9Palestine - Mê cung của niềm tin




Tôi còn nhớ những ngày rất bé, chừng 10 tuổi, đọc báo Thiếu Niên có một bài viết tựa đề là: "Palestine Nuna - Đất Palestine là của người Palestine". Bài viết có hình ảnh một cô bé trạc tuổi tôi, mắt mở to thảng thốt. Đôi mắt ấy in sâu dai dẳng theo suốt những năm tháng tôi lớn khôn. Bài viết về một vấn đề chính trị to tát nhưng đăng vắn tắt trên tờ báo trẻ con đã làm nên một điều thần kỳ: tôi chẳng biết Palestine là ở đâu, dân Palestine là ai, cái gì đang diễn ra trên vùng đất ấy, nhưng tôi tin chắc một điều: lẽ phải luôn thuộc về người Palestine.

Niềm tin đơn giản và ngây thơ ấy, bất chấp bao nhiêu cuộc chiến thông tin, đã tìm được cách gắn chặt vào tiềm thức của tôi, cho đến ngày tôi gặp Ahmad trong một trại tị nạn của người Palestine ở Li Băng. Chưa kịp nghe tôi mở miệng, anh đặt tay lên vai tôi và nhẹ nhàng nói: "Mai à! Trên đời này làm gì có cái gọi là đất nước Palestine?"

Câu chuyện của Ahmad làm đảo lộn niềm tin thiêng liêng của tuổi thơ tôi.

Áp phích tình đoàn kết Việt Nam-Palestine năm 1972. (Tác giả: Ismail Shammout)

Đất lành chim đậu, cú cáo trị vì

Từ xa xưa khoảng hơn 3000 năm trước, vùng đất rộng lớn phía tây bán đảo Ả Rập là nơi sinh sống của một số tộc người Ả Rập. Rất nhiều bộ lạc khác cũng di cư đến đây như một quy luật tất yếu của dòng chảy cuộc sống. Hai trong số những bộ lạc di cư này là tộc người Israel đến từ Ur (thuộc Iraq bây giờ) do họ tin rằng Thượng Đế đã hứa ban tặng cho những đứa con cưng của mình một miền đất mới trù phú, điều này được viết trong Kinh Cựu Ước của người Do Thái. Tộc người thứ hai từ vùng đảo Crete (Hy Lạp bây giờ) cũng vượt biển tới đây tìm nơi sinh sống mới. Người từ đảo Crete mạnh mẽ, thiện chiến, trở thành kẻ thù của nhiều tộc người khác do chiếm được nhiều đất đai, thậm chí gây hấn cả với Pharaoh Ai Cập. Họ được người Israel gọi là Peleshet (tiếng Anh - Philistine), có nghĩa là những người di cư và chiếm đóng. Cái tên Palestine lần đầu tiên được nhắc đến bởi một nhà sử học Hy Lạp, ám chỉ vùng đất nơi những người của nhiều bộ tộc khác nhau cùng đến di cư và tranh chấp.

Hơn 1000 năm sau đó, khu vực này nằm dưới sự trị vì của đế chế La Mã rộng lớn. Tộc người Israel khi đó đã lớn mạnh và thành lập nhà nước vững vàng nhưng cũng không thoát khỏi ách đô hộ của La Mã. Họ liên tục nổi dậy. Hoàng đế La Mã sau khi đập tan một cuộc cách mạng của dân Do Thái Israel thì quyết định đổi tên quốc gia này thành Palestine, sáp nhập vào với cả vùng đất rộng lớn của các tộc người Ả Rập gốc quanh đó nhằm xóa bỏ triệt để dấu ấn của nhà nước Do Thái. Cái tên Palestine và người Palestine tiếp tục được Syria, đế chế Thổ Nhĩ Kỳ và đế chế Anh dùng để chỉ vùng thuộc địa bao la của mình. Vùng đất tên là Palestine đó, một vùng đất không có đường biên rõ ràng với một vài thành phố lớn và hàng trăm bộ lạc sống bên cạnh nhau: người Ả Rập, người Do Thái, người Thiên Chúa, người Hồi, người từ đủ các cành nhánh tôn giáo nhỏ hơn. Tất cả bọn họ đều tự nhận mình là người vùng Palestine. Đó không phải là một quốc gia độc lập mà đơn giản chỉ là một cái sân chim.

Tuy nhiên, đất lành không những chỉ có chim đậu mà còn có cả cú cáo muốn trị vì. Hai đế chế lớn La Mã và Thổ Nhĩ Kỳ Ottoman coi Palestine là thuộc địa của mình nhưng giữ nguyên vùng đất này với cấu trúc thành phố tự trị và bộ lạc. Ottoman hùng mạnh chừng được 500 năm thì hai ông lớn Anh và Pháp nổi lên. Để đánh sụp Ottoman, Anh, Pháp đi đêm với tất cả các bộ lạc và sắc tộc ở Palestine cùng các vùng xung quanh, xúi giục họ nổi dậy chống lại kẻ đô hộ. Với sắc tộc nào Anh, Pháp cũng mạnh mồm hứa hẹn sẽ giúp họ chuyển đổi từ cơ chế bộ lạc và thành phố tự trị lên thành quốc gia, và cho họ quyền lập nhà nước tự chủ một khi đế chế Ottoman sụp đổ.

Khi công việc đã xong xuôi, hai ông lớn chia nhau phần đất đai cai trị thì câu chuyện vỡ óc mới thực sự bắt đầu [44]. Họ ngồi vào bàn, và với cây bút chì trong tay bắt đầu kẻ vẽ các đường biên giới. Một vùng đất rộng lớn nhoằng cái đã trở thành năm quốc gia mới toanh. Mỗi đường biên là một mưu mô toan tính vô cùng cẩn thận, đại để là làm thế nào để các quốc gia mới sẽ không-bao-giờ yên ổn, sẽ lúc nào cũng chênh vênh. Thế thì mới dễ cai trị. "Chia để trị" mà. Và thế là từ cơ thể Syria, Li Băng được Pháp xé ra hình thành một quốc gia mới để sao cho các sắc tôn giáo Thiên Chúa, Hồi giáo Sunni, Shia và Hồi giáo dòng Druze sẽ luôn phải dè chừng nhau. Kuwait được Anh đẻ non bằng cách vặt một mẩu từ Iraq nhằm mục đích chắn đường Iraq không cho ra biển (sau này cuộc chiến Iraq mang quân đánh Kuwait chính là để đòi lại đất ngày xưa). Đồn rằng, khi đang vẽ đường biên giới Jordan thì tự dưng ông Churchill hắt hơi một cái, thế là lãnh thổ của Jordan nguệch vào Saudi một phát. Churchill quẹt nước mũi, cúi xuống và tiếp tục đưa bút lượn trở lại vị trí cũ, thế cho nên đường ranh giới của Jordan trông mới kỳ quái như vậy. Cứ thế, các quốc gia mới của bán đảo Ả Rập được hình thành dưới quyền đô hộ của Anh và Pháp. Chẳng có nước nào được độc lập trọn vẹn, thậm chí tộc người Kurd với dân số tới 40 triệu, dù được hứa sẽ cho lập nước nhưng cuối cùng bị phản bội trắng trợn khi vùng đất nơi họ sinh sống bị chia thành năm phần, nằm ngửa mặt dang chân dang tay, mỗi phần thuộc về lãnh thổ của năm quốc gia khác nhau. Người Kurd cho đến bây giờ vẫn là dân tộc không quê hương lớn nhất và thảm thương nhất trong lịch sử hiện đại.

Vùng đất của người Kurd bị chia làm năm phần cho năm nước khác nhau.

Quay trở lại thời điểm người Anh đi phân phát lời hứa. Không những hứa suông, họ còn hứa ba tầng chồng chéo lên nhau cho ba nhóm đồng minh khác nhau. Vùng Palestine rộng lớn được hứa khi Ottoman sụp đổ sẽ dành cho các bộ lạc Ả Rập để thành lập một hợp chủng quốc thống nhất, rồi cũng chính miếng bánh đó lại được hứa cho gia tộc Hashimi danh giá từng thống trị vùng đất thánh Mecca của Hồi giáo, cuối cùng, miếng mồi ngon béo được dùng để nhử một dân tộc đã hàng ngàn năm mất nước và tan tác khắp chân trời góc bể nhưng vẫn đau đáu nhìn về vùng đất tổ ở Palestine: người Do Thái.

Trở về miền đất hứa

Theo Kinh Cựu Ước của người Do Thái, cách đây 3000 năm tại vùng Palestine, vua David lập nên Vương quốc Israel nơi thành Jerusalem là trái tim của tôn giáo. Với dân tộc Do Thái, vùng đất này là những gì Thượng Đế đã hứa với tổ phụ của họ Abraham, như Kinh Cựu Ước đã ghi: "Ta ban cho con cháu của ngươi mảnh đất này, trải rộng từ sông Ai Cập đến sông Euphrates...". Vì thế đây còn gọi là miền đất hứa (The Promised Land). Đổi lại, Abraham và các con cháu của ông phải thực hiện nghi lễ rạch bao quy đầu - một cuộc phẫu thuật nhỏ mở phần da ở đầu dương vật - để được công nhận là người thừa kế miền đất hứa. Việc tại sao Thượng Đế lại đòi hỏi một cái điều kiện có vẻ "trời ơi" như vậy thì còn nhiều tranh cãi. Nhưng đại đa số cho rằng rạch bao quy đầu sẽ vệ sinh hơn do cặn bã không còn nơi tích tụ, và nghi lễ này cũng mang tính tượng trưng cho việc mở trái tim mình để hoàn toàn cởi lòng không vẩn đục với Chúa (circumcision of the heart).

Tại Jerusalem, con trai của vua David là vua Solomon xây một Đền Thờ Thiêng hùng vĩ nơi cất giữ bản "10 điều răn của Thượng Đế" (The 10 commandments) nổi tiếng. Cũng ở vị trí Đền Thờ Thiêng này là Tảng Đá Nền (Foundation Stone) nơi Người bắt đầu công việc tạo dựng nên Trái Đất, nơi Người vun đất nặn nên Adam ông tổ của loài người. Và đây cũng là nơi Người thử lòng sùng đạo của Abraham bằng cách yêu cầu ông hiến dâng mạng sống của chính con trai mình. Abraham thi hành lệnh giết con. Thượng Đế chứng nhận lòng trung thành tuyệt đối của ông và thay thế chỗ của con trai ông bằng một con cừu.

Người Do Thái dựng nước chưa được bao lâu thì liên tục bị xâm chiếm bởi hết đế quốc này đến đế quốc khác. Người dân bắt đầu cuộc lưu lạc kéo dài hàng nghìn năm. Đền Thờ Thiêng bị người Babylon tàn phá, xây dựng lại thì đến lượt đế chế La Mã đốt trụi. Tất cả những gì còn lại của chốn linh thiêng nhất trong tôn giáo Do Thái là một mẩu bé xíu của bức tường khổng lồ vốn chỉ xây bao quanh để bảo vệ cho Đền Thờ Thiêng và một phần của Tảng Đá Nền. Người Do Thái ở Jerusalem cứ mỗi chiều tối thứ Bảy lại tập trung dưới chân bức tường vừa đọc Kinh Cựu Ước, vừa dập đầu than khóc. Cái cách than khóc khi cầu kinh của người Do Thái cũng rất đặc biệt, họ gập người, liên tục đổ gục đầu về phía trước như một kẻ lên đồng, trên tay cầm cuốn thánh kinh nhỏ xíu vừa khít trong lòng bàn tay. Phụ nữ thường trùm lên đầu một chiếc khăn, đàn ông đội một miếng vải tròn nhỏ thể hiện sự tôn kính. Khi họ bước đi, những chùm dây dài thò ra ngoài cuốn xoắn theo từng bước chân. Tất cả để nhắc nhở người Do Thái rằng trên đầu và xung quanh luôn có Thượng Đế ngóng nhìn, và mỗi lời ăn tiếng nói, mỗi hành động, mỗi lời thở than của họ đều có thể lay động tới Đấng Tối Cao.

Tôi tìm đến Wailing Wall vào đúng một chạng vạng cuối tuần như thế. Từ trên một góc phố cổ nhìn xuống, bức tường được chiếu sáng rực rỡ. Phía dưới chân tường, mặt đất đen thẫm lại bởi màu áo của hàng ngàn người dân Jerusalem. Tôi theo chân những người phụ nữ tiến lại gần chân tường, chọn một góc thật sâu thật khuất và lặng lẽ để mình chìm đuối trong tiếng khóc, tiếng cầu kinh, tiếng than thân thống thiết. Thật khó có thể tưởng tượng người Do Thái đã than khóc vật vã như thế này suốt hơn 2000 năm qua. Đó là một nỗi đau được truyền từ đời này sang đời khác, không có cơ hội hàn gắn, sẻ chia, và lãng quên. Có những thời kỳ người Do Thái thậm chí còn không được bén mảng đến gần Jerusalem nếu không muốn bị khép vào tội chết. Mỗi năm một lần, vài vị vua của đế chế cầm quyền La Mã hào phóng ban tặng cho họ một ngày được đặt chân vào thành Jerusalem, đến gần bức tường, và cũng chỉ đủ thời gian để mà than khóc cho một đất nước tan tác, một tôn giáo bị vùi dập, cho số phận chốn thiêng liêng nhất của linh hồn dân tộc đã bị đốt thành tro tàn chẳng còn mấy dấu vết.

Người Do Thái đã than khóc vật vã như thế này suốt hơn 2000 năm qua.

Tuy nhiên, gì thì gì, lịch sử Do Thái như kể trên vẫn chỉ là từ cái nhìn của tôn giáo. Miền đất hứa sau bao thăng trầm của lịch sử, dân Do Thái chỉ còn chiếm có 3%, phần còn lại đa số là Hồi giáo Ả Rập. Năm 1897, một phóng viên Do Thái người Áo-Hung tên là Theodor Herzl dấy lên phong trào kêu gọi phục hưng nhà nước Do Thái tên là Zionism (bắt nguồn từ chữ Zion, chỉ Jerusalem). Kể từ đó, Zionism khiến hàng ngàn người Do Thái quay trở về Palestine. Thượng Đế hứa cho họ miền đất này từ 3000 năm trước. Người Anh gì thì gì cũng đã lại trót hứa cho họ một quốc gia độc lập. Cộng thêm thảm họa diệt chủng Đức Quốc xã giết năm triệu rưỡi dân Do Thái sau năm 1945 khiến châu Âu cảm thấy cần có trách nhiệm nặng nề đền bù thiệt hại cho một dân tộc vừa bị tàn sát dã man. Khi đó, làn sóng trở về lên đến đỉnh điểm, người Do Thái từ châu Âu ồ ạt tìm cách mua lại đất đai và bất động sản ở Palestine khiến người Ả Rập ở đây vô cùng tức giận. Liên Hợp Quốc bèn đề xuất việc chia vùng Palestine làm hai phần, một cho dân Do Thái Palestine lập nhà nước Israel, một cho dân Hồi giáo Palestine thành lập nhà nước Ả Rập thống nhất, riêng Jerusalem thì trở thành đặc khu quốc tế do Liên Hợp Quốc kiểm soát.

Dân Do Thái Palestine đồng ý và lập tức thành lập nhà nước Israel. Tuy nhiên, không giống như những đất nước được tạo nên bằng ngòi bút như Kuwait, Li Băng, Jordan... một trong hai quốc gia được phương Tây vẽ ra lần này lại dành riêng cho một tôn giáo khác Hồi giáo và một sắc dân khác người Ả Rập. Dân Hồi ở Palestine kịch liệt phản đối. Họ cho rằng cả vùng Palestine phải được công nhận là một nhà nước độc lập duy nhất, và vì đa số dân chúng là người Hồi nên theo nhà nước mới thành lập phải là nhà nước Hồi giáo.

Chỉ một ngày sau khi nhà nước Israel non trẻ tuyên bố thành lập, liên minh năm nước khổng lồ quanh đó gồm Ai Cập, Jordan, Syria, Iraq và Li Băng đồng loạt nổ súng tấn công với danh nghĩa đồng minh bảo vệ người Hồi Palestine thấp cổ bé họng. Đất đai giành giật, chiếm đi cướp lại xóa nhòa đường biên vốn do Liên Hợp Quốc đề xuất. Israel mới đầu chỉ là tự vệ, sau càng chiến càng hăng, một mình đánh tan tác liên quân Hồi giáo. Năm 1967, trong một cuộc xung đột dài sáu ngày, quân Israel không những đánh bật Syria, Ai Cập và Jordan mà còn chiếm thêm vài khoảng lớn lãnh thổ của cả ba nước này, trên đà thắng thế chiếm luôn cả Jerusalem làm thủ đô, rồi kiểm soát cả một phần lớn vùng đất của người Hồi Palestine, đẩy hàng chục ngàn dân Hồi tị nạn không còn chỗ quay về, vì thế nên đây còn gọi là vùng bị chiếm đóng. Liên quân Hồi giáo Ả Rập đành cay đắng chấp nhận thua cuộc, thậm chí phải xuống nước ký hòa ước với Israel để đổi lại các vùng đất bị mất. Cuộc chiến sáu ngày là một vết nhơ đầy nhục nhã trong thế giới Ả Rập, một vết thương không bao giờ lành, một mối thâm thù khiến người Hồi ở bất kỳ đâu cũng có thể biến thành Che Guevara xả thân xối máu để giành lại công bằng cho người Hồi Palestine. Đây cũng chính là lý do tại sao tổ chức (được coi là khủng bố) Hezbollah dòng Hồi Shia ở Li Băng được tung hô vì họ đã đẩy lùi quân Israel năm 2006, một phần nào rửa vết nhơ cho thế giới Hồi giáo [45].

Việt Nam đương nhiên đứng về phía Palestine, thậm chí cuối những năm 80 còn gửi cả cố vấn quân sự đến Trung Đông để giúp quân Palestine. Tuy nhiên, Palestine chưa bao giờ là một quốc gia độc lập, và cho đến tận bây giờ vẫn chưa được hoàn toàn công nhận là nhà nước độc lập. Việc từ chối lời đề nghị chia đất của Liên Hợp Quốc và sau đó tấn công Israel bây giờ nhìn lại hẳn là một lỗi lầm chính trị phải trả giá quá đắt. Palestine giờ đã trở thành biểu tượng của mối hằn thù tôn giáo, là kho chất nổ tiềm tàng, chỉ cần độc lập là lập tức sẽ bị các nước Ả Rập xung quanh biến thành một cái vòi rồng, cuốn lũ xả bão san phẳng Israel đến ngọn cỏ cuối cùng. Tôi thậm chí nghi ngờ những kẻ võ mồm này thực lòng muốn Palestine được độc lập. Bởi một Palestine tan tác trong bàn tay của kẻ chiếm đóng cũng đồng thời là thứ vũ khí lợi hại để các nhà độc tài Hồi giáo lợi dụng nhằm triệt hạ Israel, khuấy động lòng người hướng đến một kẻ thù chung, và đương nhiên là quên đi những vấn đề nội bộ còn đáng xấu hổ hơn gấp nhiều lần. Như người ta lợi dụng một đứa bé tàn tật bị ngược đãi để điều khiển dư luận lòng người. Đứa bé ấy khỏe mạnh lên thì tất nhiên là không ai có lợi. Rốt cuộc, cũng là một cách chia để trị, nhưng lại lấy danh nghĩa là tình thương.

Con đường Sầu Thương

Sau khi Do Thái giáo ra đời được khoảng 1000 năm, Jerusalem lúc đó đang bị đô hộ bởi đế chế La Mã và người Do Thái bị phân biệt đối xử, rất nhiều người phải bỏ xứ mà đi. Vào một buổi sáng mùa xuân, một người Do Thái trẻ tuổi tên là Jesus (Giê-xu) tiến vào thành Jerusalem trên lưng một con lừa. Quần chúng tiếp đón ông nồng nhiệt. Vì Kinh Cựu Ước của người Do Thái nói rằng một messiah, người được chọn lựa, Đức Vua tương lai của Israel sẽ xuất hiện một cách khiêm nhường trên lưng lừa. Thế nên ai cũng hào hứng và hy vọng.

Mỗi ngày mới, hàng trăm người lại tụ hợp nghe Jesus nói chuyện, ngay chính tại Đền Thờ Thiêng Do Thái khi đó vẫn còn chưa bị chính quyền thống trị La Mã thiêu hủy. Nhưng vì những điều Jesus đề cập đến trực tiếp đối đầu với quyền lực của tầng lớp đô hộ, chỉ sau chừng một tuần trụ lại Jerusalem, Jesus bị chính quyền La Mã đóng đinh thập giá. Sau khi Jesus chết, đại bộ phận người Do Thái không còn tin ông là messiah nữa. Đơn giản bởi vì Jesus không hoàn thành sứ mạng của một messiah, tức là đưa toàn bộ dân Do Thái biệt xứ trở về Jerusalem, đánh đuổi chính quyền đô hộ La Mã, và đem đến hòa bình cho toàn nhân loại.

Suốt những thế kỷ thăng trầm sau đó, những người Do Thái tin vào Jesus, tin ông chính là con trai của Thượng Đế và sự bất diệt của Người dần dần tách ra khỏi tôn giáo gốc và hình thành Thiên Chúa giáo, nối thêm kinh Tân Ước vào kinh Cựu Ước của người Do Thái. Suốt trong 2000 năm sau đó, Jerusalem trở thành điểm hành hương quan trọng nhất của các tín đồ Thiên Chúa.

Con đường Sầu Thương (Via Dolorosa) đánh dấu 600 mét của máu và đau đớn bắt đầu từ cổng Sư Tử. Mười bốn điểm dừng kể lại tấn bi kịch được tương truyền là cao quý nhất trong lịch sử tôn giáo độc thần. Vào thời điểm bộ phim The Passion of Christ (Khổ hình của Chúa) của Mel Gibson mới công chiếu, tôi còn nhớ mình kéo bạn bè tò mò đi xem và... nhắm tịt mắt liên tục suốt cả bộ phim. Thành Jerusalem thế kỷ 21 lèn kín khít khịt hàng ngàn sạp hàng đủ màu sắc tươi vui, nhưng tôi thấy chóng hết cả mặt vì suốt mười bốn điểm dừng trên Via Dolorosa đâu đâu cũng gợi lại những thước phim tóe máu. Đi qua vòm cổng đá uy nghi nhưng trong đầu tôi là hình ảnh Jesus bị kết tội và bị xích sắt quật nát thân thể. Một cô bé giơ tay chỉnh lại chiếc khăn trùm làm tôi liên tưởng đến lúc Người bị mão gai ghim vào đầu tóe máu. Bọn trẻ con cười đùa hò hét váng trời trên con đường Người từng vác thập giá lết qua và ngã gục ba lần vì đòn roi tra tấn. Một anh chàng chủ hiệu đồ lưu niệm với theo câu chào hàng ngọt như mía lùi, đúng nơi ấy là điểm dừng nơi Jesus gặp mẹ mình quỵ ngã trước mặt đứa con rứt ruột đẻ ra đang chuẩn bị bước vào cõi chết bằng những chiếc đinh đóng phập qua xương bàn tay găm vào thập giá. Máu! Máu! Và máu! Cả một bộ phim bê bết và đỏ lòm tàn khốc.

Cuối con đường Sầu Thương là thánh đường Holy Sepulchre, cũng có nghĩa là thánh đường Lăng Mộ. Nơi đây 2000 năm trước là ngọn đồi nơi thánh giá được dựng lên, Jesus bị đóng đinh, hạ xuống chôn cất, và ba ngày sau sống lại (Phục sinh). 2000 năm sau, Holy Sepulchre đông nghịt tín đồ từ khắp nơi trên thế giới. Họ quỳ hôn tấm đá nơi thi thể Jesus được hạ xuống từ thập giá. Họ xếp hàng vài tiếng đồng hồ, nhích từng xen ti mét nhỏ để được đến gần hầm mộ Chúa. Ban thờ được trang hoàng lộng lẫy nhất là nơi thập giá cắm xuống, tương truyền cũng là nơi chiếc đầu của Adam - ông tổ loài người được chôn cất.

Ngày Chúa ra đời

Hôm sau, tôi bắt xe vượt qua biên giới Israel để vào vùng đất còn lại của Palestine vẫn chưa được công nhận chủ quyền quốc gia và gần như hoàn toàn nằm dưới sự kiểm soát của Israel. Theo dòng người đổ về Bethlehem, tôi bị cuốn vào hàng trăm tín đồ vừa sùng kính vừa nóng ruột cố nhích từng xen ti mét suốt hai tiếng liền để được bước chân vào hang đá nơi Chúa Jesus chào đời.

Thánh đường Nativity là thánh đường Thiên Chúa lâu đời nhất trên thế giới vẫn còn tồn tại. Cái cổng vào bằng đá bé tí xíu thấp lè tè nằm khuất nẻo khiến một lữ khách vô tâm có thể dễ dàng bỏ qua. Cổng này có tên là Khiêm Nhường (Humility), chỉ được xây cao chừng 1,2 mét vốn để ngăn không cho xe kéo và trâu bò đi qua. Tất nhiên là cho đến ngày hôm nay thì chẳng ai còn phải lo trâu bò phạm thượng. Trong một cuộc đọ súng giữa quân Israel và các chiến binh Palestine, sự linh thiêng của Nativity đã khiến quân Israel chỉ dám đứng trấn ở ngoài suốt ba mươi tám ngày vì không dám nổ súng trong thánh đường.

Cúi đầu bước chân qua cửa đá Khiêm Nhường là cả một không gian mịt mù hương khói, vừa âm u khí thiêng, vừa náo nức con chiên. Tôi xếp hàng nhích dần từng bước đến cửa hang đá, đi sâu xuống chừng chục bậc thang thì lọt thỏm vào một hầm núi nhỏ chỉ bằng một căn phòng be bé. Bên dưới một ban thờ trang hoàng lộng lẫy là nền đá nơi Jesus lọt lòng được đánh dấu bằng một ngôi sao bạc. Tôi cũng quỳ xuống, cũng thò đầu vào bên dưới cái bệ thờ chỉ rộng chừng một mét, cũng chạm tay vào ngôi sao bạc. Chạm một cái rồi phải rụt lại ngay vì bên cạnh tôi, bà du khách ngoan đạo người Thái đã gục mặt xuống ngôi sao bạc mà hôn, mắt giàn giụa nước.

Chỉ không đầy năm phút sau, cả tôi và bà con chiên người Thái suýt bị tống cổ ra khỏi hang đá. Nguyên do là tôi và bà ấy khi ngồi xuống ở bậc thang để hoàn hồn thì ông giáo sĩ đứng canh ở đó yêu cầu cả hai không được... vắt chân chữ ngũ. Sau này tôi mới biết chỉ một vài kẻ khó tính lý luận rằng vắt chân là biểu hiện của cái sự thư giãn, không hợp với không khí nghiêm trang của thánh đường. Bà người Thái hóa ra rất bướng, bà bật lại ông giáo sĩ bằng tiếng Anh rất chuẩn: "Phụ nữ vắt chân là biểu hiện của kín đáo và khiêm nhường". Ông thầy tu cãi không lại nên hằn học đứng nhìn hai ả đàn bà vừa ngồi vắt chéo chân, tim vừa rung thùm thụp.

Chuyến bay đêm lên Thiên Đường

Do Thái giáo tồn tại được khoảng 1600 năm, Thiên Chúa giáo tồn tại được khoảng 600 năm, thì tôn giáo độc thần thứ ba ra đời từ trong lòng sa mạc sâu thẳm của bán đảo Ả Rập, cách Jerusalem khoảng bảy ngày đường bằng lạc đà. Chàng Muhammad trẻ trung nhận lời cầu hôn của một góa phụ giàu có hơn chàng đến mười lăm tuổi. Họ sống với nhau khoảng hai mươi năm hạnh phúc cho tới khi người vợ qua đời và Muhammad mới chỉ bắt đầu những bước đầu tiên truyền bá về một tôn giáo có tên là Người tuân lệnh (Islam).

Islam Hồi giáo ghi nhận hầu như tất cả những nhân vật trong kinh Cựu Ước và Tân Ước, coi họ như những thiên sứ mà Thượng Đế tối cao đã gửi xuống mang thông điệp cho loài người. Jesus cũng được coi là một vị thiên sứ quan trọng, nhưng nhất định chỉ là thiên sứ người trần mắt thịt chứ không phải là con của Thượng Đế. Rất nhiều bạn bè Hồi giáo của tôi cười phì vào câu chuyện Maria là gái đồng trinh mà cũng đẻ được con. Đối với họ, Jesus của Thiên Chúa giáo hay Moses của Do Thái giáo đều là những đấng tôn nghiêm, nhưng không phải là đấng để thờ phụng. Khi Muhammad xuất hiện, ông tự xưng và được coi là thiên sứ cuối cùng của Thượng Đế, giới thiệu cho nhân loại Quran - cuốn kinh thánh bằng tiếng Ả Rập được ông nhấn mạnh là thông điệp gốc từ chính Thượng Đế, không hề bị thay đổi hay biến hóa trong quá trình được con người truyền bá như kinh Cựu Ước và Tân Ước.

Trong vòng hơn một năm đầu tiên của Hồi giáo, các tín đồ được Muhammad hướng dẫn quay về Jerusalem mỗi lần cầu nguyện. Nhiều học giả cho rằng Muhammad có thể muốn thúc đẩy quá trình cải đạo của cộng đồng Do Thái tại Mecca nên lấy Jerusalem - hướng cầu nguyện của người Do Thái luôn thể làm hướng cầu nguyện cho Hồi giáo. Tuy nhiên, chỉ hơn một năm sau đó, Muhammad tuyên bố Thượng Đế gửi thông điệp cho tín đồ Hồi giáo chuyển hướng cầu nguyện sang Mecca, nơi Muhammad được giác ngộ.

Thánh đường Đá và thánh đường Viễn Xứ của người Hồi trên nền Đền Thờ Thiêng của người Do Thái và Tảng Đá Nền của người Thiên Chúa. Khoảng cách từ mái vòm màu bạc thâm trầm đến mái vòm dát vàng rực rỡ đánh dấu nơi hội tụ khí thiêng của ba tôn giáo độc thần cùng cha mẹ, nơi 4 tỉ tín đồ khắp thế giới hướng về, nơi ẩn náu nguyên nhân sâu xa của bao hận thù tôn giáo từ suốt 2000 năm qua.

Theo Kinh Quran, một ngày kia, Muhammad được Thượng Đế đưa lên thăm thiên đàng. Chuyến bay từ Mecca lên chín tầng trời có điểm dừng tại một thánh đường ở "nơi xa nhất", tiếng Ả Rập dịch là Al-Aqsa (Viễn Xứ). Chỉ có vậy, Kinh Quran tuyệt nhiên không nói gì về tên của thành phố nơi thánh đường quan trọng này tọa lạc. Các học giả ngành thần học thường tranh luận khốc liệt để xem liệu thánh đường Viễn Xứ có phải là ở Jerusalem, và thành phố này có phải là nơi Muhammad dừng chân trong chuyến viếng thăm thiên đường ngắn ngủi? Tên thành phố Jerusalem thậm chí còn không được nhắc đến, dù chỉ một lần trong Kinh Quran.

Tuy nhiên, sự thể được quyết định khi một cựu tín đồ Do Thái đã cải đạo sang thành người Hồi quả quyết rằng Muhammad đã cầu nguyện ở thánh đường Viễn Xứ và cất cánh lên thiên đàng từ chính Tảng Đá Nền ngay cạnh thánh đường Viễn Xứ trong khu Đền Thờ Thiêng của người Do Thái. Ngay lập tức, chính quyền Hồi giáo thống trị Jerusalem lúc bấy giờ lệnh cho một thánh đường Hồi giáo lộng lẫy được xây vòng lấy Tảng Đá Nền, và được đặt tên là Dom of the Rock (Thánh Đường Đá). Người Hồi giáo coi Thánh Đường Đá là một trong những chốn linh thiêng nhất của tôn giáo. Oái ăm thay, mảnh đất nơi Thánh Đường Đá được xây lên cũng là nơi Đền Thờ Thiêng từng đứng oai nghiêm, là nơi tột cùng linh thiêng của người Do Thái, là nơi người Thiên Chúa coi như chốn giao nhau giữa trời và đất, là nơi Thượng Đế vun đất nặn nên con người đầu tiên, là nơi cả tín đồ Do Thái lẫn Thiên Chúa tin rằng ông tổ của họ Abraham đã đặt con trai mình lên trên Tảng Đá Nền, và sẵn sàng cầm dao cắt cổ đứa con ruột thịt của mình, vì một khi Thượng Đế đã yêu cầu thì không cần phải biết lý do tại sao. Tảng Đá Nền vì thế có thể coi như một lò hạt nhân tôn giáo, nơi khí thiêng và tôn nghiêm không thể tích tụ đậm đặc hơn.

Jerusalem

Tôi không thể bước chân vào Tảng Đá Nền, đơn giản vì bao trùm lên vị trí tột đỉnh linh thiêng của ba tôn giáo này giờ là Thánh Đường Đá của người Hồi và thường chỉ người Hồi mới có quyền bước chân vào. Nhưng không cần phải chạm tay vào Tảng Đá Nền thì Jerusalem cũng đã khiến nhiều người ngạt thở. Từ hầu như bất kỳ chiếc cửa sổ nào ở Jerusalem, phóng tầm mắt ra xa bạn có thể nhìn thấy những tháp chuông nhà thờ Thiên Chúa với hình thánh giá, xen lẫn những vòng cung hình trăng lưỡi liềm trên đỉnh tháp gọi cầu kinh của các thánh đường Hồi giáo, và dưới thấp một chút là lúp xúp các mái vòm hình trứng của thánh đường Do Thái giáo. Những ngày cuối tuần Jerusalem chìm vào ba nhịp đập khác nhau, thứ Sáu là ngày lễ của người Hồi, thứ Bảy là ngày lễ của người Do Thái và Chủ nhật của người Thiên Chúa.

Những con đường 3000 năm tuổi của thành Jerusalem.

Chỉ trong vòng 0,9 ki lô mét vuông, Jerusalem nắm gọn trong tay những địa chỉ hành hương quan trọng bậc nhất của ba tôn giáo độc thần lớn nhất thế giới, ba anh em cùng cha mẹ và cũng là ba kẻ thù lớn nhất của nhau. Bản đồ Jerusalem chia gọn gàng thành ba phần, phần của người Do Thái, phần của người Thiên Chúa và phần của người Hồi. Cả thành phố như một phim trường thời Trung Cổ với những lễ nghi tôn giáo thấm đẫm vào từng hơi thở của mỗi người dân. Mỗi lối rẽ ngoặt trái hay ngoặt phải đều có thể làm bước chân một kẻ ngoại đạo run lên trong từng nhịp cầu kinh thống thiết.

Những ngày đầu ở Jerusalem, tôi lang thang từ sáng đến tối không mục đích. Mỗi người dân ở Jersalem là một di tích lịch sử sống động: những chàng trai Do Thái dòng cổ điển tóc tết hai bím dài hễ nhìn thấy phụ nữ là tránh hẳn sang đường bên kia, các ông già người Hồi chậm rãi bước đi tay lần tràng hạt miệng lẩm nhẩm cầu kinh, hay một thân hình bê bết máu của một kẻ đóng vai Chúa Jesus vai vác thánh giá chân đeo xích sắt bước từng bước khó nhọc trên Con đường Sầu Thương. Họ như bước ra từ một bộ phim, ai cũng như một kẻ vội vã vâng mệnh Chúa Trời, ai cũng chỉ có một mối lo duy nhất rằng mình không phải là con chiên ngoan đạo, ai cũng có con mắt của một kẻ mộng du, bàng quan với tất cả cõi trần, vừa bước chân vội vã trên những con đường lát đá cổ kính, vừa hướng cả thể xác lẫn tâm linh về một cõi xa xăm, nơi ai cũng tin rằng tình yêu của mình với Đấng Tối Cao là tấm vé chắc chắn để có thể gõ cổng thiên đường.

Từ hàng bao thế kỷ nay, Jerusalem là trung tâm của thế giới, là điểm giao nhau của ba lục địa Á Âu Phi. Trong suốt 3000 năm lịch sử gần đây, Jerusalem đã bị thiêu trụi 2 lần, bao vây 23 lần, tấn công 52 lần và bị trao qua tay các chính quyền đô hộ khác nhau 44 lần. Từ sau cuộc chiến sáu ngày, Jerusalem trở thành một phần của Israel. Hình ảnh những người lính súng ống chằng chịt từ đầu đến chân khiến cuộc sống tín ngưỡng đã đậm đặc càng trở nên căng thẳng. Jerusalem như một cái chuồng sắt nơi chúa sơn lâm, vua sư tử và mãnh tướng rồng lửa bị buộc phải sống cùng nhau và chia chác khẩu phần ăn một cách hòa thuận.

Thật khó có thể tưởng tượng hầu như tất cả những câu chuyện tôn giáo nổi tiếng nhất đều diễn ra ở đây, trong cái khoảng chưa đầy một ki lô mét vuông này. Đằng sau những đường phố lát đá lộng lẫy của thành Jerusalem là cuộc sống tín ngưỡng cực điểm, là sự căng thẳng đến tột cùng của xung khắc tôn giáo như một quả bóng đầy hơi có thể bục tung bất cứ lúc nào. Ở Jerusalem, mỗi hòn đá là một câu chuyện kinh thánh, mỗi người dân là một tín đồ sẵn lòng tử vì đạo, mỗi ngọn gió tràn qua cũng có mùi thánh thần, một lời nói bâng quơ cũng có thể trở thành điều tiên tri chờ ngày ứng nghiệm. Sự hội tụ đậm đặc của tôn giáo và ức chế xung đột khiến nơi đây nổi tiếng với hội chứng có tên là Jerusalem Syndrome: người nào yếu bóng vía sống ở đây lâu sẽ có cảm giác mình bước ra từ... kinh thánh.

Người Hồi tin rằng Muhammad đã được một linh vật có cánh (buraq) chở trên lưng bay từ Mecca, vượt qua chặng đường 1240km chỉ trong nháy mắt để đến Jerusalem. Từ trên Tảng Đá Nền của Jerusalem, Muhammad đã bay lên, đến thăm Thiên Đàng ngắn ngủi chỉ có một đêm. Thánh đường Viễn Xứ được xây lên chính vì niềm tin vào câu chuyện này.

Sau hơn một tuần trụ lại Jerusalem, tôi bỏ chạy. Đó là ngày bà dọn phòng bước vào và bắt đầu vừa lau chùi toa lét vừa lảm nhảm rằng bà chính là thánh Andrew (!). Là một kẻ vô thần, tôi thấy mình bỗng trở nên kỳ quái giữa Jerusalem. Đến bọn mèo ở đây cũng tin Chúa. Chúng "ngoao" lên mắt long sòng sọc nhìn tôi như muốn xua đuổi một kẻ lạc đàn.

Israel

Tôi rời Jerusalem và bắt xe đi dọc Israel: đất nước với sức sáng tạo kỳ diệu đã khiến sa mạc phải nở hoa, nhưng cũng là kẻ thù không đội trời chung với gần như toàn bộ Trung Đông. Cái quốc gia Do Thái nằm lọt thỏm giữa thế giới Hồi giáo rộng lớn này chẳng khác gì cái gai đâm thọc vào mắt, thế nên cả sáu mươi năm qua ở đây chưa lúc nào ngớt tiếng súng tổng tấn công hoặc bét ra là cũng phải vài trận bom cảm tử. Cái sự ghét Israel lớn đến nỗi bất kỳ ai trên hộ chiếu có đóng dấu của hải quan Israel cũng có nghĩa là sẽ lập tức bị tống cổ khỏi biên giới của gần hai mươi quốc gia Hồi giáo khác nhau, kể cả Malaysia, Brunei và Bangladesh ở tít bên châu Á. Tôi nhớ lúc bắt đầu bước chân vào Israel, tất cả những gì tôi tâm niệm trong đầu khi xếp hàng chờ qua cửa khẩu là: "Không cho chúng nó đóng dấu! Nhất định là KHÔNG-CHO-CHÚNG-NÓ-ĐÓNG-DẤU!"

Thế cho nên tôi suýt gào lên khi mất bao nhiêu công giải thích đứt hơi mà vẫn nghe thấy gã nhân viên hải quan dang tay dập con dấu đánh CHÁT cái xuống bàn. Chưa để tôi kịp la làng, gã giơ lên cho tôi xem cái dấu xanh trên một mảnh giấy nhỏ kẹp vào đằng sau bìa hộ chiếu. Hú hồn!

Gia đình tôi ở nhờ có lẽ là điển hình của câu chuyện Israel. Tamara là người Nga, sinh ra trong một gia đình theo Do Thái giáo. Một ngày kia, cô được mai mối cho một anh chàng Do Thái cũng sống ở Nga nhưng nhìn như người ngoài hành tinh. Anh ta cạo trọc tóc chỉ để hai lọn dài vàng óng uốn xoăn tít ở hai bên mai rồi chụp lên trên một cái mũ quả dưa. Uriel cầu hôn cô, nói rằng không những yêu cô mà việc cưới một người con gái Do Thái cũng tự nhiên và cần thiết như cá thì phải về với nước vậy. Luật Do Thái ghi rõ rằng tôn giáo đi theo dòng mẹ. Chỉ có những đứa trẻ sinh ra từ một người mẹ Do Thái thì mới đương nhiên được công nhận là người Do Thái. Việc ông bố có ngoan đạo sùng tín đến cỡ như Uriel, sống ở Nga mà vẫn cạo đầu để lọn chụp mũ, nhưng nếu không cưới một cô vợ Do Thái, hoặc ít nhất... mẹ của cô ấy phải là người Do Thái thì con cái sinh ra cũng sẽ là người ngoại đạo.

Tamara trở thành vợ, và được ông chồng giàu đức tin giúp cô hiểu được nguồn gốc của dân tộc mình. Uriel dạy cô nói tiếng Hebrew của người Do Thái, cùng cô tra gia phả của dòng họ để biết rằng tổ tiên của cả hai người chỉ là một trong hàng triệu triệu nhánh nhỏ của người Israel từ suốt ba thiên niên kỷ nay lưu lạc khắp năm châu bốn bể.

Hai năm sau ngày cưới, Tamara cùng chồng khăn gói rời Nga di cư đến Israel. Đối với họ, chữ di cư có thể bị hiểu là một từ khá phỉ báng, vì thực ra họ chỉ trở về nơi cội nguồn của dòng giống Israel, nơi vua David lập nên Vương quốc Israel từ 3000 năm trước, nơi người Israel bị hết chế độ thống trị này đến chế độ đô hộ khác chèn ép, xua đuổi khỏi đất đai của tổ tông, và suốt hàng nghìn năm qua vẫn liên tục tìm đường trở về. Hai vợ chồng Tamara hòa vào hàng triệu người Do Thái chủ yếu từ châu Âu và Nga hối hả đặt chân vào Israel và ngay lập tức trở thành công dân Israel. Luật pháp của Israel đã quy định rõ: bất kỳ ai, chỉ cần chứng minh được mình là người Do Thái, thì sẽ được trao hộ chiếu.

Trong tổng số khoảng 800 giải Nobel từng được trao có tới ít nhất 20% thuộc về những người Do Thái sinh sống chủ yếu ở Mỹ và châu Âu. Cùng với dòng người trở về là một lượng kiến thức khổng lồ, sự đa dạng về văn hóa, sự rộng dài về tầm hiểu biết, sự nhạy bén và linh hoạt của những kẻ đã được thử lửa, đã kinh qua đau thương và mất mát, dám chấp nhận thử thách, dám thay đổi, dám xóa bỏ và làm lại từ đầu, từ khắp năm châu bốn biển đổ về. Với một lịch sử non trẻ chỉ chừng sáu mươi năm, từ năm 2002 đến nay trung bình cứ một năm rưỡi Israel lại có một người được tặng giải Nobel.

Tôi ở nhờ nhà của Tamara và Uriel khá lâu, nhưng cho đến gần khi rời đi mới phát hiện ra cái phòng mình ngủ được trang bị một bộ cánh cửa sổ bằng thép rất kỳ quái. Tường nhà cũng rất dày, chừng 30 xen ti mét. Tiếng địa phương gọi căn phòng này là mamad. Từ năm 1991 khi Israel bị Iraq tấn công bằng tên lửa Scud, mỗi gia đình ở Israel phải trang bị một căn phòng kiên cố như vậy để tránh vũ khí hóa học và sinh học. Đóng cửa vào là gần như vô trùng. Đóng lâu quá đà chắc chết ngạt luôn.

Cả Tamara lẫn Uriel đều đã hoàn thành nghĩa vụ quân sự, được quy định từ hai đến ba năm cho hầu như tất cả mọi người bất kể nam nữ. Đi trên đường phố Israel nhiều lúc có cảm giác như bước trong doanh trại quân đội sau giờ tập trận. Các cô lính bé nhỏ đeo những khẩu súng máy nặng trĩu hồn nhiên bá vai nhau cười nói. Các chàng trai mặc nguyên quân phục ôm hôn bạn gái trên xe điện đông người. Cả nước sẵn sàng. Mỗi người dân là một quân nhân. Ngân sách chi cho chiến tranh của Israel so với thu nhập quốc gia đứng cao nhất thế giới. Hiểm họa chiến tranh lúc nào cũng chực bùng nổ.

Người Israel buộc phải sống chung với bão. Đối với họ, Israel là đất nơi tổ tông họ 3000 năm trước từng hưng danh lập quốc, nhưng Israel đã và sẽ mãi mãi là chiếc gai đâm vào mắt cộng đồng Hồi giáo Ả Rập ở Trung Đông, như một kẻ đã đi xa đến mấy ngàn năm rồi bỗng dưng quay lại ngang nhiên mua đất rồi chiếm đất của người Hồi.

Nơi ông tổ mất

Không những ba tôn giáo Do Thái, Thiên Chúa và Hồi giáo đều thờ Thượng Đế tối cao và duy nhất, họ còn có cùng một ông tổ sống chừng 4000 năm trước tên là Abraham [46]. Nơi Abraham và gia đình được chôn cất là một hang đá ở Hebron. Người Hồi xây trùm lên hang đá này một thánh đường tên là Machpela và trong suốt hơn 600 năm chỉ cho phép tín đồ Hồi giáo vào làm lễ. Người Do Thái muốn đến vái ông tổ của mình (thật ra là của chung) thì chỉ được bước đến bậc thang thứ bảy. Cho đến khi phần này của vùng Palestine bị Israel chiếm đóng thì Machpela mới được mở cửa cho cả người Thiên Chúa, Do Thái và người ngoại đạo.

Thánh đường Machpela là nơi cuối cùng tôi đặt chân đến trước khi rời vùng Palestine. Ở nơi Jesus sinh ra, tôi phải xếp hàng hai tiếng cùng hàng trăm người mới vào được đến thánh đường. Ở nơi ông tổ của cả ba tôn giáo yên nghỉ, tôi là du khách duy nhất. Ấy là tôi tưởng thế cho đến khi đang bước qua mấy lần cửa gác của lính chiếm đóng Israel thì giật bắn mình khi nghe thấy những tiếng ra lệnh gằn ngắn gọn từ phía sau. Chỉ trong một giây lát, hàng chục lính đặc nhiệm Israel với đầy người súng ống lựa đạn đã tỏa ra chiếm lĩnh các hướng và vị trí cố thủ. Họ quỳ gối, tay đặt lên nòng, nheo mắt nhìn tôi, sẵn sàng xả đạn.

Machpela và ngôi mộ của Abraham tổ tiên ba giáo phái. Người đàn ông được quyền ngồi là người Hồi.

Một cậu bé Palestine đang chơi bóng gần đó bật cười ha ha. Cậu chạy lại, kéo tay tôi và chỉ lên tầng trên của thánh đường Machpela. Vừa thoáng thấy những cái chỏm đầu đàn ông có phủ một miếng mũ nhỏ tròn tròn của người Do Thái [47], tôi đã hiểu ngay ra vấn đề. Mỗi khi có du khách người Do Thái dám cả gan liều mạng (mà cũng chắc chắn chỉ vì công chuyện) phải tới Palestine nói chung và Machpela nói riêng, việc bảo vệ họ có lẽ còn cẩn thận hơn bảo vệ các tổng thống. Rất nhiều bạn bè Do Thái của tôi dù trông không khác gì người Ả Rập Palestine, nhưng cả đời họ sẽ không bao giờ dám nghĩ đến chuyện đặt chân qua biên giới. Họ cho rằng ai nhìn cũng sẽ biết họ là người Do Thái, có lẽ bởi nỗi sợ hãi bị trả thù không thể che giấu nổi trong đôi mắt của kẻ chiếm đóng.

Nếu ở Thánh đường Thiên Chúa Nativity tôi suýt bị đuổi cổ vì dám ngồi vắt chân, thì ở Thánh đường Hồi giáo Machpela, tôi cũng suýt bị đuổi cổ chỉ vì dám cả gan... ngồi. Nhà thờ Hồi giáo luôn trải thảm cho tín đồ quỳ hành lễ, ngồi nghỉ ngơi, dựa lưng tán dóc, và thậm chí nằm ngủ trưa tránh nắng. Mỗi lần vào các thánh đường Hồi, tôi không bao giờ để ai nhắc mà luôn trùm khăn lên đầu như một biểu hiện của sự thành tâm. Khi tôi ngồi xuống bên cạnh bức tường để ngắm nhìn hai cái lăng mộ cả nghìn năm tuổi thì bị một ông cai đến nhắc đứng dậy. Tôi bắt chước bà người Thái ở Navivity cũng thu hết can đảm cãi lại: "Thế cái ông đang ngồi dựa hẳn lưng vào lăng mộ, chân co chân duỗi lim dim mắt kia thì sao?" - "Ông ấy là người Hồi!" Tôi ngoan cố không nghe, vẫn tiếp tục ngồi nép vào chân tường. Đây không phải là lần đầu tiên lý do người Hồi hay người Ả Rập được đưa ra để biện minh cho một đặc ân hay một vị trí được coi là cao quý hơn bình thường. Tôi từng tức giận đến nỗi gắt gỏng om lên với một người bạn ở Oman khi anh ta tỏ ý khinh rẻ người Hồi Pakistan vì họ không phải là người Ả Rập, và rồi chính gã người Hồi Pakistan đó lại tỏ ý khinh rẻ một người Ấn Độ vì anh ta không phải là người Hồi. Toàn bộ ý thức hệ của Hồi giáo dựa trên sự ưu việt về tính tinh khiết của Quran (được tín đồ Hồi cho là không bị loài người làm vẩn đục như Cựu Ước và Tân Ước) và tính chốt hạ của thiên sứ Muhammad (được tín đồ Hồi cho là thiên sứ cuối cùng của loài người). Ý thức hệ này khiến tín đồ Hồi giáo có một niềm tin mãnh liệt rằng tôn giáo họ đi theo là phiên bản tín ngưỡng độc thần trong sạch nhất, thanh lọc nhất, đúng với nguồn gốc nhất, trong khi các phiên bản khác như Do Thái, Thiên Chúa đã bị thời gian và con người làm cho pha tạp, ô uế. Theo cách suy diễn này, tất cả các nhân vật trong kinh thánh Adam, Eva, Jesus, Moses, Abraham đều là người Hồi vì đây mới là đạo gốc. Chưa hết, bất kể tín đồ Do Thái hay Thiên Chúa nào cũng là người Hồi, chỉ có điều họ không tự biết điều đó mà thôi (!). Kẻ vô thần như tôi, không tin Thượng Đế là Đấng Tối Cao duy nhất thì hầu như chắc chắn sẽ kết thúc cuộc đời trong địa ngục.

Và trên tất cả một bậc, người Hồi Ả Rập không những tự hào mình là tín đồ của một phiên bản tôn giáo họ tự cho là trong sạch hơn, mà còn là công dân của đế chế oai hùng, bất thần hiện ra từ trong cát bụi sa mạc và triệt hạ Ba Tư cùng tôn giáo hùng mạnh Zoroastrianism của đế chế này trong vòng hai mươi năm, đánh thẳng vào trái tim của châu Âu và chiếm đóng Tây Ban Nha chỉ trong vòng một trăm năm, từ những bộ lạc du mục (bedouin) lẻ tẻ và bé nhỏ ở bán đảo Ả Rập trở thành những người chủ hùng mạnh của thế giới với những đỉnh cao nghệ thuật và khoa học chói lọi trong khi châu Âu vẫn còn chìm trong đêm trường Trung Cổ. Hẳn không ít những người Việt khi coi thường gọi xách mé dân Ả Rập là "Rệp" có rất ít khái niệm về một quá khứ oai hùng của họ, cũng như sự tổn thương sâu sắc mà những con người với trái tim kiêu hãnh này vẫn không thể nào quen nổi sau khi Ottoman - đế chế Hồi giáo cuối cùng sụp đổ.

Hoặc ít nhất là trong Thánh đường Machpela này, không phải là người Hồi và nhất là không nhìn giống như người Ả Rập thì đừng mơ đến việc được có quyền ngồi chứ đừng nói đến việc ngồi dựa hẳn vào thành lăng mộ của ông tổ Abraham mà thản nhiên chân co chân duỗi vân vê tràng hạt. Máu nóng trong người tôi dồn lên khi bị ông cai lườm nguýt đi đi lại lại canh chừng. Tôi không còn hứng thú nhìn cái lăng mộ nữa, thấy uất ức thay cho những tín đồ bao nhiêu trăm năm qua phải chịu đứng ngoài hoặc chỉ được đi đến bậc thang thứ bảy. Thế có khác gì cha mẹ chung chết đi nhưng anh chị mình không cho mình có quyền cúng bái?

Tôi bỏ đi. Trên đường ra cửa thì bị một vài cô gái Palestine đến làm lễ túm lại tíu tít hỏi chuyện. Khi chúng tôi đang hồ hởi chia sẻ thì ông cai đi đến, quát mắng đám con gái, và thẳng cánh đòi hất tôi ra cửa. Những cô gái trẻ đứng im, và len lén quay trở lại sảnh đường dành cho phụ nữ khuất sau lần rèm cửa dày cộp. Tôi nghẹn họng, cảm nhận rõ những mạch máu của mình giật liên hồi. Ông ta không những bắt nạt tôi chỉ vì tôi không phải người Hồi, không phải người Ả Rập, mà thậm chí còn bắt nạt tôi và những cô gái hiếu khách vì chúng tôi là đàn bà con gái. Mắt long lên, tôi gằn giọng: "Ông muốn ăn hiếp tôi à? Để tôi đi mách... lính Israel!"

Như một con chuột bị dọa mèo, ông cai lủi thẳng.

Còn tôi đứng khóc rưng rức. Nước mắt giàn giụa còn hơn cả bà người Thái khi được hôn lên nơi Chúa chào đời.

Tôi không phải là kẻ mau nước mắt. Nhất là nước mắt khi bị dọa nạt thì lại càng không. Phải mất mấy phút sau định thần lại tôi mới hiểu tại sao mình khóc.

Palestine khiến tôi kiệt sức và quỵ ngã. Tôi thấy niềm tin bị cạn kiệt, có lẽ bởi mình là người ngoại đạo. Nếu tôi tin Chúa, tôi sẽ như bà người Thái, sẽ gục mặt trên ngôi sao bạc trong hang đá nơi Chúa sinh ra và hồi sinh với lòng tin rằng sự bất tận yêu thương của Chúa chịu nạn sẽ cứu rỗi con người, kể cả những con người mình căm ghét. Tôi khóc vì thấy mình chẳng có một tín ngưỡng để làm nơi bấu víu: dù đứng trong trung tâm linh thiêng hội tụ tổ tiên của ba tôn giáo tồn tại hơn 3000 năm với hơn bốn tỉ tín đồ mà phải cầu cứu đến bạo lực của kẻ chiếm đóng để cứu rỗi những quyền tưởng chừng như cơ bản nhất của con người.

Lần đầu tiên trên đường vạn dặm, tôi thấy mình giống như một người Palestine bị chiếm đất phải chạy tị nạn suốt hơn năm mươi năm qua, chỉ như là bèo dạt mây trôi vậy thôi. "Kẻ chiếm đóng", "giặc ngoại xâm", "Chúa hài đồng", "lòng yêu thương", "niềm oán hận"..., tất cả chéo mòng mòng, va đập nhau và tan tác trong một ma trận không nhìn ra lối thoát.

Và thế là tôi chính thức từ biệt tuổi thơ, chính thức hiểu rằng thế giới này không có ranh giới rõ ràng giữa điều xấu xa và tốt đẹp, chính thức từ biệt niềm tin vào việc có một Lẽ Phải Giản Đơn tồn tại ở trên đời.

Bạn đang đọc truyện trên: truyentop.pro