151-200
151. CÂU NÓI CỦA NGƯỜI ĐÁNH CÁVua Văn Công nước Tấn đi săn ham đuổi một con thú mải theo quá chân,thành lạc vào trong cái chầm lớn không biết lối ra.Vua gặp một người đánh cá, bèn bảo rằng:- Ta là vua đây. Ta lạc đường, nhà nươi chỉ lối cho ta ra rồi ta hậu thưởng.Người đánh cá nói: Bầy tôi muốn dâng nhà vua một câu.Vua bảo: Cứ đưa ra khỏi chầm đã, rồi muốn nói gì thì hãy nói.Khi người đánh cá đưa vua ra khỏi chầm, vua phán rằng:- Nào câu gì nhà ngươi muốn nói với quả nhân lúc nãy thì nói nghe đi.Người đánh cá thưa: Chim hồng hộc ở bờ sông bờ biển, chán sông biển màvào đầm tất mắc phải dò bẫy. Thuồng luồng ba ba ở đáy vực sâu, chán vựcsâu mà ra chỗ bãi nông, tất phải bị chài lưới. Nay nhà vua đi săn, sao quáchân vào đến tận đây như thế?Vua Văn Công bảo: Người nói phải lắm.Đoạn ngoảnh lại truyền quan hầu ghi tên người đánh cá để sau ban thưởng.Người đánh cá nói:- Nhà vua bảo ghi tên bầy tôi làm gì. Xin nhà vua cứ tôn kính thiên địa, xãtắc phòng giữ biên thùy, thương yêu muôn dân, đánh nhẹ thuế má, tự khắc làbầy tôi được hưởng ân huệ của nhà vua rồi. Nếu nhà vua chẳng tôn kính thiênđịa, xã tắc chẳng phòng giữ biên thùy, chẳng chăm công việc, bên ngoàikhông khéo xử với các nước , bên trong mất cả lòng muôn dân, để đến nướcmất dân khổ, thì dù bầy tôi có được hậu thưởng, cũng không thể sao giữ màhưởng một mình được.Người đánh cá cố từ, xong rồi lại nói:- Xin vua mau mau về nước, tôi đây cũng về chỗ kiếm cá của tôi thôi.Tân TựGIẢI NGHĨAVăn Công: vua giỏi nước Tấn về đời Xuân ThuTấn: nước to thời Xuân Thu ở vào tỉnh Sơn Tây ngày nayLỜI BÀNNgười đánh cá đây là người hiền muốn khuyên vua Văn Công hai điều là:không nên say mê chơi bời săn bắn quá độ mà có khi hại đến tính mạng, hếtđạo làm vua cho dân được nhờ và nước khỏi mất.Còn người đánh cá từ chối nhận thưuởng nói cái lẽ như thế cũng là lo xanghĩ sâu và phải lắm vậy. Quả là thế khi tổ chim đã đổ thì trong còn có cáitrứng nào lành; nước đã bị phá tan hay xâm chiếm thì nhà toàn vẹn sao đượcđể mình còn hòng riêng hưởng cuộc yên vui; đời được thái bình thì quý bằngbao nhiên ân thưởng, tâm không phiền lụy thì sung sường bằng bao nhiêucông danh.
152. VUA TÔI BÀN VIỆCVũ Hầu nước Ngụy cùng với quần thần bàn việc, việc gì vua bàn cũngphải, quần thần không ai giỏi bằng:Lúc lui chầu, Ngụy Hầu ra dáng hớn hở lắm.Ngô Khởi bèn tiến lên nói:Cận thần đã ai đem câu chuyện Sở Trang Vương nói cho nhà vua nghechưa?Vũ Hầu hỏi:Câu chuyện Sở Trang Vương thế nào?Ngô khởi thưa:Khi Sở Trang Vương mà bàn việc phải hơn quần thần, thì lúc lui chầu lolắm. Có người hỏi: Sao vua lại lo? - Sở Trang Vương nói: Ta làm việc màquần thần không bằng được ta, cho nên ta lo. Cổ nhân có câu: "Các vua chưhầu, ai có thầy giỏi, thì làm được vương, ai có bạn giỏi thì làm được bá, ai cóngười quyết đoán cho mọi việc ngờ vực, thì còn nước, ai bàn việc không aibằng mình thì mất nước". Ta nghĩ ngu như ta mà quần thần không ai bằng thìnước ta có lẽ mất. Bởi thế ta lo...Ấy cũng một việc giống nhau. Sở Trang Vương thì lo mà nhà vua thìmừng.Vũ Hầu nghe nói áy náy vái tạ và nói rằng:Trời sai nhà thầy đến bảo cái lỗi cho ta.Tử TuânGIẢI NGHĨA:- Ngô Khởi: người nước Vệ thời Chiến quốc trước làm tướng vua nướcNgụy, sau làm tướng vua nước Sở, là một nhà dùng binh giỏi có tiếng.LỜI BÀN: Người làm chúa tể một nước tất là người tài giỏi hơn người,sáng công việc hơn người. Tuy vậy, khi đã dùng quần thần, là mong muốncậy quần thần, cón có nhiều khi giúp được mình như người ngoài giúp nướccờ vậy. Nếu mà quần thần không có ai hơn mình cả, thì là bọn a dua ăn hạicòn mong cậy gì được mà chẳng đáng lo. Nên lời Ngô Khởi nói đây rất làphải. Đã hay rằng người ta ở đời phải cầu ở mình hơn nhờ ở người, nhưnglắm lúc cũng phải có tả phụ hữu bậc mới lo toan được công việc lớn. Nhữngbậc vua chúa cần phải có thầy giỏi, tôi hay là vì cái lẽ ấy.Truyện này cũng giống câu trong "Quốc Sách" có nói: "Đế giả cũng ở vớithầy, vương giả cùng ở với bầy tôi, vua vong quốc chỉ cùng ở với hạng đầytớ".
153. KHÓ ĐƯỢC YẾT KIẾNTô Tần sang nước Sở, chầu chực suốt ba ngày mới được yết kiến vua Sở.Đến khi được yết kiến, nói xong câu chuyện là xin cáo biệt ngay.Vua bảo:Quả nhân nghe tiếng tiên sinh quý như nghe tiếng một bậc cổ nhân. Naytiên sinh đã không quản xa xôi, đến chơi với quả nhân, lại không chịu ở lại làcớ làm sao?Tô Tân thưa:Tôi xem ra bên nước Sở ta đồ ăn đắt hơn ngọc, củi thổi đắt hơn quế, quankhó được trông thấy như ma, vua khó được yết kiến như trời. Nhà vua muốnbắt tôi ở lại ăn ngọc, thổi quế, nhờ ma để thấy trời sao?Vua nói:Xin mời tiên sinh cứ ở lại. Quả nhân nghe đã hiểu ra rồi.Chiến Quốc sáchGIẢI NGHĨA- Tô Tân: Một nhà du thuyết giỏi thới Chiến Quốc đi nói sáu nước đồngminh để kháng cự nước TầnLỜI BÀN: Lắm người có được chút quyền chức khiến cho người khác phảicầu đến mình thì tự làm ra khó khăn hình như không muốn cùng ai xúc tiếpnữa. Họ làm như thế, tưởng là nâng giá trị mình cho cao lên, có biết đâu lại làlàm cho quyền chức mình kém vì vậy. Vì khi đã làm khó, ít cho người đếngần, tức là lấp đường không cho chân lý, không cho điều khuyết điểm củachức vụ mình đạt được đến mình nữa. Ôi! Như Tô Tần là bậc tài giỏi mà vuaSở làm cho khó yết kiến thì chỉ có phần thiệt cho vua, chớ hại gì cho Tô Tần.Thế mới hay người chúa tể một quốc gia, lãnh đạo một dân tộc, cần phải tônhiền hạ sĩ, trọng dụng nhân tài để đồng tâm hợp tác thì mới mong thành côngđược, nếu thông minh tự dụng thì chỉ hại cho dân cho nước mà thôi.
154. KHÔNG PHỤC NƯỚC TẦNNước Tần đánh nước Ngụy.Vua Ngụy sợ, sai Tân Viên Diễn sang nói với vua Triệu, ý muốn cùng tônnước Tần lên làm đế để đỡ việc chiến tranh.Lỗ Trọng Liên được tin ấy, đến bảo Diễn rằng:Nước Tần là nước bỏ hết cả lễ nghĩa, chỉ chăm dùng võ lực chinh chiến,như thế mà tôn làm đế, thì thực là không còn ra sao nữa. Tần sau này màthắng thế, có làm được đế, thì Liên đây đành bước ra biển đông mà chết chứkhông chịu làm dân nước Tần.Diễn đứng dậy nói rằng:Tôi nay mới biết tiên sinh là bậc thiên hạ sĩ. Từ nay tôi không dám nói tônnước Tần làm đế nữa.Chư thưGIẢI NGHĨA:- Tân Viên Diễn: tướng quân nước Ngụy về thời Chiến Quốc.- Lỗ Trọng Liên: người nước Tề về thời Chiến Quốc, tính khẳng khái, caothượng, thích vì người bài phân, giải nạn, vua Tề phong tước ông khôngnhận, khi Tần nhất thống, ông ra ẩn ở biển đông.LỜI BÀN:Khi thấy một nước mạnh hơn nước mình mà mình cần giao hiếu, thì cũnglà thường tình, vì như thế tức là vừa giữ cho mình còn lại, vừa được thêm vâycánh nữa. Nhưng mình phải biết khi giao hiếu với nước tàn bạo mà chiều họtức là như mình muốn xúi giục cho họ càng tàn bạo thêm lên. Điều ấy rấtkhông nên vì như thế chẳng những không lợi gì cho mình mà lại thường nguycho mình nữa. Họ đã tàn bạo, tất họ không để mình yên, mà dù cho họ có đểmình yên nữa, thì cái trò tàn bạo không bền được lâu, chẳng bao lâu họ đổ thìmình tất cũng phải đổ theo.Lỗ Trọng Liên nói trong bài đây, dù sau có phải tự đem thân ra ẩn biểnĐông, thế nhà Tần quả cũng như lời Trọng Liên đã nói, không được bền lâu,chỉ qua hai đời trong vòng bồn mươi năm là mất.
155. CẬY NGƯỜI KHÔNG BẰNG CHẮC Ở MÌNHVăn Công nước Đằng hỏi thầy Mạnh Tử rằng:Nước Đằng ta là một nước nhỏ ở vào khoảng giữa nước Tề và nước Sở làhai nước lớn. Kể phận thì phải chiểu cả hai nước, nhưng kể sức thì không thểchiều được cả. Chiều nước Tề chăng? Chiều nước Sở chăng? Ta thực khôngbiết nên nương tựa vào nước để cho nước ta được yên ổn, thầy mưu tính hộcho ta.Thầy Mạnh Tử thưa:Phàm việc mà cứ trông cậy vào người thì không thể chắc được. Chiều Tềthì Sở giận, chiều Sở thì Tề giận; mưu ấy chúng tôi không thể nghĩ kịp. Xinnói chỉ có một cách là tự giữ lấy nước, đào hào cho sâu, đắp thành cho cao,cai trị một cách cố kết lòng dân, cùng dân giữ nước. Hoặc như có biến cố gìxảy ra, vua đã liều chết để giữ nước, thì chắc dân cũng liều chết để giữ nước,không thể bỏ vua. Thế là ta dùng cái lòng dân để giữ lấy đất nước, tự cườngmà lo toan lấy việc nước. Còn chiều Tề hay chiều Sở thì tôi không thể quyếtđược.Mạnh TửGIẢI NGHĨA:- Đằng : tên một nước nhỏ thời Chiến Quốc tức là huyện Đằng tỉnh SơnĐông bây giờ.
156. PHẨM TRẬT ÔNG QUAN, PHẨM GIÁ CON NGƯỜIPhẩm trật ông quan là phẩm trật có một đời, phận có, khắc có. Phẩm giácon người là phẩm giá lưu truyền trăm đời, tự mình không cố gây dựng chomình, thì không bao giờ có.Sĩ quân tử ta trông thấy cái trời ở ngoài trời, biết rõ cái người ở trongngười, hiểu thấu đến cái vật ngoài vật ở đời, nghĩ xa đến cái thân sau thânthiện tại, thì biết đằng nào ngắn, đằng nào dài, đằng nào còn, đằng nào mất,chắc không ham mê cái này mà quên bỏ cái kia.Chúc Tử
157.BÀI TRÂM CỦA NGƯỜI LÀM QUAN1. Sĩ đại phu nên vì đời mình mà tiếc danh, không nên vì đời mình mà muadanh.Có học thức, chuộng khí tiết, thủ dữ (lấy hay cho) phải cẩn thận, uy nghiphải trang trọng, ấy thế là tiếc danh.Tâng bốc lẫn nhau, a dua những kẻ quyền quý, làm ra kiểu cách khácthường, lờ mờ hai mặt, ấy thế là mua danh.Người tiếc danh thì yên lặng mà hay, kẻ mua danh thì rực rỡ mà dở.2. Sĩ, đại phu nên vì con cháu gây phúc, không nên vì con cháu cầu phúc.Nghêm giữ phép nhà, chuộng sự tiết kiệm, chất phác, dạy cho chúng biếtchữ, cho chúng có nghề, chứa nhiều âm đức, ấy thế là gây phúc.Mua nhiều cửa nhà, ruộng đất, giao kết với những người quyền thế, tranhlợi nhỏ mọn với dân, mua công danh cho con cháu, ấy thế là cầu phúc.Người gây phúc thì thanh đạm mà lâu dài, kẻ cầu phúc thì nồng nàn màngắn ngủi.3. Sĩ, đại phu nên vì một nhà mà dùng của, không nên vì một nhà mà hạicủa.Giúp cho họ hàng, làng nước, tiêu rộng rãi về việc học, cứu kẻ khốn cùng,chăm làm việc nghĩa, ấy thế là dùng của.Ăn mặc hoang, xướng hát nhiều, yến hội luôn, tụ tập lắm đồ châu báu, ấythế là hại của.Người biết dùng của tuy thiệt mà vẫn có thừa, kẻ không biết dùng của thìtuy thừa mà vẫn thiếu.4. Sĩ, đại phu nên vì thiên hạ nuôi thân, không nên vì thiên hạ tiếc thân.Bới thị dục, giảm lo phiền, ít phẫn nộ, tiếc ẩm thực ấy thế là nuôi thân.So kè lợi hại, xa tránh khó nhọc, tham quyền cố vị chỉ chăm chăm việc vợcon, nhà cửa, ấy thế là tiếc thân.Người nuôi thân thì im lặng mà to, kẻ tiếc thân thì thỏa thê mà nhỏ.Trượng Động SơGIẢI NGHĨA: Trâm: lời nói hay thể văn dùng để khuyên răn người ta.LỜI BÀN: Bồn đoạn bài này dạy người làm quan muốn vì thân mình, vìcon mình, vì nhà mình, vì thiên hạ nên làm thế nào là phải. Mỗi đoạn cânnhắc tách bạch lợi hại, rồi lại bày tỏ tinh tường sự kết quả của cả đôi đươnghay dở, thực là xác đáng lắm. Ta tưởng bài trâm này chẳng những riêng chongười làm quan mà ai nấy đã có chút công danh của cải, muốn cho được yênvui sung sướng cũng nên ngầm đọc, hay viết ra mà treo luôn bên mình mà soingắm hắng ngày để cố mà thực hành, tưởng cũng nên lắm.
158. CƯỜI NGƯỜI TA KHÓCCảnh Công nước Tề đi chơi núi Ngưu Sơn, trèo lên mặt thành, đứng ngắmtrông rồi tràn nước mắt vừa khóc vừa nói:- Đẹp quá chừng là nước ta! Thật là sầm uất, thịnh vượng! Thế mà nỡ nàomột tuổi một già bỏ nước này mà chết đi. Giả sử xưa nay, người ta cứ sốngmãi, quả nhân quyết không bỏ nước Tề mà đi nơi khác.Lã Sử Không, Lương Khưu Cứ thấy vua khóc cũng khóc và nói rằng:- Chúng tôi đội ơn vua có cơm rau mà ăn, có ngựa hèn, xe xấu mà cưỡi,cũng còn chẳng muốn chết, huống chi là nhà vua.Một mình Án Tử đứng bên cạnh cười.Cảnh Công gạt nước mắt, ngoảnh lại hỏi Án Tử rằng:- Quả nhân hôm nay đi chơi thấy cảnh mà buồn. Không và Cứ đều theoquả nhân mà khóc, một mình nhà ngươi cười là cớ làm sao?Án Tử thưa:- Nếu người giỏi mà giữ mãi được nước này thì Thái Công, Hoàn Công đãgiữ mãi. Nếu người mạnh mà giữ được nước này, thì Linh Công, Trang Côngđã giữ mãi. Mấy vua ấy mà giữ mãi thì vua nay chắc cũng mặc áo tơi, độinón lá đứng giữa cánh đống lo việc làm ruộng, có được đâu chỗ này đứng,còn rỗi đâu mà lo đến cái chết. Chỉ vì hết đời này đến đời kia thay đổi mãimới đến lượt nhà vua mà nhà vua lại than khóc thì thật là bất nhân. Nay tôithấy vua bất nhân, lại thấy bầy tôi siểm nịnh nên tôi cười.Cảnh Công nghe nói lấy làm thẹn, rót chén rượu tự phạt rồi phạt Không,Cứ mỗi người một chén.Liệt TửGIẢI NGHĨANgưu Sơn: tên núi ở huyện Lâm Chí, tỉnh Sơn Đông ngày nayLã Sử Không, Lương Khưu Cứ: cận thần của Cảnh CôngÁn Tử: người nước Tề thời Xuân Thu, làm tướng vua Cảnh Công, ông làngười kiệm phác, trung thành, giỏi việc chính sự có tiếng thời bấy giờ.Thái Công, Hoàn Công, Linh Công, Trang Công: các bậc tiền quân củaCảnh CôngLỜI BÀNTham sinh là cái thói thường người đời. Nhưng cứ mong sống ở đời mãi,tiếc đời đến nỗi than thở khóc lóc như Cảnh Công đây cũng là tham quá.Trong vũ trụ, cái gì là có cái sinh mà không có diệt. Vậy đời người cũng phảichịu luật chung ấy, bé rồi lớn, lớn rồi già, già rồi chết, thấm thoắt có là bao.Lẽ đó mà không hiểu, lại phải chả ngu lắm ư! Nên Án Tử cười Cảnh Công rấtlà phải lắm. Án Tử bác cả Sử Không và Lương Khưu Cứ lại là phải lắm nữa.Thảm thương thay! Xưa nay những nước gặp phải vua ngu và bầy tôi a duasiểm nịnh!
159. HIẾU TỬ, TRUNG THẦNVương Tôn được bổ làm Thứ sử châu Ích.Quan Thứ sử trước ở đây là Vương Dương, lúc đi kinh lược trong hàngchâu, qua một đường núi rất cheo leo, than rằng:- Thân ta là thân của cha mẹ ta. Ta nỡ nào xông pha vào những nơi nguyhiểm này. Bèn quay lại, không đi rồi cáo bệnh về nhà.Lúc Vương Tôn đến thay Vương Dương, đi tuần phòng, cũng phải qua conđường ấy, hỏi nha lại rằng:- Có phải con đường này là con đường quan Thứ sử trước sợ không dám đikhông?Nha lại thưa: PhảiVương Tông bảo xe cứ đi và nói rằng:- Vương Dương trước là người hiếu tử, Vương Tôn đây là người trungthần.Hán Thư Vương Tôn TruyệnGIẢI NGHĨAThứ sử: chức quan cai trị một châu một quận đời cổÍch: tên một châu, tức là Tứ Xuyên đời nayKinh lược: đi xét qua việc trị an trong hạt mình cai trịNguy hiểm: cheo leo, không được yên ổn vững vàngCáo bệnh: có bệnh không làm được việc quan xin về nghỉ để chữaTuần phòng: đi tuần để phòng bị sự xảy raNha lại: những người theo làm việc tại dinh các quanHiếu tử: người con ăn ở hết lòng với cha mẹTrung thần: bầy tôi hết lòng đem thân giúp vua, giúp nướcLỜI BÀNĐối với gia tộc, Hiếu là trọng; đối với quốc gia, Trung là quý. Người ta ởđời, đáng lẽ ai cũng phải cố giữ cho trọn cả Trung lẫn Hiếu. Nhưng khốn nỗi,có lắm cảnh ngộ khiến người ta khó mà giữ cho cả Trung lẫn Hiếu đượclưỡng toàn; được Hiếu thì mất Trung, được Trung thì mất Hiếu.Kể như bài này, Vương Dương vì gia tộc mà giữ thân cũng là phải, nhưngso với Vương Tôn thì Vương Tôn phải hơn. Vì cứ theo cái chủ nghĩa "ở đờithân ta không phải của riêng ta, lúc nhỏ là thân của cha mẹ lúc lớn là thân củaquốc gia, lúc già là thân của thiên hạ, hậu thế trông mong vào đấy" thì lúc tađã ra làm việc nước, chính là lúc thân ta thuộc về quốc gia, ta há lại còn tiếcmà không làm cho trọn vẹn nghĩa vụ của ta đối với quốc gia hay sao! Đã đemhết thân phụng sự tổ quốc, thì tổ quốc phải để trên hết, chính thế cũng là hiếulắm, vì cha mẹ ta cũng kỳ vọng cho ta phải thế kia mà.
160. ĐỌC SÁCH CỔVua Hoàn Công đọc sách ở nhà trên. Có người thợ mộc đang đẽo bánh xeở nhà dưới, nghe tiếng đọc, bỏ chàng, **c chạy lên thưa vua rằng:- Cả dám hỏi nhà vua đọc những câu gì thế?Hoàn Công nói: Những câu của Thánh nhân.- Thánh nhân hiện nay còn sống không?- Đã chết rồi.- Thế thì những câu nhà vua học chỉ là những tao phách của cổ nhân đấythôi.- À anh thợ! Ta đang đọc sách, sao dám được nghị luận? Hễ nói có lý thì tatha, không có lý thì ta bắt tội.Người thợ mộc nói:- Tôi đây cứ lấy việc tôi làm mà suy xét, khi đẽo cái bánh xe, để rộng thìmộng cho vào dễ, nhưng không chặt; để hẹp thì mộng cho vào khó, và khôngăn. Còn làm không rộng, không hẹp, vừa vặn đúng mực thì thật tự tâm tôiliệu mà nẩy ra tay tôi làm, như đã có cái phép nhất định, chớ miệng tôi khôngthể nói ra được. Cái khéo ấy tôi không có thể dạy được cho con tôi, con tôicũng không thể học được tôi. Bởi thế tôi năm nay đã bảy mươi tuổi mà vẫngiữ nghề đẽo bánh xe.Người đời cổ đã chết, thì cái hay của người đời cổ khó truyền lại được,tưởng cũng đã chết cả rồi. Thế thì những câu nhà vua học thật chỉ là nhữngtao phách của cổ nhân mà thôi.Vua cho người thợ mộc nói là phải.Trang TửGIẢI NGHĨAHoàn Công: vua giỏi nước Tề thời Xuân ThuLỜI BÀNĐọc sách cũng như xem người, xem người mà cứ câu nệ hình, sắc, danh,thanh thì không bao giờ biết rõ được "tình" người, mà có khi lại phải người talàm cho ngu nữa. Ta học mà cứ bo bo ở ngôn ngữ, văn tự thì bao giờ biết hếtđược ý sách, vì cái hay nhiều khi miệng không thể nói ra được, bút không thểtả hết được. Ta đọc sách mà tâm ta không lĩnh hội được cái ý ở ngoài câu nóicủa cổ nhân, thì ta không thể tu kỷ, không thể trì nhân được, chẳng qua chỉlàm cho loạn cái tính của ta mà thôi. Những kẻ hay mượn bã giả của cổ nhânđể buông ra những học thuyết dông dài làm ra sách vở để dạy đời, ta tưởngcũng lầm lắm.Trong bài này, ý Trang Tử cũng như ý Tuân Tử muốn phản kháng lại cáilỗi học của đời bấy giờ, chỉ biết lấy "cổ" làm cốt mà bỏ quên mất cái "kim"chỉ biết cho những thánh nhân như Nghiêu, Thuấn...tự đời nào là phải, chứkhông cho người chính thời nay còn được địa vị nào nữa. Như thế không khỏigọi là thiên vậy. Câu nói của người lao công này chính xác và thực tế lắm.Người đi học chỉ chuộng hư văn, không có thực học tưởng cũng thẹn lắmthay!
161. MẤT DÊNgười láng giềng nhà Dương Chu mất một con dê, đã sai hết cả người nhàđi tìm, lại sang nói với Dương Chu mượn người nhà cho đi tìm hộ.Dương Chu nói: Ôi! Sao có mất một con dê mà cho những bao nhiêu ngườiđi tìm?Người láng giềng đáp: Vì đường có lắm "ngã ba".Khi các người đi tìm dê đã về, Dương Chu hỏi:- Có tìm thấy dê không?Người láng giềng đáp:- Không- Sao lại không tìm thấy?- Tại đường đã lắm ngã ba, theo các ngã ba đi một chốc lại có nhiều ngã bakhác. Thành không biết đi vào đường nào để tìm thấy dê, phải chịu về khôngcả.Ấy đường cái chỉ vì lắm ngã ba mà dê mất không tìm thấy. Người đi họccũng vậy, chỉ vì dễ mê muội mà mất cả lương tâm.Liệt TửGIẢI NGHĨADương Chu: người thời Chiến Quốc, xướng lên học thuyết "vị ngã" trái vớihọc thuyết "kiêm ái" của Khổng Tử.LỜI BÀNNgười đi học mà không suy xét cho tinh, cái gì cũng tham muốn cả thìkhông bao giờ học cho thực đến nơi đến chốn được! Vì cái tâm con người cómột, cái sức hoạt động của người cũng có hạn nên phân tán ra nhiều nơi,dùng sự hoạt động vào nhiều loại, tuy rằng học nhiều biết nhiều thật, nhưngchẳng qua chỉ hời hợt trên mặt, gọi là biết qua loa chút ít thôi. Sao cho bằngchỉ chuyên tâm học về một mặt nào, mà học cho đến cùng kỳ sự học, sự biếtmới là chắc chắn sâu xa và có giá trị vậy. Sự học cũng như nhiều sự khác quíhồ tinh bất quí hồ đa.
162. THỰC HỌCHết thảy mọi việc, việc gì cũng có tình hình thực sự. Làm thì làm thực sự,chớ vụ hư danh.Hết thảy câu nói, câu gì cũng có điểm mầu nhiệm. Nói thì nói cho ra nói,chớ vọng ngôn.Hết thảy mọi vật, mỗi vật có cái lý rất phải. Nếu không hiểu rõ lý ấy, thìnhận xét dễ sai lầm mà thành mê muội.Hết thảy mọi người, mỗi người ta có một cách để cư xử đối phó, nếukhông biết xử thì dễ sinh ra bất hòa, rồi chán ghét nhau.Người đi học cần cái gì, chỉ cần học làm cho có sự thật, học nói cho khỏivọng ngôn, học xử với mọi người cho phải...Học chỉ học thế thôi. Không chỗnào không phải là chỗ học, không lúc nào không phải là lúc học, không tâmniệm nào không phải là tâm niệm để học. Cố học cho được hiểu trọn vẹn, chớhiểu dở dang, cố học cho kỳ được, học cho đến nơi đến chốn, chớ có tự mãntự túc. Thế mới đáng gọi là người học giả.Khuyết DanhLỜI BÀNThực học là lối học thực tế, học cho mở mang trí thức, học cho dầy dặnnăng lực, để thành tài để ra người, để làm người hữu dụng: Nhỏ thì hữu dụngcho xã hội, to thì hữu dụng cho quốc gia, cho thiên hạ.Thực học trái người với lối học hư văn là lối tục học, phù hoa khinh bạc,lòe đời nịnh đời, chỉ tổ tự hại và hại tha, tuyệt không có gì là hữu dụng cả.Thế cho nên người đi học thì nhiều, người hữu dụng thì ít; đời mới thanphiền: "hiếm nhân tài!".
163. ĐÂY MỚI THẬT LÀ THẦYTừ Tuân Minh, người ở Hoa Âm, thân thể to lớn, mồ côi từ thuở nhỏ, tínhhiếu học, mười bảy tuổi theo Mao Linh Hòa sang học Vương Thông ở SơnĐông. Học một năm thì từ biệt. Rồi sang Yên, Triệu lại học ông Trương NgôQuý. Học trò ông Ngô Quý rất đông. Tuân Minh dụng tâm học vài tháng saunói chuyện riêng với bạn học rằng:- Thầy ta đây danh tiếng lẫy lừng, song nghĩa lý không được quán triệt.Phàm những câu ngoài giảng thuyết, phần nhiều nghe chẳng được thỏa tâmta. Ta muốn tìm thầy khác.Rồi bèn cùng Điền Mãnh Lược sang Phạm Dương thụ nghiệp ông Tôn MãiĐức. Nhưng học vừa được một năm, lại muốn bỏ đi, Lược bảo Tuân Minhrằng:- Anh tuổi còn trẻ, theo thầy học hành, chẳng chịu chuyên học một thầy, cứnay thầy này, mai thầy khác, nay đến tìm, mai bỏ đi, nghìn dặm xa xôi, sáchvở mang cắp, học hành như vậy sợ không thành được.Tuân Minh nói: Ta nay mới biết chỗ ở của ông thầy đích thật là ông thầy.Mãnh Lược hỏi: Ở đâu?Tuân Minh chỉ vào "tâm" nói: Đây, chính ở chỗ này.Rồi tự bấy giờ Tuân Minh học lấy một mình, hết sức suy nghĩ, sáu nămkhông ra khỏi nhà. Khi mỏi mệt thường đàn địch để di dưỡng tình hình. Sauthành một bậc đại nho.Ngụy Thư Từ Tuân Minh TruyệnGIẢI NGHĨATừ Tuân Minh: một bậc đại nho thời Hậu NgụyMao Linh Hòa, Vương Thông, Trương Ngô Quý, Điền Mãnh Lược, TônMãi Đức: cũng là mấy bực đại nho thời bấy giờ.LỜI BÀNHọc cần phải có thầy, cần phải có sách, đó là lẽ thường, ai đi học cũng khóvượt được hai điểm ấy. Song khi học đã cao, nhất là về mặt tâm học, bảomuốn tìm cho được thực có thấy giỏi để thụ nghiệp, không phải là dễ. Bấygiờ tất nhiên phải như Từ Tuân Minh đây, lấy "tâm" làm thầy là hơn cả. Vìcội rễ muôn nghìn điều phải, điều lành đều do ở tâm. Đem tâm chính trực trịtâm gian tà, đem tâm trung hậu trị tâm bạc ác, đem tâm cần lao trị tâm lườibiếng...Học thế nào cho tâm được thư thái, tâm được yêu thỏa, tâm được quangminh như gương sáng trong, nước im lặng, ngoại vật lại chẳng loạn đượctâm, ngoại vật đi chẳng lưu lại ở tâm thế mới gọi là có tâm học vậy.
164. BỎ QUÊN CON SINHHọ Công Sách sắp tế. Trong các lễ vật bỏ quên không đặt con sinh. ĐứcKhổng Tử nghe thấy chuyện nói rằng:Trong hai năm nữa, họ Công Sách thế nào cũng mất quan.Năn sau, họ Công Sách quả nhiên mất quan thật.Môn nhân hỏi rằng:Trước họ Công Sách sắp tế bỏ quên con sinh mà thầy nói trong hai nămnữa thì mất quan, nay sự quả nhiên. Dám hỏi vì lẽ gì mà thầy biết trước nhưvậy?Đức Khổng Tử nói:Việc tế là việc người con có hiếu tỏ hết lòng thương nhớ cha mẹ mà lúcsắp tế, bỏ quên con sinh thì các công việc khác bỏ quên, bỏ sót chắc nhiềulắm. Như thế mà không mất quan thì không có lý.Gia NgữGIẢI NGHĨA: Công Sách: học trò một ông quan đời Xuân Thu.Lời bàn: Việc tế lễ là việc rất thận trọng, tức là việc giao tế thần minh. Chỉcó người tận tâm và tận thành thì mới cảm cách được, con sinh là lễ vất rấtthiết yếu, mà đến lúc tế, lại bỏ quên cả con sinh thì sự sơ suất không phải lànhỏ vậy. Người như thế không thành tâm, công việc như thế là công việckhông chu đáo. Xét một sự mà suy ra muôn sự. Đức Khổng Tử suy xét màbiết, há có phải là tiên tri đâu. Nhưng suy xét chắc chắn mà phán đoán trúngviệc thì có khác gì tiên tri.
165. CHỌN NGƯỜI RỒI SAU HÃY GÂY DỰNGDương Hổ làm tướng nước Vệ, phải tội, chạy trốn sang nước Tần, vào yếtkiến Triệu Giản Tử nói rằng:Tự nay trở đi, ta nhất quyết không gây dựng cho ai nữa.Triệu Giản Tử hỏi:Vì cớ gì mà ông lại nói thế?Dương Hổ nói:Khi tôi ở nước tôi, các quan hầu cận nhà vua, tôi gây dựng cho quá nửa,các quan ở triều đình, tôi cũng gây dựng cho quá nửa, đến cả các quan ở biênthùy tôi cũng gây dựng cho nữa. Thế mà bây giờ các quan hầu cận nhà vuathì gièm pha tôi, các quan triều đình thì đem pháp luật trị tôi, các quan biênthùy thì dùng binh khí hiếp tôi. Thế cho nên từ nay trở đi, tôi nhất quyếtkhông gây dựng cho ai nữa.Triệu Giản Tử bảo:Ông nói câu ấy thì lầm. Ai trồng cây đào, cây mận thì mùa hè được bóngmát nghỉ, mùa thu được quả ngon ăn. Ai trồng cây tật lê, thì mùa hè bóng mátkhông có, mùa thu chỉ được những chông gai. Cứ như vậy, thì có phải là tạido cây mình trồng lúc trước không? Nay ông sở dĩ đến nỗi thế, là vì ông gâydựng toàn cho những kẻ không ra gì cả. Cho nên người quân tử phải chọnngười trước, rồi sau mới gây dựng.Hàn Thi Ngoại TruyệnGIẢI NGHĨA:- Dương Hồ: tức là Dương Hóa, người nước Lỗ thời Xuân Thu, làm quannước Lỗ là người quyền thần chuyên chính.- Vệ: tên một nước nhở thời Xuân Thu ở vào một phần tình Trực Lệ ngàynay.- Tấn: tên một nước lớn đời xuân thu, ở vào tỉnh Sơn Tây ngày nay.- Triệu Giản Tử: một danh thần nhà Triệu đời Xuân Thu.LỜI BÀN: Dương Hổ gây dựng cho người ta, mà về sau lại bị người taquay lại hại mình, thật chẳng khác nào nuôi ong tay áo, nuôi hổ để chịu vạlây, đáng tức giận lắm thay. Cho nên Hổ phàn nàn với Triệu Giản Tử và có ýnhư thề rằng, thôi từ nay không làm ơn cho ai nữa, vì loài người đã bội bạclại còn thêm độc ác. Triệu Giản Tử bác đi mà giảng giải thế, là có ý quy cáitội cho Dương Hổ, tức là tội đại thần mà tham lam, mà ưa nịnh, chỉ thích gâydựng cho tiểu nhân để lo bè đảng thì khi thất thế, phải chịu lấy cái vạ của tiểunhân.Có người nói: làm ân mà phải chọn người trước kể cũng hẹp hòi lắm.Nhưng làm ơn là một việc, vì tổ quốc mà chọn người gây dựng cho người đểgiúp nước giúp dân là một việc. Như kéo bè kéo đảng, gây dựng cho cả kẻgian ác có địa vị, có quyền thế để chúng làm mưa làm gió gieo vạ cho nhândan thì không những không được báo ơn mà còn hại đến thân đắc tội với tổquốc nữa.
166. CƠ TÂMThầy Tử Cống đi qua đất Hán Âm thấy một ông lão làm vườn đang xuốnggiếng gánh từng thùng nước, đem lên tưới rau.Thầy Tử Cống nói:Kia có cái máy một ngày tưới được hàng trăm khu đất, sức dùng ít màcông hiệu nhiều. Cái máy ấy đằng sau nặng, đằng trước nhẹ, đem nước lên rấtdễ và tên gọi là "máy lấy nước".Ông lão làm vườn nói:Máy tức là cơ giới, kẻ có cơ giới tất có cơ sự, kẻ có cơ sự tất có cơ tâm. Tađây có phải không biết cái máy ấy đâu, chỉ nghĩ xấu hổ mà không muốn dùngvậy.Trang TửGIẢI NGHĨA:- Tử Cống: học trò Đức Khổng Tử giỏi về khoa ngôn ngữ- Hàn Âm : tên đất hiện ở vào phủ Hưng An tỉnh Thiểm Tây bây giờ.
167. KHÔNG ĐỢI TRÔNG CŨNG BIẾTHứa Kính Tôn có tính kiêu ngạo khinh người, tiếp ai xong, nhiều khi quênngay, sau người ta có đến, lại không rõ là ai nữa.Hoặc có kẻ chê Kinh Tôn là người không được thông minh.Kính Tôn nói:Cái đó là tự người ta làm cho ta khó nhớ đấy thôi. Ví bằng ta gặp đượcnhững bậc tài giỏi như Hà, Lưu, Thẩm, Tạ, thì dù sờ trong xó tối, ta cũng cóthể biết mà nhớ ra được.Tùy Đường Nhai ThoạiGIẢI NGHĨA: Hứa Kính Tôn: người đời nhà Đường, đỗ tú tài, văn chươnggiỏi, làm quan đến Tể tướng.LỜI BÀN:Kiêu ngạo là thói xấu, đến nỗi người ta có câu: "Ai mà kiêu ngạo là kẻ sắpđi đến bước cuối cùng".Vậy người ta dù có thông minh tài giỏi cao quý đếnđâu cũng không nên kiêu ngạo. Hứa Kính Tôn đây văn chương đã giỏi, quanchức lại to, giao tiếp nhiều người, nhớ sao cho xiết, mà chằng quên. Nên tacũng chưa thể cho cái quên ấy là thực khinh người. Xem ngay như câu nóicủa Hứa Kính Tôn, thì ta lại có thể cho là người biết người và có bụng trọngnhững người tài giỏi.Và chăng ở đời, cái thói khinh người tuy không nên có, nhưng cái cáchphân biệt người đáng trọng, kẻ nên khinh không nên rằng không có. Câu cổ:"Tố nhân bất khả hữu ngạo thái, nhiên bất khả vô ngạo cốt" (Làm ngườikhông nên có cái dáng khinh ngạo, nhưng cũng không nên không có cái cốtkhinh ngạo) cũng ám hợp với câu của người Pháp:"Il ne f'aut pá mepsriser, mais il faut savoir dédaignef".
168. KHINH NGƯỜITử Kích là một bậc quyền quý, gặp Điền Tử Phương là một hàn sĩ ở giữađường, liền xuống xe chào. Tử Phương làm lơ không đáp lại.Tử Kích giận, hỏi Tử Phương rằng:Kẻ phú quý hay khinh người đã đành, kẻ bần tiện có khinh người đượckhông?Tử Phương nói:Kẻ bần tiện mới có thể khinh người, kẻ phú quý sao dám khinh người. Vuanếu mà khinh người thì mất nước, quan nếu mà khinh người thì mất chức.Còn kẻ có học thức, xử cảnh bần tiện, đi đến đâu mà lời nói vua quan khôngdùng, việc làm vua quan không theo, thì xỏ chân vào giày, đi ngay lập tức,đến chỗ nào chẳng được bần tiện, còn có lo sợ gì mà không dám khinhngười?Tử Kích nghe ra, bèn xin lỗi Tử Phương.Chư ThưGIẢI NGHĨA:- Tử Kích: một nhà quyền thế đời Chiến Quốc.- Bậc quyền quý: người có uy quyền thế lực thiên ha phải kinh sợ.- Điền Tử Phương: người nước Ngụy về đời Chiến Quốc có tiếng là bậchiền nhân.LỜI BÀN: Tử Kích muốn lấy quyền thế, mà khinh người, Tử Phươngmuốn lấy học thức mà khinh người. Đến cùng, thì học thức khinh nổi đượcquyền thế. Mời hay ở đời nào cũng vậy, phú quý không bao giờ bằng đượchọc thức. Có lẽ Tử Phương đây muốn chữa cái bệnh cho người quyền thế quákiêu căng đời bấy giờ, cho nên nói những câu quá khích như thế. Ta cũngkhông nên quên cái tính phục thiện của Tử Kích đáng trọng và đáng yêu. Nayta cứ bình tĩnh mà nói: Khinh người tức là "kiêu" mà chữ kiêu là cái nguồngốc làm bại hoại cả đức tính. Phú quý chẳng nên kiêu , thì bần tiện dẫu kiêucó kiêu được, cũng không lấy gì làm phải. Kẻ sử sĩ đời Chiến Quốc phải coiphong khí nó chuyển đi, cho nên thường hay mắc phải cái thế kiêu như TửKích đây, không thoát khỏi tục, cũng là đáng tiếc. Người có học thức màkiêu, là hạng người khinh thế ngạo vật, coi đời như không quan thiết gì đếnmình. Ôi! Đã gọi là học thức mà có tính kiêu, thì vô bổ cho đời, đời có ngướiấy cũng như không vậy.
169. HAI CÔ VỢ LẼ NGƯỜI NHÀ TRỌDương Chu sang nước Tống, đến ở trọ một nhà kia.Người chủ nhà trọ, có hai người thiếp, một người đẹp, một người xấu.Dương Chu thấy trong nhà ai cũng quý người thiếp xấu mà khinh người thiếpđẹp, lấy làm lạ bèn hỏi dò thằng trẻ con trong nhà trọ thì nó trả lời rằng:Người thiếp đẹp tự lên là đẹp mà mất đẹp, tôi chẳng biết cái đẹp của họnữa, người thiếp xấu tự biết là xấu mà quên xấu, tôi chẳng biết cái xấu của họnữa.Dương Chu gọi học trò ra bảo:Các con nhớ lấy câu ấy. Người ta giỏi mà bỏ được cái nết "tự cho mình làgiỏi: thì đi đến đâu ai cũng chẳng tôn trọng, chẳng thân yêu.Trang TửGIẢI NGHĨA:- Dương Chu: người đời Chiến Quốc xướng lên cái thuyết "Vị ngã"- Tống: nước chư hầu thời Xuân Thu sau phải nước Tề lấy mất, ở vào địaphận tỉnh Hà Nam bây giờ- Thiếp: vợ lẽ, cô hầu.LỜI BÀN: Đàn bà đẹp mà tự cậy mình lên đẹp, thì người ngoài chỉ thấycái bộ khoe khoang đáng ghét chớ không thấy còn gì là vẻ đẹp dáng yêu nữa.Đàn bà xấu, tự thẹn mình là xấu, thì chỉ thấy cái nết dịu dàng đáng thương,không còn thấy cái gì xấu xí đáng ghét nữa. Đấy người đẹp mà bị khinh,người xấu mà được quý là tại thế.Ôi! Đẹp chỉ vì tên đẹp mà mất đẹp, xấu chỉ vì biết xấu mà quên xấu, thế thìnhững người giỏi mà tính tự lên là giỏi, thì sinh thời nào, đi đến đâu cũngkhông mong thiên hạ yêu kính được. Vì như thế tức là kiêu mà kiêu thì khôngai chịu được, sự khiếm nhã bao giờ vẫn là hơn vì thiên đạo, ích khiêm lưukhiêm, quỷ thân phúc khiêm, nhân đạo hiếu khiêm. Khiêm hay biết là dườngnào! Dương Chu lấy câu chuyện ấy ra dạy học trò rất là phải lắm.
170. BA ĐIỀU PHẢI NGHĨĐức Khổng Tử nói:- Người quân tử có ba điều phải nghĩ, ta chẳng nên chẳng xét đến:1) Lúc nhỏ nếu mà chẳng học, thì đến lúc lớn ngu dốt không làm được việcgì.2) Lúc già yếu mà không đem những điều mình biết để dạy người, thì sauđến lúc chết chẳng ai thương tiếc.3) Lúc giàu có nếu mà chẳng bố thí, thì đến lúc khốn cùng chẳng ai cứugiúp.Cho nên người quân tử lúc nhỏ nghĩ đến lúc lớn thì chăm học, lúc già nghĩđến lúc chết thì chăm dạy, lúc có nghĩ đến lúc không thì chăm cứu giúp ngườinghèo khổ.Gia NgữLỜI BÀNLúc nhỏ mà nghĩ đến lúc lớn, lúc già mà nghĩ đến lúc chết, đang giàu mànghĩ đến nỗi nghèo khổ, ba điều lo xa. Phàm người ta có chịu trông xa nhưthế mà là biết phòng bị những cái ưu hoạn trước khi nó xảy ra vậy. ĐứcKhổng Tử còn có nói:"Người ta không nghĩ xa tất có sự ưu hoạn gần", cũng là có có nghĩa dựphòng như lời nói trong bài này vậy. (Câu chữ Hán là: Nhân vô viễn lự, tấthữu cận ưu).
171. LO, VUIThầy Tử Lộ hỏi Đức Khổng Tử rằng:- Người quân tử cũng lo sợ ư?Đức Khổng Tử nói:- Người quân tử chỉ cốt suy nghĩ định liệu công việc của mình, lúc chưalàm được thì vui rằng mình có ý định làm, lúc làm được thì lại vui rằng mìnhcó trí làm được việc. Thế nên người quân tử có cái vui thú suốt đời, không cócái lo sợ một ngày nào cả.Kẻ tiểu nhân thì không thế, lúc chưa làm được việc thì lo sợ rằng khôngđược, lúc đã làm được việc thì lo sợ lỡ hỏng mất. Thế nên kẻ tiểu nhân có cáilo sợ suốt đời, không có cái vui thú nào cả.Thuyết Uyển
172. THẤY LỢI NGHĨ ĐẾN HẠILiệt Tử nghèo khổ, có khi đói khát không có gì mà ăn uống.Có người nói với vua Tử Dương nước Trịnh rằng:- Liệt Tử là một người cao thượng, nay ở nước vua mà phải bần cùng, thìhóa ra nhà vua không biết quí trọng người giỏi ư?Tử Dương nghe nói, sai sứ giả đưa cho Liệt Tử vài mươi xe thóc.Liệt Tử ra yết kiến sứ giả, vái hai vái, xin từ không nhận.Sứ giả đi, Liệt Tử vào nhà trong. Vợ ngóng trông bực tức, tự đập vào ngựcmà nói rằng:- Thiếp nghe vợ con những bậc đạo đức cao thượng đều được an nhàn vuivẻ, nay vợ con tiên sinh túng đói, vua đưa cho tiên sinh thóc gạo, tiên sinh lạitừ. Thế chẳng phải là số mệnh xui ra vậy hay sao?Liệt Tử cười, bảo vợ rằng: Vua mà biết ta không phải là tự chính vua biếtta, tại nghe có người nói mới biết ta. Vua nghe người nói mới biết ta mà chota thóc, thì lúc bắt tội ta, tất vua cũng lại nghe người nói mà thôi. Vì thế mà takhông nhận thóc. Vả chăng chịu bổng lộc của người hoặc khi người mắchoạn nạn, không liều giúp người là bất nghĩa. Mà nếu liều chết giúp kẻ vôđạo thì lại còn gọi là nghĩa thế nàp được.Tử Dương sau quả bị nạn chết.Liệt TửGIẢI NGHĨATrịnh: tên một nước nhỏ thời Xuân Thu, thuộc về tỉnh Hà Nam bây giờSứ giả: người thay mặt và nhận lời người trên để đi nói hay làm một việcgì đó với aiYết kiến: đi chào người trênSố mệnh: những sự hay dở, được hỏng của đời thường hình như định sẵnsự trời, không phải sức người làm nổiVô đạo: ăn ở không theo lẽ phảiLỜI BÀNĐương lúc túng đói, gặp được vua chúa quý trọng, lại cho vài mươi xethóc, người ta được thế chắc lấy làm vinh hạnh sung sướng, mà còn lên mặtvới đời là khác. Liệt Tử đây khác hẳn, vái sứ giả hai vái, nói xin từ. Thái độkhiêm nhã thật đáng trọng! Xin từ mà không lộ vẻ tự ái, tự cao, không có mộtlời nghị luận đến thời sự, thậm chí phải vợ con giày vò mà Liệt Tử vẫn thảnnhiên, chỉ ôn tồn nói qua mấy câu "ăn ở phải biết lui biết tới, biết ân biếtnghĩa". Người sao sáng suốt khôn ngoan mà như ngu dại, thật đáng phục lắmthay! Vì không thế không sống còn được ở đời loạn. Liệt Tử đây phần biếtngười hay dở, phần hiểu việc sâu xa. Thật là bực "minh triết bảo thân" vậy.(Câu chữ Hán là: Đã không ngoan lại sáng suốt để bảo toàn tấm thân.)Ở đời sẵn có máu tham, thấy của tối mắt, đỏ đâu bâu đấy, sống chết mặcbay, đó là bệnh thông thường. Anh em chúng ta như muốn tránh bệnh ấy,tưởng nên học Liệt Tử biết rõ nghĩa lợi, hiểu đường lui tới mới là hơn.
173. THỦY CHUNG VỚI VỢVua Cảnh Công có cô con gái yêu, muốn gả cho Án Tử. Một hôm vua đếnăn tiệc nhà Án Tử, thấy vợ Án Tử hỏi:- Phu nhân đấy phải không?Án Tử thưa: Vâng, phải đấy.Vua nói: Ôi! Người trông vừa già vừa xấu! Quả nhân có đứa con gái trẻ vàđẹp, muốn cho về hầu, khanh nghĩ sao?Án Tử đứng dậy thưa rằng: Nội tử tôi nay thật già và xấu; nhưng lấy tôi vàcùng tôi ăn ở đã lâu, kể từ lúc còn trẻ và đẹp. Xưa nay đàn bà lấy chồng lúctrẻ cốt để nhờ cậy lúc già, lúc đẹp lấy cốt để nhờ cậy lúc xấu. Nội tử tôithường nhờ cậy tôi mà tôi cũng đã nhận sự nhờ cậy ấy. Nay nhà vua tuymuốn ban ơn, chắc cũng không nỡ để cho tôi ăn ở bội bạc với những điều nộitử tôi đã nhờ cậy tôi bấy lâu nay.Nói đoạn Án Tử lạy hai lạy, xin từ không lấy.Án TửGIẢI NGHĨACảnh Công: vua hiền nước Tề thời Xuân ThuÁn Tử: tức là Án Anh, làm tướng đời vua Cảnh Công, ông là người trungthành, tiết kiệm có tiếng thời bấy giờNội tử: tiếng để gọi vợ cả mình. Tiếng cổ dùng để gọi vợ các quan to.Khanh: tiếng vua gọi một bậc quan to hay một vị đại thầnLỜI BÀNVợ chồng là bạn trăm năm đã phải duyên phải lứa lấy nhau từ lúc còn trẻ,kính yêu nhau thì đến lúc già ai lại có nỡ phụ nhau. Ngán thay thói đời giàuhay quên bạn, sang hay quên vợ. Lắm kẻ lúc còn hàn vi vợ nuôi cho ăn học,một mai được chút tiền của, chức tước đã phụ ngay vợ cũ mà kiếm vợ mới,hoặc kiếm vào chỗ giàu, hoặc kiếm vào chỗ sang, hoặc kiếm người trẻ tuổixinh đẹp hơn. Những kẻ như thế dù viện lẽ gì, tổng chi cũng là phụ bạc cả.Nào đã mấy người được như Án Tử đây: gặp cảnh giàu sang như nhà vua, trẻđẹp như công chúa, lại như muốn lấy uy quyền bức bách mình, mà mình nhấtđịnh cố từ. Ông là người ăn ở thủy chung với vợ tấm cám thật!Bạn quần thoa đọc truyện này cũng nên ngẫm nghĩ, chớ nên tham lam tàidanh mà lấy những kẻ đã đem lòng phụ vợ tào khang. Vì rằng người vợ xưa,nuốt được nghèo khổ, chịu được đắng cay ở với họ đã đã bao lâu mà họ cònphụ, thì họ lấy ta hoặc vì lợi chăng, hoặc vì thế chăng, hoặc vì sắc chăng, mộtkhi lợi kém, thế hết, sắc suy, thì cái tình vợ chồng lúc bấy giờ lại hóa ra ngaycảnh người dưng nước lã.
174. ĐÁNG SỢ GÌ HƠN CẢTại lầu sách nhà kia, có con hồ tinh không hiện hình ra bao giờ, nhưng vẫnthường hay trò chuyện. Chuyện nói rất lí thú, ai nghe cũng phải phục.Một hôm tân khách họp đông, có con hát mời rượu ước với nhau rằng:"Ai sợ gì thì cứ phải nói, mà nói vô lý thì phải phạt rượu"Bấy giờ cử tọa lần lượt nói, nào sợ người học rộng, nào sợ người nhà giàu,nào sợ người quan to, nào sợ người nịnh giỏi, nào sợ người khiêm tốn quá, sợngười lễ phép câu nệ quá, nào sợ người thận trọng ít nói, sợ người hay nóinửa chừng...Sau cùng hỏi đến hồ tinh thì hồ tinh đáp: Ta chỉ sợ hồ tinh.Ai nấy đều cười bảo rằng: Người ta sợ hồ tinh mới phải, anh là đồng loạican gì mà sợ? Phạt anh một chén rượu.Hồ tinh cười nói: Thiên ha duy có đồng loại là sợ nhau. Con cùng cha mớitranh gia sản; gái cùng chồng mới hay ghen tuông; kẻ tranh quyền nhau tất làquan lại đồng triều; kẻ tranh lợi nhau tất là lái buôn một chỗ. Bức nhau thì trởngại nhau, trở ngại nhau thì huynh loát nhau. Nay lại còn người bắn con trĩthì dùng con trĩ làm mồi, không dùng con gà, con ngỗng; người săn hươu thìdùng con hươu làm mồi không dùng con dê, con lợn. Phàm những việc phảngián đều là phải dùng đồng loại cả. Cứ thế mà suy thì tài nào mà hồ chẳng sợhồ?Cử tọa đều cho câu nói của hồ tinh là xác đáng.Duyệt ViLỜI BÀNLoài yếu sợ loài khỏe, kẻ dại sợ kẻ khôn, như chó sợ hùm, mường mọi sợngười văn minh hoặc vẫn có. Những cái sợ ấy là cái sợ họa hoằn. Chớ cái sợkẻ đồng loại, kẻ đồng nghiệp mới là cái sợ thường luôn có, cái sợ thực đángsợ luôn vậy. Người phải sợ người hơn sợ hùm beo, sư tử, kẻ đồng loại, ngườiđồng nghiệp phải sợ nhau hơn là sợ người ngoài? Tại sao? - Tại chỉ có cùngnhau một loài, cùng nhau một nghề mới cạnh tranh, đá chọi lẫn nhau. Mà đãcạnh tranh, tất hay dòm dỏ nhau, tìm cách hại lẫn nhau để cầu lợi cho mình,thậm chí tàn sát nhau đến chôn sống hàng vạn quân, giết chết hàng triệungười mà vẫn không chán. Thảm thương thay! Người hại người!
175. CHỈ BIẾT CÓ MÌNHNgười ta sở dĩ đến nỗi phạm phải muôn nghìn tội lỗi là chỉ vì cái bệnh "chỉbiết có mình". Vì cớ mình chỉ biết có mình, mình mới suy tính thiên phươngbách kế, chỉ muốn cho mình giàu, chỉ muốn cho mình sang, chỉ muốn chomình sống, chỉ muốn cho mình vui, chỉ muốn cho mình yên, chỉ muốn chomình thọ, còn người ta nghèo hèn, nguy khổ, lụn bại, chết chóc, nhất thiết làchẳng nghĩ gì đến cả. Bởi thế mà sinh ý chẳng liên can, thiên ý đến tuyệtduyệt, tuy có hình người, kỳ thực không khác gì cầm thú.Ví bằng trừ bỏ cái bệnh "chỉ biết có mình" tâm địa rộng rãi, công minh,giàu sang, nghèo hèn, vui khổ, sống chết đều cùng chung với cả loài người thìsinh ý quán triệt, ai nấy được hả lòng mà thiên lý giữ được trọn vẹn. Thế làthân ta cùng với muôn vật là nhất thể vậy.Tiết Huyên
176. THỞ DÀIÔng Hải Tiều Tử lúc thư công việc, thường hay thở dài.Môn nhân hỏi:Tiên sinh hay thở dài như vậy là cớ làm sao?Ông nói:Ta ước gì các nước trên mặt đất thân yêu nhau để cho bao nhiêu binh cáchphải xếp bỏ cả một chỗ.Ta ước gì người quân tử lại tiến dẫn quân tử để cho bao nhiêu quân tiểunhân phải lui về hết sạch.Ta ước gì những trai có vợ, gái có chồng ai nấy đều yên phận để cho giáohóa được rõ ràng.Ta ước gì nhân dân biết giữ gìn tính mệnh mà chăm làm ăn để cho hàngnăm được mùa sung sướng.Ta ước gì ai ai cũng biết con đường phải mà noi theo để không phụ cái chíThánh hiền thời cổ.Ta ước mãi mà chưa được, nên ta mới thở dài.Hải Tiều TửGIẢI NGHĨA:Hải Tiều Tử: tức Vương Sùng Khánh người đời nhà Minh đỗ Tiến sĩ, làquan đến Lại bộ thượng thư là một nhà trước thuật có tiếng bấy giờ.LỜI BÀN: Các nước mà tàn bạo sát phạt lẫn nhau để tranh giành, cướp đấtcủa nhau. Những quân gian ác mà cầm quyền giữ chính để cho những bậchiền tài phải vùi dập. Nam nữ mà dâm ô mất hết liêm sỉ, làm cho phong hóasuy đồi. Nhân dân mà ngu dốt, lười biếng để đến nỗi phải đói rách. Học thuậtmà sai lầm để đến nỗi đi vào con đường không hay. Cuộc hòa bình, sự kénnhân tài, nền phong hóa, việc dân sinh, sự giáo dục của loài người mà đồi bạiđến nỗi như thế thì còn gì mà không khiến cho người ta phải chán ngán,phiến bực cho đời nữa! Ôi! Năm câu ước của Hải Tiều Tử đây bao giờ mớithành, để cho ông cùng cả bao nhiêu người có chút quan niệm đến quốc kếdân sinh, giáo hóa phong tục, không đến nỗi phải cất tiếng lên mà thở dàinữa?
177. THẰNG ĐIÊNCác anh có trông thấy người phải bệnh điên bao giờ không?Đương lúc hôn mê rồ dại, người điên lăn xuống nước dẫm lên lửa, đâmvào chông gai, mặt hớn hở miệng nghêu ngao, vẫn tự tin cho mình là phải.Đến khi gặp thầy thuốc hay, hết cách chạy chữa, người điên khỏi dần vàtỉnh lại.Bà con kể lại chuyện người ấy lắm lúc đang có bệnh điên, thì ngườiấy rùng mình lấy làm khổ. Bà con kể lại chuyện người ấy lúc uống thuốc tỉnhdần, thì người ấy vui vẻ lấy làm mừng và ân hận gặp thầy, gặp thuốc muộnquá.Ấy người phải bệnh điên vừa còn chữa được thì như thế. Chớ nếu là ngườiphải bệnh điên nặng không thể chữa được, thì người ấy không những khôngchịu phục thuốc lại còn mắng thầy thuốc làm cho mất tính thường của mìnhnữa.Dương Minh TửLỜI BÀN: Bệnh điên nói trong bài đây tức là lòng tự dục nó làm cho conngười mê lú như điên cuồng không còn biết phải trái là gì nữa. Nếu ngườimắc bệnh tư dục còn nhẹ, may nhờ có người dạy bảo cho, thì còn có thể hốingộ sửa nết lại mà sửa dần tính xấu đi được. Nhưng nếu là người mắc bệnh tưdục nặng quá hoặc có ai muốn giáo hóa cho, thì người ấy chẳng những khônghối ngộ sửa nết lại được mà lại còn trách oán cả người giáo hóa, bảo người ấylà làm mình mất cả tính thường đi. Ôi! Đáng sợ lắm thay! Lương tâm mất đimột vài phần, thì còn có thể cứu được, chớ lương tâm mà đã táng tận, thì còngì là người mong hóa đi được nữa. Cho nên ta phải cố giữ lấy lương tâm. Chớbảo một cái lỗi nhỏ có phạm vào cũng không can chi. Cái nết đã quen đi rồi,thì khác nào như xuống dốc chỉ có phần lăn xuống, thụt sa lầy, chỉ có phầnthụt xuống, chớ không tài nào lăn trở lại hay ngoi lên được nữa.
178. NGƯỜI XUẤT TỤCTiếng sấm, tiếng sét không làm thế nào cho nhỏ được tiếng để hòa vớitiếng chuông tiếng khánh. Mặt trời, mặt trăng không làm thế nào cho congđược ánh sáng để thấu đến ngõ hẻm, hang cùng. Sông to không làm thế nàomà thu bờ hẹp lại để vừa ý kẻ muốn lội qua. Núi cao không làm thế nào màrút được ngọn thấp xuống để chiều lòng kẻ muốn trèo chơi.Cho nên, cũng như cái xe to không thể thu nhỏ bánh để tạm đi qua đườnghẹp, người cao sĩ không chịu khuất khúc để hòa đồng với thế lực.Bão Phúc TửGIẢI NGHĨA: Bão Phác Tử: tức ông Cát Hồng, người đời nhà Tấn, có làmpho sách nhan là Bão Phác Tử, vừa nói về thần tiên vừa nói về chính trị.LỜI BÀN: Chính ý bài này cốt tỏ rõ thế nào là một người cao sĩ xuất tục.Nhưng tác giả không định nghĩa người xuất tục là gì, tác giả tìm mấy sự ởngoài mà ví vào người, khiến cho ta đọc hiểu rõ ngay, tục với xuất tục đại đểkhác nhau như thế nào. Tiếng sấm vời tiếng chuông, ánh sáng mặt trời vớingõ hẻm, sông to với người muốn lội, núi cao với người muốn trèo, xe bánhrộng với đường hẹp, khác nhau xa làm sao, không đon được nhau thế nào, thìngười xuất tục khác người tục và không hòa đồng với người tục cũng nhưthế.
179. VỢ THẦY KIỆNCó một người thầy kiện rất giỏi. Mỗi khi thảo đơn kiện cho ai, định buộctội gạt lỗi cho nhiều người mà ý nghĩ chưa được sâu sắc, lời nói chưa đượcchặt chẽ, thì cứ ngồi yên một chỗ để cấu tứ. Những lúc ấy, thường dặn ngườinhà, có khách hỏi, không được cho vào, cả đến vợ cũng phải lánh xa ở mộtbuồng khác.Vợ người thầy kiện trước kia vẫn đã cùng người láng giềng đầu mày cuốimắt chỉ vì không dịp, không chỗ cho nên dòm dỏ đã hơn một năm, mà chưađược thân cận với nhau. Bây giờ biết thế, mỗi khi gặp người thầy kiện cấu tứthì người vợ bèn lại chuyện trò quấy rối để phải mắng, phải đuổi tránh đi chỗkhác.Thành vì thế mà người vợ với người láng giềng được bao nhiêu cơ hội đilại với nhau luôn, kể hàng bao nhiêu năm mà không ai biết.Sau người thầy kiện vì cấu tứ mãi mà chết. Người vợ chửa hoang phải nhàchồng kiện.Quan sát xét căn do việc đi lại với ai. Người vợ thầy kiện phải thú thực.Quan vỗ bàn, thở dài nói:Ngòi bút của người thầy kiện đã khéo, ai ngờ cơ trời còn khéo hơn!Duyệt ViLỜI BÀN: Thầy kiện tức là luật sư. Luật sư là người hơn ai hết, hiểu thấucác tinh túy của luật pháp, nếu rõ nỗi u ẩn của nhân dân. Chính phủ nhờ cóluật sư mà thêm sáng việc, quần chúng nhờ có luật sư mà đỡ hàm oan. Vậylàm thầy kiện mà gỡ tội cho kẻ oan, đáng trọng biết bao nhiêu, thì buộc tộicho người ngay hay bênh vực kẻ gian ác, đáng khinh bấy nhiêu. Người thầykiện nói trong bài này là một tay giảo hoạt chắc đã nhiều lần, lấy lý mà thắtngười ngay vào tội ghê gớm lắm. Bởi vậy tác giả mới thuật lại chuyện này,nói người thầy kiện vừa tự hại mình, lại để cho vợ phản mình, có ý dạy ngườituy khôn khéo đến đâu, cũng không lọt được vành Tạo vật. Tạo vật thườngvẫn ghét người xảo, bao giờ cũng bắt sẵn cái cân để cân lại cho công bằng.Nhiều khi muốn hại người, người chẳng thấy đâu, lại chỉ thấy cái hại nó quayngay vào chính mình trước.
180. ÁC NGẦMVua Ngụy đem một người con gái đẹp dâng vua Kinh. Vua Kinh lấy làmthích và yêu lắm.Phu nhân là Trịnh Tụ biết thế, chính mình cũng yêu mến người con gái, cókhi lại yêu mến hơn vua. Người con gái ấy muốn ăn mặc, chơi bời gì, phunhân cũng đều sắm sửa cho đủ cả.Vua khen:Phu nhân biết ta yêu mến tân nhân, mà đem lòng yêu mến tân nhân quá tathật có khác nào như người con có hiếu thờ cha mẹ người bầy tôi trung thờvua vậy.Phu nhân đã chắc bụng vua không ngờ mình là người ghen, nhân dịp mớibảo tân nhân rằng:Vua yêu mến nhà ngươi lắm, nhưng ghét cái mũi ngươi. Giá từ nay, hễngươi trông thầy vua, ngươi cứ che lấy cái mũi đi, thì vua yêu mến được mãiđấy.Tân nhân theo lời, từ đó mỗi khi trông thấy vua, là che mũi lại.Vua thấy thế, bảo phu nhân rằng:Tân nhân trông thấy ta mà cứ che mũi là ý làm sao?Phu nhân trước thưa:Tôi không được rõ.Đợi vua cưỡng hỏi nữa, mới thưa rằng:Tôi nghe đâu như tân nhân có nói hơi vua khí nặng lấy làm khó chịu.Vua phát giận bảo:À nếu thế thì xẻo mũi nó đi.Vua nói đoạn, thì một viên quân hầu cầm dao ra xẻo ngay mũi tân nhân. Vìphu nhân đã dặn trước, hễ thầy vua phán gì, là làm ngay lập tức.Hàn Phi TửGIẢI NGHĨA:- Ngụy: tên một nước về thời Chiến Quốc ở về phía bắc tỉnh Hà Nam vàphía tây nam tỉnh Sơn Tây ngày nay.- Kinh: tức là nước Sở thời Chiến Quốc ở về Hồ Nam, Hồ Bắc ngày nay.LỜI BÀN:Phàm người đời cái gì đáng ghét mà lại yêu, cái gì muốn tranh mà lạinhường, làm trái hẳn thường tình, đều là những người dụng tâm một cáchnham hiểm cả. Sự yêu ấy chính là cái giết ngầm, sự nhường ấy chính là cáicướp sạch. Đáng thương cho những kẻ ngu mê nông nổi dạ thật tin người đểđến nỗi mắc vào lưới cạm mà không biết.Trong chuyện này người con gái thì khở dại, vua Kinh thì quá tin. Haingười có hai cái tật như thế, thì tránh sao cho khỏi sự dụng tâm độc ác củaphu nhân. Than ôi! Người đang xinh đẹp mà bị cắt mất mũi, bụng đang yêumến mà để hỏng mất của yêu, ghê gớm thay cho cái lòng nham hiểm, cáimưu thâm độc của Trịnh Tụ.
181. BẢY CÔ VỢ LẼÔng Phật Ấn là bạn thân của ông Tô Đông Pha, khi trò chuyện hai ôngthường đùa bỡn cợt nhả.Đông Pha có bảy người thiếp.Một hôm, Phật Ấn đùa bảo Đông Pha rằng:Sao mà bác lấy nhiều thiếp thế? Bác có chịu bằng lòng tặng tôi được côthiếp thứ bảy không?Đông Pha cười nói:Sao lại không được?Rồi Đông Pha về nhà đem chuyện nói vời người thiếp.Người thiếp thưa:Đó là chuyện nói đùa nhau chứ gì.Đông Pha nói:Ta đã hứa rằng cho, thì không nên sai lời. Bây giờ nàng cứ xem ra thế nào.Chập tối. Tô Đông Pha cho xe người thiếp đến.Phật Ấn đón người thiếp cho vào nắm trong buồng, rổi bỏ màn xuống.Trước buồng đã đặt sẵn bảy cái hỏa lò cái nào cũng đầy than đỏ rực. Ôngbước qua từng cái một, bước qua hết một lượt, rồi lại bước lại cứ thế suốtđêm. Đến sáng ông cho xe người thiếp về trả.Người thiếp về kể lại đầu đuôi câu chuyện. Đông Pha chợi nghĩ ra, nóirằng:Bảy cái hỏa lò là chỉ vào bảy người thiếp của ta, giống như bảy cái hanglửa. Ông làm ra như thế, là ông có ý bảo ông đã vượt ra được ngoài sắc dụccòn ta thì lại sa ngã đắm đuối vào đấy. Ông này ý muốn làm cho ta tỉnh ngộchăng.Dục Hải Từ Hàng.GIẢI NGHĨA:Phật Ấn: tên một vị cao tăng có tài hùng biện đời nhà Tống.Tô Đông Pha: tức là Tô Thức, người đời nhà Tống có tiếng giỏi về vănchương, thi, họa.LỜI BÀN: Đông Pha là một bậc tài học phong lưu, Phật Ấn là một nhà tuhành đắc đạo. Người phong lưu thì chỉ cốt đời người cho sung sướng là thỏalòng, nhà tu hành thì chỉ cốt trí tuệ cho cao minh là mãn nguyện. Cứ bình tĩnhmà nói, thì ai là người chẳng thích phong lưu. Nhưng có biết đâu, "Phong lưulà cạm ở đời, hồng nhan là bả con người tài hoa". Bao nhiêu thị dục thườnghại cho người ta hết cả. Xưa nay kể sao cho xiết được những kẻ vì thị dục,mà mất hết cả tính thiêng liêng mầu nhiệm, mà hỏng hết cả phẩm giá, thanhdanh. Trong các món thị dục, thì sắc dục có phần tệ nhất. Dâm là cái tội ởđầu muôn tội. Muỗn tránh tội ác, cần phải giới dâm.Phật Ấn đây thật có ý thương có lòng yêu Đông Pha lắm. Chơi với anh emmà bày trò ra như thế để khuyên anh em. Cũng là một cách thuyết pháp thựctế mà cảm hóa được người ta sâu xa vậy.
182. GÕ NHỊP MÀ HÁTVợ Trang Tử chết.Huệ Tử đến viếng, thấy Trang Tử đang ngồi duỗi xoạc hai chân, tay gõnhịp vào bồn nước mà hát.Huệ Tử bảo: Mình đã ăn ở với người ta, có con với người ta. Bây giờngười ta già, người ta chết, mình đã không khóc thì cũng là đủ, lại còn ngồigõ bồn mà hát, chẳng là quá lắm ư!Trang Tử nói: Không phải thế. Lúc vợ tôi mới chết tôi cũng lấy làmthương tiếc lắm. Nhưng xét cho cùng thì vốn là không có gì cả, chẳng nhữngkhông có gì mà vốn lại không có hình, chẳng những không có hình mà vốnlại không có khí, cái người ấy chẳng qua là tạp chất biến mà hóa ra có khí,khí biến mà hóa ra có hình, hình biến mà hóa ra có sinh, có sinh lại biến ra cótử, có khác nào như xuân, hạ, thu, đông, bốn mùa cứ tuần hoàn đi lại không?Vả lại người ta chết là trở về với tạo hóa, cũng như người ra ngoài mà về nhà,thế mà ta cứ còn theo đuổi nghêu ngao khóc lóc, thì chính ta chẳng hóa rakhông biết mệnh trời ư? Cho nên ta không khóc mà lại còn hát nữa.Trang TửGIẢI NGHĨATrang Tử: tên là Chu, người thời Chiến Quốc, học rộng và cao, theo tônchỉ Lão Tử, có làm sách, phần nhiều là ngụ ngôn.Huệ Tử: tức là Huệ Thi người thời Chiến Quốc, có tài khéo nói, là bạn thâncủa Trang TửBồn: chậu nước rửa xác cho người chếtLỜI BÀNVợ chết đáng là một nỗi đau đớn to, chồng nào mà cầm lòng khôngthương, không xót, không tiếc, không sụt sùi giọt ngắn giọt dài cho đậu.Thường tình như thế. Nên Huệ Tử trách Trang Tử chỉ vì lẽ thường tình.Trang Tử đáp thế lại là lấy một cái lẽ cao xa, siêu việt hẳn ra ngoài cáithường tình. Ta không rõ cái thuyết của Trang Tử vốn tự cho người ta từ chỗkhông, do khí do hình mà sinh ra để đợi lại trở về chỗ không có đúng vớikhoa học hay không. Nhưng rất giống thuyết nhà Phật. Ta chỉ lấy thường tìnhmà suy nghĩ thì có lẽ Trang Tử quá thương tiếc vợ nên đem cái đạt quan nóivới Huệ Tử để vừa tự giải, vừa tự an ủi cho đỡ đau khổ chăng?
183. LIÊM, SỈLiêm, sỉ là tính rất hay của loài người, vì người mà không liêm thì cái gìcũng lấy, không sỉ thì việc gì cũng làm. Người mà đến thế là người bỏ đi,không khác gì giống vật. Nhất là những bậc đứng chủ trương việc nhà, việcnước mà vô liêm, vô sỉ thì nhà phải suy bại, nước phải suy vong.Nghĩ cho kĩ thì sỉ cần hơn liêm; người không liêm làm những việc bấtnghĩa, căn nguyên cũng ở vô sỉ mà ra.Đức Khổng nói: "Hành kỷ hữu sĩ" nghĩa là giữ mình biết làm xằng là xấuhổ. Thầy Mạnh nói: "Nhân bất khả vô sỉ" nghĩa là người ta không biết xấu hổthì không được.Than ôi! Thế mà ngày nay, nhân tình phản trắc, phong tục suy đồi, ngườita quên cả liêm, sỉ, không kể chi người thường, thậm chí đến bọn sĩ phu cũngchan chan như thế cả. Ôi! Nếu cho là sự xấu hổ chung cho cả nước cũngkhông phải là nói ngoa.Tuy vậy, mùa đông rét mướt, tùng bách vẫn xanh; mưa gió tối tăm, gàtrống vẫn gáy. Đời tuy hôn mê vẫn có người tỉnh.Ông Nhan Chi Thôi làm sách "gia huấn" có thuật câu chuyện rằng:"Một viên quan nói với ông: Tôi có đứa con 17 tuổi học đã thông. Tôi chonó học tiếng nước Tiên Ti, học gảy đàn tỳ bà, lớn lên theo hầu đám côngkhanh, thì thế nào rồi cũng được sung sướng.Nhan Chi Thôi nghe nói nín lặng không trả lời. Sau về nhà bảo con cháurằng:- Người này dạy con lạ thay. Như ta, nếu học cách ấy, thì dù cho được phúquý đến đâu, ta cũng không mong cho các con vậy".GIẢI NGHĨANhan Chi Thôi: nhà văn tự giỏi có tiếng thời Nam Bắc triềuTiên Ti: tên một nước cũ, tức một bộ phận Nội Mông Cổ bây giờ, Tiên Tivào chiếm nước Tàu, đặt tên nước Ngụy, tức là Bắc triều.LỜI BÀNBài này thực đã là một tiếng than cho đời mà ngán cho người. Than ôi!Người đời bấy giờ có phải đa số là người "vô liêm sỉ", "bất trí sĩ" không?Nếu quả vậy thì người ta than thở là rất phải. Vì "liêm", "sỉ" là nền tảng củađạo làm người. Ở đời còn có sỉ thì hiếu, đễ, trung, tín, lễ, nghĩa, liêm cònđược, chớ liêm sỉ đã mất, nhất là sỉ thì còn gì là luân thường đạo lý, và mongtrông cậy vào đâu nữa. Con người mà đã đến vô sỉ thì tuy mặc áo, đội mũ mànhư con chim, con muông, còn cái gì là kiêng nể mà không dám làm!
184. TIỄN NGƯỜI ĐI LÀM QUANTiết Tôn Nghĩa, người Hà Đông sắp đi làm quan.Ông Liễu Tôn Nguyên làm tiệc tiễn hành ở bờ sông, rót chén rượu mờiTôn Nghĩa mà nói rằng:- Phàm ra làm quan ở hạt nào, phải biết chức phận của mình là người làmviệc cho dân, chớ không phải sai dân làm việc cho mình. Dân ở trong hạt đãchịu nộp thuế để lấy tiền thuê quan giữ sự công bình cho dân, mà nay, ngánthay, thiên hạ ra làm quan, tiền thuế của dân thì biết lấy cả, còn công việc củadân thì trễ biếng, thường khi lại dụng tâm ăn cắp của dân nữa.Giả sử ta đây thuê một người làm việc trong nhà, nó đã lấy tiền thuê màlười không làm việc, lại còn ăn cắp đồ thập vật trong nhà, thì tất ta phải giậnmà trách phạt và đuổi nó đi. Bây giờ làm quan như thế nhiều mà dân khôngdám nổi giận và trách phạt là tại làm sao? Chỉ tại thế lực khác không làmđược thôi. Nhưng thế lực dù khác mà lý vẫn là một. Nên người làm quan nếucòn biết công lý thì ai mà không chịu giữ gìn, cố làm thế nào cho đáng đồngtiền thuê của dân.Này Tôn Nghĩa, ngươi trước làm quan huyện ở Linh Lăng hai năm, ngàyngày dậy sớm, đêm đêm thức khuya, chính sự siêng năng, xử kiện công bằng,thu thuế phải chăng, già trẻ không ai đem lòng thù ghét, ngươi thật là biết lovà giữ gìn lắm, cho nên ngươi lấy tiền thuê của dân rất là đáng vậy.Ta đây chức nhỏ không được dự vào việc bàn bạc xét công cho ngươi đilàm quan, để thăng thưởng hay trách giáng. Ta chỉ biết ngươi đi làm quan,nên thưởng tiệc rượu này lấy lời trân trọng để tiễn hành.Liễu Tôn NguyênGIẢI NGHĨAHà Đông: khu đất ở về phía đông sông Hoàng Hà trong tỉnh Sơn Tây bênTàu.Liễu Tôn Nguyên: người Hà Đông, đời nhà Đường, lanh lợi tài giỏi, đỗTiến sĩ, làm chức Thứ sử, văn thơ có tiếng ở nước Tàu.Linh Lăng: tức là phủ Vĩnh Châu, tỉnh Hồ Nam ngày nayTrách giáng: quở phạt và hạ chức xuốngLỜI BÀNBài của Liễu Tôn Nguyên đây thực là hợp với cái ý tưởng tối tân ngày nay.Quan nay không phải là cha mẹ dân, chỉ là kẻ làm công, lấy tiền thuê của dânmà thôi! Ôi! Từ cái bực làm cha mẹ người ta đến cái bực làm kẻ thuê mướncủa người ta xa cách nhau đến chừng nào! Tuy vậy, bình tĩnh mà nói, bỏgiọng quá khích, tôi tưởng người cầm vận mệnh dân chúng một địa phươngmà thiếu tư cách, chỉ biết làm thuê, không nhận chân coi việc nước như việcnhà, coi dân chúng như con em. Hỏi việc làm có chu đáo và dân có được nhờkhông? Cả quyết không. Nhất định người làm quan phải làm thế nào cho dâncoi như phụ mẫu mới đáng là làm quan. Vì buổi mạt tục này, người làm quanphần nhiều quên cả thiên chức, tham ô tàn ác, cho nên người ta mới dùng haichữ "công bộc" để cảnh tỉnh họ và cố đưa họ đến chỗ hiểu chức vụ. Vậychính người làm quan nên vui lòng tự nhận là công bộc mà cố gắng sao chodân chúng coi như cha mẹ nha lại sợ như thần minh thì mới thật là làm quanvì dân vì nước vậy.
185. VIẾNG NGƯỜI ĐI LÀM QUANTôn Thúc Ngao được làm lệnh roãn nước Sở.Cả nước quan, dân đều mừng.Sau cùng có một ông lão già mặc áo vải, đội mũ trắng đến viếng.Tôn Thúc Ngao thấy thế ăn mặc chỉnh tề ra tiếp kiến, thưa với ông lãorằng:- Vua chúng tôi khôn biết tôi là người bất tài, quá tin mà cho làm quan đểtôi làm lụy cho lại, cho dân. Ai ai cũng đến mừng, một mình lão đến viếngchắc là có ý kiến gì đây chăng.Ông lão nói:- Có. Thân đã sang mà khinh người dân thì không chuộng; chức đã cao màchuyên quyền thì vua sinh ghét; lộc đã hậu mà không tri túc thì gặp phải taivạ.Tôn Thúc Ngao vừa vái, vừa nói: Xin kính vâng lời. Và nài ông lão dạythêm cho mấy câu nữa.Ông lão bảo:- Chức đã cao ý càng phải nghiêm cung; quan đã to làm càng phải tế nhị;lộc đã hậu việc càng phải cẩn thận, chớ có lấy càn, làm bậy. Ông giữ được bađiều ấy là đủ trị dân.Thuyết UyểnGIẢI NGHĨATôn Thúc Ngao: quan tướng giỏi nước Sở thời Xuân Thu, ông là nhà caitrị, rất có giá, nước Sở nhờ ông mà được bình trị.Lệnh roãn: chức quan cầm quyền chính trong nướcLỜI BÀNĐầy mà không để ràn rụa, bố thí luôn mãi là cách giữ được giàu bền. Caomà không dám ngông cuồng, tự nhiên như không giữ được sang mãi.Ở đời nhiều người bần tiện biết tri đức mà được giàu sang; ít người giàusang biết tri đức để được lâu dài hưởng thụ. Sao vậy? Vì xử cảnh giàu sangdễ sinh ra kiêu sa, phóng đãng mà đã kiêu sa phóng đãng là cái hoạn nạn taivạ nằm sẵn ở đấy rồi. Cho nên lời ông lão dặn Tôn Thúc Ngao đây thực là cógiá lắm. Chả những người làm quan nên tuân theo, ai nay mà được xử vàocảnh thịnh vượng cũng nên nhớ câu khuyên răn này mà phục thiện như TônThúc Ngao đây, thì mới mong trường cửu được.
186. ĐỨC UỐNG RƯỢUCó một tiên sinh đại nhân lấy trời đất làm một buổi, lấy muôn năm làmmột chốc, lấy mặt trời mặt trăng làm cửa làm ngõ, lấy cả thiên hạ làm sân làmđường, đi không thấy vết xe. Ở không có nhà cửa, trời tức là màn, đất tức làchiếu, ý muốn thế nào thì thế. Lúc ở thì nâng chén cầm bầu, lúc đi thì vácchai xách nậm, lúc nào cũng chỉ có việc rượu chè, không còn biết đến việc gìnữa.Có một vị công tử và một vị quan sang nghe tiếng tiên sinh như thế, bènđến tận nơi xắn tay vén áo, người thì trừng phạt nghiến răng, người thì trần lễthuyết pháp, những giọng thị phi đâu bấy giờ ầm ĩ xôn xao như đàn ong vậy.Lúc đó tiên sinh mới ôm vò rượu, ghé vào thùng rượu, tợp cả chén rượu,phùng mồm những rượu, vểnh bộ râu lên, ngồi dạng hai chân, gối đầu vàomen, lăn lưng vào bã, không nghĩ, không lo, hớn hở vui thú, ngất ngưởng saysưa, thoáng rồi lại tỉnh. Lắng tai cũng không nghe thấy tiếng sấm sét; nhìn kỹcũng không trông thấy hình Thái Sơn; nực rét thiết đến thân cũng không biết;lợi dục cảm đến tình, cũng không hay; cuối xuống trông vạn vật rối rít trướcmắt khác nào như bèo nổi bồng bềnh trên sông Giang, sông Hán.Hai vị kia đứng cạnh, tiên sinh bấy giờ xem cũng như con tò vò, con sâuróm mà thôi.Lưu LinhGIẢI NGHĨATiên sinh đại nhân: nghĩa thẳng là ông thầy bực kẻ cả. Đây Lưu Linh dùngbốn chữ ấy để chỉ chính mình.Thái Sơn: núi to vào cao nhất ở tỉnh Sơn Đông bên TàuThiết: thấu đếnLợi dục: tiền của và lòng ham muốnVạn vật: muôn vật ở trong trời đấtSông Giang: con sông rất to ở bên Tàu, hạ lưu tức tức là con sông DươngTử Giang.Sông hán: tức là sông Hán Thủy, phát nguyên ở Thiểm Tây và chảy vàosông GiangLưu Linh: tên tự là Bá Luân, là người phóng đạt làm quan đời nhà Tần đếnchức Kiến uy tường quân.LỜI BÀNNói đến say rượu thì ai cũng phải nhắc Lưu Linh mà Lưu Linh sở dĩ cònlưu danh lại cho ta biết là nhờ bài "Tửu đức tụng" ta dịch trên này.Uống rượu say được như tiên sinh thực là hiếm có. Say mà đến lấy trời làmmàn, đất làm chiếu, trút sạch được hết lợi, dục, quên bỏ được hết việc đời, kẻsang giàu người quyền thế trông chỉ còn như con sâu róm, con tò vò, thì quảlà một cái say thú vị, làng say vị tất đã mấy ai hưởng được. Nên tưởng nhữngkẻ chưa tới được cảnh say, chưa biết cái thú say như thế là gì, cũng chẳng nênnghị luận cái say, cười người say chưa thấy đâu, lại phải người say cười lại.Còn những hạng người say mà nói nhảm làm càn, phạm vào những điềuthương luân, bại lý mà vin Lưu Linh thì lại là tội nhân của Lưu Linh chớkhông phải đồ đệ của Lưu Linh. Nói rộng ra: Giới tửu mà không uống rượutheo đúng như Phật dạy cố nhiên là đáng trọng, nhưng uống rượu mà vui tươitao nhã như thần tiên, thì cũng không thể coi khinh được.
187. LÀNG SAYNgày trước, ta thường đến một làng kia, vừa bước chân vào thì chuếnhchoáng, nghiêng ngả, mờ mịt, lu bù, trông trời như thấp, trông đất như cao,mặt trời mặt trăng như không có ánh sáng. Mắt ta mờ, tai ta ù, tâm thần ta mêhoặc, thân thể ta mệt nhọc. Ta mới hỏi người rằng: Đây là làng gì? Ngườinói: Đây là nơi vui say, sẵn của ngon bùi, tha hồ ăn uống, phóng phiếm. Tụctruyền là "Làng say".Than ôi! Đây gọi là làng say? Cổ nhân nói dối ta thật. Ta thường than cholũ Lưu Linh, Nguyễn Tịch, đương lúc trong nước lục trầm, bốn phương rốiloạn mà những tay giỏi giang sinh ra chán đời, dông dài liều lĩnh, thất thểu rủnhau vào làng say. Cứ như ý riêng ta thì trong làng say không có gì là vuicả...Hoặc có kẻ nói: Đến đây cho nguôi những sự lo nghĩ. Ôi! Cái lo nghĩ màcòn có cách nguôi được thì không phải là lo nghĩ. Nếu quả nhiên có điều gìđáng lo, thì bất tất phải tìm cách giải. Huống chi làng say này không thể giảiđược lo. Vậy thì người vào làng say đều là người vô lo vô lự cả.Than ôi! Tự đời Lưu Linh, Nguyễn Tịch đến bây giờ, khắp cả thiên hạ đâucũng có làng say. Làng say càng đông thì thiên hạ càng vắng. Mờ mịt, saysưa, ẻo lả, yếu đuối, ai đã vào làng say, không biết lối mà ra, gián hoặc cóngười vào làng say mà không mê, thì lại phải những kẻ đã mê hoặc bại loạn,chê bai, nói cười mai mỉa, thế mới thật là lũ say ở làng say.Đái Danh TếGIẢI NGHĨALưu Linh, Nguyễn Tịch: hai người đời nhà Tấn, tính phóng đại hay rượumà không thiết gì đến việc đời.Đái Danh Thế: người đời Khang Hi nhà Thanh đỗ Tiến sĩ, tài danh nổitiếng, chuyên riêng về sử học, về sau bị nhà Thanh làm tội, vì ông làm sử cóý tôn nhà Minh.LỜI BÀNLàng say tức là chỉ tụi người say rượu. Mà phàm ai đã bước chan vào làngsay cũng cho là gặp nơi vui thú cả. Thường lại viện những lẽ này lẽ khác,tưởng như chính đáng nhất là cái lẽ đỡ lo đỡ nghĩ. Ôi! Những đã gọi là việcđáng lo, đáng nghĩ, thì tưởng càng phải nên tỉnh để mà lo nghĩ chi phân minhsáng suốt, chớ say thì lo nghĩ sao được. Cái say chính là cái làm cho bại hoạihết công việc. Việc to tày trời đến lúc say cũng còn bỏ, huống còn mong saocho làm nên việc thường hàng ngày nữa.
188. TREO KIẾM BÊN MỘDuyên Lăng Quý Tử sang sứ nước Tấn có đeo thanh bảo kiếm qua chơivới vua nước Từ.Vua nước Từ ngắm thanh kiếm ra dáng thích muốn xin mà không nói ra.Duyên Lăng Quý Tử, vì còn phải đi sứ thượng quốc, tuy chưa dâng vua Từđược thanh kiếm ấy, nhưng trong tâm đã định cho.Khi sang sứ Tấn xong, về qua Từ, thì vua Từ không may đã mất, đành tháothanh kiếm đưa cho Tự quân. Các người theo hầu ngăn lại, nói:Thanh kiếm ấy là của báu của nước Ngô, không phải là thứ để tặng được.Duyên Lăng Quý Tử nói:Không phải là ta tặng. Độ trước ta lại đây, vua Từ xem kiếm của ta, tuychẳng nói ra, mà như dáng muốn lấy. Ta vì còn phải đi sứ thượng quốc, chưadâng được. Tuy vậy đã định cho. Nay vua Từ chết mà ta chẳng hiến thanhkiếm, thì ta tự dối tâm ta. Tiếc kiếm mà dối tâm, người liêm không chịu làm.Nói xong bèn tháo kiếm đưa cho Tự quân.Tự quân nói:Tiên quân tôi không có dặn lại việc ấy, tôi không dám nhận kiếm.Quý Tử bèn treo thanh kiếm vào cái cây ở mộ vua Từ, rồi đi.Người nước Từ ai cũng khen Duyên Lăng Quý Tử không quên người thâncố, đem thanh gươm báu treo vào cây bên mộ.Tân TựGIẢI NGHĨA:Tấn: nước lớn thời Xuân Thu ở vào địa phận tỉnh Sơn Tây ngày nay.Từ: tức quận Đông Hải ngày nay.Thượng quốc: tiếng gọi tên một nước to mạnh hơn mà mình phụ thuộc vào.Tự quân: vua mới lên ngôi.Tiên quân: tiếng để gọi vua cha đã mất.Thân cố: thân bằng cố cựu.LỜI BÀN: Lúc vua Từ có ý lấy thanh kiếm, thì Quý Tử không tự ý đưađược, vì công việc phải làm còn chưa xong. Đến lúc Quý Tử có thể tặngthanh kiếm được, thì vua Từ không sao nhận được nữa, vì đã thác mất rồi.Giá phải người tầm thường, xử vào cái địa vị Quý Tử thì tuy trong bụng cóđiều hối hận, nhưng cũng tiếc thanh kiếm mà đem về nước. Nhưng Quý Tửvốn là người trong tâm đã nghĩ làm sao thì phải làm cho kì được như thế mớinghe, cứ đem thanh kiếm treo tại mộ vua Từ. Người ta tuy khuất, nhưng tâmmình vẫn còn, mà mình không muốn dối tâm mình thực là liêm lắm vậy.Chẳng bù với những kẻ đã tự dối mình lại đi dối cả thiên hạ, nhất là đối vớingười đã khuất tuy có hẳn lời hứa đinh ninh mà rồi nuốt ngay lời đi được.
189. CHẾT VÌ LỄ NGHĨA HAY VÌ TÌNHNgũ Tử Tư gặp phải nạn vua Sở giết cha, giết anh chạy trốn sang nướcNgô, định tìm cách báo thù. Giữa đường bị ốm và hết lương, phải ăn mày màăn. Tình cờ gặp một cô con gái đang đập sợi ở bờ sông Lại Thủy, bên cạnh cógiỏ cơm.Tử Tư đến gần nói:Thưa cô, cô sẵn cơm đây, cô có làm phúc cho tôi được một bữa không?Cô con gái đáp:Tôi ở một mình với mẹ năm nay ba muơi tuổi, chưa có chồng. Ông đứnglui ra, cơm tôi, tôi ăn không thể cho được.Tử Tư nói:Thưa cô, cô nhủ lòng thương cho kẻ cùng đồ này ít cơm, thì có ngại gì taitiếng.Cô con gái biết Tử Tư không phải người thường, bèn mở giỏ cơm cho vớicả tương, dưa nữa. Tử Tư ăn no, cô con gái bảo:Quân tử đi xa, sao không ăn thêm cho rõ no nữa?Tử Tư ăn xong lúc đứng lên đi, bảo cô con gái rằng:Cô che đậy giỏ cơm, bầu nước này đi, chớ đẻ cho lộ chuyện.Cô con gái thở dài, nói rằng:Than ôi! Thiếp một mình ở với mẹ năm nay ba mươi tuổi, một lòng trinhbạch, không tai tiếng gì. Nay đưa cơm cho trượng phu ăn, qua vượt cả lễnghĩa, thiếp lấy làm khổ tâm lắm.Tử Tư đi được mấy bước, ngoảnh lại trông thì cô con gái đã đâm đầuxuống sông rồi.GIẢI NGHĨA:Ngũ Tử Tư: tên là Viên, người nước Sở thời Xuân Thu vì cha, anh báo thùmà giết được vua Sở.Lại Thủy: tên sông ở vào huyện Lật Dương, tỉnh Giang Tô ngày nay.LỜI BÀN:Một người cùng đồ đang đói mà gặp một người có cơm cho ăn mà ngườiấy lại là một cô con gái nhan sắc, một cô con gái đã đứng tuổi, chưa chồng,mà cứu được một người dạng bộ trông rõ ra một đấng trượng phu không phảikẻ tầm thường, cái cảnh ngộ của đôi bên tuy là tình cờ gặp gỡ, nhưng biết đâumà trai anh hùng gái thuyền quyên lại không bỗng dưng sinh ra lòng quyếnluyến, yêu thương nhau. Mối tình nó thường khiến ra như thế. Nhưng chàngăn xong chàng đi , thiếp ở lại còn một mình, chàng lại dặn thiếp đừng để lộchuyện, chắc chàng đang tính đại sự, thiếp đâu lại dám để hại chàng. Vảchăng thiếp là con gái mà đã trò chuyện với trai, lại cho trai ăn cơm củamình, vượt qua cả lễ nghĩa quá nghiêm đời bấy giờ, đường kia nỗi nọ thật làlà khó tính. Chi cho bằng thiếp liều mình thiếp, vừa trọn tình với chàng, bềnchí cho chàng lại vừa giữ được nghĩa với đời chẳng là đôi đường vẹn đôi ư!Ôi! Tình như thế cũng là tình, một cái tình để thơm muôn thưở ai mà chẳngphải kính phục.
190. VÌ NGHĨA NÊN TÌNHMột người thiếu nữ họ Trương ở nhà chồng tại Tô Thành về thăm cha mẹđẻ. Có tiên thị tỳ, mang hộp đồ nữ trang theo hầu, chẳng may giữa đườngđánh rơi, lâu lâu mới biết, trở lại tìm, thì thấy có người ăn mày đang ngồi giữhộp ấy. Tên thị tỳ hoảng hốt nói, thì người ăn mày liền trao trả và nói rằng:Ta đã cùng khổ đến thế này mà lại còn cuỗm thêm những của vô cớ, thìmong khá sao được.Tê thị tỳ mừng lắm, lấy một chiếc thoa ra tạ. Người ăn mày cười nói:Bao nhiêu của chẳng lấy, lại lấy một chiếct thoa ư!Tên thị tỳ nói:Tôi mà đánh mất cái hộp đồ nữ trang này thì đến chết mất. May mà ngườiđược, người trả lại cho, thế là người cho tôi của, lại cứu tôi sống vậy. Dùngười không màng báo, tôi cũng không dám quên ơn. Nhà tôi ở ngõ... từ nayvề sau, sớm trưa tôi xin đợi người đến cửa, xẻ phần cơm của tôi để người ăn.Nhưng cô ở trong nhà, tôi làm thế nào mà thấy được?Trước của nhà tôi, có cây trúc cao, người cứ rung cây, là tôi khác biếtNgười ăn mày sau cứ làm như lời.Tên thị tỳ cũng cứ cho ăn mãi.Lâu người nhà biết, mách chủ. Chủ ngờ có ngoại tình đem ra tra hỏi, tênthị tỳ phải thú thật.Người chủ nhà thấy vậy, bèn gọi người ăn mày đến nhà nuôi, rồi gả tên thịtỳ cho.Sau hai người thành một đôi vợ chồng khá.Tình SửLỜI BÀN: Của không đáng lấy thì một mảy cũng không lấy, anh ăn màynày liêm thật, cái số không giàu thì con mắt tráo trừng cũng vô ích, anh ănmày này đật thật. Hoài! Hạng ăn mày mà có duyên may, mà gặp dịp tốt, thìthật là con người có ích cho xã hội lắm.Giả sử anh ăn mày này mà lại có cái bụng "ăn mày" như những hạng ngườiđời nay quá xu hướng về vật chất, thì biết đâu vợ chồng nhà kia không vì hộpnữ trang mà đến bỏ nhau, tớ thầy nhà kia, không vì hộp nữ trang mà đế cómạng, cả chính anh ăn mày kia không vì được hộp nữ trang mà đeo thêmmuôn nghìn tội ác vào thân.Cùng khổ mà thích làm lành, tôi tớ mà biết trả nghĩa, sau thành vợ chồng,tuy là tình duyên, nhưng cũng là tự mình tạo nên vận mệnh cho mình vậy,đáng khen đáng quý lắm thay!
191. NGHĨA CÔNG NẶNG HƠN TÌNH RIÊNGQuân nước Tề sang đánh nước Lỗ.Khi đến chỗ giáp giới, trông thấy một người đàn bà một tay bồng một đứabé, một tay dắt đứa nữa. Người đàn bà thấy quân kéo tới, vội vàng bỏ đứađang bồng trên tay xuống mà bồng đứa bé đang dắt, rồi chạy trốn vào trongnúi. Đứa bé kia chạy theo khóc, người đàn bà cứ chạy không ngoảnh lại.Một viên tướng nước Tề cho bắt đến, hỏi:Đứa bé nàng bế chạy là con ai? Còn đứa trẻ nàng bỏ liều là con ai?Người đàn bà thưa:Đứa tôi bế là con anh cả tôi, đứa tôi bỏ lại là con tôi. Tôi thấy quân línhkéo đến, sức tôi không thể bảo toàn được cả hai đứa, cho nên tôi đành phải bỏcòn tôi lại.Viên tướng nước Tề nói:Con với mẹ kể tình thân yêu thì đau xót lắm. Nay bỏ con mình lại mà chạylấy con anh là cớ làm sao?Người đàn bà nói:Con tôi là "tình riêng" con anh tôi là "nghĩa công". Con đẻ tuy đau xótthật, nhưng đối với việc nghĩa thì tính làm sao. Cho nên tôi đành bỏ liều contôi mà làm việc "nghĩa". Tôi không thể nào chịu tiếng "vô nghĩa" mà vác mặtsống ở nước tôi được.Viên tướng nước Tề dừng quân lại, sai người tâu với vua Tề rằng:Nước Lỗ chưa thể đánh được. Quân ta mới đến chỗ cương giới, đã thấycon mụ đàn bà xó rừng còn biết làm điều "nghĩa" chẳng chịu đem "tìnhriêng" mà hại "nghĩa công" huống chi là những bậc quan lại, sĩ phu ở trongnước. Xin kéo quân về.Vua Tề cho là phải.Sau vua Lỗ biết chuyện này, thưởng người đàn bà một trăm tấm lụa vàphong cho hai chữ "Nghĩa có".Lưu Hương Liệt Nữ TruyệnGIẢI NGHĨA:- Tề: một nước thời Xuân Thu ở vào toàn hạt tỉnh Sơn Đông ngày nay.- Lỗ: tên một nước thời Xuân Thu ở vào tự phủ Duyên Châu cho đến Bi Tứtỉnh Sơn Đông.LỜI BÀN: Tình với nghĩa cũng là quý, không quyết hẳn được bên nàonặng hơn bên nào. Cho nên ta phải cân nhắc cho cẩn thận, tình nặng hơnnghĩa, thì ta giữ tình, nghĩa nặng hơn tình, thì ta trọng nghĩa.Như người đàn bà nói trong chuyện đây so cái "tình riêng" đối với "nghĩacông" thì không còn phải do dự gì nữa. Thế nào là tình riêng? là cái lòng yêuriêng của một mình mình. Thế nào là nghĩa công? Là cái việc phải đối vớinhà, với nước, với thiên hạ. Tình riêng cứ kể cũng là nặng, nhưng so vớinghĩa công thì nghĩa công còn nặng gấp mấy muơi. Nghĩa công đã nặng , thìđến cái thân là yêu nhất của mình ở đời mình, còn có thể hi sinh để mà giữnghĩa huống chi là những thứ ngoài thân. Nguời đàn bà đây hiểu thấu lẽ ấynên mới đành đem nghĩa để đoạn tình, chẳng vì tình mà hại nghĩa để giữ lấynòi giống ông cha nhà chồng. Ngờ đâu cái ảnh hưởng của việc nghĩa ấy cònlàm quân ngoại xâm ( Tề) phải kéo nhau về, vì chúng nghĩ: "nước người cóthể cườp bóc được, về mới cao, sống chung sao được". Thế mới hay, làm dânmột nước mà không biết trọng "nghĩa" là người dân tai hại cho tổ quốc vậy.
192. MẸ KHÔN CON GIỎIVương Lăng, người đất Bái là người hào trưởng trong huyện.Cao Tổ nhà Hán, lúc còn hàn vi, quý Vương Lăng như anh. Khi Cao Tổkhởi binh, đánh dẹp, Vương Lăng có vài nghìn quân, đem đi phụ theo CaoTổ.Hạng Vũ thấy thế, bắt mẹ Vương Lăng giam ở trong quận. Sứ giả củaVương Lăng đến, Hạng Vũ bách mẹ Lăng phải dụ Lăng về với mình.Bà mẹ Lăng, tiễn sứ giả ra một mình, khóc mà bảo rằng:Người nên vì thiếp già này nhắn bảo hộ Lăng một câu: Cứ hết lòng màtheo thờ Hán Vương chớ vì có thiếp già đây mà sinh ra nhị tâm nhéNói đoạn, bà cầm gươm tự đâm chết, cốt ý để khuyến khích Vương Lănggiữ cho bền lòng.Hán SửGIẢI NGHĨA:- Cao Tổ: tức là Bái Công vua đầu nhà Tây Hán, phá nhà Tần, diệt nhà Sởmà có thiên hạ.- Hạng Vũ: tức là Hạng Tịch khỏe mạnh và tài khá hơn người, tranh thiênhạ với Bái Công sau thua chết ở Cai Hạ.LỜI BÀN: Đang lúc thiên hạ loạn lạc, quần hùng nổi lên, dù người có mắttinh đời cũng chưa dễ đoán được sau này ai là vua, ai là giặc.Như Bái Công và Hạng Vũ đây, đôi bên bây giờ đang tranh đâu. Bái Côngthua luôn, Hạng Vũ được luôn, lại càng khó biết sự thống nhất về tay ai hơnnữa. Thế mà khen thay, bà mẹ Vương Lăng biết con quy phục Bái Công làphải. Một khi bà đã hiểu rõ ai là người có chính nghĩa, trước bà liều thân đểkhuyên con, sau là thí thân để vững lòng con, thực là một bậc đàn bà, khôngngoan sáng suốt hiếm có vậy. Cho nên người đời trước có câu khen rằng:"Mẫu hề hà trí, tử hề hà trung, nhất môn mẫu tử, vạn cổ anh phong" nghĩa là"mẹ sao mà khôn như thế, con sao mà trung như thế, một nhà mẹ con tiếngthơm muôn đời", thật là phải lắm.
193. TU TẠI GIADương Phủ, lúc nhỏ nhà nghèo nhưng hết sức cày cấy đẻ phụng dưỡngsong thân.Một hôm, ông nghe bên đất Thục có ông Vô Tế đại sĩ, ông bèn nói vớisong thân xin từ biệt ít lâu để đến hầu bực Vô Tế.Đi được nửa đường, ông gặp một vị lão tăng bảo ông rằng:Được gặp bực Vô Tế chẳng bằng được gặp Phật.Ông hỏi:Phật ở đâu?Lão tăng nói:Nhà ngươi cứ quay trở về, gặp người nào mặc cái áo sắc như thế này, điđôi dép kiểu như thế này, thì chính là Phật đấy.Dương Phủ nghe lời quay về, đi đường chẳng gặp ai như thế cả. Khi ôngtới nhà, đêm khuya, trời tối, ông gọi cửa, mẹ ông nghe tiếng mừng quá, tứcthì vội khoác chăn đi dép ngược ra mở cửa cho ông. Bây giờ ông trông ra, thìhình dáng Phật, mà lão tăng đã nói chuyện cho nghe.Từ đấy, ông biết cha mẹ trong nhà tức là Phật, chẳng phải cầu kỳ đi mộPhật đâu xa nữa.Lý Nguyên Dương.GIẢI NGHĨA:- Dương Phủ: người đời nhà Minh đỗ Tiến sĩ làm ngự sử có tiếng là mộtông quan thanh liêm.- Thục: tên đất ở tỉnh Tứ Xuyên bây giờ- Vô Tế đại sĩ: một nhà tu hành đắc đạo vô cùng.LỜI BÀN: Bài này cốt dạy ta về chữ "Hiếu" vì cha mẹ như Phật, con phảiphụng thờ cha mẹ như phụng thờ Phật vậy. Phật là một vì tự giác, giác tha,giác hạnh viên mãn, thiên hạ thành kính thờ phụng rất phải. Nhưng cha mẹ làngười sinh thành ra thân mình, thì há mình lại không nên thờ phụng thànhkính hay sao! Phật xa, cha mẹ gần, con cái hãy nên một niềm thành kính màthờ phụng lấy mẹ cha trước.Thứ nhất thì tu tại giaThứ hai tu chợ, thứ ba tu chùa.Tu đâu bằng tu tại gia,Thờ cha, kính mẹ mới là chân tu.Nghĩa những câu cổ ấy thực là đúng với nghĩa trong bài này. Vả lại, hiếu làđầu cả trăm nét tốt, chỉ có người có hiếu mới trung với Tổ quốc và nhân từvới nhân loại vậy.
194. NGƯỜI VỢ HIỀN MINHVợ Nhạc Dương Tử là một bậc hiền minh.Dương Tử một hôm đi đường bắt được lọ vàng người ta đáng rơi, mừng rỡđem về nhà đưa cho vợ.Vợ nói: Thiếp trộm nghe người chí sĩ không ai uống nước suối "Đạo toàn",người liêm khiết không nhận của ăn "Ta lai". Chàng nay nhặt được của rơiđường đem về cầu lợi để ô uế phẩm hạnh, thử nghĩ có nên không?Dương Tử nghe nói thẹn quá, liền đem lọ vàng bắt được bỏ ngoài đồng.Rồi đi xa, tìm thầy để học.Đi học mới được một năm, Dương Tử về chơi nhà. Vợ quỳ xuống trướcmặt, hỏi rằng:- Chàng có việc gì mà về nhà?Dương Tử nói:- Ta đi lâu nhớ nhà thì về, chẳng có việc gì cả.Vợ cầm con dao đến chỗ khung cửi nói rằng:- Lụa đang dệt đây là phải làm từ lúc nuôi tằm ươm tơ cho đến lúc mắc lênđược khung cửi. Nếu đánh đứt một sợi mà đứt mãi, thì đứt đến hàng tấc, đứthàng tấc mà đứt mãi thì đứt đến hàng thước, hàng trượng, hàng cả tấm. Nếubây giờ mà thiếp chặt đoạn đang dệt đây, thì bao nhiêu công phu ngày giờ từtrước đến nay đều mất hết cả. Chàng đi học là để trở về nên một bậc tài giỏi,nếu đang học mà bỏ về thì khác gì tấm lụa đang dệt đây mà chặt đi vậy.Dương Tử thấy nói, cảm động lắm, đi học luôn bẩy năm đến tốt nghiệpmới về.Vợ ở nhà chăm chỉ làm ăn trong bấy nhiêu năm, vừa nuôi nấng cha chồng,vừa nuôi cho chồng ăn học.Nhạc Dương Tử nhờ có người vợ hiền như thế mà sau được quí hiển.Hậu Hán Thư Nhạc Dương Tử TruyệnGIẢI NGHĨAHiền minh: có tài, có nết, sáng suốt công việcChí sĩ: người có khí tiếtĐạo Toàn: tên một cái suối ở huyện Tứ Thủy tỉnh Sơn Đông, Đạo Toànnghĩa đen là cái suối ăn trộm, tên nghe đáng ghét nên cho nên khát cũngkhông muốn uống nước ấyTa lai: thương rằng cùng khổ đói khát mà gọi cho ăn và có ý khinh bỉLỜI BÀNCứ theo lẽ thường, cái gì nên làm thế nào thì người tài trai phải biết tự chủtrương lấy, không cần người đàn bà dạy bảo rồi mới chịu làm. Tuy vậy lắmkhi cũng phải có sự kích thích ở ngoài vào thì mới dễ khiến người ta phấnchấn lên mà cố sức làm cho nên việc, và nhất là sự khuyến khích của vợ.Như vợ Dương Tử đây thật là khéo biết dạy chồng, làm cho chồng thành rangười được có khí lại có chí và sau quí hiển được. Đúng với những câu ngạnngữ "giai khôn vì vợ, giá ngoan vì chồng", "giàu vì bạn sang vì vợ" lắm.
195. TRỌNG NGHĨA KHINH TÀIÔng Phạm Trọng Yêm, người nhà Tống, làm quan đến Tể Tường mà vẫnnghèo suốt đời, tính ông trọng nghĩa, khinh tài, thích làm việc bố thí nhất làđối với người trong họ lại càng hậu lắm. Ông để dành lương bổng, mua đượcmột thửa đất làm nghĩa trang để lấy hoa lợi cứu người nghèo khó trong họ.Phàm việc tang tóc cưới xin của chúng, ông đều lo liệu đỡ cho hết.Con ông là Thuần Nhân, đức tính cũng như ông. Lúc ông làm quan ở KhaiPhong, để dành được năm trăm thùng thóc, sai Thuần Nhân đem về quê.Thuần Nhân đi đến Đan Dương gặp người bạn cũ của cha là Thạch ManKhanh, nhà đã cùng quẫn, chẳng may gặp ba cái tang một lúc, Thuần Nhângiúp cho cả năm trăm thùng thóc. Hai con gái Man Khanh lớn tuổi mà chưagả bán xây dựng, không chỗ nương tựa. Nhân Thuần cho nốt cả cái thuyền.Đến lúc về nhà cha hỏi:- Con đi có gặp ai không?Thuần Nhân thưa: - Con đi đến Đan Dương có gặp Thạch Man Khanh nhànghèo khổ, lại gặp lúc liền ba cái tang, hai con gái lớn không có gì để gâydựng, con có tự tiện cho cả năm trăm thùng thóc mà còn chưa đủ.Ông bảo: - Thế sao con không cho nốt cả cái thuyền?Thuần Nhân thưa: - Con cũng đã cho cả cái thuyền rồi.Ông khen phải rồi nói: - Cứ như thế mới đáng là con ta.Phạm Trọng Yêm TruyệnGIẢI NGHĨAPhạm Trọng Yêm: bực danh thần nhà Tống, có chí to gánh vác việc đời, lothì lo trước khi thiên hạ lo, vui thì sau khi thiên hạ vuiTrọng nghĩa: lấy điều phải làm trọng mà hết sức làmKhinh tài: cho của cải là thường, không để cho của lấn được nghĩaLỜI BÀNLàm quan đến bậc tể tướng mà nhà vẫn nghèo, thế là thanh liêm đángtrọng. Để dành được đồng nào lại đem bố thí cho kẻ nghèo khổ, thế là nhânđức, đáng trọng hơn nữa. Có năm trăm hộc thóc cho cả thế là thương người,đáng phục. Có chiếc thuyền mình đi cũng cho nốt, thế là quên mình đángtrọng hơn nữa. Rõ ràng cha nào con nấy; hai cha con ông Phạm Trọng Yêmthật là có lòng nhân ái, hiểu thấu cái nghĩa cứu kẻ khốn cùng, giúp người tainạn là việc vui lòng nhất ở đời. Cho nên ta có câu:Sướng gì hơn sướng làm lành,Cho bao nhiêu của để dành bấy nhiêu.
196. MUA XƯƠNG NGỰANgười nước Tề đánh nước Yên giết được vua Yên.Người Yên lập thái tử tên là Bình lên làm vua tức là vua Chiêu Vương.Chiêu Vương lên ngôi, thương dân lo việc nước, cầu người hiền tài. Mộthôm, bảo Quách Ngỗi rằng:- Nước Tề nhân dịp nước ta loạn, sang đánh lấy nước ta. Ta biết rõ ràngnước ta nhỏ, dân ta yếu, thực khó lòng mà báo thù. Song nếu được nhữngngười giỏi cùng lo toan việc nước may mà rửa sạch sự nhục của tiên vươngđược chăng. Chí nguyện quả nhân như vậy tiên sinh xem ai là người giỏi đểcùng ta lo toan việc nước thì hay.Ngỗi nói: Xưa có ông vua đưa nghìn vàng cho người nội thị đi mua conngựa chạy ngày nghìn dặm. Khi đến ngựa đã chết, anh ta mua bộ xương ngựanăm trăm nén vàng đem về. Vua thấy thế giận lắm. Anh ta thưa: "Ngựa chếtcòn quý là mà mua như vậy huống chi là ngựa sống. Tôi chắc thế nào naymai người ta cũng đem ngựa hay đến bán cho nhà vua". Quả nhiên không đầymột năm mà người ta đem ngựa hay đến bán đã ba bận. Nay nhà vua muốnđược người giỏi thì trước hãy dùng tôi. Người giỏi hơn tôi thấy thế há có ngạixa mà không lại ư?Chu SửGIẢI NGHĨATề: tên một nước mạnh về thời Chiến Quốc ở vào tỉnh Sơn Đông ngày nayYên: tên một nước thời Chiến Quốc ở vào Phụng Thiên, Trực Lệ và phíabắc Triều Tiên ngày nayLỜI BÀNCó bỏ năm trăm nén vàng ra mua bộ xương ngựa, sau mới có ngựa hay màdùng; có dùng Quách Ngỗi là người tài vừa và ở gần trước, sau mới có ngườithật hiền tài ở xa cầu đến. Cái lối ấy là lối quyền mưu trí thuật của bá giả đờibấy giờ, để quyến dẫn lấy nhân tài trong thiên hạ.Đọc bài này ta đáng khen Quách Ngỗi, đã tìm được câu thí dụ hay để tựtiến lấy mình mà nhất là khi được tin dùng lại hết lòng báo đáp, không phụ sựủy thác của Chiêu Vương.Ta lại đáng phục Chiêu Vương là biết nghe Quách Ngỗi mà nhất là biết cốý lo toan báo thù cho tiên vương, và dụng tâm làm cho cố quốc được cườngthịnh.
197. LỜI NÓI KẺ BẮT RẮNỞ Vĩnh Châu có giống rắn lạ, thân đen vằn trắng, chạm vào cây cỏ thì câycỏ chết, cắn phải người thì không thuốc gì chữa nổi. Song mà bắt được giốngrắn ấy dùng làm thuốc để chữa những bệnh như bệnh trúng phong, bệnh coquắp chân tay, lại sát được cả trùng.Cho nên nhà vua có lệ bắt dân gian mỗi năm phải hiến hai con rắn ấy đểdành. Ai bắt được rắn thì phải trừ thuế ruộng.Người Châu Vĩnh tranh nhau mà làm nghề bắt rắn. Có họ nhà Tương cũnglàm nghề ấy được ba đời. Hỏi ra thì họ nhà Tương nói:- Ông tôi chết về nghề bắt rắn, cha tôi cũng chết về nghề bắt rắn. Tôi nốinghề ông cha tôi mới có mười hai năm, cũng mấy lần suýt chết.Người ấy nói, vẻ mặt buồn rầu.Ta thương và hỏi rằng:- Nhà người có thật cho nghề bắt rắn là khổ không? Ta sẽ nói với quan trêncho nhà ngươi bỏ nghề ấy mà cứ nộp thuế ruộng như thường. Nhà người tínhthế nào?Người họ Tương vừa khóc, vừa nói:- Ông thương tôi, muốn cho tôi sống, thì ông để cho tôi làm nghề bắt rắncòn hơn. Nếu tôi không làm nghề thì tôi khốn khổ lâu rồi. Nhà tôi ba đời ởlàng này kể đã hơn sáu mươi năm, cách sinh nhai trong làng mỗi ngày mộtquẫn bách. Người làng phải rút hết cả lợi hoa màu, vét hết cả của cải trongnhà để mà nộp thuế hết, thậm chí bỏ làng, bỏ xóm, đói khát, trôi giạt, chếtđường, chết chợ kể bao nhiêu người. Những người vào trạc tuổi ông tôi mườinhà không còn một. Những người vào trạc tuổi cha tôi, mười nhà còn độ haiba. Những người vào trạc tuổi tôi, mười nhà còn độ bốn năm. Không chếtchóc thì lưu lạc cả... Tôi nhờ nghề bắt rắn mà còn đến bây giờ. Những quanlại tàn ác về làm thuế làng tôi, xúc hết đầu làng cuối xóm, vơ vét đến cả congà con chó, dân gian phải hãi hùng kính sợ. Những lúc ấy về phần tôi, tôiđược yên lặng, trông trong giỏ con rắn vẫn còn là tôi được ăn no, ngủ yên.Tôi làm nghề bắt rắn một năm sợ chết chỉ có hai lần, ngoài ra là vui vẻ,không phải lo thuế má, không đến nỗi như người làng xóm tôi hết ngày này,sang tháng khác khốn khổ về quan lại tàn ác. Giá tôi có chết về nghề bắt rắn,ví với người làng xóm tôi cũng đã là chậm, đâu dám cho là rắn độc mà xinthôi.Ta nghe câu chuyện, lại càng thương lắm. Xưa Đức Khổng lắm: "Chínhsách hà khắc độc hơn hổ dữ" ta vẫn ngờ, bây giờ xem chuyện họ Tương mớicho là thật. Than ôi! Cái độc quan lại tàn ác làm thuế ở dân gian dữ hơn conrắn độc, cho nên nói ra đây để ngừoi xem xét phong tục thấu được tình cảnhđau khổ của dân!Liễu Tôn NguyênGIẢI NGHĨAVĩnh Châu: tên phủ, thuộc về tỉnh Hồ Nam ngày nayTrúng phong: phải gió độc, ngất điLỜI BÀNTa đọc bài này thật lấy làm ghê tởm cái chính sách hà khắc, người cầmquyền đã ác một phần, thì những kẻ dưới thừa hành ác tăng lên trăm phầm.Cái cảnh khổ của dân thường thường vẫn như thế. Liễu Tôn Nguyên có bụngthương dân mất hết cả quyền, đem chuyện thật viết ra bài này là có ý mongcho người trên hiểu thấu cái tình của dân gian, cái tệ của quan lại mà phần thìđánh thuế cho dân vừa phải, phần thì tìm cách trừng trị những phường thamnhũng, ngõ hầu dân mới đỡ được khổ chăng.
198. HÒA VI QUÝĐời cổ những người lo toan việc quốc gia, trước hết phải dạy dỗ dân, thânyên dân.Phép trị dân có bốn điều "bất hòa" cần phải biết.1) Trong nước mà bất hòa, thì chẳng nên đem quân đi đánh đâu;2) Trong quân mà bất hòa, thì chẳng nên đem quân ra trận;3) Quân ở trận mà bất hòa, thì chẳng nên tiến lên đánh;4) Tiến lên đánh mà bất hòa, thì chẳng nên quyết đánh.Bởi vậy ông vua hữu đạo khi định dùng dân, trước hết có hòa sau mới gâydựng việc lớn mà chẳng dám tin cái mưu riêng của ai. Không những thế màthôi, lại còn phải xem cái thời có đáng cử sự sau mới cử sự.Khi dân trong nước ai nấy đều biết ơn vua đã chịu suy nghĩ đắn đo cẩnthận, quí cái mạng của dân, tiếc cái chết của dân, thì bấy giờ dù có phải rachỗ nguy nan, ai nấy mới cùng lấy việc tiến lên mà liều chết là vinh, lùi vềmà sống thừa là nhục vậy.Ngô TửGIẢI NGHĨANgô Tử: tức là Ngô Khởi, người nước Vệ về thời Chiến Quốc, làm tướngnước Ngụy là một nhà dùng binh giỏi có tiếngLỜI BÀNCòn ai không biết trong nước đã bất hòa thì dân chúng dễ ngờ vực nhau, dễtàn hại nhau, quên hết nghĩa công, chỉ biết thù riêng, thậm chí chia rẽ theo cảđịch quốc và đi đến diệt vong nữa. Nên trong bài này tác giả nói phép dùngdân rút lại chỉ có một sự cốt yếu là "Hòa". Dân có hòa và lại nhờ thêm cáithời thuận, tức là cơ hội tốt, nhiên hậu mới khả dĩ khến dân hết lòng vớinước, vì nước mà liều chết được. Bài này nói rộng là phép dụng dân, nhưngnói hẹp mà đúng hơn thì chỉ là cách dụng binh mà thôi, tác giả là một nhàbinh hơn là một nhà chính trị.
199. CÁCH TRỊ DÂNTử Sản làm tướng nước Trịnh đã lâu năm, có lòng thương dân, lấy đạokhoan mà trị dân.Khi Tử Sản bệnh nặng, Tử Thái Thúc đến bảo rằng:- Ta chết, tất nhà ngươi làm tướng nước Trịnh. Người phải biết người cóđức mới lấy đạo "khoan" mà phục được dân, con người thường phải lấy sách"nghiêm" mà trị mới được. Nay ví như lửa nóng, đâu trông thấy mà sợ, chonên chết vì lừa ít; nước mát dân khinh mà lờn, cho nên chết vì nước nhiều.Thế mới biết dùng khoan là khó.Mấy tháng sau, Tử Sản mất, Tử Thái Thúc thay làm tướng, không nỡ dùngnghiêm, e có mãnh liệt cứ lấy đạo khoan mà trị dân.Không được bao lâu, trong nước sinh ra nhiều trộm cắp, thường núp náu ởcác đồng lầy mà lấy của giết người nhũng nhiều lương dân.Tử Thái Thúc hối lại nói rằng:- Giá ta biết sớm theo lời Tử Sản thì đâu đến thế này!Rồi liền đem quân đi đánh bắt bọn cướp ở đồng lầy mà giết hết. Từ đấynước Trịnh mới bớt trộm cướp.Đức Khổng Tử nói rằng: Được lắm! Chính sách khoan thì dân lờn, dân lờnthì lại phải dùng khoan (?); khoan giúp cho mãnh, mãnh giúp cho khoan, cóthế thì chính sách mới hòa được.Tả Khưu MinhGIẢI NGHĨATử Sản: tên tự là Công Tôn Kiều làm quan đại phu nước Trịnh thời XuânThuTướng: quan đứng đầu cả bách quan giúp vua để hành chínhTả Khưu Minh: Quan Thái Sư nước Lỗ theo chí của Khổng Tử mà làm rachuyện kinh Xuân Thu gọi là Tả Thị Xuân Thu cho nên người ta thườngxưng Khổng Tử là Tố Vương, Khưu Minh là Tố ThầnLỜI BÀNTử Sản vốn là một người học rộng chính trị giỏi, làm tướng nước Trịnhhơn 40 năm, đối với trong thì dân bình trị, đối với ngoài thì các nước e nể ônglà một bậc quân tử có bốn điều hay; đối với mình thì tự trọng (cung), đối vớingười mà mình phụng sự thành kính, nuôi dân thì có ơn huệ, khiến dân thì cónghĩa lý.Câu ông dặn Tử Thái Thúc đây thực có ý lắm. Mãnh mà khiến cho dân sợdễ bao nhiêu, thì khoan mà cũng khiến cho dân sợ khó bấy nhiêu. Tuy cũnggọi là sợ nhưng cái sợ trước không có giá, vì sợ bất đắc dĩ, sợ miễn cưỡng, sợbề ngoài mà khinh trong bụng, cái sợ sau mới là cái sợ quí, vừa sợ, vừa yêu,sợ mà kính phục, sợ như vui lòng mà sợ vậy. Nhưng muốn được cái sợ sau,tất cái đức phải lo làm sao mới cảm hóa được nhân tâm đến bực ấy.Còn thường thường, phép trị dân không thể cứ khoan mãi được, vì khoanthì dân lờn. Lại cũng không thể cứ mãnh mãi được, vì mãnh thì dân oán. Dânoán hay dân lờn cũng đều có trở ngại đến việc nước cả. Cho nên phải cókhoan, lại phải có mảnh đắp đổi đỡ dần cho nhau thì mới được. Bốn chữ"Khoan mãnh tương tế" thực đáng làm cái phương châm cho cả người cầmquyền trị dân vậy.
200. CAN GÌ MÀ PHÁ ĐIDân nước Trịnh thường hay đến trường học thôn quê để nghị luận nhữngchính sách hay dở của quan liêu.Nhiên Minh bảo Tử Sản rằng:Tôi định phá hết cả các trường thôn quê, ông tính sao?Tử Sản nói:Để chứ. Phá đi làm gì? Dân sự người ta sớm tối đến chơi trường học đểnghị luận điều phải, điều trái của quan liêu làm. Cái gì người ta cho là phải, tacứ thế mà làm. Cái gì người ta cho là dở, ta liệu mà đổi đi. Những kẻ nghịluận ấy tức là những ông thầy của ta. Can gì mà phá trường học.Vả chăng, tôi nghe nói: "Hết lòng làm điều phải thì mới đỡ được người taoán trách mình". Tôi chưa từng nghe nói: "Chỉ nạt nộ ra oai, mà tuyệt đượchết sự oán trách của người." Cũng như phải đắp đê mà giữ nước, chớ bỏ đêđi, thì nước vỡ tứ tung, bao nhiêu người chết không thể cứu lại được. Nay tahẳn cứ để trường học, khiến thường được nghe những câu chê bai để làmthuốc chữa cho ta thì hơn.Nhiên Minh nghe Tử Sản xong, nói rằng:Nay tôi mới biết ông là ông quan thầy đáng tôn vậy. Tôi thật là kẻ bất tài.Ông làm được như lời, thì chẳng những một đám chúng tôi được trông cậymà cả nước cũng được nhờ vậy.Tả Truyện.GIẢI NGHĨA:- Trịnh: nước nhỏ thời Xuân Thu, ở vào huyện Tân Trịnh tỉnh Hà Namngày nay.- Nhiên Minh : người đời Xuân Thu, cùng quan ở nước Trịnh với Tử Sản.- Tử Sản: người đời Xuân Thu, học rộng có tài chính trị, là quan đại giỏi cótiếng của nước Trịnh (xem bài trên).LỜI BÀN: Người ta càng cao xa, càng tôn quý bao nhiêu, thì càng xa sựthực bấy nhiêu. Sự thực hay thì hay thực, song lại hay làm cho mất lòng, nênnhững người có địa vị cao, ít khi được nghe sự thực. Thiên hạ không ai muốnmất lòng mình, thì ai dám nói sự thực cho mình biết.Nhiên Minh đây bảo phá nhà trường là vì nghe sự thực mà mất lòng. TửSản đây bảo giữ nhà trường là vì yêu sự thực, được nghe sự thực lấy làm vuisướng. Các nhà trường nước Trịnh bấy giờ có phải như các tờ báo ngày nay,là những cơ quan để cho dân chúng được tự do mà đàm luân về chính sáchhay dở hay không? Nếu như vậy, thì ta xưa nay đân sự vẫn có cách là chonhững điều nguyện vọng của mình đạt được tới chính phủ, mà chính phủkhôn khéo, tưởng cũng nên lợi dụng cái cách ấy, không nên tuyệt đi vậy.Những câu Tử Sản nói ví như giữ đê cho nước chảy để phòng sự lụt ngập tràntrụa rất nguy hết lòng làm phải chớ không phải ra oai nạt nộ mới tuyệt đượcsự oán trách của dân, thực là những câu nói rất đúng với chân lý. Ôi! Mộtchính phủ mà vững bền hay hư hỏng có thể nghiệm ở lòng dân yêu hay ghét.Nếu dân chúng đã ghét nhưng chính sách không ra gì, chúng dám nói ramiệng, mà lại chỉ thị oai như muốn bưng miệng chúng, chớ không muốn sửalỗi mình, thì có khác gì thấy nồi nước sôi trào ra ngoài không biết
Bạn đang đọc truyện trên: truyentop.pro