Hồi thứ mười bốn: Ma tộc

Sau khi kể về Trấn Quốc Hội, cụ Tả Ao mới nói:

- Chúng ta ở đây, toàn bộ đều là người của cụ Phạm Hữu Long. Cũng giống như trước kia, cụ Phạm hiện giờ đang ẩn cư tại một nơi bí mật, hoàn toàn biệt lập với bên ngoài. Vu nhân theo cụ bây giờ chỉ còn trên dưới một trăm người, chúng ta là một trong số đó.

Về chuyện cỗ quan tài, thì ra những người đi theo cụ Phạm Hữu Long đang tìm kiếm đủ bảy thi hài mà người chết bị sét đánh, mang về yểm ở bảy yếu huyệt xung quanh nơi cụ ẩn thân, nếu được như vậy, vùng đất đó trở nên tuyệt đối vô hình với pháp thuật.

Tử thi mà Quyết, Ngọc và Đàn tìm thấy chính là tử thi cuối cùng. Để kiếm được một tử thi như thế không hề dễ dàng bởi số lượng người bị sét đánh không nhiều, phải tìm kiếm mất hơn một năm trời mới hội đủ bảy cái xác. Cổ thư gọi đây là phép yểm "thất quan trấn địa". Xác chết thứ bảy là của một người trong hội, người nhà đồng ý hiến xác để hội sử dụng nhưng phải đợi qua bốn mươi chín ngày. Nhà ấy lại sợ xác bị trộm mất cho nên làm một mộ giả để đánh lừa thiên hạ, còn mộ thật thì đem giấu vào trong rừng.

Người đàn ông tóc hoa râm mà Quyết nhìn thấy khi gặp cụ Tả Ao ở đây, vốn là Kinh Sư Lạc Vu tên Nguyễn Trác. Gã đã dùng phép "di quan độn thổ pháp" để đưa quan tài thật của người bị sét đánh về.

Nói về những người bị sét đánh chết, cơ thể những người này khi chết đã hấp thụ được linh tượng của trời đất là sét, nên khi chết đi xác chết có ma lực rất lớn. Về lý mà nói thì tử thi kia bị mất đi đôi tay, ma lực có giảm đôi chút, lẽ ra vẫn còn dùng được, nhưng cái xác ấy đã bị Quyết dùng liệm thuật mà an táng cho nên không còn công dụng trấn yểm nữa.

Thực ra người ta đồn đại nhiều về việc dùng bàn tay sét đánh để làm bùa hộ thân, nhưng không ai biết rằng đó chỉ là cách sử dụng phổ biến nhất của các xác chết như thế. Việc dùng các tử thi ấy ra sao được ghi chép tỉ mỉ trong cổ thư có tên Lôi thi bí tập của Lý Giác đời Lý.

Theo sách ấy, có đến mấy chục cách thức khác nhau cùng với muôn vàn biến hóa để luyện bùa hoặc trấn yểm từ các xác chết bị sét đánh. Nếu dùng hai bàn tay để hộ thân thì gọi là "hùng chưởng phù". Công dụng mạnh nhất của hùng chưởng phù chính là giúp người luyện tàng hình, trung hòa với mọi ma lực bên ngoài, dùng làm bùa hộ thân rất hiệu nghiệm. Ngoài hùng chưởng phù còn có phép "song thi nhiếp thần", là thứ pháp thuật dẫn dụ trí não người ta vào mê lộ theo ý người luyện.

Nếu như có ba xác chết trong tay, người ta có thể dùng phép "tam thi hộ thân". Có tam thi hộ thân thì người luyện không những vô hình mà còn trở nên vô thể, thân thể như sương khói, không còn hình dạng cố định. Tất nhiên, để luyện tam thi hộ thân người ta phải nấu luyện các tử thi để đem theo bên mình cho thuận tiện.

Càng có nhiều xác chết, phép luyện trong Lôi thi bí tập càng mạnh. Nếu có đến sáu tử thi thì gọi là "lục quan trấn tà" có tác dụng hộ vệ một nhóm người. Nếu có bảy tử thi thì chính là phép thất quan trấn địa mà Trấn Quốc Hội đang tìm. Khó luyện nhất trong Lội thi bí tập là phép "cửu thi quần công", trận pháp tấn công với chín tử thi bị sét đánh.

Người nhà họ Phạm trải mấy đời làm khâm liệm cũng có thực lực nhất định. Các cụ tổ nhà họ Phạm đã mất bao nhiêu công sức mới tìm tòi sáng tạo được liệm thuật để chống lại việc dùng xác chết cho việc trấn yểm. Bởi vì thời đó, những việc trộm mộ, ăn cắp xác dùng vào mục đích tà ma như trấn yểm, dùng làm bùa chú, nấu thuốc... rất nhiều nên người nhà người chết bao giờ cũng phải để ý canh chừng kỹ càng.

Nếu như có đám nào được nhà họ Phạm khâm liệm thì người nhà có thể kê cao gối mà ngủ không sợ bị đánh cắp xác. Về sự cao thâm của liệm thuật cứ nhìn vào việc Quyết học nghề chưa thực đến nơi đến chốn mà vẫn có thể phế mất tử thi kia thì đủ thấy. Rốt lại thì thất quan trấn địa đã bị khuyết mất một cái xác.

Cụ Tả Ao không chú tâm lắm tới việc bị hỏng mất một cái xác, cụ hỏi Quyết:

- Vậy, cha con đã nói gì với con về những chuyện này chưa?

Quyết ngạc nhiên:

- Cha cháu làm sao biết được những chuyện cụ vừa kể?

Cụ Tả Ao lại hỏi:

- Năm nay con bao nhiêu tuổi rồi? Đáp:

- Dạ mười ba tuổi.

Cụ Tả Ao nói:

- Vậy là cha con chết trước khi kịp nói cho con biết.

Bấy giờ Quyết rất kinh ngạc, không biết nhà mình có liên quan gì đến Trấn Quốc Hội?

Cụ Tả Ao thấy sắc mặt Quyết thay đổi, đoán được tâm ý, bèn nói ngay không để cậu phải sốt ruột:

- Họ Phạm Đình nhà cháu, trong Trấn Quốc Hội thường được gọi là "ma tộc".

Quyết từ nhỏ đến lớn chưa bao giờ nghe thấy hai từ ma tộc cả. Hắn lại càng không ngờ nhà mình có cái tên kỳ quái như vậy.

Cụ Tả Ao nói:

- Từ ngày đầu, ta đã thấy cháu có căn phù thủy, qua chuyện chiếc áo liệm thì lại càng nghi ngờ cháu là người nhà họ Phạm. Nhà họ Phạm cháu có cách tu căn rất độc đáo. Vốn dĩ có rất nhiều cách để tu luyện pháp thuật, trong số đó, nâng cao tư chất tự có là cách luyện chắc chắn nhất, chỉ là hiệu quả quá lâu mà lợi hại không trực tiếp liên quan đến mình. Những người chú tâm luyện căn chỉ có con cháu mới được hưởng quyền năng đó. Phương pháp của nhà họ Phạm Đình là bất cứ người con trai nào cũng phải đợi đến năm năm mươi tuổi mới giao phối cùng với một ma nữ mà sinh con đẻ cái. Vốn dĩ đàn ông mang dương khí, đàn bà mang âm khí. Nhưng dương khí của đàn ông khi thịnh khi suy. Nhìn chung, dương khí vượng nhất những năm hai ba mươi tuổi. Quá giai đoạn trên, dương khí của người đàn ông giảm dần, vậy cho nên người nhà họ Phạm luôn đợi đến khi đàn ông đến năm mươi tuổi để dương lực trong tinh khí của mình giảm bớt. Khi đó họ ăn nằm với hồn ma của một người nữ. Ma nữ khi sống đã mang khí âm, chết đi khí âm càng nặng nề, đẻ ra con thì đứa con đó mang trong mình đến bảy tám phần âm khí, tựa như nửa người nửa ma vậy. Đây gọi là phép "âm dương giao hợp thức". Phép này cùng với liệm thuật chính là hai bí thuật trấn tộc nhà họ Phạm. Những chuyện lấy vợ của đàn ông họ Phạm chỉ là để che mắt thiên hạ mà thôi.

Quyết kinh hãi nghĩ thầm:

- Thì ra lời đồn về cụ tổ mình có con với ma quả nhiên không sai. Nhưng chẳng nhẽ mình cũng là con của ma?

Quyết thoáng nghĩ tới mẹ. Nhớ lại cảnh bị ruồng rẫy, trong lòng hắn không khỏi xót xa, nước mắt chực dâng trào.

Cụ Tả Ao thấy Quyết rưng rưng thì đoán được phần nào tâm ý hắn, bèn nói:

- Người con tưởng là mẹ, không phải mẹ con đâu. Sợ rằng không có nhiều dịp nói với con về gia thế của con, để ta kể những điều ta biết về họ Phạm cho con nghe. Nghe qua thì âm dương giao hợp thức có vẻ dễ dàng thực hiện, nhưng thực ra rất khó luyện thành. Muốn dụ được ma nữ ăn nằm với mình thì không khó, bởi những hồn ma vất vưởng rất mong có được tinh khí của người thường để tồn tại và mạnh mẽ hơn. Tuy nhiên, việc giao phối đó làm sao để dẫn tới sinh con đẻ cái, làm thế nào để đứa trẻ có âm khí mạnh nhưng không bị chết uổng thì khó khăn vô cùng. Lại thêm những việc như làm thế nào để sinh ra là con trai, bởi phép âm dương giao hợp thức này chỉ được thực hiện một lần trong đời, hoặc làm thế nào để đứa trẻ có âm khí rồi, nhưng phải có oai khí để trấn áp ma quỷ... tất cả những chuyện như thế đều được tính toán cặn kẽ từ khi giao hợp thì dùng bùa gì, chú gì, khi giao hợp thì chọn giờ nào, rồi thì dưỡng thai cho thai phụ ra sao, tất cả đều thuộc về bí quyết nhà họ Phạm Đình. Với phép luyện từ căn cốt như thế nên người nhà họ Phạm thiên về thuật điều binh khiển tướng vì bản thân âm khí rất nặng mà oai khí cũng được bổ túc từ khi còn đang mang thai. Qua mỗi đời họ lại được tích lũy thêm, pháp lực càng mạnh. Người của Phạm gia ngày càng mạnh mẽ hơn trong giới vu nhân, lại là thân tín của cụ Phạm Hữu Long nên thường được bổ nhiệm làm Lạc Vu Điện Súy, thống lĩnh âm binh hộ vệ kinh thành. Vì đây là một vu nhân chiến đấu nên đòi hỏi phải có pháp lực cao thâm mới có thể trấn áp được địch mà không hại đến thân.

Cụ Tả Ao lại nói:

- Những Vu Nhân Hộ Pháp có thân phận rất cao trong hội, ngang hàng với Tả Đại Lạc Vu, so với Hữu Đại Lạc Vu thì còn cao hơn một bậc. Lệ nhà họ Phạm, con trai đến mười lăm tuổi thì bắt đầu được cha truyền pháp thuật cho, nhưng đến đời cha con là Phạm Đình Sơn thì bị người của Hàng Long Giáo ám hại. Bởi thế nên đến giờ con vẫn chưa biết gì về pháp thuật cũng như những chuyện của Trấn Quốc Hội.

Quyết nghe đến đây thì không khỏi băn khoăn, bởi trong một khoảng thời gian ngắn mà phải tiếp nhận những sự thật như thế, hắn không tránh khỏi có chút hoài nghi. Hắn hỏi cụ Tả Ao:

- Nhưng cha con chết là do nhà cháy cơ mà?

Bấy giờ cụ Tả Ao mới nói:

- Chuyện này còn đang được điều tra, nhưng chắc chắn cha con đã bị hại.

Quyết trong đầu có muôn vàn câu hỏi, đột nhiên buột miệng:

- Tên Cao Tiến có phải người của hội không ạ?

Cụ Tả Ao đáp:

- Trước đây ta mới dám chắc tám phần, nhưng khi con kể chuyện nhà gã có thờ tượng Bạch Cốt Tinh thì ta quả quyết rằng gã là người của Hàng Long Giáo. Quyết hỏi:

- Hàng Long Giáo? Hắn là người Tàu sao hả cụ?

Cụ Tả Ao đáp:

- Từ khi con kể cho ta nghe chuyện của gã, ta đã cử người trong hội phái ma xó đi theo dõi. Chỉ ngặt một nỗi, nơi gã ở được trấn yểm rất kiên cố, không ma xó nào có thể vào được. Thành ra chỉ có thể điều tra gã ở những nơi gã hành động bên ngoài. Gã vốn là cháu ba mươi hai đời của Cao Biền. Vốn khi xưa, Cao Biền là người của Hàng Long Giáo, bây giờ đến đời Cao Tiến thì đã trải được hơn nghìn năm rồi. Nếu như chúng ta đoán không nhầm, gã cũng là một nhân vật có tiếng nói trong Hàng Long Giáo. Tuy nhiên, gã không thể là thủ lĩnh Hàng Long Giáo được bởi vì dù hắn tu luyện khá dày công, nhưng căn cơ không đủ. Với công phu ấy, cộng thêm thân thế là con cháu Cao Biền, gã có thể là nhân vật lớp thứ hai hoặc thứ ba trong giáo phái. Theo như chúng ta thăm dò, thì gã đang có ý đồ giúp vương tử Khải lên ngôi chúa. Tuy chưa rõ gã có mục đích gì, nhưng có thể đoán được việc luyện ngải hóa hổ của gã chắc chắn có liên quan đến mưu đồ này.

- Vậy chúng ta phải làm sao hả cụ?

- Việc này người của Chử Cao Sơn đang ráo riết thăm dò, có điều, kết quả vẫn chưa đến đâu. Hàng Long Giáo chắc chắn không thể chỉ dừng lại ở việc giúp vương tử Khải lên ngôi được. Mặc dù bây giờ phe ta và phe của Chử Cao Sơn có chút xích mích, nhưng nếu đã liên quan đến Hàng Long Giáo thì lại phải đứng bên nhau mà chiến đấu.

Cụ vỗ vỗ vai Quyết rồi nói tiếp:

- Con là con cháu Trấn Quốc Hội, phải nối nghiệp cha con, sớm muộn con cũng phải gia nhập hội. Bây giờ đang là lúc cần người, cha con đã mất rồi, có lẽ cũng nên phá lệ mà dạy pháp thuật cho con. Có điều, việc này phải được cụ Phạm thông qua. Đợi qua vài hôm, ta sẽ hỏi lại xem cụ quyết ra sao.

Quyết chợt nhớ ra chuyện em Ngọc, bèn nói:

- Con có người bạn, bây giờ em cô ấy bị Cao Tiến dùng ngải hóa hổ, người mọc đầy lông lá, vuốt nhọn. E rằng nếu không cứu sớm thì vĩnh viễn thành con thú hoang trong rừng mất cụ ạ.

Cụ Tả Ao nói:

- Sào huyệt của Cao Tiến được trấn yểm rất kỹ càng. Theo như ta thấy thì phải có một phù thủy cao tay hơn gã một bậc mới làm được việc đó. Có điều không hiểu sao cháu có thể vào một cách dễ dàng như thế, có lẽ là do trong người cháu có soái vong hộ thân hoặc là do ma lực của cháu đủ mạnh. Bản thân tên Cao Tiến lại nghĩ cháu là người bình thường nên miễn nhiễm với phép yểm chăng?

Quyết trầm ngâm:

- Cháu đi khỏi nhà hắn đã lâu, không biết hắn có nghi ngờ không nữa.

Cụ Tả Ao nói:

- Cháu nói đúng, bây giờ cháu mà về thì rất nguy hiểm, có lẽ nên tính cách khác. Ta nghĩ rằng căn hầm của gã nhất định còn ẩn chứa nhiều điều bí mật. Về việc người bị hóa hổ, thời gian biến hóa lâu thế rồi, nếu đem về đây cũng chưa chắc cứu được. Có lẽ phải hỏi thêm cụ Phạm mới biết. Mà đưa được người hóa hổ về đây cũng không phải dễ dàng gì. Xem ra việc này khó khăn đấy.

Quyết đáp:

- Còn rất nhiều người bị giam ở dưới hầm, cháu thế nào cũng phải quay lại, phải liều một phen cụ ạ.

Hai người đang nói chuyện thì cửa mở, một người đàn ông tóc hoa râm bước vào, chính là Kinh Sư Lạc Vu Nguyễn Trác. Trác vừa vào đã nói:

- Cụ Tả Ao, có lệnh của cụ Phạm.

Quyết nhìn thấy Nguyễn Trác cầm một phong thư màu đen bằng cả hai tay, nâng lên ngang ngực, dáng điệu rất cung kính.

Cụ Tả Ao vội lấy trong túi ra một chiếc khăn màu trắng, lau hai tay thật sạch rồi mới đưa hai tay đón lấy, dường như đây là quy cách của hội khi đón nhận lệnh của Đại Lạc Vu.

Cụ Tả Ao mở phong thư xem một lượt. Chắc hẳn Nguyễn Trác vẫn chưa đọc thư, nên vẻ nóng ruột lộ rõ trên mặt gã. Qua một hồi, cụ Tả Ao mới cười rồi nói:

- Cụ Phạm quả là thần tiên. Mới đó cụ đã biết việc rồi.

Nói rồi cụ đọc to bức thư cho Trác và Quyết cùng nghe, nguyên văn như sau:

"Ta từ nơi thâm sơn cùng cốc, nghe được việc Hàng Long Giáo gài người trong phủ chúa, ắt toan tính điều hiểm độc, lệnh cho các Lạc Vu trong kinh sớm tìm hiểu ngăn chặn việc gian trá. Việc lập thất quan trấn địa tạm thời chưa cần kíp, phải sớm tìm cho ra âm mưu của Hàng Long Giáo.

Lại nghe nói đã tìm được dòng dõi họ Phạm ở Sơn Tây tên là Phạm Đình Quyết, người này sớm hay muộn cũng là người của hội. Nay nhân việc gấp rút, Phạm Đình Quyết lại từng dấn thân vào hang ổ của Hàng Long Giáo, vậy ta phá lệ phong Phạm Đình Quyết làm Vu Nhân Hộ Pháp, tạm thời cùng lo việc đối phó với Hàng Long Giáo. Kinh Sư Lạc Vu chịu trách nhiệm dìu dắt bổ sung năng lực pháp thuật cho Phạm Đình Quyết."

Việc được phong Vu Nhân Hộ Pháp của Quyết thực ra rất hiếm khi xảy ra trong hội, bởi để có được vị trí ấy, vu nhân phải khổ công tập luyện và qua được các kỳ khảo thí của hội đồng Lạc Vu. Kỳ khảo thí này rất nghiêm ngặt, chẳng những so về tài năng mà còn về đạo đức, mức độ tin tưởng của hội với vu nhân đó.

Quyết sinh trưởng trong gia đình có ảnh hưởng lớn đến hội, lại có năng lực bẩm sinh, tất cả chín đời nhà họ Phạm đều vượt qua những kỳ khảo thí một cách dễ dàng. Thêm vào đó, Phạm Đình Sơn lại bị ám hại bởi Hàng Long Giáo nên đặt Quyết vào vị trí này là muốn Quyết dốc sức cùng hội, trả thù cho cha. Từ đấy có thể thấy đối với việc Phạm Đình Sơn bị chết, hội rất quan tâm và nhất định sẽ trả thù.

Lại nói Lạc Vu Điện Súy là vị trí rất quan trọng trong hội, về cơ bản cao hơn Kinh Sư Lạc Vu Nguyễn Trác một bậc, ngang hàng với Tả Hữu Đại Lạc Vu là một trong ba vị trí đắc lực nhất dưới Đại Lạc Vu. Nhưng vì Quyết mới có pháp năng mà chưa có pháp thuật, hắn lại phải lưu lại Thăng Long để hành động nên cụ Phạm mới có ý để Nguyễn Trác dìu dắt hắn.

Nguyễn Trác nguyên là người sinh ra ở kinh thành, vốn là một tay lão luyện trong nghề. Gã nắm vị trí Kinh Sư Lạc Vu, tuy không phải phẩm cấp cao nhất dưới trướng Đại Lạc Vu nhưng kinh thành trọng yếu, người được giao chức vụ này, so với thủ lĩnh các trấn khác, đương nhiên phải cao hơn một bậc.

Những ẩn ý sâu xa của một phù thủy sống hàng trăm năm như thế, làm sao Quyết hiểu nổi. Hắn chỉ thấy ở trong hội cũng được mà không cũng không sao, chỉ là muốn trả thù cho cha lại muốn cứu người trong hầm nhà Tiến nên việc ở lại Trấn Quốc Hội cũng là điều hay.

Bấy giờ cụ Tả Ao mới hỏi Trác:

- Giờ ông tính thế nào? Nguyễn Trác đáp:

- Thường khi đã biết được phép yểm rồi thì có thể dỡ yểm, chúng tôi đã tìm ra mảnh đất tên Cao Tiến ở được yểm bởi hai pho tượng tạo hình các con vật cổ quái. Pho thứ nhất là một con vật giống hổ, nanh rất dài, tựa như một con bệ ngạn. Con vật thứ hai có mình rồng, đầu chó sói, giống như con nhai xế. Việc tìm các linh vật trấn yểm mất rất nhiều thời gian nên bây giờ mới chỉ tìm được như thế, phép yểm này, chúng tôi chưa hiểu là phép nào, cụ Tả xem thế nào?

Cụ Tả Ao nói:

- Bệ ngạn và nhai xế là hai trong số chín đứa con của rồng. Bệ ngạn thường được đặt ở pháp đường, nhai xế thường dùng trang trí vũ khí. Tôi có nghe một phép yểm gọi là "long sinh cửu phẩm thập thú trấn". Phép yểm này dùng mười linh vật ứng với chín đứa con của rồng thêm vào một con rồng ở trung tâm tạo thành thế trận phòng thủ rất mãnh liệt đối với các pháp lực bên ngoài. Những phép tàng hình độn thổ, hỏa công, dùng âm binh, ếm bùa yểm ngải gặp phải phép yểm này thì tám chín phần đều trở nên vô dụng. Nên nhớ rằng rồng là linh vật cực kỳ mạnh mẽ, một khi được sự hỗ trợ của chín đứa con thì khả năng càng được tăng cường.

Nguyễn Trác hỏi:

- Vậy không thể phá được sao?

Cụ Tả Ao nói:

- Đây là phép yểm bí truyền của Trương Duy, giáo chủ đầu tiên của Hàng Long Giáo, Trương Quốc Kỳ, giáo chủ hiện nay, chính là hậu duệ của nhà ấy. Nhưng theo quy củ của Hàng Long Giáo thì giáo chủ không ra khỏi bản doanh bao giờ. Nếu gã đã từng ở gần Thăng Long như thế thì hẳn phải có cơ sự rất quan trọng nên mới phá lệ.

Nguyễn Trác nói:

- Nếu đúng thế thì đủ thấy việc lần này hết sức quan trọng. Đến giờ chúng ta mới biết, có hơi chậm trễ quá chăng?

Cụ Tả Ao nói:

- Việc xác định vị trí các linh vật không còn khó khăn nữa, chỉ cần biết vị trí một con là có thể suy ra được những con còn lại. Chỉ là cách phá thế yểm này, tôi cũng mới nghe qua, chưa biết đúng sai ra sao.

- Xin cụ cứ nói.

- Trong mười con vật này, mỗi con đều có một vị trí nhất định, giống như một thế trận, hỗ trợ nhau chống các pháp năng bên ngoài. Tuy mỗi con đều có một điểm yếu để lợi dụng, ví như thao thiết là con vật phàm ăn, nếu mang thức ăn mà dụ thì sẽ dễ dàng bị lừa cho rời khỏi vị trí, có điều, trong phép yểm này, con rồng ở vị trí trung tâm có tác dụng thức tỉnh những sự mê hoặc đó.

Cụ Tả Ao lại nói:

- Nếu muốn phá phép yểm này, có hai cách, hoặc là dùng chín người dẫn dụ chín con vật tùy theo điểm yếu của nó, cùng lúc rời vị trí. Khi con rồng phát hiện ra thì không cách nào cùng một lúc triệu cả chín con về được. Khó khăn ở chỗ chúng ta không thể có một lúc chín cao thủ như thế mà dẫn dụ đám thú ấy. Cách thứ hai là tận diệt con rồng đặt dưới phòng chủ nhưng vấn đề là muốn vào vòng trong lại phải vượt qua chín con vật kia.

Quyết nghe thế bèn hỏi:

- Sao chúng ta không cầu cụ Phạm giúp trừ con rồng hả cụ?

Cụ Tả Ao và Nguyễn Trác đưa mắt nhìn nhau, chỉ ừ hữ không nói. Quyết thấy như thế, biết mình đã hỏi điều không nên hỏi, bèn im lặng.

Chợt bên ngoài có một tiếng nói:

- Nếu chúng ta dùng lục quan trấn tà lần lượt diệt lấy từng linh vật, thì chẳng phải phá được hay sao?

Bấy giờ cả ba người nhìn ra, thấy một thiếu nữ thân hình mảnh mai đứng ngoài cửa, chính là Nguyễn Tố Ngọc. Nguyên là Ngọc lo Quyết bị đám người này hãm hại nên đã lén đi theo hắn từ nãy, câu chuyện Quyết nghe được bên trong, nàng cũng đã nắm đến tám chín phần.

Nguyễn Trác mừng như bắt được vàng, nói:

- Chí phải, chí phải, chỉ cần dùng phép lục quan trấn tà, che mắt con rồng để dụ tùng linh vật một thì có thể phá được trận yểm này rồi. Có phải không cụ?

Cụ Tả Ao tán thành:

- Có thể lắm. Điểm mạnh nhất của lục quan trấn tà là tạo một điểm mù đối với tà thuật của đối phương. Khả năng tàng hình của lục quan trấn tà liệu có thắng được linh giác của rồng hay không cũng chưa thể chắc được. Việc này Quyết cũng nên đi theo, có thể học hỏi thêm. Vả lại Nguyễn Trác đi rồi thì nơi này không còn cao thủ nữa, cháu ở lại ta cũng không yên tâm.

Đoạn cụ quay sang, ngạc nhiên hỏi Ngọc:

- Cô là ai?

Nguyên là vì mấy người đang tập trung nghĩ cách, khi được gợi ý như thế thì lòng mừng vui khôn xiết, quên mất có người lạ bên ngoài, một lúc sau mới nhận ra những việc cơ mật của hội đã bị người ngoài nghe được.

Ngọc đáp:

- Cháu tên là Nguyễn Tố Ngọc, con gái của tội phạm Nguyễn Cảnh Trung.

Nguyễn Trác kinh ngạc:

- Có phải Nguyễn Cảnh Trung đánh giặc Hoàng Đình Tạo trấn Sơn Nam không?

Ngọc đáp:

- Chính phải. Việc này cũng không liên quan đến cháu, nhưng cháu hiện đang có đứa em bị hóa hổ, sau này chắc còn phải nhờ cậy các vị. Thế nên bây giờ cháu muốn đi cùng để giúp một tay.

Nguyễn Trác nói:

- Thường thì người biết chuyện của hội sẽ cho ngửi mê tâm hương để quên những chuyện đã nhìn thấy, nghe thấy. Cháu đã biết chuyện của Trấn Quốc Hội rồi thì không thể trái lệ được. Có điều, dù sao cháu cũng là con cháu trung lương bị hãm hại. Nể tình cha cháu, chúng ta có thể hoãn chút thời gian, đợi cứu được em cháu rồi ngửi hương sau cũng không muộn.

Cụ Tả Ao nói:

- Ta nghĩ việc đi lần này nguy hiểm vạn phần, cháu đi theo không tiện, cháu nên nán lại đây chờ xem thế nào đã.

Nguyễn Trác nói:

- Cụ Tả Ao nói phải, cháu nên ở lại.

Ngọc cương quyết:

- Cháu nhất định phải đi theo. Vả lại cụ vừa mới nói ở nhà cũng nguy hiểm cơ mà?

Cụ Tả Ao nói Quyết gặp nguy hiểm khi ở nhà vì Quyết bây giờ là Lạc Vu Điện Súy của Trấn Quốc Hội, thân phận khác hẳn trước đây. Còn Ngọc vốn là một người bình thường, nếu Hàng Long Giáo tập kích nơi đây thì nàng cũng không phải mục tiêu của bọn chúng. Cụ Tả Ao đưa mắt nhìn Nguyễn Trác, bắt gặp ánh mắt của gã đang nhìn mình, hai người dường như ngầm hiểu ý nhau.

Nguyễn Trác nói:

- Được, vậy cháu về nghỉ ngơi đi, chúng ta sẽ sớm khởi hành. Sau khi mọi người bàn bạc thống nhất được cách phá long sinh cửu phẩm thập thú trấn, cụ Tả Ao bèn hỏi Nguyễn Trác cặn kẽ vị trí tìm được hai vật trấn. Cụ lấy ra một tờ giấy, đặt bút vẽ một hồi, trên tờ giấy đã chằng chịt các nét vẽ dọc ngang. Nổi bật là mười điểm được khoanh tròn, ở giữa ghi một chữ "Long", lần lượt xung quanh có chín vòng tròn nhỏ, ghi tên vị trí các linh vật.

Cứ nhìn cách vẽ như thế thì đủ hiểu việc xác định vị trí này rất phức tạp. Cụ Tả Ao cả đời mới gặp phép yểm này lần đầu tiên mà chỉ trong chốc lát đã tìm ra phương vị như thế, dù chưa biết có đúng được hay không, nhưng cũng đáng để mọi người nể phục sự hiểu biết của cụ.

Nguyễn Trác chăm chú nhìn tờ giấy nói:

- Để tôi sắp xếp người đi thăm dò vị trí các vật yểm còn lại. Nếu tất cả thuận lợi thì đêm nay chúng ta hành động. Bây giờ chúng ta hãy về nghỉ ngơi trước đã.

Mọi người nghe nói thế liền lục tục về phòng mình.

Ngọc nghỉ trong một căn phòng ở mé tây, nàng nhất thời lo lắng nên không sao chợp mắt được. Đột nhiên, nàng nghe thấy có tiếng thở khe khẽ ở phía ngoài. Vì Ngọc là người bôn ba giang hồ rất sớm, lại phải chăm lo cho em trai non nớt, nên dày dặn kinh nghiệm, hành sự luôn cẩn thận, đề phòng. Chỉ nghe tiếng động khẽ bên ngoài, nàng đã biết ngay sẽ có biến.

Ngọc nhẹ nhàng rút con dao luôn mang trong mình ra. Người bên ngoài dường như đã đến sát cửa. Ngọc tập trung cao độ. Đột nhiên một làn khói trắng từ phía khe cửa nhè nhẹ lan vào trong phòng.

Bạn đang đọc truyện trên: truyentop.pro