101-150

101. GẶP QUỈ

Hoàn Công nước Tề đi săn ngoài đầm có Quản Trọng theo hầu. HoànCông trông thấy quỉ, nắm tay Quản Trọng hỏi rằng:- Trọng phụ có thấy gì không?Quản Trọng thưa: Thần không thấy gì cả.Hoàn Công về nghe trong người khó chịu, như là mất vía, rồi sinh ốm, mấyhôm không ra chầu.Có người học trò tên Cáo Ngao vào ra mắt nói rằng:- Nhà vua đau, là tự mình làm ra cả, chớ ma quỉ nào làm được! Phàmchưng khí tán mà không thu lại được, thì tinh thần suy yếu; cái khí ấy bốc lêntrên không xuống được, thì làm cho người ta hay giận dữ, cái khí ấy tụ ở dướikhông vận lên được thì làm cho người ta hay mê lú, chóng quên, cái khí ấykhông lên không xuống, kết ở giữa bụng, thì sinh ra hoảng hốt.Hoàn Công hỏi: Thế nhưng có quỷ thực không?Cáo Ngao thưa: Đất có Thổ Công, sông có Hà Bá, núi có Sơn Thần, bể cóLong Vương, đầm có thứ quỷ gọi là Uy Di.Hoàn Công hỏi hình dạng Uy Di thế nào?Cáo Ngao thưa: Quỷ Uy Di to như cái cối xe, dài như cái càng xe, mặc áotía, đội mũ đỏ, tính hay sợ tiếng sấm, tiếng xe, hễ nghe thấy thì đứng sững,hai tay ôm lấy đầu. Ai trông thấy, thì...rồi làm nên đến nghiệp Bá.Hoàn Công vẫn có chí muốn làm Bá, nghe nói hớn hở cười rằng: "Ấy tatrông thấy cũng như thế đấy".Nói đoạn, sửa mũ, mặc áo, ngồi dậy chưa hết một ngày, bệnh đã khỏi tựbao giờ không biết.Trần Tử TuyếtGIẢI NGHĨAHoàn Công: vua nước Tề, đứng đầu Ngũ Bá thời Xuân ThuQuản Trọng: xem chuyện 44Trọng phụ: trọng tôn Quản Trọng; phụ: cha, gọi như thế có ý tôn QuảnTrọng như chaLỜI BÀNHoàn Công thấy quỷ, sinh lo ngờ mà sinh bệnh, sau có người nói thấy quỉmà làm được nghiệp bá thì khỏi bệnh ngay. Thế mới biết có quỷ hay khôngcó quỷ, quỷ hại mình hay lợi cho mình cũng là tự tâm mình tưởng tượng racả, rồi yên trí như thế mà thôi. "Đau là tại mình chớ quỷ nào làm" Câu CáoNgao nói thật là xác lý, Cáo Ngao lại khéo biết trước, lấy lẽ thuốc thang làmnhư ông lang rõ bệnh của người ốm, khiến người ốm để tai nghe, sau lấychuyện vu vơ đâu đâu mà xử được chuyện mơ hoảng khiến người mới pháđược cái lòng lo ngờ mà hóa nên vui vẻ. Tiếc thay đời bây giờ người mê nhưHoàn Công thật lắm, mà người biết giải mê được như Cáo Ngao lại khôngđược mấy người.


102. MUA NGHĨA

Mạnh Thường Quân nhà giàu cho vay mượn nhiều. Một hôm sai PhùngHuyên sang đất Tiết đòi nợ. Lúc sắp đi Phùng Huyên hỏi: "Tiền thu được cóđịnh mua gì về không? - Mạnh Thường Quân nói: Ngươi xem trong nhà tacòn thiếu thứ gì thì mua".Khi đến đất Tiết, Phùng Huyên cho gọi dân lại bảo rằng: "Các ngươi côngnợ bao nhiêu Thường Quân đều cho cả". Nói rồi đem văn tự ra đốt sạch.Lúc về Phùng Huyên thưa với Mạnh Thường Quân rằng: Nhà Tướng Côngchâu báu đầy kho, chó ngựa đầy chuồng, người đẹp đầy nhà, không còn thiếugì nữa. Chỉ có thiếu một cái "nghĩa" tôi trộm phép vì tướng công đã mua về.Mạnh Thường Quân nghe thấy nói thế, cũng không hỏi gì đến tiền nữa.Sau Mạnh Thường Quân phải bãi quan về ở đất Tiết, dân đất Tiết nhớ đếnơn xưa, ra đón rước đầy đường, Mạnh Thường Quân bấy giờ mới ngoảnh lạibảo Phùng Huyên rằng: "Trước tiên sinh vì tôi mua "nghĩa", nghĩa ấy ngàynay tôi mới trông thấy".Quốc SáchGIẢI NGHĨAMạnh Thường Quân: xem chuyện số 52Phùng Huyên: người khách ở nhà Mạnh Thường Quân, muốn gì được nấynên giúp Mạnh Thường Quân được nhiều việc, khi Thường Quân bị bãi về,cũng nhờ có Phùng Huyên mà được phục chứcTiết: tên một nước nhỏ thời Chiến Quốc, sau bị nước Hồ lấy mất, nay làhuyện Đằng, tỉnh Sơn Đông


103. ỨNG ĐỐI GIỎI

Án Tử sắp sang nước Sở, vua Sở nghe thấy bảo cận thần rằng:- Án Tử là một tay ăn nói giỏi nước Tề, nay sắp sang đây, ta muốn làmnhục, có cách gì không?Cận thần thưa: Đợi bao giờ Án Tử sang, chúng tôi xin trói một người , dẫnđến trước mặt nhà vua.- Để làm gì?- Để giả làm người nước Tề.- Cho là phạm tội gì?- Tội ăn trộmLúc Án Tử đến nơi, vua Sở làm tiệc thiết đãi tử tế. Rượu uống ngà ngà,bỗng thấy hai tên lính điệu một người bị trói vào.Vua hỏi: Tên kia tội gì mà phải trói thế?Lính thưa: Tên ấy là người nước Tề phải tội ăn trộm.Vua đưa mắt nhìn Án Tử hỏi rằng:- Người nước Tề hay trộm cắp lắm nhỉ?Án Tử đứng dậy thưa rằng: Chúng tôi trộm nghe cây quất mọc ở đất HoàiNam, thì là quất ngọt, đem sang trồng ở đất Hoài Bắc, thì hóa quất chua.Cành lá giống nhau mà quả chua, quả ngọt khác nhau là tại làm sao? Tại thủythổ khác nhau vậy. Nay dân sinh trưởng ở nước Tề thì không ăn trộm, sang ởnước Sở thì sinh trộm cắp. Có lẽ cũng tại vì cái thủy thổ khác nhau nó khiếnra như thế chăng!Vua Sở cười nói: Ta muốn nói đùa thành phải chịu nhục. Thế mới hay kẻcả không nên nói đùa bao giờ.GIẢI NGHĨAHoài Nam, Hoài Bắc: hai đất ở về phía Nam, phía Bắc sông Hoài ở vùngGiang Tô, An Huy bây giờ.


104. HÀ CHÍNH MÃNH Ư HỔ

Đức Khổng Tử khi sang nước Tề, đi qua núi Thái Sơn thấy một ngưới đànbà khóc ở ngoài đồng, nghe thê thảm lắm. Ngài nói rằng:Người đàn bà này xem như trong nhà có trùng tang.Rồi sai thầy Tử Cống đến hỏi. Người đàn bà thưa rằng:Ở đây lắm hổ, bố chồng tôi đã chết vì hổ, chồng tôi đã chết vì hổ, bây giờcon tôi lại chết vì hổ nữa. Thảm lắm ông ạ!Thầy Tử Cống bảo:Thế sao không bỏ chỗ này đi ở chỗ khác?Người đàn bà nói:Tuy vậy nhưng ở đây chính sách quan trên không đến nỗi hà khắc tàn bạonhư các nơi khác.Thầy Tử Cống đem câu chuyện thưa lại với Đức Khổng TửĐức Khổng Tử nói:Các ngươi nhớ đấy: Chính sách hà khắc khốc hại hơn là hổ.Lễ kýLỜI BÀN: Người đàn bà ở một nơi lắm hổ, hổ ăn thịt mất bố chồng, mấtchồng lại mất con, đáng lẽ phải bỏ nơi ấy mà đi nơi khác. Nhưng không là tạilàm sao? Tại người đàn bà cho chính sách các nơi khác là hà khắc hơn dữhơn là hổ. Ôi! Hổ có hại chị một số ít người, chớ hà chính hại cả muôn dân,hổ có hại chỉ hại một phương, chớ hà chính hại cả toàn quốc. Hổ hại còn cócạm bẫy, cạm trừ bỏ được, chớ hà chính hại, trừ bỏ rất khó lòng. Thật vậy, kẻdùng hà chính hại dân đã dữ quá hổ, lại còn bao nhiêu thần tử bè cánh, phầnlàm cho hổ thêm cánh, phần mượn oai hổ đi ăn thịt người. Hà chính một khitrừ bỏ được thì dân cũng đã điêu tàn và nước cũng đã bao kiệt. Vậy ai làngười có chút quyền chính trong tay mà chẳng nên lấy câu "Hà chính mãnh ưhổ" để làm câu cảnh giới thống thiết cho dân được nhờ ư.


105. HANG NGU CÔNG

Vua Hoàn Công nước Tề đi săn, đuổi con hươu chạy vào trong một cáihang, thấy có một ông lão, bèn hỏi rằng:- Hang này tên gọi là hang gì?Ông lão thưa:- Tên là hang Ngu Công- Tại làm sao mà đặt tên như thế?- Tại kẻ hạ thần đây mới thành có tên ấy.- Coi hình dáng lão không phải người ngu cớ gì lại đặt cái tên như thế?Để hạ thần xin nói:- Nguyên hạ thần có con bò cái đẻ được một con. Khi bò con đã lớn, Hạthần đem đi bán, rồi lấy tiền mua một con ngựa con đem về cùng nuôi với bòcái. Một hôm, có một chàng thiếu niên đến lấy lý "bò không đẻ được rangựa" bèn bắt con ngựa con đem đi. Tôi chịu mất, không cãi được. Vì thế xagần đâu cũng cho tôi là ngu, mới gọi hang tôi ở đây là hang Ngu Công.Hoàn Công nói:- Lão thế thì ngu thật!Buổi chiều hôm sau, Hoàn Công đem câu chuyện kể lại cho Quản Trọngnghe.Quản Trọng nói:- Đó chính là cái ngu của Di Ngô này. Nếu được vua giỏi như vua Nghiêu,bầy tôi minh như Cao Dao, thì khi nào lại có kẻ dám ngỗ ngược, lấy khôngngựa của người ta như vậy. Ngu Công mà đành để mất ngựa, chắc biết rõhình pháp ngày nay không ra gì. Xin nhà vua kíp chỉnh đốn các chính sự lại.Đức Khổng Tử nghe thấy nói:- Đệ tử đâu, ghi lấy việc ấy! Hoàn Công là ba quân, Quản Trọng là hiềnthần. Tuy đã vào bậc khôn ngoan, mà còn tự cho là ngu dại.Khổng Tử tập ngữGIẢI NGHĨA:- Ngu Công: Ông ngu dại.- Di Ngô: tên của Quản Trọng.LỜI BÀN: Ông lão cam tâm mất ngựa lại chịu cả tiếng "ngu" là ý lão nghĩgặp phải thời buổi người trên tham nhũng, kẻ dưới hung nghịch, đành chịu đểêm chuyện đi, còn hơn dở khôn đi kiện, chẳng những mất ngựa, mà có khi lạimất cả bò và bao tiền của, thời giờ vào đấy nữa. Hoàn Công thấy chuyện màlưu tâm đến, thế là ông vua có bụng với dân. Quản Trọng nghe chuyện màbiết nhận ngay cái lỗi ấy tại mính, thế là cũng là hai bậc minh quân, lươngtướng hiểu rõ cái trách nhiệm chăm dân của mình, nên Đức Khổng Tử có lờikhen thực là đáng lắm. Vì rằng giữ vận mệnh một dân tộc mà không hiểuthấy ẩn tình của dân, thì tuy có lòng thương dân, dân vẫn khổ và nước vẫnkhông yên được.


106. TRUNG HIẾU LƯỠNG TOÀN

Đời vua Chiêu Vương nước Kinh, có người Thạch Chử làm quan rất côngbình chính trực.Một hôm, đang đi tuần trong hạt thấy ở ngoài đường có kẻ giết người.Thạch Chử đuổi bắt, thì ra chính cha mình, bèn quay xe trở lại rồi chạy đếntrước sân rồng nói rằng:Kẻ giết người là cha tôi. Bắt cha mà làm tội thì tình không nỡ, vì cha màbỏ phép nước thì lý không xuôi. Làm quan đã không giữ phép thì phải chịutội.Vừa nói vừa kề gươm vào cổ, xin vua cho hành hình.Vua nói:Nhà ngươi đuổi mà không bắt được đã là biết giữ phép còn có tội gì. Cứyên tâm làm chức vụ.Thạch Chử thưa:Làm con không ủy khúc thờ cha, không gọi là người con có hiếu, làm tôikhông công bằng giữ phép nước không gọi là bấy tôi trung. Bao dung mà xátội là ơn của quân thượng, trái phép mà chịu tội là phận của tôi con.Nói đoạn cầm gươm tự sát.Không giữ phép nước thì chết, cha phạm tội không nỡ bắt, vua tha tộikhông chịu nhận. Người Thạch Chử làm quan như thế, thật là người trunghiếu lưỡng toàn.Lã Thị Xuân Thu

GIẢI NGHĨA:- Thạch Chử: tức Thạch Xa, tướng giỏi của vua Chiêu Vương, người thanhliêm chính trực.

LỜI BÀN: Đồng thời bấy giờ có kẻ, vì thù cha mà quật mả vua lên màđánh vào xác thật là người có hiếu nhưng không có trung. Lại có kẻ, vì phépnước mà làm chứng nói thẳng cha ăn trộm dê thật là người có trung nhưngkhông có hiếu. Sao bằng Thạch Chử đây, giết cha không nỡ, dối vua khôngđành, cam chịu trái phép để cứu cha, thì thân để giữ phép. Thực mới là trọnđược cả đôi niềm trung hiếu vậy. Ta cũng nên biết khổ tâm của Thạch Chử cókhi là: được vua tha cho mà cứ cẩu thả sống, sống chỉ càng làm to cái hung áccủa cha, giết người không tội vạ, kết cục liệu cha có thoát án tử hình không.Sống chỉ tăng cái tư tình của vua để cho vua khinh nhờn phép nước, biết đâusau này không gây ra cuộc rối loạn trị an, thì thà một chết còn hơn đối với giađình đủ làm cho cha hối hận mà tuyệt được mầm ác, đối với tổ quốc đủ làmcho vua tỉnh ngộ mà tự mình giữ phép để trọng tính mệnh dân. Thạch Chửkhông nhưng trung hiếu mà còn là nhân nữa.


107. MONG LÀM ĐIỀU PHẢI

Nước Lỗ có người ở một mình một nhà. Bên láng giềng có người đàn bàgóa cũng một mình một nhà.

Một đêm, mưa to, gió lớn, nhà người đàn bà đổ, người đàn bà sang xin ngủnhờ nhà người láng giềng. Người láng giềng đóng cửa không cho vào. Ngườiđàn bà đứng trước cửa sổ nói rằng:

Ngươi sao bất nhân thế! Không cho ta vào ư?

Người láng giềng đáp:

Ta nghe đàn ông, đàn bà sáu mươi tuổi trở lên, mới ở chung được, nayngười còn trẻ mà ta cũng còn trẻ cho nên ta không cho người vào ngủ nhờđược.

Người đàn bà nói:

Ngươi sao không làm như ông Liễu Hạ Huệ ủ người con gái ngồi vào lòng mà không tai tiếng gì?Ông Liễu Hạ Huệ thì thế được, ta đây thật chưa thể được. Ví ta cho ngươivào mà không được như ông Liễu Hạ Huệ, thì thà rằng, ta không cho ngươi vào mà ta cũng giữ không tai tiếng gì được như ông Liễu Hạ Huệ. Thế chẳng là ta không làm theo như Liễu Hạ Huệ mà cũng được như Liễu Hạ Huệ ư?

Đức Khổng Tử nghe chuyện nói:

Phải lắm! Kẻ muốn học ông Liễu Hạ Huệ, chưa ai giống được như người nước Lỗ này, mong làm điều rất phải, không bắt chước cách làm, rồi mà làm được, thế mới thật khôn.

Lã Thị Xuân Thu


108. KẺ BẤT CHÍNH

Nước Sở có người có hai vợ. Vợ cả và vợ lẽ cùng đẹp, cùng xinh.Anh láng giềng ghẹo người vợ cả. Người vợ cả giận và mắng thậm tệ. Anhláng giềng lại ghẹo vợ lẽ, người vợ lẽ bằng lòng đi lại.Không bao lâu, người hai vợ ấy chết. Anh láng giềng muốn tính cuộcvuông tròn lại dạm hỏi người vợ cả.Có kẻ hỏi rằng:Người vợ cả trước đã mắng anh người vợ lẽ vẫn có tình với anh, sao bâygiờ anh lại định lấy người vợ cả.Anh ta đáp:Lúc người ta còn là vợ người, thì thích kẻ tư tình với mình, lúc người ta đãlà vợ mình thì thích kẻ không tư tính với ai. Kẻ trước đã tư tình với tôi, thì rồiai nó cũng tư tình được, thiên hạ ai cũng là chồng nó được. Cho nên bây giờtôi không lấy nó.Thế mới hay con người bất chính đi làm tôi tớ người ta dù làm cho ngườita bằng lòng đến đâu, người ta vẫn rẻ rúm khinh bỉ.

LỜI BÀN: Ở đời những kẻ dễ đổi lòng như người vợ lẽ nói trong chuyệnnày là những kẻ bất chính. Đã bất chính thường hay phản trắc, rất nên khinhbỉ. Còn những kẻ chính trực như người vợ cả nói trong chuyện này, thì lúcnào cũng thuần thục thẳng băng dù chẳng may gặp sự khó khăn, thiên hạ nhưcó phần không ưa, mà thực bụng vẫn kính phục vô cùng. Ta có hiểu rõ cáitâm lý ấy như người lấy vợ đây thì mới gần được người quân tử mà xa đượckẻ tiểu nhân.


109. NHÂN TRUNG DÀI THÌ SỐNG LÂUMột hôm vua Vũ Đế nhà Hán nói với các quan rằng:Ta xem trong sách tướng có nói: người ta nhân trung dài một tấc thì sốnglâu đến một trăm tuổi.Đông Phương Sóc đứng bên, phì cười. Các quan bặc là vô phép.Đông Phương Sóc cất mũ, tạ rằng:Muôn tâu Bệ hạ, kẻ hạ thần không dám cười bệ hạ, chỉ cười ông Bành Tổmặt dài thôiVua hỏi:Sao lại cười ông Bành Tổ?Đông Phương Sóc nói:Tục truyền ông Bành Tổ sống tám trăm tuổi, nếu quả thực như câu trongsách tướng Bệ hạ vừa nói, thì nhân trung ông dài tám tấc, mà nhân trung ôngdài tám tấc thì dễ mặt ông dài đến một trượng.Vua Vũ Đế nghe nói, bật cười, tha tội cho.Sử KýGIẢI NGHĨA- Vũ Đế: vua nhà Hán trị vì bên Tàu (140 TCN - 88 TCN)- Đông Phương Sóc: Bầy tôi vua Vũ Đế nhà Hán là người ăn nói giỏi, tínhhay khôi hài.- Bành tổ: Tên ông lão đới cổ cho là sống lâu lắm.LỜI BÀN: Vua Vũ Đế nhắc câu trong sách tướng là có lòng mê tín tướngthuật. Đông Phương Sóc cười, rồi nói như thế, tuy là khôi hài, nhưng thực ýlàm cho phá được sự quá tin của vua. Nhân trung có phải là thước đo sự thọ,yểu của người ta, người ta trước hết phải ăn ở cho nhân từ, làm việc chochăm chỉ, ăn uống cho điều độ và biết quả dục, thì mới có sống lâu được.


110. THUỐC BẤT TỬThời Chiến quốc, có người đem dâng vua nước Sở một vị thuốc bất tử.Người ấy bưng vị thuốc vào, có viên quan canh cửa hỏi rằng:"Vị thuốc này có ăn được không?"Người đáp" "Ăn được".Tức thì, viên quan giật lấy vị thuốc mà ăn.Chuyện nói đến tai vua. Vua phán bắt viên quan đem giết.Viên quan kêu rằng:"Thần đã hỏi người đem dâng thuốc. Người ấy nói rằng: "Ăn được", nênthần mới dám ăn. Thế là thần vô tội mà lỗi ở người dâng thuốc. Vả chăngngười đem dâng nói là "bất tử" , nghĩa là ăn vào thì không chết nữa. Thế màthần mới ăn, đã sắp chết, vậy là thuốc tử chứ sao gọi là bất tử được? Nhà vuagiết thần, thực là bắt tội một người vô tội mà tỏ rằng thiên hạ dối được nhàvua mà nhà vua vẫn tin."Vua nghe nói có lý, bèn tha cho viên quan ấy không giết nữa.GIẢI NGHĨAChiến quốc: xem bài số 69LỜI BÀNCó sinh thì phải có tử. Không vật nào có sinh mà lại ra ngoài vòng tử. Kẻdâng thuốc bất tử, vua Sở có lòng mê tín, không hiểu thấu cái lẽ đó. Viênquan canh cửa làm ra thế, là có ý lấp cái lối lừa đảo của kẻ nịnh, phá cái bụngmê hoặc của vua, khiến cho vua phải tỉnh ngộ. Lời nói tựa giọng khôi hài,nhưng thật là có lý thú.


111. CÁI LẼ SỐNG CHẾTMạnh Tôn Dương hỏi Dương Tử: Có kẻ mến đời, yêu thân, cầu cho khôngchết có nên không?Dương Tử nói: Có sống thì phải có chết, lẽ nào mà không chết được?- Thế cầu sống lâu có nên không?- Lẽ nào sống lâu được? Người ta không phải thích sống mà sống mãiđược, yêu thân mà thân còn mãi được. Vả chăng sống lâu để làm gì? Thế tìnhhay dở xưa cũng như nay; thân thể an nguy xưa cũng như nay; việc đời vuakhổ xưa cũng như nay; biến đổi trị loạn xưa cũng như nay; cái gì cũng đãnghe thấy, đã trông thấy, đã từng trải cả rồi, thì sống trong khoảng trăm nămcũng đủ lấy làm chán, huống còn cầu lấy sống lâu để cho khổ làm gì?Mạnh Tôn Dương nói: Nếu như thế thì chóng chết còn hơn là sống lâu. Tanên xông vào gươm giáo, nhẩy vào nước lửa để chết ngay đi có thỏa không?Dương Tử nói: Không phải thế. Đã sinh ra đời thì lúc sống cứ tự nhiênmặc, muốn làm gì thì làm, cho đến lúc chết. Lúc sắp chết, cũng tự nhiên mặc,muốn hóa ra gì thì hóa cho đến lúc cùng. Lúc sống, lúc chêt, lúc nào cũng tựnhiên như không, hà tất phải quan tâm sống lâu hay chóng chết làm gì?Dương TửGIẢI NGHĨADương Tử: người thời Chiến quốc, tên tự là Tử Cư, tôn chỉ học thuyết là:"Mất một cái lông mà lợi thiên hạ cũng không cho, được cả thiên hạ phụngsự một mình cũng không làm, người nào cũng không chịu thiệt, người nàocũng không ham lợi thì thiên hạ tự nhiên thái bình". Học thuyết ấy rất thịnhhành thời Chiến quốc và người đời bây giờ cho là học thuyết "Vị ngã".LỜI BÀNNgười ta ở đời, kẻ thì mến đời không muốn chết, hoặc lại có kẻ chán đờikhông muốn sống. Như thế đều lầm cả. Sự sống chết không phải tự mình cóchủ quyền được, thì mình đem tâm lo nghĩ, cầu khẩn về việc sống chết mà cóích gì! Thà rằng: tự lúc sống đến lúc chết, việc mình mình làm, ngoại giả phómặc ở sự tự nhiên cho gọi là Số, là Mệnh, là Tạo hóa cũng không cần. Thóiđời thường tình vẫn tham sống, sợ chết. Nhưng chết, vị tất đã là khổ hẳn. Màsống, cũng không ai bảo là toàn sướng được! Như xưa có kẻ sống hơn trămtuổi, ai chẳng cho sống lâu là quí, thế mà người ấy vẫn thường ca thán rằng:"Sống làm chi cho nhục!". Sống lâu vô ích cho đời mà chỉ trông nhiều cảnhtang thương thì có hay gì.


112. NÓI VỀ SỐNG CHẾTNgười thì cho sống là sướng, chết là khổ, như thế là phái mến đời. Ngườilại cho rằng chết là sướng, sống là khổ, như thế là phái chán đời.Cứ theo ý ta, thì ta tưởng ai tuy còn sống, thân thể khỏe mạnh mà ý chí suyđồi thì sống cũng như chết; ai thân thể tuy chết mà chí khí vẫn còn ở tâm nãotai mắt người ta thì chết cũng như sống. Cho nên bậc quân tử đối với sự sốngchết, không bằng ở phần xác có hay không, bằng ở phần hồn còn hay mất. Kẻtiểu nhân thì không thể: đương lúc còn sống mê muội về tài lợi, nhọc nhằn vềbôn tẩu, đến lúc người ta thóa mạ thì lại nói rằng:"Đã sinh ra làm người, chẳng để được tiếng hay trăm đời, thì cũng để lạitiếng dở muôn năm". Than ôi! Kẻ nói như thế thì biết làm sao được cái lẽsống chết!Khuyết DanhLỜI BÀNNgười ta tuy chia hai phần: xác thịt và linh hồn, nhưng hai phần thật cóliên lạc với nhau là một, xác có khỏe hồn mới còn; hồn còn mạnh xác mới cógiá. Vậy ta không bảo khinh hẳn một bên nào mà chỉ trọng một bên nàođược. Nhưng bài này không chủ ý nói về tâm lý hay vệ sinh. Bài này chỉ cốtnói rõ thế nào là sống, thế nào là chết mà thôi. Những kẻ sống không ai biết,chết chẳng ai hay thì tuy sống cũng là vô ích. Còn những bậc ích Quốc lợiDân thì dẫu chết đi nữa nhưng thiên hạ vẫn còn nhớ đến, vẫn còn sùng bái thìcũng kể như là còn sống. Ngoài ra còn hạng người đê mạt đi xú thì nói màlàm chi! Nếu ở đởi chẳng để tiếng hay lại được, thà không để tiếng gì nữacòn hơn là để tiếng xấu, chỉ làm cái bia cho thế gian chê cười mà thôi.


113. BIẾT DỞ SỬA NGAYĐái Doanh Chi làm quan đại phu nước Tống, nói chuyện với thầy MạnhTử rằng:"Cứ như cổ chế thì ruộng đánh thuế theo phép tỉnh điền, chợ và cửa ải chỉxét hỏi không mà thôi. Như thế thực là hay nhưng ta chưa làm ngay được.Bây giờ ta hãy đánh nhẹ bớt thuế đi, đợi đến sang năm mới bãi hẳn thì nhàthầy nghĩ thế nào?"Thầy Mạnh Tử nói: Nay có người mỗi ngày ăn trộm một con gà của hàngxóm. Có kẻ bảo anh ta:"Làm thế không phải là cách của con người lương thiện. - Anh ta đáp: Ôngnói phải lắm, nhưng tôi chưa thể chừa ngay được. Xin để chừa dần, từ naymỗi tháng tôi ăn trộm một con thôi, đợi đến sang năm tôi sẽ chừa hẳn".Phỏng nói như thế thì có nghe được không?Phàm làm việc gì cũng vậy, chưa biết là phi nghĩa thì thôi, chớ đã biết làphi nghĩa thì phải bỏ cho mau cho chóng, sao lại còn đợi đến sang năm?Mạnh TửLỜI BÀNPhàm nghĩa với lợi không cùng đi được với nhau. Nếu làm nghĩa mà còntính lợi, cứ tìm cách trì hoãn mãi lại thì biết đến bao giờ mới nên? Cho nênviệc đã trót làm biết là dở chẳng những không sửa được, lại còn e mỗi ngàymột to thêm mãi ra, nhỏ thì hại việc tu thân, tề gia, lớn thì hại đến việc trịquốc, bình thiên hạ. Câu nói: "Cái gì làm được hôm nay chớ để đến ngàymai", ta nên ghi nhớ lấy.


114. TÀI BẤT TÀIMột hôm Trang Tử cùng với học trò đi chơi ở trong núi. Thấy một cây to,cành lá rườm rà, có người đốn gỗ chống búa đứng bên mà không chặt.Trang Tử hỏi: "Sao không chặt cây này thế?"Người đốn gỗ đáp: "Cây này tuy thế mà gỗ xấu không dùng được việc".Trang Tử nói: "Cây này chỉ vì không ra gì mà sống lâu được mãi".Ra khỏi núi, Trang Tử vào chơi nhà một người quen. Chủ nhà vui mừng,bảo người nhà đem chim nhạn làm thịt.Người nhà hỏi: "Một con gáy được, một con không gáy được thì làm thịtcon nào?"Chủ bảo: "Làm con không gáy".Hôm sau, học trò hỏi Trang Tử rằng:"Cái cây ở núi vì bất tài mà được sống lâu, con nhạn ở nhà chủ vì bất tàimà phải giết chết. Giá như tiên sinh thì xử vào địa vị tài hay bất tài?"Trang Tử cười rồi nói: "Ta xử vào trong cái khoảng giữa tài và bất tài. Nhưvậy thì tránh khỏi được tai nạn song chưa phải là kế vẹn toàn. Chỉ những bậcđạo đức cao siêu, không quản khen chê, lúc như rồng lúc như rắn, không hẳnrõ ra tài hay bất tài, lúc lên lúc xuống chỉ lấy đức hòa làm mực. siêu việt cảmuôn vật, tuy là người ma lại khác người... Những bậc như thế thì còn gì lụyđến thân được! Còn thói đời thường tình nào có thế? Hợp với người thì có lúclìa tan, làm nên việc thì có người nghị luận; ngay thẳng thì bị đè nén; tôntrọng thì bị chê bai; làm thì có kẻ phá; giỏi thì có người ghen; không ra gì thìthiên hạ lại khinh bỉ... Nhân tình như thế thì làm thế nào được? Thương ôi!Các người nên ghi lấy, chỉ có đạo đức mới khỏi lụy mà thôi.Trang Tử TuyếtLỜI BÀNTài cũng khổ: quân tử đa nạn, tài liền với tai. Bất tài cũng khổ: khôn sốngdại mái, dại để người ăn. Vậy con người ta phải làm thế nào cho ở vàokhoảng giữa tài và bất tài thì mới gọi là khôn khéo nghĩa là thông minh thánhtrí mà như ngu thì mới sinh tồn được. Tuy vậy vẫn chưa bằng người có đạođức, nghĩa là người chỉ lấy một cái bụng ăn ở theo thiên lương mà ra ngoàivòng được cái tài, bao bọc được hết cả thiên hạ mà không gì lụy đến thân.Thế mới hay: chữ "tâm" kia mới thực là thu liễm được cái tài mà bổ cứuđược cái bất tài vậy.


115. QUÊN CẢ CÁI THÂNVua Ai Công hỏi Đức Khổng Tử:- Quả nhân nghe nói có người tính hay quên, lúc dọn nhà, quên mất vợ cóthật không?Đức Khổng Tử thưa rằng:- Có người quên như thế cũng chưa lấy gì làm tệ. Có người còn tệ hơn nữa,quên cả đến cái thân của mình.Vua Ai Công hỏi:- Thế nào mà lại đến quên cả cái thân của mình nữa?Đức Khổng Tử nói:- Ngày xưa vua Kiệt nhà Hạ giàu có cả bốn bể, song làm đến thiên tử chỉ vìsao nhãng cơ đồ của tổ tiên, hủy điểm phát của nước nhà, tin dùng kẻ xiểmnịnh, ghét bỏ kẻ trung lương, ngày ngày say đắm sắc dục, săn bắn rượu chè,hoang du vô độ, sau đến nỗi bị ông Thang giết chết mà mất... Thế chẳng phảilà thân mà quên cả thân là gì?Khổng Tử Tập NgữGIẢI NGHĨAAi Công: Vua nước LỗKiệt: Vua cuối đời nhà Hạ, tàn dân, bại vật đến nỗi mất nướcHạ: một nhà làm vua bên Tàu đến hơn bốn trăm năm (2205- 1818)Thang: vua đầu nhà Thương giết vua Kiệt nhà HạLỜI BÀNDọn nhà không ai dọn vợ. Nhưng thí dụ có kẻ dọn nhà hoặc quên mất vợthì thiên hạ tất lấy làm lạ lùng và buồn cười lắm. Thế mà những kẻ quên thânrất nhiều và đáng sỉ tiếu, thì lại không mấy người nghĩ đến. Phàm chưng ai đãcó một sự ham mê gì, rượu chè, thuốc phiện, trai gái, cờ bạc đến quên cả tínhmạng, cửa nhà, xã hội đều là quên thân rất đáng tiếc. Nhất là những bậcthông minh tài trí có quyền thế trong tay, mà quên thân thì lại đáng tiếc hơnnữa. Nên Đức Khổng Tử kể chuyện vua Kiệt mà có ý cảm hóa Ai Công vậy.


116. ĐẠI ĐỒNGĐường lối chính trị rất cao cả mà thực hình thì thiên hạ phải là của chungcủa cả thiên hạ, không một người nào hay một nước nào được nhận thiên hạlàm của riêng mình. Kén chọn người có đức vọng để làm lãnh đạo, tuyển củngười có tài năng để ra gánh vác. Giao thiệp đi lại với nhau cho có chữ "tín"lỡ có hiểu lầm nhau phải phân trần ngay... Ăn ở đối đãi với nhau cần phải"hòa" lỡ có chênh lệch phải sửa đổi ngay. Có thể, tự khắc ai ai cũng đều tônquý cha mẹ người như cha mẹ mình, ai ai cũng thân yêu con cái người nhưcon cái mình...Của ở trên mặt đất hay ở dưới đất, đáng ghét nhất là ngu dại bỏ phí bỏhoài, không biết tăng gia, không biết khai thác, không biết lợi dụng. Có biếtmà làm được, cần phải cùng hưởng, cùng dùng, chớ có vơ cả làm của riêng.Đã là người thời chẳng nhiều thì ít, ai cũng có sức lực và năng lực, đángghét nhất là lười biếng, chỉ thích ỷ lại hay thích đài đệ, không chịu dùng sứcmình để cung cấp, không chịu đem năng lực để đảm nhiệm công việc chung.Như việc dùng sức lực năng lực, cần phải cống hiến cho quần chúng, chớ cólàm hay riêng cho bản thân là cá nhân...Có thế thới cơ mưu gian trá mới không nẩy ra và trộm cướp tự nhiên tiêudiệtĐại khái như thế mới gọi là " đại đồng".Lễ kýLỜI BÀN: Thuyết đại đồng nêu ra tự đời Xuân Thu mấy nghìn năm vềtrước nghe cũng đã lấy làm vui sướng, huống chi đến đời chúng ta ngày nay,cái đời tranh sống chết kịch liệt, ta được nghe thì lấy làm vui sướng và ao ướcbiết chừng nào! Lý tưởng đại đồng sống chung với nhau đấy tín nghĩa thân ái,người với ta như một, sung sướng hưởng chung, chỉ những hòa thuận và hòabình bồng lai và nát bàn thật. Lý tưởng quý báu cao cả ấy có thực hiện đượckhông? Ai ai cũng có chân tâm mà làm thực sự, sao lại không thực hiện được.Khốn nỗi, người sẵn chân tâm mà làm thực sự, có nhưng rất hiếm; kẻ giảdanh giả nhân nghĩa, khéo lợi dụng thì lại quá nhiều. Vả lại, nhân loại truynguyên ra thì trong đầu óc vẫn rớt lại những thú tính, thâm dâm hung tàn. Đasố chỉ có nghĩ lành, nói lành, ước ao lành, cầu người lành bắt, người làmlành, mà chính thân thì ác. Thậm chí người ta phải nói: "Người là giống rấttàn ác hơn cả các loài mãnh thú". Người lúc nào cũng làm khổ người thì đạiđồng bao giờ mới thực hiện được.


117.CẦU Ở MÌNH HƠN CẦU Ở NGƯỜINgụy Văn Hầu hỏi Hồ Quyển Tử:- Cha hiền có đủ nhờ cậy không?Hồ Quyển Tử thưa:- Không đủ- Con hiền có đủ nhờ cậy không?- Không đủ- Anh hiền có đủ nhờ cậy không?- Không đủ- Bầy tôi hiền có đủ nhờ cậy không?- Không đủVăn Hầu đổi sắc mặt, gắt rằng:- Quả nhân hỏi nhà ngươi năm điều mà điều nào ngươi cũng cho là khôngđủ tại cớ làm sao?Hồ Quyển Tử nói:- Cha hiền không ai hơn vua Nghiêu mà con là Đan Chu phải bị đuổi. Conhiền không ai hơn vua Thuấn mà cha là Cổ Tẩu thực ngang ngạnh. Anh hiềnkhông ai hơn vua Thuấn mà em là Tượng rất ngạo mạn. Em hiền không aihơn là ông Chu Công mà Quản Thúc bị giết. Bầy tôi hiền không ai hơn ôngThang, ông Vũ mà vua Kiệt, vua Trụ mất nước... Mong người không đượcnhư ý, cậy người không được bền lâu. Nhà vua muốn cho nước được bình trị,thì phải cậy ở mình trước, hơn là mong nhờ người.Hàn thi ngoại truyệnGiải nghĩa:- Ngụy Văn Hầu: vua nước Ngụy.- Hồ Quyển Tử: người nước Ngụy.- Hiền: người có phẩm hạnh có học thức tài năng.- Đan Chu: con vua Nghiêu tên là Chu phong cho ở đất Đan nên gọi là ĐanChu. Vua Nghiêu phải phóng( bỏ) Đan Chu vì Đan Chu là đứa con bất hiếu.- Thuấn: tên Đào họ Diệu, nối vua Nghiêu mà trị thiên hạ (nhà Ngu).- Cổ Tẩu: cha vua Thuấn.- Tượng: em vua Thuấn nhưng khác *** là người ngạo mạn vô lễ.- Chu Công: tên Đán em của Vũ Vương, phong ở nước Lỗ lúc vua VũVương mất, vua Thành Vương còn bé lên ngôi giúp việc nên thiên hạ đại trị.- Quản Thúc: tên là Tiên anh Chu Công được phong ở đất Quản, về bè dưđảng nhà Ân, phản nhà Chu nên bị Chu Công giết.- Thang: họ Tự tên Lý, trước là chư hầu vua Kiệt nhà Hạ, nhưng vì vuaKiệt vô đạo nên mới nổi dậy đánh lấy nước mà lập ra nhà Thương- Vũ: tên là Phát con vua Văn Vương bầy tôi vua Trụ nhà Thương, nhưngvì vua Trụ bạo ngược, Vũ Vương đánh lấy nước lên ngôi Thiên tử đặt ra nhàChu.LỜI BÀN: Cốt ý Văn Hầu nước Ngụy là chỉ muốn hỏi có thể nhờ cậy đượcbấy tôi không, nhưng lúc đầu có mượn mấy câu hỏi đến cha con, anh em rồimới dẫn đến vua tôi. Hồ Quyển Tử đáp như thế là rất phải. Cha tuy từ vớicon, con tuy hiếu với cha, anh tuy yêu em, em tuy kính anh, bấy tôi tuy trungvới vua, nhưng mỗi người vị tất đã là hay được đủ mọi vẻ. Nếu mình khôngcần chịu ở mình, chỉ biết cầu những bậc ấy để đến nỗi thất đức, thì chẳngnhững không lợi gì mà còn hại đến thân mình nữa. Ta mong người, nhưngngười ai cũng có thân, không ai bỏ cái thân mình để giúp cho ta, ta cậy người,nhưng người cũng có lúc cùng, không thể suốt đời mà đỡ đần ta được. Vậy taở đời, chẳng nên chỉ biết mong cậy vào người. Ta phải biết tự chủ tự lập, chớcó bỏ mình mà cầu người. Câu "Quân tử cầu chư kỷ" trong Luận ngữ và câu" Aide toi, le Ciet t'aidera" của Âu học, thực đáng làm phương châm chocách lập chí ở đời này.


118. HÒA THUẬN VỚI MỌI NGƯỜILưu Ngưng Chi đang đi giày, có người đến nhận, ông đưa ngay. Sau ngườiấy tìm thấy giày, đem giày ông trả lại. Ông nhất định không nhận nữa.Thẩm Lân Sĩ đang đi giày. Cũng có người đến nhận. Ông cười hỏi: " Giàycủa bác à?". Rồi ông đưa ngay. Sau, người láng giềng tìm thấy giày đem giàyông trả lại. Ông nói: " Không phải của bác à?" Ông cười rồi nhận.Việc này tuy nhỏ mọn. Song ở đời, ta nên cư xử như ông Lân Sĩ, khôngnên như ông Ngưng Chi.Tô ThứcGIẢI NGHĨA:Lưu Ngưng Chi: người đời Tống (Nam triều) tính khẳng khái, phần gia tàicủa mình nhường cả cho anh em mà tự thực kỳ lực. Vua triệu ra làm quankhông chiu ra chỉ thích ngao du sơn thủy.Thẩm Lân Sĩ: người đời Nam Tề, học thức rộng, không chịu ra làm quan,chỉ thích dạy học và trước thuật.Tô Thức: tức Tô Đông Pha là một nhà đại thi sĩ nước Tàu làm quan đờinhà Tống, văn hay chữ tốt, sách làm kể có hàng vài trăm quyển lưu truyền ởđời.LỜI BÀN: Giày của mình, mình đang đi, có người đến nhận mà mình cũngđưa, không thèm cãi " của tao của mày" như Ngưng Chi và Lân Sĩ thực ở đờicũng là hiếm có vậy. Kíp khi người ta tìm thấy giày của người ta, đem giàymình lại trả là người ta đã biết lỗi lầm. Nếu mình khăng khăng không chịunhận, là mình quá ư nghiêm khắc mà làm ngăn trở cái lòng hối quá của ngườita. Sao bằng nhận mới tỏ rõ tấm lòng bao dung được người, cả lúc người lầmcả lúc người biết lầm. Như thế mới thực là người đầy hòa khí để cư xử vớiquần chúng vậy.


119. MẤT CUNGVua Cung Vương nước Sở đi săn, giữa đường đánh mất cung. Các quantheo hầu cố xin tìm cho được. Vua Cung Vương nói:Thôi tìm làm gì nữa! Người nước Sở đánh mất cung, lại người nước Sở bắtđược cung, đi đâu mà thiệt.Đức Khổng Tử nghe thấy chuyện bảo:Đáng tiếc cho cái chí vua nước Sở không làm to hơn được nữa! Hà tất phảinói: " Người nước Sở? " Giá nói: " người đánh mất cung, lại người nhặt đượccung thì chẳng hơn ư?"Thuyết UyểnLỜI BÀN: Vua đánh mất cung, không nghe lời các quan bắt tìm cung,thế là có lòng thương dân, không muốn làm phiền đến dân. Vua lại nói mộtngười nước Sở mất cung chịu thiệt, thì có một người nước Sở được cung cólợi, thế là đã có lòng muốn lợi cho dân cả một nước. Tuy vậy, Đức Khổng Tửchê là hẹp, là vì vua Sở chỉ biết có người nước Sở lấy bờ cõi nước Sở mà làmgiới hạn cho cái lòng nhân ái của mình. Cứ như ngài nói, mời thực rõ cáinghĩa bác ái, tức là cái lòng rộng yêu hết cả nhân loại, không phân di chủnghay ngoại quốc gì nữa. Cùng một ý với câu thầy Hạ Tử nhắc lời ngài mà đápTư Mã Ngưu là không có anh em rằng: "Người bốn bể đều là anh em cả".Nói rộng ra: chỉ có lý vô phân biệt, trí vô phân biệt, vật ngã nhất thể thì mớihết sạch chướng ngại mà hoan hỉ vô cùng!


120. MUÔN VẬT MỘT LOÀINgười họ Điền nước Tề sắp phải đi xa, làm tiệc để cáo biệt anh em. Kháchmời kể có cả nghìn người. Cỗ bàn đủ thứ sơn hào hải vị. Lúc ăn đến mónchim, món cá, ngưới họ Điền trông thấy, nói rằng: "Trời đãi người hậu thật!Sinh ra thóc lúa, sinh ra chim cá, không thiếu thứ gì để con người dùng". Baonhiêu khách ăn đồng thanh khen câu nói ấy là phải. Duy có đứa con họ Bão,tuổi mới mười hai, đứng dậy nói rằng:Cứ như ý tôi thì câu nói ấy là không phải. Muôn vật trong trời đất là cùngsinh ra với ta, cùng một loài như ta, không có gì là sang hay hèn cả. Sang hènmà phân biệt chẳng qua là các loại chế lẫn nhau, lớn nuốt nhỏ,khôn đè dại,khỏe lấn yếu mà thôi. Chớ nào có phải trời vì loài này mà sinh ra loài khácđâu. Người ta có cái gì ăn được thì lấy làm mà ăn, chớ trời nào lại vị ngườimà sinh ra thứ nọ thứ kia? Cứ theo cái lý ấy, ruồi muỗi hút máu người, hổlang ăn thịt người, thì có nói được trời vì những giống ấy mà sinh ra ngườikhông?"LỜI BÀN: Người ta ở trong khoảng trời đất thường hay tự phụ mình làmchủ trương cho cả muôn vật. Vì mình mà muôn vật phải sinh, vì mình mà câythóc mọc, mà con lợn béo, mà con tằm nhả tơ, con ong gây mật, cho đến cảmặt trời sáng ban ngày, ngôi sao lóng lành ban đêm. Nhưng xét lại, thì loàingười chẳng qua cũng chỉ là một loài cùng sinh, cùng sống như muôn loàitrong trời đất. Loài người sở dĩ hơn vật là chỉ hơn có chút trí khôn mà thôi.Nên như câu nói như đứa bé họ Bão mới thực là cao rộng, hiểu được cái vạnvật, tịnh sinh ở đời vậy.


121.LÚC NÀO ĐƯỢC NGHỈThầy Tử Cống hỏi Đức Khổng Tử:- Tử này mệt về học, khốn về đạo, bây giờ muốn nghỉ để thờ vua có nênkhông?Đức Khổng Tử nói:Phàm làm tôi thờ vua, sớm tối kính cẩn, mà cho trọn được chức trách cũnglà việc khó, nghỉ thế nào được!- Vậy xin nghỉ để thời song thân- Lòng con hiếu thờ cha mẹ thật vô cùng lại có thể lấy sự hiếu thảo củamình cảm hóa được lòng người cũng là việc khó, nghỉ thế nào được!- Vậy xin nghỉ để vui chơi với vợ con- Đạo làm chồng phải làm gương cho vợ, lại để cho anh em và thiên hạtrông vào mà bắt chước cũng là việc khó, nghỉ thế nào được!- Vậy xin nghỉ để chơi với bầu bạn- Nghĩa bầu bạn phải giúp đỡ nhau, hết lòng hết sức với nhau, cũng là việckhó, nghỉ thế nào được!- Vậy xin nghỉ để làm ruộng- Công việc nhà nông phải cấy cày gặt hái hai sương một nắng, chân lấmtay bùn, cũng là việc khó, nghỉ thế nào được!- Như thế thì Tử này không lúc nào được nghỉ ư?- Có chứ. Lúc nào ngắm thấy cái huyệt đào nhẵn nhụi, trông thấy cái mồđắp chắc chắn, ngó thấy người đi đưa cách biệt hẳn mình, ấy lúc bấy giờ mớilà lúc nghỉ được đóThầy Tử Cống nói:Như thế cái chết chẳng là cái hay à! Người quân tử đến bấy giờ được nghỉ,kẻ tiểu nhân đến bấy giờ mới chịu thôi, cái chết thật là hay vậy!Gia ngữGIẢI NGHĨA- Tử Cống học trò giỏi của Đức Khổng Tử.- Tử: tên thầy Tử Cống theo lễ tục, khi hầu chuyện những người bề trênnhư cha, như vua, như thầy, thì phải xưng tên.LỜI BÀN: Học tập một môn học, nghiên cứu một đạo, lý, càng đi càngthấy dài, càng lên càng thấy cao. Lập chí không bền thấy khó mà thôi (nghỉ)thì chẳng bán đồ nhi phế ngay lập tức.Thần hạ đối với quân trưởng, con cái đối với cha *** vợ chồng bầu bạn ănở với nhau đều có bổn phận phải làm sao cho đầy đủ không tận tâm tận lực(nghỉ) thì thiếu bổn phận và rối loạn ngay lập tức.Canh nông hay thương mại, thuyền thợ hay quân nhân... ai nấy có mộtchức nghiệp, chểnh mảng không chu đáo (nghỉ) thì thiếu lương tâm nhà nghềngay lập tức.Làm cho đầy đủ, phần ấm cho thân, phần ích cho người, tất cả phải lao tâmlao lực. Thế thì muốn nghỉ sao được. Vì nghỉ là đứng lại thì muôn sự đình trệngay. Người ta hay ở tiến lên cố tiến lên, tiến lên mãi mãi, tiến lên đến hơithở cuối cùng, rồi ta trở về cái nhà đại tạo mà nghỉ ngơi yên tĩnh, lại chả hoanhỉ lắm ru!


122. CÓ CHỊU LO, CHỊU LÀM MỚI SỐNG ĐƯỢCỞ đời chết vì thuốc độc, muôn người họa mới phải một người, chớ chết vìăn không ngồi rồi thì thật nhiều. Cái độc "ăn không ngồi rồi" rất thảm rất hại.Nay ta hãy xem một vài sự đáng sợ để thí dụ mà nghe.Xe đi trên mặt đất, đi chỗ gập ghềnh thường được chắc chắn hơn chỗphẳng phiu.Thuyền đi trên mặt nước, đi chỗ ghềnh thác thường được vững vàng hơn đigiữa dòng sông. Tại sao vậy? Tại vì, biết khó khăn mà giữ gìn thì được yên,cho là dễ dàng mà khinh thường thì phải hỏng (bại vong).Người đời thường sống về những khi lo lắng cần khổ, mà chết về nhữnglúc sung sướng yên nhàn. Lẽ ấy rất rõ, mà người đời không biết sợ là bởikhông chịu xét đến nơi.Những lúc thư nhàn thử nghĩ mà coi. Vì đâu mà chí khí ta phải suy kém?Vì đâu mà công việc ta phải hư hỏng? Vì đâu mà uổng mất một đời rồi cùngnát với cỏ cây? Vì đâu mà hóa ra hôn mê, không biết quay đầu lại, rồi lại đeothêm cái tiếng xấu về sau? Vì đâu thành chểnh mảng không biết lo xa rồi đếnnỗi mắc vào tội vạ? Ấy rút lại mấy điều là chỉ bởi ăn không ngồi rồi mà ra cả.Sự ăn không ngồi rồi quả là cái cửa những điều ác. Cửa ấy người giỏi vàođến lúc ra thì dở, người tỉnh vào đến lúc ra thì mê, người cương trực vào đếnlúc ra thì liệt nhược, người thanh khiết vào đến lúc ra thì ô uế, sự ăn khôngngồi rồi hại thân, hại nhà, hại nước nghĩ chẳng đáng sợ lắm ru!Lã Đông LaiGIẢI NGHĨALã Đông Lai: tức Lã Tổ Khiêm, làm quan đời nhà Tống, học rộng biện bácgiỏi, cùng với Chu Hạ và Trương Thúc gọi là Tam Hiển, học trò tự xưng làĐông Lai tiên sinh về làm bộ sách tên là Đông Lai tập.LỜI BÀNKhông lo, không làm thực làm hại người ta hơn là thuốc độc. Chẳng nói gì,không lo không làm thì không có cơm ăn áo mặc tiền tiêu, không giữ đượcphẩm giá, không làm hết bổn phận. Không lo không làm, thân thể yếu đi, tâmchí cùn lại, và thường hay sinh ra làm càn, làm bậy, hại đến thân, đến nhà,đến nước. Quả vậy, câu trong bài: "Ăn không ngồi rồi là cái cửa của nhữngđiều ác" và bao nhiêu câu như: "Sự ăn không ở rỗi là mẹ đẻ ra các nết xấu. -Cái chìa khóa không dùng thành gỉ hoen. -Nhàn cư vi bất thiện" cũng cùng cómột nghĩa nói đến cái tai họa của sự không lo, không làm cả. Cho nên ngườita bất cứ nghèo hèn hay giàu sang, ai cũng phải có lo có làm mới đáng sốngvà có sống được. "Sinh ư ưu cần, tử ư dật lạc", nghĩa là sống là do ở ưu hoạncần lao, chết là ở yên nhàn dật lạc. Câu cổ nhân nói thật không sai chút nào.


123. CHÍNH DANHVua Cảnh Công nước Tề hỏi Đức Khổng Tử về việc chính sự.Đức Khổng Tử thưa rằng: Cội rễ việc chính sự cốt nhất phải làm cho sángrõ luân thường đạo lý. Ở chốn triều đình, vua hết đạo làm vua, tôi hết đạo làmtôi; ở trong gia đình, cha hết đạo làm cha, con hết đạo làm con. Vua tôi, chacon ai nấy đều hết đạo của mình, thì chính sự mới có thể làm hay được.Vua Cảnh Công nói: Phải lắm! Câu nói ấy thật là thiết yếu. Mà quả thếthật, nếu vua chẳng ra vua, tôi chẳng ra tôi, cha chẳng ra cha, con chẳng racon, thì cương kỷ rối loạn mà nước phải diệt vong. Thóc gạo tuy có nhiều,liệu có ở yên mà ăn được chăng.LỜI BÀNVua Cảnh Công hỏi về chính sự mà Đức Khổng Tử đáp là chính danh ngàinói đúng ngay vào cái bệnh của vua đối với quốc gia làm mất chủ quyền, đốivới gia đình dung túng con cái, mà lại giảng được cái học thuyết chính danhcủa ngài. Tiếc thay vua Cảnh Công biết là phải mà không liệu cách mau mauthực hành để đến nỗi về sau nước Tề quả có tai vạ, vua thì bị giết, đất thì mấtvề tay người.Như nói đến chính sự thời nay, thì chắc còn bao nhiêu sự khó khăn, phiềnphức có phải là dễ đâu. Song sự cốt yếu cũng không ra được ngoài câu nóicủa Đức Khổng phu tử. Ta thử ngẫm mà xem, suốt xưa nay, khắp đông tây cónước nào vua (hoặc người cầm quyền hay lãnh đạo mà gọi tên khác) kémsáng suốt, thần hạ gian nịnh mà nước không nguy vong, có nhà nào cha mẹbạc ác bất nhân, con cái bất hiếu mà nhà không suy bại không?


124. NÊN XỬ THẾ NÀOThầy Mạnh Tử hỏi vua Tuyên Vương nước Tề rằng:- Giả thử có người bầy tôi nhà vua, đem y thực của vợ con ký thác chongười bạn thân, nhờ trông nom giúp để sang chơi nước Sở có việc; kịp đếnlúc về, mới biết bạn để cho vợ con đói rét thì người ấy nên xử với bạn thếnào?Vua nói: Nên tuyệt giao.Thầy Mạnh Tử lại hỏi:- Giả sử có người làm quan sĩ sư không trông nom nổi được thuộc viên, đểcho hình ngục sai lầm, công việc phế khoáng, thì nhà vua nên xử thế nào vớiviên quan ấy?Vua nói: Nên bãi đi.Thầy Mạnh Tử nhân đấy hỏi luôn câu nữa:- Thế thời làm vua một nước mà không sửa sang việc chính sự, việc giáodục để đến nỗi trong nước không được bình trị, thì trách nhiệm tại ai và nênxử trí thế nào?Vua nghe nói ngoảnh ngay sang bên tả, bên hữu nói lảng sang chuyệnkhác, có ý vừa chữa thẹn vừa tránh không trả lời.Mạnh TửGIẢI NGHĨAMạnh Tử: người nước Châu, đời Chiến Quốc, tên là Kha, học thuyết củaông cốt ở điều "Nhân nghĩa", "Tính thiện", đời sau tôn ông là Á thánh.LỜI BÀNThầy Mạnh Tử đây chỉ vì việc nước mà khuyên can vua Tuyên Vươngnước Tề. Hai đoạn trên câu hỏi của thầy hữu tâm mà câu trả lời của vua vôtâm. Đoạn thứ nhất nói về "tình bạn", kể nghĩa cũ cũng đáng tiếc, song đãnhận lời ký thác của anh em mà ra lòng phụ bạc thì thật là người bạn đángtuyệt giao. Đoạn thứ nhì nói về "phép nước", kể thực buộc vào tội chưa có gìlà nặng, song làm quan mà đến không trông nom được kẻ dưới để phế khoángviệc công, thì thật là viên quan không nên dụng.Còn đoạn thứ ba, tuy ông nói qua mà đã ngụ sẵn cái ý thuế má quá nặng đểdân đói rét, hình phạt sai lầm để dân oan khổ, làm vua mà đối với dân vớinước như vậy cái tội to biết chừng nào. Thế mới tiếc thay vua Tề TuyênVương gặp được người chính trực cảm ngôn như thế mà lại không chịu rộnghỏi để sửa lỗi của mình, thật là mất một dịp tốt.


125. CHIẾC THUYỀN ĐỤNG CHIẾC ĐÒMột chiếc đò sang sông. Có chiếc thuyền không có người, đâu trôi đến,đâm phải. Người lái đò tuy hẹp bụng đến đâu cũng không lấy làm giận. Giảsử trên chiếc thuyền có người ngồi, thì người lái đò tất phải phùng mang trợnmắt, tru tréo một lần không nghe tiếng, tất tru tréo đến hai lần, hai lần khôngnghe tiếng tất tru tréo đến ba bốn lần, rồi đến buông lời chửi rủa thậm tệ nữa,Một việc xảy ra cũng giống nhau, mà như lúc trước không giận, như lúcsau lại giận là tại làm sao?- Tại lúc trước chiếc thuyền không có người mà lúc sau chiếc thuyền cóngười.Người ta mà cứ thản nhiên không có chút tư ý gì thì ở đời còn ai hại mìnhnữa.Trang Tử


126. RẮN RỜI CHỖ ỞTrời nắng, ao cạn, hai con rắn muốn rời đi ở chỗ khác.Rắn con bảo rắn lớn:"Anh đi trước, tôi theo sau, người ta biết là rắn kéo nhau đi tìm chỗ, thì thếnào cũng tìm cách giết chết. Sao bằng anh để tôi ngậm vào mình anh, còn anhthì cõng tôi mà đi, người ta tất nhiên cho là Rắn Thần, không dám **ng đến".Nói xong, hai con rắng làm y như thế mà đi qua đường cái. Quả nhiênngười ta trông thấy ai cũng tránh sợ, bảo nhau là "Rắn Thần".Những kẻ nương tựa nhau, thông đồng với nhau để làm điều gian giảo, lừadối đời, mê hoặc người thì có khác gì hai con rắn cõng nhau đây mà giả làmRắn Thần không?LỜI BÀNNhững quân gian giảo định đánh lừa thiên hạ, khi chỉ có một mình thiên hạcũng mắc lừa chán, huống chi là chúng kết bè, kết đảng đồng tâm bày mưumà lừa gạt thiên hạ thì ai dù khôn ngoan làm điều lành hay cho thiên hạ baonhiêu thì bè đảng với nhau để làm điều ác nguy hại cho thiên hạ bấy nhiêu.Vậy ta thấy những điều gì lạ tai lạ mắt, trái hẳn nhân tình thì một là đánh lừa,hai là lợi dụng, ta trước nên suy xét kĩ đã, rồi sau hãy tin theo.


127. NHƯỜNG THIÊN HẠVua Nghiêu nhường thiên hạ cho Hứa Do có nói rằng:- Khi mặt trời mặt trăng đã mọc mà cứ cầm đóm đuốc soi sáng, như thếchẳng cũng khó lắm ru! Khi đang mong mưa, trời đã mưa mà cứ còn dộinước tắm tưới như thế, chẳng cũng nhọc lắm ru! Nay có ngài ra đời, đứcthịnh tài cao, thiên hạ tự khắc cảm hóa bình trị, thế mà tôi còn cứ giữ lấythiên hạ, thì tôi tự nghĩ lấy làm kém lắm. Xin nhường thiên hạ cho ngài.Hứa Do nói:- Nhà ngươi trị thiên hạ đã được bình trị, mà ta còn thay nhà ngươi, nhưthế chẳng là ta không có cái "thực" làm thiên hạ bình trị mà ta lại nhận lấy cái"danh" bình trị thiên hạ ư? Vả cái "danh" là người khách của cái "thực", nếukhông có thực mà lại đương lấy cái danh, thì hóa ra ta làm người kháchkhông có chủ ư? Con chim làm tổ ở rừng chẳng qua là một cành cây, conchuột uống nước ở sông chẳng qua chỉ đến no bụng. Thôi, xin nhà ngươi cứvề mà trị lấy thiên hạ, ta có dùng thiên hạ làm gì! Người nhà bếp mà chẳngtrông nom việc bếp, thì người giữ việc tế tự cũng chẳng có thể bỏ đèn hươngmà làm thay cho được.Trang TửGIẢI NGHĨANghiêu: tên một bậc thánh đế đời nhà Đào ĐườngHứa Do: một bậc cao sĩ đời thượng cổ, ẩn ở núi Cao SơnLỜI BÀNÝ vua Nghiêu nghĩ thiên hạ là của chung của cả thiên hạ, cho nên vua mớitìm người hiền tài để truyền ngôi, miễn là thiên hạ được thái bình thịnh trị làmình được sung sướng.Ý Hứa Do nghĩ mình không có tài mà nhận lấy cái tài của người làm củamình thì không gì xấu bằng. Vả ông lại có cái thú vô danh hơn là hữu danh,nên ông lấy việc thiên hạ làm phiền, chứ không phải là sướng.Một bên quên lợi, một bên quên danh đáng quí thay.Thời buổi ngày nay giá được những bậc tài giỏi không có lòng tư, khôngcậy công cậy của, không hiếu lợi hiếu danh thì lo gì thiên hạ chẳng bình trị.


128. RỬA TAIĐời thượng cổ có ông Hứa Do là một nhà ẩn dật ở trong chằm Bái Trạch.Vua Nghiêu nghe tiếng là người giỏi, mời ra, xin nhường cả thiên hạ. HứaDo tử chối, lui về ẩn tại núi Trung Nhạc, phía nam sông Dĩnh Thủy.Sau, vua Ngiêu lại tìm đến, cố mời Hứa Do ra làm tổng trưởng cả chínchâu, Hứa Do thấy vậy không muốn nghe chuyện nữa, ra bờ sông Dĩnh Thủyrửa tai. Ngay lúc bấy giờ, Sào Phủ đang dắt trâu xuống bờ sông gặp Hứa Dohỏi:Việc già mà bác phải rửa tai như vậy?Hứa Do thuật lại chuyện. Sào Phủ liền gò cổ trâu lại mà nói rằng:Ta toan cho châu uống nước ở đây, lại e bẩn cả miệng trâu.Nói đoạn, dắt trâu lên quãng sông trên cho trâu uống nước.Cao Sĩ TruyệnGIẢI NGHĨA:- Hứa Do : bậc cao sĩ thời thượng cổ.- Chín châu: thời thượng cổ nước Tàu chia ra làm chín châu để cai trị(Duyên, Ký, Thanh, Từ, Dự, Kinh, Dương, Ung, Lương).- Sào Phủ : bậc cao sĩ đời thượng cổ không ưa thế lợi, ẩn ở trong núi, lấycây làm tổ nằm ở trên cây cho nên mới gọi là Sào Phủ (Sào nghĩa là tổ).- Cao Sĩ Truyện : sách của Hoàng Phủ Mật đời nhà Tấn soạn kể chuyệnnhững bậc cao sĩ ẩn dật thời xưa bên Tàu.LỜI BÀN: Có cả thiên hạ cố nhường cho người là lạ. Người nhường thiênhạ cho, mà không nhận cũng là lạ. Nghe thấy câu chuyện nhường thiên hạcho làm chuyện bẩn, phải đi rửa tai lại lạ hơn. Không để cho trâu uống cáinước đã rửa tai ấy, sợ bẩn miệng trâu càng lạ quá nữaÔi! Đọc bài này, tưởng như Hứa Do với Sào Phủ là hai người nếu chẳngngông cuồng thì cũng gàn dở. Nhưng vì Hứa Do và Sào Phủ hiểu thấu danhlợi nó hãm hại người ta để làm cho mất hết cả liêm sỉ, cho nên hai ông khôngmuốn để cái danh lợi bận đến cái thân, chỉ ưa chuộng sự sống thiên nhiên làmvui sướng, thì cũng là những bậc cao sĩ thờ một cái chủ nghĩa cao quý vậy.Chả bù cho những phường tham danh, trục lợi thường say mê danh lợi, thậmchí đến chết vẫn chưa tỉnh cho!


129. CHẾT ĐÓI ĐẦU NÚIKhi Vũ Vương đem quân đi đánh vua Trụ, Bá Di, Thúc Tề nghe thấy, ranắm dây cưng ngựa, cản lại và nói rằng:Cha chết chưa chôn mà đã chăm việc chinh chiến, thế có gọi là "hiếu"được không? Bầy tôi giết vua để cướp nước thế có gọi là "nhân" đượckhông?Những người thân cận của Vũ Vương tức giận toan giết Bá Di và Thúc Tề.Thái Công can, nói rằng:Không nên, hai ông là "người nghĩa". Rồi bảo quân lính ôm hai ông màđẩy ra.Đến khi Vũ Vương đã lấy được thiên hạ của vua Trụ, thiên hạ ai cũng tônnhà Chu, Bá Di và Thúc Tề lấy việc mất nước làm xấu hổ, đến nỗi coi thócgạo cũng là tài sản của nhà Chu, buồn bực không ăn nữa.Hai ông lên ẩn ở núi Thú Dương làm bài ca Thái Vi rằng:Ta lên núi Tây SơnTa hái khóm rau viKẻ bạo thay kẻ bạoCòn biết phải trái gì!Đời cổ thoáng qua rồiBiết đâu mà quy yThan ôi! Đành chết vậyThật vận mệnh ta suyChính chữ Hán là:Đăng bỉ Tây Sơn hề, thái kỳ vi hĩ,Dĩ bạo dịch bạo hề, bất tri kỳ phi hĩ.Thần nông, Ngu, Hạ, hốt yên một bề, ngã an thích quy hĩ.Vua ta tồ hề, mệnh chi suy hĩGIẢI NGHĨA:- Bá Di, Thúc Tề: hai con vua Cô Trúc đời nhà Thương.- Thái Công: tức Lã Vọng, một hiền thần nhà chu, trước câu cá ở sông Vy,sau gặp vua Văn Vương đón về, vua Vũ Vương dùng làm tướng.- Thú Dương: tức cũng là Tây Sơn, tên núi ở về huyện Vĩnh Thanh tỉnhSơn Tây bây giờ.- Kẻ bạo thay kẻ bạo: đây nói vua Trụ bạo ngược, vua Vũ thay vua Trụcũng là bạo ngược.LỜI BÀN: Xem bài này, hoặc có nói "Bá Di, Thúc Tề nắm ngựa mà canVũ Vương là phải. Song can mà người ta không nghe sao không chí thân chếttheo với nước, lại đi lên núi Thú Dương hái rau vi. Than ôi! Sau ngày Giáp tý(là ngày vua Trụ mất thiên hạ), Vũ Vương đã đánh được nhà Thương, núiThú Dương còn là đất của nhà Thương, rau vi ở núi Thú Dương còn là đồ ăncủa nhà Thương nữa hay không? Bá Di, Thúc Tề lầm rồi!". Nói như thế nghekể cũng có lý, nhưng có phần quá nghiêm khắc. Ta chỉ biết Bá Di, Thúc Tềthân cô mà dám ngăn cả thiên binh vạn mã, thế là trong lòng rất can đảm, biếtvua Trụ là người không tốt mà cũng giữ một niềm thủy chung, thế là nghĩabất sự nhị quân, đáng tôn trọng quý báu biết chừng nào. Vả chăng hăng háimà liều chết, việc ấy còn dễ chớ chung thủy mà làm điều nghĩa, việc ấy mớilà khó. Bá Di, Thúc Tề lên ẩn trên núi mà còn để lại bài ca Thái Vi còn lưulại hai tiếng "Hiếu, Nhân" lúc ra can Vũ Vương, thật là những bậc có thể phùthực được cương thường muôn đời khiến cho người đời sau ai xem chuyện,ngủ ngoan cũng thành có tri thức, liệt nhược cũng hóa ra cương cương mà cóchí tự lập vậy.


130. ĐỜI NGƯỜISống bảy mươi năm đã mấy người!Trước thì tuổi trẻ, sau già lãoThì giờ quãng giữa được bao lâu?Lại còn viêm lương cùng phiền nãoHoa quá mùa xuân, hoa kém tươi,Trăng quá mùa thu, trăng kém sángHoa tươi trăng sáng, ta ngâm ngaRượu năm, ba chén say chuếnh choáng.Tiền của càng nhiều, càng oán toQuan chức càng cao, càng nhọc xácQuan to tiền nhiều, lòng những loChỉ tổ làm cho đầu chóng bạcXuân đi, hạ lại, thu sang đôngChóng như thoi đưa, như nước chảyVừa tiễn buổi chiều, chuông chùa kêuĐã báo rạng đông, gà sáng gáy.Ta thử tính xem người nhãn tiềnMột năm đã thấy khuất vô sốLô nhô nắm đất cánh đồng hoangQuá nửa không ai người tảo mộ.Đường Bá HổGIẢI NGHĨA:- Đường Bá Hổ: người thời Tống tên là Trường Nhụ ở Đan Lang, chuyênhọc kinh Dịch, kinh Xuân Thu, trị gia rất có phép, ông có bài ca nhân sinh màđây dịch ra.LỜI BÀN: Đời người trăm năm sống được sáu bảy mươi năm đã hiếm.Trong khoảng sảu, bảy mươi năm ấy, trừ lúc tuổi chưa khôn, tuổi già hếtkhỏe, quãng giữa còn được vài ba mươi năm có là bao, mà lại còn gặp biếtbao nhiêu những sự đau đớn phiền não! Ôi đời người rút lại như thế có mấylúc là sống cho ra sống.Nên chi, hằng năm, hễ gặp được thắng cảnh, lương thời, thì ra kíp nên vuichơi cho sung sướng thỏa thích, hơi đâu mà cứ mài miệt theo đuổi lấy cáisang giàu giả dối chốc lát để là lụy đến tấm thân.Lúc sống thì người chóng già, khó giữ lâu được cái thân, lúc chết thì thiênhạ chóng quên khó giữ lâu được mồ mả. Thời giờ mau chóng thói đời viêmlương, vậy người ta lúc sống, mà tự khổ thân quá, tưởng cũng là khờ vậy!Đối với cái thời gian, không gian vô cùng vô hạn thì một người và một đờingười kể có thấm vào đâu?


131. BA ĐIỀU KHÓ HỌCThầy Tăng Tử nói với Đức Khổng Tử:Tôi biết thầy có ba điều, tôi học mãi mà chưa làm được. Thầy:- Thấy người ta có một điều phải mà quên cả trăm điều trái của người ta,thế là thầy dễ tính.- Thấy người có điều gì phải, thì vui vẻ như là mình có, thế là thầy khôngghen tị.- Nghe thấy điều gì phải, nhất quyết làm rồi sau mới nói, thế là thầy chịukhó thực hành.Thầy là người dễ tính, là người không ghen tị, là người chịu khó, tôi họcmãi ba điều ấy của thầy mà chưa thể làm được.Thuyết Uyển.GIẢI NGHĨA:- Tăng Tử: tức là Tăng Sâm, người thành thực và rất có hiếu, học trò giỏicủa Đức Khổng Tử truyền được đạo đức Khổng Tử có thuật sách Hiếu Kinhvà sách Đại HọcLỜI BÀN: Lấy một điều phải mà quên trăm điều trái, thế là có bụng khoandung người ta, lại có ý gây cho người làm nên điều phải. Thấy người làmphải cũng vui như chính mình làm điều phải, thế là có lòng vô ngã muốn giụccho người phải ưa làm điều phải. Thấy điều phải làm ngay rồi mới nói, thế làvụ cái thực làm chớ không chỉ có một cái nói giỏi mà thôi. Ba điều này mớinghe tưởng dễ, mà làm thực khó!. Thói thường, người đời chỉ hay bới xấunhau, ghen tị nhau, nói giỏi, mà làm càn, cho nên mới ghét bỏ nhau, lừa dốinhau, hãm hại nhau, đưa nhau đến tử vong mà không gỡ ra được.


132. BA ĐIỀU VUINgười quân tử có ba điều vui, tuy cho làm vua cả thiên hạ là sướng màcũng không kể vào trong ba điều vui ấy được.Cha mẹ còn sống, anh em bình yên là một điều vui.Ngửa lên không tủi thẹn với trời, cúi xuống không xấu hổ với người là haiđiều vui.Được những bậc anh tài trong thiên hạ mà dạy dỗ gây dựng cho ra người làba điều vui.Mạnh Tử133. THƯƠNG MẸ GIÀ YẾUHàn Bá Du ăn ở với mẹ rất là có hiếu. Những khi có lỗi, mẹ thường đánhđòn. Một hôm Bá Du phải đòn, khóc mãi. Mẹ thấy vậy hỏi:Mọi khi mẹ đánh con biết lỗi, con cam chịu ngay. Lần này sao con khócdai thế?Bá Du thưa:Mọi khi mẹ đánh, con thấy đau, con biết mẹ còn mạnh khỏe. Lần này mẹđánh con, con thấy không đau mấy, con biết sức mẹ đã yếu, cho nên connghĩ, con thương mẹ mà con khóc.Ôi! Con ăn ở với cha mẹ tuy khó nhọc khổ sở cũng không dám oán như BáDu trong chuyện này, không những không oán mẹ lại còn thương mẹ già yếu,tình con yêu mẹ thế mới thật là thâm thiết.Thuyết UyểnGIẢI NGHĨA:- Hàn Bá Du: người đất Lương đời nhà Hán.- Hiếu: đạo ăn ở hết lòng với cha mẹ


134. ÁO ĐƠN MÙA RÉTMẫn Tử Khiêm mồ côi mẹ từ thuở nhỏ. Mẹ kế sinh được hai con trai, chỉyêu con đẻ mà ghét Tử Khiêm.Mùa đông tháng giá, mẹ kế không cho Tử Khiêm mặc áo mền bông, chỉcho mặc áo mền hoa lau. Một hôm Tử Khiêm đánh xe hầu cha, cha thấy co rorun rẩy liền quở mắng. Tử Khiêm nín không dám nói. Cha giận đánh, ngờđâu áo rách, bật hoa lau ra.Cha thấy thế căm giận người vợ kế bạc đãi con mình liền muốn đuổi đi.Tử Khiêm khóc mà van rằng:- Dì con mà ở lại thì chỉ mình con rét; dì con mà phải đuổi đi thì ai may áocho chúng con, có lẽ ba anh em con đều không có áo, phải chịu rét cả.Cha nghe nói cảm động, bèn thôi không đuổi vợ kế nữa. Và từ đó người vợkế cũng có lòng thương yêu Tử Khiêm như con đẻ vậy.Thuyết Uyển


135. DÂNG THƯ CỨU CHAThuần Vu Ý làm quan ở Tề Trung phải tội sắp đem hành hình, giải đếnTrường An.Ông không có con trai, chỉ sinh được năm con gái. Lúc bị bắt đi, ông mắngcon rằng:- Đẻ con chẳng đẻ con trai, những khi nguy cấp thật không có ai đỡ đầncông việc.Người con gái út tên là Đề Oanh thương khóc theo cha đến Trường An,dâng tờ thư, đại ý nói:- ... Cha tôi làm quan, cả miền Tề Trung ai cũng ca tụng là thanh liêmcông bình, nay bất hạnh phải tội thật là oan quá. Vả chăng tôi trộm nghĩngười đã chết thì không sống lại được, đã chém thì không liền lại được. Nêndù có muốn đổi lỗi, theo điều phải trở nên hay, nên tốt cũng không có cáchnào nữa. Tôi xin bán mình làm đứa ở chỗ quan phủ, chuộc tội cho cha để chocha tôi được tự tân.Thư tâu lên vua. Vua xem, tha cho Thuần Vu Ý. Rồi xuống chiếu, trừ cácnhục hình.Sử Ký Hán Vân ĐếLỜI BÀNBên Phương Đông ta, thường tình cha mẹ vẫn quý con trai hơn con gái, vìkể cứ trong nhà, con trai bao giờ vẫn được việc hơn con gái, nhất là nhữngkhi nguy cấp. Nên Thuần Vu ý đây tức mình mà gắt như thế cũng là phải.Nhưng Thuần Vu ý biết đâu là được người con gái như Đề Oanh thực là hếtlòng với cha, cứu cha được ra ngoài vòng tội hình, lại có phần giúp đỡ đượccho cả nhân dân trong nước, vì vua bỏ các nhục hình.Thế mới hay con gái hay con trai cũng vậy mà thôi, quí hồ là ăn ở hết đạovới cha *** giúp đỡ có ích cho xã hội, thì cũng là quý giá không bên nàokhinh, bên nào trọng. Cổ ngữ có câu:"Gái mà chi, trai mà chiCon nào có nghĩa, có nghì là hơn".Thực là phải lắm.


136. NUÔI MẸ BẰNG ĐIỀU PHẢIRoãn Thuần lúc nhỏ học ông Trình Di, thường chỉ cốt theo nghề khoa cử.Có một khoa thi Tiến sĩ, ông đã vào đến kỳ văn sách, đầu bài ra có câu:"Chu Nguyên Hựu chư thần" nghĩa là giết các bầy tôi đời Nguyên Hựu. Ôngbỏ bài không làm, đi ra.Khi về, ông thưa với thầy là ông Trình Di rằng: Từ nay con không thi Tiếnsĩ nữa.Ông Trình Di nói: Ngươi còn có mẹ già kia mà.Roãn Thuần về thưa chuyện thi cử với mẹ và nhắc lại cả câu thầy học bảo.Bà mẹ nói:- Ta muốn con lấy "điều phải" mà nuôi ta hơn là lấy "bổng lộc không ragì" mà nuôi ta.Ông Trình Di nghe thấy câu ấy khen rằng: "Giỏi thay một người mẹ nhưthế!"Tống Sử Roãn Thuần TruyệnGIẢI NGHĨARoãn Thuần: người đời Tống, học giỏi nết tốt, mấy lần vua triệu từ chốikhông ra làm quan.Trình Di: tức là Trình Y Xuyên một bậc danh nho đời Tống.LỜI BÀNNhư Roãn Thuần đây sở dĩ mà không muốn đi thi là vì đầu bài ra tráingược hẳn với lẽ phải. Bầy tôi đời Nguyên Hựu vốn là người giỏi mà lại bảođem giết, đầu bài mà ra như thế là có ý muốn cho bọn đi thi đỗ, mà sau này làbọn quan trường, phải bác đời Tống Triết Tôn đi để nâng cái đời bấy giờ làđời Tĩnh Khang lên.Còn như Trình Di ở đây có ý khuyên bảo nên đi thi, là bụng nghĩ RoãnThuần còn mẹ già phải phụng dưỡng. Thói thường cha mẹ cho con ăn học, ailà người không muốn cho con đi thi lấy đỗ, đã kiếm được chút lương bổngnuôi nấng mình, lại còn làm nên chút công danh vẻ vang cho cả nhà cả họ.Kịp đến bà mẹ sở dĩ bảo Roãn Thuần như thế, là bà biết trọng việc nghĩahơn là danh lợi. Một câu bà dạy con khiến một nhà hiền triết như Trình Dicòn phải phục, phải khen thì há chẳng đáng làm cho những cha mẹ có con thiđỗ, chỉ mong cho con được chút danh phận, bất phân danh phận ấy thật haygiả, hay hay dở, phải suy xét cân nhắc rồi hãy đặt để cho con ru!


137. SAY BẮN CHẾT TRÂUNgưu Hoằng, Ngưu Bật, hai anh em ở chung với nhau.Bật có tính hay chén, mà hễ chén vào thì thường khi nát rượu.Một hôm anh đi vắng, Bật ở nhà uống say túy lúy, bắn chết mất con trâucủa anh.Kịp lúc anh về, người vợ đón cửa, xăm xăm bảo rằng:- Này này! Chú nó ở nhà bắn chết trâu rồi!Hoằng nói: Trâu chết thì phải cho đem làm thịt.Hoằng vào nhà, vừa ngồi yên, vợ lại chạy đến hăm hở nói:- Chú nó bắn chết trâu là việc to lắm, có phải việc thường đâu.Hoằng nét mặt vẫn hòa nhã tự nhiên nói:- Phải tôi biết rồi mà. - Rồi lấy sách giở xem như không có chuyện gì cả.Vợ thấy thế nguôi cơn giận, không giám nói gì nữa.Tùy KỷGIẢI NGHĨANgưu Hoằng: người đời nhà Tùy làm quan đến Lại bộ thượng thư, đời bấygiờ xưng là "Đại nhã quân tử"Tùy kỷ: sách chép việc đời nhà TùyLỜI BÀNAnh em một nhà mà ghét bỏ xa lánh nhau phần nhiều chỉ là tại chi em dâu.Không phải chị em dâu có bạc ác gì đâu; tại thường tình đàn bà, phần thì suyhơn tính thiệt, tí chút cũng so kè, làm cho chữ "Lợi" đè mất chữ "Nghĩa",phần thì đêm ngày trò chuyện, bao nhiêu cái hay muốn vơ cả vào mình, thànhra anh em hóa dở, làm cho chữ "Tình" lấn được chữ "Thân". Đám nam nhi tamuốn ăn ở cho trọn vẹn nghĩa anh em, tình vợ chồng, tưởng cũng khi khó.Ngưu Hoằng lấy thái độ ôn hòa, trầm tĩnh đối với vợ khi vợ đang bực tứccăm giận, thật là biết đường lửa cháy cất dầu, cơm sôi bớt lửa mà biết đâuHoằng lại chả nghiêm trách em mà không ai biết. Vì thế mà vợ mất giận, emđược toàn, thế chẳng phải là biết cách ăn ở rất khéo trong chốn gia đình ư!


138. TÊN TÙ NƯỚC SỞChung Nghi là người nước Sở bị nước Trịnh bắt nộp sang nước Tấn. NướcTấn đem bỏ vào Tù. Một hôm vua Cảnh Công đòi ra, cho cởi trói, gọi đến tậnnơi ủy lạo, rồi hỏi:- Ông cha nhà ngươi xưa nay làm nghề gì?Chung Nghi thưa: Ông tôi xưa nay làm nhạc quan.- Thế ngươi có biết nhạc không?- Cha tôi xưa làm chức ấy, tôi nay vẫn giữ nghiệp nhà, đâu dám sao lãng.Cảnh Công đưa cho đàn cầm, bảo gảy một khúc. Chung Nghi gảy thuầntiếng Nam, tức là tiếng nước Sở. Nghe xong Cảnh Công hỏi:- Vua Sở là người thế nào?Chung Nghi thưa: Tôi trí khôn hèn kém không đủ biết được thịnh đức củaquân vương nước tôi.Cảnh Công hỏi đi hỏi lại hai ba lần.Sau Chung Nghi phải thưa:- Quân vương nước tôi khi làm thái tử, nghe lời quan Sư, quan Bảo dạy dỗ,buổi sáng đến chơi với Anh Tề, buổi chiều đến chơi với Tử Phản. Tôi biết cóthế, còn việc khác tôi không được rõ.Cảnh Công đem chuyện ấy nói cho Phạm Văn Tử nghe. Văn Tử thưa:- Tên tù nước Sở như thế thật là một bậc quân tử. Chức nghiệp vẫn giữnước nhà, là người không quên gốc âm nhạc vẫn giữ tiếng Nam, là ngườikhông quên nước; khen vua Sở mà khen tính tự nhiên là vô tư; nói với nhàvua đây mà gọi hẳn tên hai quan khanh là tôn quân. Không quên gốc là"nhân", không quên nước là "tín", vô tư là "trung", tôn quân là "mẫn". Nhânthì xử được việc; tín thì giữ được việc; trung thì nên được việc; mẫn thì xongđược việc. Có bốn đức ấy việc to đến đâu cũng phải xuôi, sao nhà vua khônggiao trả tên tù cho nước Sở, để hắn về yêu kết việc hòa hiếu cho nước Tấn,nước Sở với nhau?Cảnh Công theo lời Văn Tử, hậu đãi Chung Nghi, đưa về Sở đề cầu việchòa hiếu.Tả truyệnLỜI BÀNTên tù này không phải vì phạm tội thường mà bị tù, nhưng vì việc nước màbị nước khác bắt tù. Khi đã bị bắt, người ta tra hỏi mà không rối trí, cứ ungdung đối đáp rất thông hoạt, và có ý vị khiến cho vua tôi nước ngoài nghethấy phải khen, phải phục, như thế chẳng là vì một cái trí lự khí khái củamình mà được thoát nạn, nước mình cũng được nhân đấy mà tôn lên ru! Ôi!Một nước được một tên tù giỏi mà kiến trọng, huống chi là có bao nhiêu hiềntào thì nước được mong cậy biết là bao. "Quốc hữu nhân tắc thực" nghĩa lànước có người giỏi thì nước mới đầy đủ vững chắc, câu trong sách dạy quả làđúng lắm.


139. BỆNH QUÊNNước Tống có anh đứng tuổi, tự nhiên mắc phải bệnh quên; buổi sáng lấygì của ai, buổi chiều đã quên; ngày nay cho ai cái gì, ngày mai đã quên; rađường quên cả đi, ở nhà quên cả ngồi, trước có làm những gì, bây giờ quênhết, bây giờ đang làm gì thì sau này cũng quên hết.Cả nhà anh lấy làm lo. Xem bói không tốt, đi cúng không đỡ, đón thầythuốc chữa cũng không khỏi.Sau có ông đồ người nước Lỗ đến xin đám, nói rằng chữa được.Vợ người có bệnh hứa với ông đồ hễ chữa khỏi thì chia cho nửa cơ nghiệp.Ông đồ nói:- Bệnh này bói không ra được, cũng không khỏi được, thuốc không chữađược. Nay tôi thử hóa cái tâm tính, biến cái trí lự của anh ta, may mà khỏichăng.Nói đoạn ông đồ liền sai lột áo để cho rét, thì thấy anh ta xin áo, sai cấm ănđể cho đói thì thấy anh ta xin ăn, sai đem vào chỗ tối thì thấy anh ta xin rachỗ sáng.Ông đồ hớn hở bảo con anh ta rằng:- Bệnh chữa được, song môn thuốc của tôi bí truyền không thể nói cho aibiết.Rồi ông đuổi cả người chung quanh đi, chỉ một mình ông với người cóbệnh trong bảy ngày. Chẳng ai biết ông đồ chữa chạy thế nào, mà cái bệnhlâu năm thế nhất đán khỏi phăng.Khi anh có bệnh đã tỉnh như thường, anh liền nổi cơn giận, chửi vợ đánhcon, cầm giáo đuổi ông đồ.Người ta bắt anh hỏi, vì cớ gì mà anh giận như vậy, thì anh ta nói:- Lúc trước ta có bệnh quên, thì trong lòng ta thản nhiên khoan khoái, trờiđất có hay không ta cũng chẳng biết. Nay ta hết bệnh, ta nhớ lại cả nhữngviệc vài mươi năm về trước, việc còn, việc mất, việc được, việc hỏng, việcthương, việc vui, việc yêu, việc ghét, trong lòng lại muôn mối ngổn ngangbời bời nổi lên vậy. Ta e sau này những việc còn mất, được hỏng, thương vui,yêu ghét ấy cứ vướng vít trong lòng ta mãi mãi, thì bấy giờ dù muốn quên cảđi một phút, một lát liệu còn có được nữa chăng.Liệt TửGIẢI NGHĨATống: nước chư hầu thời Xuân Thu ở vào huyện Thương Khưu tỉnh HàNam bây giờ.Ông đồ người nước Lỗ: đây ám chỉ Khổng phu tửLỜI BÀNLòng người đen trắng, việc đời đảo điên, lắm nỗi ngang tai trái mắt, làmcho người ta không muốn trông, muốn nghe, thậm chí đến không muốn biếtđến, chỉ muốn quên sạch. Bởi thế Liệt Tử thành ra chán đời, mới đặt ra câuchuyện này để tỏ hết cái nỗi bực tức đau thương trong lòng. Ôi! Chẳng gì cáiđời cổ tự Liệt Tử cũng còn chất phác, mà đã khắt khe đáng chán như thế,huống chi cái đời bây giờ là cái đời mỗi ngày gian trá quái ác thêm sinh thìphỏng còn có gì làm cho người biết nghĩ đáng yêu đáng quí nữa:Nghĩ thân phù thế mà đau,Bọt trong bể khổ, bèo dầu bến mê!


140. BỆNH MÊNước Tần có con nhà học Bàng, lúc nhỏ thông minh khôn ngoan sớm, đếnlúc lớn tự nhiên mắc phải bệnh mê, nghe hát cho là khóc, trông trắng hóa rađen, ngửi thơm cho là thối, ăn ngọt cho là đắng. Tính hạnh anh dở mà cứ cholà phải, bao nhiêu những cái anh ta nghĩ đến, trời đất, bốn phương, nước, lửa,nực, rét, không cái gì là không đảo ngược sai lầm cả.Có người bảo cha anh rằng:Bậc quân tử nước Lỗ có lắm thuật, nhiều nghề họa may chữa được chăng,sao không đưa đi mà hỏi.Người cha sang nước Lỗ. Khi qua nước Trần gặp ông Lão Đam, nhân nóichuyện chứng bệnh của con.Lão Đam nói:Nhà ngươi há biết được cái bệnh mê của con nhà ngươi đâu. Nay thiên hạai ai cũng ù ờ phải trái, mờ mịt, về lợi hại, kẻ mắc phải bệnh mê như con nhàngươi rất nhiều, chẳng có ai tỉnh cả.Vả lại, một mình mê không đủ làm lụy một nhà, một nhà mê không đủ làmlụy một nước, một nước mê không đủ làm lụy cả thiên hạ. Thiên hạ ai ai cũngmê cả, thì còn ai làm lụy ai được nữa.Giả sử thiên hạ ai cũng mê như con nhà ngươi mà chỉ nhà ngươi muốnchữa bệnh mê, thế thì chính nhà ngươi lại hóa ra mê mất.Ở đời những sự thương, vui, lẽ phải trái, những cái mắt trông, tai nghe,mồm nếm, mũi ngửi, ai nấy là người chắc cứ cho như thế mới là phải. Nàyngay như lời nói ta đây, vị tất đã khỏi mê, huống chí người quân tử nước Lỗlại là người quá ư mê , thì chữa sao được bệnh mê của người.Nhà ngươi đem bao nhiêu tiền đi tìm thầy chữa chạy chẳng bằng nghe tatrở về ngay còn hơn.Liệt TửGIẢI NGHĨA:- Tần: tên một nước về đời Xuân Thu ở vào đất Thiểm Tây ngày nay.- Quân tử nước Lỗ: ám chỉ Khổng Tử.- Lắm thuật nhiều nghề: Lắm cách nhiều lối.- Trần: tên một nước Xuân Thu ở khoảng phủ Thai Phong (Hà Nam) chođến châu Bạc (An Huy ) bây giờ.- Lão Đam: tức Lão Tử, họ Lý tên Nhi người Xuân Thu có làm sách Đạođức kinh, tổ đạo Lão.LỜI BÀN: bài ngày cũng như bài trên có ý chê Đức Khổng Tử, bác hẳn cáinếp đã thành ở đời, xưa nay ai nấy, tự lúc biết đời cũng cứ cho như thế mới làphải. Nhưng xét đến nơi, cái nếp ấy chẳng qua cũng chỉ là ước định mà thôi.Ấy là không nói ở đời lắm kẻ lợi dụng cái nếp ấy làm điều giả dối để nguhoặc người ta, lắm khi đến nỗi chỉ còn có danh mà không có thực. Giả sử bâygiờ ta thử đổi cái trắng là đen, cái đen là trắng, cái ngọt là đắng, cái đắng làngọt, nếu lâu ngày quen nếp đi, thì tất thiên hạ lại cho thế mới là thuận màchính như bây giờ là nghịch vậy. Ôi! Cái thanh, sắc khứu, vị rõ rệt như thế,người đời cho ngược hẳn lại được, thì cái nhân tâm, thế đạo là cái vô hình, vôtrạng người đời há lại không dám ngược lại hay sao! Này những đời loạn, càndỡ thì cho là tòng quyền, hà hiếp thì gọi là bênh vực, cái phận trên dướikhông phân minh, đến cả cha con cũng bình đẳng, cái mối luân thường đã rốiloạn, đến cả vợ chồng cũng tự do, mà cứ càng ngày càng đắm đuối mãi vào,thì có gọi đời là tỉnh được hay không! Hay chính là mê, mê quá không biếtnữa vậy. Bệnh mê thực làm hại người ta, hầu hết cả một nước, cả loại ngườinhư điên, như cuồng, ai chữa cho khỏi, mà ai là kẻ có cách nhìn được khỏi.Than ôi biết làm thế nào?


141. VỢ LẼ PHẢI ĐÒNXưa có người đi làm quan xa. Vợ ở nhà có ngoại tình ít lâu, có tin ngườichồng sắp về, đứa gian phụ lấy làm lo. Đứa gian phụ bảo rằng:Không việc gì mà sợ. Tôi đã làm sẵn thứ rượu thuốc để đã nó đây rồi.Hai hôm sau chồng về tới nhà, đang khi chuyện trò vui vẻ, người vợ saingười thiếp rót chén rượu dân chồng, bảo cố mời uống. Người thiếp biết rõchén rượu ấy có thuốc độc, nghĩ trong bụng rằng:Ta mà dâng chén rượu này thì ta là người giết chồng, ta mà nói ra thì ta lạilàm cho vợ cả ghét ta.Bèn giả cách ngã, làm cho chén rượu đổ xuống đất.Chống thấy vậy giận lắm, đánh cho người thiếp mấy chục roi.Than ôi! Người thiếp này đánh đổ chén rượu, phần thì làm cho chống đượcsống, phần thì làm cho vợ cả khỏi tội. Trung tín đến như thế mà chẳng khỏiđòn mà phải chịu tội.Chiến Quốc Sách.LỜI BÀN: Thân danh được là bà quan mà có ngoại tình là rất xấu xa đãnên tội. Đã ngoại tình lại còn những toan giết chồng, cái tội càng nặng biết đểvào đâu cho hết. Ngoan thay! Thế mà vẫn chẳng ai biết, vẫn ra ngoài vòngpháp luật.Phận hèn tiểu thiếp mà biết giữ cho chồng khỏi chết, vợ cả khỏi tội, hếtlòng ủy khúc, chỉ cốt giữ cho gia đình được êm thấm, khỏi ô uế, không quảngì đến thân, cái chí cao như thế, cái đức dày như thế mà lại đến nỗi vừa phảiđòn, vừa bị người ghét. Than ôi Tình cảnh khắt khe, nỗi oan ai tỏ.Trong gia đình nhà ông quan này, có một câu chuyện như thế, nhưng trongcả nước, cả thiên hạ, còn có bao nhiêu câu chuyện như thế. Xưa nay đã cóbiết bao nhiêu chí sĩ nhân nhân, trung thần liệt nữ chỉ vì chân lý, chỉ vì cứungười mà phải ngục tù oan ức đau khổ đến thân. Khổ nhục oan ức những bậcấy có coi vào đâu, miễn là đạt được mục đích, dù không ai biết, cũng lấy làmvui, có sá kể chi thế thái nhân tình của thế tục. Tấm lòng trung nghĩa tinh tinhthành của những bậc ấy đáng quý, đáng trọng biết nhường nào.


142. KHOÉT MẮTLư phu nhân, vợ ông Phòng Huyền Linh là người tuyệt đẹp và đức hạnh.Ông lúc trẻ hàn vi lắm. Một khi bệnh nặng tưởng đã sắp chết, ông gọi Lưthị đến bảo rằng:Tôi bệnh nguy quá, nàng tuổi còn trẻ không nên ở vậy, liệu mà ăn ở tử tếvới người chồng sau.Lư thị nghe nói nức nở khóc. Đoạn vào trong mà khoét một mắt bỏ đi, có ýtỏ cho chồng biết rằng dù chồng bất hạnh có chết, cũng không chí lấy ai nữa.Không bao lâu, ông Huyền Linh khỏi bệnh.Sau ông thi đỗ, làm quan đến chức tể tướng. Ông một niềm yêu mến, kínhtrọng Lư thị vô cùng, không hề lấy người tì thiếp nào nữa.Người ngoài cho thế là tại ông sợ Lư thị có tính hay ghen.Chính vua Đường Thái Tôn muốn thử Lư phu nhân, một hôm cho HoàngHậu gọi vào bảo:Theo phép thường các quan to vẫn có tì thiếp. Quan nhà ta tuổi đã cao, vuamuốn ban cho một người mỹ nhân.Lư thị nhất quyết không nghe. Vua nổi giận mắng rằng:Nhà ngươi không ghen thì sống mà ghen thì chết. Rồi sai người đưa chomột chén rượu, giả làm chén rượu độc, phán rằng : "Đã vậy thì phải uốngchén thuốc độc này".Lư thị không ngần ngại chút nào, cầm chén uống hết ngay.Vua thấy thế nói :Ta cũng phải sợ nữa là Huyền LinhLư Phu Nhân TruyệnGIẢI NGHĨA:Phòng Huyền Linh: danh tướng thới nhà ĐườngLỜI BÀN: Tưởng mình sắp chết, thấy vợ trẻ trung, không muốn để cho vợở vậy, thế là quá thương yêu vợ, thể tất cho vợ lắm. Sợ chồng tiếc đẹp, chếtđi không dứt, mà khoét mắt để tỏ ra thành tật cho yên lòng chồng, thế là chítình và nhất tâm với chồng lắm.May khỏi bệnh, sau lại làm đến Tể tướng, ông chỉ biết có bà mắt khoét,không biết gì đến tì thiếp xinh đẹp, thế là ông muốn giữ cho được trọn vẹncái tình đối với bà. Còn bà không muốn để cho ông có tì thiếp, tuy gọi là thóiquen thường tình, nhưng cũng là vì chung tình với ông, không muốn cúng aisan sẻ mối tình nữa. Quý thay! Đôi vợ chồng này, chân tình và chí tình suốtđời kính yêu nhau, vợ chỉ biết có chồng, chồng cũng chỉ biết có vợ, chồngmột vợ một, không những thoát khỏi cái nạn đa nhân duyên nhiều phiền nãomà còn gây được cái phúc lâu dài cho thân, cho gia đình, cho con cháu saunữa.


143. VỢ XẤUVợ Hứa Doãn là Nguyễn thị nhan sắc kém lắm. Khi Hứa Doãn mới lấy về,làm lễ cưới xong, trông thấy vợ xấu muốn lập tức bỏ đi thẳng, bèn hỏiNguyễn thị rằng:Đàn bà có "tứ đức", nàng được mấy đức?Nguyễn thị thưa:Thiếp đây chỉ kém có "dung" mà thôi. Rồi liền hỏi:Kẻ sĩ có "bách hạnh", dám hỏi chàng được mấy hạnh?Hứa Doãn đáp:Ta đây đủ cả bách hạnh.Nguyễn thị nói:Bách hạnh thì "đức" là đầu, chàng là người hiếu sắc, không hiếu đức, saolại bảo là có đủ bách hạnh được?Hứa Doãn nghe nói, có sắc thẹn. Tự bây giờ hai vợ chồng bèn yêu mến,kính trọng nhau suốt đời.Thế ThuyếtGIẢI NGHĨAHứa Doãn: Người đời Tống có tài văn chương thi đỗ Tiến sĩ, làm quanchính sách rất hay, lòng dân cảm phục.LỜI BÀN: Thường tình người ta tự xưa đến nay, ai cũng thích đẹp, chuộngđẹp. Xem như câu Đức Khổng Tử nói: "Ngô vị kiến hiếu đức như hiếu sắcgiả dã" thì đủ rõ. Tuy vậy, cái đẹp có hạn, cái nét vô cùng. Thế gian, nhữngkẻ đem cái đẹp mà thờ người, mua chuộc lòng người, đến khi cái đẹp kémxuân, thường phải người ta cư xử ra tình phụ bạc. Đến như cái nết thì êm đềmthấm thía, cảm hóa được người, khả dĩ làm cho người ta càng biết, càng thânyêu, càng thân yêu càng kính phục, vì thế mà thường được trọn vẹn suốt đời.Vợ Hứa Doãn đây lanh trí khôn lắm thật. Chỉ một câu nói mà làm cho tanhết được nỗi bất bình của chồng và khiến cho chồng suốt đời phải yêu vì cáiduyên lặn vào trong. Thế chẳng phải là "cái nết đánh chết được cái đẹp" là gì.Nhưng được những người như vợ Hứa Doãn rất là hiếm vậy. Ở đời kể đãđược mấy tay có thể lấy đức mà thay sắc hay thường khi đã xấu người lạithêm xấu cả nết nữa.


144. GHEN CŨNG PHẢI YÊUHoàn Ôn trước đã có vợ là Nam Khang công chúa, con gái vua Minh Đếnhà Hán. Sau Hoàn Ôn sàng đánh dẹp được nước Thục lại lấy con gái của LýThế là một nhà quyền quý nước Thục mang về làm thiếp.Lúc về nhà, công chúa biết chuyện nổi cơn ghen, liền cầm gươm và đemtheo mấy người nàng hầu, xăm xăm đến, chực chém chết Lý thị. Lúc đến nơi,công chúa thấy Lý thị ngồi trước cửa sổ chải đầu, tóc rũ chấm đất, dung nhantư mạo đoan trang tươi đẹp. Lý thị thong thả vấn tóc, lượm tay, đến trướccông chúa thưa rằng:Nước tôi mất, nhà tôi tan, tôi quả vô tâm mà hóa ra đến đây. Được bà chémcho, thật thỏa lòng tôi mong mỏi.Lý thị khi nói, mặt trông nghiêm chính ung dung, tiếng nghe êm đềm thấmthía.Công chúa thấy vậy ném gươm xuống đất ôm lấy nàng mà nói rằng:Này em ơi! Chị thấy em còn phải yêu, phải thương huống chi là lão già nhàta.Rồi tự đây, công chúa rất trọng đãi Lý thị.Thế ThuyếtGIẢI NGHĨA- Hoàn Ôn: người đời nhà Tấn, làm quan đến chức Đại tư mã, uy quyềnlừng lẫy thường hay nói câu: "Tài trai chẳng có thể để tiếng thơm trăm đờicũng nên để tiếng xấu muôn năm" - "Nam tử bất năng lưu phương bách thế,diệc đương di khứu vạn niên"- Thục: nước ở vào vùng Thành Đô, thuộc tỉnh Tử Xuyên ngày nay.- Thế Thuyết: pho sách của Lưu Nghĩa Thánh đời nhà Tống soạn nóinhững chuyện vụn vặt từ đời Hậu Hán đến Đổng Tấn.LỜI BÀN: Phận hồng nhan số bạc mệnh, đã phải cảnh nước phá, nhà tan,quân cừu địch bắt hiếp về làm tỳ thiếp, mà nào đã yên, lại còn nỗi gặp tay vợcả phũ phàng, xăm xăm đến những chực mổ mề, móc gan, róc xương, lột xác.Đau đớn thay phận đàn bà thật! Thương thay! Lý thị nào phần thù riêng, nàophần nghĩa công lo phiền uất ức, trăm mối bên lòng, sống cũng là thừa ngườiyêu ta xấu, thì thà rằng chết trẻ còn hơn. Cho nên câu Lý thị nói với côngchúa khí khái ràn ra ngoài lời nói, tưởng một liều, ba bảy cũng liều cho xong.Nào ngờ, vì chính câu nói khí khái mà mếm dẻo ấy lại thêm được cái vẻnghiêm nghị mà khiến cho người đang giận dữ phải dẹp ngay nỗi bất bình,đang ghét lại hóa ngay ra chiều thân ái.Ta chắc xem câu chuyện này, chẳng những các bà có tính ghen với cây,hờn cùng bóng, thành ra có lượng bao dung rộng rãi, mà nam nhi ta, nhữngphường giá áo túi cơm, bội gốc, quên nguồn, cũng phải sinh lòng khảng kháivậy.


145. LỜI CON CAN CHAĐiền Văn là con Điền Anh, ít tuổi mà cực khôn ngoan, thấy cha làm quanhay vụ lợi riêng, một hôm thừa nhàn, hỏi cha:- Con đứa con gọi là gì?Cha nói:- Gọi là cháu- Cháu đứa cháu gọi là gì?- Gọi là chút.- Chút đứa cháu gọi là gì?- Ai biết gọi là gì được ...- Cha làm tướng một nước Tề này đến nay đã trải ba đời vua, giàu có hàngức vạn mà môn hạ không có một người nào là hiền tài cả. Con nghe nhà quantướng võ, tất có quan tướng võ giỏi, cửa quan tướng văn, tất cả quan tướngvăn giỏi. Nay cha áo mặc gấm vóc mà người giỏi trong nước vẫn rách rưới,tôi tớ thừa ăn mà người giỏi trong nước vẫn đói khát. Cha quên hết cả việccông ích hiện thời của dân, của nước, chỉ chăm chăm súc tích của cải muốnđể dành cho những kẻ sau này không biết gọi nó là gì! Con trộm nghĩ như thếthì thật là quái lạ lắm...Sử Ký Mạnh Thường Quân TruyệnLỜI BÀN: người ta ai là chẳng vì con vì cháu mà cố sức làm ăn, mà súctích tiền của. Cái sự lo cho mình xong đến lo cho con cái cháu chắt họ hànglà cái tôi đi rất có thứ tự tự nhiên. Tuy vậy, ai cũng nên biết có nhà, có họ,nhưng lại còn có nước, có xã hội nữa. Cho nên cái sự mưu cho nhà, cho họcũng có chế hạn để còn có tâm, có sức mưu cho người cùng giống, cùng nòi,cùng ở chung một nước, cùng sống trong một thời với mình. "Đời cua cuamáy, đời cáy cáy đào" ta lo quá xa mà cứ đem thân làm trâu ngựa giúp chođến mấy đứa cháu mấy mươi đời về sau này, sao cho bằng ta lo ngay cho baonhiêu sinh linh mắt ta trông thấy khốn khổ hàng ngày. Để của lại sau này, sâuxuống không biết đến đâu là đáy, mà của ấy thường một hai đời đã hết, so vớilàm ơn rộng ra ngay hiện thời, ơn ấy đến đâu thấm đến đấy, thì đằng nào hơn.Câu Điền Văn vặn hỏi cha rồi giảng giải như bài này thực là một bài học haycho những người có tính cách cá nhân chỉ biết có người máu mủ trong mộtnhà mà không có độ lượng biết đến những người trong cả làng, cả nước, cảxã hội, nhân loại vậy.


146. MỘT CÁCH ĐỂ LẠI CHO CON CHÁUBàng Công tính điềm đạm, không mấy khi bước chân tới chốn tỉnh thành.Hai vợ chồng ở nhà làm ăn và thường kính nhau như khách vậy.Một hôm Lưu Biểu tìm đến chơi. Bàng Công đang cày dưới ruộng, bỏ càylên bờ nói chuyện, còn vợ con vẫn cứ ở dưới đồng.Lưu Biểu thấy thế, hỏi rằng:- Sao tiên sinh khổ thân cày cuốc, chẳng chịu ra kiếm chút quan lộc, saunày lấy gì để lại cho con cháu?Bàng Công nói:- Người đời ai cũng lấy "nguy" để lại cho con cháu, duy chỉ tôi là lấy "an"để cho con cháu mà thôi. Cách ấy để lại cho con cháu, tuy khác nhau nhưngthực thì đàng nào cũng gọi là để cả.Lưu Biểu nghe nói, than thở rồi đi.Hậu Hán ThưGIẢI NGHĨABàng Công: tức là Bàng Đức Công, người hiền ở đất Tương Dương, đờiĐông Hán không chịu ra làm quan vào ẩn núi Lộc Môn, hái thuốc và làmruộng kiếm ăn với vợ con.Lưu Biểu: người đất Cao Bình đời Đông Hán, làm thứ sử ở Kinh Châu cóbụng yêu dân trọng người tài giỏi.


147. MỘT CÁCH LO XA CHO CON CHÁUSơ Quảng đời nhà Hán, làm quan tri sĩ về, được vua ban cho nhiều vànglụa.Con cháu cụ thấy thế, bèn nhờ cậy người già cả trong họ đến nói với cụ lậpnhiều cơ nghiệp và mua ruộng đất.Một hôm, nhân lúc thư nhàn, những người già cả đem câu chuyện làm giàucho con cháu thưa lại để cụ nghe, thì cụ nói rằng:"Ta tuy già lão há lại không nghĩ đến con cháu hay sao. Hiện ta cũng đã cóít ruộng nương, cửa nhà cũ của tiền nhân để lại. Con cháu ta mà chăm chỉ vàođấy thì cũng đủ ăn đủ mặc bằng người được rồi. Nếu bây giờ ta lại làm giàuthêm cho chúng để cho thừa thãi dồi dào, thì là ta chỉ làm cho chúng lườibiếng thêm ra thôi. Người giỏi mà sẵn có nhiều của thì kém mất chí hay;người ngu mà sẵn có nhiều của thì càng thêm tội lỗi. Vả chăng của cải màchứa nhiều thì chỉ tổ làm cho người ta oán. Ta đã không có gì giáo hóa đượccon cháu ta thì cũng không nên làm cho chúng có nhiều tội lỗi và để thiên hạai oán chũng cho thêm phiền.Những của cải ta đang có đây là ơn của vua trên hậu đãi người bầy tôi giàlão, ta chỉ muốn cùng cả anh em, họ hàng, làng nước cùng hưởng chung cáiơn ấy để trọn tuổi trời chẳng cũng là phải ư?"Người trong họ nghe nói thế ai nấy đều cảm phục.Hán Thư Sở Quảng Truyện


148. HAI THẦY TRÒ DẠY NHAUThường Tung yếu.Lão Tử đến thăm, hỏi rằng:- Tôi xem ra tiên sinh mệt nặng. Dám hỏi tiên sinh còn có câu gì để dạy đệtử chúng con nữa không?Thường Tung nói: Qua chỗ cố hương mà xuống xe, ngươi đã biết điều ấychưa?Lão Tử thưa: Qua chỗ cố hương mà xuống xe, có phải nghĩa là không quênnơi quê cha đất tổ không?- Ừ phải đấy. Thế qua chỗ cây cao mà bước rảo chân, ngươi đã biết điều ấychưa?- Qua chỗ cây cao mà bước rảo chân, có phải là kính những bậc già cảkhông?- Ừ phải đấy.Thường Tung há miệng ra cho Lão Tử coi và hỏi rằng:- Lưỡi ta còn không?Lão Tử thưa: Còn.Thường Tung lại há miệng cho Lão Tử coi nữa và hỏi rằng:- Răng ta còn không?Lão Tử thưa: Rụng hết cả.- Thế ngươi có rõ cái lí do ấy không?- Ôi! Lưỡi mà còn lại, có phải tại lưỡi mềm không? Răng mà rụng hết, cóphải tại răng cứng không?- Ừ phải đấy. Việc đời đại để như thế cả. Ta không còn gì để nói cùng cácngươi nữa.Thuyết Uyển


149. LƯỠI VẪN CÒNTrương Nghi lúc hàn vi thường hay hầu rượu tướng nước Sở.Một hôm, tướng nước Sở mất ngọc bích, môn hạ ai nấy đều ngờ choTrương Nghi, và đánh đập Trương Nghi tàn nhẫn. Trương Nghi không phụctình. Lúc được tha trở về, vợ thấy thế bảo rằng:- Than ôi! Giá chàng học hành biết du thuyết, thì không đến nỗi nhục nhằnnhư thế này!Trương Nghi há mồm to, hỏi vợ rằng:- Nàng thử xem cái lưỡi của ta có còn không?Vợ cười, nói: Lưỡi vẫn còn.Trương Nghi bảo: Thế thì được.Rồi sau Trương Nghi quả nhiên thành ra một nhà du thuyết giỏi có tiếngthời bấy giờ.Trương Nghi TruyệnGIẢI NGHĨATrương Nghi: Người nước Ngụy là một nhà du thuyết giỏi thời ChiếnQuốc.LỜI BÀNPhàm người ta thường có bị sỉ nhục thì mới phẫn chí. Khi đang phẫn chímà có ai khích cho một câu thì tất phải cố công, gắng sức làm cho rửa đượccái nhục và nên công, nên việc mới nghe.Trương Nghi đây sở dĩ mà thành được một nhà du thuyết giỏi, tuy là tự tàimình làm nên, nhưng cũng vì có kẻ làm nhục, lại nhờ có vợ khuyến khíchthêm cho nữa. Vậy nên ở đời những kẻ thù nghịch sỉ nhục mình thường cókhi lại chính là kẻ giúp cho mình làm nên vậy.


150. KHÔNG CHỊU NHỤCĐời vua Trang Công nước Tề, có một chàng tên là Tân Ti Tụ đêm nằmthấy một người to lớn mặc quần gai, áo vải, đội mũ trắng, đi giày mới, đeothanh gươm tự dung vào tận nhà mắng, rồi nhổ vào mặt.Chàng ta giật mình, sực tỉnh dậy, tuy biết là chuyện chiêm bao chàng tavẫn tức, ngồi suốt đêm, lấy làm bực dọc khó chịu lắm.Sáng hôm sau, chàng ta mời một người bạn thân đến và nói rằng:- Bác ơi! Từ thuở bé đến giờ, tôi vẫn là người hiếu dũng, nay đã sáu mươituổi, chưa hề phải đứa nào tỏa nhục bao giờ. Thế mà đêm qua phải một đứanó làm nhục. Tôi định tìm kỳ được đứa ấy để báo thù mới nghe. Nếu tôi tìmhthấy nó thì hay, nếu không tìm thấy thì tôi chết mất.Rồi từ hôm đó cứ sáng nào chàng ta cũng cùng người bạn ra đứng ngoàiđường cái để rình. Rình đã hai ba ngày mà không thấy đâu, chàng ta về nhàuất lên mà chết.Như câu chuyện này mà ta cho là phải thì chưa chắc là phải. Tuy vậy, cứxem một cái tâm không chịu nhục ở trong chuyện, thì đã có cái gì hơn đượcthế chưa!Lã Thị Xuân ThuLỜI BÀNTác giả kể chuyện rồi bàn một câu ở dưới như thế cũng là đủ.Quả vậy, xem chuyện này, không cho là phải được, là vì tức ai chứ tức mộtngười gặp trong lúc chiêm bao mơ ngủ thì là tức hão huyền, tức cái khôngđáng tức.Nhưng tựu trung, câu chuyện lại có một điều thật đáng phục là chính thâmý câu chuyện muốn nâng cao cái lòng biết nhục, biết lấy liêm sỉ làm trọng.Ôi! Trong khi giấc ngủ mơ màng, bị người ta làm nhục còn không chịu đượcthì trong khi người thật tỉnh táo rõ ràng mà bị người ta làm nhục, thì đángnhư thế nào?... Thế mà lạ thay có ở đời có lắm kẻ hoặc ham mê danh lợi,hoặc quen thói tôi đòi, chôn hết cả liêm sỉ, chịu hết mọi nỗi nhục nhằn đè nénkhông bút nào tả cho xiết được mà vẫn giữ hớn hở như không. Đối với nhữnghạng không biết nhục, Tân Ti Tụ đây thực đáng là một cái gương soi sáng sâuvào đến tâm não họ vậy.

Bạn đang đọc truyện trên: truyentop.pro