Trùng Khởi: Cực Hải Thính Lôi 1 (C1 - C10)
📌 Bản dịch gốc được đăng tại: https://metarikkuhoseki.wordpress.com/
thuộc ngoại truyện "Trùng Khởi: Cực Hải Thính Lôi".
🚫 Vui lòng không reup hoặc sao chép khi chưa được cho phép.
Dịch: Sóc
Trùng Khởi: Cực Hải Thính Lôi 1
Chương 01: Nghe sấm tìm mộ
Kể một câu chuyện thú vị trước đã.
Điền Hữu Kim là một thương nhân buôn đông trùng hạ thảo, có quan hệ thân thiết với thế hệ trước của tôi, là kiểu mấy ông chú "từng bế tôi hồi nhỏ".
Cuối những năm 1970, ông ấy từng có thời gian đi lao động ở vùng núi Nội Mông. Ký ức khiến ông ấy tự hào nhất chính là bị lạc khỏi đội chăn cừu, lang thang trên thảo nguyên suốt hai tháng trời một mình, dắt đàn cừu thoát khỏi bầy sói rừng và cuối cùng được cứu. Mỗi lần tụ họp với bạn cũ, hễ uống say là ông ấy lại nhắc chuyện này, và nó dần trở thành một phần hình ảnh con người ông ấy. Trong lời kể của ông ấy, thời gian ấy trùng với một mùa mưa hiếm có ở Nội Mông, mưa lớn dội xuống núi rừng, sấm chớp chằng chịt khắp bầu trời, vừa đẹp tuyệt vời, vừa khiến người ta sợ hãi.
Do nghiện rượu nhiều năm, vào năm 2013, Điền Hữu Kim bị suy gan rồi nhanh chóng dẫn đến suy đa tạng. Lúc hấp hối, bạn bè đến thăm, giữa những lời thương tiếc và an ủi, ông ấy bất ngờ kể ra một phiên bản khác của câu chuyện này.
Trước đó, câu chuyện của ông ấy luôn là một hành trình đơn độc, ông ấy gánh vác mọi gian nan một mình. Nhưng trong lần kể cuối cùng trước khi qua đời, câu chuyện ấy bỗng có thêm một người. Mấy chục năm trời, ông ấy chưa từng nhắc đến sự hiện diện của người này.
Điền Hữu Kim gặp người đó vào đầu tháng thứ hai khi đã lạc sâu trong thảo nguyên. Hôm đó mưa lớn, ông ấy đứng trong thung lũng ngước nhìn về phía xa, thấy người ấy đứng trên sống núi, giữa vùng đất không bóng người, lặng lẽ ngước nhìn những tia chớp xé ngang trời.
Trong cơn mưa, ông ấy không nhìn rõ mặt người kia, nhưng người đó đã chỉ cho ông hướng đi đúng từ xa. Sau đó, người kia biến mất vào rừng, không có ngựa, không có người dân du mục đi cùng, chỉ có một mình.
Theo lời Điền Hữu Kim thì đó là một khoảnh khắc kỳ lạ đến không tưởng. Bởi nơi ấy cách khu dân cư gần nhất phải mất gần một tháng đường đi, nếu không có ngựa hay nguồn tiếp tế thì con người khó mà sống sót giữa rừng sâu như vậy. Việc một người đột ngột xuất hiện ở đó thật quá đáng ngờ, thậm chí ông ấy nghĩ có thể người kia cũng bị lạc. Nhưng người đó không cầu cứu mà lại chỉ đường cho ông ấy.
Có lúc ông ấy cũng nghi ngờ có thể người kia là gián điệp từ Mông Cổ, vào đây trinh sát địa hình, hoặc cũng có thể là ông ấy đã gặp phải quỷ núi. Nhiều năm qua, ông ấy không dám kể chuyện này ra vì sợ phiền phức. Đến khi bệnh nặng, hình ảnh ấy ngày càng rõ nét trong đầu, cuối cùng khiến ông ấy quyết tâm nói ra.
Tôi đọc được đoạn chuyện này trong ghi chép của ông nội tôi. Khi mua phần vỏ đông trùng hạ thảo từ Điền Hữu Kim, không biết ông nội tôi đã nghe câu chuyện này từ đâu. Ông nội tôi nghĩ rất đơn giản, ông cho rằng người mà Điền Hữu Kim thấy trong núi sâu là một tên trộm mộ.
Trong phần viết về trộm cắp của "Thanh Bại Loại Sao"(1), Từ Kha đã viết về một tên trộm khét tiếng ở Quảng Châu tên là Tiêu Tứ. Tiêu Tứ thường xuyên hoạt động gần khu vực núi Tự Vân, lấy nghề trộm mộ làm kế sinh nhai. Băng nhóm của hắn có hàng chục người, ai nấy đều giỏi các tuyệt kỹ như nghe mưa, nghe gió, nghe sấm, quan sát màu cỏ, dấu vết bùn đất, trăm lần không sai. Một lần nọ, họ xuất hiện ở vùng ngoại ô phía Bắc vào đúng buổi trưa, giữa lúc sấm chớp dữ dội. Tiêu Tứ ra lệnh cho mọi người tỏa đi khắp nơi để dò xét, yêu cầu bất kể sấm sét mưa gió dữ dội đến đâu cũng không được lùi bước, nếu có gì thấy hay nghe được, phải ghi nhớ và báo lại. Bản thân hắn thì đứng bất động trên đỉnh núi giữa cơn mưa giông. Một lúc sau, mưa tạnh, có người quay lại từ hướng Đông, nói rằng khi sấm rền vang, họ cảm thấy mặt đất dưới chân rung lên, như thể có âm thanh vọng lên từ lòng đất. Tiêu Tứ nghe xong lập tức mừng rỡ nói: "Tìm được rồi!"
...
Khi tiếng sấm vang lên giữa trời, những hang động rỗng và phòng mộ trong lòng núi sẽ cộng hưởng, phương pháp này cực kỳ hiệu quả để xác định vị trí mộ cổ trong một khu vực rộng lớn.
Một cơn mưa lớn như thế này xuất hiện ở Nội Mông là chuyện vô cùng hiếm gặp trong vài chục năm nay. Có thể xuất hiện tại đó vào thời điểm như vậy, chắc chắn là kết quả của sự chờ đợi và chuẩn bị kiên trì suốt vài chục năm, ít nhất qua hai thế hệ. Một người lặng lẽ, đơn độc bỗng dưng xuất hiện giữa vùng núi sâu thẳm, chắc chắn mục đích không đơn giản, rất có thể là nhắm vào một mộ cổ nằm sâu dưới lòng núi. Nhưng đó là ngôi mộ nào mà quy mô lại đủ lớn để khiến một nhóm trộm mộ phải phục kích suốt hai đời người? Hoàng lăng Mông Cổ xưa vốn không dựng bia mộ hay điện thần. Khi chôn cất xong, hàng vạn ngựa chiến được thả cho chạy qua, đến mùa xuân năm sau, thảo nguyên lại phủ kín cỏ cao tới tận đùi người, không để lại bất kỳ dấu vết nào cho thấy từng được chôn cất. Vì vậy, cho đến nay, hoàng lăng Mông Cổ vẫn chỉ tồn tại trong truyền thuyết, chưa từng có ai tìm ra. Lẽ nào dưới đó là một lăng mộ lớn của hoàng tộc thời Nguyên?
Giờ thì Điền Hữu Kim đã chết, e rằng không còn ai biết được sự thật.
Tuy nhiên, mọi chuyện không đơn giản như vậy.
Diễn biến của câu chuyện này hoàn toàn khác với những kinh nghiệm trước đây của tôi.
Trước khi bắt đầu, theo lệ cũ, tôi phải giới thiệu một chút về thân phận của mình. Tôi tên là Ngô Tà, sinh ra trong một gia tộc vô cùng đặc biệt. Dù với tầng lớp nào, khái niệm "gia tộc" ở Trung Quốc ngày nay cũng đã trở nên khá xa lạ. Tuy gia đình tôi không thể so với "Hàn Lâm"(2) hay "hệ Hoàng Phố"(3), nhưng cũng có chút tiếng tăm trong giới. Tuy nhiên, đến đời tôi, cái danh ấy chỉ còn là thứ để nhóm bạn lôi ra tán gẫu cho vui. Chỉ khi đến lượt tôi kể chuyện về ông nội mình, cả mâm cơm mới lập tức im bặt.
Trước khi nhà nước Liên bang Trung Quốc mới được thành lập, ông nội tôi từng là một kẻ trộm mộ, thậm chí còn tham gia vụ sách lụa Chiến Quốc. Trong chín gia tộc trộm mộ lớn ở Trường Sa, ông nội tôi xếp thứ năm, nổi tiếng với nghề huấn luyện chó tìm mộ, người ta gọi là "Cẩu Ngũ Gia". Truyền thuyết kể rằng ông nội tôi bị mất khứu giác, nên phải dùng chó để tìm mộ. Nhưng tôi không nhớ rõ, cũng không biết có thật hay không. Sau này, ông nội tôi rời Trường Sa, đến Hàng Châu định cư, nương nhờ người thân, lừa được bà nội tôi lên giường và sinh ra ba người con trai. Cha tôi là con cả, tên là Ngô Nhất Cùng, chú Hai tên là Ngô Nhị Bạch. Vì bà nội tôi có học vấn cao, là người theo phong trào phụ nữ mới thời ấy, nên sau khi sinh đến người con thứ hai thì không muốn sinh nữa. Nhưng ông nội tôi thì tin lời một ông thầy bói ở Trường Sa, người đó từng nói rằng nhất định phải sinh đứa con thứ ba, vì nó đến để đòi nợ, nếu không sinh ra để trả món nợ đó, tai họa sẽ giáng xuống con cháu. Thế là ông nội tôi đã bày đủ mọi cách, chẳng rõ dùng thủ đoạn gì, cuối cùng cũng khiến bà nội sinh ra người con thứ ba, chính là chú Ba của tôi, tên là Ngô Tam Tỉnh.
Trong gia đình tôi, cha tôi và chú Hai đều là những đứa trẻ rất ngoan, biết điều từ sớm, biết chạy vặt trong nhà, biết tiết kiệm tiền phụ giúp gia đình. Ông nội tôi không muốn bất cứ ai trong nhà dính dáng đến nghề trộm mộ nữa, nhưng chú Ba tôi lại vô cùng nổi loạn, chẳng biết đã nảy sinh hứng thú mãnh liệt với mộ cổ từ bao giờ. Thêm vào đó, tuy ông nội không còn khoe khoang chuyện năm xưa, nhưng từ nhỏ, những câu chuyện ông kể cho bọn trẻ gần như toàn là chuyện trong nghề, mưa dầm thấm lâu. Ông đã đánh gãy ba cái gậy nhóm lửa mà vẫn không ngăn nổi ý định trộm mộ của chú Ba.
Chú Ba tôi quay đầu là vì ông nội tôi sắp xếp cho chú ấy vào làm trong đội khảo cổ. Lịch sử ngành khảo cổ học Trung Quốc còn khá ngắn, mới hơn trăm năm nên cực kỳ khát nhân tài. Khảo cổ thực địa rất cần người dẫn đội. Trong số các mối quan hệ, hay phải nói là đồng bọn cũ của ông nội, có vài người đã được đặc cách vào đại học để làm công tác khảo cổ. Nhiều người đi cải tạo lao động xong cũng được tin tưởng giao việc. Trong đội, chú Ba đã gặp được tình yêu cả đời mình là Trần Văn Cẩm. Tôi hay đùa rằng, khi ở cạnh Trần Văn Cẩm thì chú Ba là một đội viên khảo cổ chính hiệu; còn lúc không có dì ấy thì lại thành phường ăn trộm.
Chính là một chú Ba nửa chính nửa tà như thế, nhưng từ nhỏ, tôi lại thân với chú nhất. Cha tôi nhẫn nhịn, khiêm nhường, thậm chí hơi cứng nhắc, tuy chăm sóc tôi rất chu đáo nhưng hiếm khi có những trao đổi thật lòng. Chú Ba thì ngược lại, nhiều khi giống như bạn chơi cùng tôi vậy. Ngay từ đầu, ông nội đã đặt ra quy tắc, nhất định đến đời tôi không được dính dáng gì đến những góc khuất của nghề này. Vì thế tôi mới có tên là Ngô Tà, ý là đến đời tôi, mọi điều xui rủi, tà ma quỷ quái từ đời trước sẽ chấm dứt. Những hiểu biết của tôi về gia tộc, cùng với bản tính hoang dã ẩn sâu trong lòng, phần lớn đều đến từ những câu chuyện chú Ba kể và ảnh hưởng âm thầm của chú ấy.
Chắc là ông nội tôi không ngờ, mang theo cái tên "vô tà" đầy kỳ vọng này, cuối cùng tôi lại trở thành một kẻ vô tích sự. Sau này nghĩ lại, suốt hơn mười năm đầu đời, dường như tôi chỉ đang cố thoát khỏi cuộc sống đơn điệu, nhàm chán, nhìn thấy tương lai ngay trước mắt ấy. Nhưng đến giữa cuộc đời, tôi mới nhận ra, có vẻ như mình đã cố gắng quá mức. Tôi cũng dần hiểu ra vì sao vị cao nhân mà ông nội tin tưởng lại nói chú Ba là đứa con then chốt.
Nếu không có chú Ba, có lẽ những trải nghiệm rực rỡ và kỳ lạ nửa đầu cuộc đời tôi đã không thể bắt đầu theo cách như vậy. Chú Ba trong cuộc đời tôi là một sợi dây ràng buộc còn nặng nề hơn cả tình thân.
Những điều tôi vừa kể chỉ là sơ lược. Có rất nhiều giai thoại trong dân gian về ông nội tôi, cũng từng có ghi chép trong lịch sử, tôi sẽ không kể thêm ở đây. Nghề trộm mộ khác hoàn toàn với những nghề khác, mỗi người kể một kiểu. Tôi từng đích thân trải qua một vài sự kiện, chỉ có cụm từ "kỳ lạ khó tin" mới có thể diễn tả chính xác cảm giác của tôi lúc ấy.
Tôi bắt đầu hiểu về nghề này từ cuốn sổ ghi chép của ông nội. Ông nội tôi học viết chữ sau khi nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa được thành lập, nhưng trí nhớ của ông cực kỳ tốt. Từ thời niên thiếu, khi ông còn băng rừng vượt núi tìm kiếm và đào trộm mộ cổ, ông đã phác họa lại rất nhiều bản vẽ. Sau này, nhờ trí nhớ, ông kết hợp những bản vẽ ấy với chữ viết để ghi lại tất cả thành một bộ sổ tay, tổng cộng ba mươi quyển, sử dụng đủ loại giấy. Đó chính là bộ "Đạo Mộ Bút Ký", ghi lại phần lớn những câu chuyện ông từng trải qua. Tuy nhiên, trước khi mất, ông đã xé đi rất nhiều trang trong "Đạo Mộ Bút Ký". Khi đến tay tôi, tôi thử đối chiếu và nhận ra, toàn bộ trải nghiệm của ông từ năm 23 đến 27 tuổi đã bị ông xé sạch, mang theo xuống mồ.
Ông nội tôi còn để lại một di nguyện rất kỳ lạ, khi hỏa táng, không được để ai đứng gần, tất cả người thân và nhân viên đều phải đứng cách xa quan tài. Trước lúc nhắm mắt, ông còn nói một câu mà tôi mãi không quên: "Cuối cùng cũng có thể chết rồi." Chỉ một câu thôi, nhưng nếu anh để tâm suy nghĩ thì sẽ hiểu vì sao tôi phải dùng từ "kỳ lạ khó tin" để miêu tả những cảm giác của mình. Rốt cuộc ông đã trải qua những gì trong quãng đời từ 23 đến 27 tuổi? Vì sao cái chết lại khiến ông như được giải thoát? Không ai biết. Và khi thi thể ông được hỏa táng, rốt cuộc có gì mà không thể để người khác nhìn thấy?
Manh mối duy nhất còn lại chính là đoạn viết về Điền Hữu Kim trong những chương sau. Tôi đoán rằng lúc ấy, ông nội tôi đã gặp và quen biết Điền Hữu Kim. Nhưng về ông ấy, những ghi chép sau đó cũng chỉ còn lại một đoạn duy nhất.
Nếu anh hứng thú với những chuyện này, có thể bắt đầu theo dõi câu chuyện từ đây.
Chỉ xin nhắc trước một điều, câu chuyện này rất dài, dài đến không tưởng. Lúc tôi bắt đầu viết những dòng đầu tiên, tôi từng nghĩ có lẽ mình sẽ chẳng thể nào viết hết trong phần đời còn lại. Không phải vì nó là một kiệt tác gì lớn lao, mà bởi vào thời điểm ấy, tôi tin rằng mình mắc bệnh nan y, sẽ chết trong vòng ba tháng.
Thế rồi, mọi thứ thay đổi. Câu chuyện cũng theo đó mà trở nên phức tạp, rối rắm, lòng vòng, còn cơ thể tôi cũng trải qua nhiều thay đổi. Ban đầu tôi nghĩ, viết được đến đâu hay đến đó. Nhưng càng viết, nó lại càng dài ra.
Nếu anh đủ kiên nhẫn, và chúng ta có thể đồng hành được với nhau, vậy thì bắt đầu thôi.
----------
(1) Thanh Bại Loại Sao là một tiểu thuyết ghi chép lại những giai thoại và sự việc ít người biết đến thời nhà Thanh, do Từ Kha, một danh sĩ cuối đời Thanh biên soạn.
(2) Hàn Lâm là chức quan trong chế độ phong kiến Trung Quốc thời xưa. Nguồn gốc của chức danh này có thể truy ngược về thời nhà Đường, cụ thể là vào thời Đường Huyền Tông. Khi ấy, những người tài giỏi được tuyển chọn từ đội ngũ văn thần tùy tùng để đảm nhiệm chức Hàn lâm học sĩ, chuyên phụ trách soạn thảo các văn bản cơ mật do hoàng đế trực tiếp ban hành, ví dụ như việc bổ nhiệm tể tướng hay tuyên bố lệnh chinh phạt.
(3) Hệ Hoàng Phố là một phe phái trong quân đội Quốc Dân Đảng, được đặt tên như vậy vì lực lượng nòng cốt của quân đội trung ương Quốc Dân Đảng chủ yếu là các giảng viên và cựu học viên của Trường quân sự Hoàng Phố.
Chương 02: Tủ gửi đồ ở Nam Kinh
Câu chuyện bắt đầu từ một tin nhắn của chú Ba tôi.
Vào dịp Tết năm nay, tôi nhận được một tin nhắn từ số lạ, nội dung là một đoạn văn kỳ lạ:
"Tủ đồ số 221, Bảo tàng Khí tượng Bắc Cực Các, phía Đông Cổ Lâu, Nam Kinh, chúc mừng năm mới."
Chính vì kiểu văn phong nửa vời, mơ hồ, không lời dẫn dắt này mà tôi lập tức cảm thấy bất thường. Bởi trong suốt mười mấy năm qua, tôi đã quá quen với kiểu hành văn kỳ quặc ấy, tất cả tin nhắn chú Ba từng gửi cho tôi đều rất mập mờ, tuy mỗi câu đều rõ ràng nhưng lại chẳng hiểu chú ấy đang muốn làm gì.
Phải nói thêm, lúc tôi nhận được tin nhắn này thì chú Ba đã mất tích khá lâu.
Chú ấy biến mất trong một chuyến thám hiểm ở khu vực lòng chảo Tháp Lý Mộc. Nghe nói có một thành cổ kỳ lạ chỉ xuất hiện khi trời mưa ở nơi đó. Tôi rất khó nói cho rõ mục đích chuyến đi của chú. Tôi tin là chú đi tìm Trần Văn Cẩm đã mất tích nhiều năm trước đó, hoặc có thể còn là vì một mục tiêu sâu xa hơn. Hành vi và cách xử sự của chú Ba xưa nay vốn rất khó lường. Đến bây giờ tôi có thể chắc chắn chú đã và đang theo đuổi một bí ẩn lớn. Rốt cuộc bí ẩn đó là gì, cho đến hiện tại, tôi chỉ có một suy đoán riêng có lẽ khá sát với sự thật. Tôi vẫn luôn hy vọng một ngày nào đó có thể hỏi thẳng chú, để chú tự nói ra. Nhưng đến hiện giờ thì khả năng ấy càng lúc càng mong manh.
Bên ngoài, tôi tỏ ra rằng tôi tin chú ấy đã chết ở sâu trong sa mạc Tháp Lý Mộc. Nhưng trong thâm tâm, tôi vẫn có cảm giác chú không dễ chết như vậy. Và sự xuất hiện của tin nhắn này, rất giống với phong cách thường thấy của chú, lại nhóm lên trong tôi một tia hy vọng một lần nữa.
Hơn nữa, Bắc Cực Các là nơi có lịch sử rất lâu đời. Từ thời Nam triều Lưu Tống(1) đã xây dựng đài quan trắc thiên văn ở đây, khiến địa điểm này luôn có tiếng tăm. Đầu thời Minh, một đài thiên văn với quy mô rất lớn từng được xây dựng tại đây, tôi không biết khi ấy Uông Tạng Hải có từng tham gia vào dự án này không.
Tôi không đến Nam Kinh ngay mà ghé qua Bắc Kinh trước để sắp xếp tạm vài chuyện bên đó rồi mới lên đường cùng Bàn Tử. Trên chuyến tàu cao tốc đến Nam Kinh, tôi cứ nhìn chằm chằm vào dòng tin nhắn kia, tôi không gọi lại ngay như trước nữa, vì tôi đã hiểu rằng, phải ẩn mình trước, ra tay sau mới là cách giành lợi thế tốt nhất.
Bàn Tử hỏi tôi định xử lý thế nào. Tôi vẫn đang suy tính, bởi vì tủ gửi đồ là thứ sẽ được nhân viên dọn dẹp kiểm tra mỗi đêm. Nếu có gì đó bên trong thì không thể nào tồn tại qua đêm được. Đây là chỗ rất nguy hiểm. Vì thế, tôi không kỳ vọng nhiều rằng sẽ tìm được đầu mối gì trong tủ. Kể cả nếu chú Ba còn sống và đã để lại gì đó trong đó thì chắc chắn cũng đã bị chuyển vào phòng đồ thất lạc. Tuy nhiên, làm vậy cũng có cái hay, thứ được để lại sẽ không bị người khác lấy mất. Cũng có thể khả năng khác, chẳng hạn như manh mối hoặc đồ vật được dán ở một vị trí kín đáo nào đó trong tủ. Phải kiểm tra thật cẩn thận mọi khả năng.
Bàn Tử hỏi tiếp: "Nếu chú Ba chưa chết thật thì tại sao không đến gặp cậu? Đã giải quyết gần hết chuyện lớn rồi mà?"
Thực ra đây chính là chuyện tôi e ngại nhất. Trước đó, chúng tôi đã trải qua một cuộc phiêu lưu đầy khắc nghiệt, trên lý thuyết, âm mưu khổng lồ kia đã bị phá giải, lẽ ra chú Ba đã an toàn. Nhưng nếu chú ấy còn sống, tại sao lại vẫn không thể công khai xuất hiện gặp tôi? Chú Ba không phải kiểu người ngại ngùng hay yếu đuối. Vậy thì khả năng duy nhất là mọi chuyện vẫn chưa kết thúc. Ở một góc khuất nào đó mà tôi chưa thấy được, vẫn còn thứ gì đó đang tiếp diễn.
Bàn Tử thấy tôi thở dài thì vỗ vai trấn an, bảo tôi đừng nghĩ ngợi nhiều, biết đâu nhìn thấy manh mối rồi sẽ rõ mọi chuyện. Có khi chỉ là một tin nhắn rác thôi cũng nên.
Dọc đường đi không gặp trở ngại gì lớn, chúng tôi tìm đến nhân viên của Bảo tàng Khí tượng, báo lại số hiệu, rồi được dẫn thẳng đến tủ gửi đồ. Đúng lúc đang không có ai sử dụng tủ số 221. Tôi mở ra, cúi người nhìn vào trong, quả nhiên bên trong trống không.
Bàn Tử đứng che cho tôi khỏi bị người khác nhìn thấy, tôi thò tay vào bên trong tủ sờ soạng thử, chắc chắn rằng không có ngăn bí mật nào cả. Hỏi luôn cả chỗ tiếp nhận đồ thất lạc cũng không có gì.
Bàn Tử nhìn tôi: "Ngu rồi chứ gì! Có phải chỉ là tin nhắn rác thôi không?"
Tôi suy nghĩ một chút rồi quay sang nhìn lên bức tường đối diện tủ số 221. Những quyển sổ lưu niệm được treo kín trên đó, từ ngày bảo tàng khai trương cho tới nay. Chú Ba tôi có một chiêu thường dùng, gọi là "đánh lạc hướng", chỗ chú ấy để lại ký hiệu thường sẽ chẳng có gì cả, nhưng ở gần đó, những nơi có vị trí tương ứng với ký hiệu ấy mới chính là chỗ giấu đồ thật sự.
Tôi ướm thử vị trí của tủ số 221, vừa so vừa đi tới trước một quyển sổ lưu niệm nằm đúng đối diện với tủ đồ ấy. Quyển sổ được cố định bằng đinh thép lên một thanh gỗ gắn trên tường. Tôi bắt đầu lật từng trang, toàn là mấy dòng lưu bút kỳ quặc, có cả tỏ tình, có cả kiểu đã từng đến đây, lật được vài trang, tôi thấy một trang có ghi nội dung thế này:
Thông báo chuyển nhượng
Nay chuyển nhượng vô điều kiện thửa đất số 87, đoạn Giáp 1, đường Thường Bình, Tiểu Tùng Sơn cho Ngô Tà.
Người chuyển nhượng: Ngô Tam Tỉnh
Người nhận:________
Văn bản này có hiệu lực ngay sau khi ký, không cần thêm điều khoản gì. Các tài liệu khác được lưu tại văn phòng luật sư XX.
Còn có một dấu vân tay ở phía dưới.
Tôi sững người. Bàn Tử hỏi: "Sao thế?"
Tôi đáp: "Chú Ba tôi để lại cho tôi một mảnh đất."
----------
(1) Nam triều Lưu Tống là một nhà nước do Lưu Dụ lập ra sau khi diệt Đông Tấn, và là triều đại đầu tiên trong Nam triều (giai đoạn phân tranh Bắc – Nam trong lịch sử Trung Quốc thế kỷ 5–6).
Chương 03: Trạm khí tượng bỏ hoang
Tôi cuộn cả quyển sổ lưu niệm lại, giật đứt sợi dây rồi nhét thẳng vào túi áo, rời khỏi bảo tàng khí tượng. Bàn Tử cũng đi ra theo tôi, nhưng vẫn chưa hiểu đầu đuôi ra sao. Tôi tìm một góc khuất ngồi xuống, cẩn thận đọc đi đọc lại thông báo chuyển nhượng đó mấy lần rồi giở ra xem trước sau cả quyển, nhận thấy các trang khác đều bình thường, chỉ duy nhất trang đó là bất thường.
"Cái này có hiệu lực thật không đấy?" Bàn Tử hỏi tôi.
Tuy tôi không am hiểu luật, nhưng nếu chú Ba thực sự muốn để lại thứ gì cho tôi thì chắc chắn đã chuẩn bị sẵn đầy đủ giấy tờ rồi. Tôi gật đầu, sau đó tra thử văn phòng luật sư XX (văn phòng luật sư có thật nhưng xin ẩn danh vì lý do riêng tư), chưa thấy thông tin gì, có lẽ phải nhờ người khác tìm giúp.
Bàn Tử lập tức quay lại bảo tàng, nói muốn lục hết đám sổ lưu niệm trên tường kia xem còn có thông báo chuyển nhượng nào bị kẹp nhầm không.
Tôi ngồi ở bậc thềm đợi hắn, ngơ ngẩn một lúc lâu mới hoàn hồn lại, rút điện thoại tra thông tin. Hình như thửa đất số 87, đoạn Giáp 1, đường Thường Bình, Tiểu Tùng Sơn này nằm ở vành đai Dã Sơn, Nam Kinh, diện tích cũng không nhỏ, trước kia từng là trạm khí tượng, sau khi dỡ bỏ thì được chú Ba mua lại. Đó là chuyện hơn chục năm trước, khi giá đất còn rất rẻ. Tuy hiện giờ giá đất khu vực đó không quá đắt đỏ nhưng cũng tăng giá gấp nhiều lần, nói chung là một khoản không hề nhỏ.
Đây không phải lần đầu chú Ba mua đất, gần như cả khu nơi chú từng sống cũng do chú mua sạch, nhưng chắc chắn không mua để đầu tư. Phản ứng đầu tiên của tôi là, có gì dưới mảnh đất đó?
Dù đến thời nay, thứ lấy được từ mộ cổ còn không đáng giá bằng chính miếng đất nằm trên đó, nhưng chỉ cần mảnh đất này còn thì có gì bên dưới lại không còn quá quan trọng nữa. Bàn Tử quay trở lại, dù không tìm thêm được gì nhưng đã bắt đầu tỏ vẻ huênh hoang, dáng đi chẳng khác gì ông trùm bất động sản.
Chúng tôi bắt xe đến trấn Dã Sơn, Bàn Tử hạ kính xe xuống châm thuốc, vừa hút vừa lắc đầu nói: "Thiên Chân, chú của cậu cũng đáng mặt làm chú phết đấy chứ. Sao ông trời không cho tôi một người chú như vậy nhỉ? Tôi nói thật nhé, sự nghiệp nửa đời còn lại của hai ta đã rõ rồi, trời đã định cho cậu phát tài lúc canh ba, ai dám ngăn cản cậu nghèo thêm canh năm nữa? Mà chắc chắn tổng giám đốc là tôi rồi đấy nhé!"
Tôi chẳng còn tâm trí đâu mà đùa lại hắn, nhìn thông báo chuyển nhượng cũ kỹ trên tay với dấu vân tay đỏ rực in bên dưới, trong lòng bắt đầu dậy sóng.
Có thể chú Ba thật sự chưa chết.
Một mặt, cuối cùng khối đá lơ lửng trong tim tôi suốt bao lâu nay cũng có dấu hiệu nghiêng về hướng an tâm hơn. Nếu chú vẫn còn sống thì chú ấy đi đâu làm gì cũng không còn là vấn đề. Nhưng mặt khác, chú còn sống mà không xuất hiện lại khiến tôi thấy lo lắng.
Lẽ nào mọi chuyện vẫn chưa kết thúc?
Ngô gia đã ngấm ngầm xoay sở qua ba đời người, tôi cũng đã dốc hết sức mình. Giờ không chỉ tinh thần mà cả những bóng ma trong lòng tôi cũng đã già nua, lết không nổi nữa mà vẫn chưa hết chuyện sao? Tôi không dám nghĩ tiếp.
Hoặc có khi đây lại là một cái bẫy?
Mà thực ra tôi cũng không còn sợ nữa. Vì giờ tôi đã không còn là tôi của năm xưa, nếu người khác cố tình bày mưu hại tôi thì việc tôi nên làm chính là chấp nhận thách thức đó, rồi đánh bại họ triệt để. Bằng không, cứ để họ giăng bẫy hết lần này đến lần khác, cả đời tôi cũng không được yên thân.
Tài xế riêng vừa đi vừa hỏi đường, hỏi chỗ trạm khí tượng ở đâu. Dã Sơn toàn là mỏ khoáng, địa hình nửa bằng phẳng, nửa đồi núi. Ra khỏi trấn là một loạt sườn núi hoang và khu bảo tồn địa chất. Tôi tra lại huyện chí như mọi khi, biết được dưới mỏ ở trấn này toàn là đường hầm cổ, đường hầm được phát hiện sớm nhất là từ thời Tây Chu, đào sâu xuống đất cả trăm mét. Không rõ chú Ba mua đất ở đây có liên quan gì tới đống đường hầm đó không.
Chúng tôi rẽ từ đường lớn vào một ngôi làng ven đường, nghe nói trạm khí tượng nằm ở sau ngọn núi phía sau làng. Xuống xe đi vào trong, nhận thấy đây là một ngôi làng cổ, dạng dài và rất chật hẹp. Những ngôi nhà gỗ cũ kỹ chen chúc với các căn nhà bê tông mới xây, thậm chí con đường ở giữa không đủ rộng cho ba người đi song song. Vẫn còn rất nhiều khẩu hiệu từ thời Cách mạng Văn hóa ở trên đường. Thảm thực vật ở đây được bảo tồn khá tốt, cây cối rợp bóng trời, dù chỉ cần đi vài bước là ra đến đường làng, nhưng nếu men theo đường núi vào sâu bên trong thì vẫn có cảm giác âm u rợn người.
Ra khỏi làng là bước ngay vào con đường núi hoang sau làng. Lên đến đỉnh núi, Bàn Tử bắt đầu nhăn nhó, mắng: "Khoảng đất này chỉ hợp để làm nghĩa trang thôi, lúc nãy đi ngang qua có mảnh đất ngon thế kia, sao thứ chú Ba cậu để lại toàn là chỗ khỉ ho cò gáy thế này?"
"Bất động sản nhà âm thì cũng là bất động sản, làm nghề nào yêu nghề đấy." Tôi trêu hắn.
Trạm khí tượng phải xây ở nơi ít bị nhiễu loạn bởi môi trường, hướng đi không sai.
Lên đến đỉnh núi, chúng tôi trông thấy một cánh cổng sắt cũ kỹ đã bị niêm phong cùng tấm bảng tên trạm khí tượng đã rỉ sét và bong tróc. Hai bên cổng là tường vàng vữa đã nứt nẻ, nhiều đoạn sụp đổ, chỗ còn lại thì đầy rêu xanh và dây leo bò kín, như thể chúng sắp nuốt chửng cả bức tường. Nhìn qua khe cửa sắt, có thể thấy một toà nhà cũ kỹ của trạm khí tượng, tường ngoài bong tróc lở loét, đầy rêu mốc và dây leo phủ kín. Lá rụng trên đất mục nát thành từng lớp dày, có lẽ đi vào sẽ lún tới mắt cá chân.
Trong không khí là mùi đất ẩm, cỏ dại và lá mục lên men, lẫn với mùi sắt rỉ từ cổng sắt khiến cổ họng ngứa ngáy khó chịu. Mắt Bàn Tử trợn tròn: "Chưa tháo dỡ à? Chẳng lẽ chúng ta phải tự phá? Đường xá thế này máy xúc xe ben vào kiểu gì? Đúng là mua lỗ!"
Tôi nhìn trạm khí tượng to tổ bố như viện điều dưỡng Cách Nhĩ Mộc, phản xạ đầu tiên là muốn quay lưng rút lui. Chắc chắn có gì đó, thậm chí tôi cảm nhận được một áp lực khổng lồ tỏa ra từ tòa kiến trúc mục nát kia. Đây lại là cái hộp Pandora khổng lồ mà chú Ba để lại cho tôi, không thể mở, nhất định không thể mở.
Nhưng tôi không quay đi. Nghĩ bụng nếu giờ chú Ba đang bị người rừng bắt giữ ở chốn hoang dã nào đó thì chỉ có tôi mới có thể đi cứu chú ấy. Dù Bàn Tử thất vọng, hắn vẫn chui vào qua lỗ hổng bên tường. Tôi theo sau, hai người lội qua cỏ dại, chỗ nông chỗ sâu, chật vật tiến vào trong. Đến gần toà nhà bê tông cũ, tôi trông thấy có ai đó đã dùng bình sơn xịt vẽ ngay ngắn một hàng số trên tường phía ngoài cánh cửa:
177 x x x x 5034
Là một số điện thoại di động.
Tôi rút điện thoại ra, mở lại tin nhắn kia, đúng là số đã gửi lời chúc mừng năm mới cho tôi. Khi ấy phần mềm điện thoại không thể phân biệt được đó có phải tin nhắn rác hay không.
Tôi và Bàn Tử liếc nhau, tôi rút Đại Bạch Cẩu Thoái từ ba lô ra giắt ngang hông, còn Bàn Tử nhặt một viên gạch ở bên cạnh.
Hai chúng tôi vừa định tiến vào khu phế tích của trạm khí tượng thì đột nhiên nghe thấy có người đang nói chuyện bên trong. Bàn Tử lập tức kéo tôi trốn vào bụi cây bên cạnh, sau đó chúng tôi nhìn thấy có hai, ba người đi ra từ trong đống đổ nát. Một người trong số đó nói: "Ngô Tam Tỉnh tôi đã nói là làm. Lão Mã, bây giờ anh lấy mảnh đất này, không đến ba năm, giá đất còn phải tăng gấp đôi nữa. Tôi đã bàn bạc với dân làng rồi, tôi chia đôi tiền làm đường với họ, anh chỉ cần đứng tên là được."
Người trả lời nói giọng Nam Kinh, tôi không hiểu rõ nhưng hình như không hài lòng lắm. Còn giọng của người xưng là Ngô Tam Tỉnh kia lại vô cùng quen thuộc.
Tuy rất quen nhưng chắc chắn không phải là chú Ba của tôi. Tôi thầm lấy làm lạ.
Chúng tôi ngẩng đầu nhìn ra từ trong bụi cây, tôi lập tức nhận ra một gương mặt quen thuộc đang đi tới, không ai khác chính là Kim Vạn Đường. Ông ta dẫn người đến tận cổng, chỉ xuống ngôi làng dưới chân núi: "Đây là làng Trạng Nguyên, đã sinh ra mười sáu người đỗ trạng nguyên từ thời Minh đến giờ. Phong thủy là Ngô Tam Tỉnh tôi đây xem cho đấy, không trượt đi đâu được. Anh cứ đi hỏi thử xem trình phong thủy của tôi thế nào, đảm bảo không hề tầm thường. Anh lấy miếng đất này về làm trường học là đẹp nhất. Không tin thì hỏi cháu tôi đi, trước kỳ thi đại học tôi bắt nó đến đây ở, nó không chịu, ở có nửa tháng thôi, kết quả lẽ ra đỗ được Harvard, cuối cùng lại chỉ đỗ được Đại học Chiết Giang."
Trợ lý bên cạnh Kim Vạn Đường gật đầu: "Lúc đó tôi hồ đồ thôi, chứ chú tôi mát tay vụ này lắm."
"Là cái gã Kim ba hoa chích choè đúng không? Sao lại chạy đến đây rồi?" Bàn Tử thì thầm: "Ông bạn làm cái quái gì thế? Nói mà nước bọt bay đầy trời luôn kìa."
Tôi cau mày nghe thêm một lúc rồi bất chợt hiểu ra: Hóa ra bọn họ đang giả danh tôi và chú Ba, định lừa bán mảnh đất này.
Đúng lúc đó, tiếng gõ đập vang lên từ bên trong phế tích, hình như còn có người đang làm việc trong đó. Tôi nhìn Bàn Tử, hắn hỏi: "Khó xử đấy, cậu tính xử lý sao?"
"Xử luôn." Tôi đứng phắt dậy, hét lớn: "Kim Vạn Đường!"
Kim Vạn Đường vừa tiễn người ra cổng, quay đầu lại thì thấy tôi, hoàn toàn không ngờ tôi sẽ xuất hiện, sững người mất một nhịp, sau đó cả người bật dậy, hét "u oa!" một tiếng rồi quay đầu bỏ chạy. Tôi và Bàn Tử lập tức chia hai hướng vây bắt. Một tên thuộc hạ của ông ta lao đến chặn đường, Bàn Tử túm lấy một phát, ấn thẳng xuống đất, đá thêm hai cú nữa khiến hắn nằm im re không dám nhúc nhích, rồi tiếp tục đuổi theo.
Ba người chúng tôi lao vào trong làng, do Kim Vạn Đường ít vận động nên chạy không nổi, tôi với Bàn Tử mỗi người chạy một hướng. Tôi cứ thế đuổi theo Kim Vạn Đường, đến cổng từ đường cũ của làng thì đá cho ông ta một cú bay thẳng vào sân, ông ta lập tức hét lớn: "Tiểu Tam Gia, hiểu lầm rồi, nhất định là hiểu lầm! Đừng ra tay, chúng ta nói chuyện đàng hoàng."
"Ông chán sống rồi." Tôi rút điện thoại ra, chỉ vào tin nhắn kia hỏi: "Có phải tin nhắn này là do ông gửi không? Có phải ông giở trò, lừa tôi tới đây không?"
Kim Vạn Đường nhìn màn hình điện thoại tôi, chưa kịp phản ứng, chỉ tay vào tôi nói: "Tiểu Tam Gia, dù gì tôi cũng là bề trên, dù tôi có làm sai thì cậu cũng không nên động tay động chân."
Tôi cười khẩy: "Cậy già lên mặt hả? Ông dám giở giọng bề trên nữa là tôi gọi Tiểu Ca đến đập cho ông một trận nhừ tử."
"Tôi thật sự không giở trò gì cả, tôi chưa từng thấy tin nhắn này bao giờ." Ông ta cũng tỏ ra ngơ ngác, nhìn tin nhắn rồi nói: "Chẳng lẽ là Tam Gia gửi cho cậu? Ông ấy còn sống thật sao?"
"Không phải chuyện của ông." Tôi cất điện thoại đi: "Nói đi, tại sao lại giả làm chú Ba tôi để bán đất của tôi?"
Kim Vạn Đường thấy chúng tôi đã nắm được kha khá thông tin, sắc mặt hiện rõ sự ngượng ngập, nhưng ông ta lập tức lấy lại bình tĩnh, bỗng nhiên nói: "Hiểu lầm thôi, mảnh đất này vốn là trước đây Tam Gia nhờ tôi giữ hộ, tới thời hạn thì giao lại cho cậu. Nếu cậu không muốn đất mà muốn tiền mặt, tôi cũng phải tìm người mua trước cho chắc. Tôi nghĩ sẵn có người thì cứ liên hệ trước, đến lúc cậu quyết định lấy đất hay lấy tiền thì tùy. Tôi chỉ đang làm tròn trách nhiệm của mình thôi." Kim Vạn Đường nói rất nghiêm túc.
"Giúp tôi bán đất á? Ông định nuốt trọn thì có." Tôi nói. "Vừa rồi các người không chỉ giả làm chú Ba tôi mà còn giả mạo luôn cả tôi, tưởng tôi không nhận ra mưu đồ đen tối của ông chắc?"
"Tôi nuốt mảnh đất khỉ ho cò gáy này làm gì? Tiểu Tam Gia, chẳng lẽ cậu không nhìn ra mảnh đất này có gì đó quái lạ?" Kim Vạn Đường hạ giọng đầy bí hiểm. "Hơn nữa, cậu có biết vì sao năm xưa chú Ba cậu lại mua mảnh đất này không? Nếu cậu biết thì sẽ hiểu vì sao tôi làm vậy là vì muốn tốt cho cậu. Nói thật lòng, chúng ta nên bán mảnh đất này đi, cầm tiền mặt cho sạch sẽ."
Chương 04: Thi thể của "chú Ba"
Lúc đó Bàn Tử đuổi tới nơi, thở như chó, ba chúng tôi ngồi luôn lên bồn hoa trong sân nhà người ta.
Tôi tháo giày của Kim Vạn Đường ra, buộc dây hai chiếc giày lại với nhau rồi đeo lên cổ tôi, lòng bàn chân lão già này mỏng, đi chân đất cho khỏi chạy. Ông ta vừa nhắn nhó gãi chân vừa than thở với tôi: "Tiểu Tam Gia, làm thế này thì quá đáng quá. Tình nghĩa bao nhiêu năm của chúng ta, có thể nói là 'giao tình quý như vàng, vần thơ trong hơn ngọc...'"
"Cút, tôi mắt mờ nên lắm lần nuôi ong tay áo. Ông giải thích đi." Tôi lấy thông báo chuyển nhượng lấy được ở bảo tàng chìa cho lão ta xem qua. "Rốt cuộc chuyện này là sao? Từ đầu đến cuối."
Kim Vạn Đường đảo mắt, vừa định mở miệng thì Bàn Tử ở bên cạnh chen vào: "Lão Kim, chúng tôi biết ông là đồ khốn nạn từ lâu rồi, nhưng mà khốn nạn thì khốn nạn, tôi rất nể ông biết phân rõ chuyện lớn với chuyện nhỏ. Tôi nói trước, chuyện này mà chỉ là lừa tiền thì không đáng nói, nhưng nếu vì không nói rõ ràng mà làm lỡ việc quan trọng của Thiên Chân nhà chúng tôi thì đấy là chuyện lớn. Ăn nói cho cẩn thận, làm bạn bè bao nhiêu năm, tôi cũng chẳng muốn đánh ông đến mức ỉa ra quần."
Kim Vạn Đường cười giả lả gật đầu: "Bàn Gia, anh nhắc đúng lắm, tôi biết rồi, tôi biết rồi." Nói rồi ông ta lấy thuốc từ trong túi ra, đưa cho tôi với Bàn Tử.
Chỉ cần nhìn vẻ mặt của ông ta là tôi biết não ông ta đang chạy hết công suất để xử lý lời của Bàn Tử. Khi bật lửa châm thuốc cho chúng tôi, tôi thấy ông ta đã hạ quyết tâm. Ông ta ngẩng đầu nhìn trời, chậm rãi nói: "Chuyện này xảy ra từ hơn mười năm trước rồi."
"Tóm tắt trong ba câu cho tôi." Tôi lập tức bực mình. "Tưởng tôi vẫn còn hai mấy tuổi, thích nghe mấy chuyện cổ lỗ sĩ của mấy người à? Chính tôi cũng có cả đống chuyện xưa cũ của mình, trong lòng gì cũng thiếu, chỉ không thiếu mấy thứ đó."
"Được rồi, tôi nói thật. Mảnh đất này là chú cậu nhờ tôi đứng tên mua. Hồi đó ông ấy mê mấy thứ liên quan đến khí tượng lắm, nói là có thứ cần điều tra ở trạm khí tượng này." Kim Vạn Đường nói, tôi hỏi là cái gì, ông ta lắc đầu: "Làm xong thủ tục thì chú cậu mất tăm luôn, tiền cũng không trả tôi. Tuy lúc đó đất cũng không đắt lắm, nhưng đất ở trong tay lâu như vậy tôi cũng bực, nên định bán đi. Nhưng giấy tờ làm xong rồi, tôi có phải chủ đất đâu, bán sao được! Thế là tôi liều giả làm ông ấy. Nhưng Tiểu Tam Gia đừng trách tôi, vụ này là tại Ngô Tam Tỉnh làm ăn không đàng hoàng." Tôi cau mày nghĩ nói linh tinh gì vậy? Ông ta bèn nói tiếp: "Phần đó không quan trọng, vấn đề chính không phải ở đó, cậu nghe tôi nói tiếp. Muốn bán đất thì phải dọn cái nhà đổ nát trước, tôi đưa người đến dọn thì phát hiện ra đúng là có một thứ rất kỳ lạ trong tòa nhà đó, không biết có phải là chú cậu để lại không. Nếu chú cậu nhắn tin bảo cậu đến đây thì tôi đoán phần nhiều là muốn cậu xem thứ đó."
"Là cái gì?"
Kim Vạn Đường thấy tôi có hứng thú thì thở phào nhẹ nhõm rồi nói: "Nói thì dài lắm, nhưng nó ở ngay trong đống đổ nát kia, sao cậu không tự vào xem?"
Tôi nghĩ, tạm thời chưa cần xét chuyện ông ta nói trước đó thật hay không, nhưng chuyện chú Ba nhờ người làm mà không trả tiền thì đúng là thật, đến tiền vào thất tinh Lỗ Vương cung còn bắt tôi ứng trước cơ mà. Thực ra chỉ cần kiểm tra lại hóa đơn lúc đó là biết ngay. Nhưng nếu chú Ba bảo tôi đến đây thì chắc chắn không phải chỉ đơn giản là giao đất. Giờ Kim Vạn Đường dám nói vậy, chứng tỏ thật sự có gì đó trong đó, vậy phải xem trước đã.
Tôi bèn trả lại giày cho ông ta, Bàn Tử xách cổ áo kéo ông ta quay lại. Trên đường, Kim Vạn Đường kể qua loa về chi tiết vụ việc.
Tòa nhà cũ là kho lưu trữ hồ sơ cũ của trạm khí tượng. Những năm 80–90 chưa có máy tính, dữ liệu khí tượng đều được ghi bằng giấy. Một phần lớn đã được số hóa, hơn nữa đây chỉ là trạm cấp vùng, dữ liệu đều gửi về trạm khí tượng Nam Kinh hằng năm, nên thực chất mấy biểu đồ ở đây chỉ còn là đống giấy vụn.
Phần lớn số hồ sơ này vẫn còn lưu lại trong các tủ tài liệu của tòa nhà cũ, phủ đầy bụi và hơi ẩm tích tụ suốt mấy chục năm, theo lời Kim Vạn Đường thì là mọc đầy nấm mốc. Bắt đầu dọn dẹp bằng cách ông ta cho chuyển hết các tủ tài liệu này ra ngoài. Vì chột dạ nên ông ta muốn làm nhanh gọn, không hề nghĩ sẽ có chuyện gì bất ngờ xảy ra. Nhưng ngay trong ngày đầu tiên dọn dẹp, công nhân đã báo cáo một chuyện kỳ lạ.
Tòa nhà có tổng cộng sáu tầng, khi di chuyển dãy tủ sát tường tầng một, họ phát hiện ra phía sau một chiếc tủ có một cánh cửa lạ. Thật ra chỉ là một cánh cửa gỗ bình thường sơn màu xanh da trời, lớp sơn bong tróc nghiêm trọng, khung cửa cũng phồng lên méo mó vì độ ẩm. Lạ là từ tầng hai đến tầng sáu cùng vị trí đó lại không hề có cửa, chỉ tầng một mới có mà lại còn bị tủ hồ sơ che khuất, rõ ràng là có người cố tình giấu đi.
Công nhân đã cạy cửa ra, phát hiện ra bên trong là một phòng ở đơn sơ, bàn làm việc mục nát, giường đơn và bình nước nóng phủ đầy mạng nhện, trần nhà ẩm mốc bong tróc, lớp vữa rơi đầy dưới sàn.
Khi chúng tôi đến trước cánh cửa đó, tôi mới bắt đầu thấy rõ chỗ kỳ lạ của chuyện này. Vì tôi học kiến trúc nên chỉ nhìn qua là biết cánh cửa đó không phải là thiết kế đặc biệt gì mà vốn là cửa của phòng trực ban.
Trên bức tường cạnh cánh cửa còn có dấu vết gạch xây sau này, tôi lập tức hiểu ra là có người đã thay đổi vị trí cửa chính của tòa nhà, lối vào hiện tại là sau này mở thêm, còn ban đầu cửa chính nằm ở đây. Căn phòng bị giấu đi này chỉ là phòng trực ban bình thường, không hiểu vì sao lại bị người ta dùng tủ hồ sơ chặn lại để che đi.
Bên trong tòa nhà cực kỳ lạnh lẽo, vừa bước vào phòng trực ban, tôi đã cảm thấy rợn người. Lâu lắm rồi tôi chưa vào kiểu môi trường như thế này. Tôi rút điện thoại ra soi đèn pin, lập tức hiểu tại sao Kim Vạn Đường lại nói "nói ra thì dài lắm".
Giữa phòng có một xác khô ngồi trên ghế, toàn bộ cơ thể đã khô quắt lại, như thể dính chặt vào chiếc ghế. Chiếc áo khoác vẫn còn dính trên người xác chết. Tôi vừa nhìn thấy chiếc áo khoác, đầu lập tức "ong" một tiếng, cổ họng tê rần, tôi nhận ra kiểu áo khoác đó.
Đó là chiếc áo khoác mà chú Ba tôi hay mặc.
Lúc đó não tôi còn chưa kịp liên tưởng ra bất cứ thứ gì, nhưng cơ thể đã bắt đầu run rẩy theo bản năng. Không có dấu hiệu báo trước; tôi không dám bước thêm một bước nào. Bàn Tử soi điện thoại về phía trước, toàn thân tôi nổi gai ốc. Dù khuôn mặt của xác chết đã bị phân hủy, nhưng tôi có một cảm giác mãnh liệt rằng thi thể đó chính là của chú Ba tôi. Tôi quay lại nhìn Kim Vạn Đường, ông ta đứng bên cạnh lặng lẽ nhìn tôi, vẻ mặt không còn láu cá như lúc nãy nữa, dường như đang chờ tôi đưa ra kết luận.
Nói thật thì bất kể thế nào đi nữa, tôi vẫn chưa sẵn sàng để đối mặt với thi thể của chú Ba tôi nhanh đến vậy. Sau từng ấy năm tự ép bản thân phải đối diện với mọi gian nan, đây là lần đầu tiên tôi quay đầu bỏ chạy, tôi lập tức rời khỏi căn phòng đó.
Chương 05: Tiếng sấm
Bàn Tử đuổi theo ra ngoài. Hắn hỏi: "Sao thế? Một cái xác khô mà cũng làm cậu sợ đến vậy à? Thiên Chân, cậu lại nhát như trước rồi đấy."
"Có phải là chú Ba của tôi không?" Tôi hỏi: "Anh nhìn kỹ giúp tôi xem."
Bàn Tử thấy vẻ mặt tôi nghiêm túc không giống đang đùa, mặt cũng nghiêm lại, vỗ vai tôi một cái rồi quay vào trong phòng.
Khung cửa sổ ở khu phế tích đã mục nát, tạo thành từng lỗ hổng lớn, ánh nắng bên ngoài rọi vào thành từng dải sáng hình chữ nhật. Nhưng nơi chúng tôi đứng lại lạnh lẽo lạ thường, ánh sáng bị các tủ hồ sơ lớn chắn gần hết. Tôi nhìn quanh căn phòng, cảm thấy giây phút chờ đợi ấy sao mà dài dằng dặc.
Chưa đầy vài phút sau, Bàn Tử gọi ra từ bên trong: "Thiên Chân, có phải chú Ba của cậu còn có một cái tên khác là Dương Đại Quảng không?"
Tôi nói: "Chưa nghe bao giờ."
"Vậy thì tôi nghĩ chắc không phải là chú Ba của cậu." Hắn nói to.
Tôi quay lại phòng, thấy hắn đang lấy một tấm chứng minh thư cũ từ túi quần xác chết ra rồi chụp lại bằng điện thoại. Tôi bước lại gần, nhìn thấy thẻ tên ghi là Dương Đại Quảng, sinh năm 1948, quê ở Lạc Dương.
Tấm căn cước này được buộc bằng dây chun để trong túi quần với một xấp giấy tờ khác, bọc túi nilon bên ngoài. Bên trong còn có thẻ mượn sách, thẻ công tác và nhiều loại giấy tờ khác. Tuy đã bị ố vàng và ẩm, nhưng nhìn chung vẫn được bảo quản khá tốt.
Bàn Tử lôi tấm ảnh trên căn cước ra, hoàn toàn không phải là khuôn mặt của chú Ba, nhưng lại có vài phần tương đồng với gương mặt xác chết. Người này hẳn là Dương Đại Quảng.
Bàn Tử vỗ vai tôi, áp trán tôi một cái rồi nói: "Lão cáo già không dễ chết vậy đâu. Đừng nghĩ quẩn."
Tôi thở phào, chân cũng nhũn ra không đứng nổi, đang cố trấn tĩnh lại thì Kim Vạn Đường ở bên cạnh chen vào: "Tiểu Tam Gia, cậu coi thường tôi quá rồi đấy. Nếu đây thật sự là xác tiên của Tam Gia, chẳng lẽ tôi lại không nhận ra à?"
Tôi hít sâu một hơi, cảm giác cuối cùng cũng trở lại bình thường. Lúc đó tôi mới ngửi thấy rõ mùi xác thối và ẩm mốc, vỗ mặt, cúi đầu nhìn lại chiếc áo khoác trên thi thể, chiếc áo ấy thật sự quá giống với áo của chú Ba, khiến tôi không thể tin đó chỉ là trùng hợp. Vài giây sau, tôi phát hiện ra chiếc áo không phải là được mặc trên người xác chết mà chỉ được khoác lên. Bàn Tử ho nhẹ một tiếng, tôi lập tức hiểu rằng hắn vẫn chưa nói hết.
Tôi nhìn sang, hắn nói: "Cậu đừng vội mừng, tuy người này không phải là chú Ba của cậu, nhưng rất có thể là bạn trai của chú Ba cậu." Nói rồi hắn đưa cho tôi một bức ảnh.
Đó là ảnh cũ, chắc mới lục ra từ đống giấy tờ khi nãy. Ảnh đã mốc và nhăn nheo, là ảnh màu, có ba người đội mũ công trình kiểu thập niên 1980, vác ba lô lớn đi giữa núi rừng, một cảnh tượng như lao động kiểu mẫu kiến thiết Tổ quốc. Trong ảnh, chú Ba tôi và Dương Đại Quảng đứng sát nhau, tay trong tay, có một người đang đi tới ở phía xa, là Trần Văn Cẩm.
Bàn Tử nói: "Tấm ảnh này được kẹp trong thẻ công tác của ông ta. Cậu nghĩ xem, một thằng đàn ông mà lại để ảnh chụp chung với chú Ba cậu trong thẻ công tác, có thấy kỳ không?"
"Người ông ta thích là Trần Văn Cẩm." Tôi nói. Trên ảnh, tuy Dương Đại Quảng nhìn về phía ống kính, nhưng toàn thân lại hơi nghiêng về phía Trần Văn Cẩm đang đi tới. Tay ông ta nắm tay chú Ba, nhưng các ngón lại không khép chặt, rõ ràng là chú Ba chủ động nắm chặt. Có lẽ chính chú đã kéo ông ta lại để chụp bức ảnh này, còn tâm trí ông ta thì lại hoàn toàn dồn về phía Trần Văn Cẩm.
"Rốt cuộc người này làm nghề gì?"
Bàn Tử đưa thẻ công tác cho tôi, ở phần chức vụ ghi rõ là nhân viên phòng lưu trữ.
Tôi nhìn lại bức ảnh rồi lại nhìn thẻ công tác, thấy chuyện chú Ba và nhân viên trông coi hồ sơ đưa theo Trần Văn Cẩm vào vùng núi chơi bời hoàn toàn vô lý. Chắc chắn người này còn có một thân phận khác mà chúng tôi chưa biết. Nhìn cách chú Ba đối xử với ông ta, rõ ràng họ là bạn bè rất thân thiết. Mà bạn của chú Ba thì không nhiều, cả bạn bè bình thường cũng chẳng dễ gì cùng nhau vào rừng núi thế này.
Chiếc áo khoác này là chú Ba đắp lên cho ông ta sau khi chết. Hẳn là chú đã đến nơi này, thấy bạn mình đã qua đời nên mới phủ áo lên thi thể.
Thế thì chú Ba dẫn tôi đến đây là để tôi dọn xác giúp bạn chú sao? Nhưng tại sao ông ta lại chết trong một căn phòng kín như vậy?
Bàn Tử vừa tiếp tục lục lọi trong phòng vừa nói với tôi: "Chắc ông lão này đột tử vì bệnh gì đó, phòng này là chỗ ông ta lánh vào. Có khi mấy người ở trạm khí tượng còn chẳng biết ông ta chết ở đây đâu. Cậu nhìn cái miệng to của ông ta mà xem, đã chui vào chỗ thế này để làm chuyện gì thì chắc chắn không phải là chuyện bình thường đâu, mau tìm thử xem có gì."
Đồ đạc được lật tung lên. Tôi kiên nhẫn nhưng nhanh chóng xem qua, phần lớn là phiếu ăn, báo cũ và giấy vụn, còn có khá nhiều hồ sơ khí tượng, thật lòng thì tôi chẳng hiểu mấy cái biểu đồ và số liệu đó, đa phần đã mốc meo, mục rữa, bị mọt đục thủng, chạm vào là nát vụn. Bàn Tử bò xuống đất, nhìn dưới gầm giường, bỗng kêu lên một tiếng đầy kinh ngạc.
Tôi cũng cúi xuống xem thử, thấy có một đống hộp giày, loại hộp da thập niên 90, được bọc kỹ bằng túi nilon. Bàn Tử nằm rạp xuống, lấy vài cái ra mở, vừa mở vừa lẩm bẩm: "Cầu trời toàn là sổ đỏ, toàn là sổ đỏ." Mở ra thì thấy trong hộp toàn là băng cát sét loại dùng để nghe nhạc ngày xưa. Tôi và Bàn Tử nhìn nhau ngơ ngác. Bàn Tử lấy một cuốn ra xem, trên nhãn dán có ghi "Du Viên Kinh Mộng"(1), bản ghi của Du Chấn Phi.
"Tuồng Côn Sơn(2)? Ông già là dân mê hát tuồng à?" Bàn Tử sửng sốt.
Chúng tôi lôi hết đống hộp dưới gầm giường ra mở từng cái một, toàn bộ đều là băng cát sét và toàn là các loại nhạc kịch cổ. Tôi càng lúc càng khó hiểu.
Bàn Tử lục soát hết các góc còn lại nhưng chẳng tìm thêm được gì. Chúng tôi rời phòng trực ban để hít thở chút không khí. Kim Vạn Đường lau mồ hôi trên trán, đưa tôi điếu thuốc rồi nói rằng ông ta không lừa tôi, quả thực nơi này rất ma quái, khuyên tôi nên bán sớm đi rồi chia nhau tiền, vì chú Ba nợ ông ta quá lâu rồi, tính là đầu tư chứ không phải cho vay nữa.
Tôi nhìn chằm chằm vào đống băng cát sét mà chẳng thèm để ý đến ông ta. Chắc chắn Kim Vạn Đường định nuốt trọn mảnh đất này, nhưng bây giờ so đo với ông ta cũng chẳng để làm gì. Chúng tôi nắm quá nhiều điểm yếu của nhau, ngưu tầm ngưu mã tầm mã thì có nói cũng chẳng ai bênh. Cũng không cần vội xử lý mảnh đất đó, quan trọng là vì sao chú Ba lại muốn tôi tìm ra người tên Dương Đại Quảng? Vì sao lại để tôi phát hiện ra những cuộn băng này? Trong đó thật sự chỉ là hát tuồng thôi sao?
Tôi bảo Bàn Tử ở lại ứng phó với Kim Vạn Đường, còn tôi thì lên xe đến phố Đường Tử tìm mua một chiếc máy cassette kiểu cũ. Thứ này giờ khó kiếm, nhưng may mà vẫn có một cửa hàng đồ cũ am hiểu mấy thứ này, đến tận chiều tối cũng mang về được một cái từ Tô Châu. Tôi cắm điện trong khách sạn, cho một cuộn băng vào máy.
Ban đầu chỉ là khoảng ba mươi giây trống không, rồi máy phát ra một chuỗi âm thanh kỳ lạ, nghe như tiếng trống xen lẫn giọng thì thào rất khẽ của ai đó. Những âm thanh này ngắt quãng, kèm theo rất nhiều nhiễu trắng.
Tôi suýt tưởng là máy hỏng hay băng bị khử từ, đập máy mấy cái mà băng vẫn quay. Tôi đổi sang vài cuộn khác, vẫn là cùng một loại âm thanh. Trong lòng bắt đầu nản, nhưng cứ cảm thấy có gì đó không đúng. Tôi lắng nghe kỹ gần chục cuộn băng thì chợt nhận ra.
Là tiếng sấm.
Những cuộn băng này đều ghi âm tiếng sấm sét.
--------
(1) Du Viên Kinh Mộng là tên một trích đoạn nổi tiếng trong vở "Mẫu Đơn Đình", một kiệt tác kinh điển của Thang Hiển Tổ, nhà soạn kịch nổi bật thời Minh của Trung Quốc.
(2) Côn khúc hay Côn kịch / Tuồng Côn Sơn: Là một thể loại hí kịch của tỉnh Giang Tô, Trung Quốc. Đây là một trong những loại hình hí kịch cổ nhất của nghệ thuật Ca kịch Trung Quốc, ra đời vào khoảng cuối thế kỉ XIV.
Chương 06: Dương Đại Quảng
Chúng tôi mang toàn bộ đồ đạc trong phòng trực ban về cửa hàng, kể cả thi thể đó.
Bàn Tử gói cả xác lẫn ghế lại, thuê xe chuyển nhà chạy thẳng một mạch về Hàng Châu trong đêm, lạch cạch cả quãng đường. Tôi chất đống đống đồ đạc trong phòng sau ra phòng trước, dồn hết lên chỗ làm việc của Vương Minh. Tất cả những món đồ mục nát, hỏng hóc, cùng với mấy món nội thất cũ kỹ cũng bị tôi vứt vào một góc.
Vương Minh sững sờ: "Ông chủ, anh không hoàn lương nữa à? Moi được đống này từ mộ nào ra thế? Sao nhìn còn chán hơn cả mớ hàng chúng ta bán?"
Tôi để cái xác trước ghế nằm của mình, phủ khăn lên trên rồi dúi cho Vương Minh hai trăm tệ, bảo cậu ta ra quảng trường nhảy cho khuây khỏa, đừng có làm vướng chân tôi. Sau đó, tôi bắt đầu nghe lần lượt từng cuộn băng ghi âm. Số lượng băng nhiều hơn tôi tưởng, lại có hai mặt. Nhãn trên băng đều ghi tên các vở kịch truyền thống hay bài hát thiếu nhi, nhìn là biết toàn băng cũ đã qua sử dụng được thu đè lại, hẳn là cuộc sống của ông ta không mấy dư dả. Từ đó, tôi đoán ra chắc là mối quan hệ giữa chú Ba và ông ta sau này đã dần xa cách. Vì nếu còn thân thiết thì với điều kiện kinh tế của chú Ba từ trước, thể nào cũng sẽ chu cấp cho ông ta.
Tôi mất đúng hai tháng để nghe hết tất cả số băng. Suốt khoảng thời gian ấy, tôi nghe băng lúc lên xe, xuống xe, lúc đi vệ sinh, thậm chí cả lúc tắm. Âm thanh này khác với mọi thứ tôi từng biết, nghe cực kỳ nhàm chán. Nhưng vì tôi lại nghe rất chăm chú, nhất là không muốn bỏ sót một chi tiết nào, nên hệ quả là tôi toàn ngủ gật lúc nào không hay. Tỉnh dậy lại phải nghe lại từ đầu, thành ra hiệu suất cực kỳ thấp.
Không còn nhận thêm tin nhắn nào nữa. Sau khi nghe hết toàn bộ số băng, tôi kết luận ra một điều, chắc chắn lão Dương Đại Quảng này là một kẻ điên.
Tất cả cuộn băng đều ghi lại tiếng sấm sét với đủ loại tần số, cường độ, và còn kèm theo tiếng mưa rào rạt dữ dội trong nhiều trường hợp. Phần lớn đều là những cơn giông mạnh.
Tôi tra được thời điểm phát hành của những cuộn băng, chắc chắn ông ta phải thu chúng sau ngày phát hành. Tính toán sơ bộ dựa vào đó, muốn có ngần ấy bản ghi tiếng sấm thì không thể là chuyện một sớm một chiều, vì đâu phải ngày nào cũng mưa. Vậy nên khả năng duy nhất là: Ông ta đi khắp nơi để đuổi theo các cơn giông.
Mây giông đến đâu, ông ta theo đến đó, chính là một kẻ săn sấm.
Nhưng không phải lúc nào mây giông cũng xuất hiện. Tính ra, để ghi được từng ấy băng tiếng sấm thì ít nhất ông ta phải kiên trì suốt mười sáu năm. Đúng là một kẻ điên. Mà ông ta làm vậy để làm gì? Mấy tiếng sấm sét này thì có ý nghĩa gì chứ?
Sau một tháng, Bàn Tử cũng chán, bảo: "Đây là gã đầu tiên trên đời "cuồng tiếng sấm", chắc bị sét đánh trúng là lên đỉnh luôn ấy chứ? Tôi thì không nghĩ vậy, khi xem kỹ mấy tấm ảnh ông ta chụp cùng chú Ba và Văn Cẩm, tôi thấy ông ta đeo một thiết bị khá lớn trên lưng. Tôi đã hỏi chuyên gia, đó là máy ghi âm đời đầu, loại dùng băng từ và cực kỳ cồng kềnh. Mà ảnh được chụp trong núi, chứng tỏ có một khoảng thời gian ông ta đi thu âm theo mây giông, còn chú Ba là đi cùng.
Chú Ba là kiểu người không bao giờ dậy sớm nếu không kiếm chác được gì. Ở cái tuổi đó, thứ duy nhất có thể khiến chú ấy dậy sớm là Trần Văn Cẩm và đổ đấu.
Tôi vuốt cằm, râu chưa cạo mấy tuần khiến tôi phải ngồi cạo giữa lúc suy nghĩ. Nhìn dáng vẻ chú Ba trong ảnh, tôi không muốn nghĩ chú ấy là kẻ thủ đoạn, tính toán, dù quan hệ với Dương Đại Quảng có thân thiết thật. Nhưng thực tế lại nói rằng chú Ba là người như thế, vì lợi ích cá nhân mà sẵn sàng giả vờ thân thiết với người khác để đạt mục đích. Bảo chú ấy không làm chuyện đó sao? Tôi nghĩ chưa chắc.
Vậy nên liệu có phải chú Ba tôi đã lợi dụng Dương Đại Quảng, mượn kiến thức khí tượng để tìm kiếm sấm sét, thực chất là để tự tìm mộ cổ? Với một người ranh mãnh và tàn nhẫn như chú Ba tôi thời trẻ thì hoàn toàn có khả năng.
Hơn nữa, đi theo cơn giông nghe có vẻ giống hệt với phương pháp "nghe sấm tìm mộ" từng được sử dụng ở Lạc Dương thời cổ đại. Hoặc cũng có thể hai người này vốn là kiểu bạn nhậu, Dương Đại Quảng bị chú Ba tôi mua chuộc? Có khi lúc đó chú Ba tôi còn đi tìm mộ cùng ông ta? Nhưng nếu chỉ là tìm mộ thì tại sao phải ghi lại tiếng sấm? Chẳng lẽ tai ông ta thính đến mức chỉ cần nghe băng ghi âm cũng có thể xác định được vị trí mộ cổ lúc đó? Không thể nào, theo lẽ thường thì không thể. Dù tôi có nghe kiểu gì cũng chỉ nghe được tiếng sấm mơ hồ, mờ nhạt. Mà nghe sấm để tìm mộ thì phải có mặt trực tiếp tại hiện trường mới hiệu quả.
Manh mối của vụ việc này đến đây là hết. Về sau, tôi vẫn tiếp tục nghe lại các băng ghi âm đó, nhưng chẳng bao lâu thì cơ thể tôi bắt đầu phản ứng ngược, cứ nghe là thấy bứt rứt, lo lắng, thậm chí chỉ cần nhìn thấy băng là đã thấy khó chịu trong người. Tôi cố gắng nghe thêm một thời gian nữa, nhưng hiếm hoi lắm mới có việc tôi kiên trì mà không tìm ra được đầu mối gì. Dần dần, ngay cả tôi cũng bắt đầu chán nản.
Tôi phân loại lại tất cả băng ghi âm, kiểm tra kỹ lại thi thể lần cuối, nhờ người quen giúp lo liệu hỏa táng và an táng. Còn Bàn Tử thì tiếp tục bày ra đủ trò quậy phá. Cả hai chúng tôi dần dần bị thu hút bởi cua lông(1) tháng Sáu.
Mùa hè đến rất nhanh, trời Hàng Châu nóng như đổ lửa, Bàn Tử bắt đầu muốn quay lại núi rừng Phúc Kiến. Tôi nói với hắn, chúng ta đi làm xa thì cũng nên kiếm chút tiền đem về, nếu không Tết về quê nhìn chẳng ra gì. Tiền tích cóp hồi trước đã tiêu gần sạch để sửa đường, rồi đầu tư mấy tụ điểm karaoke huyện, chẳng còn bao nhiêu nữa. Thế là chúng tôi cứ thu mình trong cửa hàng, sống đúng kiểu dân lao động nhập cư.
Bàn Tử bày hàng bán đậu phụ ngũ vị và xúc xích nướng kiểu Hà Lan trước cửa hàng, gần như trở thành mặt hàng chủ lực. Ban ngày bán hàng, tối đến uống Hoàng Tửu, ăn cua lông, nhắc lại chuyện cũ thì càng lúc càng hời hợt, dường như mục đích của chú Ba tôi chỉ là nhờ tôi an táng cho bạn chú ấy một cách đàng hoàng. Nếu thế thì xem như tôi đã hoàn thành nhiệm vụ.
Ngoài ra tôi vẫn luôn phân vân không biết phải nói với bà nội thế nào về chuyện của chú Ba tôi. Tôi sợ bà chịu không nổi cú sốc nên cứ chần chừ mãi. Sau này, khi cha tôi biết chuyện thì khóc như mưa, mắng chú Ba tôi là bất hiếu, vô tình, nhưng cuối cùng cũng thấy mừng, còn bảo tôi nhắn tin bảo chú Ba tôi mau về nhà. Tôi chỉ đáp đợi thêm chút nữa đi, biết đâu chú ấy tự khắc sẽ về. Nhưng chú Ba tôi vẫn không quay lại. Một hôm, tôi lén mang rác đến vứt ở ngoài Lầu Ngoại Lâu, có người lo xử lý rác bên đó, còn rác của chúng tôi thì toàn phải lén lút vứt ké. Đột nhiên trời tối sầm lại, không hề báo trước, mưa đổ như trút. Tôi vội vã chạy về cửa hàng, còn chưa kịp vào trong thì một tia chớp lóe sáng trên bầu trời, sau đó tiếng sấm vang dội đến chói tai. Tôi hét với Vương Minh: "Cất đậu phụ khô vào trong nhanh lên!"
Vừa hét xong, một cảm giác lạ lùng bỗng dâng lên trong lòng tôi. Tôi ngẩng đầu nhìn đám mây trên trời, chớp lại lóe lên, sấm lại rền vang, nghe rất rõ ràng.
Tôi toát mồ hôi lạnh khắp người, chợt nhận ra tôi đã từng nghe thấy tiếng sấm vừa rồi.
Tôi lặng lẽ đứng giữa cơn mưa suốt mười lăm phút, cho đến khi Bàn Tử kéo tôi vào trong, hỏi: "Làm gì đấy? Tự nhiên lại muốn 'tình đậm sâu mưa lất phất'(2) à?"
Tôi lao vào phòng lấy máy cát sét ra, rút một cuộn băng từ trong túi rồi bọc lại bằng áo mưa, chạy thẳng ra mưa chĩa thẳng lên trời, bắt đầu ghi âm tiếng sấm trên trời.
Cơn giông nhanh chóng tan đi. Tôi ướt sũng quay về cửa hàng, Bàn Tử đưa cho tôi một cái búa: "Chào mừng cậu gia nhập 'The Avengers'(3)."
Tôi hất hắn ra, bắt đầu lục tìm lại các cuộn băng của Dương Đại Quảng, bởi vì tôi linh cảm được một chuyện khủng khiếp. Nếu đúng là thật thì sẽ làm thay đổi mọi thứ.
--------
(1) Cua lông, còn được gọi với cái tên là cua đồng Trung Quốc, được coi là cao lương mỹ vị trong ẩm thực miền đông, đặc biệt tại Thượng Hải, Giang Tô và Hồng Kông. Kích thước của cua lông không quá to, mai cua có màu xanh đậm cùng với cặp càng vàng đặc biệt phủ lớp lông màu nâu.
(2) 'Tình đậm sâu mưa lất phất' (tiếng Việt: Tân dòng sông ly biệt) là tên một bộ phim truyền hình lãng mạn Trung Quốc nổi tiếng, phát sóng năm 2001, do Quỳnh Dao biên kịch, nổi tiếng với các tác phẩm sướt mướt, tình yêu trắc trở.
(3) The Avengers (tiếng Việt: Biệt Đội Báo Thù), là một nhóm các nhân vật siêu anh hùng hư cấu xuất hiện trong sách truyện tranh Mỹ, được phát hành bởi Marvel Comics.
Chương 07: Người nghe sấm
Trong quá trình nghe băng cát sét, để tránh việc băng bị khử từ, tôi đã ghi lại rất nhiều đoạn âm thanh vào máy tính.
Tôi lục tìm trong đống băng, lấy cuộn đã được đánh số ra, sau đó tìm tập tin âm thanh mang số hiệu tương ứng trong máy tính. Tôi vừa phát đoạn ghi âm sấm sét vừa ghi lại ban nãy vừa mở tập tin trong máy tính, so sánh từng chút một.
Không bao lâu sau, hai đoạn tiếng sấm bắt đầu trùng khớp. Cuối cùng, tiếng sấm mà tôi vừa mới ghi lại trùng khớp hoàn toàn với đoạn âm thanh trong máy tính, từ tần số, nhịp điệu đến trạng thái, gần như giống hệt nhau.
Tôi lùi lại hai bước, để hai đoạn tiếng sấm phát lặp đi lặp lại. Bàn Tử đứng cạnh thì mù mờ chẳng hiểu chuyện gì. Tôi chỉ vào màn hình máy tính, bảo hắn rằng đoạn âm thanh kia được ghi lại từ hơn mười năm trước. Tôi chỉ vào chiếc máy ghi âm, còn tiếng sấm này là tôi vừa ghi lại khi cơn giông nổi lên lúc nãy.
Hai đoạn tiếng sấm giống nhau như đúc. Đây là chuyện chắc chắn không thể xảy ra. Tiếng sấm cách nhau cả chục năm mà giống y hệt nhau, nếu nói là trùng hợp thì xác suất gần như bằng không.
Càng nghĩ càng rợn người, sự tò mò vốn đã lắng xuống trong tôi bỗng bị khơi dậy mãnh liệt trở lại. Tôi nhận ra chuyện này hoàn toàn khác với những gì mình từng gặp trước đây. Nhưng tôi không thể hiểu nổi tại sao lại có thể như vậy? Chẳng lẽ Thần Sấm cũng chép bài nhau à?
Hai đoạn tiếng sấm cứ lặp đi lặp lại không ngừng, khiến đầu óc tôi như rơi vào vòng lặp chết. Có một giọng nói cứ thì thầm trong đầu tôi, chắc chắn phải có lời giải thích hợp lý. Bởi lẽ tất cả những chuyện bất thường tôi từng gặp trước đây, cuối cùng đều có lời giải thích hợp lý. Nhưng rồi lại có một giọng nói khác vang lên: Chuyện lần này tôi gặp phải hoàn toàn khác với tất cả những chuyện trước kia. Thậm chí tôi còn nhớ đến cuộn băng ghi hình từ rất lâu về trước, nghe nói người ta lấy nó ra từ phía sau cánh cửa thanh đồng, tiếng mưa và sấm sét trong bóng tối. Chỉ một ý nghĩ đó thôi cũng khiến tôi nổi da gà khắp người, hàng loạt liên tưởng ùa về khiến đầu óc tôi rối như tơ vò.
Bàn Tử ở bên cạnh muốn nói gì đó, há miệng cả nửa ngày cũng không thốt ra được lời nào, cuối cùng khẽ nói: "Chuyện này quá vô lý! Có phải tiếng sấm nào nghe cũng giống nhau không?"
Tôi thầm nghĩ: Thật ra chẳng ai biết. Từ xưa đến nay, chắc cũng chưa từng có ai thử ghi âm tiếng sấm hàng loạt cả. Nếu Dương Đại Quảng là người làm ngành khí tượng, bị chú Ba lợi dụng để tìm mộ cổ thì chuyện ông ta là người đầu tiên thử thu âm tiếng sấm cũng hợp lý. Mà nếu trong quá trình thu thập, ông ta phát hiện ra quy luật gì đó thì chuyện mười mấy năm ròng rã đuổi theo giông bão để ghi lại tiếng sấm cũng có thể lý giải.
Ông ta muốn tìm hiểu tiếng sấm là thế nào. Nhưng chú Ba lại muốn tôi phát hiện ra chuyện này là để làm gì?
Tôi tắt máy ghi âm và máy tính, ngồi xuống với Bàn Tử. Tôi nói: "Được rồi, anh thử liệt kê các khả năng có thể xảy ra xem nào."
"Liệt kê cái đầu cậu ấy! Liệt kê cái gì nữa?" Bàn Tử nói. "Một là, tiếng sấm ông ta thu được mười mấy năm trước không phải là tiếng sấm lúc đó, mà là tiếng sấm trong tương lai. Tức là nơi ông ta thu âm có thể bắt sóng được tương lai."
Tôi lắc đầu: "Đừng nói nhảm. Tôi không biết ông ta thu ở đâu, nhưng rõ ràng là mười mấy năm sau, chỉ vài tháng sau khi tôi nhận được băng ghi âm, tôi đã nghe đúng tiếng sấm đó. Không thể chối cãi được."
Bàn Tử gật đầu: "Được, thế thì chỉ còn một khả năng còn nhảm nhí hơn nữa." Hắn nhìn tôi. "Nếu không phải trùng hợp thì có một khả năng duy nhất là tần suất và tần số của loại tiếng sấm này xuất hiện nhiều lần, đến mức mười mấy năm trước ông ta nghe được một lần, mười mấy năm sau cậu nghe lại lần nữa, và có thể còn vô số lần nữa ở giữa, đều là tiếng sấm giống hệt nhau. Nhưng bất kỳ âm thanh nào có tần số lặp đi lặp lại cố định, dù là tiếng rên hay tiếng sấm, đều có nghĩa là..."
Tôi nhìn chằm chằm Bàn Tử, hắn cũng nghiêm túc nhìn lại tôi: "Nó ẩn chứa một thông điệp."
Vừa dứt lời, một tia chớp lại lóe lên bên ngoài, sau đó tiếng sấm rền vang, trời lại bắt đầu đổ mưa. Tôi nhìn ra đường, những người qua lại vội vàng chạy tìm chỗ trú, tôi hỏi: "Ai đã gửi thông điệp đó?"
Bàn Tử nói: "Chỉ có ông trời mới biết được."
Tối hôm đó, tôi ngủ không yên chút nào. Không hiểu vì sao, tôi liên tục mơ thấy cánh cửa thanh đồng, mơ thấy cuộn băng ghi hình từng xem, mơ thấy mình đang bò lết trên mặt đất, mơ thấy vô số tia sét xé toạc bầu trời. Tôi tỉnh giấc lúc năm giờ sáng, ngoài trời vẫn mưa rả rích. Tôi đứng bên cửa sổ nhìn đám mây đen kéo đầy trời, da đầu tê rần.
Tôi lật lại toàn bộ những thứ liên quan đến Dương Đại Quảng một lần nữa, lên mạng tìm kiếm các thông tin tương tự, vẫn chẳng tìm được gì. Tôi nhìn chằm chằm vào chứng minh nhân dân cũ của ông ta, ngắm kỹ khuôn mặt và địa chỉ ghi trên đó rồi nhận ra tôi cần đến quê nhà ông ta một chuyến.
Trong rất nhiều điều chú Ba từng dạy tôi, có một điều cực kỳ hữu ích. Khi muốn điều tra mà hoàn toàn không có manh mối thì nhất định phải đến nơi duy nhất còn có khả năng để lại dấu vết, phải đích thân đi cảm nhận. Không thể ngồi trong phòng tự đoán mãi được. Phải bước ra ngoài.
Quê của Dương Đại Quảng là nơi duy nhất còn có thể ẩn chứa manh mối nào đó. Quê ông ta ở Hà Nam, tôi chưa từng đến vùng đất đó. Thôi thì xem như là đi du lịch.
Chương 08: Sạt lở
Hôm sau tôi và Bàn Tử lên đường. Vương Minh nhìn tôi với vẻ buồn rầu: "Ông chủ, sao vừa mới về đã lại đi nữa rồi?" Tôi lại dúi cho cậu ta hai trăm tệ. Bàn Tử thì chẳng có ý kiến gì, tôi thấy hắn với hai quầng thâm to tướng dưới mắt, rõ ràng là cũng ngủ không ngon. Hắn bảo không hiểu nổi, từng ấy năm bôn ba, chuyện kỳ lạ gì cũng từng gặp, nhưng mà sấm sét mà cũng có thể thành ra chuyện kỳ dị như vậy thì đúng là không hiểu nổi.
Tóm lại, chúng tôi cắm đầu cắm cổ đến được quê nhà của Dương Đại Quảng. Tôi mang theo chứng minh thư và ảnh của ông ta đi hỏi khắp nơi trong làng. Không ngờ là Dương Đại Quảng lại nổi tiếng ở quê như vậy, gần như tất cả các cụ già đều biết đến ông ta. Họ bảo hồi đó ông ta là sinh viên duy nhất của làng, sau này vào làm trong cơ quan nhà nước, rất được trọng vọng. Nhưng từ khi đi làm thì không thấy ông ta quay về làng nữa.
Tôi bèn hỏi xem còn người thân nào của Dương Đại Quảng còn sống không. Một cụ già bảo Dương Đại Quảng khổ lắm, không có anh em, người thân duy nhất là cha, mà nhiều năm trước đã bị xử bắn, nghe nói là vì tội trộm mộ.
Tôi liếc nhìn Bàn Tử, Bàn Tử cũng nhìn lại tôi, tôi nghĩ bụng có hy vọng rồi. Tôi hỏi ông cụ xem nhà cũ của Dương Đại Quảng ở đâu. Cụ lắc đầu nói nhà cũ chẳng còn, nhưng mộ của ông nội ông ta thì vẫn còn, nằm ở chân núi Phục Ngưu. Nhưng nấm mộ đó kỳ lắm, cỏ không mọc nổi.
Ông cụ còn dặn đi dặn lại là không nên đến chỗ đó. Tôi với Bàn Tử thì chẳng để tâm.
Núi non ở Hà Nam hiền hòa hơn nhiều so với những ngọn núi ở Tây Bắc hay Vân Nam đầy rừng rậm nguyên sinh. Thông thường, những nấm mộ cũ cũng không cách thôn làng quá xa, cho dù phải vào núi thì cũng sẽ không đi sâu quá. Có thể đường hơi khó đi một chút nhưng không đến mức không vào được.
Ai ngờ khi hỏi kỹ mới phát hiện ra hoàn toàn không phải là như vậy. Nghe nói cả ngọn núi đó đã bị phong tỏa, tất cả các lối vào đều có lực lượng cảnh sát vũ trang canh gác. Không biết đã xảy ra chuyện gì trong núi, chỉ biết sau đó hết xe này đến xe khác chở đá vụn ra ngoài. Người ta cũng đã hỏi han, nghe nói sáu tiếng nổ lớn vang lên trong núi ba tháng trước, bảo vệ của khu lâm nghiệp đi kiểm tra mãi không phát hiện ra gì nên đã báo cảnh sát. Cán bộ kiểm lâm vào núi tuần tra thì bắt được bảy, tám tên trộm mộ. Sau đó cảnh sát vũ trang tiến vào phong tỏa khu vực.
Tôi và Bàn Tử nhìn nhau, ý nghĩa trong ánh mắt rất rõ ràng: Chắc chắn trong núi có chuyện lớn. Bắt được trộm mộ xong lập tức phong tỏa núi, chứng tỏ ngôi mộ mà mấy tên trộm mộ này trộm không phải là mộ nhỏ mà là một phát hiện khảo cổ lớn. Hơn nữa còn phải để cảnh sát vũ trang trông coi, cho thấy chưa thể công bố phát hiện này ngay.
Chỉ khi gặp phát hiện khảo cổ mang tính chấn động, người ta mới đào bới theo kiểu kín kẽ như vậy và trì hoãn công bố.
Hiển nhiên là ông cụ đọc hiểu được ánh mắt của chúng tôi, bèn xua tay: "Mấy đứa tưởng trong đó có mộ cổ thì lầm to rồi. Ta nghe nói thứ đào ra được không phải mộ cổ mà là một thứ còn ghê gớm hơn."
Bàn Tử hỏi: "Cụ nghe ai nói vậy ạ?"
Ông cụ chỉ cười "hề hề" rồi không nói gì nữa. Tôi bèn thúc giục: "Cụ ơi, đừng úp mở nữa, cụ nói hết luôn đi, rốt cuộc là cái gì?"
"Không biết, không biết thật. Nhưng có một đứa nhỏ trong làng từng thả flycam bay vào trong để quay lén. Sau đó có người đến tịch thu flycam, còn gọi đứa nhỏ đó lên giáo dục tư tưởng một trận. Nó nói rằng hình như có một ngọn núi đá bị đám trộm mộ cho nổ tung một nửa ở bên trong, lượng thuốc nổ được sử dụng cực lớn, lõi của núi cũng lộ ra, lộ ra lại là màu thanh đồng, trên đó còn có hoa văn. Nó nói lõi núi chính là một cái chuông khổng lồ. Nhưng sau này đứa nhỏ quay về lại bảo có thể mình nhìn nhầm. Bởi vì mùa mưa ở đây sắp bắt đầu rồi, những nơi khác ở Hà Nam ít mưa, mưa đều dồn về khu vực này. Địa hình đất đai không tốt, cứ đến mùa mưa là sạt lở khắp nơi. Có cảnh sát vũ trang canh gác, mấy đứa không đi được đường chính đâu, mà đường mòn thì nguy hiểm lắm, đừng đi nữa."
Ông cụ nói chắc như đinh đóng cột, chúng tôi biếu ông cụ một gói thuốc lá để cảm ơn rồi đi vào quán mỳ thịt dê gần đó, gọi hai bát mì. Bàn Tử ngơ ngác: "Chuông là sao? Núi sạt lở, sạt ra một cái chuông à? Hay là mình trả ít tiền quá nên ông cụ bịa chuyện lừa chúng ta nhỉ?"
"Núi được hình thành từ vận động địa chất hàng trăm triệu năm, theo lý thuyết thì nhiều nhất cũng chỉ có hang đá tự nhiên ở bên trong, không thể có thứ gì do con người tạo ra. Nếu bên trong núi có một quả chuông khổng lồ, khả năng duy nhất là có người từng đào rỗng quả núi này, sau đó vận chuyển linh kiện của chuông vào trong rồi mới lắp ráp lại." Tôi liên tục lục lọi trí nhớ trong đầu, từng đọc một đống sách dã sử, địa lý tạp nham mà không hề có chuyện gì tương tự từng được kể trong truyền thuyết dân gian.
Nói đi cũng phải nói lại, liệu thứ phát hiện ra trong núi kia có liên quan gì đến chuyện chú Ba và Dương Đại Quảng nghe tiếng sấm không? Nếu có liên quan thật thì giờ nơi đó đã bị phong tỏa rồi, chẳng lẽ chúng tôi sẽ chẳng bao giờ biết được nữa?
Tôi có một linh cảm rất mạnh rằng chuyện này nhất định có liên quan đến chuyện mà chúng tôi đang điều tra, nếu không thì sao có thể trùng hợp đến vậy? Thậm chí rất có thể cả cũng vì sự việc xảy ra ở nơi này mà chú Ba mới gửi cho tôi tin nhắn kia, bởi vì cả hai chuyện đó đều xảy ra ba tháng trước. Tôi biết chắc là không thể đơn giản chỉ là nhờ tôi đi dọn xác mà là chú ấy muốn tôi lần ra được nơi này thông qua Dương Đại Quảng, để chú ý đến quả chuông đồng trong núi? Càng nghĩ tôi càng thấy chắc chắn có liên quan, đời nào lại trùng hợp đến thế?
"Ông cụ đó nói quá lên thôi, chúng ta chưa thấy ảnh thì sao biết nó lớn cỡ nào, biết đâu chỉ là một ụ đất nhỏ." Bàn Tử húp một ngụm canh dê: "Vùng Trung Nguyên đào đâu ra lắm kỳ quan tiền sử đến thế?"
Tôi đang định nói có nên tìm cách đi xem không thì bỗng thấy một người chạy tới cửa hàng. Người đó toàn thân lấm đầy bùn đất, vừa chạy vừa hô lớn: "Bà con ơi, sạt lở rồi, có ai giúp không?" Ngoài bùn, trên người hắn còn dính cả máu, rõ ràng là bị thương. Hắn gọi vài tiếng, đứng không vững, không bao lâu sau, cảnh sát cũng chạy tới. Bọn họ cũng mình đầy bùn đất, vừa chạy vừa hô to. Ông cụ lúc nãy cũng lập tức đứng dậy, bắt đầu hô hoán theo. Thanh niên trong thôn đều đi làm ăn xa cả, chỉ còn người già với phụ nữ, nhưng phụ nữ ở đây ai cũng khỏe mạnh, lập tức ùa ra ngoài.
Chúng tôi chen lên nghe thử mới biết là vừa xảy ra sạt lở trong núi, đợt sạt lở đầu tiên, cảnh sát lên núi cứu người, ai ngờ quy mô sạt lở lần hai lại lớn hơn nhiều. Những ai có thể lên công trường hiện giờ đều đã lên cả, bộ chỉ huy quyết định tạm thời điều người từ trong làng lên hỗ trợ. Ban đầu tôi còn đang tính tìm cách lẻn vào, giờ thì đầu nóng lên, chẳng cần nghĩ ngợi nữa, cứu người là nghĩa vụ không thể chối từ. Tôi và Bàn Tử nhìn nhau, Bàn Tử hăng máu: "Đi!" Cả hai hòa vào dòng người chạy ra đầu thôn, dân trong làng có kinh nghiệm ứng phó với đất đá sạt lở, ai nấy đều mang theo cuốc xẻng. Tôi và Bàn Tử mượn mỗi người một cái. Có xe quân sự chở đất ở đầu thôn, chúng tôi leo thẳng lên thùng xe, xe bắt đầu lao nhanh vào núi.
Tóm lại, chúng tôi không ngờ lại vào núi bằng cách này. Vừa vào đến nơi, mây đen đột nhiên kéo tới, một tiếng sấm vang lên rồi bắt đầu đổ mưa. Vừa xuống xe, chúng tôi đã sững sờ, cả sườn núi trước mặt đã sạt lở, khối bùn đất khổng lồ lẫn với đá biến thành một dòng chất lỏng, tràn ào ào xuống thung lũng. Tất cả cây cối đều lay động giống như mặt đất đang sống vậy.
Cậu cảnh sát lái xe sốt ruột cứu người nên định lái thẳng xe vượt qua dòng lũ bùn. Bàn Tử lập tức trèo vào khoang lái, giữ chặt vô lăng: "Cậu đừng thấy nó trôi chậm mà coi thường, bên trong toàn là đá nặng cả tấn, nếu bị cuốn vào rồi thì chẳng khác nào bị đưa vào cối xay đá, sẽ bị nghiền nát thành mảnh vụn."
Cậu ta nói không thể chờ được nữa, có rất nhiều người bị vùi lấp bên trong. Nếu chúng tôi không vào được, người trong đó cũng không thể tự đào ra nổi, tất cả mọi người sẽ chết hết mất.
Mưa mỗi lúc một lớn. Tôi trèo lên nóc xe, nhìn thấy bầu trời dày đặc sét đánh, quả nhiên đây chính là trung tâm bão sét của Hà Nam. Trời tối đen như mực, cũng không tài nào nhìn rõ ngọn núi và chiếc chuông mà ông cụ nói trong mưa.
Giữa lúc hỗn loạn, cuối cùng dòng lũ bùn cũng ngừng lại. Bàn Tử hét lớn: "Đi bộ! Đừng lái xe!" Tôi không kịp nghe rõ, lập tức nhảy xuống. Chúng tôi bắt đầu nhanh chóng leo qua đống bùn đá, đi thêm vài chục mét vòng qua khúc cua thì nhìn thấy thung lũng nơi họ đang làm việc giờ đã bị bùn đất phủ kín.
Tôi và Bàn Tử lao vào, chợt nghe ai đó hét lên: "Máy xúc! Mọi người bị kẹt trong xe, sắp hết oxy rồi!"
Nhưng đâu thấy xe đâu, toàn là bùn lầy. Bàn Tử nằm rạp xuống bùn rồi hét to: "Họ đang bấm còi ở dưới!" Tôi cũng nằm xuống, quả nhiên nghe thấy tiếng còi xe vang lên từ bên dưới lớp bùn, lập tức bắt đầu đào.
Trước khi lôi được chiếc xe đầu tiên ra, tôi hoàn toàn không tin chúng tôi có thể cứu người. Nhưng may là xe không bị vùi quá sâu, chúng tôi mở cửa sổ xe, kéo người bên trong ra ngoài. Lúc đó ai nấy đều lấm lem đầy bùn, chẳng còn phân biệt được ai với ai nữa.
Sau đó chúng tôi tiếp tục đào xe thứ hai, xe thứ ba... Khi mưa ngừng hẳn, cả người tôi như bị ngâm nát, kiệt sức ngồi bệt xuống vũng nước với Bàn Tử. Lúc ấy, tiếng mưa dừng lại, tiếng gào khóc của mọi người mới trở nên rõ ràng.
Sau đó, các đội cứu hỏa từ bên ngoài lần lượt kéo đến, chúng tôi được thay phiên, dìu nhau đến ngồi dưới gốc cây trên sườn đồi cao. Tôi nhìn bàn tay mình phồng rộp, Bàn Tử ngẩng đầu, gương mặt mệt lả sắp gục đến nơi đột nhiên biến sắc. Hắn dốc hết sức bảo tôi ngẩng đầu lên.
Tôi vừa ngẩng đầu thì nhìn thấy ngọn núi bên kia, lập tức nhận ra đó chính là ngọn núi trong bức ảnh flycam mà ông cụ kể. Sau cơn mưa lớn, cuối cùng chúng tôi cũng thấy rõ toàn cảnh ngọn núi ấy. Tôi chết sững, há hốc miệng không nói được lời nào.
Chương 09: Phép lạ xuất hiện
Tôi chưa từng thấy một ngọn núi sạt lở đến mức này, một nửa ngọn núi đã hoàn toàn đổ sụp, để lộ phần lõi đá bên trong toàn là những khe nứt chằng chịt, các rãnh và hẻm núi phơi bày ra như một mặt cắt của khúc gỗ bị mối ăn rỗng ruột.
Thực chất thứ được gọi là "chuông" không phải là chuông. Đó là những mảnh thanh đồng nằm chen giữa các khe nứt, mảnh nọ nối mảnh kia, gắn xen kẽ bên trong. Hầu như khe nào cũng có mảnh đồng, tạo thành một bộ biên chung(1) khổng lồ. Vì thế khi nhìn ảnh chụp từ trên cao, người ta tưởng đó là một cái chuông lớn.
Mỗi mảnh đồng lớn cỡ kính chắn gió ô tô, còn có hoa văn trên bề mặt, có lẽ là đồ cổ, nhưng đứng xa như tôi thì không nhìn rõ. Còn những khe nứt giống tổ mối kia là do con người tạo ra hay là tự nhiên hình thành thì vẫn chưa xác định được. Nhưng theo hướng nứt thì tôi đoán khả năng cao là tự nhiên, chỉ không rõ vì sao những mảnh đồng kia lại có mặt ở đó.
"Ổ mối này to thật đấy." Có vẻ Bàn Tử ở bên cạnh nghĩ giống hệt tôi.
"Không ngờ đúng không." Một giọng nói vang lên sau lưng chúng tôi. Chúng tôi quay phắt lại, thấy một người toàn thân lấm lem bùn đất đang ngồi phía sau, cũng đang nhìn về phía tổ mối đó. "Vẫn còn chuyện bất ngờ hơn đấy."
Tôi nhìn chằm chằm vào người đó. Dù mặt mũi phủ đầy bùn đất, tôi vẫn cảm thấy quen quen nhưng nhất thời không nhớ ra là ai.
"Các anh đoán xem." Người đó nói. "Những mảnh kim loại trong đó có từ thời nào?"
"Chắc chắn xây mấy công trình kiểu này có liên quan đến mê tín. Công trình mê tín càng hoành tráng thì một là từ thời rất xa xưa, hai là khi đất nước cực kỳ giàu có, chắc là vào thời Chiến Quốc hoặc thời kỳ hưng thịnh của nhà Đường." Tôi cố ý ra vẻ hiểu biết.
"Sai rồi, đấy là thành kiến chủ quan khi nhìn vào khảo cổ. Thứ này do mấy đạo sĩ thời Dân Quốc ở vùng này làm ra." Người lấm lem bùn phía sau nói: "Những mảnh thanh đồng đó không hề cổ, kỹ thuật rất thô sơ, trên đó toàn là bùa chú của đạo sĩ. Còn có nhiều vật dụng sinh hoạt trong các khe hở, nhìn qua thì chắc có khoảng ba đến bốn đạo sĩ từng sống ở đó để luyện đan."
"Làm thế để làm gì?" Bàn Tử hỏi. "Ba, bốn người mà xây công trình to vậy chắc mất hơn chục năm? Không mệt à?"
"Tôi không nói chuyện đó ra được." Người kia hỏi tiếp: "Hai người không phải là người bản địa à? Sao lại ở đây?"
Tôi chột dạ, mệt quá nên quên mất phải giữ kín thân phận, vội nói một câu bằng tiếng địa phương Hà Nam: "Chúng tôi là người ở đây, tình cờ về thăm họ hàng."
Bàn Tử cũng vội phụ họa: "Chúng tôi là người tốt."
Người kia đáp: "Khi nào mọi chuyện ổn thỏa sẽ ký cam kết bảo mật, sau đó có thưởng. Giờ thì ở yên đây đi, thấy được chuyện gì đều không được để lộ, không thì phải vào tù đấy." Nói xong ông ta đứng dậy, đi xuống sườn dốc.
Chúng tôi nghe thế thì mừng như mở cờ trong bụng. Sau đó quay lại tiếp tục giúp đỡ tìm người bị nạn cùng Bàn Tử. Nhưng đội cứu hỏa đến rất nhanh và chuyên nghiệp hơn hẳn, chúng tôi chỉ còn giúp được một vài việc nhỏ như chuyển đất đá. Công tác cứu hộ hoàn tất rất nhanh.
May mắn trong rủi ro lần này là do thời tiết có dự báo giông sét, phần lớn các nhân viên khảo cổ đã không ra hiện trường mà ở trong lều tổng hợp hiện vật giai đoạn đầu. Dù vụ sạt lở rất nghiêm trọng và toàn bộ các lều đều bị vùi lấp, đa số người đã kịp chạy ra ngoài. Có mười bốn người mất tích, bao gồm sinh viên, thực tập sinh và vài chuyên gia. Sau đó còn có thêm vài nhân viên cứu hộ bị thương. Trong tình huống sạt lở với quy mô như vậy, mất tích gần như đồng nghĩa với không còn hy vọng sống sót.
Bầu không khí trở nên nặng nề, công tác tìm kiếm vẫn tiếp diễn. Đội cứu hỏa dựng lều tạm để mọi người tránh mưa nghỉ ngơi. Khi hàng tiếp tế được đưa tới, có cả lò sưởi, khăn lông, nước nóng, cơm canh nóng và quần áo sạch để thay. Sau khi lau rửa qua loa, tôi và Bàn Tử mệt đến mức chỉ cần trợn mắt là ngủ ngay lập tức.
Hoàng hôn sau cơn mưa đẹp cực kỳ, nhưng tôi biết sáng mai sẽ đưa hợp đồng, có khả năng chúng tôi sẽ bị giải tán. Tôi nói với Bàn Tử là không được ngủ, nhưng chỉ một lát sau, cả hai đều ngủ say như chết. Đến khi tỉnh dậy, trời lại mưa. Tiếng mưa rơi lộp độp trên nóc lều đánh thức chúng tôi dậy. Bàn Tử cầm mấy món ăn về, mọi người trong lều vẫn đang ngủ, chúng tôi lặng lẽ ăn. Lúc đó chắc là nửa đêm, cơn đau lưng ê ẩm thấu tận tim gan ập đến. Tôi nằm đó hồi tưởng lại những chuyện đã xảy ra trước đó, bất chợt nhớ ra người đàn ông nói chuyện với chúng tôi trên sườn dốc là ai.
"Tôi quen người đó, là một giáo sư nghiên cứu dân tộc học, họ Tề, cấp bậc rất cao, không phải là chuyện quan trọng thì ông ta sẽ không xuất hiện." Tôi nói với Bàn Tử.
Kiểu chuyên gia cấp cao như thế này thường là người từng có phát hiện mang tầm quốc tế. Giờ lại đích thân đến hiện trường để xem một công trình từ thời Dân Quốc thì không bình thường chút nào! Như thế có nghĩa là gì? Tôi nhớ lại lời ông ta nói, tôi không nói chuyện đó ra được. Chứng tỏ ngoài tổ mối do các đạo sĩ Dân Quốc xây dựng, họ còn phát hiện ra thứ gì đó khác nữa. Có thể nói cho người ngoài như chúng tôi về tổ mối này, nhưng chuyện khác thì không thể.
Mà chính chuyện khác ấy mới là then chốt. Rốt cuộc đã phát hiện ra thứ gì ở nơi này?
Tôi rút điện thoại ra, lục tìm số của ông giáo sư kia trong danh bạ. Đã lâu không liên lạc, lần cuối cùng là khi tôi với Lão Dương đi Tần Lĩnh. Không biết số đó còn dùng được không, nhưng thấy ở đây không có tín hiệu.
Bàn Tử nói: "Thế thì nhanh mà tìm cách thân thiết lại đi. Mấy năm nay chúng ta cũng cải tà quy chính rồi, danh tiếng cũng tạm được. Chúng ta vẫn cống hiến được gì đó."
Tôi nói chẳng lẽ ông ta không biết tầm quan trọng của chuyện liên quan đến dự án quốc gia kiểu này à? Ông ta cũng đâu lạ gì thân phận của chúng tôi. Khi còn có chú Ba tôi, nhờ cả hai đều trong hệ thống khảo cổ nên người ta còn nể mặt vài phần. Bây giờ động cơ của chúng tôi lại mơ hồ thế này, bảo người ta tin là chúng tôi đến đây vì muốn tìm hiểu về một người tên là Dương Đại Quảng ư? Huống hồ tôi còn chưa biết chuyện nghe tiếng sấm của Dương Đại Quảng có liên quan gì đến chuyện đang xảy ra ở đây không. Nếu mà lỡ hỏi ra vấn đề lớn thì chúng tôi tiêu chắc.
Đúng lúc đó, một tiếng sét lớn vang lên. Tôi nghe thấy tiếng động bên ngoài lều, bèn khoác áo mưa chạy ra cùng Bàn Tử. Đã có rất nhiều người đang tụ lại bên ngoài , chạy về phía ngọn núi kia.
"Làm sao thế?" Bàn Tử lớn tiếng hỏi.
"Phép lạ xuất hiện rồi!" Người kia hét lên.
---------
(1) Biên chung: Một nhạc cụ cổ xưa của Trung Quốc bao gồm một bộ chuông đồng, được chơi bằng giai điệu.
Chương 10: Chùa ngầm
Chúng tôi leo núi suốt hai mươi phút theo dòng người mới tới được chân núi. Mọi người đều bật đèn pin rọi lên "tổ mối" trên sườn núi, thấy tất cả những mảnh thanh đồng đều đang rung chuyển. Tiếng sấm lại vang lên, tôi chợt nhận ra tiếng sấm ở đây rất khác, bởi vì sau mỗi tiếng sấm, tôi có thể nhìn thấy rõ ràng những mảnh đồng trên núi rung lên như đang phản hồi lại tiếng sấm. Gần như cùng lúc đó, tất cả chúng tôi đều cảm thấy âm thanh cũng phát ra dưới chân mình.
Tôi và Bàn Tử tìm một tảng đá, áp sát tai xuống nghe thì nghe thấy vô số tiếng chuông vọng ra từ trong đá, như thể phát ra từ dưới lòng đất.
"Có một ngôi chùa ở bên dưới à?" Đó là phản ứng đầu tiên của tôi. Bàn Tử gật đầu: "Chùa ngầm, chùa ngầm dưới lòng đất."
Chùa ngầm là là những ngôi chùa được xây dựng sâu trong núi, xuất hiện trong thời kỳ "pháp nạn diệt Phật", khi Phật tử bị đàn áp và buộc phải ẩn náu, không còn cách nào khác mà đành phải di dời chùa vào các hang động nơi núi rừng hẻo lánh. Hiện nay, chúng ta biết đến ba thời kỳ "pháp nạn" lớn là thời Thái Vũ Đế nhà Bắc Ngụy, thời Vũ Đế nhà Bắc Chu và thời Đường Vũ Tông, ba thời kỳ này hợp lại gọi là "Tam Vũ diệt Phật"(1). Những ngôi chùa ngầm từ ba thời kỳ này đã được phát hiện ở vài nơi, nhưng quy mô đều rất nhỏ.
Nhìn tình hình hiện tại thì có đạo sĩ đã gắn các mảnh đồng vào những khe đá trong núi. Khi thanh đồng cộng hưởng với tiếng sấm, dường như dao động được truyền xuống lòng đất, mà dưới đất lại có một ngôi chùa lớn. Chuông ngân van, nhưng tại sao các đạo sĩ lại làm vậy? Ngôi chùa kia có quan hệ gì với họ? Họ là đạo sĩ mà, còn chùa ngầm đều là chùa chiền Phật giáo, hoàn toàn không liên quan gì, thật quá bí ẩn.
Lúc ấy, tôi chợt thấy vị chuyên gia đã nói chuyện với tôi lúc trên sườn núi. Một tia sáng loé lên trong đầu, tôi bỗng nhiên lớn tiếng hỏi ông ta: "Giáo sư! Có phải mấy đạo sĩ tu luyện ở đây mang họ Dương không?"
Chuyên gia kia nhìn tôi, mọi người cũng quay lại nhìn. Tôi thấy nét mặt ông ta lập tức thay đổi, là vẻ mặt xác nhận tôi đoán trúng rồi.
Không phải là ba, bốn đạo sĩ, mà là mấy tên trộm mộ giả dạng đạo sĩ, chính là tổ tiên của Dương Đại Quảng. Họ đến nơi này từ thời Dân Quốc, mục đích là vì ngôi chùa bên dưới. Nhưng tại sao lại treo mảnh đồng trên núi? Tiếng sấm, thanh đồng, chuông vọng từ dưới đất sâu, băng ghi âm tiếng sấm, tất cả những thứ này liên kết với nhau ra sao mới chính là bí mật lớn nhất đằng sau công cuộc khảo cổ này.
Tôi vô cùng phấn khích, đầu óc xoay nhanh như chong chóng. Vị chuyên gia kia thấy tôi không nói thêm nữa, bèn bước đến gần, nhìn kỹ tôi rồi bất ngờ nói: "Ngô Tà?"
Tôi thấy người kia đã nhận ra mình, cũng không giả vờ được nữa, bèn gật đầu chào: "Bác Tề, trùng hợp quá ạ." Không ngờ Bàn Tử lại hiểu nhầm ý. Hắn nhanh nhạy hơn tôi, vừa thấy tôi bị nhận ra thì lập tức quay đầu bỏ chạy. Cảnh sát vũ trang đè hắn xuống đất nhanh như chớp cách đó chừng ba chục mét theo phản xạ. Bàn Tử hét lớn: "Nhẹ tay thôi, nhẹ tay thôi! Bàn Gia vừa cứu đồng nghiệp của các anh đấy!"
Tôi vội giải thích đây là đồng nghiệp của tôi, chắc là đột nhiên buồn tiểu, mọi người đừng hiểu nhầm. Giáo sư Tề phẩy tay ra hiệu, phía cảnh sát mới thả Bàn Tử ra, nhưng ánh mắt ông ta vẫn sắc lẹm nhìn tôi, rõ ràng đang cân nhắc tại sao tôi lại có mặt ở đây. Tôi vô cùng lúng túng. Chắc chắn phát hiện lần này ở đây thuộc tầm cỡ quốc tế, mà với thân phận của tôi, nếu như gặp nhau ở khách sạn thì còn có thể mời bữa cơm xã giao. Nhưng ở tại hiện trường thế này thì đúng là không sao giải thích nổi. Trên đời làm gì có chuyện trùng hợp đến vậy, tôi bỗng dưng nổi hứng muốn về thôn quê Hà Nam trải nghiệm cuộc sống, rồi cái làng tôi đến lại tình cờ phát hiện ra một di tích khảo cổ mang tầm quốc tế, tôi lại vừa hay xuất thân từ gia tộc trộm mộ Trường Sa?
Vô lý hết sức. Thế nên, chắc chắn việc tôi xuất hiện ở đây là có mục đích, mà thân phận của tôi lại khiến mục đích ấy càng trở nên đáng ngờ.
Giáo sư Tề vẫn còn nể mặt tôi một chút, bèn gọi chúng tôi về lều của ông ta.
Hai chúng tôi bị kéo vào trong. Trong lúc ông ta bước vào, tôi đã quyết định sẽ nói thật. Vì tôi có bằng chứng, tôi điều tra chuyện của chú Ba không phạm pháp, mà tôi đến đây cứu người là do đội khảo cổ mời chứ không phải là trà trộn vào.
Giáo sư Tề vào lều, ra hiệu cho cảnh sát không cần theo vào rồi lập tức sa sầm mặt, quát lớn: "Mấy đứa không cần mạng nữa à? Làm ăn kiểu gì lại đến chỗ này? Đã bảo đừng dây vào cái nghề đó nữa rồi mà?" Nói rồi ông ta nhìn ra ngoài: "Cháu định giải thích thế nào? Ngày mai tra hết lý lịch, mấy đứa không phải là dân ở đây, định chạy kiểu gì? Với thân phận của cháu, tra ra một phát thì có nhảy xuống Hoàng Hà cũng không rửa sạch được đâu."
Tôi vội trình bày hết mọi chuyện từ đầu đến cuối, khẳng định mình trong sạch, hiện nay pháp luật không thể bắt người bừa bãi, chúng tôi vô tội. Nói xong, ông ta vẫn chưa tin hoàn toàn, tôi bèn giao nộp toàn bộ giấy tờ liên quan đến Dương Đại Quảng, kể cả căn cước. Ông ta xem xong mới yên tâm, còn pha cà phê mời. Tôi thấy ông ta còn biết lý lẽ, trong lòng nhẹ nhõm hơn hẳn. Đúng là các vị chuyên gia kỳ cựu thế hệ trước vẫn giữ được tình người và lòng tin, khiến tôi cảm động, nên chia sẻ luôn cả những phân tích của mình.
Giáo sư Tề nghe xong thì gật đầu: "Chúng tôi cũng đã nghĩ tới mấy chuyện cháu nghĩ, chằng qua Dương Đại Quảng là đời sau của Dương gia từng hành nghề đạo sĩ ở đây. Nhưng chúng tôi chưa nắm rõ về ông ta, chỉ biết ông ta đã mất tích."
Tôi nói với ông ta: "Cháu không rõ cụ thể đang xảy ra chuyện gì ở nơi này, nhưng cháu chắc chắn chuyện này có liên quan đến chú Ba của cháu. Mà cháu tin rằng có liên quan tới tiếng sấm."
Giáo sư Tề nhìn tôi trầm ngâm rất lâu như đang cân nhắc gì đó, cuối cùng thở dài: "Đi theo tôi, cho cháu xem thứ này. Dù sao thì mấy đứa cũng sẽ phải ký cam kết bảo mật."
Bàn Tử nhìn tôi, tôi hiểu ngay, theo mô típ phim Mỹ thì vị giáo sư này sắp dẫn chúng tôi đi khám phá bí mật phía sau rồi. Trước giờ tôi toàn phải tự đào bới mấy vụ bí ẩn, giờ có người chủ động dẫn đi, giờ nghĩ lại cũng thấy có chút ngậm ngùi. Hoá ra có lúc chỉ cần quan hệ khéo chút là người ta lại nói cho mình biết hết.
Ra khỏi lều, chúng tôi đi thẳng đến túp lều lớn nhất trại. Tim tôi đập thình thịch. Bàn Tử đi phía sau, tôi tưởng hắn sẽ thở ra vài câu tếu táo như thường lệ, nhưng hắn mệt quá, chỉ lặng lẽ vả vào mặt. Chúng tôi bước vào lều, ở bên trong toàn là các thùng đựng hiện vật, bên ngoài dính đầy bùn đất.
"Bị chôn vùi dưới dòng bùn đá cả rồi, chúng tôi lại phải đào lên lần nữa." Giáo sư Tề nói với chúng tôi. Ông ta bật đèn pin, dẫn chúng tôi đến bên cạnh một chiếc hộp lớn. Chiếc hộp mở ra, bên trong là một vật có hình người được bọc kín bằng tấm nylon.
--------
(1) Họa Tam Vũ hay Tam Vũ Diệt Phật là ba cuộc đàn áp chống lại Phật giáo trong lịch sử Trung Quốc. Được đặt tên như vậy bởi vì các thụy hiệu hay miếu hiệu của tất cả ba hoàng đế thực hiện vụ đàn áp đều có chữ Vũ.
Bạn đang đọc truyện trên: truyentop.pro