#1
Mùa khô năm 72, Cường và ba anh em trinh sát nữa giã từ trạm của bác sĩ Lê và Hồng đi lên một đồi biên phòng gần Tà Xùa. Ngày đi chẳng biết hẹn gì với nhau, hay nói gì, chiến chinh là thế, hôm nay anh đi, nếu không ngày mai em đi. Cuộc đời như con sông ngày ngày em giặt áo, trôi mãi không hồi lại.
-Hết chiến tranh, anh về đây, em cũng sẽ về đây. -Hồng nắm lấy tay anh trong cái đêm cuối cùng ấy, lấy bờ rừng của Quảng Trị làm điểm gặp. Cường đặt lên tay cô một nụ hôn, và quay về lán trại, biết mình còn một mục đích suốt đời là phải trở lại với người con gái.
Đúng ra là hội quân với tiểu đội trinh sát nức tiếng Tây Bắc ở Tà Xùa, nhưng không được. Đi nửa đường đến làng của người Ơ Niêng từng là một trại tăng gia cũ, nay do lính tráng bị điều hết xuống Cánh Nam nên người dân tộc về lại, tiếp tục làm hậu phương cung cấp lương thực cho các đơn vị lân cận thì Cường tái lại cơn sốt ác tính đã trì chân anh dăm tháng ở Quảng Trị so với đại đội.
-Cậu nghỉ ngơi lại đây, hai tháng nữa quân ta từ Hà Nội sẽ đi qua làng, khi ấy cậu lên lại với chúng mình!
Bình đã trấn an anh như vậy khi tiếp tục đi lên Tà Xùa, để Cường ở lại trông nhờ vào những con người Ơ Niêng. May rủi thế nào, ba người đồng đội của anh khi ấy đã bị cuốn vào trận càn Đông Bắc của sư đoàn 2 Mỹ, hy sinh hết. Cách cả chục cây số, nhưng do ở vùng đồi cao trông xuống đồng bằng nên Cường thấy cả, lửa liếm tất một vạt rừng đỏ oạch phía xa, khói bốc nghi ngút và bom đạn chớp loé như những sao băng nổ, tắt, đêm nóng như phải cơn gió lào, và Cường từ trong căn nhà mái lợp trông ra, tuyệt vọng với số phận.
-Trận này ác quá, hơn cả năm 62.
Con trai của tù trưởng, A Quang bước vào nơi ở bấy giờ của anh. Căn nhà này dựng tạm cho Cường, ở rìa ngoài cùng của làng, là nơi đầu tiên ánh bình minh chạm tới. Cường có thấy hắn mấy lần, toàn là trong những đợt mê sảng của cơn sốt, đi qua chỗ anh nằm xuống phá rẫy dưới. Hắn đi từ rất sớm, đi như gọi mặt trời, để sau đó ánh dương khởi ngày chảy tràn từ ô cửa sổ, áp bàn tay trên vầng trán bỏng, át dịu đi cho anh. Đôi khi Cường nghĩ là mình hoa mắt, nhưng thực tế là anh đã nhớ được mặt người kia.
Khuôn hàm sắc cạnh chéo gọn xuống cằm, mũi thẳng như một nhành gỗ chuốt, hàng lông mày chau lại và đôi mắt đang nhìn ra đăm đăm, gợn lửa xa kia.
Quang rõ là dân vùng cao, cơ thể đồ sộ do bám núi mà nở ra, làn da rám nắng và tóc gáy dài chấm vai đặc trưng người Ơ Niêng tạo cho hắn nét rắn rỏi như đá. Chiếc áo dân tộc xẻ sâu trước bờ ngực nở nang có thêm sợi dây chuyền bện ngọc và nanh hổ, hắn có tướng đi chắc nịch, nội cái khí phách thể hiện ra đã đoán biết được anh là người có ảnh hưởng lớn trong làng. Cường áng chừng người kia cỡ ba chục tuổi, lớn hơn anh cả về vóc dáng lẫn kinh nghiệm.
-Năm 62 chúng cũng đánh trên này ư?
Cường nhìn theo ánh mắt hắn, những dọc cây đen thùi trơ than như vết móng vuốt nát bươm giữa mảnh rừng cháy sáng. Khói mù như mây, tiếng phành phạch cánh máy bay vù vù như đám muỗi góc nhà, không thể làm gì, Cường tưởng những quả bom ấy đã rơi vào lòng mình, và phát nổ.
-Đánh chứ. Đánh mạnh chứ.
Hắn không kể thêm, cứ đứng bên cái giường lá trông ra ô cửa rỗng tuếch, như vị thần sa ngã đã cụt cánh, và phải chứng kiến tận thế nuốt lấy mình.
-Mọi người đều lo, tối nay không nhảy múa gì.
Hắn dời mắt về trong làng một chút. Từ lúc dứt cơn sốt, Cường đã hai lần ngồi trên chiếc ghế ba gác, nhìn những chiêm nữ múa hát xung quanh đám lửa trại nhóm cao hai mét. Trẻ con, đàn ông chốc chốc lại vào nhảy với các cô, người già thì ngồi ngoài, ngả nghiêng, trò chuyện, như thể chúng mình ở đâu không phải thời trận mạc, như thể bình an.
Cường chưa lần nào thấy Quang trong những tối ấy. Chắc là ở nhà với vợ?
Cường đã một lần nắm tay người con gái vào vòng xoay ấm cúng của đêm hội lửa. Ánh sáng bóng nhẫy bờ vai các cô, và những đôi mắt rung rinh mà Cường đâm ra phát sợ thứ ái tình nảy nở. Anh cảm thấy gần như là lừa gạt Hồng, em đã thành duy nhất trong anh, nhưng xa vời, như một ý niệm tôn giáo nào đang phai dần ý nghĩa. Cường thoáng nghĩ anh sẽ không thể giữ mình, vì đời không thể giữ anh, và con người… giữ làm sao được?
Có đứa bé con tóc tết đuôi sam, da màu đất đỏ, đôi mắt tròn vạnh như trăng rằm đã chạy tới chỗ anh, nắm tay anh đi vào tiếng sáo lá. Cường ngâm nga trong họng một giai điệu vừa sáng tác, chọc cười bé con, anh cũng cười, những bước chân nhỏ hồn nhiên vấn vít mãi. Anh nhớ con bé ngồi với anh lâu, nhưng quay qua quay lại đã biến mất rồi.
-Vợ anh, cô ấy múa chứ?
Cường hỏi vu vơ vậy, dưới kia gió vẫn đang quần khói thành những cột lốc xám xịt liên tục đổi dạng.
Cái chết cũng đang nhảy múa.
Chiến tranh cũng đang hội mùa.
-Ai! Ai cơ?
Mặt hắn đanh lại ngay, ánh mắt thật như không hiểu câu hỏi. Cường luống cuống với sự bỗ bã của mình. Chẳng nhẽ người con trưởng của làng Ơ Niêng đến tuổi này vẫn còn độc thân? Ý nghĩ ấy gần như chọc cười anh, song thật tò mò.
-Cậu đã khoẻ?
Người đàn ông xù xì và thô ráp bỗng mềm oặt ánh mắt nhìn anh, như nhìn một đứa trẻ yếu ớt mới ốm dậy, như một cú đánh trống lảng khỏi hiện thực.
-Khoẻ lắm. Nếu được, mai tôi xin được nương rẫy với anh.
Quang nhìn anh rất lâu, như suy xét, rồi như đã thông suốt, gật đầu.
-Sáng mai cậu đi với tôi.
Nói vậy, Quang nhìn trận đánh không quen mặt ấy một lúc nữa rồi cụp mắt rời đi. Từ lúc mùi cỏ cháy lan tới ruộng dưới, hắn đã có suy nghĩ là phải đến chỗ cậu lính bị thương ở rìa làng. Thật không hay khi phải cô đơn nhìn đồng đội hy sinh, thế chẳng khác gì tự mình hy sinh: cái chết ám ảnh, cái chết tự thân.
Đêm ấy Cường không ngủ, tiếng nổ và súng máy nã hết băng đạn trái ngược lại một bài hát ru, rền mãi sau đầu. Nó ép anh dậy, bắt anh đi, như gông cùm án tử treo trước ngực. Phải chi anh không bị ốm, thế là sát cánh được với quân ta dưới ấy, nhưng giờ đây cách ba, bốn tiếng chạy bộ, lại không sõi đường xuống, vả lại, có cái mùi muội tro đã lan đầy trong không gian, ấy là mùi điêu tàn của sự kết thúc kề cận, thế là Cường đã quá muộn với cuộc chiến ấy.
Bứt dứt không sao chợp mắt, anh ngồi dưới vòm trời không tinh tú, lửa lim dim giữa bóng tối đang rút lui cùng với màn sương đêm. Quang tìm thấy anh như thế, ngồi bó gối ngoài hiên, run lập cập rét mướt.
-Run thế này làm ăn gì? Vô trong đi.
Hắn vào nhà nhóm lửa, không ngoái lại nhìn xem anh có đi theo không. Một lát sau nghe tiếng loạt xoạt chỗ cửa, Quang tự dịch người sang chừa chỗ cho Cường hơ tay. Không ai nói gì nhưng sự lặng yên dễ chịu, cảm giác máu lưu thông lại được tới đầu ngón tay lúc đầu như kim chích, sau lại mềm mại vô cùng. Cường lén nhìn sang, Quang mặc quần thụng, thắt đai, bốn voan áo phủ đến đầu gối rải trên đất như đài hoa. Hắn rất hợp với màu đỏ. Nhưng hình như đấy là trang phục các cô mặc nhảy vào tối qua?
-Đây là lễ phục, hôm nay cúng Thu Chí.
Hắn nói anh mới nhận ra, trong chiếc gùi to như gốc cây hắn địu trên vai là bao nhiêu trái quả và thịt tươi. Quang dẫn anh đi đường mòn xuống đồi, đến lưng chừng có một miếu thờ nhỏ ngang trên nền đất, Quang bày hết đồ đạc ra ấy, và ba nén nhang.
-Để đây thú hoang ăn hết chứ còn…
-Thú rừng cũng là hiện thân của Chúa Dương Linh, thú ăn lễ vật, ta lại săn thú thụ lộc, ở đây là rừng nuôi người.
Quang nhắm mắt từ tốn giảng giải, Cường là sinh viên ngoài Bắc nghe mà nhận ra mình chưa biết gì nhiều, lại có thêm phần ngưỡng mộ người ta. Mà sao Quang đã lễ xong mà cứ đứng nhìn mãi, xa hơn chiếc miếu đá, tự nhìn xuyên qua lòng đất, tới tận chân trời dưới kia.
-Người về đất, là về với Chúa Dương Linh.
Hắn nói mà như không biết mình nói, rồi bỗng sực tỉnh ra, tiếp tục đường xuống nương. Cường có biết phong phanh về tín ngưỡng trên này, Chúa Dương Linh ban ánh sáng, sự sống và mùa màng, Chúa Âm Phản ban triều cường, phù sa và cân bằng vạn vật. Vừa nãy hắn nói gì? Ai đã về đất? Ai đã về với Chúa Dương Linh?
Tự hỏi vậy, nhưng rất nhanh những thắc mắc bị nuốt chửng bởi lao động cực nhọc. Không hiểu Quang tự làm một mình thế nào, rẫy dưới này khó phá hơn hẳn trên làng, chắc đấy là lý do hắn gánh về phần mình. Làm từ tảng sáng đến quá trưa thì Cường không chịu được, không quen, lại chưa ăn gì nên choáng, ngồi vật ra vì chóng mặt.
-Vào chỗ râm nằm chút, nước đây.
Quang dìu anh tới dưới tán cây. Tưởng hắn mặc mình mà làm tiếp, nào ngờ Quang cũng ngồi xuống luôn, và ngồi gần, Cường cứ ngỡ mình có thể đếm được bằng hết số lông mi của hắn.
-Tại sao anh không có vợ?
Cường bật ra câu hỏi đã canh cánh trong lòng từ tối hôm qua. Nếu anh đã quá phận, hắn cứ phủi tay quay đi, nhưng anh không quá phận, và hắn trầm ngâm trả lời.
-Không kịp… Không kịp. Năm 60, tôi mới mười tám, chiến tranh lan tận đến đây, nhiều người phải bom, mìn, nhiều bị lũ ngụy quân giết, cha phải dẫn cả làng vào sâu trong rừng, sâu lắm, trừ mấy bà đồng chả ai biết đường vào, chả ai biết đường ra. Sống thiếu thốn hai năm như thế, nhưng có hề gì, chúng tôi rồi cũng quen, và quan trọng là phải sống. Tôi tốt số còn được bên mình một người yêu, tình yêu của chúng tôi là tất cả những gì còn trong sáng được giữa buổi chiến tranh loạn lạc. Hương trước đó lên đây cùng một đoàn địa chất, núi đồi này có lớp đất hiếm để xác định quá trình phong hoá nước mình, họ nói vậy, và có vẻ rất gấp, đang chiến tranh vẫn phải đến đây. Cô ăn ngủ ngay trong nhà tôi, lâu dần nên duyên, chúng tôi chung chạ từ ấy.
Năm 62 cô có mang, nhưng không ra mắt được Chúa Dương Linh, ở chúng tôi cưới xin phải thế, phải lễ lộc đầy đủ, nhưng đúng đợt chúng đánh ác vào trong này, thấy làng bỏ hoang, chúng lùng sục bằng được, nhiều lúc là trốn trong đất.
-Trốn trong đất? -Cường kinh ngạc hỏi.
-Phải. Có một dạo thậm chí đào địa đạo dưới ấy, nhưng mùa mưa không giữ được, thì tự lấp mình như mồ mả, có đúng cái lỗ bằng ngón tay thông khí. Rủi mà thằng địch nào đạp phải chỗ đang trốn thì nó giết ngay, thằng cu Dần hồi trước đấy… Sau chúng nó biết chúng tôi trốn vậy thì ra sức bom, lựu, pháo, găm vào đất! Thành thử giờ đây nào ai dám đi đường rừng, đều phải đường mòn.
Nhiều, nhưng Hương không phải vì thế mà mất mạng. Cuối năm 62, lính giải phóng từ miền Trung đổ hết lên đây, giằng co ác liệt và thắng thế! Càng ngày càng ít thấy lũ ngụy lảng vảng trong rừng. Chắc vì thế, hoặc vì lý do gì chẳng còn ai biết được, Hương của tôi bốn mươi tuần mang thai đã đi ra gần bìa rừng.
Đoạn, Quang khẽ nấc lên. Cường thấy môi hắn run và hắn phải lấy tay che đi, đôi mắt rất quen vội ngoảnh đi chỗ khác. Rõ là xúc động, nhưng hắn vẫn cố kể nốt.
-Tôi gấp lắm, vừa chạy đi tìm, vừa như ngất, đến đúng miếu thờ ta dừng lại khi nãy thì thấy xác em. Chúng nó hãm hiếp và giết em, sự nhục mạ không quần áo. Nhưng khủng khiếp hơn cả là em đã sinh con trước khi chết. Tưởng chúng bắt con đi, hoặc đã giết luôn rồi nhưng không, tôi nghe tiếng khóc, và con được Hương giấu trong lòng đất. Chắc tiếng thét sinh đẻ và tiếng con khóc đã đánh động chúng nó nên em phải lấp con đi, và lấy thân mình để đánh lạc hướng.
Kim Ánh được ấp ủ lần thứ hai trong đất, chắc vì vậy nên con bé mang màu da đỏ hỏn và rất ngoan, im ru đến khi nghe bước chân Quang gần bên cạnh mới khóc rú lên, khóc thương mẹ, khóc đòi ba. Nó suýt chết ngạt trong đất bùn, nhưng như chính chúng anh, nó vẫn sống.
Quang đưa tay lau nước mắt giàn giụa, mặt trời đã lưng chừng. Cường chực nhận ra đôi mắt hắn, ấy là đôi mắt của bé con đêm hôm trước khiêu vũ với anh, ấy là Ánh. Anh tê điếng người trong một sự tức giận hầu như cực đoan và bạo lực. Đứa trẻ trong sáng ấy đã mồ côi mẹ theo cách tệ nhất có thể hình dung được, và đôi tay anh ghì nặng trong trách nhiệm là phải mang về hoà bình để trả nợ một nỗi bi kịch như thế.
Và cả Quang, người đàn ông góa vợ đày mình trong cô độc tự cách biệt mình ra từ đêm lửa đến nương rẫy. Cường có vô vàn điều muốn nói ra chiều an ủi nhưng rốt cuộc anh không nói được gì. Quang bình tĩnh lại, khịt mũi và tiếp tục ra ruộng, Cường im lặng theo ngay sau.
Đến khi hoàng hôn chỉ còn là chiếc khăn lụa đào vương vấn cuối trời, Quang mới dẫn anh về làng. Đến căn nhà mé ngoài của Cường, anh lại không vào.
-Làm sao?
-Tôi biết nấu ăn.
-Thì sao?
-Tôi nấu cho anh, với Ánh.
-Này! Chuyện tôi nói ra không phải để ai thương hại nghe chưa? Nếu cậu nghĩ ấy là làm ơn làm ph-
Quang cáu nổi cả gân trán, nhưng Cường chặn lại ngay.
-Tôi đồ cơm rất dẻo.
Cái ánh mắt người này sao mà lạ thế. Quang đường đường là người có vai vế, được cả làng kính trọng, vậy mà đứng trước ánh mắt quả quyết ấy anh lại chùn lòng không thắng nổi.
Thế là Cường to oạch ngồi một cục trong xó bếp thổi lửa trong sự tò mò và bất ngờ của tù trưởng và Kim Ánh. Sự thật là Cường biết rõ chuyện bếp núc, xuất thân con nhà trí thức đâu phải cái gì cũng gia giáo, cứng nhắc. Trong trí nhớ anh còn một người bà ngoại rất mực hiền dịu và chân quê, người có khả năng chữa lành qua thức ăn và những cái chạm mềm mỏng.
Quang đã đun nước tắm cho con, Cường không thể nghĩ được ra hắn cũng có lúc yêu thương và dịu dàng như thế. Vừa dội nước, Quang vừa nhẹ giọng hỏi han, dồn toàn bộ sự chú ý vào bé con của mình, hắn bưng tóc con bé trong lòng bàn tay, thuần thục gỡ rối, thật khó hiểu làm sao một gã đàn ông to bè của núi rừng lại cùng lúc có vẻ thanh thoát được như vậy. Và bộ y phục vải lanh trắng tuy sờn bạc lại càng trôi chảy như ánh trăng, ôm vào những chỗ cần ôm, bó vào những chỗ cần bó.
-Bao chừ cậu đi?
Cường quay ngoắt ra, vị tù trưởng đã đứng cạnh từ bao giờ.
-Dạ như anh em đã thưa với cụ, khoảng hơn tháng nữa đại đội bảy qua làng cấp lương thực, cháu sẽ theo luôn ạ.
-Hôm nay cậu lên rẫy hửm?
-Dạ anh Quang đưa cháu xuống nương dưới phụ việc ạ.
-Đưa cháu… nấu chi đây?
Trong đôi mắt đã lòa của già ánh lên một tia sáng gì rồi vụt mất. Già trò chuyện đôi ba câu rồi lại đi nhấm rượu với các cụ khác trong làng, để lại căn nhà rộng ba người ngượng nghịu.
-Chú. Ừm ưm ưm.
Ánh vừa mặc đồ xong là chạy ngay tới chỗ Cường, bắt chước giọng ngâm nga của anh ngày trước, Cường bè theo, rửa tay sạch rồi vuốt tóc mai của con bé sang bên. Da đỏ căng bóng, tóc đen mượt, Ánh có nét xinh lắm.
Quang tựa vách tường hơi sốt ruột nhìn bàn tay to tướng của anh loà xoà trên mặt con. Anh to lớn như thế, chả hiểu sao hắn sợ Kim Ánh bị anh ngoạm đầu một phát.
Cường dạy con bé nhặt rau, tráng dầu, vo gạo, đến khi chán rồi, Ánh ngồi rất ngoan ở gian trong chơi với con búp bê vải các chị trong làng may cho. Quang hôn lên tóc con, rồi vào bếp phụ giúp Cường.
-Làm gì mà cực vậy. Nấu cho một mình không thích, thích nấu cho bốn người.
“Thích anh.” Chả hiểu sao Cường nghĩ thế, tay đang mò cá phải đưa lên đập cái bép vào mồm, làm Quang phải rối rít đè ra rửa cho bằng sạch thì thôi.
Có vẻ thường ngày cũng là Quang bếp núc, hắn làm rất thạo và công nhận là rất ngon. Hai người, nhoắng cái xong mâm cơm, và Cường biết được Quang chăm con rất kỹ.
-Ánh, à ùm.
Vốn dĩ con bé tự ăn được, nhưng thích làm nũng ba, và hắn cũng chiều con. Già ngoắc tay gọi Cường chú ý nghe mình.
-Thằng A Xuê đóng quân bên kia rừng thư về, các bạn cậu hy sinh hết ráo, trinh sát trận dữ quá.
Cái tin như sét đánh bên tai, bàn tay Cường cầm đũa không chắc, rơi loảng xoảng trên chiếc mâm bằng nhôm.
-Trời… Trời…
-Cha! Mấy chuyện này đừng nói trong bữa cơm.
Quang ngắt giữa hai người, nhưng Cường nào còn biết gì, anh choáng váng trước một cái tin đau đớn như thế. Ôi Bình, Tấn và Tú, thế là bộ tứ chúng anh còn độc ca mình Cường thôi sao?
Không chịu nổi cơn buồn nôn ngay họng, Cường xin phép và xỏ dép rời đi. Ngay khi vừa ra cửa, anh lấy đà chạy bứt tốc, với một tiếng gầm rầm rì trong cổ họng không phát ra được. Anh chạy, ngã dúi dụi và lại chạy, làm sao mà trên đời có một cuộc tẩu thoát im ắng và hành xác đến vậy!
Chạy nhưng không biết chạy về đâu.
Chạy thật nhanh, chỉ để ngã cho đau.
-ường…! Cường!
Quang đã bám theo anh, và đuổi được đến ngay sau. Nghe giọng, Cường càng như hăng máu hơn, anh ghì chân chạy nhanh nữa, khiến Quang phải lấy đà vồ một phát cả hai thằng ngã sõng soài ra đất ê ẩm hết cả người.
-Chạy gì chạy quá trời vậy!
Quang tức, mắng loạn lên. Cường nằm thẳng, ngửa mặt lên trời, dại đi với buồn thương, nhưng tê liệt không thể khóc. Cứ căng mắt ra nhìn sao trời, chấm nào là Bình? Chấm nào là Tấn? Chấm nào là Tú? Những chòm sao tro tàn hoá thân.
-Chuyện chiến tranh mất mát là thường tình, cậu cũng biết. -Quang run giọng nói, như là thuyết phục chính mình.
-Nhưng mất nhiều quá, mất hết…
-Cậu đã mất đâu!
Hắn mắng như thế rồi cũng nguôi ngay. Quang chạy theo là vì cũng chính anh khi mất Hương đã lang thang trong đêm tối, chả phải nghĩ quẩn gì, nhưng lòng cứ cảm thấy là phải bứt tốc ra đi. Thật khó khăn khi phải chứng kiến cùng một nỗi đau của mình trên người khác, nhất lại là một cậu trai trẻ.
Cường tìm lại được ít tiêu cự, anh ngẩn người ra trong nỗi bi thương chung đang trùm lên vạn vật, và không biết nói gì hơn là kéo người kia vào một vòng ôm, gồng mình muốn chôn chặt đi cảm xúc này. Coi như là câm điếc. Cả hai đều bất ngờ bởi động chạm ấy, có quá nhiều thứ nhộn nhạo lên trong lòng.
Quang đi cùng anh đến cuối làng, chẳng ai nói gì nhưng tất cả đã thay đổi. Ngày nào người ta cũng thấy hai trai tráng đi làm nương, tối về vào bếp nấu ăn. Cường có học vị liền đem ra dạy chữ cho Ánh và cả Quang. Lần đầu tiên viết được tên mình, không biết con bé hay ba nó vui mừng hơn, nom cái ánh mắt trộm phấn khởi của hắn mà anh xôn xao, ngay lập tức đinh gỗ hai cái khung đặt trên kệ bếp.
-Thế tên cậu? Cái gì Cường?
-Vũ Kiên Cường.
-Viết, viết đi.
Anh viết ra, Quang nhìn, tưởng thế là xong mà hôm sau ghé nhà lại thấy bốn khung gỗ đặt cạnh nhau ngay ngắn. Tù trưởng, Quang, Kim Ánh, Cường. Anh chả biết vẽ, thôi thì nhờ những dòng họ tên này thay tranh ảnh để lại cho đời sau dấu vết của mấy người bọn họ, cho biết rằng đã từng tồn tại ở đây những thế hệ nhọc nhằn như thế.
Già ưng thằng Cường lắm, nó đâu có biết gì chuyện làm sắn, phơi thóc, nhưng ham học và sức dài vai rộng, từ chuyện kho lương tới sửa sang các nhà, Cường xắn tay làm tuốt. Đúng là anh bộ đội cụ Hồ, anh ở là dân mến lắm.
-Chòm Đại Hùng đấy. Nhìn tay chú chỉ nè, sáng lắm.
Đêm vùng cao lạnh băng nhưng sao sáng, Cường ôm con bé đang bọc trong chăn, ngồi ngoài hiên nhìn lên bầu trời.
-Không phải Đại Hùng đâu! To như thế phải gọi là A Quang chứ!
Ngón tay bé xíu của con bé chỉ lên theo anh, rất dễ thương. Quang đang âm thầm đứng sau, nghe được cũng phải bật cười. Cường mềm ngay ra, nhìn thẳng mắt hắn mà nói:
-Ừ, chòm A Quang.
.
.
.
Chẳng mấy mà cái mốc hai tháng đã điểm-hồi chuông không ai để ý, nhưng cũng đã rung lên rồi. Cường cũng không hiểu làm thế nào mà hai tháng trôi qua nhanh thế, làm rõ nhiều, rõ mệt, vậy mà giờ nhìn toán lính mới huấn luyện đi qua làng, anh cứ ngỡ phải còn xa ngái thời gian.
Dân làng Ơ Niêng mở hội lớn, có bao nhiêu chất tươi và rượu bày hết ra đãi các anh. Các cậu này bom pháo đã nghe qua, đã mất mát, nhưng để bảo ở một trận địa đúng nghĩa thì chưa, vì vậy nên còn nhiệt tình và xông xáo dữ lắm.
Đêm lại thêm cột lửa nhóm cao, Cường ngồi giữa quân mình, mà như cách cả quãng. Ánh sáng lửa cháy bập bùng trên những vách nhà đất, sự đông đúc vui vẻ hẳn trên trảng đất trống, nhưng cũng vì vậy mà ít thân quen.
-Nghe bảo anh người Hà Nội ạ? Bọn em cũng Hà Nội, trai Bách Khoa!
Có hai cậu mười bảy tuổi tòng quân bá vai nhau đến trước mặt Cường, và đồng hương lắm chuyện nói với nhau. Phố nhà chắc hẳn đã đổi khác, nghe kể đánh bom ác lắm, nhưng cái ngữ điệu này, vẻ phổ cổ này nhầm đi đâu được. Cường thấy mình an lành trong những cuộc nói chuyện về ngõ Khâm Thiên, Đống đa, gánh phở và bánh cuốn.
-Vậy là ngày kia anh đi với chúng em?
Vậy là ngày kia anh đi với chúng em? Ánh đã dắt tay anh đi vào tiếng sáo trước khi kịp trả lời, hẳn là con bé đoán biết được sự chia ly sắp sửa.
-Chú Cường đi hả chú Cường?
Đôi mắt tròn xoe của con bé găm thẳng vào anh, khuôn miệng mếu mếu trông tội dữ lắm. Ánh giơ tay ra, Cường chiều theo bế thốc con bé lên.
-Ừ chú sắp đi rồi.
Anh để con bé giấu mặt vào vai mình, vòng tay nhỏ ghì chặt cổ.
-Chú đi là ba Quang buồn đó.
Đứa nhỏ này biết nghĩ đến ba trước cả bản thân mình, Cường sao mà khâm phục nó thế. Nghĩ đến Quang, anh đảo mắt tìm quanh, và luôn luôn không thấy.
-Chú đi rồi ai dạy chữ cho con.
Ánh học rất nhanh, đã đọc được gần hết tập thơ Tản Đà anh mang bên mình. Con bé biết chữ, thế là tốt, sau này Ánh sẽ thay anh truyền lại thứ quốc ngữ máu mình cho những lớp trẻ mới.
-Chú đi rồi về nghe.
-Ừ chú đi rồi về.
-Chú đi rồi về nghe.
Con bé nói mãi như dặn dò, đến khi thiếp ngủ trên vai anh. Cường đưa con bé về nhà, đường đi không bóng người, Cường canh cánh không biết phải đối mặt với hắn thế nào.
Đẩy cửa vào, Quang đang ngồi khoanh chân trước một túi vải, lương khô và mứt quả đã xếp vào một nửa, còn lại vẫn đang vương vãi trên đất.
Cường đặt con bé vào giường, kéo chăn, sự im lặng hờ hững như không có. Anh đến cạnh hắn, ngồi xuống, và ngồi rất gần.
-Cái này biếu đại đội trưởng à?
Cường nhớ ban sáng người ấy vào nhà chào anh và cha, cảm ơn và xin cho đơn vị nghỉ lại hai đêm trước khi đi tuốt lên bắc.
-Không, phần chú ấy đã đưa rồi, cái này xắp cho cậu.
Quang không nhìn lên, luôn tay với những gói bọc, Cường hồ nghi người ta có gì muốn tránh mặt mình không nói.
-Em đi, anh giận à?
Mà mong là giận đi, để Cường có thể vịn vào lòng yêu nước của mình mà dứt áo ra đi.
-Giận gì? Lúc nào chẳng biết là cậu sẽ phải đi.
-Nhìn em.
Quang không nhìn, thì Cường đưa tay khẽ xoay bên má. Hắn nhìn lên, như Ánh nhìn anh, Cường chua xót với mâu thuẫn trong mình. Đôi mắt buồn quá, trong suốt như đêm.
-Làm rẫy nốt ngày mai với anh.
Hắn nói vậy và đồ đạc gói ghém đã xong, đem xếp bên góc nhà. Nhà của Cường đã thành chỗ trú quân, và nhiều nhà khác, nên anh ở lại nhà tù trưởng. Già uống với anh chén rượu gạo, và gửi lời cầu chúc.
Nằm với Quang đêm nay và đêm mai nữa thôi là lên đường. Nghĩ thế, Cường không dám ngủ, mà Quang cũng thế, có thể nghe ra trong nhịp thở.
-Anh ở đây là tốt. Vẫn phục vụ cho kháng chiến, mạn này đã có quân đóng phía Tây, không sợ khói lửa chạm tới.
Cường nói để chắc với lòng, Ánh và Quang như thế có thể coi là an toàn.
-Đàn ông mà thời buổi loạn lạc không ra trận được, cậu phải khinh anh mới đúng.
Quang đang nằm đối lưng với anh, Cường nghe không thích.
-Đây cũng là trận, anh còn đòi đi đâu? Có hậu phương thì mới có tiền tuyến, anh làm thế này là tốt. Rất tốt.
-Ừ.
Quang đáp cụt lủn, và sao mà ngột ngạt thế. Cường như thể có lỗi, ngồi dậy, lay vai Quang, chiếc vòng trước ngực lách cách giữa thinh vắng.
-Mai chúng ta đi hái hoa, em dạy anh ép khô, dễ lắm.
-Đàn ông đàn ang hoa hoét cái gì?
-Ép cho Ánh.
-... Được.
Hắn rũ mình ngồi dậy, chiếc áo lanh lông thú trượt xuống như nước, lộ trần một mảng vai, Quang lại lười biếng coi như chả sao.
-Cậu đối tốt với Ánh thế, hôm nay anh mới có lời cảm ơn. Con bé không có mẹ, những gì mềm mỏng đều là các cô trong làng giúp cho, chứ anh chẳng biết thế nào.
-Không, anh thì cũng biết mềm mỏng chứ, Cường nắm lấy tay anh, Bàn tay này xoa lưng, vuốt tóc, đút cơm cho con, và hát ru…
Cường ngồi sát lại, đầu gối hai người chạm nhau, tay đặt lên hõm cổ trần trụi ấy.
-Và kể chuyện, và hỏi han…
Trong đôi mắt hắn loang loáng nước.
-Anh Quang là một người bố tốt, Ánh rất may mắn còn có được anh chăm lo cho mình.
Những điều hắn xứng đáng được nghe nhưng chưa từng có bao giờ, Quang nhăn mặt quay đi, như bị đốt bỏng bởi động chạm.
-Hai bố con sống tốt nghe, em lên Tà Xùa, được ngày phép là nhờ xe về được. Về dạy toán cho Ánh, con bé thông minh lắm, khéo hoà bình, có thể học cao lên…
-Đừng nói nữa.
Toàn chuyện tốt, nhưng Quang càng nghe càng giàn giụa nước mắt, và rốt cuộc anh phải thu mình, kéo chăn giấu chính bản thân đi khỏi ánh nhìn của Cường.
Anh cũng chẳng biết thế nào, chỉ đành nằm lại xuống, nhìn lên cái trần nhà chỉ ngày mai nữa thôi sẽ ngưng thuộc về mình. Giấc ngủ đến lúc nào không hay, khi Quang gọi anh dậy, hắn đã chuẩn bị tươm tất.
Tại sao lại là nó? Chiếc áo thắt eo bốn voan buông xuống như đài hoa.
-Đi làm lễ cầu may.
Thế là lại miếu thờ phẳng trên đất ấy, trong ánh sáng đầu ngày nhá nhem, cả hai cùng quỳ gối chắp vái.
-Đây Vũ Kiên Cường, tá túc nhờ và giúp đỡ làng Ơ Niêng, thì cũng thành người Ơ Niêng. Kính mong Chúa Dương Linh phù hộ độ trì cho cậu tai qua nạn khỏi, có đi có về.
Sao nghe như là ra mắt. Quang lại như ngày đầu nhìn mãi vào đất, chỉ khác cái bây giờ có cả Cường, cũng đăm đăm nhìn vào dĩ vãng của Quang.
Hôm nay nghỉ sớm một chút, chưa hoàng hôn, họ dẫn nhau đi vào một đoạn nhiều hoa cỏ dại.
-Không lo, không có mìn ở đây đâu.
Quang thấy Cường dừng chân nên trấn an, nhưng anh dừng lại đâu vì lẽ đó, mà vì hoa sim. Hữu Loan đã viết về hoa sim.
“Những đồi hoa sim
những đồi hoa sim dài trong chiều không hết
Màu tím hoa sim
tím chiều hoang biền biệt”
Anh ngắt cả nắm, cùng hoa cúc, hoa thanh tú, hoa dã quỳ.
-A Quang.
Ấy là lần đầu tiên anh gọi hắn như vậy, vẫy người kia lại gần.
-Hoa thanh tú tượng trưng cho sự tinh khiết.
Cường giắt hai bông hoa xanh vào đai lưng Quang, hai bàn tay lơ lửng trong không trung được hắn nắm lấy, đặt nơi eo mình.
-Hoa gì tượng trưng cho sự đoàn tụ?
Anh không biết. Cường ngâm nga giai điệu đêm trại, níu vào chiếc eo thuôn gọn mà đong đưa khiêu vũ. Càng ngày càng gần nhau, đến khi hắn áp má lên vai anh, thở dài. Nắng cuối ngày không rát, choàng lên họ một vạt vàng lỏng, chiều quý báu. Khi buông nhau ra, anh thấy rõ ở Quang có cái gì như đã thông suốt, khiến khuôn mặt không còn u buồn mà sáng tỏ.
Về chơi với Ánh, cứ dùng hai mảnh giấy kẹp hoa để hút hết chất ẩm, đè chày, cối nặng lên và đến đêm đã tương đối khô.
-Bọn con gái trong làng không có cái này đâu!
Con bé phấn khởi với thứ đồ chơi mới, tới nỗi không chịu ngủ, cứ bám riết lấy Cường.
-Đi ngủ con!
Hắn nạt, nhưng con nhà tông không giống lông cũng giống cánh, tự hắn cũng ngồi kè kè cạnh anh không thôi. Thành thử Cường giữ bé con trong một tay đến khi tự ngủ, tay còn lại vòng sau lưng ôm Quang làm chỗ cho hắn dựa.
-Anh…
-Đừng.
Quang xót lòng không nghe nổi, cúi đầu cởi chiếc vòng dây đeo lên cho Cường.
-Nanh này là con hổ đầu tiên anh săn, ngọc này đào từ chính đất mình lên, ở đây là rừng nuôi người.
Đêm cuối cùng của họ đã dành để anh ngủ kỹ, nằm chạm đầu với Quang, và Ánh ở giữa. Ngày mai, khi Cường dậy thì hắn đã đi, chắc đi rẫy. Anh nuốt lại sự nuối tiếc vào ngực và cúi chào già, ôm lấy Ánh lần cuối, làn da đỏ như là ôm đất mẹ. Con bé hiểu chuyện lắm, thơm lên má anh một cái là tiễn biệt thôi.
Nhìn quanh, có lắm trai tráng đã kịp cho mình một mối tình trong hai đêm ngắn ngủi. Cường thấy chính mình trong những bịn rịn lứa đôi ấy, và anh thôi không lừa gạt mình nữa.
Ừ nó đấy, tình lứa đôi.
Nếu còn sống để một lần nữa quay lại, anh sẽ nói.
Những việc xách ba lô, chỉnh đốn hàng ngũ quay về lại với anh như thói quen vẫn vậy. Ánh mắt anh quay lại nhìn mãi, nên không để tâm đến vị chỉ huy bên trên, vì vậy mà bất ngờ.
-Cù A Quang từ chặng này sẽ đi với chúng ta, mời anh về tiểu đội ba xếp đội hình từ cao xuống thấp.
Cường không tin vào tai mình, và mắt mình, Quang thế mà lại đi với anh!
Nhưng còn Ánh? Còn làng Ơ Niêng? Anh là con trai trưởng của già mà, sao mà đi được? Bao nhiêu cơ nguy, bao nhiêu nhọc nhằn, tại sao hở anh?
Thắc mắc và hốt hoảng nhưng Cường tuyệt đối nghiêm chỉnh với hiệu lệnh hành quân, mãi đến khi cuốc bộ hai chục cây được quãng nghỉ, anh mới chạy lại ngay.
-Quang! Tại sao anh?
Hắn cười, nhẹ tênh.
-Thì anh đi thôi. Cậu đi thì được, chả nhẽ anh không được?
-Không được!
-Tại sao không được?
-Thế còn… Thế còn…?
-Ổn cả.
Quang đặt tay lên vai Cường, tim anh bình hẳn lại.
Sáng sớm hôm ấy Quang ra chỗ cha uống nước chè, quỳ gối xin phép.
-Xin cha cho phép con đi kháng chiến cùng Cường. Nương rẫy các anh em có thể đảm bảo, Ánh có thể trông vào các cô, hôm qua con đã có lời, mọi người đều đã biết. Biết rằng mẹ không bằng lòng việc chiến chinh, lại để cha lại một mình, con không dám làm cha phật lòng, chỉ mong được sự đồng ý để làm tròn trách nhiệm với quê hương, con là con trai độc, con làm thế này là bất hiếu, nhưng… Xin cha!
Ông cụ ngồi, nhìn xuống đứa con trai. Già biết cảm giác mất vợ, và cũng biết chiến tranh kháng Pháp, nhưng Quang chắc thừa hưởng được ở mẹ nó cái đa sầu đa cảm, mặc dầu hay giấu đi, nên sự chùn bước và mất lẽ sống sau Hương lộ ra rõ ràng.
-Năm 62 chúng đánh ác nhỉ. Nếu cha không giữ anh, để anh đi lính, đem Hương theo xuống đồng bằng thì đã chả tới nỗi.
Lần đầu nghe thấy tâm tư của cha về cố nhân, Quang bất ngờ không nói được gì. Cớ sự như thế mà mười năm nay ông cũng tội lỗi một phần tại sao? Già lại tiếp.
-Không bắt anh lấy vợ mới vì biết anh cũng giống cha, nhưng thôi con ạ, nếu đi mà bình lòng được thì con cứ đi, không phải lo cha, không phải lo Ánh. Như với thằng Cường… cha chúc anh đi mạnh giỏi, may mắn.
Và ông quay đi như giã từ những gì chắc chắn, mệnh thằng Quang giờ nằm trong tay trời.
Khi Quang đi, dân làng quây quần lại như dâng một ngọn đèn hoa xuôi sông. Người ta có lời chúc hắn, có lời cảm ơn, có buồn bã, các cô khóc trên vai hắn. Cái tình cộng đồng bảo bọc Quang trong những giờ thân quen cuối cùng trên quê hương.
Đời lính bỡ ngỡ và khó khăn, chính Cường dạy hắn độn giày, chính Cường dạy hắn nhóm bếp Hoàng Cầm. Rất gần, nhưng rất xa. Hành quân với nhau, nghỉ chân với nhau nhưng cuộc nói chuyện cần có thì lại thiếu, mãi phải đến sau buổi chỉ thị chiến thuật cho trận đánh liền kề họ mới ngồi lại được với nhau, Cường đã xin cho hai thằng cùng kíp trực đêm.
Quang trong màu áo xanh mỏng tang ngời ngời khí phách, nhưng anh cứ tiếc bộ dân phục Ơ Niêng vải mềm như lụa.
-Anh đã huấn luyện súng xong chưa?
-Xong rồi, mọi người chỉ rất nhiệt. Nhưng cái điểm xạ ấy chắc ra trận không dùng được?
-Ừ, lúc thấy địch chỉ bắn loạn lên thôi chứ kỹ thuật gì mấy. Nhưng phải vệ sinh súng, không kẹt thì dở.
Đứng giữa lùm cây cao, người ngoài không thấy được hai bàn tay nắm.
-Đành là phục vụ đất nước, nhưng tại sao?
Cường ngửa mặt lên trời, hình như không phải hỏi Quang.
-Cậu đừng nhiều lời, anh đi là đi.
Thật ra, trong hắn cũng bao nhiêu là oán hận, chẳng qua đến lúc này mới vực được mình dậy để trả thù. Còn mối quan hệ với Cường, không hiểu sao nó giằng xé hắn vậy, những ánh nhìn trộm khi trong hàng ngũ, bữa ăn ngồi cạnh nhau, Quang lắm lúc bực mình vì thứ tình cảm sến súa ấy. Hắn ước gì mình hận được Cường cho bớt phần phiền phức, nhưng nhìn anh mãi, hắn biết rằng dù có hận, có ghét, đối với Cường mình vẫn sẽ có yêu.
-Em nhớ Ánh quá, nhớ làng. Em nhớ một chắc anh phải nhớ mười. Tại sao lại đi với em? Làm sao mà phải thế? Sao không ở nhà chờ em?
-Cậu đến mang cơn sốt rừng mà đến, đi lại mang một nửa trái tim anh đi. Nói vậy mới chịu à? Cậu chưa từng hỏi ý anh thế nào, anh chịu nắng chịu sương thì được, chứ chịu một cuộc chia biệt nữa thì anh thua! Hay là giờ cậu muốn đuổi anh? Hay là… Là anh nhầm? Ý cậu là vậy?
-Không, anh biết em không có ý đó mà.
Bầu không khí lạnh ngắt đi giữa cuộc chiến tranh lạnh. Đã đi theo rồi không khen được câu thì thôi, cứ hỏi hỏi hỏi cái mả cha nhà nó nữa. Được một lúc thì Cường xuống nước, áp mình cạnh hắn giữa đêm sương buốt.
-Em lo…
-Thì cậu cứ lo, nhưng ở bên anh, hướng dẫn anh, nào phải thủy tinh đâu mà cứ sợ vỡ.
Cường chịu thua hẳn, tay mân mê tràng hạt trên cổ. Chà, trăng đã khuất bóng, tối om thế này chỉ có nước soi đèn mới nhìn được, thì là cúi xuống, đặt nụ hôn lên vai người kia. Quang bằng lòng, xoay người lại ôm riết lấy anh, bao tức giận cứ siết vào cho chặt, rồi thả tay ra thì nhẹ lòng thôi. Đêm không màu, mà như tràn ra một chiều hoa nắng, hắn tựa lên vai anh căng tràn nhịp thở, và chạm môi.
Cường thở hắt ra, không phải thủy tinh chứ gì? Hai bàn tay nắm chặt vòng eo người kia, kéo dính vào mình, muốn khảm lên da, muốn nuốt vào bụng, nụ hôn dây dưa cũng bạo lực lưỡi môi. Quang ngạt khí, đẩy anh ra, nhưng vẫn giữ rất gần, trán chạm trán trao cho nhau nhiều hơn là xác thịt, trốn tránh ban mai.
-Cường, cậu là chồng anh rồi.
Gì mà chóng thế?
-Hôm ở miếu thờ…
Cường phá lên cười, nhưng phải nín lại kẻo đánh thức ai.
-Thế tức Quang là vợ em?
-Chồng em.
-Không, không, đài hoa của em.
-Đàn ông đàn ang hoa hoét cái gì?
-Anh lại nói thế rồi.
Cường cười tươi lắm, như một tia nắng trong đời sống dài dặc và âm u này. Và chắc Quang thật là một bông hoa, đến giờ rực rỡ lên trong ánh sáng.
Sương tan, họ đi vào chiến tranh. Bụi mù mịt mùa khô bốc lên cay xè mắt, nòng súng và lưỡi lê có những nhịp điệu của riêng nó, găm sâu vào những cổ họng rách toạc máu tươi. Cường lăm lăm tiến lên trước, vừa chạy vừa che chắn, bọc sau mình những tiểu đội lính trẻ. Bao nhiêu tiếng gào thét anh cũng mặc, chỉ cần không phải là giọng Quang.
Tiếng đạn 14 ly 2 và súng lựu rền ầm ầm, vòm trời là cái vung sắt méo mó bởi vũ khí. Các anh chiến đấu hầu như không nhờ mắt hay tai, mà bằng bản năng sinh tồn giành giật từng thớ đất và từng hơi thở trong ngực. Cường nhiều lúc liêu xiêu bởi đạn nổ ngay bên, nhưng lại xách súng xông pha. Anh cọc cằn và hiệu quả như một chất kim loại lạnh, những bánh răng trơn tru bởi căng thẳng nối tiếp từ khi bắt đầu đến khi im bặt âm thanh.
Trong giờ phút chinh chiến, rất dễ bị cuốn vào cơn khát máu thức thời, điểm chiến lược đã chiếm xong nhưng anh vẫn chưa ngơi cò nổ, chiến dịch vẫn đang hoành hành trong anh như cơn sốt rát bỏng bốc lên. Người ta gọi anh nhưng anh không nghe, như con thú trong lãnh thổ của mình, Cường tiến lên tiếp và có thể còn đi mãi nếu không nhờ Quang liều mình ôm chặt anh từ phía sau.
-Cường! Thôi! Xong rồi mà! Nó chết rồi!
Nhìn xuống dưới mình, anh kinh hãi nhận ra cái gì đã từng là sọ người vỡ nát dưới báng súng trong tay. Mọi người nhìn, rất e sợ. Cường có những biểu hiện hư hỏng đầu tiên từ dạo ấy.
-Anh có sao không?
Cường loay hoay quanh anh, và thở phào như một trái pháo xì. Quang kéo tay anh đi một mạch ra mé rừng khuất bóng.
-Lần nào cậu cũng thế này?
-Không! Chẳng qua em hơi hăng, không nghe thấy mọi người thôi mà.
Cường vội vã thanh minh, bây giờ là với Quang, sau là tiểu đội trưởng. Bàn tay anh run như động cơ còn chưa nguội hẳn, Quang giữ lại ngay.
-Làm anh sợ chết khiếp! Sau thôi cái trò ấy đi nghe chưa!
Khổ nỗi, sự cuồng dại ấy đã bén rễ trong Cường, nhưng lâu dần trở thành một sự cuồng dại kỷ luật, có kiểm soát mài sắc ở ánh mắt. Anh trở nên cảnh giác, ngủ nông, đôi khi nhìn vào xa xăm khi có dù chỉ một chiếc lá lay động. Những cơn ác mộng đều đặn và âm thầm nhưng tuyệt đối im ắng, tính khí nóng nảy lên mà lại lầm lì đi, khiến mọi người sợ tiếp xúc như trái bom hẹn giờ chẳng biết bao giờ phát nổ.
Ai nấy đều chỉ biết trông vào Quang khi Cường lộ ra những biểu hiện ấy, phải mấy tuần liền anh sống trong trạng thái nguy hiểm như thế. Đối nghịch ở chỗ, càng căng thẳng bao nhiêu, Cường lại càng có ích bấy nhiêu. Các giác quan được tôi luyện thính nhạy, những cơ bắp linh hoạt lên với tốc độ, một tinh thần cảm tử quân khó mà ưa mắt đưa anh xông lên và đón anh về duy chỉ nhờ vào may mắn.
Một chiều hướng suy đồi như thế quy tắt lại vẫn để bảo vệ Quang. Vị chỉ huy phát hiện ra điều ấy, biết được hai người có thời gian gắn bó với nhau ở Ơ Niêng, gã nghĩ ngay ra một cách để hãm lại tính khí của Cường, ấy là chuyển Quang sang làm lính điện đàm, rồi thì lính lái xe, sau thành trung đội phó và giờ là chiến lược gia do anh thông tỏ địa hình đồi núi.
Thật vậy, Cường nền tính đi trông thấy, thậm chí có phần thờ ơ với giao tranh. Quang, khi biết mình được vận dụng như vậy tất nhiên đã có cơn tức giận, nhưng hắn hợp với việc chỉ huy quá. Biết mềm mỏng đúng lúc đúng chỗ và là người thông minh, không thể chối cãi được hắn đi xa đến nhường này là nhờ nhiều vào năng lực.
Mà cũng có cái hay, Quang có thể bố trí toàn cục sao cho các cánh quân và chính Cường điều tiết được nhịp độ của mình. Cường giờ đây phục vụ cho mục đích của hắn, và anh quá sẵn lòng làm một công cụ như thế.
Quá sẵn lòng.
Đến khi cần thiết, Quang được điều xuống mặt trận Thanh-Nghệ-Tĩnh, và lại một đêm hiếm hoi ngồi lại được với nhau trong lều riêng của hắn. Cường có thái độ điềm đạm đã rèn được qua chiến lược “làm khùng làm điên thì cạch mặt ba ngày” của Quang, ngồi êm ru nhìn anh bằng đôi mắt đã nhiều phần mệt mỏi, nhưng vẫn rất tình.
-Anh bận quá, biết bao giờ được về thăm làng?
-Tết. Tết là được về, em cũng thế.
-Vậy ta hẹn nhau ở Ơ Niêng.
Cường cười hiền, không ngờ mình còn nhẹ nhàng được vậy, Quang đáp lại bằng một bờ môi sát. Khác với chuyện xưng hô đồng chí đã thành nếp của Quang với quân nhân kém bậc, Cường vẫn được thân mật “anh-em”, và đôi khi nếu đủ thoải mái thì khúc khích “vợ-chồng”.
-Chồng anh đi phải biết bình tĩnh nhe. Anh ở trong đó là an toàn nhất rồi, đừng nghĩ nhiều.
-Vâng, vợ nói thì em nghe.
Họ ôm nhau ngủ đến gần sáng, gấp gáp động chạm, vội vã trêu đùa. Nhìn chiếc xe chở người yêu an toàn lăn bánh, Cường ngồi lại với sự trống rỗng man mác buồn, đó là lần cuối họ gặp mặt trong năm năm tiếp theo.
Những ngày tháng xa nhau, Cường hay nhìn lên bầu trời đêm, mắt nhìn chòm Đại Hùng nhưng môi thì mấp máy:
-Chòm A Quang đấy, chòm A Quang…
Chắc hắn ở xa kia đang cùng ngước lên với mình, điểm thấp nhất của cái muôi vừa vặn chỉ về căn nhà nhớ nhung, có lẽ Ánh cũng đang nhìn theo đấy.
Những lá thư viết vội nhiều khi mất hàng tháng, hàng năm mới đến tay người nhận. Năm ấy cả Cường và Quang mỗi người chỉ nhận được một lá thư từ con bé, trân trọng giấu kín trong ngực áo như một trái tim thứ hai.
Tết, Cường bết bát bởi nồm ẩm quay về làng, và hay tin Quang bị giữ lại bởi một trận đánh bất ngờ từ quân địch, phải tuần nữa mới về được.
-Lúc ấy chú đã ở Bắc Giang.
Cường nói với Ánh, con bé buồn hẳn. Mới dăm tháng thôi mà con bé đã có điểm khác, chững chạc hơn và ra dáng đích tôn của tù trưởng. Mái tóc đã từ ngang lưng dài đến hõm eo, cao hơn một chút, duyên dáng hơn một chút, hay là đã thích cậu trai nào? Cường đùa và con bé cười phá lên, té ra là được các chị chỉ cho. Vắng ba, con bé lấy mọi người làm điểm kết nối, tham gia vào những mùa gặt và việc lễ lộc thường niên.
Già đã hơi yếu đi, nhưng ông phấn khởi khi thấy Cường. Thời buổi loạn lạc mà gặp lại được một khuôn mặt quen là mừng lắm, già đón anh vào hỏi chuyện như cũng con trai mình, rồi trình bày chuyện làng với anh như khoe ra một chiến tích. Vụ mùa bội thu hay đã cấp lương thực được cho đơn vị nào, già có hết trong một cuốn sổ kẻ ô.
-Ánh viết đấy, và mấy đứa nhỏ khác, chuyện ghi chép trông được vào chúng nó cả.
Anh nghe vậy thì hãnh diện không thôi. Bên ngoài mưa phùn lạnh, ẩm, nhưng trong nhà ấm cúng. Lại được lần nữa đồ cơm cho bé con ăn, anh vui vẻ chừa chỗ cho Ánh vào phụ giúp. Từ khuôn mặt trái xoan xinh xắn ấy, đôi mắt Quang hấp háy nhìn anh.
Sự khuyết thiếu còn đấy, nhưng biết rồi sẽ đầy lại. Mùa xuân chưa gặp thì mùa thu sẽ gặp, không thì năm sau.
Nhưng thế trận sau cái Tết ấy căng như dây đàn-giăng trên một số phận lớn quá Cường không đánh được. Bao nhiêu ngày phép phải gác hết lại cho những trận đánh trọng yếu của quân ta. Cường còn được ưu ái cho đôi ngày mỗi năm do đồng đội đọc trộm được lá thư của Ánh đã đồn lên cấp trên rằng anh có con. Tờ thư nhòe mực còn đọc được dăm dòng:
“... như mọi khi. Con trong này vẫn khoẻ, con chờ ba và chú trở về.”
Quang thì không may mắn được như thế, tết năm 73 rốt cục hắn không về được. Từ cuối năm 72 đến 75 hoà bình, chỉ có một lần hắn ghé nhà được một đêm do tiện đường di chuyển.
Ánh không thấy giấy báo tử gửi về, nhưng khi nhìn thấy người thật đứng sừng sững trước cửa nhà nhìn mình, nó vẫn vì xúc động mà oà khóc nức nở. Quang xót lắm, bế nó nhẹ tênh trong tay, vừa ôm vừa xoa lưng dỗ dành, thời khắc đoàn tụ sao mà thiêng liêng thế.
Nghe về Cường qua lời kể của của con gái hắn mới thấm thía hai người xa nhau đến nhường nào. Song lúc này làm gì có chỗ cho tâm tư mùi mẫn, hắn cố gắng tập trung vào thực tại nghe về những thành tựu của con mình.
-Giỏi quá ta. Vậy thì ba yên tâm công tác rồi, chuyện nhà có con gái lo cả.
Đó đã trở thành động lực cho Ánh suốt thời niên thiếu vắng cha vắng mẹ. Mà cũng đâu hẳn là thiếu thốn gì lắm. Cường về đều, băng qua sinh tử kiếp người mà về với bé con của mình. Anh chứng kiến sự trưởng thành của Ánh thay cho Quang, ôm con trong những lúc tủi thân, dìu dắt đứa trẻ mới lớn vào đường đời đầy rẫy bất trắc và trách nhiệm.
Nhiều đại đội bộ binh, tất nhiên là có cả Cường đã tham gia vào chiến dịch Điện Biên Phủ trên không. Đất trời khói lửa, thiên thần thép rơi, ngày hoà với đêm, thực hòa với mộng. Cường cảm ơn tất cả những gì trên đời đã không đặt Quang vào trận đánh ấy.
Về phần mình, Cường bị thương nặng, mảnh pháo cắt ngang từ sườn trái lên tới vai phải thậm chí không đưa được về cánh sau để khâu lại. Đồng đội anh chỉ biết liên tục ép băng cầm máu và cầu nguyện. Mặt trận Điện Biên Phủ lúc ấy là lễ đàn to lớn và ồn ã nhất tồn tại trên địa cầu, Cường sống sót được cũng là phép màu với thêm một vết sẹo da non trắng bệch biến dị trước ngực và bụng.
Hoà bình đã đến với Hà Nội, Sài Gòn, Ơ Niêng và với Quang. Hắn trở về làng đảm nhiệm công tác đoàn đội và tái thiết ở đó, trong khi Cường tiếp tục hai năm chống Khmer Đỏ và rốt cuộc được giải ngũ vì bị sốc bom mất một bên thính giác.
Ngày lừng thững quay về, Cường đi nhờ xe suốt quốc lộ, tới chân đồi thì cuốc bộ theo con đường làng quen mặt đã trơ cỏ theo thời gian. Hoàng hôn xuống dần, ánh tàn ngày phản chiếu lại trong những lá cây nhẵn mướt như gương, rực sáng cung đường.
Chim kêu như hát
Hương hoa rượu say
Sắc xanh làm mát
Nắng đong đầy tay
Lối anh về sáng tối kẽ lá
Lối anh về “rợp bướm vàng bay”.
Cường đi không thấy mệt, thấy tim mình lặng thế. Từ hun hút trong rừng có cơn gió mát lùa qua như hơi thở dài của hàng thập kỷ gồng mình, tẩy sạch cho anh những bụi cát chiến tranh. Cường quỳ vái trước miếu thờ, và chỉ cây nữa là đến làng.
-Cường! Cường về kìa!
Những anh nông dân về muộn nhận ra anh, ríu rít chạy lại. Sau rồi các cô, sau rồi các cháu, khi Cường ngẩng lên khỏi cảnh quây quần, anh thấy Quang và Ánh đứng cách một quãng, thổn thức nhìn mình.
Ánh của anh lớn quá.
Quang của anh vẫn vậy, cười duyên trong y phục vải lanh thắt đai lưng, bốn vạt áo xòe như đài hoa thanh tú.
Con bé chạy vội đến, rẽ người mà lao vào vòng tay anh, ôi nước da nhớ thương, màu đỏ phù sa, màu đỏ đất, con bé ngẩng lên và nghẹn ngào sau những ngày bặt thư từ, sau những ngày tưởng người đã mất. Nó gọi, nó gọi anh đấy!
-Ba… Ba Cường!
Cường khóc, thấy lướt qua trước mắt là tất cả những gì đã triền miên thúc đẩy mình giữa đời lính khốn khó, trong gian lao vịn vào lấy làm vì. Anh chực nhớ lại điều mà Quang đã nói không biết bao nhiêu lần với mình trong hai tháng ngắn ngủi gần sát nhau nhất vào mùa khô năm 72, điều cứ vang vọng trong anh mỗi lần nhớ về Ơ Niêng:
“Ở đây là rừng nuôi người.”
---
Các bạn đọc được đến dòng này là giỏi hơn tui gòi. Chờ chap 2 nhooo
Bạn đang đọc truyện trên: truyentop.pro