Mãn giang hồng - Nhạc Phi
Nguyên tác chữ Hán:
滿江紅
怒發衝冠,
憑欄處、
瀟瀟雨歇。
抬望眼、
仰天長嘯,
壯懷激烈。
三十功名塵與土,
八千里路雲和月。
莫等閑、白了少年頭,
空悲切。
靖康恥,
猶未雪。
臣子恨,
何時滅!
駕長車,
踏破賀蘭山缺。
壯志飢餐胡虜肉,
笑談渴飲匈奴血。
待從頭、收拾舊山河,
朝天闕。
Phiên âm Hán Việt:
Mãn giang hồng
Nộ phát xung quan,
Bằng lan xứ,
Tiêu tiêu vũ yết.
Đài vọng nhãn,
Ngưỡng thiên trường khiếu,
Tráng hoài khích liệt.
Tam thập công danh trần dữ thổ,
Bát thiên lý lộ vân hoà nguyệt.
Mạc đẳng nhàn, bạch liễu thiếu niên đầu,
Không bi thiết.
Tĩnh Khang sỉ,
Do vị tuyết.
Thần tử hận,
Hà thời diệt!
Giá trường xa,
Đạp phá Hạ Lan sơn khuyết.
Tráng chí cơ xan Hồ lỗ nhục,
Tiếu đàm khát ẩm Hung Nô huyết.
Đãi tòng đầu, thu thập cựu sơn hà,
Triều thiên khuyết.
Dịch thơ:
Mãn giang hồng
Giận tóc dựng ngược,
Đứng tựa lan can,
Mưa hiu hắt ngừng,
Mở mắt trừng lên
Nhìn trời hú lớn
Lòng trai khích động
Ba mươi tuổi công danh như bụi đất,
Tám ngàn dặm đường chỉ mây và trăng.
Đừng chờ đợi uổng công,
Để đầu xanh bạc trắng,
Da diết khắp trời buồn.
Mối nhục Tĩnh Khang,
Vẫn còn chưa rửa.
Thần dân oán hận,
Khi nào mới tan.
Cưỡi xe dài đạp nát cung điện núi Hạ Lan.
Nuôi chí lớn đói ăn thịt Hồ tặc,
Nói cười khát, uống máu giặc Hung Nô.
Đợi từ lâu thu hồi sông núi cũ,
Dâng lên cung khuyết.
----------
Nhạc Phi sinh vào năm Sùng Ninh thứ 2 thời vua Tống Huy Tông (1103), bị hại năm Thiệu Hưng thứ 11 đời Tống Cao Tông (1142), hưởng dương 39 tuổi, là danh tướng kháng Kim nổi tiếng thời Nam Tống. Suốt hơn 10 năm chiến đấu chống Kim, Nhạc Phi trải qua 126 trận đánh, chưa từng bại trận. Ông được nhiều người đánh giá sánh ngang với những danh tướng kim cổ như Chu Bột, Quán Anh, Vệ Thanh, Hoắc Khứ Bệnh, Thường Ngộ Xuân... Nhạc Phi được coi là một trong những biểu tượng lớn của lòng yêu nước, anh hùng dân tộc Trung Hoa và được thờ trong Đế Vương miếu xây dựng từ thời nhà Minh.
Cuối thời Bắc Tống, triều Liêu của người Khiết Đan xâm lấn xuống phía nam, người dân Tống phải chịu cảnh cực khổ do sự xâm lược của quân Liêu. Từ nhỏ Nhạc Phi đã có lòng yêu nước thương dân, căm thù giặc Hồ (ý chỉ chung những dân tộc ít người phương Bắc).
Năm Tuyên Hoà thứ 4 (1122), vua Tống Huy Tông nghe theo lời Thái Kinh và Đồng Quán, liên minh với nước Kim của tộc Nữ Chân cùng giáp công diệt Liêu. Người Liêu thấy quân Tống bắc tiến, đã định xin hàng, nhưng Thái Kinh và Đồng Quán kiêu căng tự đắc, xem thường người Khiết Đan, Liêu lại đánh tới cùng. Vấp phải sự chống trả quyết liệt của quân Liêu, quân Tống tuy chiếm được Yên Kinh nhưng vẫn phải cầu cứu quân Kim. Khi Lưu Cáp tới trại quân Kim cầu viện, tướng Kim là Niêm Một Hát không tiếc lời sỉ nhục người Tống. Tuy vậy, quân Kim vẫn khởi binh giúp Tống, nhưng đánh dẹp quân Liêu rồi thì lại chiếm luôn Yên Kinh.
Người Kim khinh thường quân Tống có hơn mười vạn quân mà không đánh nổi tàn quân Liêu, chê cười quân Tống yếu ớt. Vua Kim Thái Tông lúc đầu chỉ muốn diệt Liêu, sau lại thấy nhà Tống lỏng lẻo, lại có ý đánh Tống.
Năm 1125, Kim diệt xong Liêu rồi thừa thế tràn vào quan ải. Quân Kim thiện chiến, lại dùng thiết kỵ và khí giới hiện đại nên tiến xuống Trung Nguyên rất nhanh. Một phần lớn lãnh thổ Bắc Tống bị Kim chiếm lĩnh, Nhạc Phi tận mắt nhìn thấy nỗi thống khổ của người dân, hết sức giận dữ, vào năm Tĩnh Khang đầu tiên (1126) lại ra tòng quân. Tuy nhiên, khi Nhạc Phi còn chưa ra tới trận tuyến thì Biện Kinh đã thất thủ. Thượng hoàng Huy Tông và hoàng đế Khâm Tông bị triều Kim bắt về Ngũ Quốc Thành ở chung với vị vua vong quốc Liêu Thiên Tộ Đế.
Bắc Tống diệt vong, hoàng tử Triệu Cấu ở Giang Nam liền xưng đế, tức vua Tống Cao Tông, Sử gọi nhà nước mới này là Nam Tống. Nhạc Phi là một quan cấp dưới với lòng ngay thẳng, đã vượt cấp dâng sớ cho Cao Tông trách mắng chủ trương của phái chủ hoà, khuyên vua Cao Tông thân chinh thống lĩnh đại quân vượt lên phía Bắc, khôi phục Trung Nguyên, đón nhị đế trở về. Nhưng Cao Tông bạc nhược chỉ muốn giữ vùng đất đang có, chủ trương hoà hoãn với Kim, phái chủ hoà trong triều đình khép cho Nhạc Phi tội danh "quan nhỏ vượt chức".
Năm Kiến Viêm thứ 4 (1130), tướng Kim là Ngột Truật cất đại quân vượt sông Dương Tử đánh Tống, thế như chẻ tre, quân Tống tan rã nhanh chóng. Nhạc Phi tiến quân đến Thường Châu, đánh với Ngột Truật bốn trận, quân Kim thua trận. Nhạc Phi tiếp tục truy kích, giành thêm chiến thắng ở trấn Giang Đông, Thanh Thuỷ. Ngột Truật cùng tàn quân chạy về Kim Lăng, Nhạc Phi cho quân phục kích tại núi Ngưu Đầu, lại đánh bại Ngột Truật, Ngột Truật phải chạy tiếp về Hoài Tây. Nhạc Phi thu hồi được Kim Lăng, bảo toàn được nửa mảnh giang sơn Giang Nam của Nam Tống. Lúc này Nhạc Phi đã có trong tay 4 vạn quân, trở thành danh tướng kháng Kim nổi danh bốn phương, khi tuổi đời mới 27.
Năm Thiệu Hưng thứ 4 (1134), người Kim hợp quân với chính quyền bù nhìn Lưu Tề tiến đánh Nam Tống, chiếm được 6 quận Tương Dương, trực tiếp uy hiếp sự sinh tồn của nhà Nam Tống. Tống Cao Tông lại phải lệnh cho Nhạc Phi xuất quân, nhưng lại hạn chế ràng buộc ông chỉ được phép thu phục 6 quận Tương Dương, không cho phép đánh lên phía bắc.
Nhạc Phi bắc tiến, chiếm lại được Đặng Châu, Tương Châu, Dĩnh Châu, Tuỳ Châu, Đường Châu và phủ Tín Dương. Những chiến công này của Nhạc Phi đã cổ vũ mạnh mẽ quân dân Nam Tống đấu tranh chống quân Kim, kiên định thể hiện quyết tâm thu phục Trung Nguyên của Nhạc Phi. Nhưng do ảnh hưởng của Tần Cối đứng đầu phái chủ hoà, Cao Tông cho triệu hồi Nhạc Phi về kinh, thăng làm Thanh Viễn quân Tiết độ sứ.
Nam Tống có được những danh tướng như Nhạc Phi, Hàn Thế Trung, Lưu Quang Thế, lại thêm sự phối hợp của các đội nghĩa quân do dân chúng tổ chức nên, vốn có đủ điều kiện để đánh lui quân Kim. Nhưng Tống Cao Tông bất chấp sự phản đối của các tướng lĩnh, một mực cầu hòa nhục nhã với Kim. Năm 1139, Tống và Kim ký hoà ước, theo đó Tống phải xưng thần với Kim và phải tiến cống hằng năm, bù lại, Kim trả lại vùng đất Thiểm Tây, Hà Nam cho Nam Tống.
Tháng 10 năm 1140, triều Kim lại xé bỏ hòa ước, cử Ngột Truật làm soái, chia quân làm 4 đường tiến đánh Nam Tống. Không tới một tháng, những vùng đất được trao trả trong hoà ước bị quân Kim chiếm lại. Nam Tống đứng trước nguy cơ bị tiêu diệt. Tống Cao Tông bất đắc dĩ phải hạ chiếu, kêu gọi quân các lộ cùng chống lại. Nhận được mệnh lệnh, Nhạc Phi một mặt cử các bộ tướng Vương Quý, Ngưu Cao, Dương Tái Hưng chia đường xuất quân, một mặt cử người lên liên lạc với thủ lĩnh nghĩa quân ở Hà Bắc là Lương Hưng, yêu cầu Lương Hưng lãnh đạo nghĩa quân quấy rối hậu phương địch ở Hà Đông, Hà Bắc. Nhạc Phi đóng quân ở Yển Thành để chỉ huy chung.
Chỉ trong mấy ngày, các cánh quân dồn dập báo tin thắng lợi, đã lần lượt thu phục được Dĩnh Xương và Trần Châu. Quân Kim lâm vào tình cảnh hoang mang lo sợ. Nhạc gia quân đánh thắng hết đợt này tới đợt khác, tới tận Chu Tiên Trấn, cách kinh đô cũ Biện Kinh chỉ bốn, năm chục dặm. Nghĩa quân Hà Bắc nghe tin Nhạc Phi đánh tới Chu Tiên Trấn, đều hân hoan phấn khởi, vượt Hoàng Hà tới hợp lực với Nhạc gia quân. Dân chúng nô nức dùng xe cộ chở lương đến úy lạo, có người còn bưng bát hương tới đón tiếp. Ai nấy mừng vui rơi nước mắt.
Tần Cối là thủ lĩnh phe chủ hoà trong triều đình Nam Tống, lần này nghe Nhạc Phi liên tiếp thắng trận, sắp thu hồi được cố đô, hắn liền lo sợ địa vị của mình trong triều sẽ không còn nữa. Tần Cối liền xúi giục Cao Tông lệnh cho Nhạc Phi rút quân từ tiền tuyến trở về. Đột nhiên nhận được lệnh rút quân, Nhạc Phi không hiểu được đầu đuôi ra sao. Ông cử người đem sớ tấu dâng lên hoàng đế, cho rằng quân Kim đã suy sụp tinh thần, còn sĩ khí quân Tống đang lên cao, thắng lợi đang ở trước mắt. Ông thỉnh cầu Cao Tông rút bỏ lệnh bãi binh, cho phép quân Tống tiếp tục bắc tiến.
Tần Cối nhận được sớ tấu của Nhạc Phi, liền dùng thủ đoạn: trước hết lệnh cho các tướng Trương Tuấn, Lưu Quang Thế rút quân khỏi tiền tuyến Hà Bắc, rồi nói với Cao Tông là hiện nay quân đội của Nhạc Phi ở Trung Nguyên đã trở thành một toán cô quân, không thể tiếp tục ở lại được, xin cao Tông hạ lệnh khẩn cấp, dùng kim bài hạ lệnh gọi Nhạc Phi về. Nhạc Phi đang nóng lòng chờ lệnh tiến quân, ngờ đâu lại liên tiếp nhận được kim bài khẩn cấp hạ lệnh lui quân. Đang do dự khi nhận được kim bài thứ nhất thì ngựa trạm lại tới, từ sáng tới tối, liên tiếp có 12 đạo kim bài. Nhạc Phi biết rằng không còn hy vọng gì lay chuyển được ý định của Cao Tông, chỉ còn biết uất giận rơi nước mắt.
Ngột Truật được tin quân Tống rút quân, liền chấn chỉnh lại đội ngũ, lại tràn xuống miền Nam. Những châu huyện ở Hà Nam do Nhạc Phi thu phục được, chỉ trong một thời gian ngắn lại mất sạch. Tần Cối và Tống Cao Tông một lòng cầu hòa với Kim. Họ sợ Nhạc Phi và Hàn Thế Trung ngăn trở, liền điều 2 người về kinh, phong Hàn Thế Trung làm khu mật sứ, Nhạc Phi làm khu mật phó sứ, về danh nghĩa là thăng chức nhưng trên thực tế là tước bỏ binh quyền của họ.
Tần Cối đoạt binh quyền của Nhạc Phi xong, liền cử người cầu hòa với triều Kim. Năm 1141, triều Kim cử phái đoàn đến Lâm An đưa ra những điều kiện giảng hòa. Kết quả là Tống - Kim ký kết hòa ước: phía đông lấy Hoài Hà, phía tây lấy Đại Tản Quan làm ranh giới, Tống xưng thần với Kim, mỗi năm tiến cống 25 vạn lạng bạc và 25 vạn tấm lụa. Lịch sử gọi hòa ước nhục nhã này là hoà ước Thiệu Hưng.
Bạn đang đọc truyện trên: truyentop.pro