc gỗ gãy cổ. Ngai thờ vứt lăn nghiêng ngả. Và cuối cùng, ngôi đền bị phá hủy hoàn toàn, cỏ mọc um tùm…”
Thế giới đại đồng của thần linh do cách mạng lập nên thế là tan vỡ hoàn toàn. Hài hước hơn nữa là nỗi lo của tác giả:
“Các vị thần quay về chốn cũ thì chốn cũ đã tiêu điều. Bây giờ các vị thần phiêu dạt nơi đâu?”
Vâng, thần thánh phiêu dạt nơi đâu trong cái xã hội ma quỷ đầy đường đầy chợ này? Có phải chính vì thế mà lòng người ly tán, gia đình phiêu dạt, con giết cha, vợ giết chồng có khi chỉ vì tranh giành nhau cuốn sổ đỏ sử dụng đất?
Xưa nay nhiều người cứ cho rằng cách mạng tháng Tám là một cuộc khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân, mang tính chất dân tộc và dân chủ (tức là chỉ đánh đổ thực dân Pháp và địa chủ bóc lột).
“Chuyện làng ngày ấy” của Võ Văn Trực bằng những hình ảnh sinh động đã đưa ra một nhận định ngược lại. Mặc dù lúc chính quyền cách mạng còn đang trứng nước, Đảng đã thực hiện cú lừa đảo chiến thuật bằng cách vờ tuyên bố tự giải tán để thành lập Hội Nghiên Cứu Chủ Nghĩa Mác và tới năm 1951 lại “ra công khai” với cái tên Đảng Lao Động, mặc dù vậy, cuộc cách mạng tháng Tám thực chất vẫn là một cuộc cách mạng vô sản, mang trọn vẹn ý thức hệ cộng sản ngay từ trong trứng nước và được thực hiện toàn diện, khẩn trương và triệt để nhằm củng cố quyền lực lãnh đạo của Đảng và nhanh chóng thiết lập chế độ độc Đảng trên toàn lãnh thổ Việt Nam.
Tất cả những gì Đảng thực hiện trong cuốn “chuyện làng ngày ấy” đặc biệt là sự vội vã xóa bỏ thần Phật đã phơi bày bản chất cộng sản của cuộc cách mạng mà người ta cứ kêu gào là dân tộc, dân chủ.
Khi những giá trị vô hình như tổ tiên, thần Phật đã được tập trung xong xuôi cả rồi, cách mạng bắt đầu nhòm ngó tới những giá trị vật chất: những mồ mả chôn người chết. Và thế là lại một phong trào mới được phát động trong toàn dân: Tập trung mồ mả.
ập trung mồ mả
Nói cho công bằng, ở những làng quê đất chật người đông, đất đai canh tác bị chia cắt manh mún thành hàng trăm mảnh nhỏ. Mảnh thì vuông. Mảnh thì méo. Mảnh thì xiên xẹo. Đã vậy còn chen chúc bao nhiêu là mộ lớn mộ nhỏ. Bởi vậy nếu tập trung tất cả lại trong một nghĩa địa thì cũng là việc nên làm. Tuy nhiên việc thực hiện phải rất thận trọng, có kế hoạch di dời cụ thể, tôn trọng hương hồn người chết. Đằng này không. “Người ta lại đùng đùng phát động thanh niên mở chiến dịch đào mồ đào mả”, công việc hóa ra hài hước và độc ác.
“Sáng hôm ấy, con gái và con trai, cuốc và xẻng, thuổng và bàn vét ồ ạt xông ra đồng, mở hai mũi quân mạnh nhất xung phong vào hai cứ điểm Ruộng Quan và Cồn Rộng – hai nơi nhiều mộ nhất.”
Người nằm dưới mộ là những ai?
“Mộ ông Liễn, một tay chuyên đặt vè nổi tiếng… Mộ anh Tiếu, con ông mõ nghèo xơ xác, tác giả của nhiều câu ca dao trữ tình trong những đêm hát phường vải. Mộ o Thiện, cô gái con nhà giàu lẳng lơ… Mộ ông Đường, không vợ con, suốt đời làm thày lang mang cái bị thuốc đi làm phúc cho thiên hạ…”
Tất cả những con người ấy, mỗi người còn lại một nắm xương khô nằm riêng trong một ngôi mộ từ bao năm nay. Giờ đây tất cả đều bị đào lên, “tất cả mọi bộ hài cốt được trộn vào trong một khối cộng đồng bao bọc bởi tấm ni lông… Hàng chục cái sọ dừa, hàng chục cái xương tay xương chân, hàng chục bộ răng đổ ào vào một đống…”
Sau mấy ngày đào bới, tất cả các hài cốt đều được mang tới chôn ở nghĩa địa mới. Gọi là nghĩa địa cho oai chứ có ra cái hình dạng gì đâu:
“Giữa cánh đồng mầu, nham nhở lồi lõm gò đống, bùn lầy, xương cốt vùi xuống, đất lấp lên, thế là xong. Để tiết kiệm đất, không được đắp riêng từng nấm mộ mà mỗi chi họ đào một cái rãnh dài, rồi xếp các bộ hài cốt liền nhau, đắp đất như bờ ruộng…”
Đọc đoạn văn này, người ta không khỏi liên tưởng tới “cánh đồng chết” ở Campuchia thời Khơme đỏ sau này.
Cái nghĩa địa chung của làng ngày càng trở nên kinh hoàng như địa ngục khiến người già trong làng sợ… không dám chết. “Tôi nói thật đấy mà. Tâm lý dân tộc ta là người đã bảy mươi, tám mươi ra đi rất thanh thản. Thế mà ở làng tôi, có cụ Đinh nhìn cái nghĩa địa tồi tệ mà sợ mình phải chết. Cố đã trên tám mươi tuổi. Vào giờ phút lâm chung, con cháu khiêng cố ra nhà ngoài cố không cho khiêng, con cháu thay áo mới cố không cho thay. Cố nói thều thào: Tao nhìn cái nghĩa địa, tao sợ lắm, đừng bắt tao chết…”.
Thật là một bi hài kịch cười ra nước mắt chỉ thấy có ở làng quê Việt Nam vào thời sau cách mạng.
Di dời xong mộ dân thường rồi, cách mạng bắt di dời tiếp mộ các danh nhân lịch sử ngay cả những ngôi mộ chẳng ảnh hướng gì tới đất đai canh tác – phàm cứ là mộ là di dời tập trung tuốt luốt.
Trước hết là đào “Mộ bà Cô”. Bà vốn là cô gái chăn trâu cắt cỏ nhưng qua nhiều đời bà được thêu dệt nên nhiều huyền thoại để trở thành một thần tượng người làng thờ cúng. Nào khi bị bọn giặc cỏ đến cướp đất, bà trát bùn đầy người để tả xung hữu đột khiến hàng trăm mũi tên địch không bắn thủng được lớp bùn trên người bà. Thế rồi trong lúc chiến đấu, một mảng bùn trên người bà bị bong lộ một khoảng da bị tên bắn trúng vào đó, bà ngã xuống. Khi chết rồi, bà vẫn nằm trên mình trâu để dân làng lùa đi đuổi giặc khiến chúng sợ hãi chạy như vịt cỏ. “Mộ bà Cô” chỉ nằm khiêm tốn trong một góc nhà thờ, chẳng choán một tấc ruộng của ai, vậy mà cũng bị đào lên đem chôn chung với các mộ khác. Làng từ đó mất một huyền thoại.
Mộ lớn nhất làng là “Mộ tổ nổi lên như một cái gò, rộng chừng ba sào đất ngay giữa làng, là mộ của đức Triệu Cơ Võ Chính Đạo, người sáng lập làng này từ thế kỷ 13. Gần đó còn có “cồn Tổ con” rộng chừng một sào có mộ táng hài cốt con trai ông Võ Chính Đạo…”.
Tục truyền khi đức Tổ Triệu Cơ đã về chầu trời, người con trai buồn bã cỡi voi đi lang thang, đến bụi ruối này ông cột voi lại và hóa theo cha. Cây ruối cổ thụ có nghĩa có tình sống thế kỷ này qua thế kỷ khác, nghiêng bóng mát trên ngôi mộ. Ấy thế mà: “tìm hài cốt đức Triệu Cơ đâu có dễ dàng gì. Người ta phải đào lung tung, đào toang hoang, đào kỳ được mới thôi. Cuối cùng tìm được hài cốt và không hề ngần ngại, người ta mời cụ vào nằm chung với bảy thế kỷ con cháu”.
Mộ võ tướng của vua Lê tên là Võ Cương, tục gọi là “cố Hùng” có cả đền thờ giữa làng cũng bị “ba chục thanh niên đào suốt một ngày ròng, chẳng thấy hài cốt đâu…”. Có người khuyên cán bộ Đảng rằng Ngài Cố Hùng là võ tướng đời Lê có công đánh quân nhà Minh, mộ của Ngài đã trải 5 thế kỷ, không nên dời đi thì cán bộ nghiêm mặt trả lời:
“Hứ… đã dời mồ mả phải dời tất thì mới quy hoạch đồng điền theo thế đứng chủ nghĩa xã hội được. Làm cách mạng phải triệt để chứ cách mạng nửa vời thì hỏng bét…”
Cách mạng triệt để là phải tìm cho ra hài cốt của Ngài “cố Hùng”. Thế là hàng chục thanh niên lại đào tiếp ngày này qua ngày khác. Sau cùng người ta tìm ra “một nắm xương bọc trong chiếc mo cau xơ xác. Lục thần phả ra xem thì đúng đó là hài cốt võ tướng Hùng lễ bá”. Cụ già đọc thần phả, rớm nước mắt rủ các cụ khác lên gặp chủ nhiệm hợp tác xã để xin 15 đồng mua tiểu sành đựng hài cốt. Tên chủ nhiệm này xẵng giọng trả lời:
“Mộ vua mộ chúa mộ thượng thư cũng dập thành đống đất huống hồ là một ông tướng làng…”
Thế là hài cốt vị tướng được chuyển từ mảnh mo cau sang tấm ni lông và táng vào huyệt chung của cả làng lẫn với xương của đám ăn mày. Còn mộ chí của Ngài bị thanh niên trong làng… quẳng xuống sông cho mất tăm tích. Nghe tin đó, cán bộ Đảng, bác Chắt Kế giả vờ lên giọng phê phán:
“Có ai giáo dục thanh niên làm việc đó. Chủ nghĩa cộng sản phải biết quý trọng lịch sử dân tộc…”
Rõ thật vừa đánh trống vừa ăn cướp là thế. Đào bới, đập phá những ngôi mộ cổ, di dời hài cốt tới chỗ chôn tập trung hóa ra chẳng phải nhằm mở rộng diện tích canh tác mà chính là bôi xóa danh nhân trong lịch sử để thần tượng những nhà cách mạng trở nên “duy ngã độc tôn” nơi trần thế đã thiết lập xong chế độ toàn trị của Đảng cộng sản. Chẳng thế mà trên bàn thờ tổ tiên của những người nhà quê sau cách mạng người ta chỉ thấy có hình hai ông da vàng là Hồ Chí Minh, Mao Trạch Đông và bốn ông tây trắng là Mác, Ăng ghen, Lênin, Stalin. Thần thánh của xã hội mới chỉ có nhiêu đó, phàm những danh nhân, huyền thoại khác làm nên lịch sử đều phải hạ bệ, xóa sạch. Nguyên tắc “dân tộc” (đi cùng khoa học và đại chúng) trong đề cương văn hóa của Đảng xem ra chỉ là lời hô hào suông trên giấy, thực tế những di sản vật thể và phi vật thể đã bị cách mạng “đào tận gốc, trốc tận rễ” ngay từ những ngày mới cướp được chính quyền rồi.
Phá phách xong các mộ cổ, đền chùa miếu mạo, cách mạng nhằm tới phá cả… cảnh quan thiên nhiên.
Núi Hai Vai xệ một bên vai
Núi Hai Vai tức Lưỡng Kiên Sơn là một di tích khảo cổ và một thắng cảnh lớn của vùng Hoan Châu – Diễn Châu cổ xưa. Núi thuộc làng Kẻ Dặm nên còn có tên là Lèn Dặm, vua Lê Thánh Tôn đi qua nhìn ngọn núi giống người đàn bà búi tóc nên đặt tên là Kế Sơn, sư chùa Hà Trung nhìn dáng núi như người ngồi tụng kinh nên đặt tên núi là Di Linh. Rồi trong núi có vết tích của trận địa Mạc Mậu Giang. Dưới gốc cây đa cổ thụ La Sơn phu tử đã ngủ lại đêm trên đường tìm đất định đô cho vua Quang Trung. Rồi lẫn lộn trong lòng hang, cùng với phân dơi là những cổ vật thời Lý Trần, những cọc đèn đồng đời Lê, Nguyễn. Ngoài ra, núi Hai Vai đã đi vào văn thơ từ thời xưa như nho sĩ Bùi Dương Lịch đã ca ngợi: “Chống trời xương cốt nhục. Non nước nặng hai vai…”, trong nhà thờ của làng cũng có đôi câu đối cổ: “Di Linh phong cao thế hệ trường”.
Còn tác giả viết về ngọn núi với giọng văn thật hào hùng:
“Ngọn núi từ muôn ngàn xưa đường bệ biết bao. Núi là biểu tượng của khí phách của khát vọng dân chúng. Từ phía mặt trời mọc nhìn lên phía Tây, núi ngẩng cao đầu nhô hai vai như dáng người với nghị lực phi thường…”
Ấy thế rồi chỉ không đầy 10 năm sau khi “ông Bí thư Đảng ủy dõng dạc tuyên bố: “Chúng ta phải mở một nhà máy xi măng ngay dưới chân núi Hai Vai. Cho đến lúc núi hết sạch đá hóa thành đồng bằng, ta có thêm hàng chục mẫu đất để tăng gia sản xuất…”, núi Hai Vai đã bị con người chém đứt hẳn một bên vai. Và tác giả đã kêu lên những dòng đau đớn:
“Đâu rồi, đâu rồi tất cả những gì xa xưa ấy
Đâu rồi, đâu rồi, quá khứ cần lao và hùng vĩ
Đâu rồi đâu rồi?
Còn đâu nữa, người ta đã phá sạch rồi… Tòa thiên nhiên lộng lẫy ấy chỉ trong 10 năm đập phá là bị tiêu tan hết… Tôi bần thần ngỡ mình như hòn núi ấy bị quỷ bắt mất hồn, tôi đi lang thang và dừng lại tại vị trí ngôi chùa cổ lưng chừng núi, lưng chừng trời, lưng chừng mây. Tôi bới tìm trong đống gạch vụn và đá vụn, vô tình nhặt được khối thạch nhũ đẹp như bầu vú căng sữa bị một lưỡi rìu chém đứt ngang…”
Và lòng đầy phẫn uất, tác giả quăng ra câu hỏi:
“Người ta thù hằn với thiên nhiên chăng? Người ta thù hằn với cái đẹp chăng?”
Câu trả lời sẽ là “người ta” chẳng những thù hằn với thiên nhiên, với cái đẹp mà còn thù hằn cả với con người như những chương sau của cuốn sách. Đúng vậy, những gì cách mạng cư xử với dân làng trong chương dưới đây chỉ có thể bắt nguồn từ lòng “thù hằn” con người thì mới tàn bạo được đến thế.
Sống dưới chế độ phong kiến đế quốc, cuộc sống người nông dân Việt Nam đã oằn xuống vì “sưu cao thuế nặng”. Một trong những nội dung quan trọng lãnh tụ cộng sản Nguyễn Ái Quốc trình bày trong cuốn sách “Bản án chế độ thực dân Pháp” và “Những yêu sách ở Hội nghị Versaille” là tố cáo và đòi bãi bỏ những sắc thuế vô lý như “thuế thân”, thuế “điền thổ”…
Ấy thế nhưng khi đã cướp được chính quyền rồi, những người cộng sản quên phứt những gì mà lãnh tụ của họ đã kêu gọi để đặt ra lắm thứ thuế quái quỉ, trong đó có thứ thuế trước nay chưa hề có trên thế giới:
Thuế khả năng
Cứ tưởng rằng khi cách mạng đã giành được chính quyền, nạn đói kinh hoàng như năm Ất Dậu vĩnh viễn qua đi, người dân từ nay sẽ được no ấm, yên lành. Nào ngờ, nạn đói lại ập đến. “Mới tháng Giêng nhà tôi chỉ còn một chum thóc. Gần ba tháng nữa mới có lúa gặt, với chum thóc ấy cả nhà tôi chỉ ăn chừng nửa tháng là hết…”.
Cả làng đều chỉ hái rau khoai ăn qua ngày vậy mà họ vẫn phải tham gia đầy đủ các đợt vận động như đào ao, đắp bờ, phá đình, phá chùa và “điều đặc biệt là hầu như tối nào cũng họp, cuộc họp nào cũng rất đông”.
Họp gì mà liên miên vậy? Hóa ra toàn họp để nghe cán bộ nói chuyện: nào giải thích chính sách tiết kiệm, nào nghe phổ biến tin chiến thắng, nào học tập chính sách thuế nông nghiệp… Trong đợt đói này, các cuộc họp chỉ xoay quanh một thứ “thuế” lạ lùng nhất thế giới: “thuế khả năng.”
Muốn biết thế nào là “thuế khả năng”, tốt hơn hết là cứ ngồi dự các cuộc họp với bà con. Người điều khiển cuộc họp này, còn gọi là họp “đấu tranh phát hiện thuế khả năng” là chú Văn mắt toét, chi hội trưởng nông hội. Chú này vốn chuyên nghiệp đi làm thuê, ở đợ, mù chữ, khi cách mạng thắng lợi; do “đường lối giai cấp”, vì nghèo nhất làng, thất học nhất làng nên trở thành cốt cán nhất, cán bộ uy quyền nhất làng. Tại sao lại có lối chọn người và xây dựng bộ máy quyền lực lạ đời vậy?
Mục tiêu hàng đầu trong “công tác tổ chức” là xây dựng Đảng vững mạnh chứ không phải một bộ máy vì dân và hoạt động có hiệu quả. Bởi vậy tiêu chuẩn cốt lõi của “những con ốc trong guồng máy” không phải là thông minh sáng tạo mà là sự tuân phục tuyệt đối. “Tuyệt đối trung thành và chấp hành lệnh Đảng đến mù quáng” là yêu cầu hàng đầu đối với các cán bộ và chỉ những kẻ đầu óc tăm tối, thất học, trái tim sắt đá mới có đầy đủ được hai phẩm chất đó. Bởi thế người ta không lấy làm lạ rằng tại sao Đảng không chọn người tài mà chọn toàn thằng ngu để xây dựng bộ máy của mình. Lẽ ra “bộ máy” của Đảng chỉ là phương tiện của Đảng để xây dựng nước giàu dân mạnh, tiếc thay, vì quá lo đến sự sống còn, Đảng đã biến nó thành cứu cánh, coi nó là mục tiêu cao nhất của Đảng, trọng sức mạnh của bộ máy quan trọng hơn là hiệu quả hoạt động của nó.
Sai lầm chết người này vẫn còn tồn tại cho tới tận ngày nay và trở thành cố tật, vô phương cứu chữa.
Nhân vật chú Văn mắt toét tuy chỉ được tác giả mô tả sơ sài nhưng cũng đủ cho ta thấy cái cốt lõi trong “công tác tổ chức cán bộ” của Đảng. Cũng cùng tham gia cách mạng, cùng vào Đảng với bố mẹ của tác giả, nhưng chú Văn mắt toét do nghèo hơn, thất học hơn – “tất cả các văn bản đều phải nhờ người khác đọc cho nghe và viết hộ”, nên chú đã nhảy tót lên vị trí quyền lực cao hơn.
Và người ta sẽ thấy chú Văn mắt toét chấp hành lệnh Đảng mù quáng đến mức nào?
Khi nạn đói hoành hành trong làng, chú Văn mắt toét họp dân và tuyên bố như sau:
“Tình hình vấn đề đói hiện nay rất khẩn trương… đa phần các đồng chí hội viên nông dân không còn lương thực và thực phẩm. Bởi vậy ai thấy ai có “khả năng” thì phải nói ra, vì thế chủ trương của cấp trên là phải đóng thuế khả năng. Nhà ai thừa mười tạ bắt nộp mười tạ. Nhà ai thừa một tạ bắt nộp một tạ…”
Hóa ra cái màn cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh ở Hà Nội năm 1954 và ở Sài Gòn 1975 cũng là một loại “thuế khả năng” mà Nhà nước đã thi hành từ hồi mới giành được chính quyền 1945.
“Thuế khả năng” thực chất là cướp hết tài sản và chỉ để lại một phần tối thiểu cho nạn nhân sống sót. Nghe chú Văn mắt toét nói chuyện lạ đời, cuộc họp im thin thít, chú lại hùng hồn:
“Giai cấp vô sản không sợ bất cứ ai, vấn đề là thấy ai thừa thóc tích trữ đầu cơ thì cứ nói toạc ra để vấn đề là bắt họ phải đóng thuế khả năng…”
Ông đồ H. xin thưa rằng mùa vừa rồi làng bị lũ lụt, sâu keo mất trắng làm gì có gia đình nào thừa thóc, lập tức chú Văn “đùng đùng vung tay về phía trước”:
“Nói như thế là bao che cho bọn đầu cơ tích trữ, hút máu hút mủ của bà con hội viên. Vấn đề là phải vạch mặt chúng để chúng phải nộp thuế khả năng…”
Và rồi chú Văn túm ngay lấy cụ đồ:
“Ai vừa bao che đó? Ông H. phải không? Tôi thấy ông H. còn khả năng, ông H. phải đóng hai tạ…”
Ông H. phản đối vì ông làm gì ra thóc, lập tức chú Văn đập bàn:
“Anh thư ký cứ ghi biên bản. Ông bán gia tài điền sản không đủ hai tạ thì ông bán cái thân ông đi mà đóng thuế…”
Thường dân bị đối xử vậy, ngay cả những “đồng chí đảng viên” như mẹ của tác giả cũng chẳng được ưu ái hơn. Chính vì thế, nhà văn Võ Văn Trực viết về mẹ với lòng cảm thương:
“Những năm cách mạng mới thành công, mẹ hăng hái tham gia công việc đoàn thể, xã hội. Bây giờ tôi thấy mẹ có phần mệt mỏi. Thế giới đại đồng ngày càng lùi xa. Chân mẹ gày yếu thế kia làm sao mẹ đi tới được cái đích cao sang mờ tít tắp ấy. Con có cảm giác như mẹ đang dẫn con đi trên dặm đường thiên lý sa mạc ngùn ngụt nắng gió, chốc chốc lại hiện ra trước mặt mình những lâu đài tráng lệ, nguy nga của ảo giác lừa dối, để rồi lại tiêu tan hy vọng, để rồi lại nuôi hy vọng hiện lên những tòa lâu đài khác…”
Là một nhà văn đảng viên kỳ cựu, nguyên Phó Tổng biên tập báo Văn Nghệ, Võ Văn Trực quả đã thức tỉnh nên mới khái quát hóa được con đường lý tưởng cộng sản đầy tính hình ảnh như vậy. Các cán bộ tuyên huấn quả là rất tinh nhạy trong việc cấm đoán cuốn sách này.
Là cán bộ đảng viên, nhưng bố mẹ của nhà văn cũng không thoát được thân phận nạn nhận của cuộc “đấu tranh thực hiện thuế khả năng” khiến tác giả phải kêu lên: “Trời ơi, lại thuế khả năng. Cả cái làng này, ai còn khả năng để đóng thuế?”
Kêu thì kêu, mặc kệ, chú Văn mắt toét vẫn cứ hùng hồn phát biểu trong cuộc họp chỉ vài chục người mà chú làm như đang diễn thuyết trước cả ngàn người:
“Vấn đề là phải chống đến tận gốc bọn đầu cơ tích trữ, bọn ngồi mát ăn bát vàng. Các đồng chí hội viên ta phải bới cho ra hết những ai đầu cơ tích trữ lấy thóc về mà ăn không thì vấn đề là chết đói cả lũ… Tôi nhắc lại ông Khương 4 tạ, bà Hương 2 tạ, ông cụ Vạn 2 tạ…”
Ông Khương đứng dậy xin:
“Nông hội rút bớt cho tôi, tôi xin mang ơn, nhà tôi cũng kiệt rồi…”
Chú Văn mắt toét đập bàn rất mạnh làm nhiều người giật mình:
“Vấn đề là ông chống lại nông hội à? Ông sợ đóng 4 tạ quá ít à? Thế thì ông đóng 5 tạ. Anh Bá ghi cho tôi, ông Khương 5 tạ…”
Tới đây người ta thấy rõ, Đảng chủ trương “đường lối giai cấp” trong công tác tổ chức cán bộ là rất khôn ngoan và sáng suốt. Phải là loại người khố rách áo ôm, thù ghét bà con trong làng, lòng lang dạ thú, đầu óc tăm tối và thất học như chú Văn mắt toét thì mới có đủ sự gan lì để thực hiện chính sách “thuế khả năng” của Đảng đến cùng mà thôi. Chính vì thế ngay với các đồng chí cùng trong chi bộ, chú Văn mắt toét cũng không tha, chú bắt bà Đoan – đảng viên, mẹ của tác giả đóng 3 tạ.
“Ba tạ! Ba tạ! Vấn đề là bà phải gương mẫu. Vấn đề là gia đình bà là gia đình cán bộ phải gương mẫu… Vấn đề là cho bà khất ba ngày. Bà không đóng thì thế này này – chú nắm chặt hai nắm tay, nắm này đấm vào nắm kia – cứ cầm vồ mà nện từ trên sọ nện xuống cho đến khi mồm ợ ra mới thôi…”
Đồng chí đồng chuột với nhau mà còn tàn bạo thế, thử hỏi với người dân thường, cán bộ của Đảng còn tàn bạo đến đâu?
Dẫu sao, “chú Văn mắt toét” cũng được giáo dục tinh thần hữu ái giai cấp, bởi vậy chú hạ mức đối với bà Đoan – mẹ tác giả, cũng là đảng viên:
“Thôi được, vấn đề là chiếu cố gia đình cán bộ, rút mức thuế cho bà Đoan từ ba tạ xuống hai tạ…”
… Mẹ tôi mếu máo:
“Xin nông hội vào khám nhà tôi ngay tối nay xem còn được mấy hột thóc. Nếu bắt tôi đóng thì tôi xin khất đến mùa…”
Nhưng khất sao được, đêm ấy nhà tác giả như có đám tang: “cha gối đầu lên chiếc gối gỗ đã lì mòn đến chừng nửa thế kỷ rồi. Chiếc gối gỗ của ông đồ nghèo xứ Nghệ đã từng đỡ cái đầu chứa đựng những luân thường đạo lý Khổng Mạnh, bây giờ cái gối cũ kỹ ấy vẫn hằng đêm đỡ cái đầu chứa đựng những giấc mơ Mã Khắc Tư – Liệt Ninh” (tức Các Mác và Lênin).
Giấc mơ cộng sản thay thế cho giấc mơ Khổng Mạnh của ông đồ già phút chốc bỗng trở nên lãng xẹt vì phải chạy cho ra hai tạ thóc để đóng “thuế khả năng” cho Đảng. Hết cách xoay rồi, bố tôi đành phải nghĩ tới chuyện bán cả… đồ thờ trong nhà y như lời đồng chí Văn mắt toét quát tháo:
“Mẹ cầm đèn soi cho cha trèo lên gác khênh cái hòm xuống… chiếc hòm làm bằng gỗ trắc từ đời cụ đời kỵ để lại, màu gỗ đã trơn lỳ, nhẵn thín, bên trong đựng những đồ tế tự quý, như đôi hạc đồng ngậm hoa sen, bát đĩa cổ đời Tống đời Thanh… hằng năm vào dịp tết Nguyên Đán và ngày giỗ ông, cụ, cha tôi mới đem những thứ đồ cổ này ra dùng rồi lại cẩn thận cất vào hòm…”
Ông đồ “cộng sản” phải bán cả đồ tế tự của ông đồ “Khổng Mạnh” để lấy tiền mua thóc đóng thuế cho cách mạng thì hẳn nỗi đau ấy phải ăn cả vào lời ru con của mẹ:
“Khắp nam bắc tây đông
Nghe kêu van chuyên đói
Cơ trời làm tội
Đồ cộ (cổ) mang ra
Bán hết cả ông bà
Tổ tiên chi cũng bán
Tổ tiên rày cũng bán…”
Thật độc ác hơn cả thời phong kiến đế quốc mà Đảng vẫn cứ leo lẻo mang lại cơm no áo ấm cho người dân.
Thuế khả năng của Đảng bất nhân quá, đến nỗi người thừa hành nó là anh thư ký trong các cuộc họp tên Bá đành phải xin… từ chức. Anh nói: “Thật thà thì cháu làm. Điêu toa thì thôi. Đói thì chịu đói chung. Chứ thằng đói lại xẻo thịt thằng đói để ăn là cháu không chịu…”
Cái vụ “thuế khả năng” tuy độc ác, bất nhân và điêu toa vậy, người dân phải đau lòng “bán hết cả ông bà, tổ tiên” như vậy, nhưng vẫn còn chưa kinh hoàng bằng những vụ “đấu tranh chính trị” sau đó.
Đấu tranh chính trị
Thế nào là đấu tranh chính trị tại làng quê?
Vạch mặt những người khai man thuế nông nghiệp, đấu tranh với những người không chịu nộp thuế nông nghiệp, dần dần phát hiện ra “bọn phản động phá hoại sự nghiệp cách mạng” gọi là “đấu tranh chính trị”.
Thực chất “đấu tranh chính trị” là họp dân quê lại để tố cáo, đấu tố lẫn nhau; làm cho nông thôn rối mòng mòng qua đó thiết lập quyền lực ngày càng vững chắc và tuyệt đối của Đảng là quốc sách được sử dụng rộng rãi ở làng quê Việt Nam. Họp, họp và họp ngày càng trở thành nỗi kinh hoàng cho người dân.
“Rét. Đói. Mưa dầm. Người dự họp vẫn đông…. Có hai ngọn đèn dầu hỏa: một ngọn đặt ở bàn chủ tọa, một ngọn đặt giữa hội trường. Ánh sáng rất mờ chỉ đủ hiện lên nhưng cái đầu lố nhố. Xung quanh ngọn đèn, chừng mười khuôn mặt hiện ra có thể nhìn thấy được – vốn những khuôn mặt này đã gầy gò và nhuốm màu lam lũ, ánh sáng đèn ăn vào càng làm cho khuôn mặt hốc hác…”
Chủ tọa cuộc họp là ông cu Đình xóm Tây, nhờ bẻm mép được Đảng cử làm Bí thư Nông Hội xã. Hãy nghe ông ta khai mạc cuộc họp:
“Các chiến sĩ ta đang đổ xương máu ngoài chiến trường để giành độc lập tự do hạnh phúc cho nhân dân thì có một thiểu số phần tử ở hậu phương rất là cá nhân ích kỷ, man khai thuế nông nghiệp, lảng tránh thuế nông nghiệp, chui chui rúc rúc như chuột nhắt…”
Bí thư Nông Hội xã mới nói mấy câu mà bà con đã thấy tai ương đang nổi lên, “người ta im lặng chờ đợi một cái gì rất quan trọng đang nhích đến từng phút từng giây như đoàn người kéo gỗ không có con lăn làm đà, gỗ nhích đi từng li từng tý, mệt mỏi biết chừng nào…”
Cái nặng nề của cuộc họp chẳng khác gì cây gỗ được kéo mà không có con lăn, cứ nhích tới nhích tới qua những lời đe dọa ngày càng hùng hồn của ông Bí thư Nông Hội:
“Đồng bào ta phải đoàn kết, triệu người như một, đấu tranh với những phần tử phi chính trị, phi lập trường giai cấp, phi ái quốc, phi hòa bình để thúc đẩy công cuộc kháng chiến, kiến quốc chóng đến thắng lợi hoàn toàn…”
Và sau cùng sự im lặng nặng nề thực sự bùng nổ khi yêu cầu của Đảng được đề ra cho mỗi người:
“Nếu chúng ta không tố giác, không đấu tranh với những phần tử đó thì các chiến sĩ ta càng đổ nhiều xương máu, hòa bình thế giới sẽ bị đe dọa. Bà con ta đồng tâm nhất trí đào tận gốc trốc tận rễ những phần tử trốn thuế nông nghiệp như đập vỡ ổ rắn…”
Hàng triệu, hàng triệu nông dân một thời đã bị khủng bố tinh thần như vậy trong không biết bao nhiêu cuộc họp mà bài hát mở đầu luôn luôn đập vào quả tim đập thon thót của họ: “Vùng lên, nông dân…”. Bài hát này ngày nay đã tuyệt diệt vì nó gợi lại cả một thời Đảng “phóng tay phát động quần chúng” cho con người xúm vào ăn thịt lẫn nhau. Hóa ra chẳng phải chờ tới thời cải cách ruộng đất, ngay sau khi cướp được chính quyền, Đảng đã phát động đấu tố, tố cáo lẫn nhau trong giai cấp nông dân rồi.
“Nào, mời bà con tố giác. Nếu không tố giác hết những phần tử này, chiến sĩ ta ngoài mặt trận sẽ không có súng đạn, không có cơm ăn áo mặc để đánh giặc, bà con ở hậu phương sẽ đói khát…”
Ghê gớm chưa, đi xa hơn nữa, ông Bí thư Nông Hội xã còn nêu hậu quả có tầm thế giới nếu bà con không chịu tố giác nhau: “…bọn phản động quốc tế sẽ tấn công lại ta và phá hoại sự nghiệp độc lập, tự do, hạnh phúc của ta…”
Hội trường vẫn im như chết. Người nông dân Việt Nam từ ngàn xưa vốn trọng tình làng nghĩa xóm, tối lửa tắt đèn có nhau, hoàn toàn chưa quen với việc bất nhân bất nghĩa là tố cáo lẫn nhau, bởi thế mặc cho ông Bí thư Nông Hội kêu gào, họ vẫn không chịu hé răng. Nhưng chủ trương của Đảng đã đề ra rồi, dù có “đốt cháy cả dẫy Trường Sơn” cũng phải phá tan cho được cái im lìm của đám đông ù lì, bằng mọi thủ đoạn phải phát động cho được quần chúng đứng lên tố giác lẫn nhau.
Và Đảng đã làm điều đó như thế nào?
“Không ai nói thì tôi châm mồi trước – ông Bí thư Nông Hội xã giơ cao nắm tay – Bà Hinh, ông Khang đã nộp thuế chưa? Ban thuế trả lời cho biết. Ai ở trong ban thuế, đứng lên trả lời.”
“Chưa nộp”
Thế là mồi lửa đã được châm lên. Nó sẽ đốt cháy hết những chần chừ do dự, những đạo lý xóm làng để làm tan chảy sự im lặng của người nông dân; lo sợ cho số phận và sự an nguy của bản thân mình, họ sẽ lao vào cấu xé lẫn nhau như bày chó đói đúng theo yêu cầu của Đảng. Bí thư Nông Hội lập tức ra lệnh:
“Bà Hinh, ông Khang lên đây ngay. Chống lại chế độ à? Sao không lên tiếng. Lên đây ngay…”
Chơi ngay đòn phủ đầu là “chống chế độ” thì chẳng riêng hai nạn nhân là bà Hinh, ông Khang mà tất cả mọi người dự họp đều sởn gai ốc. Hai gia đình này tương đối có máu mặt trong làng vì có nhà ngói, sân gạch, sống hòa thuận với dân làng, chỉ có mỗi tội là chậm nộp thuế khả năng tức là chưa chịu để cách mạng cướp tài sản. Vậy mà họ bị đối xử như thân phận tội đồ:
“Bước lên ba bước nữa.. Quay mặt xuống. Đứng chổng đít vào bà con dân làng là vô lễ, vô phép tắc…”
Như vậy đó, không phải người dân “vô phép tắc” mà chính là chính quyền cách mạng chẳng có phép tắc gì hết, không những họ không bảo vệ người dân mà còn tổ chức cho những người nằm ngoài bộ máy công quyền như Bí thư Nông Hội công khai xúc phạm, làm nhục người dân. Không luật pháp, không đạo lý, người dân còn biết trông chờ vào ai bảo vệ quyền sống tối thiểu của họ?
Tuy nắm quyền sinh quyền sát trong tay, nhưng cán bộ Đảng không phải dễ phát động được nông dân đấu tố lẫn nhau, lắm khi còn trở thành trò hề, cười vui trong con mắt người dân.
Trong buổi họp phát động quần chúng, sau khi đã lôi được ông Hinh bà Khang ra làm hai đối tượng để đấu tố rồi, ông Bí thư Nông Hội mới mở đầu cuộc vận động:
“Con sâu làm rầu nồi canh, các người có biết nhục không?”
“Dạ biết nhục…”
“Xin mời bà con phân tích tác hại của việc hai người dây dưa thuế nông nghiệp…”
Thúc mãi, thúc mãi chẳng ai lên tiếng, sau cũng mới có một anh chàng cà lăm xin phát biểu:
“Dây dưa thuế… thuế… nông nghiệp là… là… là… cái đồ liếm… liếm… l…”
Cả hội trường cười ầm. Ông Chủ tọa tức giận:
“Ai cười là thiếu ý thức. Đề nghị anh Cà bình tĩnh nói từng tiếng một, đừng nói lắp…”
“Chống… chống lại… lại… chính… chính sách… thuế… thuế nông nghiệp là cái đồ liếm… liếm l…”
Bà con lại cười ồ. Cuộc họp như thế là tan. Hôm sau, “cán bộ” rút kinh nghiệm, cử người làm bài hát giặm để tuyên truyền chống trốn thuế:
“Có kẻ giàu nứt cót,
Thuế má cứ khai man.
Lẩn trốn đủ trăm đàng
Như là lươn là trạch…”
Bài vè được độc tấu ngay trong cuộc họp, anh chàng cà lăm lại lên tiếng:
“cái… cái lũ lươn trạch ấy cũng là… cũng là… đồ liếm… đồ liếm l…”
Bà con lại lăn ra cười làm “cán bộ” phải đập bàn:
“Cấm cười… cười là phá hoại hội nghị. Cười là tiếp tay cho bọn chống lại chính sách thuế nông nghiệp của Đảng, Chính phủ…”
Ông Hành Giật giơ tay:
“Cấm đàn ông không cười là đúng. Nhưng đối với đàn bà phải cho họ cười mỉm, chứ cấm họ cả cười mỉm thì chỉ có cách bắt họ… đứng mà họp…”
Quen với lối xỏ xiên của ông, mọi người hiểu ý và lại lăn ra cười… Cán bộ tức quá ra lệnh cho dân quân tống cổ ông Hành Giật ra khỏi cuộc họp. Khi cuộc họp trở lại trang nghiêm rồi, “cán bộ” mới lần lượt gọi những người đã được “bồi dưỡng”, mớm lời từ trước để phát biểu.
Một anh tên Toàn nhảy ra chỉ mặt nạn nhân:
“Ngoài mặt trận các chiến sĩ không tiếc máu xương để giành độc lập, tự do, hạnh phúc cho đất nước. Các ông các bà thật là đồ vô ơn bạc nghĩa, ăn cháo đái bát. Các ông bà ăn no mặc ấm không nghĩ tới các chiến sĩ nhịn đói, nhịn khát ăn sương nằm gió… Tư tưởng đó là tư tưởng của bọn phong kiến đế quốc, của quân xâm lược xài lang…”
Một bà tên Nhuyên cũng nhảy lên:
“Bà Hinh ông Khang là đồ phản động, đồ Việt gian… là quân đế quốc, là lũ sài lang… bà Hinh ông Khang…”
Bà nói như hát làm một cô gái bật cười, lập tức cô bị dân quân giải ra ngoài. Không khí căng dần. Một ông tên Vận nhảy ra:
“Man khai thế nông nghiệp là “tặc”. Các chiến sĩ ngoài mặt trận là “đạo”. Tặc chống lại đạo là phi nhân phi nghĩa, phi độc lập phi tự do phi hạnh phúc. Các ông các bà…”
Một người đàn ông từ phía dưới thét to:
“Chúng nó chống Đảng chống Chính phủ, không gọi chúng nó là “ông bà” mà gọi là “thằng” là “con”.
Như mèo vớ được cá rán, chủ tọa bật dậy:
“Ông Tư phải không? Mời ông lên đây…”
Ông Tư xồng xộc chạy lên:
“Tao thấy chúng mày thường gặp nhau họp kín, thậm thụt bàn với nhau. Bàn cái gì? Bàn chống Đảng, chống Chính phủ hả? Tao căm ghét chúng mày…”
Một mụ đàn bà chắc được “cán bộ” gài sẵn đứng lên vu cáo cả “ông Đẹt ông Thọ cũng dự họp…”.
Tội nghiệp ông Thọ, nghèo nhất làng, bố mẹ chết sớm, chuyên đi làm thuê khắp nam bắc đông đoài. Người cùng khổ như ông, cách mạng về lẽ ra phải được đổi đời như cán bộ luôn luôn tuyên truyền. Ai ngờ, ông Thọ cũng được đổi đời nhưng lại đổi ngược không phải sung sướng hơn mà là cực khổ hơn.
“Người đàn bà giọng ồm ộp như ếch kêu:
“Thằng ni ngu si suốt đời, nghe Quốc Dân đảng rót lời rủ rê, đầu óc tăm tối u mê, đi dự họp kín theo nghề chó săn…”
Nói xong bà dồn tất cả sức mạnh vào cánh tay phải tát vào đầu ông Thọ… Gần chục người xô lên:
“Bắt khai đi… những ai họp kín?”
“Thằng nào trùm “
“Ngợi…”
“Thằng nào nữa?”
“Giản…”
Chủ tọa Đình khuôn mặt hiện lên một vẻ khác thường, vừa hăm hở, vừa căm giận: “Hoan nghênh tinh thần đấu tranh của bà con nông dân. Tôi hạ lệnh bắt trói hai tên Ngợi và Giản, nhốt vào ngục…”
Thế là chẳng phải tới giai đoạn cải cách ruộng đất, ngọn lửa “đấu tố” do Đảng phát động mới bật hồng mà ngay từ những ngày đầu của chính quyền cách mạng Đảng đã cho “nổi lửa” trên khắp các làng quê Việt Nam. Bằng đủ mọi thủ đoạn đê tiện nhất, nào dựa hẳn vào đám người tàn ác, bất lương, lưu manh trong cộng đồng, kích động chúng làm nòng cốt, nào vu cáo, dựng chuyện, bày đặt ra những tội lỗi kinh hoàng nhất úp lên đầu lên cổ người dân vô tội… chỉ trong một thời gian rất ngắn, ngọn lửa “đấu tố” đã bùng phát thiêu cháy mọi truyền thống tốt đẹp về “tình làng nghĩa xóm”, về “bán anh em xa mua láng giềng gần”, về “tối lửa tắt đèn có nhau”, về “bầu ơi thương lấy bí cùng” biến con người thành bầy thú man rợ nhảy xổ vào cấu xé, ăn thịt lẫn nhau. Đó thực sự là một tội ác diệt chủng, trời không dung đất không tha, ghi vào lịch sử một món nợ tinh thần muôn đời không xóa nổi.
Thế là từ đó, tối tối xóm làng lao vào một cơn hội họp không ai được phép vắng mặt. “Bà đang cấy dở sào ruộng cũng vội về ăn cơm nguội để đi họp. Ông đang bửa củi cũng dừng tay ăn vội mấy củ khoai để đi họp. Cụ già lên cơn hen cũng choàng tấm chăn đi họp. Vắng họp lại sợ người ta nghi là mình có liên quan gì đến bọn phản động, nên ai cũng lo đi sớm…”. Chỉ sau một hai cuộc họp, bốn người dân hiền lành đã trở thành tội đồ bị chủ tọa kêu gào:
“Bà con ta thẳng tay vạch mặt bọn hại dân hại nước, đào tận gốc trốc tận rễ hang ma động quỷ. Ta không thương xót gì chúng nó. Thương xót là mất lập trường giai cấp. Bằng tất cả mọi cách, ta bắt chúng nó khai hết, không khai thì đánh chết, chết thì chôn…”.
Ép cung là biện pháp hàng đầu trong các cuộc đấu tố, không biết, không làm gì hết cũng cứ phải nhận bừa, chỉ bừa những “tên đồng phạm” để từ đó cách mạng “nhân rộng” thêm vụ việc tưởng tượng, lấy cớ để bắt thêm người. Nhưng lấy gì để ép cung? Nếu không dùng “áp lực của quần chúng” thì những kẻ bị đấu tố dễ gì mà nhận bừa tội lỗi. Một tên cò mồi trong đám đông hét to:
“Chúng nó ngoan cố lắm. Chúng nó cứ đứng lì như đá tảng. Phải treo cổ một thằng để làm gương.”
Bị kích động, hàng chục người nhao nhao:
“Phải treo cổ một thằng…”
“Đừng treo cổ. Treo cổ thì nó chết ngay. Chết ngay thì nó không biết đâu. Cứ treo ngược lên đã…”
Ở đâu sinh ra cái lối tàn ác không cho chết ngay, phải chết từ từ cho đau đớn để lòng dạ được hả hê này? Cái mầm mống ác độc này đã nằm sẵn trong người nông dân Việt Nam để rồi được Đảng phát động cho nó bùng phát thành tội ác hay là do Đảng đã tạo ra ở họ trong cơn cắn xé nhau để tự bảo vệ mạng sống của mỗi người. Không biết nữa, chỉ thấy sự hung bạo của “quần chúng” ngày càng lớn, biến dần những người dự họp thành những con thú say máu người.
“Phải rồi, treo ngược lên…”
“Treo thằng Khang lên! Treo ngược lên…”
Và nạn nhân bị treo ngược thật. “Ba anh dân quân mang đại đao xồng xộc tới, buộc dây thừng vào hai cổ chân ông Khang rồi trèo lên xà nhà kéo người dây…” Đến nước này, nạn nhân không còn biết làm gì hơn, đành phải lậy van:
“Tôi xin khai, tôi xin khai hết…”
Nhưng mà khai cái gì? Ông Khang có làm gì đâu mà khai? Nhưng không khai thì chết, thế là cứ nhắm mắt khai bừa, muốn chết ai thì chết, mặc kệ, miễn cứu được cái mạng của mình.
Một vở kịch vừa đau đớn vừa cười ra nước mắt được Võ Văn Trực dựng lại như một bức ký họa sinh động.
“Họ lại buông dây xuống để ông Khang đứng nói:
“Tôi có tội với dân với nước. Từ nay tôi không làm phản động nữa…”
Dân quân A:
“Mi làm phản động với ai?”
Dân quân B:
“Mi đã chỉ điểm cho giặc mấy lần?”
Dân quân C:
“Mi đã nhận mấy tỉ đô la của Quốc Dân đảng?”
Bị hỏi dồn dập, ông Khang không biết trả lời thế nào. Chủ tọa liền ra lệnh:
“Thằng này ngoan cố, treo ngược lên xà nhà.”
Ba dân quân lại xô vào. Ông Khang chắp hai tay lạy:
“Cho tôi khai. Tôi xin khai hết…”.
Chủ tọa hỏi từng câu:
“Mi làm phản động với ai?”
“Với mấy người đang ngồi đây.”
“Mi đã chỉ điểm cho giặc mấy lần?”
“Hai lần.”
“Mi đã nhận mấy tỉ-đô la của Quốc Dân đảng?”
“Năm tỉ.”
“Mi để ở đâu? Mang ra đây?”
Suốt từ đầu, dưới đòn vọt, ông Khang cứ nhắm mắt mà khai bừa cho vừa lòng bọn quỷ đội lốt người, nhưng đến cái vụ phải “mang 5 tỉ-đô la ra cho chúng coi” thì ông chịu. Trong đầu cả ông Khang lẫn bọn dân quân đều không thể hình dung 5 tỉ đô-la nó như thế nào, cũng chỉ cho rằng nó bằng một bọc tiền có thể giấu trên mái nhà hoặc chôn cất trong vườn thôi chứ mấy? Do không lấy được 5 tỉ đô-la cho chúng coi nên ông Khang lại bị đánh nữa:
“Chủ tọa lại kết án là “thằng này ngoan cố, treo lên xà nhà”. Ba dân quân hung hăng cột dây thừng vào cổ chân ông Khang kéo ngược lên xà nhà. Ông Khang bỗng trở thành một cái xác treo ngược lủng lẳng…”
Một người dân trong làng, đồng bào, đồng chủng tộc chẳng có tội gì, bỗng chốc bị đối xử như một tội đồ trọng tội, lẽ ra những người trong làng, trong xóm phải đứng ra bênh vực. Đằng này không, tâm lý bạo hành của đám đông đã bị kích động khiến tất cả mọi người đều bị biến thành những con thú say máu:
“Tất cả mọi người trong hội trường không ai bảo ai bỗng đứng giãn ra vây thành vòng tròn. Một người giơ chân đạp vào người ông Khang, ông bị văng sang bên kia, ở bên kia lại một người khác giơ chân đạp thẳng vào đầu ông… Cứ như vậy, cái đầu ông Khang như một quả bóng bị đá từ phía này sang phía kia…”
Đọc tới đây, người ta bỗng liên tưởng tới những cuộc hành hình của bọn 3K ở Mỹ ngày trước. Tuy cả hai đều là những đám đông điên cuồng bị kích động, say máu người, nhưng những cuộc đấu tố ở làng quê Việt Nam buồn thay lại xảy ra ngay trong những người cùng màu da vàng, máu đỏ chứ chẳng phải da trắng da đen như trong chủ nghĩa phân biệt chủng tộc.
“Một người trong đám đông nhô đầu ra:
“Nó ngoan cố không chịu khai. Buộc dây như thế này nó không đau. Tôi đề nghị buộc dây vào hai ngón chân cái.”
Hàng chục người nhao nhao hưởng ứng:
“Phải rồi! Buộc vào ngón chân!”
“Buộc vào ngón chân!”
“Buộc vào ngón chân!”
Thế là hình phạt dã man thời trung cổ đã xẩy tới. Một dân quân trèo lên xà nhà mở dây. Hai dân quân đứng dưới đỡ ông Khai nằm xuống đất. Họ dùng sức mạnh thiết sợi dây thật chặt vào hai ngón chân cái rồi kéo ngược ông lên xà nhà. Bất chợt, ông rên ư ử. Ngay tức thì một dân quân đạp trúng vào mặt ông hộc máu mũi: “Lại còn vờ rên…”
Trong những người chứng kiến cuộc “hành hình” có cả con trai nạn nhân. – thằng Biều. Chứng kiến bố mình bị hành hạ, thằng Biều không dám ho he, “nó khóc nấc lên, nhưng cố bịt miệng để không bật ra thành tiếng, cái đầu nó cứ rung trên vai tôi một cách tuyệt vọng”. Và duy nhất chỉ có mỗi ông tác giả còn thông cảm với nó, cho nó gục đầu vào vai mình mà khóc nhưng ông cũng “cảm giác ghê ghê như cật nứa cứa khắp làn da tôi” bởi lẽ ông lo sợ “liệu có ai nhìn thấy thằng Biều gục đầu vào vai tôi không?” Và ông phải vờ như không biết có thằng Biều đứng cạnh mình, chỉ dám “trong bóng tối, tôi giơ cánh tay ra phía sau nắm lấy cánh tay Biều. Bàn tay nó rung rung như chiếc lá sắp rụng. Tôi biết lòng nó đang tê tái, đang xé ruột xé gan vì người cha đang bị hành hình ở ngay trước mặt nó…”
Thế rồi: “Bất thình lình một ông già hùng hổ rẽ đám đông, xộc vào giữa…” làm người đọc nhói lên hy vọng liệu ông già có phải ông Bụt ở trên trời cám cảnh địa ngục ngay dưới trần gian nên bay xuống cứu giúp người hàm oan chăng? Hóa ra không phải, ngược lại, “ông ta đá vào đầu ông Khang một cú như sét đánh: “Tổ cha quân phản động”. Thân thể ông Khang văng xa như đánh đu, dây thừng bị đứt, cái thân nặng nề của ông rơi thịch lên đầu đám đông. Đám người giãn ra. Một người kêu lên: “Nó chết rồi”. Người khác: “Chết thì chôn”. Anh dân quân đến gần: “Nó đang thở. Bọn này ăn sướng. Chưa chết được đâu…”.
“Bọn này ăn sướng, chưa chết được đâu” – “Ăn sướng” tức là trong nhà có bát ăn bát để, vậy ắt hẳn phải “khó chết” hơn “nhân dân cách mạng” – suy nghĩ theo kiểu cốt cán của Đảng thế này trách gì mấy tên dân quân độc ác còn hơn cầm thú.
Chủ tọa:
“Để tên Khang nằm đó. Bà con vạch mặt những tên khác”.
Những tên khác là tên nào?
“Chủ tọa cu Đình đĩnh đạc lên giọng:
“Lệnh của trên là phải giải hai tên đầu sỏ Ngợi và Giản lên huyện ngay đêm nay. Các đồng chí dân quân thực hiện mệnh lệnh của tôi!”
“Lệnh của trên” chẳng biết là lệnh của ai, đầu cua tai nheo nó ra làm sao, người bị bắt có tội gì, chỉ biết nó từ mồm gã Bí thư Nông Hội xã phát ra là lập tức được thi hành:
“Xã đội trưởng Niên “tuân lệnh” dẫn hai dân quân vào trói cánh gà Ngợi và Giản. Họ ngã sấp mặt xuống nền nhà. Anh dân quân đấm một phát như trời giáng vào mặt Ngợi:
“Mi chống lại à?”
Hàng chục người xô tới đánh túi bụi vào Ngợi và Giản. Họ ngã sấp mặt xuống nền nhà. Anh dân quân đá vào hông họ và quát:
“Đứng dậy mà đi! Vào tù nằm cho sướng…”
Chỉ còn lại giữa đấu trường mấy người: bà Hinh, ông Đạt, ông Thọ và ông Khang đang bị treo ngược lơ lửng…”
Lúc này vòng người càng ngày càng xiết hẹp lại quanh bốn con người tội nghiệp “như vòng lửa bao vây bầy thú bị trọng thương. Trong vòng người ấy tưởng có thể bất cứ lúc nào một cánh tay vung ra hoặc một bàn chân giơ lên là có thể thụi vào con thú chết ứ ự ngay tức khắc…”
Cái cảnh dã man đầy thương tâm bầy ra trước mắt Võ Văn Trực khiến tác giả nhớ lại cảnh những ngày hội vây hổ ở làng ngày xưa. Khi phát hiện có hổ về làng bắt trâu bò, người ta gióng trống gióng mõ, tổ chức trai tráng bao vây. Xung quanh con hổ là vòng người chiêng trống, thanh la, não bạt và tiếng hò reo long trời lở đất kéo dài tới bảy ngày, mười ngày, nửa tháng… Con hổ dần bị thác loạn thần kinh, lúc đầu còn hốt hoảng, dần dần bị tê dại, cuối cùng một đám lực điền cầm dáo xông vào đâm chết hổ. Tác giả đau xót viết:
“Con hổ còn loạn thần kinh, huống hồ con người”.
Và ông lớn tiếng đặt câu hỏi:
“Những con người đang ngồi giữa vòng vây đêm nay có còn chút tỉnh táo nào để nghĩ về thân phận họ?”
Họ không những là người cùng làng cùng xóm, cùng chung lưng đấu cật để tạo nên một cộng đồng nhỏ bé và ấm áp, mà còn là người cùng một dòng máu, dòng máu họ Võ, cùng một ông tổ Triệu Cơ, vậy vì sao bỗng nhiên họ biến thành “những kẻ thù của nhân dân”, bị đấu tố, nhục mạ, hành hạ cho đến chết.
Vì sao và kẻ nào đã gây nên nông nỗi đó?
Ta hãy nghe lời giải thích từ chính miệng tên đầu trò – Bí thư Nông Hội xã:
“Lịch sử loài người được hình thành trên cơ sở lịch sử đấu tranh giai cấp. Chúng ta không bao giờ quên là phải đấu tranh giai cấp để tồn tại. Muốn đấu tranh giai cấp thắng lợi thì phải đề cao tinh thần cảnh giác, phải triệt để cảnh giác với mọi phần tử xấu đang lăm le phá hoại cuộc đấu tranh giai cấp của chúng ta…”
Khi viết những dòng chữ đầu tiên về thuyết “đấu tranh giai cấp là động lực phát triển xã hội”, liệu ông Karl Marx có hình dung được “lý thuyết” của ông mai đây sẽ bị những bọn đồ tể say máu người dùng để kích động đám đông xúm vào chém giết nhau ở khắp nơi nơi mà lại nhân danh “giải phóng con người” chăng? Than ôi, ở cái làng quê Việt Nam “tận cùng trái đất” này, người ta chỉ biết các ông Mác-Ăngghen-Lênin là… ba ông Tây, nhưng lời kêu gọi của mấy ông “vùng lên, hỡi ai nô lệ ở thế gian… sục sôi nhiệt huyết trong tim chan chứa… quyết phen này sống chết mà thôi…” thì họ hưởng ứng rất nồng nhiệt bằng cách xua đồng bào của họ chém giết lẫn nhau ghê rợn không thua gì thời Trung Cổ.
Đầu óc tăm tối của những tên lưu manh nhà quê, một tấc đất cắm dùi cũng chẳng có – được những người cộng sản đặt tên là “vô sản nông thôn”, đã tưởng tượng ra đủ mọi thứ tội lỗi kỳ quặc vu oan giáng họa cho những người lương thiện. Tên Bí thư xã biến “ông Khang thành thủ quỹ của bọn phản động nước ngoài giữ những 5 tỷ đô-la, chú xã Thọ nghèo rớt mùng tơi đến làm thuê cho ông Khang cũng trở thành đảng viên trung kiên của Quốc Dân đảng…”. Theo gương hắn, những con thú trong bầy đàn cũng nhao nhao vu cáo kết tội.
Một gã thanh niên kể tội ông Đẹt:
“Khi giặc đổ bộ lên Quỳnh Lưu thì mi đem con dao găm ra mài. Mi mài dao găm làm gì? Mi mài dao găm để ám sát cán bộ, để đội giặc lên mà rước vào nhà phải không?”
Một lão già kể tội bà Hinh:
“Khi cán bộ thuế nông nghiệp vào vận động thì mi đem rổ khoai lang ra mời cán bộ ăn. Hành động của mi có hai âm mưu: một là mua chuộc cán bộ, hai là mi khinh thường cán bộ, chỉ mời cán bộ ăn khoai lang còn cơm gà cá gỏi thì mi để dành nuôi bọn phản động…”
Một mụ đàn bà kể tội chú xã Thọ:
“Một hôm tao thấy mi từ nhà bà Đoan ra, tay cầm một gói cà. Mi có nhớ gói cà bằng cái gì không? Bằng ảnh của Mao chủ tịch. Mi có tư tưởng nhạo báng lãnh tụ cộng sản quốc tế…”
Thú tính trong con người của “giai cấp nông dân” được Đảng phát động đã dâng cao ngoài sức tưởng tượng. Sau đêm đấu tố, trời rét căm căm, ở đầu làng hiện ra một cảnh tượng khủng khiếp:
“Những người bị đấu tố đêm qua bị trói ở gốc cau… Mỗi gốc cau trói một người: ông Đẹt, bà Hinh, ông Khang, chú xã Thọ… Còn hai người nữa là ông Ngợi và ông Giản đã bị bắt lên huyện… Tối hôm qua rét như muốn nứt nẻ da người, nứt nẻ trời đất. Mấy đứa chúng tôi ôm nhau trong ổ rơm vẫn còn rét. Thế mà những người này sau cơn tra tấn ê ẩm cơ thể, lại bị phơi ra ngoài trời. Họ chống chọi bằng cách nào để qua một đêm rét như thế?”
Lẽ ra trước cảnh đồng bào đồng chủng – “người trong một nước” bị đầy đọa như vậy, những người qua đường nếu không rủ lòng thương xót thì cũng che mặt mà đi, không nỡ nhìn cảnh thương tâm đó. Vậy mà không, “Có một đoàn các bà đi chợ, gánh gồng, đội, mang ngổn ngang những thúng mủng, bị cói, lồng gà. Đến hàng cau họ dừng lại, một bà nói: Thì ra quân phản động đây rồi. Tôi cứ tưởng là phản động ở đâu đâu. Té ra quân phản động ở làng Hậu Luật. Bà cho chúng mày biết tay…”
Những tưởng bà sẽ vác đòn gánh đánh đập đám người bị trói, thật chẳng ai ngờ “bà tốc váy đái lên đầu ông Đẹt. Mấy bà khác cũng làm theo, tốc váy đái lên đầu ông Khang, bà Hinh, chú xã Thọ. Nước đái chảy từ tóc xuống ướt đẫm cả quần áo…”
Có lẽ từ thuở vua Hùng dựng nước tới bấy giờ, trong suốt chiều dài lịch sử chưa bao giờ có một cảnh tượng người Việt đối xử với người Việt dã man và đểu cáng đến như vậy. Đem gắn vào cảnh tượng trên lời ca của một bài hát cách mạng nổi tiếng “Tổ quốc ơi có bao giờ đẹp thế này chăng?” – mới thấy hết được sự mỉa mai, dối trá đến trâng tráo, không còn chút lương tri con người.
Đám các bà đi chợ “đái” vào những người chịu tội xong rồi đi thẳng, tưởng như thế đã đủ làm nhục những người bị trói. Ngờ đâu “có một bà khác băm bổ bước tới “vì quân phản động này mà con tao phải ăn sương nằm gió ngoài mặt trận.” Vừa nói bà vừa đái rê từ đầu ông Đẹt qua đầu ông Khang, bà Hinh, chú xã Thọ…”
Cảnh tượng nhục nhã cho cả dân tộc Việt Nam này chưa một họa sĩ nào dám đưa nó lên tranh mà lẽ ra nó phải được khắc trong đá, trong bia để ghi nhớ những món nợ tinh thần này sẽ có ngày những kẻ gây ra nó phải đền tội cho những người dân vô tội được ngậm cười nơi chín suối.
Tính chất phi nhân của cảnh tượng còn sắc nét hơn nữa khi con bé Hoa, con gái ông Khang lậy lục tên du kích đứng gác:
“Thưa chú, chú cho cháu mở trói cho cha cháu, ăn xong chú lại trói như cũ”.
Nhưng tên du kích lòng dạ đã hóa đá, hắn không thèm quay lại, còn xẵng giọng quát tháo:
“Mày định âm mưu cái gì? Mở trói để bỏ chạy à? Đến lúc này mà mày còn âm mưu làm cho tao mất cảnh giác giai cấp à?”
Lại “cảnh giác giai cấp” – câu nói cửa miệng một thời khi Đảng phát động nông dân đi làm cách mạng. Chính vì cái “cảnh giác giai cấp” kỳ quặc đến quái gở này mà không biết bao nhiêu người vô tội bỏ mạng trong các đợt phóng tay phát động quần chúng đứng lên lật đổ toàn bộ giai cấp địa chủ trong các đợt cải cách ruộng đất sau này.
“Sai lầm trong cải cách ruộng đất” không phải như Đảng thừa nhận vào lúc nó đã bộc lộ rõ ràng như ban ngày, mà ngay từ hồi cướp được chính quyền, mới chỉ ban hành chính sách thuế nông nghiệp, các cuộc vận động đấu tố đã diễn ra rồi, và nếu thành tâm rút kinh nghiệm thì Đảng đã có thể sửa sai ngay từ những ngày đó, đâu phải đợi đến thực hiện xong cuộc cải cách ruộng đất với cả trăm ngàn người chết oan, Đảng mới vội vội vàng vàng “sửa sai”.
Quả thực, ngay từ hồi mới cướp được chính quyền, Võ Văn Trực lúc đó còn là một cậu bé, đã chất vấn bà mẹ đảng viên:
“Cách mạng thành công lâu rồi, sao lại nhiều phản động thế?”
“Thế mới là chuyên chính vô sản con ạ. Đấu tranh giai cấp càng ngày càng quyết liệt thì bọn phản động càng hoạt động nhiều…”
“Chú xã Thọ nghèo khổ, hiền lành thế, có đúng là phản động không? Hay người ta nói sai? Sao họp chi bộ, mẹ không bênh chú xã Thọ?”
Nước mắt chảy ra trên gò má nhăn nheo, mẹ nói trong sụt sùi tiếng khóc:
“Con muốn người ta bắt trói luôn cả mẹ à?”
Như vậy là ngay cả đảng viên cũng không dám nói ra sự thực vì đó là cái án tử dành cho bất kỳ ai dù là trong Đảng hay ngoài Đảng. Khước từ sự thực, cấm đoán, truy sát những ý kiến trung thực, những sai lầm trong đấu tố của Đảng phát động tại một làng quê không những không được phát hiện và sửa chữa kịp thời mà còn được “nhân rộng” ra khắp trong huyện trong tỉnh và trong cả mấy tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh, Thanh Hóa. Phong trào đấu tố rầm rộ tới mức học sinh phải nghỉ học cả tháng trời để đi dự các cuộc đấu tố. Tối nay đi nơi này, tối mai đi nơi khác. Nhiều xã tổ chức đấu tố vào ban ngày hoặc trời mưa, trời rét, đường lầy sục… học sinh cũng vẫn phải kéo nhau đi dự.
Vì sao Đảng phải huy động tới cả con nít đi đấu tố và tại đó chúng phải làm những việc gì và chuyện đó đã ảnh hưởng tới trí óc non nớt và tâm hồn trong trắng của chúng như thế nào?
Xưa nay Đảng rất coi trọng công tác giáo dục chính trị tư tưởng cho thiếu niên nhi đồng. Hầu như không một cán bộ đảng viên nào không biết tới lời bác dậy: “Trồng cây phải 10 năm, trồng người phải 100 năm…”. Mục tiêu tối thượng của công tác “trồng người” là làm sao “đúc” cho ra hàng loạt người: “trung thành với Đảng” trong đó quan trọng nhất là “công đoạn” trồng người ở tuổi thơ ấu và tuổi mới lớn. “Yêu nhân dân, yêu tổ quốc” trong 5 điều bác Hồ dậy tuổi nhi đồng thực chất là tập cho con nít nhắm mắt yêu bác Hồ, yêu Đảng. Rời khỏi mẫu giáo lên cấp 1, “sản phẩm con người” được chuyển qua công đoạn “thiếu niên Tiền Phong”, được đeo khăn quàng đỏ, được giáo dục về Đảng, về chủ nghĩa xã hội, hết tuổi “bé con” lớn lên đã có Đoàn Thanh Niên Cứu Quốc (trước đây) và Đoàn Thanh Niên Cộng Sản Hồ Chí Minh (ngày nay) chờ sẵn để đưa vào “xưởng đúc” trở thành “cánh tay phải của Đảng”, lực lượng trù bị “làm đầu tàu cho thanh niên Việt Nam tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội.”
Vốn hết sức coi trọng thực tiễn và kinh nghiệm, Đảng thường cho rằng cách tốt nhất để rèn luyện thanh niên thành những người trung thành đến mù quáng không nằm trong các giảng đường đại học mà chính là ở chiến trường, công trường và đặc biệt là trong những cuộc đấu tranh chính trị do Đảng phát động. Bởi vậy cuộc đấu tranh chống phản động ngay sau ngày mới cướp được chính quyền cần phải huy động cả thanh thiếu nhi tham gia vì đó là một trường đào luyện vô cùng “thực tế” và “bổ ích”.
Trong những ngày nóng bỏng này, tác giả tâm sự:
“Một cảm giác rất lạ tràn ngập cả người tôi suốt đêm này qua đêm khác, suốt ngày này qua ngày khác, vừa là để muốn thỏa mãn đầu óc tò mò vừa là để hiểu thêm tiến trình cách mạng. Nghe mẹ tôi nói: “Cách mạng đã chuyển sang bước ngoặt, chuyên chính vô sản phải tăng cường…”
Vậy nhưng đập vào mắt cậu bé Võ Văn Trực là biết bao cuộc đấu tố, bao người bị oan khuất khiến cậu không thể không thắc mắc: “Chuyên chính vô sản là thế này ư? Phản động nhiều đến thế ư? Kẻ giàu sang làm phản động còn có thể hiểu được, chứ sao người khốn khó cũng làm phản động? Bao nhiêu câu hỏi xoáy vào tâm trí tôi, chồng chất trong tâm trí tôi. Tôi không tự cắt nghĩa được và tôi cứ buông thả mình như con thuyền độc mộc bị cuốn vào giữa dòng nước xoáy. Tôi chỉ biết là tôi không ngồi yên được. Tôi phải đi dự đấu, đi xem đấu…”
Hàng triệu, hàng triệu thanh thiếu nhi Việt Nam đều đã như “con thuyền độc mộc bị cuốn vào dòng nước xoáy” như vậy. Ban đầu là cưỡng ép, dần dà là tự nguyện. “Những sản phẩm con người” qua từng “công đoạn” cứ mất dần, mất dần đầu óc tự chủ, độc lập suy nghĩ, tính bản thiện trong từng mỗi người và dần dà trở thành những “tín đồ” rập theo một khuôn cùng một đầu óc nô lệ, cùng một cách suy nghĩ, cùng một cung cách ứng xử. Sự nghiệp “trồng người” của Đảng ta xem ra đã gặt hái được những “thắng lợi lớn”, nhất là qua các cuộc vận động “chống phản động”, “cải cách ruộng đất”, “hợp tác hóa nông nghiệp” vân vân.
Ta hãy coi Đảng đã thắng lợi như thế nào trong sự nghiệp “trồng người” qua ngòi bút của Võ văn Trực.
“Người đứng vây kín vòng trong vòng ngoài. Ba tội nhân co ro đứng giữa. Tôi không thể chen vào được để nhìn rõ mặt ba người, tôi chỉ nhận ra được một người là chú Trường. Chú Trường cũng “là tên phản động” à? Chú là dân khố rách áo ôm, đi làm thuê tứ thời bát tiết. Nhiều năm sau cách mạng tháng Tám chú làm trung đội trưởng du kích Xóm Chợ”. Chú Trường là người cốt cán cách mạng như thế nhưng tại sao lại bị mang ra đấu tố? Hóa ra bố vợ chú bị nghi là phản động thì chú cũng là phản động chứ sao. Đó là một cách suy diễn cực kỳ đơn giản của “cách mạng” làm nên “một trong những phương pháp đấu tranh là phải trị bọn “liên quan”, phải chặt cho hết cành hết ngọn, cuối cùng sẽ trơ ra cái gốc, đến lúc đó sẽ dễ dàng đào bật gốc”.
Để đấu tố “chú Trường” được tốt, cán bộ đã “làm công tác tư tưởng” cho nông dân Xóm Chợ kỹ càng tức là đã răn đe, xúi bẩy bà con lên tiếng “tố cáo”, “vạch mặt” càng vu oan giáng họa cho chú Trường nhiều thì thành tích càng cao. “Đến như o Ái khoèo tay, khoèo chân, lúc nào cũng giỏ nước rãi ở mép, cả đời không nói năng với ai một câu ra hồn, cũng xông vào gí cái cùi tay lên đầu “bọn phản động”, giơ cái chân khoèo đá vào mông “bọn phản động” một cái rồi chạy ra.”
Người tật nguyền còn hăng hái đấu tố vậy huống hồ người khỏe. “Đặc biệt là tụi thanh niên mới trưởng thành đấu tranh rất hăng hái. Lực lượng này phải là đội ngũ xung kích của cuộc đấu tranh chính trị. Những đứa cùng lứa tuổi cùng bạn bè với tôi tranh nhau vào “vạch mặt”. Đứa nào cũng quát rất to cũng đỏ gay mặt. Có đứa sau một đêm đấu tranh thì cổ khản đặc. Các đồng chí lãnh đạo đánh giá rất cao tinh thần cách mạng của thanh niên và chọn một số để bồi dưỡng kết nạp Đảng…”
Hóa ra những người anh em cộng sản Trung Quốc phải chờ tới những năm thập niên 1970 mới dùng được thanh niên làm Hồng Vệ Binh để đi đầu trong vận động cách mạng, còn các đồng chí Việt Nam ngay từ những năm đầu thập niên 1950 đã sáng tạo ra cái mẹo này rồi với những danh xưng đẹp đẽ như “lực lượng hậu bị của Đảng”, “cánh tay phải của Đảng” vân vân.
Tuy nhiên tính thiện vẫn còn tiềm tàng trong mỗi con người, bởi thế không phải bất kỳ ai cũng vâng lời Đảng xông vào cấu xé đồng loại trong đấu tố. Hòa vào đám đông gào thét, vẫn còn những con người đầy rụt rè, xấu hổ:
“Tôi cảm thấy ngượng vì mình không mạnh dạn như các bạn… Mấy lần tôi đã nhắm sẵn trong óc vài ba câu để xông ra đấu tranh, nhưng mỗi lần nhớm bàn chân lên định chạy vào thì bỗng nhiên như có sức nặng vô hình nào đó tì xuống, thế là thôi lại đứng im. Nếu tôi xông vào thật, tôi cũng phải hò hét, phải giơ tay giơ chân, bao nhiêu cặp mắt chăm chăm nhìn vào mình, xấu hổ lắm…”
Chính cái nỗi “xấu hổ lắm” đó đã hạn chế thắng lợi “trồng người” của Đảng. Khi con người ta không còn xấu hổ nữa, lúc đó sẽ nhắm mắt theo Đảng làm bất cứ chuyện gì Đảng yêu cầu: dựng chuyện, vu cáo, hãm hại và giết người vô tội. Tiếc thay theo dòng thời gian, cái cơ chế vận hành của Đảng đã làm mất dần, mất dần và tiêu diệt cái khả năng “xấu hổ” đó đến mức ngày nay từ quan lớn xuống tới quan bé, không còn một quan nào biết “xấu hổ” để mà treo ấn từ quan hoặc làm việc gì đó có lợi cho dân cho nước nữa.
Tất nhiên kẻ nào cả gan đi ngược lại yêu cầu của Đảng sẽ bị trừng phạt ngay lập tức. “Trước đây, chi bộ đánh giá tôi là một thanh niên có nhiều triển vọng để kết nạp Đảng, qua cuộc đấu tranh này, vai trò của tôi bị lu mờ; những đứa từng bị coi là lổ láo là ba gai, nhưng bây giờ hăng hái lên vạch mặt bọn phản động thì được xếp vào hàng ngũ tích cực.”
Tới đây tác giả làm lộ ra cái “chính sách dùng người” của Đảng. Thông thường, bất kỳ tổ chức nào muốn phát triển lớn mạnh cũng đều thu nhận vào mình con người ưu tú, vừa có phẩm chất đạo đức, vừa có năng lực làm việc. Riêng Đảng lại ngược lại, Đảng thu nhận bất kỳ ai, bất kỳ kẻ đó ra sao, miễn cứ hăng hái đấu tố là trở thành nòng cốt của Đảng. Từ bao nhiêu năm nay, cái chính sách chỉ tuyển chọn “người trung thành”, không cần người có đầu óc, không cần người độc lập suy nghĩ đó đã đẩy biết bao nhân tài và tâm huyết sang hàng ngũ “kẻ địch” khiến cho ngày nay thật khó kiếm được người tử tế, tâm huyết trong bộ máy Nhà nước cũng như trong bộ máy của Đảng.
Và sự thực những người tử tế, tâm huyết ngày càng trở nên hiếm hoi trong cái xã hội bị toàn trị bởi sự sàng lọc theo thước đo của tinh thần “tuân thủ” này. Thời của “chuyện làng ngày ấy” vẫn còn nhiều những đứa bé còn cảm thấy xấu hổ khi giơ chân, giơ tay xông vào đấu tố, còn có chút tình người cả gan tới thăm những người bị đấu tố.
“Hai đứa bước lên thềm, ngập ngừng rồi mạnh dạn mở cửa phòng. Cửa không khóa. Phòng trống rỗng, tất cả bàn ghế đã xếp chồng chất ngoài hè… Kìa trong phòng có ai thế kia? Linh cảm ngay được đó là người bị đấu tố tối hôm qua, chúng tôi bước tới. Thì ra o Đa, vợ chú Trường đang chăm sóc cho chồng. Trời buốt giá, chú nằm trên sàn xi măng trải chiếu, đắp tấm chăn chiên vá nhiều mảnh. O xụt xịt lau nước mắt: “Sao các anh dám vào đây? Cha nó chết mất… Tôi lụi cụi làm ăn suốt ngày, có biết cha nó đi phản động phản điệc gì đâu? Cha nó cũng hiền lành sao đến cơ sự này? Cha nó mà chết thì tôi nuôi nổi làm sao mấy đứa nhỏ?”
Chú Trường trùm kín chăn. Tôi choáng váng khi nhìn thấy chú: tóc cháy lam nham, da mặt bị bỏng rộp từng mảng ri rỉ nước…”
Cái cảnh vợ còn dám săn sóc chồng, trẻ con tới thăm người bị đấu tố chỉ có ở thời kỳ đầu Đảng thực hiện đường lối “phóng tay phát động quần chúng”, sang tới thời kỳ cải cách ruộng đất thì đã nhan nhản những cảnh con tố cha, vợ tố chồng… sống giữa bầy quỷ sứ ai ai cũng chỉ nhăm nhăm giữ cho được cái mạng sống của mình là việc chính ở đời ngoài ra nghĩa cha con, tình vợ chồng… tất cả đều chỉ còn là những kỷ niệm buồn tủi của quá khứ bị kết án, bị bôi xấu và bị nguyền rủa.
Mức độ độc ác và phi nhân của những cuộc đấu tố qua cuốn “chuyện làng ngày ấy” của Võ Văn Trực làm người đọc phải kinh hoàng. Quả thực nếu không có vai trò chứng nhân của các nhà văn, nhà báo, nhà viết sử tâm huyết và trung thực thì hẳn tội ác của những tên mặt người dạ thú đã gây nên bao cái chết tức tưởi cho những con người lương thiện trong đấu tố hẳn sẽ bị chôn vùi trong quên lãng dưới tầng tầng lớp lớp những bụi thời gian.
Ta hãy coi Võ Văn Trực “khắc bia” ghi lại nỗi kinh hoàng của một cuộc đấu tố.
“Tụi làm phản động ở Nho Lâm sao mà đông thế? Đông hơn nhiều so với các xã khác. Một lũ ngồi lúc nhúc ở giữa vòng vây người nung nấu căm thù, nóng rực như vòng lửa. Người xem đông quá là đông. Sóng người xô dồn lên, rồi dạt ra phía sau, rồi lại cuộn xoáy, ôm nhau, níu áo nhau, đạp lên nhau. Không thể nào nghe được dân quân đang tra khảo tội nhân điều gì? Chỉ nghe những tiếng quát lớn: “Mi có khai không? Mi có khai không?” trộn lẫn với tiếng đấm đá huỳnh huỵch…”
Kìa… Lại cái món tra tấn cổ điển khởi đầu từ làng Hậu Luật: trói ngược người có tội. Những kẻ hung hăng đứng xung quanh tha hồ giơ chân đá vào đầu, vào người suốt từ bên này qua bên kia. Vì nhiều người đá, cái dây bị xoắn lại và cái xác người treo ngược cũng bị quay tít mù như một thứ đồ chơi kỳ quặc…”
“Cán bộ phát động quần chúng” đã là những tên độc ác bất nhân thời trung cổ, “quần chúng được giác ngộ” cũng trở nên những con thú say máu người. Một tên như vậy đã nổi điên:
“Tổ cha cái đồ phản động cái đồ Việt gian” – có tiếng người hét to như muốn vỡ ngực vỡ họng. Chính cái người hét to ấy đang ôm một gốc cây phi lao sần sùi mấu lao từ trên bức tường xuống như con mãnh thú vồ mồi, giơ cao gốc cây phang một cú vào ngực người bị treo ngược. Người bị treo rú lên một tiếng thất thanh và hai tay run rẩy như con nhái trước lúc chết. Thịch! Sợi dây đứt. Người bị treo ngược rơi xuống, sọ đập lên nền đất lổn nhổn cứt sắt…”
Thật đúng là một cuộc hành hình man rợ không thua gì thời Trung Cổ. Tụi 3K hành hình người da đen chắc cũng phải ngả mũ kính chào mấy ông cán bộ phát động đấu tố.
Chứng kiến tội ác dã man của bọn quỷ sứ, đám đông con người đã phản ứng ra sao?
“Cả rừng người đột nhiên lặng thinh như một trận chết thình lình ập xuống, đè nặng, đay nghiến làm cho họ không chịu đựng nổi và thốt ra tiếng xuýt xoa kinh hãi…”
Không một chút phản kháng bọn sát nhân, không một mảy may thương xót, cảm thương người xấu số, cả cái đám đông này bị sự sợ hãi và tinh thần khủng bố đè xuống bẹp gí. Đã vậy, “quần chúng cách mạng” còn đẩy tội ác vượt tới mức man rợ hơn thế nữa:
“Người bị treo ngược bây giờ thành cái xác nằm sóng soài trên đất và chắc chắn không còn thở được nữa. Vẫn chưa hết sự đầy đọa! Lại có một người khác hùng hùng hổ hổ lách đám đông, xô ngã đám đông dạt ra hai bên, không nói không rằng, lù lù như cái trục lăn, tiến đến cạnh cái xác và ôm cái xác ném qua bức tường rơi cách xa tới cả chục mét. Toàn thể đấu trường im lặng ngột ngạt như địa ngục, im lặng đến nỗi người ta nghe được cái xác rơi bên kia bức tường…”
Trong suốt đợt phát động quần chúng đấu tranh chống phản động tại các làng quê Việt Nam ngay sau cách mạng tháng Tám đã có bao nhiêu người chết oan, chết thảm thương như vậy? Trong suốt cả những năm dài phát động “cải cách ruộng đất” long trời lở đất, đã bao nhiêu người ngã xuống trong tức tưởi và oan khiên giữa cả rừng người say máu như một bầy ác thú? Lương tri dân tộc đã biến đâu mất để mặc ma quỷ hiện hình, nhảy múa, hoành hành trên những làng quê xơ xác trong suốt những năm tháng dài? Mai sau, dầu có bao giờ, lịch sử sẽ phải làm một cuộc tính sổ nợ nếu muốn trở mình để bước vào một vận hội mới của dân tộc.
Tất nhiên trong những kẻ tới chứng kiến cuộc đấu tố cũng còn những người còn đôi chút tính người, còn biết suy nghĩ và day dứt trước tội ác.
“Hồn vía tôi bị thần chết cướp mất rồi. Tôi không về nhà. Tôi vào ngủ ở nhà Bá. Thâu đêm suốt sáng không một giây chợp mắt. Nằm bên cạnh nhau, tôi cảm thấy người Bá lạnh như một khối băng. Thỉnh thoảng tôi rùng mình… Người bị treo ngược… Cái gốc phi lao phang vào chính giữa ngực… Hai tay người bị treo ngược run lẩy bẩy như chân con nhái run trước lúc chết…”
Tuy nhiên trong đám đông hàng vạn hàng triệu người được Đảng phát động “đứng lên đi làm cách mạng”, liệu có mấy người nghĩ ngợi được như tác giả:
“Con người là động vật cao cấp, khi loài động vật cao cấp đó hiện nguyên hình là giống động vật trần trụi thì bản chất độc ác bị kích dậy đến tột cùng man rợ. Lịch trình tiến hóa của nhân loại có phải là lịch trình đấu tranh giai cấp hay lịch trình đấu tranh giữa cái lương thiện và cái độc ác ngay trong mỗi con người?”
Đấu tranh giai cấp không phải là “lịch trình tiến hóa” của nhân loại (chắc tác giả muốn nói động lực của tiến hóa), ở Việt Nam sau ngày cộng sản cướp được chính quyền, đấu tranh giai cấp thực chất là những cuộc sát phạt, đấu đá, thanh toán bằng đủ mọi thủ đoạn độc ác và nhơ bẩn nhất để giành giật, củng cố và giữ gìn quyền lực đã “cướp” được chứ không phải thông qua bầu cử dân chủ mà có được.
Thế còn lịch trình đấu tranh giữa cái “lương thiện và cái độc ác ngay trong từng mỗi con người”? Cuộc đấu tranh đó thực sự đã diễn ra từ khi hình thành xã hội con người; đứng về phía cái thiện trong một xã hội lành mạnh bao giờ cũng có luật pháp, lương tâm, sự liêm sỉ và Thượng Đế. Tiếc thay, trong xã hội Việt Nam “quá độ lên chủ nghĩa xã hội” – cả bốn cái đó, cả luật pháp, lương tâm, liêm sỉ và Thượng Đế đều đã bị tiêu diệt trong từng mỗi người. Bởi vậy người ta chấp nhận dối trá, chấp nhận bất công, chấp nhận kìm kẹp một cách… hồn nhiên và tự nguyện. Làm gì còn “sự đấu tranh giữa cái thiện và cái ác”, cái ác đã tràn lan khắp nơi nơi trong xã hội nhưng dường như người ta đã quen sống với nó, chấp nhận nó kiểu như ở đồng bằng sông Cửu Long người ta phải chấp nhận “chung sống” với lũ vậy. Cuộc sống trong xã hội toàn trị là thế! Sao khác được?
Khi cuộc đấu tố đã được phát động, nó như một đám cháy gặp gió đùng đùng lan rộng. “Gió” đây là sự khuyến khích, tưởng thưởng của Đảng cho những kẻ lao vào “đấu tố” bất chấp vu cáo, dựng chuyện, có nói không, không nói có và trừng phạt tàn bạo những kẻ bị đấu tố đã đành mà cả những người dám đứng ngoài cuộc chơi, cả gia đình ruột thịt của cán bộ đảng viên – những người đã làm nên những cuộc đấu tố.
Nhà văn Võ Văn Trực kể:
“Mẹ ngồi thừ bên rổ rau cải. Mẹ nhìn tôi, mặt ỉu xìu:
“Cậu Quế của con chết rồi… Người ta đấu ác quá. Nửa đêm cậu vào chuồng xí thắt cổ chết…”
“Cậu Quế” chính là em ruột mẹ của Võ Văn Trực, bà vốn là cán bộ đảng viên từ hồi Đảng còn hoạt động bí mật, vậy vì sao em bà lại bị “đấu tố”:
“Mấy năm vừa rồi, người ta phá sạch đền chùa, cậu Quế lại lập bàn thờ Phật trong nhà. Người ta nghi là cậu chống lại chính quyền nên mới lập bàn thờ Phật. Bị dân quân bắt ra đình cho dân làng Quảng Trạch đấu. Tra khảo cậu, cậu không khai – vì có biết gì đâu mà khai. Càng không khai cậu càng nếm đủ mọi món đòn tra tấn: treo ngược lên xà nhà, trói vào gốc cây, hắt nước bẩn vào mặt. Nhục nhất là cậu bị mấy mụ đàn bà tốc váy trùm lên đầu. Hàng tháng trời cậu bị giam, không được về nhà. Đêm hôm ấy cậu xin phép người dân quân gác cho đi ỉa. Người dân quân ngủ quên, sáng dậy, không thấy cậu đâu cả, chợt mở chuồng xí thì thân hình cậu đã cứng đơ treo lủng lẳng bởi sợi dây thừng…”
Hơn ai hết, bà cán bộ đảng viên chị cậu Quế phải thừa biết cậu là vô tội vì cậu rất yêu Đảng, Chính phủ mà. “Cách đây mấy năm, huyện cho tôi sang Trung Quốc học ngân hàng. Vừa nghe tin, cậu liền đem quà xuống: bộ quần áo mới, cái cặp da, đôi giày vải. Cậu xoa đầu tôi: “Cháu sang bên đó nghe lời bác Mao học cho giỏi, sau về mà kiến thiết nước nhà…”
Đó – cậu Quế giác ngộ cách mạng cao thế làm sao mà thành phản động? Người chị đảng viên, gia đình, họ hàng, làng xóm… tất cả đều biết cậu Quế vô tội nhưng đều im lặng, không một ai “bênh” cậu một câu, hoặc van xin cho cậu được tha tội. Tại sao như thế? Người Việt Nam xưa nay có bao giờ như vậy không?
Tất cả chỉ vì hai chữ “liên quan” – một thuật ngữ do Đảng tung ra. Bất kỳ ai “liên quan” với địch thì cũng coi như là… địch, cũng bị xử trí như địch. Đường lối cơ bản của Đảng là như vậy. Đảng rất sợ sự chống đối nhất khi nó được tổ chức lại, bởi vậy tốt nhất bóp chết nó từ trong trứng. Giết lầm còn hơn bỏ sót là chủ trương của những người cộng sản. Chính vì sợ “liên quan” nên tất cả những người xung quanh cậu Quế dù mười mươi biết cậu vô tội nhưng chẳng ai dám bênh cậu lấy một câu. Một khi đã có “phát biểu có lợi cho kẻ đang bị đấu tố” lập tức bất kỳ ai cũng bị chụp cho cái mũ “liên quan” và hiển nhiên bị đẩy sang hàng ngũ kẻ thù. Chính vì vậy “cậu Quế” đã âm thầm chết oan.
“Cậu Quế chết rồi! Từ nay tôi về quê ngoại không được gặp cậu nữa. Vả lại, với không khí nghi kỵ này chẳng biết đến bao giờ tôi mới được đặt chân vào gian nhà ông bà ngoại tôi, cậu tôi, mợ tôi. Cậu chết đi, để lại bốn em nhỏ. Mợ Quế chưa đầy ba mươi tuổi, liệu mợ có chịu đựng nổi tình cảnh gia đình thê thảm cho đến hết đời?”
Cậu Quế chết đi để lại sự khó xử nhất cho người chị đảng viên cộng sản. Liệu bà có dám về nhà để đưa đám đứa em ruột xấu số của mình chăng? Hay nỗi e sợ Đảng đã ngăn bà không dám nhìn mặt đứa em lần cuối cùng?
“Mẹ ngồi thừ người hàng tiếng đồng hồ. Cả nhà cũng ngồi im lặng như bụt. Trưa rồi, chẳng ai buồn nấu cơm ăn. Mẹ uể oải đứng dậy, thở dài:
“Mẹ phải về lo tang cho cậu…”
Chị tôi hỏi:
“Chúng con cũng phải đi chứ?”
Mẹ lắc đầu:
“Thôi… một mình mẹ…”
Người chị thứ hai vô tình nói một câu:
“Liệu mẹ về lo tang cho cậu thì Đảng có kỷ luật mẹ không?”
Mẹ òa khóc:
“Chẳng thà mẹ chịu mất Đảng… Mẹ là con cả của ông bà mà không về thì cả họ hàng làng nước người ta chửi cho thối óc…”
Sau cùng thì cái tia sáng lương tri còn sót lại trong lòng “người mẹ đảng viên” – bà thà mất Đảng chứ không cam chịu mang tiếng là “bất nghĩa” với gia đình, họ hàng, bà thà nhận chịu mọi hậu quả khi đi ngược lại “phép Đảng” chứ không thể nào chịu nổi “làng nước người ta chửi cho thối óc…”.
Tất nhiên sự phản kháng của “bà mẹ đảng viên” chỉ trong âm thầm, nỗi sợ cố hữu trong bà vẫn làm “trong đầu mẹ chợt lóe ra một tia sáng lý trí. Mẹ dặn lại: “Mẹ chỉ nói trong nhà biết thôi, đừng lộ cho người ngoài biết… Rồi mẹ cắp nón lủi thủi về ngoại…”
Như vậy cả nhà chỉ có một mình bà mẹ về dự tang “cậu Quế”, còn ngay chính tác giả Võ Văn Trực cũng chỉ thầm đặt câu hỏi:
“Ai đã tạo ra cái hố ngăn cách này giữa tôi và cậu tôi?”
Tác giả chỉ dám đặt câu hỏi thôi, không dám tìm câu trả lời cho dù nó rất hiển nhiên và rõ ràng: “chính là Đảng đã tạo ra cái hố ngăn cách đó…”
Và rồi nỗi đau cũng không dám thốt thành lời, đành cứ đào sâu chôn chặt trong lòng:
“Nước mắt tôi cứ dào ra hết đợt này đến đợt khác. Nước mắt cháu vẫn còn mặn lắm cậu Quế ơi. Dẫu có sức mạnh hung hãn nào dọa nạt, nước mắt cháu vẫn không bao giờ nhạt như nước mưa…”
Nước mắt dù mặn tới đâu thì cũng vẫn cứ chỉ là… nước mắt. Nó thật khó mà biến thành bom thành đạn để đánh sập bạo quyền, chỉ mặt đặt tên những kẻ đã gây nên những bi kịch đau đớn cho cả dân tộc này. Và vì những nạn nhân chỉ có nước mắt và nước mắt mà không có qua một chút phản kháng nào nên những cuộc đấu tố giống như đám cháy, cứ lan mãi, lan mãi tới mức đốt cháy cả những kẻ đã châm lửa – đó là bi kịch của những cán bộ đảng viên cộng sản khi chính họ bị lôi ra trước “tòa án nhân dân” để những cốt cán do bản thân họ gây dựng nên quay trở lại đấu tố họ.
Đó là tình trạng “phù thủy không còn kiểm soát được âm binh” khiến công cuộc cải cách ruộng đất “long trời lở đất” của Đảng giáng những đòn sấm sét vào ngay gan ruột, cốt nhục của Đảng tạo nên một vết nhơ trong lịch sử không cách nào xóa nổi…
Bác Chắt Kế cũng bị đấu
Bác Chắt Kế chính là cán bộ cộng sản gộc ở cái làng này. Chính bác đã ra lệnh tiến hành biết bao cuộc vận động: nào tập trung bàn thờ ông bà tổ tiên, tập trung thần phật, phá chùa, chặt cây đa… chính bác đã tổ chức những cuộc vận động quần chúng đấu tố “bè lũ phản động và tay sai” ở trong xã.
“Qua nhiều cuộc đấu tranh, nhiều lần học tập lý luận về đấu tranh giai cấp, về cảnh giác cách mạng, về “ba không” (không nghe, không biết, không nói), đã rèn cho con người một ý thức luôn luôn cảnh giác cao độ, cảnh giác đến cực đoan đẩy đến sự đa nghi…”
Trong những năm tháng của các cuộc vận động cách mạng, một không khí nghi kỵ tràn lan khắp nơi nơi. Trong chi bộ Đảng, trong tổ chức Nông Hội do Đảng lập ra, trong gia đình, trong họ hàng… không còn ai tin ai, bất kỳ ai dù là cán bộ đảng viên, dù là cốt cán hay nông dân trong làng, ai ai cũng đều có thể là… địch được hết.
“Một bà ăn mày chừng bảy mươi tuổi, què chân phải đi nạng, gầy còm, gần như tuần lễ ngày nào cũng vào làng tôi ăn xin.” Do đã được bác Chắt Kế giảng giải về bài học “nâng cao tinh thần cảnh giác”, tôi đặt vấn đề nghi ngờ. Bà này có phải là phản động không? Tại sao bà ta không đi xin làng khác mà cứ đi xin làng mình? Tại sao bà ta cứ im lặng như một cái bóng đi trên đường làng, chẳng nói năng một câu…”
Tinh thần “cảnh giác cao độ” mà bác Chắt kế nhồi nhét vào đầu trẻ con trong làng đã khiến chúng ngờ vực cả bà ăn mày là… kẻ địch.
“Chúng tôi dắt bà ăn mày vào nhà chú Hoe Lai hiện đang làm công an xóm. Chú đi vắng, cả nhà cũng đi vắng. Chúng tôi trói chân bà ăn mày vào gốc cây xoan trước ngõ. Đến tận tối, vợ chồng chú Hoe Lai mới đi làm về. Bà ăn mày bị đói lả, nằm thở… Mụ Hoe Lai đến tận nhà tôi chửi như tát nước vào mặt: “Mi muốn gieo tai gieo họa vào nhà tao à?” Lập tức tôi tìm bác Chắt Kế trình bày đầu đuôi. Bác Chắt Kế không những giảng giải cho mụ Hoe Lai mà còn tuyên dương ‘ý thức cảnh giác’ của bọn tôi như thế là rất tốt…”
Than ôi, bác Chắt Kế cứ đứng ra giảng giải cho dân làng là phải thường xuyên đề cao cảnh giác, thì rồi có lúc người ta “cảnh giác” cả với bác. Lúc đó thì rõ thật là gậy ông lại đập lưng ông.
“Và rồi ‘bánh xe luân hồi’ đã quay vòng đến lượt bác Chắt Kế. Nó đến một cách bình thường vừa như vô lý vừa như một lẽ đương nhiên. Bác phải hoàn toàn nhận lấy cái điều vừa như vô lý vừa như đương nhiên không thể nào chống đỡ được. Bác dậy cho mọi người phải tuyệt đối đề cao cảnh giác, thì bây giờ đến lượt bác bị người ta cảnh giác, không có gì lạ…”
Cái cớ người ta vin vào để bác Chắt Kế bị liệt vào danh sách “phải cảnh giác” thật là ngớ ngẩn: “mở lò rèn”. Chỉ có điều hơi khác thường là bác làm lò rèn không phải mang ra chợ bán mà để khuây khỏa tâm trí, làm những vật dụng thường ngày bán giá rẻ cho bà con: dao, mác, liềm, lưỡi hái và sửa chữa súng bắn chim. Có mấy người thích săn bắn thường quây quần ở nhà bác, nhỡ không may súng hỏng được bác chữa ngay, bác còn sản xuất ra cả đạn ria. Khi bắn được con cò, con vạc thì họ thường sum họp ăn uống và trò chuyện vui vẻ.
Chỉ ngần đó thôi cũng đủ đưa bác vào tầm ngắm khi con quái vật “đấu tố” đã xơi hết các con mồi là nông dân thường, bây giờ nó nhắm tới cán bộ đảng viên. Trong các cuộc họp Nông Hội đã xuất hiện nhiều câu hỏi ba lăng nhăng:
“Rèn dao mác để làm gì?”
“Sản xuất súng đạn để làm gì?”
“Cung cấp cho ai?”
“Tiền thu được bỏ vào quỹ Quốc Dân đảng?”
“Tại sao từ xưa đến nay không mở lò rèn, nay lại mở? Ông ta học nghề này để làm gì?”
“Đích thị là lò sản xuất vũ khí cho bọn phản động…”
Những câu hỏi ngớ ngẩn như thế bao giờ cũng châm mồi cho một cuộc đấu tố. Khôi hài nhất là những người đã từng nhờ bác Chắt Kế rèn dao mác, lưỡi hái, lưỡi liềm, lại đứng lên đặt những câu hỏi “nghi vấn” và “vạch mặt” bác để “dứt khoát trong quan hệ”, tránh khỏi bị liên quan, đứng hẳn sang một bên rạch ròi đối nghịch với bác. Quá nửa dân làng thừa biết “ông ta học nghề rèn” không phải để làm “phản động”, nhưng ai cũng lờ đi, cố tình lờ đi để buộc tội cho được “ông Chắt Kế sản xuất vũ khí cho bọn phản động…”.
Tại sao vậy nhỉ?
Có thể những hành động của ông Chắt Kế lúc còn đang làm cán bộ lãnh đạo như tập trung bàn thờ tổ tiên, tập trung thần Phật, cấm đoán phong tục cũ, o ép dân làng đóng thuế nông nghiệp… tạo thành mối căm thù âm ỉ trong lòng mọi người, nay họ muốn ông phải “trả giá”, gậy ông lại đập lưng ông cho bõ ghét. Hơn nữa trong không khí đấu tố căng thẳng, ai nói ngược lại lập tức bị quy là “liên quan” bởi vậy chẳng ai dại gì thanh minh cho bác Chắt Kế lấy nửa lời. Thế là bác giống như con cá đã bị quăng lên thớt.
Ta hãy xem tác giả tường thuật thật giản dị và chính xác:
“Chẳng cần đọc lệnh của một cơ quan pháp luật nào, mấy dân quân làng vào tóm cổ bác, điệu bác đến “nhà giam” – gọi là nhà giam chứ thật ra đó là ngôi nhà rách nát của một cán bộ xóm. Họ không dùng cực hình tra tấn bác như những “tội phạm” khác, nhưng bác cũng bị hành hạ đến cơ khổ. Đêm ngủ không được nằm giường mà trải manh chiếu nằm co quắp trên nền đất, không có màn. Thỉnh thoảng bác lại bị anh dân quân đánh cho một tát rơi vỡ kính cận. Khi mỏi lưng bác ngồi dựa vào cột liền bị dân quân quát: “Ngồi thẳng lên!” Lúc bác đau bụng xin viên thuốc cũng bị dân quân mắng: “Đau thì phải chịu. Thoát chết là may…”. Một lần người nhà mang cơm đến, đặt lên chiếc chõng tre, bác định cầm đũa ăn, bị cô dân quân cản lại: “Không được để lên chõng! Đặt cơm xuống đất mà ăn…”. Bác ngoan ngoãn làm theo mệnh lệnh quỷ quái của cô ta, bưng bát cơm toan và vào miệng, cô ta lại trừng mắt: “Chưa được…”. Cô ta thản nhiên bước qua bát cơm và bát thức ăn rồi quay lại: Cho phép ăn…”
Cuộc đời quả là ngang trái. Người khai sinh, đào tạo nên bọn dân quân mất dậy, độc ác đến không còn tính người đó lại chính là những cán bộ cộng sản như bác Chắt Kế chứ chẳng phải ai khác. Như vậy thì còn trách móc gì ai!
Tuy nhiên vẫn còn một khác biệt nho nhỏ:
“Hồi trước bị thực dân Pháp tra tấn đến gãy xương sườn, bác vẫn bướng bỉnh không khai, anh dũng đứng thẳng, sao bây giờ bác lại nhũn nhặn với con du kích nhãi nhép thế?”
Tác giả không nói rõ tâm tư của bác Chắt Kế vì sao lại thế, ông chỉ cho biết qua loa: “Có lẽ bác nghĩ: trước kia là địch, nay là ta, địch thì sai mà ta thì đúng?”. Quả thực cái tính chất “tuân phục” cấp trên, “tuân phục” chủ trương chính sách của Đảng đã trở thành bản tính thâm căn cố đế khiến cho bác Chắt Kế dù có bị Đảng đưa vào tù, bị hành hạ, lăng nhục đi chăng nữa thì niềm tin vào Đảng của bác vẫn “sáng ngời”, chân lý của Đảng vẫn chói sáng.
Thực ra bác Chắt Kế là nhân vật có thực.
“Ngày xưa bàn chân bác đã từng in dấu khắp ba miền Trung Nam Bắc, đã từng sang Trung Quốc, Lào, Miên, Xiêm La. Bác cũng từng dùng lý lẽ đối chất với những tên mật thám sừng sỏ của Pháp, đã từng đứng ra lập “Hưng nghiệp hội xã” trước mũi giặc để gây quỹ cho Đảng. Trong những ngày các lực lượng cách mạng chưa được tổ chức thống nhất thành Đảng Cộng Sản Đông Dương, bác là người chủ trương ra tờ báo “Vầng Hồng” để tập hợp lực lượng, mà sau này người ta gọi là Đảng Vầng Hồng. Hóa ra bác Chắt Kế cũng là nhà hoạt động cách mạng lỗi lạc, đâu có kém gì Trần Phú, Lê Hồng Phong, Nguyễn Ái Quốc? Từ Xiêm La trở về nước, chưa kịp bắt liên lạc với Trung ương Đảng, nhóm Vầng Hồng vẫn hoạt động riêng biệt. Khi phong trào Xô viết Nghệ Tĩnh nổ ra, bác Chắt Kế và nhóm Vầng Hồng chủ trương chưa bạo động. Chính vì thế làng tôi và nhiều làng khác trong huyện, dân chúng không kéo cờ biểu tình. Tỉnh ủy tức lắm ra quyết nghị xử tử Võ Nguyên Hiến tức bác Chắt Kế và cử đồng chí Nguyễn Trọng Bình thi hành bản án này. Bác Chắt Kế phải trốn vào rừng. Sau này, trung ương Đảng “xác minh”, nhóm Vầng Hồng là cộng sản chân chính, bác Chắt Kế được phục hồi Đảng và được cử đi dự đại hội Đảng lần thứ nhất ở Ma Cau năm 1935. “Trong đại hội có hai đồng chí Phùng Chí Kiên và Võ Nguyên Hiến (tức bác Chắt Kế), đại biểu Trung kỳ, được cử vào Ban chấp hành Trung ương gồm tất cả 9 người…”.
Bác Chắt Kế có quyền chức lớn vậy mà vẫn chịu thua khí thế đấu tranh của cái đám cốt cán dốt nát, ngu muội và tàn bạo, chịu để cho chúng bắt giam, tra khảo và làm nhục chứng tỏ cách mạng chẳng khác gì một cơn bão, khi nổ ra nó sẵn sàng quét đi đủ mọi thứ trên đường đi của nó.
Mấy năm sau, năm 1951-53, khi công cuộc cải cách ruộng đất “long trời lở đất” đã bước vào đợt 5, nông dân được phát động ở dưới các địa phương đòi cả ông Trường Chinh lẫn ông Võ Nguyên Giáp phải trở về làng để bà con… tố cáo, bộ phận lãnh đạo tối cao của Đảng mới phát hiện và thừa nhận sai lầm và tiến hành sửa sai.
Ở đây ta thấy rõ tình trạng “nói một đằng nhưng làm một nẻo” của các nhà lãnh đạo cộng sản. Lý thuyết họ dậy cho các cán bộ đảng viên thuộc lầu lầu là phải phân biệt hai thứ mâu thuẫn trong xã hội. Một là mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân gọi là “mâu thuẫn thống nhất” – tức là tuy có mâu thuẫn nhưng cùng tồn tại, cùng đi lên. Hai là mâu thuẫn giữa “địch” và “ta” gọi là “mâu thuẫn đối kháng” – có mày không tao hoặc có tao không mày. Những nông dân chậm nộp thuế, mở lò rèn đều thuộc về “mâu thuẫn nội bộ”, “mâu thuẫn thống nhất” nhưng lại bị đẩy tới thành mâu thuẫn đối kháng địch ta và thả sức bị hành hạ, làm nhục không thua gì thời Trung Cổ y như những tên “địch” nguy hiểm.
Tại sao để xảy tới sai lầm chết người đó trong một thời gian rất dài và tại sao Đảng không phát hiện kịp thời để sửa chữa?
Nguyên nhân cốt lõi là trong đường lối phát triển, Đảng thu nạp vào hàng ngũ toàn những kẻ chỉ biết tuân phục, nhắm mắt vâng theo, Đảng bảo A là A, bảo B là B, đường lối chính sách của Đảng luôn luôn sáng suốt và tuyệt đối đúng. Mặt khác từ khi mới ra đời cho tới ông lão 70, tai Đảng luôn luôn quen nghe những lời tâng bốc xu nịnh, kẻ nào dám có ý kiến khác là lập tức bị quy thành phản động. Sau cùng chủ trương “phóng tay phát động quần chúng” là cực kỳ nguy hiểm và thiếu hiểu biết cả về lịch sử lẫn xã hội. Thực tế cho thấy đám quần chúng ngu muội một khi đã kích động lên thì chúng như âm binh có khả năng thiêu cháy cả phù thủy.
Bác Chắt Kế, tức đồng chí Võ Nguyên Hiến, sáng lập viên Đảng Cộng Sản Đông Dương, nguyên Ủy viên trung ương Đảng, cũng còn may chưa bị đưa ra… xử tử, mà được tha “về nằm tịt ở nhà, không muốn đi đâu, chỉ thỉnh thoảng ra vườn tưới cây rồi vào đọc sách”. Trong con mắt người làng thôi thế là “Một cuộc đời đi qua… một sự tích oanh liệt đi qua… chóng thật” và người ta khích bác, gọi ông là “lão cách mạng ăn thịt chó sáng mồng một tết”, “lão cách mạng biến nhà thờ họ thành phòng ngủ của vợ chồng bà o”,… Chẳng phải là giậu đổ bìm leo, mà sau một thời gian, từ người lớn tới con nít đều nhận ra “những điều bác làm quá tả và phương hại đến cả làng cả xóm…”
Người làng cũng còn “ngộ” ra vậy, thế còn bác Chắt Kế, đồng chí nguyên lãnh đạo cao cấp của Đảng liệu có tỉnh ra khi bị “xử lý oan” mà trở thành thân bại danh liệt? Lúc đó, cậu bé Võ Văn Trực mới hỏi đồng chí nguyên lãnh tụ của Đảng:
“Sao bây giờ người ta đấu tranh ghê thế hả bác?”
Bác trả lời với giọng bình thường:
“Bây giờ mới thật chuyên chính vô sản đó cháu ạ…”
Được đà tôi hỏi luôn:
“Sao người ta lại chuyên chính cả với bác?”
“…”
“Có những người đi theo bác làm cách mạng cũng bị người ta chuyên chính?”
“…”
“Cháu khó hiểu…”
Quả thực theo lý thuyết cách mạng thì chuyên chính chỉ dùng để đối đãi với kẻ thù chứ đâu phải dùng để xử trí cán bộ cách mạng? Hóa ra lý thuyết chỉ là “đầu lưỡi”, còn trong thực tế, chuyên chính thực ra là công cụ dùng để triệt nhau trong đấu đá nội bộ để giành quyền lực trong Đảng. Là người cách mạng có sạn trong đầu như bác Chắt Kế ắt là thấu hiểu điều đó, nhưng đời nào bác dám nói ra chuyện đó, đành chỉ giải thích một cách chung chung:
“Hồi Xô Viết Nghệ Tĩnh, bác bị Đảng hiểu lầm, cho bác là phản Đảng, phân công người tìm bác để xử tử, mãi về sau Đảng mới hiểu bác là không phải phần tử phản bội…”
Qua câu trả lời của bác Chắt Kế, người ta có thể hiểu được rằng hiện nay Đảng lại đang hiểu lầm bác lần nữa mà bác không dám nói ra. Vì sao vậy? Vì sao đã ra cái nông nỗi đó mà bác vẫn còn giấu giếm? Tác giả giải thích như sau:
“Trong lòng bác vẫn có cái gì phân vân, vẫn có cái gì níu bác lại. Sợ hãi ư? Chắc không phải. Có lẽ bác muốn bảo vệ uy tín của Đảng – bảo vệ một cách mù quáng…”
Phải nói rằng “tin tưởng một cách mù quáng” là căn bệnh trầm kha của người cộng sản. Những năm 1954-1955, khi cuộc cách mạng “cải cách ruộng đất” long trời lở đất nổ ra tại miền Bắc thì nó đã phạm những sai lầm chết người, nhiều đảng viên trung kiên bị cốt cán tố điêu, bị vu cho là địch cài lại để bị kết án tử hình. Thời đó những tử tội được mang ra pháp trường cho “quần chúng cách mạng” hô “đả đảo” và hoan hô khi họ bị bắn để “đền tội”. Nghe kể lại rằng “nhiều đồng chí đảng viên cộng sản” bị bắn oan, trước khi chết vẫn hô lớn: “Đảng Cộng Sản muôn năm… Hồ chủ tịch muôn năm…”. Có lẽ bác Chắt Kế, tức đồng chí Vũ Nguyên Hiến, nguyên Ủy viên trung ương Đảng, rơi vào trường hợp đó, bác cũng hô to khẩu hiệu như vậy trước khi nhận vào ngực mình những viên đạn của chính đồng chí mình.
Thử tìm cách lay chuyển “niềm tin sắt đá vào Đảng Cộng Sản” của bác Chắt Kế, cậu bé Võ Văn Trực hỏi bác:
“Cháu nghe nói giáo sư Đặng Thai Mai đang dậy trường Đại học ở Thanh Hóa, sinh viên đến hỏi: “Nhân dân đấu tranh quyết liệt như thế thì thái độ sinh viên thế nào?”, Giáo sư trả lời: “Dùng nhục hình để tra tấn là cái nhục của người cộng sản không bao giờ rửa được…”
Bác Chắt Kế tịt mít không trả lời được. Một là câu trả lời đó quá đúng, quá xác đáng. Hai là Giáo sư Đặng Thai Mai lúc đó vẫn còn là một trí thức có uy tín của Đảng. Tuy nhiên, dẫu có thừa nhận “dùng nhục hình để tra tấn là cái nhục của người cộng sản” đi chăng nữa, người ta vẫn thấy niềm tin đến mù quáng vào Đảng Cộng Sản của bác Chắt Kế vẫn trơ như đá vững như đồng, không gì lay chuyển được ngay cả khi đã thân bại danh liệt một cách oan uổng.
Ngày mẹ qua đời
Nhà văn Võ Văn Trực có một người mẹ thật khác thường. Ông kể:
“Chóng thật, cuộc đời một con người thật chóng vánh quá. Mới ngày nào mẹ cắt tóc ngắn, mặc quần đùi của cha, giắt liềm bên hông, tham gia các cuộc biểu tình, lăn vào các cuộc hội họp, rồi được kết nạp vào Đảng. Những ước mơ bồng bột, cháy bỏng một thời như cây hớn hở đơm lộc mùa xuân, cứ tàn héo dần để cuối cùng mẹ trở về với vại cà đen ngòm và chiếc giường cũ kỹ, lì mòn và xộc xệch…”
Vào thời bao cấp, ở các tỉnh lỵ Quảng Bình – Hà Tĩnh, thay vì treo cao một khẩu hiệu thật lớn như bây giờ: “Welcome to Nghệ An… Welcome to Hà Tĩnh” thì người ta lại trương một khẩu hiệu đọc lên nghe thật hãi hùng, chắc ít du khách nào dám mon men tới: “Một mo cơm, một quả cà, một tấm lòng cộng sản…”
Suốt một thời cả xã hội được giáo dục như thế đó – chỉ cần “một tấm lòng cộng sản” thôi, còn thì cơm với cà đã là mãn nguyện lắm rồi. Cái biểu tượng “vại cà” đó, được tác giả mô tả thật kỹ càng:
“Ở góc bếp, cái vại cà vẫn để nguyên tại đó đến hàng mấy thập kỷ, lì lợm bất di bất dịch, bụi bám đen xỉn. Tôi đến mở vại cà, vẫn y xì như vại cà của hàng vạn gia đình nông dân Nghệ Tĩnh tồn tại đến hàng mấy thế kỷ: hòn đá hình vòng tròn đè nặng trên cái vỉ đan bằng tre, dưới cái vỉ là những quả cà để lưu cữu hàng năm, nước đen ngòm, dăm ba con giòi bò lúc nhúc. Đó là nguồn thực phẩm dự trữ chủ yếu ngày này sang ngày khác, tháng này qua tháng khác, năm này qua năm khác. Bình thường, mỗi bữa mẹ tôi bốc ra một bát cà. Sang trọng hơn một chút, mẹ rửa sạch những quả cà rồi xào với mỡ. Cái vị mặn lâu ngày được ngấm mỡ tạo ra một vị ngon đặc biệt của quê kiểng….”
Con người ta sinh ra là để phấn đấu cho lý tưởng, là để “sửa soạn sống” cho mai sau chứ không phải để sống bây giờ, là “tất cả vì tương lai con em chúng ta” – các nhà tuyên huấn cộng sản ra sức nhồi nhét vào đầu óc con người từ bé đến lớn cái nguyên tắc ấy, sau này nó ‘biến tướng” thành phương châm của các quan tham: “hy sinh đời bố, củng cố đời con”.
Vậy là “trọn một đời mẹ vật lộn với đất đai và một phần đời của mẹ tham gia việc làng việc xóm việc đoàn thể với bao nhiêu khát vọng, đến nay sắp vĩnh viễn nhắm mắt “mẹ cũng chẳng có được một ngày sung sướng, chẳng được hưởng cái gì hết ngoài “cái giường lì mòn vẫn nằm đó, cái vại cà đen ngòm vẫn nằm đó…”. Và khi mẹ sắp mất, tác giả đặt ra một câu hỏi thật đau lòng:
“Gia tài mẹ còn lại những gì để trao cho con?”
Cả một đời mẹ vất vả, nửa đời mẹ hoạt động cách mạng, bản thân mẹ đã chẳng được hưởng cái gì, vậy mẹ để lại được gì cho con?
Một câu hỏi thật đau lòng mẹ và buốt lòng con. Đoạn đối thoại giữa hai mẹ con lúc mẹ hấp hối, rời khỏi cuộc đời đầy khổ ải này thật là một bi hài kịch đến cười ra nước mắt.
“Mắt mẹ nhìn tôi vừa mệt mỏi lại vừa như muốn phân trần:
“Mẹ chẳng có gì để lại cho con…”
Tôi vô ý buột miệng:
“Cho con đôi hạc đồng ngậm hoa sen, con đem ra Hà Nội lập bàn thờ để các cháu nhớ đến tổ tiên, ông bà bên nội.”
Mẹ lắc đầu:
“Bán hồi ‘thuế khả năng’ rồi con ạ…”
“Thế con xin mẹ cái mâm đồng cũng được…”
“Mâm đồng cũng bán hồi ‘thuế khả năng’ rồi…”
Khổ vậy đó, đứa con cứ hạ dần “yêu cầu” của mình với người mẹ sắp chết…
Những cái đáng giá nhất trong nhà như đôi hạc đồng, mâm đồng thì đã bán để mà “đóng thuế khả năng” rồi, con trai mẹ đành xin mấy thứ tin chắc vẫn còn trong nhà, mẹ vẫn chưa phải bán:
“Chẳng cần đâu mẹ ạ… Con cầm đi vài cái bát đĩa cổ để các cháu nhớ đến ông bà đến quê hương…”
Thật bất ngờ với đứa con và đau đớn cho người mẹ, ngay cả cái bát cũng đã bán mất:
“Cũng bán hết hồi thuế khả năng rồi…”
“Thuế khả năng” là cái thứ thuế kỳ cục nhất thế giới, căn cứ vào sự đánh giá rất hàm hồ, ba lăng nhăng của mấy anh cán bộ Nông Hội, “nhà này khả năng có bát ăn bát để”, “nhà kia khả năng có của chìm”, các hộ nông dân ngoài thuế nông nghiệp ra phải đóng thứ thuế trời ơi đất hỡi do mấy ông cán bộ đó tùy tiện áp đặt. Ai mà không đóng thì bị quy ngay vào tội chống chính quyền.
“Cái đêm hôm ấy xa rồi, tôi nhớ lại như in… Nông Hội họp, chú Văn mắt toét nói “Ngày mai bà Đoan không nộp đủ hai tạ thuế khả năng thì sẽ lấy vồ đập trên đầu cho mồm ợ ra”. Nửa đêm, cha mẹ tôi khiêng cái hòm đồ cổ xuống… Thì ra cha mẹ tôi đã đem bán đồ tế tự và đồ cổ từ hồi ấy. Tôi cứ nghĩ là chỉ bán một ít, ai ngờ bán sạch sành sanh cả hạc đồng, mâm đồng, bát đĩa cổ…”
Và người mẹ trong lúc lâm chung, lòng đã xót xa khi thấy không để lại cho con được bất cứ thứ gì. Nhưng bà chỉ còn biết câm nín chịu đựng mà thôi:
“Mẹ không đủ sức để lắc đầu nữa. Mẹ vẫn im lặng nhìn tôi, vừa đượm chút xót xa, vừa đượm chút ân hận. Nước mắt mẹ ứa ra và lăn xuống làn da mặt nhăn nheo như vỏ quả thị héo…”
Người mẹ cả cuộc đời hiến dâng cho Đảng nhưng lại bị chính Đảng đầy đọa dở sống dở chết, khi nhắm mắt không dám buông một lời oán trách, không dám trăn trối với con điều gì sợ gây thương tổn lòng tin yêu Đảng của con, vì bà nghĩ ở trong cái xã hội ấy, nếu lập trường của nó mà lung lay thì đời nó sẽ khốn đốn. Người đọc thấy ngậm ngùi và cảm thương cho tâm trạng ấy của bà. Tuy nhiên riêng phần bà thì khác. Trước khi thở hơi cuối cùng, bất chợt bà nảy ra một hành động phản kháng dù là yếu ớt.
Nguyên “từ ngày thành lập hợp tác xã, để khỏi mất thì giờ sản xuất, chi bộ đã ra nghị quyết không cho các gia đình cúng giỗ lẻ tẻ, mà cả làng mỗi năm chỉ được cúng giỗ vào hai ngày sau khi thu hoạch vụ chiêm và vụ mùa”.
Cúng giỗ vào hai ngày sau khi thu hoạch vụ chiêm và vụ mùa. Đó thật sự là một quy định vừa láo xược với cha ông lại vừa tàn bạo với người còn sống. Là một đảng viên, đáng lẽ bà phải là cái “đầu tàu gương mẫu” để cho cả làng noi theo, cả năm bất kỳ cúng giỗ ai cũng chỉ nhằm vào hai ngày đó. Vậy nhưng thật bất ngờ, khi tới lúc lâm chung bà đã chống lại quy định đó:
“Mẹ ra hiệu cho tôi cúi sát đầu xuống để mẹ nói một điều bí mật:
“Hằng năm ngày giỗ mẹ, con cứ cúng đúng ngày mẹ mất, đừng cúng theo ngày quy định của hợp tác xã…”
Vậy là thông điệp cuối cùng của một nữ đảng viên gửi lại là một lời trăn trối đi ngược lại nghị quyết của Đảng! Suốt một đời luôn luôn bị nhắc nhở “trung thành với Đảng”, luôn luôn bị thúc giục “thi hành đầy đủ mọi chủ trương chính sách của Đảng”, có lẽ đây là lần đầu tiên người mẹ đảng viên dám “chống lệnh Đảng”. Sau khi dặn con như thế, bà mẹ lại lo cho con bị Đảng trừng phạt nên dặn dò:
“Con chớ làm mâm cỗ, chi bộ biết sẽ phê bình, con chỉ cần múc chén nước trắng và thắp hương cho mẹ đúng ngày mẹ mất…”
Ngày giỗ chính mình chỉ đòi hỏi một chén nước lã và một nén nhang quả đã là một nguyện vọng đau lòng, đã thế lại chỉ dám cho con cháu thực hiện một cách lén lút. Vậy là sự phản kháng của người mẹ vẫn chỉ là ngấm ngầm không dám công khai sợ con bị kỷ luật, mặc dầu vậy, đứa con cũng nhận ra sự thay đổi trong “lập trường cách mạng” của mẹ:
“Lúc đang sống mẹ tuân theo nghị quyết của chi bộ, lúc nằm xuống mẹ mới dám chống lại nghị quyết…”
Đó là một tia lửa phản kháng thật yếu ớt và vô cùng hiếm hoi nhưng nó như một tín hiệu đầu tiên phản ứng lại cái ảo tưởng toàn trị vĩnh viễn trong lòng người của chủ nghĩa cộng sản.
Quả nhiên “niềm tin yêu Đảng” của giai cấp nông dân Việt Nam ngày càng bị xói mòn bởi vô số những cuộc vận động trái khoáy nhưng không biết mệt mỏi của Đảng giáng xuống làng quê vốn đã gây nên biết bao nhiêu bất hạnh và nước mắt, nên đã khiến cho cái niềm tin yêu ấy bây giờ chắc chỉ còn tồn tại ở… cửa miệng.
Cuối cùng, tác giả Võ Văn Trực cũng không được ở với mẹ tới lúc bà mất. Ông phải đi công tác mãi cho tới khi quay về thì việc an táng mẹ ông đã xong. Ông để nỗi đau của ông hòa chung vào nỗi đau của làng quê:
“Hoàng hôn, tôi mặc áo đại tang đi ra đồng. Trước mặt tôi là một nấm đất, là sự vĩnh hằng của tạo hóa… Cũng như bao bà cụ khác trong làng, mẹ nhẫn nhục chịu thương chịu khó đổ mồ hôi nuôi đất rồi lại trở về với đất. Cái đau này là cái đau chung mà mỗi con người sống trên đời này đều phải nhận lấy, nhưng khi nó đã biểu hiện thành cái đau cụ thể, thành bà mẹ của mình nằm trong áo quan, thành nắm đất chưa xanh cỏ, thì nỗi đau càng thấm thía gấp ngàn lần…”
Dĩ nhiên vì vẫn còn sống và viết trong “vòng cương tỏa” của Đảng nên nhà văn Võ Văn Trực đã biến nỗi đau mẹ chết của ông thành một nỗi đau chung chung, không dám dùng cái khả năng thấu thị, nhìn suốt bên trong sự vật của nhà văn để mà vạch mặt kẻ nào đã gây ra cho mẹ cái phận số cả đời “nhẫn nhục, chịu thương chịu khó đổ mồ hôi nuôi đất rồi lại trở về với đất” như thế. Ông đã không dám vạch ra rạch ròi kẻ nào đã hành hạ, đầy ải em ruột của mẹ để đến nỗi cậu phải treo cổ tự tử, kẻ nào đã làm nhục cả gia đình mẹ khi phải lén lút mang bán đồ thờ cúng ông cha để lấy tiền đóng thuế, kẻ nào đã cấm đoán giỗ chạp, báng bổ tập trung ông bà tổ tiên, thần Phật trong làng… làm đau lòng mẹ?
Tuy nhiên sống lầm than trong cái gọi là thời kỳ quá độ tiến lên xã hội xã hội chủ nghĩa, ai chẳng biết kẻ đó chính là cái Đảng mà mẹ là một thành viên, cả đời dốc sức, cúc cung tận tụy phục vụ để rồi nó giáng đòn trừng phạt xuống chính đầu mẹ.
Nhớ lời mẹ dặn, khi nào về chịu tang mẹ thì về thăm quê ngoại, Võ Văn Trực đã trở về sau cả chục năm trời đi biền biệt.
“Bao nhiêu va chạm. Bao nhiêu vỡ lở. Bao nhiêu thương tích. Hầu như mình đã lãng quên dần mối tình huyết tộc bỗng hôm nay trở về như giọt máu tha hương chảy về tim…”
Ông nhớ lại ngày xưa “mỗi lần theo mẹ về quê ngoại ăn giỗ, con thấy vô cùng ấm cúng sự sum họp trước bàn thờ linh thiêng. Cọc đèn lung linh ánh nến. Ngai đặt bài vị sơn son thếp vàng. Lư hương đồng nghi ngút khói nhang. Chiếc mâm bồng màu đỏ đặt nậm rượu và bộ chén bạch định. Chiếc mâm chè đặt nải chuối vàng au…”.
Những thứ ấy vào ngày ông trở về thật đã hết, đã không còn nữa “tất cả những gì thuộc về lễ nghi đã truyền vào cho tôi một tình cảm rất đỗi thiêng liêng đối với tiền nhân, một tình cảm rất tha thiết gắn bó với ông bà, cha mẹ, cậu, dì và mọi người trong gia tộc…”. Những đồ tế khí ấy đâu rồi? Sao chỉ còn trơ trụi một cái án thư tróc sơn. Trên án thư đặt chiếc bát đàn sứt miệng đổ đầy cát và cắm lưa thưa mấy nén nhang…”
Thực ra có một thời rất lâu ở làng quê Việt Nam, “bàn thờ tổ tiên” đã được thay thế bằng cái gọi là “bàn thờ tổ quốc”. Trên bàn thờ tổ quốc người ta thấy ảnh ông Hồ Chí Minh – tất nhiên thời đó ông đang còn sống – và ảnh của bốn ông lãnh tụ cộng sản thế giới: ông Mác, ông Lênin, ông Ănghen, ông Stalin, mà khi khấn vái, các bà nhà quê chỉ biết xuýt xoa: “Kính thưa bốn ông Tây…”.
Tất nhiên cái thời đó nay đã xa rồi nhưng quả thực làng quê ta đã có một thời như thế và sách vở không thể không ghi lại để cho con cháu đời đời về sau nhớ rằng: trong thế hệ cha ông của chúng, có một thời, có một đám cực kỳ ngu xuẩn đã dẫn dắt quê hương vào tình trạng cực kỳ mông muội và chúng phải cẩn thận để đừng sa chân vào vết xe cũ.
BA CÂU CHUYỆN VỀ ĐẤT
Câu chuyện thứ 1.
Năm 1962, nhà tôi bị hợp tác xã (HTX) nông nghiệp chiếm dất vườn để làm nhà kho và sân phơi của HTX. Lúc đó việc chiếm đất không hề có một văn bản nào hết, chỉ là cuộc họp của chi bộ, cuộc họp của xã viên đồng ý lấy vườn nhà ông Tịch làm nhà kho và sân phơi. Thế là họ làm.
Trước khi chiếm đất vườn nhà tôi thì có ý kiến đề xuất là: nên lấy khu đất Vườn Cao ở cuối làng thì rộng rãi và lại là đất của làng, không phải đất tư. Nhưng có ý kiến khác nói là: lấy đất Vườn Cao làm kho và sân phơi cho HTX thì mùa đông rét sun dái lại, và họ đề xuất luôn là lấy mảnh vườn nhà tôi ở ngay giữa làng để khỏi phải “rét sun dái lại”.
Thời gian đó cậu (tức bố) tôi chỉ mới hồi phục được cả về tinh tần lẫn thể xác mấy năm sau cơn chấn động cải cách ruộng đất mà ông là một trong số những người bị bắt giam, quy oan, không phải bị quy là địa chủ (vì ông bà nội tôi chỉ có mấy sào ruộng thì không thể là địa chủ được) nên họ quy cậu tôi là đảng viên quốc dân đảng (có lẽ họ thấy cậu tôi da trắng, dáng vẻ thư sinh, lại biết một chút tiếng Pháp nên nghĩ là đảng viên của đảng tư sản). Sau khi sửa sai, cậu tôi được minh oan và phục hồi sinh hoạt đảng và các quyền lợi khác. Cậu tôi tham gia cách mạng từ năm 1942, là đảng viên ĐCS đầu tiên, bí thư chi bộ đầu tiên của xã tôi. Ông bà nội tôi là cơ sở bí mật của Xứ ủy Bắc kỳ, nuôi giấu, đưa đón các cán bộ của đảng từ cuối những năm 30, đầu 40.(xem lịch sử Đảng bộ xã Đồng Tân, huyện Ứng Hòa, tỉnh Hà Tây). Sau cải cách ruộng đất cậu tôi làm y tá. Năm 1960, ông đi học y sĩ khi đã 40 tuổi (ông nói ông không làm chính trị nữa). Đất vườn nhà tôi bị HTX chiếm khi ông đang đi học, không có mặt ở nhà. Mợ (tức mẹ) tôi thì đi chợ xa để bán hàng. Đến chiều bà về thì vườn cây đã trở thành bãi đất trống… Lúc đó anh chị em chúng tôi còn nhỏ, chị tôi lớn hơn một chút thì ra ôm gốc mít khóc. Đất vườn nhà tôi bị chiếm đã phá vỡ kế hoạch của cậu mợ tôi là sẽ làm nhà trên mảnh đất đó vì nhà đang ở nhỏ và chật chội.
Lúc đó HTX cũng nói là đền bù hoa màu với giá 2 hào một gốc cây. Nhưng cho đến bây giờ chưa thấy hào nào!
Năm 1983, cậu tôi ốm nặng. Tôi từ Sài Gòn xin nghỉ phép về chăm sóc ông, được một tháng thì ông qua đời. Trước đó thì các đồng chí bí thư đảng ủy xã, chủ tịch xã, chủ nhiệm HTX xã đến thăm ông, ông có trăng trối lại với các đồng chí của mình (lúc đó có mặt tôi), đại ý: tôi có 3 thằng con trai, các anh hãy bù lại một diện tích đất tương đương mà HTX đã lấy của tôi làm nhà kho và sân phơi của HTX để cho các cháu có đất làm nhà. Các đồng chí của cậu tôi quan sát căn nhà đơn sơ, thua xa nhà của các đồng chí đó, thoáng một vẻ ái ngại, nhìn nhau không nói. Ngay lúc đó tôi biết ràng nguyện ước của cậu tôi sẽ chẳng bao giờ thành hiện thực. Cho đến lúc chết ông vẫn trung thành tuyệt đối với Đảng, chết đi mang theo một nỗi đau mất đất.
Câu chuyện thứ 2
Năm 1978 xảy ra một vụ án giết người do một ông nông dân (tôi không nhớ tên, chắc bản án Tòa án vẫn còn lưu) ở Củ Chi thực hiện tội phạm. Nội dung câu chuyện như thế này:
Phong trào động viên nông dân vào HTX, tập đoàn sản xuất nông nghiệp được phát động rầm rộ với mục đích đưa nông dân cá thể vào làm ăn tập thể nhanh chóng. Ông nông dân này không chịu đưa ruộng đất vào tập đoàn. Bà tập đoàn trường chỉ đạo các tập đòan viên xuống ruộng nhà ông để cày xới. Ông tuyên bố: đứa nào xuống mần ruộng của tao, tao chém. Không ai dám xuống vì trên tay ông đang lăm lăm con dao phạt cỏ bờ có cán dài và sắc lẹm. Bất chấp lời thách thức của người nông dân Củ Chi – đất thép thành đồng, bà tập đoàn trưởng gương mẫu lội xuống ruộng của ông để cho những người khác làm theo. Lập tức ông nông dân cầm dao chém đứt cổ bà tập đoàn trưởng. Bà tập đoàn trưởng tử vong, ông nông dân bị bắt về tội giết người. Tòa án ND TP tuyên xử ông 20 năm tù.
Câu chuyện thứ 3
Năm 1981, khi tôi đang là kiểm sát viên VKSND quận 8. có một vụ án “hủy hoại tài sản XHCN” xảy ra tại phường 22, quận 8 (lúc đó là phường nông nghiệp).
Tóm tắt câu chuyện:
Tập đoàn sản xuất nông nghiệp của phường động viên ông Nguyễn Văn Cám (tự Sáu Cám) đưa ruộng đất của ông vào tập đoàn để làm ăn tập thể. Lúc đó ông Sáu Cám 60 tuổi. Ông Sáu và gia đình không chịu vào tập đoàn. Tương tự như ở Củ Chi, tập đoàn đã huy động tập đoàn viên xuống làm đất và cấy lúa trên ruộng nhà ông. Ông Sáu Cám đã xuống nhổ lúa của tập đoàn mới cấy. Ông bị bắt và bị khởi tố về tội “cố ý hủy hoại tài sản XHCN” theo Khoản 1, Điều 6 Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm TSXHCN năm 1970 có mức hình phạt từ 2 đến 10 năm tù. Sau đó ông được tại ngoại vì tuổi cao.
Khi thụ lý vụ án này, tôi nói với đồng chí Viện trưởng là không nên xử ông Sáu Cám, vì tập đoàn ép ông vào, ông không đồng ý nên phản ứng như vậy. Lê-nin đã nói: phải để cho người nông dân suy nghĩ trên luống cày của họ. Ông Sáu Cám đã suy nghĩ và ông đã quyết định không đồng ý vào tập đoàn, phải tôn trọng quyết định của người nông dân này. Đồng chí Viện trưởng nói đây là chỉ đạo của Quận ủy, phải chấp hành thôi.
Là người được giao nhiệm vụ duy trì quyền công tố (luật bây giờ gọi là thực hành quyền công tố) vụ án này, mất mấy đêm không ngủ, rồi tôi cũng viết xong được bản luận tội, viết một cách máy móc, giáo điều, những lời lẽ trong bản luận tội đó không phải là suy nghĩ thật tâm, mà là lời lẽ mang tính khuôn mẫu áp đặt. Phiên tòa được đưa ra xử lưu động tại phường 22. Nhìn người nông dân thật thà chất phác, cả đời chưa vi phạm pháp luật, nay bị xét xử về một tội tày đình là “cố ý hủy hoại tài sản XHCN, tôi cảm thấy như mình có lỗi, mặc dù biết rằng đó là công vụ mình phải thực thi. Tôi đề nghị xử phạt ông từ 18 đến 24 tháng tù nhưng cho hưởng án treo (lúc đó mà nói bị cáo không phạm tội thì chắc chắn bị kỷ luật). Hội đồng xét xử đã tuyên phạt ông 2 năm tù cho hưởng án treo.
Lời kết:
Từ 3 câu chuyện của nhà và của nghề, tôi rút ra kết luận là: Nhà nước cần phải sửa đổi Hiến pháp, làm cơ sở cho việc sửa đổi căn bản Luật đất đai, xác lập quyền sở hữu đất đai của người dân. Chỉ có như vậy mới an dân được. Bằng ngược lại thì mục tiêu xây dựng nhà nước pháp quyền chỉ là giấc mơ viển vông, không hiện thực.
Câu chuyện cải cách ruộng đất và Đảng viên
Gia đình tôi, bị quy địa chủ trong những năm tháng cải cách ruộng đất. Đó là điều vô lý, thật là vô lý. Đến bây giờ bố tôi và tôi vẫn không hiểu vì sao một gia đình nghèo đói như thế này, bỏ tất cả theo kháng chiến, không một mảnh đất cắm dùi thời kỳ đó mà vẫn bị quy là địa chủ.
Bố của bà nội tôi được triều đình nhà Nguyễn phong cho một cái chức nhỏ thôi và được cấp ở quê một mảnh ruộng. Ông ở Đồng Hới có biết chi chuyện ruộng đất nên cho người em làm. Về sau cuối đời ông bất mãn sa vào cờ bạc, khuynh gia bại sản, nhà cửa, đất đai bán hết kể cả đám ruộng của vua ban ở ngoài quê. Bà tôi có biết gì đâu, lấy chồng rồi theo chồng lên chiến khu chợ Gát làm Cách mạng.
Đội cải cách về làng, đêm đấu tố ở làng có người bảo làm thuê trên đất ruộng của ông cố tôi. Ông cố tôi lúc đó mất rồi và còn lại là bà tôi. Bà tôi bị quy là địa chủ (bố chết thì con phải chịu thay). Đội cải cách tìm mọi cách lùng sục, chỉ chờ bà tôi về là bắt ngay. Lúc đó, Ba Đồn đã được giải phóng, bà tôi phải ở lại Ba Đồn không dám về quê cho dù chỉ cách một khúc sông Gianh. Bố tôi, hằn sâu nổi đau của đợt cải cách mà đến bây giờ anh em tôi có tý tiền muốn mua đất cát, ông đều gạt đi, mua làm gì, đất đai nhiều mà chi, cuối đời quy là địa chủ thì khổ lắm.
Bố tôi kể, đợt cải cách ruộng đất oan sai nhiều lắm. Người oan toàn người giỏi, người tài và rất nhiều Đảng viên bị giết. Ở Ba Đồn ai ai cùng nhớ và đau câu chuyện ông Nghị Các. Ông là đảng viên, được tổ chức giới thiệu vào hoạt động ở Nghị viện dân biểu Trung Kỳ nhưng khi cải cách ruộng đất ông vẫn bị quy là địa chủ và chặt đầu. Đêm hôm trước khi hành hình, ông Nghị Các đã lấy ống nứa cứa vào mách máu tay tự vẫn. Nghe kể lại, ông bảo ông sẽ tự chết chứ sáng mai để đồng đội của mình hành hình mình thì đau đớn quá ?.
Vẫn là câu chuyện mà bố tôi kể có một đảng viên (ông đã quên tên) theo cách mạng, hòa bình lập lại ông này làm đến chức chủ tịch mặt trận Liên Việt xã Quảng Thạch (bao gồm cả vùng chiến khu Trung Thuần), nhưng vẫn bị quy là địa chủ và bị hành hình trong đợt cải cách ruộng đất. Con ông sau này trúng tuyển nghĩa vụ quân sự đã khóc: “Bố tôi, theo cách mạng hòa bình lập lại bị giết, giờ tôi cầm súng ra chiến trường chiến thắng trở về có bị giết không”. Ai cũng thương con ông, họ không dám nói ra và con ông cũng không được “vinh dự” ra chiến trường.
Tôi đã nhiều lần ngồi nhậu với nhà thơ Ngô Minh, ông cũng mang trong mình nổi đau của oan sai cải cách ruộng đất. Khi rượu vào mềm môi, tôi hỏi: “Chuyện gia đình chú bị quy sai địa chủ chú có đau không?”. Ông cười nhưng từng thớ thịt trên mặt giật liên tục, như đang cố nuốt một nổi đau mà chỉ có người trong cuộc mới hiểu nổi: “Mày xem cái làng Ngư Thủy nghèo nhất nước này thì làm chó gì có địa chủ. Thôi không nhắc nữa, chuyện củ!”. Nhà thơ họ Ngô đã xung phong đi bộ đội và được kết nạp Đảng tại chiến trường. Đến bây giờ ông không hổ thẹn mình là con địa chủ, không hổ thẹn mình là một đảng viên.
Chuyện củ, thôi đừng nhắc nữa. Câu nói của nhà thơ Ngô Minh mà sao tôi cứ thấy nghẹn nghẹn trong cổ họng
LÃO HÀNH
(NBD)Truyện ngắn này đã đăng trên tạp chí Nhật Lệ năm 1998 (in trong tập truyện ngắn “Cội nguồn nước mắt- Nhà xuất bản Thuận Hóa) mời bà con đọc lại cho vui. Nhận vật trong truyện là một nguyên mẩu của một người sống ở Ba Đồn
Cả thị trấn này không ai là không biết hắn. Họ bảo hắn là người âm phủ. Mọi đám tang trong thị trấn từ quyền cao chức trọng đến kẻ vô gia cư đều có mặt hắn. Khuôn mặt hắn khác người, vừa ngây thơ vừa bí hiểm, một nửa trần gian một nửa âm địa. Hắn tên là Hành âm địa.
Hắn có một biệt tài là đoán trước cái chết của con người. Hễ nhà ai có người đau ốm đến liệt giường thấy mặt hắn đi lởn vởn trước ngõ, là họ đều hết vía tìm mọi cách xua đuổi. Họ xem hắn như đệ tử của thần chết. Một hôm có một ông già vừa mới đi viện về, bác sĩ cho biết ông có thể sống độ nửa tháng nữa, nhưng hắn đến bảo gia đình chuẩn bị để lo tang gia, vì ông già có thể sáng mai sẽ qua đời, Gia quyến khóc lóc om sòm, cho hắn là nói gở mồm gở miệng. Hắn quát mọi người :
- Tôi nói thật mà không tin, đến khi đó, vắt chân lên cổ chạy không kịp. Ai chả một lần chết cốt sao lo cho chu toàn là tốt.
Đung thật, 5h sáng ngày hôm sau ông già qua đời. Một đồn mười, mười đồn trăm, miệng thế gian như làn sóng bể. Và mọi người thấy sợ hắn, xa lánh hắn. Hắn cũng chả cần điều đó vì lâu nay có ai làm bạn với hắn đâu? Hắn vẫn sống, vẫn tự do.
Buồn đời, hắn uống rượu chuếch choáng say, hắn lại về căn lều của mình. Đó là một khu đất hoang vu ( đất âm địa ). Đêm đêm, ma quỷ thổ công thường hiện lên để làm bổn phận của mình đối với Diêm vương. Nghe bảo ai ở khu đất ấy đều không chịu được, hết đau ốm lại mất của, tất cả bỏ đi không dám ngoái cổ lại tiếc rẻ. Chỉ có hắn, vâng, chỉ có hắn mới ở được. Ma quỷ chả bắt hắn làm gì. Hơn nửa vùng thị trấn này đâu có chổ dành cho hắn. Hắn dựng lều chỉ có hai mái che mưa, còn bốn phía không phên vác, gió lùa vào ào ào. Nền nhà là tấm xi măng của đình làng. Hứng chí, hắn hay rủ tôi uống rượu. Tính tôi lập dị, nên hắn chọn làm bạn.
Mỗi lần ghé kêu tôi tay hắn đều có rượu và gà. Hắn bảo tiền công đám tang. Vợ tôi thấy thế mắng tôi:
-Anh quen loại người dở hơi ấy làm gì? Thật là vớ vẩn “vô tích sự”. Tôi dằn lại liền:
- Hắn tốt hơn khối người chứ chả chơi?
Đời người hay lừa lọc nhưng hắn lại chân tình đến cùng. Chân tình đến nỗi người ta phải phát kiếp. Hắn trải chiếu xuống nền xi măng, chặt gà rót rượu và mời tôi ngồi. Hắn tợp một ngụm rượu, khà một tiếng rõ to, rồi cười khanh khách. Có lẽ hắn đang nghĩ đến cái nghề của mình. Nghề hắn chuyên khâm niệm người chết. Ai cũng cần hắn giúp đỡ . Cái khâu bỏ xác vào hòm tuy là dễ, nhưng lại khó vô cùng. Mới đầu là tình nghĩa hắn giúp. Sau người ta nhờ. Và bây giờ người ta phải thuê hắn. Đối mặt với cái chết nhiều, Hắn có những biệt tài và trở thành thần cảm.
Trong mỗi bữa rượu hắn bộc bạch với tôi:
- Mỗi người chết đều có một khuôn mặt khác nhau. Kẻ gian chết thì ấm ức. Người ngay chết thì mát mẻ. Quan “tham nhũng” thì đè mãi mới khít hòm. Còn tôi đây thì chỉ cần một manh chiếu thì được.
- Biết đâu, sông có khúc người có lúc. Hôm nay anh là Hành âm địa, nhưng ngày mai anh trở thành ông to bà lớn thì… đám tang có khối người đi đưa.
Tôi động viên hắn, biết mình nói như thế là không phải. Nhưng đối với những người như hắn phải cần một đôi lời an ủi. Căn nhà hắn ở về đêm bốc mùi tử khí. Hơi lạnh từ cõi bên kia tràn về làm tôi phải rùng mình. Hắn rót thêm chén rượu ngồi trầm ngâm, ngồi như sực nhớ điều gì, Hắn vội từ biệt tôi:
May quá tí nữa thì quên mất? Ông Hoàn ở xã bên đã qua đời hơn một ngày rồi, nhưng chưa khâm liệm, vì chờ hai đứa con trai từ bên Đức về. Nghe đâu hai đứa không về được, chỉ điện chia buồn với bố thôi. Mẹ kiếp! Chúng nó giàu, nhân nghĩa chỉ là thứ yếu. Tôi phải liệm cho ông chứ không thì vi phạm luật của chính quyền.
Tôi ngắm dáng đi khật khưởng của hắn mà lòng trào dâng một nỗi niềm về nhân tình thế thái.
*
* *
Đùng một cái, cả thị trấn kháo ầm lên: Hành âm địa lấy vợ. Vợ hắn đẹp nhưng dở hơi, nghe đâu ngày xưa cô ta cũng học đại học, nhưng yêu quá sớm bị người yêu bỏ. Từ đó, cô ta điên, tử tự mấy lần không thành. Bạn bè người thân xa lánh, lang thang phiêu bạt… Ai ngờ gặp Hành âm địa thật là duyên kỳ ngộ. Tôi nửa tin nửa ngờ chạy vội sang nhà hắn, thì thấy bóng dáng một người đàn bà. Dáng người thon thả, khuôn mặt phúc hậu, nhưng đôi mắt hơi ngơ dại. Hắn mời tôi vào nhà. Tôi nghe câu chuyện hắn kể về cô gái như nghe một câu chuyện ngắn của nhà văn Kim Lân viết hôi trước Cách mạng tháng 8. Hắn bảo: “Tình cờ gặp cô ta giữa chợ lần mò tìm cái ăn. Tôi động lòng thương cho bát cơm và hỏi có muốn sống với tôi không? Cô ta đồng ý và tôi dẫn về luôn”.
Cô gái rửa chén hạt mít đưa vào cho chúng tôi, đôi mắt nhìn Hành âm địa một cách e lệ. May sao ở trên đời này còn có những người như Hành âm địa để cô gái tội nghiệp kia có chỗ nương thân. Mọi cái to tát mà chúng ta đang nói sẽ là thừa, nếu chúng ta chưa nghĩ hết vẻ đẹp tâm linh của những người như Hành và cô gái kia. Tôi nhìn hắn, thấy hắn đẹp lên hân hoan như chú rể trong ngày vu quy.
- Đem người ta về thì phải thương người ta chứ. Nửa vời làm khổ họ là không được đâu? – tôi nói như căn dặn hắn.
- Tất nhiên – Hắn trả lời rất tự tin – Vì chúng ta là những con người mà…
Mải miết làm ăn chúng tôi ít chú ý đến nhau, công việc hắn làm cũng túi bụi. Bây giờ sao lắm người chết thế! Từ bệnh tật già yếu đến tai nạn giao thông. Người già yếu chết đã đàn, trẻ choai choai cũng nghẻo. Làm ăn trở lên khó khăn, chuyện cơm áo ở đâu người ta cũng đem ra bàn bạc. Bỗng một hôm vợ Hành tìm tôi trong tiếng khóc nứt nở:
- Anh ơi! Cứu em với anh Hành đã đi rồi!
- Cái gì? Nói cái gì?- Tôi vùng dậy không thể tin vào tai mình.
- Trời ơi! Anh Hành chết rồi! – Cô gái khóc rống lên!
…Tôi quấn vội thi thể Hành trong chiếc chiếu mà hắn trăng trối. Dồn hết tiền tôi lấy cho hắn một chiếc quan tài. Đời thật tê tái, khi sống thì không biết bao nhiêu người được hắn bỏ vào hòm, còn hắn chết thì chẳng có ai. May sao có người đàn bà dở hơi ôm hắn bỏ vào hòm. Chúng tôi đem cổ hậu sự lên xe ba gác. Tôi cầm nặng. Năm đứa trẻ mục đồng đẩy hai bên. Vợ hắn đeo khăn trắng đi giật lùi vì trong bụng chị đang mang đứa con có dòng máu của Hành.
Chiều nghĩa địa âm u. Nấm mộ của hắn được vun lên. Một kiếp người vừa dừng lại. Cả thị trấn xôn xao vì hắn chết đi thì lấy ai làm cái công việc ấy.
Cái bụng của vợ hắn to dần lên…
Hôm nay tôi nghĩ đến công cuộc giảm tô và cải cách ruộng đất, cố lí giải vè câu hỏi nặng mãi trong đầu: Tại sao lại thế?
Vâng, ruộng đất chia cho dân cày thì cứ cho là được đi, nhưng sao phải bắn giết, sao lại gây mâu thuẫn xã hội, chia rẽ cùng cực đến mức con tố cha vợ tố chồng, họ hàng anh em thành thù nghịch. Là cái trò gì đây nhỉ.
Và hôm nay, câu chuyện ồn ào trong quan hệ Việt Trung làm cho câu hỏi đó thức dậy và tôi đã tìm thấy câu trả lời, vấn đề đã sáng ra.
Xin lui lại vài dòng kí ức
Khi giảm tô cải cách ruộng đất năm 1956 tiến hành, tôi 11 tuổi. Những câu chuyện xảy ra tôi còn nhớ đén hôm nay.
Lúc ấy buổi tối, đội thiếu nhi được cắt cử đi trông nhà cho các cốt cán đi họp, để Đội cải cách “ bắt rễ xâu chuôi”.
Trẻ con biết gì, được tụ bạ chơi với nhau, lại do người lớn giao việc thì sướng lắm.
Được một thời gian thì bỗng tôi bị gạt ra khỏi nhóm trông nhà. Lí do đơn giản: gia đình vừa bị qui lên thành phần phú nông, là dính vào bóc lột nên không còn cùng giai cấp với người nghèo nữa.
Không được đi trông nhà ban đêm cho cốt cán đi họp, đó là điều tổn thương tinh thần đầu tiên, cũng là lớn nhất trong đời tôi .
Năm 1943 bố tôi một mình từ Bắc Gang theo chân người quản lí cho chủ đồn điền Bùi Huy Khuê, lên Bản Ngoại , đại Từ , Thái nguyên nhận 7 mẫu ruộng phát canh, nộp tô cho chủ đồn điền.
Năm 1945 cách mạng về, chủ đồn điền bỏ chạy. Từ đấy thuế má nộp cho kháng chiến, gọi là thuế nông nghiệp.
Năm 1946, bố tôi được kết nạp vào Đảng.
Văn hóa lớp 3 xóa mù trong thời bình dân học vụ 1946. Đảng viên như bố tôi thực chất là đầu sai chứ trình độ kiến thức lí luận thì chẳng có gì.
Ông được giao làm trưởng ban giao thông xã.
Làm trưởng ban giao thông có một việc khá quan trọng là trách nhiệm đưa đón cán bộ Việt Minh qua địa bàn sao cho an toàn.
Ông Giáp qua nhà tôi vài ba lần, cụ Hồ cũng qua một hai lần gì đấy. Là nghe bố tôi lào thào với bạn bè.
Việc là đón các ông lúc sáng sớm đưa về nhà, dọn cái buồng để đoàn cán bộ nghỉ. Đến chiều tối lại dẫn đoàn ra cuối xã, lại có người đón, đưa đi tiếp.
1954, Kết thúc cuộc chiến.
Bắt đầu cải cách ruộng đất thì bố tôi được đi theo một đội ở nơi khác cũng để làm cải cách, thì ở nhà gia đình bị qui lên Phú nông, thành giai cấp bóc lột. Ông bị khai trừ khỏi Đảng, đuổi về nhà.
Cũng là may mắn để ông không dính vào tội ác.
Mấy năm ông già lẽo đẽo đi theo cách mạng có khác gì bật mã ôn, thế mà say sưa bỏ việc ở nhà. Mấy mẫu ruộng nhận của chủ điền thì việc cày bừa mẹ phải thuê người trong xóm. Đôi cải cách vội nhìn ngay ra đó là bóc lột, là đối tượng bóc lột và gắn luôn mác Phú nông luôn. Lần đầu tiên gia đình được xác định thành phần giai cấp.Trước đó như tất cả mọi người, đều chỉ là nông dân thôi.
Từ hôm ấy con cái mất quyền lợi họp hành. Những láng giềng thân thiện xưa nay, bây giờ nhìn gia đình tôi thù địch. Những người không thù nghịch thì ngại không giao tiếp sợ liên quan với giai cấp bóc lột.
Đội cải cách do chuyên gia Trung Quốc chỉ đạo tài thật, có mắt thần giúp mọi người nhìn ra địch-ta , mà trước đây mọi người cứ lẫn lộn! May mà ở vùng kháng chiến, bố tôi không mua thước đất nào, nếu có ruộng thì ăn chắc địa chủ. Cứ có 3 mẫu (1ha) là dựa cột ăn đạn rồi.
Lúc làm cách mạng thì tíu tít với công việc cách mạng, nhưng khi lâm nạn thì chẳng ai cứu giúp.
Nhưng rồi sau đó hai năm có chuyện sửa sai. Bố tôi cạy cục lên tỉnh khiếu nại, chờ mất một năm thì nhận đươc một tờ giấy sửa lại thành phần có dấu triện hẳn hoi. Thành phần được sửa xuống trung nông, báo về xã, bây giờ nhà tôi không còn nằm trong giai cấp bóc lột nữa. Nhưng ba năm ở cái thành phần được gán ghép, cả gia đình bị tổn thương tâm lí nặng nề. Anh giai tôi từ đấy nhìn thấy bất cứ cán bộ nào là đều căm ghét. Sau này tôi đi công tác, anh ấy cũng ghét cả tôi. Tổn thương tâm lí với anh ấy thật quá lớn khi thấy cha mẹ mình bị xỉ nhục vô lối.
Ở ta, ai bị bắt nhầm dù chỉ một lần, giam một ngày cũng coi là bị bắt và coi như là đã có tội. Đó là cái nhìn khá chung của xã hội. Thành phần giai cấp cũng vậy, dù đã sửa sai có giấy má rõ ràng nhưng dân xóm xã lứa ấy vẫn coi gia đình tôi là thành phần phú nông. chết tiệt thật.
Tám năm sau tôi mới biết thêm một chuyện nũa do ông tổng biên tập tờ báo Đảng nơi tôi nhận công tác sau khi học xong trung cấp, kể lại. Năm 1966 ông cùng bộ xậu tìm lên nhà định tuyển tôi về đào tạo phóng viên cho báo. Khi lên ủy ban xã hỏi lí lịch gia đình, họ thuật lại chuyện khi sửa sai, Đảng bộ xã có mời lên để nhận lại Đảng tịch, thì ông ấy đứng giữa hội trường nói lớn: Tao đút buồi vào cái Đảng cúa chúng mày, rồi cắp đít ra về.Tổng biên tập nghe vậy sợ quá, rút lui êm re, không còn đặt vấn đề tuyển dụng tôi nữa. Một con người hiền lành ít học, chí cốt đi theo một niềm tin, nhưng qua cuộc cải cách ông đã biến thành con người thô lỗ cục cằn. Một đảng viên như bố tôi có hay không trong Đảng không quan trọng cho sức mạnh của Đảng lắm, nhưng đánh mất một niềm tin, triệt tiêu một hi vọng trong một con người trung thực đó là sự mất mát không bao giờ bù đắp được. Nhưng câu chuyện ấy tuyệt nhiên bố chẳng bao giờ nói trong nhà, chẳng có ai biết.
Chuyện chỉ có thế nhưng tinh thần gia đình tôi u ám trong thời gian khá dài. Sự tổn thương không thể khắc phục nổi, nhất là mỗi lần có viêc gì liên quan đến lí lịch phải khai báo.
* * *
Đến đây , xin trích dấn một đoạn ghi nhớ của Trương Quang Đệ trong bài viết :’ - Bối cảnh lịch sử của phong trào Nhân Văn - Giai Phẩm” mà tôi cho là khá trung thực:
“…Có điều nghịch lý khó tin là trong một vài tuần lễ vào năm 1956, Đảng đứng chung trận tuyến với những kẻ bất mãn và quảng đại quần chúng đối diện với hệ thống chỉ đạo cải cách ruộng đất và chỉnh đốn tổ chức, kẻ nắm quyền thực sự được các cố vấn phương Bắc hỗ trợ. Giáo sư Trần Văn Giàu, dạo đó là bí thư chi bộ (hay Đảng ủy?) đại học, được mời nói chuyện trước sinh viên về chính sách sửa sai của Đảng. Ông Giàu cho biết trong một thời gian dài Đảng bị tê liệt, hễ đội cải cách đến địa phương nào là chính quyền và Đảng nơi đó bị vô hiệu hoá, kẻ thì đi tù, kẻ thì lánh sang địa phương khác hay trốn lên miền núi, kẻ thì ngồi đó chờ số phận định đoạt. Ngay các lãnh tụ của Đảng như Võ Nguyên Giáp, Trường Chinh, Hoàng Văn Hoan…vì thuộc thành phần bóc lột mà bị các đội cải cách địa phương và bần cố nông gửi giấy triệu tập về quê chịu tội. Tướng Giáp khi công cán qua Quảng Bình bị dân quân vây bắt, may mà cận vệ nổ súng đẩy lùi đám cuồng tín hung hãn. Các tên tuổi trong Ban chỉ đạo cải cách như Hồ Viết Thắng, Hoàng Quốc Việt, Lê Văn Lương, làm sởn tóc gáy ngay cả Chủ tịch Hồ Chí Minh. Theo ông Giàu thì Cụ Hồ hai lần bị các vị kia “uốn nắn” vì đã do dự khi hành quyết những phần tử mà Cụ cho là tốt, không có tội gì. Ông Giàu kết thúc buổi nói chuyện bằng lời kêu ca rằng đám cải cách làm đất nước lụn bại, làm đời sống nhân dân và cán bộ lâm vào cảnh cùng cực. “
Vấn đè ở đây là: mục tiêu cải cách ruộng đất là người cày có ruộng nhưng khi làm xong thì hóa ra không phải thế, mà kết quả chính của nó là đã phá vỡ toàn bộ, toàn diện khối đại đoàn kết dân tộc được có từ khi cuộc kháng chiến chống Pháp được phát động. Khối đại đoàn kết đó đã tạo nên sức mạnh vô bờ bến giành chiến thắng trước đối thủ đầy sức mạnh. Đó là di hại thứ nhất có thể trông thấy ngay.
Di hại thứ hai rất cơ bản là các giá trị văn hóa truyền thống nghìn đời như tình cha con, láng giềng, thân tộc , thày trò bị dày vò, bị cày xới cho nát như tương bần. Một bó đũa bị thảy ra tung tóe bẻ cái nào cũng được.
Tổn hại thứ ba là Đảng đã lao đao suýt bị đánh sập khi chơi con dao hai lưỡi cố vấnTàu…
Hậu quả làm cho người ta sống bất an, lúc nào cũng nơm nớp lo sợ một cái gì đó giáng xuống bất ngờ. Tạo nên sự khủng bố tinh thần thường trực. Dai dẳng đén bây giờ vẫn vậy. Từ đó đẻ ra sự dối trá lớp này chồng lên lớp khác, thành căn bệnh xã hội nặng nề khó chữa lành.
Cho đến bây giờ mối di hại ấy chưa tan. Chưa tan vì chưa minh bạch chuyện này sai đến đâu , đúng đén đâu, đảng ta chưa bao giờ làm sáng tỏ, chưa đánh giá kết quả cải cách ruộng đất thật sự về giá trị vĩ mô, mà chỉ chung chung là người cày có ruộng là thắng lợi lớn. Bậy bạ hết sức. Như thế thì sẽ còn tiếp tục sai lầm và tổn thất sẽ lại tiếp tục thôi.
Và câu hỏi lớn vẫn treo lơ lửng: Tại sao?Tại sao lại thế , có thế lực nào ngăn trở? để rồi lại tiếp tục bị cuốn vào rắc rối sâu hơn nữa. Và bây giờ lại dính nhựa những lời hứa hão bằng những cái tình hữu nghị thủy chung chẳng bao giờ có thật.
* * *
Tôi nghĩ cái nợ tàn phá văn hóa truyền thống, phá tan sức mạnh khối đại đoàn kết dân tộc chỉ bằng việc làm cái cách có một hai năm, cái ác đó không khác gì đất nước bị dội bom nguyên tử. Những lãnh đạo Trung Hoa thâm độc thời ấy phải chịu trách nhiệm này. Đó thực sự là một chủ trương, một âm mưu thủ tiêu tinh hoa cách mạng Việt Nam lâu dài để nhằm biến nước ta thành chư hầu.
Cho nên cuộc kháng Mĩ, dù viện trợ bao nhiêu thì cũng chứa thể trả được cái nợ máu xương tinh thần do các cố vấn Tàu gây ra cho dân tộc Việt Nam ta trong cải cách.
Ai hôm nay lấy khẩu súng, tấm áo mẩu lương khô cái mũ cối để hàm ơn lãnh đạo Trung Hoa thì họ cứ hàm ơn, còn tôi khách quan đứng xa nhìn nhận thấy lãnh đạo Trung Hoa nợ dân tộc ta cái nợ ngàn đời khó trả. Chứ ta nợ họ súng ống áo quần tiền bạc thì vài đời con cháu sẽ trả gọn, nếu cần. Còn món nợ do họ gây ra họ sẽ chẳng bao giờ trả nổi, chỉ có vạch ra rõ ràng cho dân tộc cùng biết cùng hiểu mà đề phòng miệng hùm nọc rắn thôi.
Đó cũng là trách nhiệm thật nặng nề và khó khăn của các thế hệ tiếp theo.
Bạn đang đọc truyện trên: truyentop.pro