Chương 1


Ngồi trong căn phòng ngập tràn sách, nơi đặt bộ sưu tập cổ có niên đại khác nhau được bày biện cẩn thận, tôi cảm nhận mùi trầm hương lan tỏa, thấm dần vào tâm trí, khiến đầu óc như rơi vào một cơn mộng nhẹ. Trong trạng thái tinh thần thả lỏng, tôi ngồi thẳng lưng, lật lại từng trang nhật ký. Dường như bị thôi thúc bởi ký ức xa xăm, tôi đặt bút xuống và ghi lại những dòng hồi ức mà suốt đời này tôi không thể nào quên.

Tôi vẫn nhớ như in cái đêm chúng tôi đào mộ. Bốn thằng trai làng Trọc, nghèo xác xơ nhưng trong lòng vẫn ăm ắp ước mơ đổi đời. Năm ấy, ruộng mất mùa, gió Lào quét khô cả cánh đồng, mẹ tôi nằm liệt giường mà thuốc thang chẳng đủ tiền mua. Tình cờ, trong một cuộc nhậu ở nhà Lão Bảy Thân, thằng Hào ngà ngà say bỗng tiết lộ một bí mật động trời, điều đó đã đưa tôi vào những câu chuyện quỷ dị sau này. Khi Hào nói rằng có một ngôi mộ cổ chôn vàng, tôi như kẻ chết đuối vớ được cọc.

“Đào tối nay đi, không ai biết được. Ông quan chết đã trăm năm, có ai mà biết”. Hào thì thầm, ánh mắt lấm lét trong đêm.

“Tao sợ.” Thằng khác đáp ngắn, tiếng nói lạc đi.

Tôi cười khẽ, nửa đe nửa dụ: “Tụi mày biết rồi mà, đụng chạm vào đồ của người chết, không phải chuyện tốt.”

“Nhưng...”

“Tụi mình chỉ xin một ít, chẳng nhiều đâu.” Giọng khác vội xen.

“Nhỡ họ thương tình, cho thì lấy.”

Tôi ái ngại nhìn quanh mọi người trong mâm nhậu, lòng dấy lên cảm giác bất an. Nghĩa địa làng Trọc nằm tận trên sườn đồi. Những nấm mộ cũ nứt toác, cỏ dại mọc um tùm như tóc người. Nơi đó vốn được xem là cấm địa, ít ai dám lui tới. Chỉ đến dịp lễ Tết mới có vài nhóm người đi tảo mộ, mà cũng chẳng ai đủ can đảm đi một mình. Trăng lưỡi liềm treo chếch, sáng bạc nhưng lạnh lẽo như nước sông chảy Xiết.

Đợi đến nửa đêm, chúng tôi mang theo xẻng, cuốc, bao tải, đèn pin và chai rượu trắng. Gió thổi hun hút qua hàng tre, lá xào xạc nghe như tiếng người thở dài đâu đó trong đêm. Tôi rùng mình, kéo cao cổ áo. Bình cười hềnh hệch:

“Ma cỏ gì tầm này! Vàng thật mới đáng sợ.”

Chúng tôi chọn ngôi mộ ở cuối nghĩa địa, tấm bia đá đã rêu phủ, chữ gần mờ hết, chỉ còn lờ mờ ba chữ Trần Công Hậu. Dưới chân bia là nấm đất lồi lên, rắn chắc, quanh mộ có bốn cây cau mọc xiên xiên như đang canh giữ.

Tôi cắm đèn pin xuống đất. Dưới ánh sáng vàng nhợt hắt lên, Hạo rót rượu ra bát, vái lấy lệ, miệng lầm rầm mấy câu chẳng rõ:

“Quan lớn đừng giận. Bọn con khổ quá, đến bước đường cùng rồi mới dám mạo phạm chỗ yên nghỉ của quan. Chỉ xin một chút lộc thôi, mong quan thương tình mà bỏ quá cho.”

Hắn hất bát rượu xuống đất. Chúng tôi mở túi ra, nhét vào miệng vài lát gừng, rồi mới bắt đầu từng nhát cuốc. Đất nghĩa địa khác hẳn đất ruộng, nặng và khô. Mỗi nhát cuốc đều bốc lên một làn hơi tanh, như mùi sắt gỉ pha lẫn xác chết lâu năm. Tôi dừng tay, đưa tay lên dây dây mũ làm xoa dịu một phần mùi khó chịu, nhìn về phía ngôi mộ, nuốt nước miếng, mồ hôi lạnh rịn ra khắp cơ thể, tôi đưa tay lên lau mồ hôi trên trán. Tiếng cuốc, tiếng thở, tiếng gió hòa vào nhau, nghe như trăm người thì thầm xung quanh.

Sau gần một giờ, cuốc của Bình chạm phải vật cứng.

“Quan tài… thấy quan tài rồi!” Anh ta thét lên.

Tốc độ chúng tôi hì hục tăng lên khi moi ra được  một chiếc quan tài gỗ lim đen. Nắp quan tài nứt đôi chỗ, dây thừng mục quấn quanh. Từ khe nắp, hơi lạnh bốc lên nồng nặc, mùi hôi thối của thi thể phân hủy phát ra khó chịu. Tôi vội đeo thêm lớp khẩu trang, đổ nguyên chai dầu lên để át đi mùi tanh nồng.

“Coi cái thằng sợ thì ở nhà ôm bà già mà ngủ đi, đến đây chi?”

“Đổ hết chai dầu mẹ, không để cho anh em!”

“Đập đi!” Hào nói.

Tôi còn chưa kịp phản ứng thì Lực đã cầm cuốc phang mạnh. Nắp quan tài bật tung ra một bên, đi kèm với nó là mùi khó chịu và bụi bay mù mịt. Cả đám phải đưa tay lên bịt mũi. Một luồng khí đen từ bên trong quan tài bốc lên như khói, đèn pin vụt tắt. Tôi chỉ nghe tiếng ai đó hét, rồi tiếng vật gì lăn lóc dưới đất.

Khi ánh sáng trở lại, tôi nhìn thấy trong quan tài xác người đàn ông khô đét, da vàng úa như đất, hai hốc mắt trũng sâu, nhưng bàn tay vẫn nắm chặt mấy thỏi vàng sáng rực. Chúng tôi đứng đờ người, không biết phải làm gì tiếp theo.

“Lấy đi, mau!” Hào gắt.

Bình run run thò tay giật lấy. Ngay lúc ấy, tôi nghe rõ một tiếng “khục…” khe khẽ, bật ra từ cổ họng khô. Tôi lùi lại, tim đập thình thịch. Giọng nói lắp bắp: “Nghe thấy gì không?”

“Gió thôi, mày nhát quá!”  Hào gắt, rồi bỏ hết vàng vào bao, cười ha hả.

Xong xuôi mọi việc, chúng tôi lấp đất qua loa rồi vác bao chạy khỏi nghĩa địa. Tôi đi đằng sau, quay đầu nhìn lại, cảm giác có người đang nhìn mình. Không thấy ai, tôi kéo mũ đội, bước vội theo đám bạn. Linh cảm của tôi không sau, lúc chúng tôi không để ý, có đôi mắt đỏ ngầu đang dõi theo từng bước chân của bọn tôi.

Chạy xa một đoạn, chúng tôi chọn vị trí kín đáo để chia phần ngay tại bãi đất trũng sau vườn chuối. Ánh đèn pin yếu ớt phản chiếu vào từng miếng vàng sẫm ánh, lấp lánh trong bùn đất. Những đồng tiền cổ bị vùi lấp từ lâu vẫn không bị mai màu, chứng tỏ độ giàu có của chủ nhân ngôi mộ.

Hào run tay, nhưng mắt hắn lại sáng rực như lửa.

“Trời ơi, cả đời mới thấy… Vàng thật đó, Nam ơi!”

“Chuyến này giàu to.” Bình nhìn vào từng thỏi vàng, ánh mắt sáng lên.

Tôi chỉ gật đầu, tim đập dồn dập. Mùi đất mồ, mùi sắt gỉ, và một thứ gì đó mang mùi tanh nồng như máu cũ vẫn còn quanh quẩn đâu đây. Tôi nghe văng vẳng trong gió, tiếng ai đó đang gọi tên mình từ phía ngôi mộ vừa đào.

“Nam…”

Tôi giật mình quay lại, giơ đèn pin lên rọi. Không có hình bóng của ai khác ngoài cả đám người chúng tôi. Chỉ có hàng chuối lay nhẹ, lá xào xạc, tiếng côn trùng rả rích và màu đêm đen nuốt chửng những tên trộm mộ có lòng tham không đáy.
Lão Bảy Thân cười khùng khục: “Thôi, đừng lo. Của trời cho, có gan thì hưởng. Đào trúng mộ cổ là trúng mánh.”

Nhưng tôi biết rõ thứ đó không phải của trời, mà là thứ chúng tôi xâm lăng, đụng cạnh đến chỗ yên nghỉ của chủ mộ. Trong khoảnh khắc khi Hào moi nốt lớp đất cuối cùng, tôi đã thấy một bàn tay đen sì lộ ra dưới đáy mộ lâu năm không mục, không xương, chỉ đặc quánh lại như gỗ cháy. Nó cong queo, vẫn còn nắm chặt một mảnh vải rách có thêu hình vòng tròn đỏ. Tôi nhớ rõ mình đã hét lên, nhưng Hào chỉ cười, vung cuốc bổ mạnh, chặt phăng bàn tay ấy rồi hất ra ngoài.

“Đồ cũ thôi. Lấy vàng rồi lấp lại là xong.”

Nhưng khi cuốc của Hào chạm vào đất, tôi nghe một âm thanh nhỏ, rất nhỏ: “Đừng… động vào…”

Khi chia vàng, tôi lấy ít nhất. Tôi không rõ vì sao, chỉ thấy bất an. Còn Hào, hắn nhét gần nửa phần vào túi áo, cười như điên. Lão Bảy hào hứng nói đem về giấu trong chum gạo. Phần còn lại của Bình, gã cầm lên cười lớn, ánh mắt dại đi vì sung sướng. Trước khi chia tay nhau, chúng tôi thề không nói với ai.

Từ hôm đó, vàng chia làm bốn phần. Tôi giấu dưới đáy hòm áo quan nhà cũ, sợ mẹ biết. Hào đem đổi một phần, mua xe máy, rượu thịt linh đình. Lão Bảy Thân xây chuồng heo, Bình mua nhẫn cho vợ sắp cưới. Ai cũng mừng, trừ tôi trong đầu vẫn ám ảnh đôi mắt sâu hoắm kia.

Đêm đầu tiên, tôi nằm mơ. Trong mơ, tôi thấy mình bị chôn trong chiếc quan tài ấy, cố vùng vẫy mà không thoát được. Khi mở mắt ra, trên ngực tôi có một nắm đất ẩm. Tôi tự trấn an, chắc do mèo chạy qua.

Ngày thứ ba, Lão Bảy Thân đến tìm tôi, mặt xanh như tàu lá.

“Ê, đêm qua… tao nghe tiếng gõ ba cái dưới nền nhà. Đúng chỗ tao giấu vàng.”

Tôi rùng mình: “Rồi sao?”

“Rồi tao mở ra, không thấy gì. Nhưng sáng nay heo nhà tao chết sạch. Mắt nó trắng dã, miệng há hốc…”

Hào nghe vậy thì chửi: “Điềm xui thôi! Đừng nhát gan, vàng còn nhiều, phải sống khá chứ.”

Nhưng kể từ đó, chuyện lạ dồn dập.

Bình bị ngã giếng người ta nói hắn say rượu trượt chân, nhưng trong giếng, thấy rõ dấu móng tay cào nát bùn.
Lão Bảy Thân phát điên, cười suốt ngày, miệng lảm nhảm:

“Trả vàng cho ông ấy… trả đi…”

Rồi hắn đập đầu vào tường chết, máu chảy đỏ ối. Hào vẫn trơ trơ, chỉ nói:

“Chúng mày yếu vía, tao sống khỏe.”

Nhưng đêm nọ, hắn chạy sang nhà tôi, run như cầy sấy:

“Vàng… vàng tao mất rồi! Tao khóa kỹ lắm, mà sáng ra chỉ còn… tro bụi!”

Tôi đi theo hắn xem, trong ngăn tủ thật có tro đen, khét lẹt, hôi như tóc cháy.

Từ hôm đó, làng bắt đầu đồn: “Đêm nào cũng thấy bóng người ngồi bên mộ vị quan thời Trần, tên là Trần Công Hậu.”

Có bà cụ già tâm niên trong làng nói thấy ánh lửa vàng nhấp nháy trong đất, còn có đứa trẻ khẳng định nghe tiếng ai đó cào cửa mỗi khuya.

Tôi không dám tin, nhưng rồi chính tôi cũng nghe. Ba đêm liền, vào đúng giờ tý, trong lúc ngủ, tôi mơ thấy một người đàn ông mặc áo quan triều xưa, mặt phủ lớp đất khô, đôi mắt trắng dã như sương. Hắn đứng ngay đầu giường tôi, khẽ nói:

“Trả… lại… cho ta…”

Tôi run rẩy đốt nhang khấn: “Quan lớn ơi, con không dám, xin tha cho con…”

Ông ta chỉ nở nụ cười cứng đờ, rồi biến mất, không mở miệng trả lời. Tôi bật dậy, mồ hôi lạnh toát. Tôi hét lên, quăng nhang chạy ra ngoài. Ngoài sân, con chó nhà tôi tru lên từng hồi dài, tiếng nó rền rĩ như ai bị bóp cổ.

Đêm đó, gió nổi lên đột ngột, cửa sổ đập rầm rầm. Tôi chạy ra sân, nhìn thấy dấu chân in trên đất ướt, kéo dài từ cổng vào đến tận chỗ tôi vừa đứng. Dấu chân đen, dính bùn và không có ngón. Ngước đầu lên thì thấy Hào đứng giữa sân, đầu trùm bao, tay ôm bao vàng.

“Hào! Mày làm gì vậy?”

Hắn quay lại, mắt lạc thần: “Ông ấy đòi vàng… mày không nghe sao? Tao phải trả…”

Hắn đi thẳng về phía nghĩa địa. Tôi chạy theo, gió thổi rít qua tai, cỏ ngả rạp. Đến mộ Trần Công Hậu, đất vẫn nguyên, chỉ có vệt nứt dài như vừa ai đó bới. Hào quỳ xuống, đặt bao vàng lên đất, lẩm bẩm:

“Con trả lại rồi… tha cho con…”

Đất dưới chân hắn rung lên. Từ vết nứt, một bàn tay khô héo trồi lên, nắm chặt lấy cổ chân hắn. Hào hét thất thanh, nhưng chỉ một lát, đất sụp xuống, nuốt chửng hắn cùng bao vàng. Tôi lùi lại, ngã quỵ, nghe rõ tiếng đất lấp rào rào như ai đang chôn sống.

Sáng hôm sau, tôi sang nhà Hào. Cửa nẻo đóng kín. Tôi gọi mãi không ai trả lời. Lát sau, mẹ hắn bước ra, mặt tái xanh, nói trong run rẩy:

“Tối qua nó la hét, rồi im bặt… Sáng dậy thì… thì thấy chết cứng ngoài sau nhà…”

Tôi không tin nổi vào tai mình. Tôi chạy vào và thấy Hào nằm úp mặt trên đất. Mặt hắn cứng đờ, môi tím bầm, mắt mở trừng trừng như vẫn nhìn thấy thứ gì đó khủng khiếp đến mức linh hồn hắn không dám rời đi. Trên cổ, có một vết tay in đen như bị bóp nghẹt.

Tôi ngã quỵ xuống đất, mặc cho lớp bùn đất bẩn thấm vào quần áo. Từ trong túi áo hắn, vài miếng vàng rơi ra, loang lổ vết máu đỏ sẫm. Điều đó chứng tỏ đêm qua không phải là mơ, mà là sự thật. Ông ấy đã quay về để lấy lại số vàng của mình. Ngay từ đầu, chúng tôi đã quỳ xuống cầu xin, mong ông đừng nổi giận vì chúng tôi tự ý lấy vàng từ ngôi mộ của ông. Nhưng lời thỉnh cầu ấy đã không được chấp thuận.

Lão Bảy Thân nghe tin thì hoảng, vội đem phần vàng của mình ra sông ném đi. Tôi làm theo không dám giữ làm của riêng . Nhưng khi vàng rơi xuống nước, tôi nghe rõ mồn một giọng cười khàn khàn vang lên từ dưới đáy sông:

“Trả muộn… rồi…”

Cùng ngày dân làng phát hiện dấu chân quanh mộ, còn lại duy nhất chiếc dép của Hào, ướt sũng và dính máu. Họ chôn lại nấm mộ, dựng thêm tấm bia gỗ. Không ai dám bén mảng nữa. Cùng lúc đó nhiều ngày sau, dân làng đồn rằng ban đêm hay thấy một bóng người mặc áo nâu sậm đi quanh khu đất chúng tôi đào, tay cầm cây đèn dầu cháy xanh lét. Ai nhìn lâu đều thấy nó quay đầu lại mặt rữa nát, chỉ còn hốc mắt đen ngòm.

Tôi không dám ra ngoài vào ban đêm, sợ rằng bản thân sẽ là mục tiêu kế tiếp trả mạng. Đêm nào cũng nghe tiếng cào vào vách, tiếng gõ ba nhịp lên cửa sổ. Mẹ tôi tưởng là chuột, nhưng tôi biết không phải. Mỗi khi tôi ngủ thiếp đi, hắn lại xuất hiện trong mơ, giọng thì thầm như rít qua răng:

“Vàng của ta… linh hồn đổi lấy…”

Tôi bắt đầu nhận ra, chúng tôi đã đào nhầm mộ. Vàng bạc mà chúng tôi mang về nhà không phải là báu vật, mà là vật dẫn giúp hắn quay lại. Và điều hắn muốn, không chỉ là vàng. Chính là bốn linh hồn đã cả gan quấy rối giấc ngủ của hắn.

Giờ chỉ còn tôi và lão Bảy Thân.

Ba đêm sau, người ta phát hiện xác lão Bảy nằm trong giếng sau nhà. Nước giếng đen kịt, bốc mùi tanh lạ. Khi kéo lên, da lão tím bầm, hai con mắt mở to đến rách mí, như đang bị thứ gì đó lôi ngược xuống.

Tôi hiểu rõ lần tiếp theo sẽ đến lượt tôi.

Tôi mất ngủ suốt mấy đêm liền sau cái chết của lão Bảy Thân. Mỗi khi nhắm mắt, trong đầu tôi lại vang lên tiếng xào xạc như đất đang bị xới lên từ lòng mộ. Căn nhà bỗng trở nên lạnh lẽo lạ thường, dù giữa trưa vẫn có cảm giác như mặt trời bị che bởi một bóng tối vô hình. Con chó nhà tôi bỏ ăn, chỉ nằm rên ư ử. Mẹ tôi bảo:

“Có khi tại con lo quá, chứ chuyện ma quỷ ai tin được.”

Nhưng bà đâu biết, mỗi đêm tôi đều nghe tiếng người đi lại ngoài sân, nặng nề, chậm rãi. Tiếng dép lê sột soạt kéo dài tới tận cửa sổ phòng tôi, rồi dừng lại. Khi tôi run rẩy hé mắt nhìn qua khe rèm, một bàn tay đen sì, nát vụn như than cháy bỗng ép sát lên kính. Bàn tay đó không có móng, mà đầu ngón tay bị mài mòn, rỉ ra chất đen đục đặc như nhựa đường.

Tôi thét lên, mẹ chạy vào bật đèn tìm kiếm xung quanh chẳng có gì ngoài vết bẩn kéo dài trên kính, hệt như ai đó vừa in tay thật mạnh.

Tôi biết… hắn đã đến thật rồi. Và giờ đây, tôi là kẻ còn sống cuối cùng trong bốn tên trộm mộ.

Sáng hôm sau, tôi xách ba lô bỏ đi, chỉ kịp để lại tờ giấy dặn mẹ rằng tôi phải đi xa một thời gian. Tôi lang thang mãi, đi bộ dọc quốc lộ, tới khi bóng chiều buông xuống.

Trong lòng tôi chỉ còn một ý nghĩ duy nhất mọi giá phải trốn khỏi ngôi làng ấy, nơi đất chưa khô máu và oan hồn vẫn lẩn quẩn quanh từng gốc chuối, từng bờ ruộng.

Tôi đi mải miết đến tận một ngôi làng miền núi, nằm khuất trong rặng thông. Lúc đó trời mưa nhẹ, hơi đất bốc lên ngai ngái. Tôi ghé tạm vào một quán nước bên đường. Chủ quán là ông lão tóc bạc, mắt sáng, da ngăm mà sạch sẽ lạ thường. Ông hỏi:

“Cậu từ xa đến à? Mặt mũi tái quá.”

Tôi chỉ gật đầu, cố giấu cơn run.

Ông nhìn tôi một lúc lâu, rồi chậm rãi nói:

“Mùi đất chết bám đầy người cậu. Có phải cậu đã động đến mộ cổ?”

Tôi cứng người không biết phải làm sao. Câu hỏi ấy như lưỡi dao xuyên thẳng vào tim. Tôi ngẩng lên, thấy ánh mắt ông không hề đùa.

Tôi kể lại hết mọi chuyện. Từ việc đào vàng, đến cái chết của Hào, rồi lão Bảy. Ông lão ngồi yên, thỉnh thoảng vuốt chòm râu bạc. Khi tôi kể xong, ông chỉ khẽ thở dài:

“Mộ mà cậu đào, nếu đúng như lời kể, là mộ trấn yểm. Người trong mộ vốn không phải người thường, mà là một kẻ từng luyện tà chú giữ vàng triều cũ. Vàng ấy là vật trấn, chứ không phải của cải. Ai lấy đi sẽ bị kéo theo để thế mạng cho hắn.”

Tôi rùng mình: “Vậy giờ tôi phải làm sao?”

Ông chậm rãi đứng dậy, lấy từ trong quán ra một túi vải nâu, bên trong là bó nhang, vài lá bùa đã ngả màu vàng sẫm.

“Cậu phải quay lại nơi đó, trả lại hết. Nhưng không được đi tay không. Khi đến, đốt nhang ba nén, cắm ngược xuống đất, đọc theo ta câu này…”

Ông đưa cho tôi một mảnh giấy nhỏ viết toàn chữ Hán, ngoằn ngoèo khó đọc.

“Câu này dùng để dẫn hồn về mộ, nếu đọc sai, thì cậu sẽ là người bị gọi đi.”

Tôi nuốt nước bọt, hỏi: “Còn ông… ông là ai?”

Ông chỉ mỉm cười: “Người canh ranh giới thôi.”

Đêm ấy, tôi quay lại làng Dương Hạ. Cả làng im phăng phắc, sương mù giăng đặc như khói. Con đường dẫn vào khu đất đào mộ năm xưa đã bị cỏ mọc um tùm, ẩm ướt và lạnh như băng. Tôi cầm đèn pin, đi từng bước chậm chạp.

Tới chỗ cũ, mặt đất trũng xuống, cỏ không mọc nổi. Tôi đào bằng tay, run rẩy. Mỗi nhát cuốc, tôi nghe tiếng đất thở khò khè, như ai đó nằm bên dưới đang thức dậy.

Khi miếng vàng đầu tiên lộ ra, gió bỗng lặng. Không còn tiếng dế, không còn tiếng lá. Tôi cảm giác sau lưng có người đứng nhìn. Quay lại tôi điếng người nhìn thấy một bóng người đen sì, dáng cao, đầu nghiêng, đang tiến lại. Ánh đèn pin chiếu vào mặt hắn trống hoác, chỉ còn hốc mắt sâu hoắm đang rỉ máu đen.

Tôi bật lùi lại, lấy tờ giấy ông lão đưa ra, run rẩy đọc.

“Thiên địa hữu linh, u hồn quy vị…”

Tiếng tôi lạc đi, gió bắt đầu nổi. Cơn gió xoáy cuộn đất, cuộn tro, rồi trong mắt tôi, gương mặt hắn tan ra như khói, chỉ còn lại hai con mắt lơ lửng giữa không trung. Từng tiếng thét vọng lên, hỗn loạn:

“Trả lại… trả hết… máu đổi vàng… linh đổi mạng…”

Tôi quỳ xuống, chôn vàng vào đúng chỗ cũ, hai tay dính đầy bùn và máu. Rồi cắm ba nén nhang ngược xuống đất, vừa như lời ông dặn.

Ngay khi nhang cháy tới giữa, gió ngừng. Bóng đen cũng dừng lại, rồi cúi đầu rất chậm, trước khi tan biến vào trong lòng đất như một làn khói đen bị hút xuống.

Tôi ngã quỵ mất đi ý thức. Khi tỉnh lại, tôi thấy mình nằm trên giường tre trong một ngôi nhà lạ. Bên cạnh là ông lão quán nước hôm trước. Ông đặt tay lên trán tôi, khẽ gật đầu:

“Cậu tỉnh rồi. Yên tâm nghỉ ngơi đi, linh hồn đó đã chỗ hắn thuộc về. Nhưng nghiệp thì vẫn còn.”

Tôi hỏi ông, giọng yếu ớt: “Nghiệp gì nữa?”

Ông nhìn ra xa, qua khung cửa mờ sương:

“Mỗi khi con người tham, đất sẽ ghi lại dấu vết. Cậu đào mộ không chỉ mở cửa quỷ, mà còn mở cửa lòng. Hắn được yên, nhưng cậu thì phải học cách sống tiếp với bóng của chính mình.”

Tôi im lặng lắng nghe lời ông ấy nói. Ngoài kia, trời vừa sáng, ánh nắng đầu tiên rọi xuống rặng tre. Tôi cảm giác vai mình nhẹ hẳn, tản đá trong lòng vừa được gỡ bỏ.

Trước khi chia tay, ông lão dúi vào tay tôi một chiếc vòng gỗ nhỏ, khắc hình chữ Tịnh, dặn dò: “Đeo nó, để nhớ rằng mọi vàng trên đời đều từ đất mà ra, rồi sẽ về lại đất.”

Tôi cúi đầu cảm ơn, định hỏi tên ông, nhưng khi ngẩng lên ngạc nhiên ông đã biến mất không còn dấu vết, quán nước cũng không còn. Chỉ có con đường vắng tanh, đầy lá khô.

Tôi trở về nhà. Mẹ tôi bật khóc khi thấy tôi. Lúc đó, tôi mới nhận ra mình đã mất tích đúng bảy ngày bảy đêm.

Đêm đầu tiên về lại, tôi thử mở cửa sổ nhìn ra sân. Gió vẫn thổi, cây chuối vẫn đong đưa, nhưng không còn bàn tay đen nào in lên kính nữa. Tôi hít sâu một hơi, rồi khẽ thắp ba nén nhang hướng về ngôi mộ xa ấy.

Khói nhang bay thành một vệt mỏng, quấn lấy nhau thành hình tròn. Trong làn khói, tôi thoáng thấy bóng một người đàn ông mặc áo quan triều cũ, khẽ cúi đầu, rồi tan đi.

Tôi hiểu hắn đã yên nghỉ ở dưới xuống vàng.

Còn tôi, mỗi khi nhìn thấy vàng, dù chỉ là ánh phản chiếu từ đồng hồ hay đồng xu rơi trên đất, tim tôi vẫn giật mình, như nghe tiếng ai đó gọi tên mình từ trong lòng đất:

“Nam… đừng quên…”

Bạn đang đọc truyện trên: truyentop.pro