NGOẠI TRUYỆN ÔN LINH NGỌC (1) + (2)

PHẦN MỘT: KHI ĐÓ CHỈ NGHĨ LÀ CHUYỆN TẦM THƯỜNG*

* Câu "当时只道是寻常" (Đương thời chỉ đạo thị tầm thường) là câu cuối cùng trong bài từ Hoán Khê Sa - Thùy Niệm Tây Phong Độc Tự Lương (《浣溪沙·谁念西风独自凉》) của nhà thơ/từ nhân Nạp Lan Tính Đức đời Thanh. Ý nghĩa của câu này là: Vào lúc đó, chỉ nghĩ rằng những điều tốt đẹp và hạnh phúc trong cuộc sống chỉ là những chuyện bình thường, giản dị; mãi đến sau khi đánh mất, mới hối hận không kịp, mới hiểu ra những khoảnh khắc "tầm thường" ấy quý giá biết nhường nào.

Người ta nói lúc còn trẻ đừng nên gặp một người quá xuất chúng, nếu không cả đời sẽ mãi đuổi theo bóng hình họ.

Cả đời tôi, điều tiếc nuối lớn nhất là ngay cả một câu nói đàng hoàng với người ấy cũng chưa từng thốt ra.

Nói về nửa đầu đời tôi thì dĩ nhiên thuận buồm xuôi gió.

Có một gia đình cũng ổn, ngoại hình cũng ổn, thi đỗ một ngôi trường cũng ổn.

Tôi có được mọi thứ rất dễ dàng, tự nhiên như vậy. Nhiều bạn bè đùa rằng rất ghen tị với tôi. Thực ra tôi cũng biết cuộc đời mình quả thật đáng để người ta ngưỡng mộ.

Nhưng mọi thứ đã đổi thay kể từ chuyến đi vào Miêu trại ấy.

Tôi thừa nhận, tôi từng thích Lý Ngộ Trạch.

Thích một người có phạm pháp không? Thích một người có đáng xấu hổ không?

Đều không.

Nhưng rồi tôi nhanh chóng nhận ra, dưới vẻ ngoài tuấn mỹ lộng lẫy ấy là một trái tim xa cách và lãnh đạm.

Anh ấy đối xử với chúng tôi rất tốt, quan tâm tình hình khảo sát, ủng hộ mọi quyết định của chúng tôi, nhưng ngoài ra thì chẳng có gì khác.

Anh ấy như một người đứng ngoài, lịch sự mà lạnh nhạt, hờ hững lạc lõng.

Lại nói: "Người đã vô tâm ta liền dừng." Lý Ngộ Trạch không thích tôi, đương nhiên tôi không dây dưa.

*Trên Baidu bảo câu 你若无心我便休 trích từ bài thơ của Trương Nhược Hư thời Đường nhưng có nguồn lại nói không phải nên chưa rõ thông tin chính xác

Ôn Linh Ngọc tôi, nào có thiếu người thích.

Về sau tôi hay nghĩ, nếu tôi không tham gia đề tài khảo sát ấy thì sao, hẳn đời tôi sẽ khác rất nhiều. Nhưng tôi chưa từng hối hận vì đã vào Miêu trại trên núi Thị Địch. Nếu không đặt chân tới đó, tôi cũng chẳng bao giờ gặp được người ấy.

Lần đầu tôi gặp anh là lúc chúng tôi vừa vào Miêu trại, tôi hiếu kỳ với mọi thứ xung quanh. Lý Ngộ Trạch luôn bị tên Thẩm Kiến Thanh quấn lấy, tôi cũng không rõ họ làm gì. Vậy nên phần lớn thời gian tôi đi cùng Lộc Lộc và Từ Tử Nhung.

Nghĩ lại mới thấy đúng là "con bê mới sinh không sợ hổ".

*Thành ngữ 初生牛犊不怕虎 (chū shēng niú dú bù pà hǔ): Một phép ẩn dụ cho những người trẻ tuổi thiếu kinh nghiệm nhưng dám thử thách một cách dũng cảm và không sợ hãi trước những thử thách. (Nguồn: xuezhongwen)

Chúng tôi muốn phỏng vấn tìm hiểu thói quen ăn uống của Sinh Miêu nên mạo muội tiến gần một bà lão trông có vẻ hiền hòa.

Nhưng hình như bà không mấy hoan nghênh.

Bà mặt lạnh, muốn đuổi chúng tôi đi.

Đúng lúc ấy, một người đàn ông rất trẻ, rất khỏe bước vào.

Ánh mắt chúng tôi bỗng chốc chạm nhau, tôi thấy đồng tử anh đột nhiên giãn lớn, làn da màu lúa mạch dần ửng đỏ, đôi tay lúng túng không biết đặt vào đâu.

Tôi bước tới định nói chuyện với anh, tiếc là anh nghe không hiểu, chỉ cười ngốc nghếch rồi ra hiệu liên hồi, chẳng rõ đang muốn nói gì.

Khi ấy tôi chỉ thấy anh ngốc nghếch, nhưng nhiều năm trôi qua, mỗi lần nhớ lại cảnh đó, nụ cười của anh lại hằn sâu thêm một phần trong ký ức.

Khi đó chỉ nghĩ là chuyện tầm thường.

Khi còn nhỏ đọc câu này tôi chẳng thấy gì đặc biệt, về sau mới dần nếm được sự bất lực và bi thương trong đó.

Chắc là Lý Ngộ Trạch đã linh cảm điều gì đó, liền giục chúng tôi rời Miêu trại trong đêm. Nhưng Khưu Lộc và Từ Tử Nhung bỗng phát bệnh, sợi thang sắt kia cũng biến mất, chúng tôi mất đường lui.

Tôi cũng dần cảm thấy có điều bất ổn.

Chúng tôi theo Lý Ngộ Trạch men theo dòng sông, hy vọng có thể thoát ra ngoài.

Tình trạng của Khưu Lộc và Từ Tử Nhung ngày càng tệ, tệ hơn nữa là Lý Ngộ Trạch cũng bị thương. Anh chủ động xin ở lại. Dù rất lo, tôi cũng hiểu rằng nếu anh cũng đi cùng chúng tôi càng khó đi xa.

Tôi nhất định phải ra bên ngoài nhanh hơn, rồi tìm người quay lại cứu Lý Ngộ Trạch. Tôi thầm hạ quyết tâm.

Nhưng để đi ra thật quá khó, có thể nói một người sống ở thành phố như tôi thì tôi chưa từng chịu khổ đến thế.

Từ Tử Nhung và Khưu Lộc đều ngã bệnh. Ban đêm họ sốt cao, tôi vừa hạ sốt cho Khưu Lộc, Từ Tử Nhung lại nóng đến bỏng tay.

Tôi cuống đến muốn khóc, nhưng biết rằng lúc này nước mắt là vô dụng nhất.

Côn trùng độc trong núi cắn tôi, tay chân đau ngứa không chịu nổi, tôi gãi đến rướm máu. Nửa đêm còn có rắn.

Con rắn lè lưỡi nhìn trân trân tôi, rồi nhìn Khưu Lộc và Từ Tử Nhung phía sau đang mê man vì sốt, dường như trong đôi mắt lạnh lẽo ấy tôi thấy cả lòng tham.

Tôi sợ đến run rẩy, theo bản năng muốn bỏ chạy.

Nhưng tôi biết mình không thể chạy. Khưu Lộc và Từ Tử Nhung đang bất tỉnh, nếu tôi bỏ đi, họ chỉ còn có nước bị rắn cắn chết.

Tôi chụp lấy đuốc, quơ loạn xua đuổi con rắn.

Có lẽ tôi quá may, đuốc vừa vặn quật trúng thân nó. Đau quá, nó uốn mình lẩn đi.

Những hiểm nguy như thế ở rừng chẳng đáng kể. Có lúc tôi nghĩ chúng tôi hoặc sẽ chết kẹt trong rừng, hoặc bị rắn rết độc cắn chết.

Nhưng không.

Khi tôi tuyệt vọng nhất, tôi thấy anh ấy xuất hiện.

Người đàn ông ở Miêu trại lúc đó.

Tựa như vị anh hùng từ trên trời giáng xuống trong câu chyện cổ tích thuở nhỏ. Có thiếu nữ nào lại không thích anh hùng chứ?

Nhưng ban đầu tôi rất cảnh giác. Tôi biết anh có tình ý với tôi. Ở chốn rừng rú thế này, mấy người bạn của tôi đều bệnh cả, nếu anh muốn làm gì, tôi chẳng đủ sức chống cự.

Nhưng anh chẳng làm gì cả.

Anh chỉ nở nụ cười như lần đầu gặp, ngốc nghếch, hiền lành, rồi an phận dẫn đường cho chúng tôi.

Hóa ra anh đến để dẫn đường cho chúng tôi.

Tôi thở phào, lại thấy rất cảm động.

Suốt dọc đường chúng tôi chẳng nói với nhau câu nào, chỉ trao đổi bằng ánh mắt. Tôi muốn hỏi tên anh, nhưng anh không hiểu tôi, tôi cũng không hiểu anh.

Chúng tôi đồng hành tổng cộng mười ba ngày, chừng đó đủ để tôi đem lòng thích anh rồi.

Trước kia tôi nghĩ mẫu người mình thích phải như Lý Ngộ Trạch: ngoại hình xuất sắc, thành tích ưu tú. Nhưng rồi mới hiểu, rung động vì một người không cần lý do, cũng chẳng có "hình mẫu lý tưởng" nào để tham chiếu.

Nếu buộc phải nói thì anh như một ngọn núi—lặng lẽ mà vững chãi.

Ngày chúng tôi thoát ra được, tôi rất vui. Nhưng anh bỗng ngoái nhìn phía sau, lộ vẻ nghiêm nghị.

Những ngày qua, anh chưa từng có vẻ mặt như thế.

Trong lòng tôi dấy lên linh cảm chẳng lành.

Anh chỉ vào ngực tôi, vẽ một hình vuông vắn, miệng nóng ruột nói gì đó, nhưng tôi không hiểu.

Mãi tôi mới hiểu: anh muốn thẻ sinh viên của tôi.

Tôi đưa cho anh; anh mỉm cười, nói với tôi: "Ā yòu, wai ye mou!"

* "啊幼,外也哞!"

Tôi còn đang ngỡ ngàng thì thấy anh chợt quay người, vội vã chạy vào sâu trong rừng.

Đó là cái nhìn cuối cùng tôi dành cho anh, bóng dáng cao lớn, nhanh nhẹn ấy nhanh chóng khuất sau rừng cây.

Ban ngày, thân thể Từ Tử Nhung và Khưu Lộc đỡ hơn một chút, nhưng sắc mặt vẫn tái nhợt. Tôi phải nhanh đưa họ tới bệnh viện.

Tôi và hai người họ đã thoát khỏi núi rừng, nhưng lòng lại trống hoác.

Sau đó, Lý Ngộ Trạch cũng ra ngoài được. Anh nói với tôi: anh ấy tên là A Tụng.

Thì ra anh tên A Tụng.

Buồn thay, tên của anh tôi lại nghe từ miệng người khác.

Tôi chỉ nghĩ: mình còn chưa từ biệt anh cho tử tế... giá mà có thể ôm anh một cái.

Rất lâu rất lâu sau, tôi sống một mình ở nơi rất gần anh, cố gắng học tiếng Miêu.

Câu đầu tiên tôi học, chính là câu anh nói lúc chia tay đã khắc sâu trong ký ức tôi.

"A you, wai ye mou!"

"A muội, anh thích em."

Khi đó chỉ nghĩ là chuyện tầm thường thì ra chính là như vậy.

--

PHẦN 2: DƯỚI LỬA TÀN ĐỨNG ĐÓ*

Lúc gặp lại Lý Ngộ Trạch, đó đã là rất, rất lâu sau này.

Sau khi đến Đồng Giang, tôi làm giáo viên lịch sử ở Trường Trung học Đồng Giang, con đường mà trước đây tôi chưa từng nghĩ tới.

Nhưng cuộc sống hiện tại cũng rất tốt: tôi ở nơi cách anh ấy không xa, sống yên ổn, bình lặng.

Tôi dần hiểu ra, đời người vốn đầy những điều bất định. Có thể hôm nay, có thể ngày mai, chỉ một chuyện xảy ra thôi cũng đủ thay đổi cách ta nhìn và hoạch định cho chính cuộc đời mình.

Tuổi ngày càng lớn, chuyện xem mắt trở thành đề tài mà cha mẹ tôi nhắc tới nhiều nhất. Tôi biết mẹ lo lắng cho tôi, bà không biết rốt cuộc trong Miêu trại năm xưa tôi đã trải qua điều gì, gặp người thế nào, nhưng bà đoán trong lòng tôi vẫn còn một người không buông bỏ được.

Mẹ mong tôi mở lòng hơn, biết đâu lại gặp được người hợp ý.

Nhưng tôi nghĩ, tình cảm vốn mang tính độc chiếm, mà tình yêu lại càng vậy. Khi tôi đã từng có được tình yêu thuần khiết nhất thế gian, thì làm sao còn nhìn thấy người con trai nào khác? Có lẽ họ cũng tốt, nhưng họ không phải là A Tụng.

Năm thứ năm tôi ở Đồng Giang, vào ngày Thất Tịch, tôi quyết định ra ngoài dạo một vòng.

Thực ra nơi tôi ở gần Đồng Giang Miêu trại, nhưng tôi chưa từng quay lại. Nghe nói Lý Ngộ Trạch đã định cư ở đây, sống cùng Thẩm Kiến Thanh.

Tôi không ngạc nhiên, cũng chẳng trách Thẩm Kiến Thanh, chuyện năm xưa cậu làm, phần nào tôi đã đoán được. Tôi chỉ sợ nếu gặp họ, mình sẽ càng thấy cô đơn.

Nỗi nhớ như mặt hồ đã phẳng lặng, chỉ cần một cơn gió khẽ thôi, liền gợn lên muôn vàn sóng nhỏ.

Nhưng năm nay náo nhiệt quá, trong lòng tôi bỗng nảy ý muốn đi xem.

Đồng Giang Miêu trại vẫn như ngày xưa chúng tôi đến: con đường lát đá xanh quanh co uốn lượn, mái hiên nhà sàn cong lên như ánh khi mắt cười của thiếu nữ.

Tôi nghe học sinh kể rằng người Miêu có lễ tình nhân vào mùng sáu tháng sáu, khi trai gái sẽ ca hát, tìm người mình thích.

Nhưng do ảnh hưởng văn hóa người Hán, Thất Tịch cũng dần được đón nhận. Thậm chí dịp này bản còn tổ chức lễ hội lửa trại lớn để thu hút du khách.

Khi tôi đến, trời đã tối. Miêu trại rực sáng ánh đèn, nhìn từ trên cao chẳng khác nào con rồng vàng ấm áp ẩn mình giữa núi.

Trai gái dạo bên nhau, ánh mắt giao nhau đều đong đầy ý cười ngọt ngào.

Tôi chợt nhớ đến Khưu Lộc và Từ Tử Nhung. Đúng là con người kỳ lạ, ban đầu tôi nghĩ Từ Tử Nhung sớm muộn cũng sẽ bỏ Khưu Lộc.

Hồi còn học chung, vì thói hay uống rượu, Khưu Lộc cãi nhau với anh ta không ít. Tôi từng nghĩ hai người khác biệt về quan điểm, thói quen, sớm muộn gì cũng chia tay.

Nhưng gian khổ lại khiến họ gắn bó bền chặt.

Gần đây Khưu Lộc gọi cho tôi, bệnh cô ấy đã gần khỏi. Cô còn cười bảo, chắc do thiếu oxy trong não nên ký sinh trùng chết ngộp hết rồi. Sau hai năm phục hồi, cô ấy cũng dần tỉnh táo.

Cô nói sắp kết hôn với Từ Tử Nhung, mong tôi làm phù dâu. Trải qua từng ấy chuyện, người mà cô từng cho là không đáng tin lại chưa từng buông tay cô dù chỉ một lần.

Nhìn những đôi tình nhân lướt qua, tôi dường như thấy lại bóng dáng Khưu Lộc và Từ Tử Nhung thuở ấy trong nụ cười hạnh phúc của họ.

Mọi người đều đang tiến về phía trước, còn tôi lại muốn mãi dừng chân trong dòng chảy tuổi trẻ năm ấy.

Tôi rẽ vào một khúc cua, phát hiện cửa hàng đặc sản năm xưa tôi và Khưu Lộc từng ghé vẫn còn, bày biện gần như nguyên vẹn. Trong có vài người đang chọn đồ, chẳng hiểu sao tôi cũng bước vào.

Thật ra cửa hàng đặc sản ở nơi nào cũng vậy, hàng hóa na ná. Tôi dạo quanh hai vòng, chẳng có ý định mua gì.

"Ngộ Trạch a ca, anh xem em đeo cái này có đẹp không?"

Một giọng trong trẻo vang lên, chất chứa niềm vui và nét kiêu kỳ của người được yêu chiều.

Tôi theo bản năng nhìn sang.

Dưới ánh đèn sáng rực, đôi mắt người ấy lấp lánh như sao: "Cái này là cho con gái đeo đấy! Trước giờ anh đã muốn nói rồi, em cứ thích đeo mấy thứ leng keng này."

Thẩm Kiến Thanh trông chững chạc hơn nhiều, vai rộng hơn, dáng dấp thành người đàn ông trưởng thành, song trong ánh nhìn vẫn phảng phất bóng dáng thiếu niên năm ấy.

Còn Lý Ngộ Trạch thì hầu như không đổi, khoảng thời gian năm năm quả thật chẳng đủ để biến đổi dung mạo một người, chỉ có vẻ lạnh nhạt xa cách xưa kia đã biến mất hoàn toàn.

Họ đều mặc Miêu phục màu lam sẫm, trông quả thật rất xứng đôi.

"Nếu em thật sự thích, anh sẽ làm cho em một bộ bạc nguyên chất, đo theo người em, chắc chắn hợp hơn..." Lý Ngộ Trạch vừa nói vừa quay đầu và cuối cùng thấy tôi ở cuối lối đi.

Anh khựng lại một giây, nụ cười còn chưa kịp nở thì ánh nhìn của tôi đã bị Thẩm Kiến Thanh che khuất.

Thẩm Kiến Thanh kéo Lý Ngộ Trạch ra sau, nhìn tôi cảnh giác. Tôi thoáng thấy tay phải cậu lóe lên vệt đỏ, rồi nhanh chóng ẩn vào tay áo.

Ồ, tính hay ghen nhỏ nhen ấy chẳng khác gì hồi còn trẻ.

Lý Ngộ Trạch khẽ đẩy Thẩm Kiến Thanh ra, mỉm cười nhìn tôi: "Tiểu Ôn, lâu lắm không gặp!"

Tôi gật đầu: "Không ngờ lại trùng hợp thế này. Hai người... đi chơi Thất Tịch à?"

Lý Ngộ Trạch liếc Thẩm Kiến Thanh, như trách móc: "Em ấy đòi quà Thất Tịch, tôi không chuẩn bị, đành dắt ra đây mua tạm."

Ồ, đầu óc trai thẳng của Lý Ngộ Trạch vẫn chẳng đổi nhỉ.

Lý Ngộ Trạch bước nhanh lại phía tôi, dường như có chuyện muốn nói. Nhưng khi đến gần lại ngập ngừng, chỉ ấp úng: "Thực ra dạo trước tôi đã muốn liên lạc với cậu, nhưng Thẩm Kiến Thanh không cho, nói chưa đến lúc, hắn ta phải chịu trách nhiệm đến cùng. Thật ra A..."

"Cô Ôn! Cô cũng ở đây à!"

Lời anh bị cắt ngang, tôi quay lại, thì ra là học sinh của tôi.

Thẩm Kiến Thanh đứng sau Lý Ngộ Trạch, ánh mắt như muốn đâm thẳng hai chữ "không hài lòng" ra ngoài.

Cũng phải thôi, ai lại muốn đêm Thất Tịch của mình bị người ngoài quấy rầy chứ.

"Đợi đã..." Lý Ngộ Trạch còn định gọi, nhưng tôi đã ra khỏi cửa hàng.

Tôi đại khái đoán được điều Lý Ngộ Trạch định nói. "Chưa đến lúc", "phải chịu trách nhiệm đến cùng"... có lẽ là sắp cưới rồi.

Cũng tốt thôi, ai cũng đang bước tiếp về phía trước.

Học sinh tò mò hỏi: "Cô Ôn, hai người đó là bạn cô à? Đẹp trai ghê!"

Tôi gõ nhẹ lên trán nó: "Tuổi còn nhỏ, lo học hành đi! Lịch sử cận đại học thuộc hết chưa?"

Cô bé rụt cổ lại: "Đừng mà cô ơi! Hôm nay là Thất Tịch đó!"

Tôi hỏi: "Em yêu sớm hả?"

"Em độc thân thì không được đón Thất Tịch à? Em có đi với ai đâu, chỉ ra ngoài dạo một mình thôi mà!"

Ừ nhỉ, ai nói độc thân thì không được đón Thất Tịch chứ?

Hai cô trò sóng vai, thong thả bước trên con đường lát đá trong Miêu trại. Các cửa hàng quanh đó phát qua loa những khúc dân ca réo rắt, giọng nữ cao vút vang xa. Khắp nơi đều có các trò chơi cho đôi tình nhân nhằm thu hút khách, khiến nhiều người hào hứng tham gia.

Tôi dần bị không khí náo nhiệt quanh mình cuốn theo, không kìm được mà mỉm cười.

Chúng tôi đi ngang một sạp vẽ chân dung, cô học trò dừng lại không đi nữa.

Những sạp vẽ kiểu này đâu đâu cũng có, chẳng có gì lạ, vậy mà cô bé lại tò mò hỏi họa sĩ: "Chú vẽ có giống thật không?"

Họa sĩ là một ông già hói đầu, ngồi trên chiếc ghế xếp nhỏ của mình, trước mặt bày la liệt mấy bức mẫu. Nghe câu hỏi ấy, ông ta thấy như bị xúc phạm, bèn nhắm mắt, kiêu ngạo nói: "Cho dù người không ngồi trước mặt tôi, chỉ cần mô tả thôi tôi cũng vẽ được tám phần giống!"

"Thật không đó?" cô bé bán tín bán nghi.

Nhưng tôi lại động lòng.

"Chỉ dựa vào mô tả thôi à?" tôi hỏi lại.

Ông họa sĩ quả quyết: "Không tin thì bỏ tám mươi tệ vẽ thử một bức đi!"

Cô học trò la lên "Lừa đảo!", định kéo tôi đi, nhưng tôi ngồi xuống, không do dự quét mã trả tám mươi tệ.

Ông họa sĩ lập tức cầm bút, chờ tôi mô tả.

Điều khiến tôi tiếc nuối nhất trong đời là chưa từng được nói chuyện đàng hoàng với anh, cũng không có tấm ảnh nào lưu lại. Trí nhớ con người thật vô tình, sâu sắc mà mong manh, tôi sợ mình sẽ quên dần gương mặt anh.

Trong đầu hiện lên khung cảnh lần cuối chúng tôi gặp nhau. Tôi nói: "Anh ấy có làn da màu lúa mạch, trán đầy đặn... ừm, bên phải có một nốt ruồi nhỏ. Mắt một mí, hốc mắt sâu một chút... không đúng, chỗ này phải cao hơn một chút..."

Ông sửa nét theo lời tôi, thêm thắt vài chi tiết, và khuôn mặt ấy dần trùng khớp với hình dung trong trí nhớ tôi.

Tám mươi tệ này, quả thật không uổng.

"Xong rồi." Ông đặt bút xuống, tự tin đưa cho tôi: "Ép nhựa thêm hai mươi."

Tôi nhận lấy bức tranh, chỉ liếc một cái thôi mà nước mắt đã ứa ra, phải cố lắm mới ngăn không để rơi xuống.

Bỗng cô học trò kêu lên: "Cô Ôn, cô tả không phải chính là người đó sao!"

Tôi theo phản xạ quay lại, dưới ánh đèn neon của một cửa tiệm, một bóng người cao lớn, rắn rỏi đang đứng đó.

Ánh đèn ngũ sắc trên đầu phản chiếu khiến đôi mắt đen của anh sáng lấp lánh như sao. Ánh nhìn của anh cũng vừa khéo dừng lại nơi tôi, nụ cười theo đó nở ra, thuần khiết, không vướng bụi trần, y hệt năm xưa.

Đây là một giấc mơ ư?

Bên tai vang lên tiếng họa sĩ: "Thằng ngốc đó hả? Xuất hiện trong bản nửa tháng trước, đầu óc không được tỉnh táo, nhà văn Lý với bạn anh ấy đang bỏ tiền chữa trị. Tội nghiệp lắm! Nghe nói là người miền núi, đầu óc chậm chạp, chẳng cưới được vợ, cha lại mất, không ai chăm, cứ lang thang khắp nơi. Lúc đầu miệng chỉ biết la 'A you', người ta còn tưởng hắn là lưu manh cơ..."

Những lời sau của ông tan vào gió, tôi không nghe rõ nữa.

Tất cả âm thanh xung quanh như vụt tắt, tôi chỉ thấy anh vui mừng cất bước, dường như muốn đi về phía tôi.

"Cô Ôn, sao cô khóc vậy?" cô học trò khẽ hỏi.

Tôi không trả lời.

Tôi thường tưởng tượng, nếu hôm đó trong rừng, anh không quay đi mà cùng chúng tôi chạy thoát, thì mọi chuyện sẽ thế nào.

Giây phút này, mọi suy đoán và tưởng tượng đều dừng lại: như khi tiếng ve mùa hạ đột ngột im bặt, lòng người chợt được một khoảng lặng hiếm hoi.

Bỗng quay đầu lại,

Người ngay trước mắt,

Dưới lửa tàn đứng đó.

--

*Tên phần này và mấy câu thơ trên trích từ bài thơ Thanh Ngọc Án của Tân Khí Tật:

驀然回首,那人卻在、燈火闌珊處。

Mạch nhiên hồi thủ, na nhân khước tại, đăng hoả lan san xứ. Bản dịch thơ mình lấy từ trang Thi Viện.

---

Lời tác giả:

Mấy cục cưng ơi, Thất Tịch vui vẻ nhé! Toàn văn đến đây là kết thúc!

Ban đầu tôi không định tham gia sự kiện Thất Tịch đâu, vì lúc thấy thông báo thì đã hơi muộn rồi.

Nhưng vừa kịp, nên tôi vẫn quyết định cho Tiểu Ôn một kết cục tốt đẹp hơn (dù tôi thật sự nghiện bi kịch BE).

Chúc mấy cục cưng Thất Tịch vui vẻ nhé! Người có đôi sẽ trọn kiếp bên nhau, người độc thân thì phát tài chỉ sau một đêm. Hôm nay ai thoát ế thì chúc phát tài trước, rồi hẵng nên duyên sau!

Moa moa, yêu mọi người~

Bạn đang đọc truyện trên: truyentop.pro