Trùng Khởi: Cực Hải Thính Lôi 1 (C11 - C20)

📌 Bản dịch gốc được đăng tại: https://metarikkuhoseki.wordpress.com/

thuộc ngoại truyện "Trùng Khởi: Cực Hải Thính Lôi".

🚫 Vui lòng không reup hoặc sao chép khi chưa được cho phép.

Dịch: Sóc


Trùng Khởi: Cực Hải Thính Lôi 1


Chương 11: Thoát xác thành tiên


"Trước khi xảy ra trận sạt lở, chúng tôi đã khai thông được phần dưới của ngọn núi. Có một lối đi bằng đá kéo dài xuống dưới ở bên trong, nhưng cuối đường lại bị ngập nước, toàn là nước mưa tích tụ nhiều năm nên không thể xuống sâu hơn. Con đường đá này rất dài, hai bên là các hốc đá, trong hốc toàn là thứ này." Giáo sư Tề vừa nói vừa mở tấm vải nhựa, bên dưới là một pho tượng Đạo giáo.

Nhưng nhìn kỹ hơn, tôi nhận ra đó không phải tượng đất thông thường mà là một xác chết cổ, mặc áo choàng đã mục nát, áo dính chặt vào cơ thể. Tóc và râu rất dài, toàn bộ đều bạc trắng.

"Cái này chẳng phải là phát hiện mang tầm quốc tế đâu." Bàn Tử nhỏ giọng nói. "Bác à, tôi có thể bán buôn cho bác cả đống thứ này."

Giáo sư Tề ra hiệu cho Bàn Tử lại gần: "Cậu nâng thử lên xem."

Bàn Tử nhìn tôi một cái rồi bước đến, nâng xác chết cổ kia bằng hai tay. Vừa nhấc lên, mắt hắn lập tức trợn tròn, lại quay lại nhìn tôi.

"Làm sao?"

"Sao nhẹ thế này? Làm bằng giấy à?" Hắn chuyển sang dùng một tay, dễ dàng xách lên như không.

"Mấy đứa biết 'thoát xác thành tiên'(1) không? Thần tiên thoát xác xong, xác thịt nhẹ như lông vũ. Dĩ nhiên, nếu phải giải thích theo khoa học thì có thể là do thi thể được xử lý bằng phương pháp đặc biệt." Giáo sư Tề đẩy kính, gạt tay Bàn Tử đang định vặn cổ cái xác ra xem bên trong có gì, rồi nói tiếp: "Rất có thể phía dưới con đường đó là một ngôi chùa. Mấy đứa đã nghe thấy tiếng chuông rồi đúng không? Bên dưới ngọn núi này có khoảng trống, khả năng cao là có một ngôi chùa lớn bên trong."

Tôi vẫn thấy khó hiểu. Mặc dù có một ngôi chùa dưới chân núi nghe khá kỳ lạ, nhưng theo tôi thì chừng đó chưa đủ lý do để nơi này được bảo vệ nghiêm ngặt đến vậy. Giáo sư Tề nhìn tôi: "Vậy nên mấy đứa cho rằng xác này là xác cổ đúng không? Nếu là xác cổ thì cùng lắm cũng chỉ được xếp vào loại phát hiện khảo cổ cấp quốc gia. Nhưng thi thể này không phải là xác cổ." Giáo sư Tề lấy một tấm bài vị bằng gỗ thô sơ ra từ một chiếc hộp bên cạnh. Tôi nhìn lướt qua, trên đó viết: "Bài vị của Thái Công Dương Thủ Nghiệp."

"Cái xác này chính là xác của tên trộm mộ họ Dương mà cháu nói đến. Bọn họ đã hoạt động ở đây suốt một thời gian dài. Hẳn là cháu nghĩ rằng bọn họ giả làm đạo sĩ để lẻn vào ăn trộm đồ cổ từ ngôi chùa bên dưới đúng không? Nhưng thực tế thì hoàn toàn ngược lại, họ không hề trộm cắp gì ở đây mà họ còn mang đồ cổ trộm được từ khắp nơi tập trung về đây để xây dựng ngôi chùa ở bên dưới."

Trộm mộ xây chùa? Tại sao? Tôi thầm nghĩ.

"Có lẽ cái xác thoát xác mà cháu thấy là người chết từ thời Dân Quốc. Bọn họ đã âm thầm xây dựng nơi này gần một thế kỷ mà lại nghiêm túc tu Đạo chứ không phải là để kiếm tiền. Khi dọn dẹp những khe núi quanh đây, chúng tôi đã phát hiện ra rất nhiều di vật đến từ hơn chục ngôi mộ khác nhau. Họ đi khắp nơi trộm mộ, sau đó đem chiến lợi phẩm về đây, xây nên ngôi chùa bên dưới này. Trong số những đồ cổ ấy, chúng tôi nhận thấy có ba loại đến từ ba ngôi mộ cổ vô cùng đặc biệt, thuộc ba thời đại khác nhau." Giáo sư Tề dừng lại một chút rồi nói tiếp: "Tôi không tiện nói rõ ba ngôi mộ ấy, nhưng từ trước đến nay, giới khảo cổ vẫn cho rằng ba ngôi mộ đó bất khả xâm phạm. Vậy mà người họ Dương kia đã vào được, còn mang được đồ ra ngoài. Chúng tôi cho rằng phần lớn đồ cổ lấy được từ ba ngôi mộ kia hiện đang nằm trong ngôi chùa bên dưới. Nếu tìm ra được những thứ đó thì đây sẽ là phát hiện khảo cổ lớn nhất thế giới trong cả trăm năm qua, mà lại là ba ngôi mộ một lúc."

Tôi không dám chắc ba ngôi mộ đó là những mộ nào, vì các ngôi mộ được khoa Di sản Văn hoá xem là trọng đại có thể khác với những gì chúng tôi nghĩ. Nhưng ông ta không nói, tôi chỉ có thể đoán những ngôi mộ lớn nhất, mà vừa nghĩ đến thôi toàn thân tôi đã khó chịu, các ngón tay bắt đầu run rẩy. Trong đầu tôi hiện lên toàn là hình ảnh những ngôi mộ nhất định không thể bị trộm, mà nhận thức của tôi cũng từng tin như vậy, một là căn bản không thể tìm ra, hai là không thể xuống được. Tôi cũng không dám hỏi, bởi nếu mọi chuyện đã lớn đến mức này thì không biết gì có khi còn an toàn hơn.

"Còn gì nữa không ạ?" Tôi hỏi.

Giáo sư Tề đáp: "So với Dương gia thì Cửu Môn mấy đứa chẳng khác gì đám đầu đất. Chỉ giỏi phô trương, làm màu, hùa theo thời thế."

Cả ba chúng tôi lặng người trong giây lát. Bàn Tử húng hắng ho rồi nói: "Vụ này thì Bàn Gia đồng ý với giáo sư Tề."

"Vì thế nên phải canh phòng nghiêm ngặt ở đây, vì không thể để người ngoài biết rằng có khả năng cao ba ngôi mộ lớn đã bị đột nhập. Chỉ khi chúng tôi xuống được đến đáy, nhìn tận mắt toàn bộ ngôi chùa bên trong thì mới tính đến chuyện công bố. Người họ Dương mà cháu nói đến từ Sơn Tây, là Nam Ba Tử ở Sơn Tây. Họ không hề trộm sạch một ngôi mộ nào, cũng chưa từng xuất hiện đồ cổ từ ba ngôi mộ kia ngoài thị trường. Như thế có nghĩa là gì? Nghĩa là có thể họ trộm mộ không nhằm mục đích bán đồ cổ vật mà chỉ để dùng những vật đó xây dựng nên ngôi chùa dưới lòng đất này. Có lẽ dưới đó không chỉ có thêm nhiều đồ cổ từ ba ngôi mộ kia mà còn có thể tìm được manh mối về vị trí lối vào của ba ngôi mộ ấy, và cả lý do thật sự vì sao bọn họ lại làm chuyện này."

Ánh mắt giáo sư Tề sáng rực nhìn tôi. Tôi thở dài, nói: "Nếu đúng như những gì cháu điều tra được thì nhất định là ngôi chùa bên dưới có liên quan đến chuyện nghe tiếng sấm. Có thể người Dương gia là cao thủ nghe sấm tìm mộ nên chú Ba cháu mới hợp tác với Dương Đại Quảng. Có khi họ còn tôn thờ tiếng sấm, ví dụ tổ sư gia của họ là Thần Sấm chẳng hạn." Tôi không nói với ông ta về hiện tượng tiếng sấm lặp lại, vì chắc chắn ông ta cũng sẽ không tin, nhưng hiện giờ, nhiều thứ bắt đầu kết nối với nhau trong đầu tôi.

Rất có thể người Dương gia đã biết về hiện tượng tiếng sấm lặp lại. Có thể xem đây là một phát hiện tầm cỡ thế giới.

Họ xây một ngôi chùa dưới lòng đất ngay dưới trung tâm bão sét của Lạc Dương, gom đồ cổ trộm được từ khắp nơi về làm nguyên liệu xây chùa, thậm chí còn tu tiên trong đó, đào rỗng cả một ngọn núi để cộng hưởng với tiếng sấm. Phải chăng họ tin rằng hiện tượng tiếng sấm lặp lại có liên quan đến thuật điều khiển sấm sét trong Đạo giáo?

Nếu đạo pháp thuận theo tự nhiên thì có lẽ họ đang cố tu luyện để lĩnh hội bí mật của tiếng sấm.

Nhưng tại sao họ lại dùng đồ cổ trộm từ khắp nơi để xây dựng ngôi chùa dưới lòng đất đó? Chắc chỉ khi xuống dưới nhìn tận mắt mới có thể biết được.

Không hiểu vì sao mà tôi rất muốn xuống dưới xem ngôi chùa đó. Tôi từng nghĩ rằng sau khi đã nhìn thấy quá nhiều thứ, chẳng còn gì trên đời này có thể khơi dậy trí tò mò trong tôi nữa, nhưng tôi đã sai.

"Bao giờ chúng ta mới xuống lại?" Trong lúc phấn khích, tôi lỡ miệng nói ra. Giáo sư Tề nhìn tôi, ánh mắt như nhìn một đứa trẻ: "Muốn xuống à? Cửa vào đã bị đất đá vùi lấp, cho dù chúng tôi có xuống được thì cũng phải giải quyết vấn đề lối đi bị ngập nước. Nếu mấy đứa có thể giải quyết được chuyện ngập nước, đưa người của chúng tôi xuống dưới an toàn rồi trở lại an toàn thì tôi có thể thuê mấy đứa làm cố vấn. Tất nhiên, nếu mấy đứa lấy bất cứ thứ gì ở dưới đó thì chỉ có ngồi tù mọt gông."

--------

(1) Chỗ này từ gốc là "vũ hóa thành tiên", trong đó "vũ hóa" là quá trình côn trùng lột xác từ nhộng thành con trưởng thành. Vì ở đây đang nói đến chuyện người tu hành "lột xác" nên mình sẽ để là thoát xác cho khớp với sắc thái ở đoạn này.


Chương 12: Xuống đất


Tối hôm đó tôi ngủ một giấc thật ngon. Vốn tưởng sẽ trằn trọc mất ngủ, ai ngờ tôi đã đánh giá thấp sự lười biếng hiện tại của mình. Bàn Tử ngáy to đến mức đánh thức nửa trại, vậy mà tôi chẳng nghe thấy gì. Sáng hôm sau tỉnh dậy, cơn giông đã qua, nắng rực rỡ đến lạ. Tôi bước ra khỏi lều, nhìn thấy một dải cầu vồng vắt qua giữa thung lũng, nơi dãy núi tổ mối và dãy núi bên cạnh giao nhau.

Tối đó, công tác tìm kiếm cứu nạn vẫn tiếp tục, tôi không rõ có tiến triển gì mới không. Về sau, dân làng được sơ tán. Tôi và Bàn Tử được đưa sang một căn lều trung bình bên cạnh lều lớn. Xin lỗi vì tôi chỉ có thể gọi tên như vậy, các lều đều giống nhau, nên tôi gọi nó là Lều số 2. Đây là lều làm việc, có máy in và một số thiết bị văn phòng khác. Chúng tôi đã ký thỏa thuận bảo mật tại đây.

Sau đó, chúng tôi phải đợi thêm một lúc mới được gọi vào Lều số 1. Trong lúc chờ, tôi tranh thủ sắp xếp lại dòng suy nghĩ của mình.

Đầu tiên có thể chắc chắn rằng tổ tiên của Dương Đại Quảng không phải là người tầm thường. Họ đã thực hiện một công trình đồ sộ tại nơi này có liên quan đến thuật điều khiển sấm sét trong Đạo giáo. Thi thể của chính Dương Đại Quảng được phát hiện ra trong một trạm khí tượng bỏ hoang, bên cạnh là các cuộn băng cát sét ghi âm sấm sét. Chứng tỏ suốt mười sáu năm, ông ta đã không ngừng ghi lại tiếng sấm bằng máy ghi âm. Vậy thì rất có thể ông ta cũng là một kẻ ám ảnh với thuật điều khiển sấm sét. Vì sao ám ảnh thì chúng tôi không rõ. Trong thời kỳ ông ta còn sống, không thể công khai nói mình theo đạo tu hành nên có thể ông ta dùng danh nghĩa khảo sát khí tượng để che đậy mục đích thật sự. Còn chú Ba của tôi lại từng tham gia nghe sấm cùng ông ta. Chú Ba không phải là kiểu người mê tín ngu muội, cho thấy ít nhất chú ấy đã đồng tình với một phần lý do khiến Dương Đại Quảng bị ám ảnh bởi thuật điều khiển sấm sét.

Nếu không phải vì đoạn âm thanh lặp lại kỳ lạ kia, tôi đã cho rằng chú Ba tiếp cận Dương Đại Quảng là để nhắm vào những báu vật trong ngôi chùa nghe sấm mà nhà họ Dương xây dựng. Nhưng chính vì đoạn sấm sét lặp lại đó, tôi buộc phải thừa nhận rằng có thể chú Ba thực sự tò mò và bị cuốn hút bởi bí mật liên quan đến thuật điều khiển sấm sét mà Dương gia nắm giữ.

Nếu tổ tiên của Dương Đại Quảng từng nghe sấm ở nơi này, và còn xây dựng cả một ngôi chùa nghe sấm với quy mô khổng lồ như vậy thì rất có thể bí ẩn về hiện tượng sấm sét lặp lại kia nằm ngay bên dưới chân chúng tôi. Được xuống đó là một cơ may lớn.

Trong Lều Số 1, buổi họp bắt đầu bằng một phút mặc niệm. Sau đó giáo sư Tề giới thiệu chúng tôi. Không ai quá quan tâm đến sự hiện diện của hai chúng tôi, có lẽ vì vừa trải qua biến cố kinh hoàng, tinh thần mọi người đều sa sút. Bàn Tử còn cố pha trò khi tự giới thiệu nhưng cũng chẳng cứu vãn được bầu không khí. Ai nấy chỉ cười gượng gạo vài tiếng rồi im bặt. Tôi hiểu, ai đã từng trải qua nỗi mất mát người thân đều biết cảm giác đó tệ thế nào. Vì vậy chúng tôi nhanh chóng đi vào phần chính. Tôi xem bản sơ đồ địa chất họ đã khảo sát, vẽ rất chi tiết.

Đường hầm là một khe nứt kéo dài theo sườn núi. Nếu ngọn núi không bị sạt lở như bây giờ thì sẽ có một lối vào trên sườn núi. Qua cửa đó, đi lên là đến khu "tổ mối" với các khe nứt bên trong núi, còn đi xuống là lối hành lang nghiêng dốc. Đoạn hành lang này sâu khoảng 700m và đã bị ngập nước.

Lối vào đó giờ đang nằm dưới lớp bùn đất từ trận lở núi, họ đang cố gắng khai thông lại. Theo lý thuyết thì đoạn hành lang và toàn bộ không gian bên dưới hẳn đã ngập hoàn toàn. Nhưng đêm qua, chúng tôi nghe thấy tiếng chuông phát ra từ dưới lòng đất, nghĩa là bên dưới vẫn còn không khí. Như vậy, rất có thể đoạn hành lang bị ngập kia giống cấu trúc bồn cầu, có một đoạn uốn cong tạo thành một lớp bịt kín bằng nước ở một đoạn nào đó, ngăn cách không khí bên ngoài và bên trong.

Đoạn đường ngập nước này sẽ không quá dài và có xu hướng đi lên. Tôi nhanh chóng trình bày toàn bộ phân tích của mình, có người bèn chất vấn: "Nếu lượng nước bên ngoài quá lớn thì bên trong vẫn có khả năng bị ngập mà?"

Tôi biết là sẽ không. Nghĩ bụng mấy ngày nay mưa to như trút nước, nếu không có hệ thống thoát nước thì dù không gian bên trong có lớn đến đâu cũng đã bị tràn nước rồi, nhưng thực tế lại không xảy ra. Chứng tỏ chắc chắn có đường dẫn thoát nước ở nơi tiếng chuông phát ra cuối hành lang. Nhưng tôi thật sự không muốn giải thích nguyên lý thoát nước kiểu này nên chỉ giơ ngón cái ra tỏ ý tán đồng. Giáo sư Tề nói với tôi rằng thiết bị lặn sẽ được đưa tới vào buổi chiều. Kiểu lặn này là lặn trong hang động, tôi và Bàn Tử phải xuống dò đường trước, sau đó họ mới xuống theo. Nếu lượng nước không nhiều, họ vẫn muốn chọn phương án bơm cạn rồi mới tiến vào.

Tôi nói với giáo sư Tề rằng thời tiết ở đây có thể mưa bất kỳ lúc nào, phương án tốt nhất là lặn vào trước rồi dùng dây thừng kéo thiết bị và đồ dùng vào, sau đó thiết lập một căn cứ tạm thời bên trong, đợi có điều kiện thì sẽ kéo cáp điện vào.

Nói ngắn gọn thì buổi chiều hôm đó chúng tôi có uống một ít rượu trắng, bên kia cũng đã khai thông lại được đường vào. Khi đồ lặn đến nơi, tôi và Bàn Tử mặc vào, chuẩn bị chui vào trong. Bàn Tử đòi mang theo súng nhưng bị từ chối. Bàn Tử phản đối, lỡ bên trong có yêu quái thì sao? Giáo sư Tề trừng mắt nhìn chúng tôi, cả hai đành ngậm miệng. May mà có một chiến sĩ đưa cho mỗi người một con dao găm.

Đường hầm bằng đá xám rất thấp, có lẽ người Dương gia đều là người thấp nên chúng tôi phải cúi người đi. Hai bên đường có rất nhiều bệ thờ được đục ra, giờ đều trống rỗng. Giáo sư Tề nói những thi thể đã "thoát xác" mà ông ta cho chúng tôi xem trước đó đều được tìm thấy trong các bệ thờ này và hiện đã được bảo quản. Ngoài ra thì không còn món đồ cổ nào khác, đây chỉ là một đường hầm thô sơ do con người đào ra. Giáo sư Tề đi cùng chúng tôi xuống đường hầm, ông ta vẫn rất khỏe mạnh, còn có một anh cảnh sát vũ trang đi cùng .

Bàn Tử vừa đi vừa để ý: "Sao ở đây nhiều bệ thờ thế? Tưởng là chỉ có ba, bốn đạo sĩ thôi mà?"

Giáo sư Tề đáp: "Đúng là chỉ có ba, bốn tên trộm mộ Dương gia, nhưng khi chúng tôi dọn dẹp khu này còn phát hiện ra thêm nhiều xác cổ, đều là từ thời Hán. Tôi đoán nơi này vốn dĩ là chỗ tu đạo của rất nhiều đạo sĩ, hài cốt của họ nằm trong khắp các hang ngách. Khi Dương gia xây chùa đã phát hiện ra những xác chết đó rồi mang ra thờ cúng, cho thấy luôn có đạo sĩ đến tu luyện hàng nghìn năm nay, đây là một ngọn 'núi tiên'."

Tôi và Bàn Tử nhìn nhau, chúng tôi từng thấy những nơi như vậy. Đúng là khắp núi toàn là hang động, lại có xác người từ nhiều thời kỳ khác nhau trong hang. Không rõ tiêu chuẩn "núi tiên" như thế nào, và vì sao lại có nhiều người muốn tu tiên đến vậy.

Chúng tôi nhanh chóng đến đoạn sâu 700 mét, không thể tiếp tục đi bộ được nữa, hành lang nghiêng hẳn xuống và bị ngập nước. Bàn Tử soi đèn pin xuống nước, toàn là nước bùn đục ngầu.

"Chúng ta xuống dưới này thì chả thấy gì cả." Bàn Tử nói. "Chỉ có thể mò mẫm thôi, bác biết như thế kinh khủng cỡ nào không?"

"Chúng ta buộc dây an toàn vào người." Tôi đáp. "Nếu có gì bất thường thì nhờ cậu cảnh sát kéo chúng ta lên."

Bàn Tử quay lại nhìn cậu cảnh sát vũ trang còn rất trẻ: "Nếu chú mày mà lơ là, Bàn Gia có làm ma cũng không tha cho đâu."

Tôi nhìn dòng nước đục như bùn, không biết đoạn hành lang ngập này sâu tới đâu. Đúng thật là kiểu thám hiểm thế này chỉ có người như chúng tôi mới dám làm, chứ chưa chắc đội thám hiểm chuyên nghiệp đã dám xuống. Tôi vỗ vào vách đá, dặn Bàn Tử bám sát theo vách, tuyệt đối không được tách ra. Nếu phía dưới có ngã rẽ thì sẽ vô cùng nguy hiểm.

Hai người đeo thiết bị chui vào dòng nước bùn. Nước lạnh khủng khiếp, vài phút đầu khiến tôi tê liệt cảm giác. Đèn pin chống nước bật mức sáng tối đa, nhưng tầm nhìn gần như bằng không, chỉ thấy ánh sáng mờ mờ. Tôi vẫn nghe thấy tiếng u u và tiếng bong bóng từ Bàn Tử ở phía sau, cũng cảm thấy an tâm hơn chút.

Một tay tôi lần theo vách đá, từ từ bơi về phía trước, thỉnh thoảng lại sờ dây an toàn buộc bên hông. Giọng Bàn Tử vẫn luôn ở ngay sau lưng tôi. Ban đầu tôi nghĩ chỉ cần mười đến mười lăm phút là có thể bơi ra được phía bên kia, nhưng đoạn hành lang ngập nước này dài hơn tôi tưởng rất nhiều.

Bơi một hồi, tay tôi bỗng hụt, không sờ được vào vách đá nữa, tôi đã bơi vào một không gian rất rộng. Trước đó, đường hẹp, còn có thể mò theo thành đá để lấy cảm giác an toàn. Giờ đột nhiên không còn chạm được gì, tôi hoảng hốt, bèn thử sờ lên trên và dưới, nhận ra cũng không chạm vào được gì, chắc chắn tôi đã rời khỏi hành lang và bước vào một hang đá ngầm rất lớn. Tôi vội vàng lùi lại, định quay về hướng cũ nhưng lại đụng trúng Bàn Tử phía sau. Hắn đẩy tôi một cái, tôi xoay vòng một lượt rồi mất phương hướng, không xác định được cửa ra ở đâu nữa.

Tôi cố đạp chân giữ thăng bằng trong nước. Đúng lúc đó, tôi nghe thấy tiếng Bàn Tử bật cười sau lưng. Trong nước, âm thanh truyền đi rất rõ. Đó là tiếng cười trong làn nước. Tôi tức giận, nghĩ có gì buồn cười hả. Đồng thời, tôi cảm giác sợi dây đang buộc trên người bị một lực gì đó giật mạnh, kéo tôi lại.

Tôi nắm chặt lấy sợi dây, nghĩ là Bàn Tử đang kéo mình nên đưa tay về phía phát ra tiếng của hắn. Nhưng đúng lúc đó, tiếng của Bàn Tử bỗng biến mất, xung quanh lập tức rơi vào tĩnh lặng. Tôi bơi về phía Bàn Tử, sờ soạng một hồi thì chạm được vào sợi dây của hắn, không biết từ lúc nào, dây của Bàn Tử lại kéo thẳng xuống phía dưới không gian này, giống như một con cá mắc câu đang bị lôi xuống đáy nước vậy.

Tôi thử kéo, lực kéo ở đầu dây bên kia rất khỏe.

Đang lúc bối rối, tôi lại nghe thấy tiếng ai đó cười khẽ ngay bên cạnh. Đồng thời, có thứ gì đó khẽ đặt lên vai tôi.


Chương 13: Ma nước


Bàn Tử ở phía dưới, vậy ai đặt tay lên vai tôi? Tôi lập tức quay ngoắt lại. Vì xung quanh hoàn toàn tối đen, không nhìn thấy gì, chỉ có cảm giác nên tim tôi lập tức đập thình thịch.

Gần như ngay tức thì, tôi cảm thấy có những bàn tay đặt lên cánh tay và mắt cá chân mình.

Những bàn tay đó lạnh ngắt, ít nhất phải đến sáu, bảy cái, khiến đầu óc tôi như nổ tung.

Bàn Tử làm gì có nhiều tay đến thế? Chẳng lẽ còn có người khác ở dưới nước?

Tôi bắt đầu vùng vẫy, xoay người bốn phía, nhưng nhanh chóng nhận ra có gì đó không ổn, chỗ nào cũng có người. Mắt không thấy gì nhưng quay đi đâu cũng va phải người khác. Chỉ trong tích tắc, tôi nghĩ Bàn Tử chìm xuống dưới cũng là vì phát hiện ra xung quanh toàn là người. Ma nước à? Bàn Tử bị kéo xuống hay là do không tìm được chỗ thoát nên buộc phải lặn xuống?

Không nghĩ nữa, tôi hít sâu một hơi rồi lặn thẳng xuống. Quả nhiên không có ai ở dưới. Tôi quạt mạnh nước xung quanh, dòng bùn lạnh bị khuấy lên khiến tầm nhìn càng thêm tệ. Khoảng bốn mươi giây sau, tôi chạm đến đáy. Tôi lần sờ bên cạnh, sờ ba vòng thì chạm được vào sợi dây thừng của Bàn Tử. Tôi nắm chặt lấy, lập tức cảm thấy dây đang bị kéo đi. Tôi bám theo, nghĩ bụng xong rồi, chắc Bàn Tử bị ma nước bắt, bị kéo đi ăn thịt! Đám người Dương gia đúng là thâm hiểm, không chỉ xây chỗ ngăn nước cách ly không khí mà còn nhét cả ma nước vào trong.

Tôi cắn răng quyết một phen, chuyến này không mang dao phòng thân, chỉ mượn được một con dao găm nhưng cũng phải cứu Bàn Tử bằng được. Tôi lần theo hướng dây thừng bị kéo, bơi thật nhanh, dường như dây dẫn vào một ngã rẽ, tôi cũng lập tức bơi vào theo. Sau ngã rẽ là một hành lang ngầm dốc lên phía trên, tôi bám lấy sợi dây rồi nhanh chóng leo lên, bỗng nhiên cảm thấy toàn thân nặng trĩu, đầu tôi bất ngờ ngoi lên khỏi mặt nước.

Mặt kính lặn bị phủ kín bùn nhưng tôi vẫn nhìn thấy Bàn Tử đang vung đèn pin, giáng thẳng vào thái dương tôi. Cú đánh này cực mạnh, may mà tôi tránh kịp, chỉ khiến kính lặn văng xuống nước, không thể tìm lại được. Thái dương bị quẹt một cú đau điếng, tôi hét lên, lúc đó Bàn Tử mới nhận ra là tôi: "Thiên Chân!"

"Anh chơi đập chuột à? Vừa ló đầu ra là đập!" Tôi chửi.

"Xin lỗi, xin lỗi! Bản Gia tưởng yêu quái dưới nước trồi lên. Tôi còn bảo sao nặng thế, hóa ra đầu dây bên kia là cậu." Bàn Tử nói.

Tôi được kéo lên, nhận thấy nơi này rất giống đường hầm chúng tôi từng đi, nhưng ở đây có không khí, không thấy ma nước đâu, tôi cũng nhẹ cả người.

"Sao anh mò ra được đây?"

"Cậu không phát hiện ra à? Dưới nước toàn thứ gì ấy, tay chân loằng ngoằng, tôi cũng chẳng biết là gì." Bàn Tử chửi. "Tôi đâu có thấy cậu, kéo mãi không có phản ứng, đành tìm cách thoát thân. Ai ngờ vừa thoát thì lạc đường, mò mẫm khắp nơi lại mò đến đây."

Tôi lau nước bùn trên mặt, thầm nghĩ không biết dưới này còn có bao nhiêu lối rẽ, chúng tôi có đi đúng đường không? Rốt cuộc đây là chỗ nào? Tôi soi đèn pin, vẫn là kiểu kiến trúc cũ, đường hầm đến đây thì ra khỏi nước, phía sau sâu hun hút, đèn pin không soi tới đáy. Chắc dưới này chỉ có một ngôi chùa ngầm thôi, chẳng lẽ lại phức tạp như mê cung? Tôi nghĩ, chỉ vài người mà xây được một đường hầm và một ngôi chùa dưới đất thế này là quá giỏi rồi.

"Nếu chúng ta gặp may thì rất có thể đây là lối đúng, chẳng khác nào bị ma xui quỷ khiến dẫn qua đoạn ngập nước ấy." Tôi nói. "Nếu không may thì chúng ta đi xuống dưới chẳng biết sẽ gặp cái gì nữa."

"Gặp gì thì gặp, phát hiện ra được thứ gì thì cũng là thành quả cả, phải không?" Bàn Tử nói.

Tuy nhiên, đoạn nước bùn cách ly này thật sự khó qua, nếu là người lặn giỏi còn được, chứ chắc chắn giáo sư Tề với mấy người kia không thể lặn qua nổi. Ở dưới nước, chỉ cần hoảng loạn một chút là sẽ loạn nhịp thở, mà lỡ sặc nước thì có bình dưỡng khí cũng chết. Chưa kể rốt cuộc còn có thứ gì trong đó?

Tôi và Bàn Tử tháo chân vịt ra, Bàn Tử kéo thử sợi dây thừng đang lộ ra khỏi mặt nước, muốn có thêm không gian hoạt động nhưng vừa kéo đã sững lại: "Sao vẫn còn nặng thế?"

Tôi và hắn liếc nhìn nhau, lập tức giơ dao găm lên, đồng thời rọi đèn pin về phía mặt nước nơi dây thừng lộ ra. Sợi dây bỗng căng cứng, suýt thì kéo Bàn Tử ngã trở lại dưới nước, hắn vội đứng vững, lùi mấy bước rồi bắt đầu kéo dây. Hắn kẹp dao găm vào nút thắt dây, phòng trường hợp không giữ nổi thì sẽ cắt đứt. Tôi lập tức đến phụ, hai người cùng dốc sức kéo dây ra ngoài, Bàn Tử hét lên: "Có khi nào là thằng cảnh sát kia tưởng chúng ta gặp nạn, định kéo chúng ta về không? Thế thì ngượng chết mất."

"Anh phải kéo theo tín hiệu chứ, cho người ta biết chúng ta vẫn ổn!"

"Thằng nhóc này đầu óc đơn giản lắm, nó chỉ muốn kéo chúng ta về thôi, lấy đâu ra cơ hội mà phát tín hiệu!" Bàn Tử vừa chửi vừa kéo, chúng tôi suýt thì bị lôi cả vào trong nước. "Mẹ nó, khỏe thế này chắc chắn là ma nước rồi!"

Nói rồi hắn định rút dao cắt dây, nhưng đúng lúc đó sợi dây bỗng nhiên lỏng ra, khiến cả hai chúng tôi mất đà ngã lăn quay ra đất.

Bàn Tử kéo lại lần nữa, thấy dây đã chùng, dường như đầu dây kia bị đứt nhưng vẫn còn sức nặng. Hắn kéo mấy cái, mặt nước bỗng nhiên sôi lên, sáu, bảy cái xác trắng bệch bị dây thừng cuốn lấy đồng loạt nổi lên khỏi mặt nước. Tất cả bọn họ đều mặc đồng phục làm việc giống nhóm giáo sư Tề. Tôi lập tức hiểu ra đây chính là những nhân viên mất tích trong trận lũ bùn.

Họ đã trốn vào đây nhưng bị nước lũ cuốn vào bùn rồi chết đuối. Lúc chúng tôi bơi dưới nước, kéo dây theo, vô tình đã lôi cả mớ thi thể bị quấn cùng vào dây. Bàn Tử kéo thêm vài cái nữa, những cái xác mất đi sức nổi, nặng trĩu, nằm vắt ngang giữa phần nước cạn và phần đất khô. Hắn nằm vật ra thở hổn hển.

"Có phải lúc nãy bọn họ bị kẹt ở đâu không?" Bàn Tử hỏi tôi. "Tôi kéo mạnh quá nên mới lôi hết ra à? Không đúng, rõ ràng lúc nãy có thứ gì đó kéo ngược lại vào trong nước mà."

Quả thực tôi cũng cảm nhận được, vừa rồi đúng là có một lực rất mạnh đang kéo ngược chúng tôi lại. Những thi thể này đang kéo chúng tôi sao? Hay còn có thứ gì đó dưới nước?

Tôi vỗ người theo phản xạ, định tìm điếu thuốc, cuối cùng chỉ mò ra được que cai thuốc. Tôi đưa lên miệng, giả vờ rít một hơi rồi dùng đèn pin soi vào mặt các thi thể.

Những gương mặt này rất bất thường.

Tôi từng nhìn thấy rất nhiều xác chết, nhất là trong các mộ cổ, nét mặt thường không được yên bình cho lắm. Một khi khuôn mặt bị co rúm lại, lộ ra biểu cảm gần như đang cười, đó thường là dấu hiệu của nỗi sợ hãi tột độ trước lúc chết. Chỉ khi nỗi sợ đạt đến mức khiến người ta nghẹt thở mới có thể tạo ra biểu cảm như thế. Mà tất cả các thi thể này đều như vậy. Nếu là tôi của mấy năm trước, chắc đã sợ đến mức tè ra quần rồi. May mà giờ tôi đã khác.

Tôi liếc nhìn Bàn Tử, hắn cũng đang nhíu mày như có cùng một suy nghĩ: "Nếu đúng là mấy cái xác này kéo chúng ta, chẳng lẽ là định kéo đi thế chỗ?"

"Chúng ta gặp xác dưới nước thì không sao mà vừa trồi lên thì lại bị kéo ngược trở lại dữ dội thế này. Cộng thêm vẻ mặt đáng sợ của mấy người này..." Tôi chiếu đèn pin về phía con đường sẽ tiếp tục đi sâu vào, trước mắt là một màu đen kịt. "Tôi nghĩ nếu thực sự có ma thì có khả năng là họ không muốn chúng ta tiếp tục tiến vào, họ đang cảnh báo chúng ta." Nhất định có gì đó ở phía cuối hành lang. Có thể khi họ bị đất đá vùi lấp ở đây đã nhìn thấy gì đó kinh khủng.

Chúng tôi lần lượt kéo các thi thể lên bờ, giúp họ nhắm mắt lại. Tôi và Bàn Tử cùng cúi đầu tưởng niệm. Công việc khảo cổ nguy hiểm vô cùng, lại phải chịu đựng sự cô đơn mà người thường không tưởng tượng nổi. Mỗi một sự hy sinh đều là mất mát rất lớn đối với ngành này.

Dây thừng của Bàn Tử đã đứt, chỉ còn lại sợi bên người tôi. Tôi bắt đầu thấy bất an nhưng không thể dừng lại được nữa, chúng tôi phải đi tiếp. Bí mật của chú Ba tôi và giá trị đằng sau sự hy sinh của những người này đều trông chờ vào việc chúng tôi sẽ tìm thấy gì phía trước.

Tôi và Bàn Tử chưa vội tiếp tục, tôi kéo dây một cách có tiết tấu để truyền vài tín hiệu về đầu bên kia, báo rằng chúng tôi đã an toàn và chuẩn bị bắt đầu đợt thăm dò đầu tiên.

Còn đầu dây bên kia có hiểu không thì tôi cũng không quan tâm nữa. Hai người ngồi xuống tổng kết lại một lượt.

Trực giác mách bảo tôi rằng chúng tôi không thể xuống nước thêm lần nào nữa. Dù là do mấy xác chết này hay là có gì khác dưới đó, giờ mà lặn xuống nữa thì rất dễ gặp chuyện.

Nếu là người mới, chắc giờ sẽ rất lo không biết làm sao để quay lại. Còn tôi với Bàn Tử thì vẫn khá bình tĩnh, theo kinh nghiệm của chúng tôi thì "xe đến chân núi ắt sẽ có đường", hầu như chưa lần nào chúng tôi quay về theo đường cũ, luôn có lối khác để đi ra.

Bàn Tử thử bật bộ đàm, hoàn toàn không có tín hiệu, thế là đành gác lại. Hai người dọn dẹp qua một chút, tôi tháo dây thừng ra, xách theo rồi đi tiếp. Mới đi được vài bước đã thấy một cái bệ thờ, có một bộ hài cốt đã thoát xác ở bên trong. Tôi xách dây đi bất tiện, định tìm chỗ nào buộc tạm nhưng nhìn quanh chẳng thấy chỗ nào móc dây vào được.

Đường hầm này chẳng có lấy một tảng đá, sạch bong đến lạ. Bàn Tử rút dao găm ra, quấn dây vào, buộc thành một nút chết đặc biệt rồi tìm được một khe nhỏ, kẹp dao vào đó. Căn đúng góc, hễ dây căng là con dao sẽ bị mắc chặt, không thể rút ra. Xong xuôi, hai người bắt đầu đi sâu vào bên trong đường hầm.

Nước quá lạnh khiến giờ đi chân trần trên đá lại thấy ấm. Tôi và Bàn Tử nhìn nhau, tất cả trang bị chỉ có một con dao găm với hai cái đèn pin. Mà chính giờ phút này mới thường là đoạn hay ho nhất trong mấy chuyến thám hiểm. Đèn pin rọi thẳng phía trước, sâu hun hút. Tôi biết kiểu gì cũng sẽ có thứ gì đó bất ngờ đang chờ phía trước.

Bên trong yên ắng lạ thường, chỉ có tiếng nước nhỏ tí tách từ trên trần. Thỉnh thoảng lại có một bệ thờ ở hai bên, hầu hết đều có xác người đã thoát xác, tôi và Bàn Tử ngầm hiểu với nhau là không đụng vào cái nào. Chúng tôi có quá ít trang bị, lỡ đâu có cái nào bật dậy thì chỉ còn nước đánh tay không.

Đi khoảng bằng thời gian hút hai điếu thuốc, độ dốc giảm dần, bệ thờ hai bên cũng bắt đầu dày đặc. Bàn Tử lia đèn pin quét một vòng, phía trước đường hầm bắt đầu hẹp lại rõ rệt, không chỉ hẹp mà còn thấp hơn hẳn. Rất nhiều bệ thờ bỗng hiện ra ở hai bên, trong mỗi cái đều có một cái xác thoát xác, thoáng chốc trở nên chật chội hẳn. Nói sao nhỉ? Chúng tôi đành bò sát người, nghiêng người len qua giữa những cái xác đó.

"Có nhất thiết phải như thế này không." Bàn Tử nói. "Phía trước thì rộng thênh thang không ở, lại phải chen nhau về đây. Chỗ này là trung tâm tài chính à?"

Tôi soi đèn pin, rùng mình ớn lạnh, thầm nghĩ nếu xảy ra chuyện gì thì chắc chỉ có bị vùi trong biển xác, chẳng còn đường sống nào nữa.

Bàn Tử thở dài: "Nếu có Tiểu Ca ở đây, rạch tay một cái, máu vừa tuôn ra, soạt, họ vác chúng ta đi luôn."

"Vấn đề là giờ anh ấy đâu có ở đây, nghĩ đến cái gì dùng được lúc không có anh ấy đi. Hay là rạch anh một nhát, soạt, toàn dầu mỡ, chúng ta trượt phát là qua luôn." Tôi trêu hắn.

Bàn Tử cũng không giận, cười nói: "Cậu không xứng dùng đến lớp mỡ thần thánh của Bàn Gia. Một giọt mỡ bằng mười giọt máu, cậu biết không?" Hắn cũng liếc nhìn phía trước, tất cả những xác chết gần như mặt đối mặt, nếu muốn chui vào thì trước mặt và sau lưng đều sẽ là mặt xác chết.

"Thế này thì kinh quá! Thôi, hay là chúng nhượng bộ đi, bỏ đi vậy."

Tôi nói: "Anh từng nghe chuyện mấy món báu vật trong những ngôi mộ kia chưa? Nếu giờ không vào, đến khi nhóm giáo sư kia đến, chưa chắc đã cho chúng ta xem đâu. Anh chịu nổi không?" Tôi hỏi Bàn Tử.

"Tôi không chịu nổi, nhưng cũng phải có cách nào vẹn cả đôi đường chứ." Bàn Tử lại chiếu đèn pin về phía trước. Tôi cũng cúi đầu nhìn theo ánh đèn pin của hắn, nhìn kỹ thì thấy có thứ gì đó chợt lóe lên ở nơi rất xa tận cùng đoạn hành lang này.

"Cái gì kìa?"

"Hình như là ánh đèn pin."

Tôi "ừ" một tiếng, bên đó cũng có người đang nhìn về phía này? Tôi chiếu kỹ thêm lần nữa thì thấy ánh sáng đó đã biến mất. Nếu lúc có lúc không thì chắc chắn không phải là phản chiếu từ gương...

Tôi và Bàn Tử nhìn nhau, hắn nói: "Này, chắc chắn là ánh đèn pin rồi, có khi nào là đám trộm mộ khác đã vào trước không? Thiên Chân, chúng ta đã quyết rút lui thì người khác cũng đừng hòng húp được tí canh nào! Đi, xử đẹp bọn họ."

Tôi xoa cằm, trong lòng càng lúc càng thấy bất an, một linh cảm vô cùng dữ dội khiến tôi nổi da gà khắp người. Chỗ này có vấn đề. Tôi quá quen với cái cảm giác kỳ quái này rồi. Ngay lúc tôi đang phân vân có nên tiến lên không thì bất chợt nghe thấy một tiếng sấm vang lên.

Chúng tôi đang ở sâu trong tầng đá nên tiếng sấm truyền xuống nghe rất lạ, giống như những đợt sóng âm vậy. Tôi lắng nghe, lập tức hiểu ra đó là tiếng sấm được những mảnh thanh đồng phía trên truyền dẫn xuống. Tiếng sấm sét gần như dội về từ bốn phương tám hướng, khiến tôi có cảm giác mình đang ở trong một khung cảnh thần bí nào đó trong một thoáng, không hẳn là cảm giác sợ hãi, nhưng lại vô cùng quái dị, tựa như hành lang trước mặt, hàng loạt thi thể kia, và cả âm thanh xung quanh đều đang tỏa ra cảm giác ma quái nặng nề.

Trong một thoáng, tôi bước lùi một bước, có chút muốn rút lui. Thật xin lỗi, tôi đúng là kiểu người có thể bỏ cuộc vào phút cuối. Ngay khoảnh khắc quay đầu lại, tôi thấy có một người đang quỳ sau lưng chúng tôi.

Người này đột nhiên xuất hiện từ không trung, rõ ràng lúc nãy hoàn toàn không hề có ở đó.


Chương 14: Báu vật hào nhoáng


Tôi lia đèn pin sang phía đó, một người đang quỳ ngay trong hành lang lập tức hiện ra, cách chúng tôi chừng sáu, bảy bước. Ánh đèn chiếu lên người hắn, toàn thân ướt sũng, đầu cúi gằm, không nhìn rõ mặt.

Tôi sợ đến mức hét toáng lên, cả người bật dậy đụng trúng trần đá, choáng váng hoa cả mắt. Bàn Tử cũng bị tôi làm giật mình, lập tức thủ thế phòng bị. Ngay sau đó, người kia ngẩng đầu lên, ơ, là Giáo sư Tề? Sao ông ta lại ở đây?

Sắc mặt giáo sư Tề trắng bệch, ánh mắt trống rỗng, trông như một cái xác. Chúng tôi vội vàng chạy lại đỡ ông ta dậy. Toàn thân ông ta lạnh toát, vừa mở miệng đã phun ra một ngụm bùn vàng, mắt trắng dã. Bàn Tử vội ấn huyệt nhân trung cho ông ta, ấn hồi lâu, ông ta mới thở ra một hơi, dần dần tỉnh lại. Tôi thở phào nhẹ nhõm, lập tức hỏi chuyện gì đã xảy ra.

Giáo sư Tề yếu ớt ra hiệu một lúc mới nói rõ được, ông ta thấy sợi dây rung lắc mạnh, tưởng chúng tôi đang ra hiệu cho ông ta qua. Thêm nữa, khi biết chúng tôi đã qua được đoạn nước ngầm, ông ta càng thấy lo. Trong đầu ông ta nghĩ chúng tôi đều là người từng có tiền án, nếu hai chúng tôi là người đầu tiên phát hiện ra một phát hiện khảo cổ quan trọng như vậy, liệu có nảy sinh lòng tham hay không. Vẫn còn một bộ đồ lặn ở trên bờ nên ông ta liều mình đu dây qua đây. Không ngờ bên dưới vừa tối vừa lạnh, ông ta lại không có kinh nghiệm, vẫn mặc nguyên đồ công tác bên trong bộ đồ lặn nên ngấm nước càng nặng, thêm tuổi cao sức yếu, suýt thì toi đời.

Nghe xong, Bàn Tử nói: "Hóa ra ông tới đây để canh trộm à? Chúng tôi là dân chuyên nghiệp, chắc chắn không phá hoại hay trộm cắp, cùng lắm chỉ lén chụp mấy tấm hình thôi. Ông làm thế này hơi thừa, suýt thì bỏ lại cái thân già rồi đấy!"

Giáo sư Tề nói nếu chỉ có tôi thì ông ta còn tin được, chứ Bàn Tử thì chẳng dám tin. Tôi cũng dở khóc dở cười nhưng hiểu được tâm lý đó. Tôi đấm nhẹ ngực giúp ông ta dễ thở, thấy ông ta dần hồi phục mới nhìn vào hành lang chật hẹp phía trước cùng ông ta. Bàn Tử soi đèn pin chiếu giúp.

Tất cả xác cổ trong hành lang đều mặc áo choàng đen kịt. Giáo sư Tề lập tức nói: "Nhìn trang phục là biết được may theo lối cổ, hầu hết làm từ vải gai, có thể là xác của những đạo sĩ tu luyện từ thời xa xưa, có khi niên đại còn lâu hơn cả những gì ta đã thấy trước đó. Chúng ta đi qua nhất định không được chạm vào họ, tránh làm tổn hại."

Đúng lúc ấy, một ánh sáng lại loé lên ở tận cuối hành lang tối đen phía trước. Giáo sư Tề bỗng giật mình, tôi nhìn sắc mặt ông ta thì biết ông ta nhận ra thứ gì đó. Mắt ông ta mở to, cả người kích động hẳn lên, giống hệt vẻ mặt của một thanh niên lần đầu lẻn vào nhà tắm nữ.

Tôi lập tức nói: "Cháu biết ngay là bác đang giấu gì đó. Nói đi, cái gì sáng loáng vậy? Chắc chắn bác biết rõ."

Giáo sư Tề đáp: "Đó là mô hình tiểu cảnh làm từ ngọc bích, đặt trên đế thủy tinh tráng men có chứa thủy ngân. Ánh sáng loé lên là từ thuỷ ngân, cứ hết thời gian một nén hương lại có một dòng thác thuỷ ngân chảy xuống từ chậu cây, tạo nên một bố cục tinh xảo: thủy ngân tượng trưng cho dòng nước, ngọc bích thành hoa đào hoa mận, thủy tinh hóa thành núi non. Kích thước của nó khá lớn, có lẽ ngang một bức tường. Thực chất dây là món đồ trang trí trên bức tường chắn trong chùa ẩn."

"Sao bác biết rõ thế?"

"Tôi đoán. Thứ này vốn không thuộc về nơi này, nó bị trộm từ một ngôi mộ lớn. Tôi thấy dã sử có nhắc đến, lúc khảo sát bên trên, tôi còn thấy một miếng thanh đồng khắc hình nó, trùng khớp với miêu tả trong dã sử. Tôi không biết thứ đó có thật hay không, không ngờ đúng như tôi suy đoán, món đó thật sự đã bị trộm mang đến đây." Vừa nói, giáo sư Tề vừa bắt đầu bò vào hành lang đầy xác cổ. "Tôi nhất định phải tận mắt nhìn thấy nó."

Vốn dĩ tôi cảm thấy ánh sáng lóe lên kia có gì đó rất bất thường, nhưng nghe giáo sư Tề nói vậy, nó bỗng chốc trở nên rực rỡ, lấp lánh như châu báu.

Hơn nữa, vị giáo sư già nói chuyện vô cùng quả quyết, tôi không dám cãi lời trước mặt ông ta, chỉ liếc mắt nhìn Bàn Tử, nghĩ xem làm sao khuyên ông ta đừng tiến vào. Nhưng vừa quay sang đã thấy giáo sư Tề bò vào sâu từ lúc nào, động tác cực kỳ nhanh nhẹn, khiến tôi cảm thấy có gì đó không ổn.

Sao một ông già có thể bò nhanh đến thế? Bàn Tử lập tức đuổi theo nhưng thân hình lớn quá, loay hoay mãi không chui lọt, đành để tôi đi trước. Tôi bò vào, rọi đèn pin về phía trước thì nhìn thấy chân của giáo sư Tề. Nhưng khi tôi bò đến nơi, chân ông ta lại chẳng hề nhúc nhích mà cả người lại trườn đi cực nhanh như một con rắn, thoáng cái đã bỏ tôi lại phía sau.

Lúc ấy tôi cảm thấy có gì rất kỳ lạ. Nhưng dù giáo sư Tề bò nhanh như thế, vẫn không xảy ra chuyện gì nên tôi cũng yên tâm phần nào, tiếp tục bám theo. Bàn Tử cũng đã chui vào sau tôi.

Mấy cái xác cổ dính sát cả vào mặt tôi, chỉ cách gáy một gang tay, không thể dừng lại, cũng không thể nghĩ ngợi gì thêm. Tôi nổi da gà hết lần này đến lần khác, đành dán mắt vào giáo sư Tề phía trước. Bò được một lúc, tôi phát hiện ra mặt đất vô cùng ướt át, dường như nước chảy ra từ người ông ta.

Đái à?

Tôi thầm nghĩ nhưng lại không ngửi thấy mùi gì. Đang nghĩ ngợi thì giáo sư Tề đã biến mất khỏi tầm mắt tôi, phía trước chỉ còn một dãy xác chết. Tiếng sấm vẫn tiếp tục vang lên, tôi đành cắn răng bò tiếp. Không rõ đã trôi qua bao lâu, có lẽ chỉ vài phút, cuối cùng tôi cũng thấy lối ra, phía trước bắt đầu rộng hơn.

Tôi nghiến răng bò nhanh hơn, cuối cùng cũng chui ra được, có vẻ bên ngoài là một hang động tự nhiên, mặt đất khá bằng phẳng. Tôi đứng dậy, thấy giáo sư Tề đang đứng đó, trước mặt ông ta chính là bức tường chắn mà ông ta nói. Trên đó là mô hình tiểu cảnh bằng thuỷ tinh giống hệt như ông ta mô tả, kích thước rất lớn. Dưới ánh sáng đèn pin, nó ánh lên những tia sáng lấp lánh, đẹp khó mà tưởng tượng.

Cả người giáo sư Tề vẫn nhỏ nước lách tách, tôi bước đến gần, thấy ông ta đang ngây người nhìn chằm chằm vào mô hình tiểu cảnh.

"Thật sự có tồn tại." Ông ta run giọng lẩm bẩm. "Tôi đã nhìn thấy rồi."

Bỗng nhiên, thủy ngân bắt đầu chảy ra từ một lỗ nhỏ phía trên cùng của tiểu cảnh như một dòng thác bạc, chảy xuống theo những rãnh chạm khắc trên thuỷ tinh. Trên chậu còn có rất nhiều lá sen được chạm từ ngọc bích, khi dòng thủy ngân chạm vào, lập tức bắn tung ra vô số giọt nhỏ, như từng ngôi sao sáng lấp lánh, lăn lóc khắp nơi, cuối cùng lại tụ về dòng thác, rơi vào lỗ ở đáy chậu.

Đỉnh thật! Tôi thầm khen ngợi trong lòng, quay sang định nói gì đó với Bàn Tử thì thấy hắn vẫn chưa bò ra ngoài. Lúc đó, giáo sư Tề đã đi vòng ra phía sau bức tường chắn, còn đối với tôi thì phía sau bức tường ấy hoàn toàn chìm trong bóng tối, tôi vội vàng bám theo, giơ đèn pin soi đường cho ông ta.

Phía sau bức tường là một hồ nước khổng lồ, mặt nước tĩnh lặng như gương. Mỗi lần có tiếng sấm vang lên, vô số gợn sóng lại lan ra trong hồ. Tiếng sấm truyền xuống từ đỉnh hang đá, tôi chiếu đèn pin lên thì thấy vô số mảnh thanh đồng lơ lửng trên nóc hang, có lẽ được nối liền với những mảnh treo lơ lửng giữa không trung trong lòng núi.

Tôi lại rọi đèn pin về phía trung tâm hồ nước. Hồ nước rất lớn nên không thể nhìn rõ, nhưng đường nét lờ mờ cho thấy dường như ở giữa hồ có một tòa kiến trúc rất lớn. Mà giữa chúng tôi với tòa kiến trúc đó còn có một tấm bia đá khổng lồ, bởi vì tôi đã soi thấy rõ hình khối vuông vức to lớn của nó.


Chương 15: "Anh không xứng"


Cuối cùng Bàn Tử cũng leo lên được, đi đến sau lưng tôi. Thấy hai chúng tôi đứng đờ ra đó, hắn cũng chạy lại hóng hớt. Bàn Tử nhìn một cái rồi nói: "Không ổn lắm đâu, Thiên Chân, hình như chúng ta từng đến chỗ này rồi thì phải?"

Tôi và Bàn Tử đều cảnh giác với hồ nước đó. Gần như ngay từ ánh nhìn đầu tiên, tôi đã nhận ra hình dáng và tình trạng của hồ nước này rất giống với hồ nước trong ngôi miếu Long Vương nước tù mà chúng tôi từng tìm thấy ở Phúc Kiến.(1)

Tôi nhớ đến con cá lớn có thể kéo người từ miệng suối sâu xuống sông ngầm trong hồ. Nhưng Giáo sư Tề lại chẳng do dự mà lao ngay xuống nước. Nước không sâu, chỉ tới bẹn ông ta, ông ta nhanh chóng bước lại gần tấm bia đá lớn, chiếu đèn pin lên.

Hai chữ "Cực Hải" khắc trên tấm bia, nét chữ cực lớn, kiểu chữ rất đặc biệt, cứng cáp mạnh mẽ, từng nét như rồng bay, như muốn lao ra khỏi mặt bia.

Tôi làm bản dập nên nhận ra loại chữ này nhưng không nhớ nổi tên cụ thể. Có thể đây là kiểu chữ chỉ xuất hiện vào thời Tây Hán, thuộc hệ thống chữ Hán biến thể, chữ Nôm của Việt Nam cũng là một biến thể từ loại chữ này.

Tôi và Bàn Tử vẫn chưa xuống nước nhưng hắn thì ngứa ngáy muốn xem, bèn đi tìm thử xem có cái thuyền nào không. Không ngờ thật sự tìm được một đống thuyền gỗ chất chồng, đều chìm ở vùng nước cạn ven bờ. Dưới ánh đèn pin, có thể thấy trong vùng nước cạn đó có đầy những con cá nhỏ li ti như ruồi, chứng tỏ trong hồ nước này vẫn có sự sống.

"Đây là thuyền bọn họ dùng khi xây dựng nơi này để vận chuyển đồ đạc." Bàn Tử lội nước kéo một chiếc thuyền lên bờ, tấm ván vẫn chưa mục vì được quét dầu Tung(2). Chăng qua do thời gian quá lâu nên nhiều chỗ đã thủng lỗ chỗ.

Bàn Tử lật úp thuyền lại, đẩy xuống nước. Thân dưới thuyền giống như mai rùa, nổi lềnh bềnh trên mặt nước. Hắn trèo lên ngồi, bảo tôi leo lên cùng hắn. Tôi làm theo, hai người mỗi người một chân quẫy nước, từ từ chèo đến chỗ giáo sư Tề. Vừa tới gần đã nghe thấy ông ta lẩm nhẩm một câu văn cổ: "Địa ngục có sông lớn, trải dài hai ngàn dặm, không có điểm tận cùng, gọi đó là Cực Hải."

"Nghĩa là gì?" Bàn Tử hỏi.

"'Cực Hải' là tên của một dòng sông ngầm khổng lồ được ghi chép trong 'Phương Sĩ Truyện', lưu lượng nước không thua gì Hoàng Hà." Giáo sư Tề đáp.

"Chỗ này là hồ lớn mà, sao lại là sông ngầm được?" Bàn Tử thắc mắc.

"Có lẽ nào mực nước đã hạ xuống không?" Tôi nhìn bia đá, thấy trên đó có nhiều vết mớn nước(3) rõ ràng, đó là dấu vết cho thấy mực nước từng thay đổi qua nhiều triều đại.

Giáo sư Tề không đáp mà đi vòng qua tấm bia lớn, tiếp tục tiến về phía trước. Chúng tôi lập tức chèo theo, gọi ông ta lên thuyền nhưng ông ta chẳng thèm để ý nên đành bám theo sau. Mặt nước lặng như gương, chẳng mấy chốc, chúng tôi đã rời khỏi bia Cực Hải, tiến gần hơn đến công trình kiến trúc khổng lồ giữa hồ. Ánh đèn pin dần dần soi rõ từng chi tiết.

Đầu tiên là một cánh cửa mộ bằng đá cẩm thạch trắng. À không, không chỉ là một cánh mà là cả một hàng dài các cửa mộ, mỗi cánh làm từ một chất liệu khác nhau, xếp thành một hàng như những quân cờ domino. Cửa đã mất, chỉ còn lại khung, có thể thấy các cửa mộ đã bị cắt xẻ để làm bậc thềm, biến thành con đường đá nằm dưới chân các khung cửa. Nhìn từng khung như những chiếc cổng vòm cổ.

"Tất cả là cửa mộ mà họ trộm từ các mộ cổ rồi dùng như thế này." Giáo sư Tề là người đầu tiên leo lên bờ, đứng dưới cánh cửa mộ đầu tiên.

Cửa mộ rất lớn, khắc hai chữ tiểu triện "Tiên Lai" ở bên trên, xung quanh chạm trổ sáu, bảy vị thần tiên Đạo giáo chuyên dẫn dắt linh hồn. Do tôi không thạo mảng này lắm nên cũng chẳng nhận ra được là những ai. Nhưng ngay dưới tấm biển khắc chữ "Tiên Lai" có treo một thanh gươm ngắn bằng đồng đã hoàn toàn gỉ sét.

Ba chúng tôi cẩn trọng đi qua những cánh cửa mộ này, tôi hoàn toàn bị mê hoặc bởi vẻ kỳ dị ghép nối của chúng, đến mức quên mất sự quái lạ của giáo sư Tề.

Cứ thế đi lên, hòn đảo nhỏ giữa hồ vốn là một tảng đá lớn, có lẽ đã ở đây từ trước, được tận dụng làm nền móng cho ngôi chùa ngầm.

Sau dãy cửa mộ đó, cuối cùng chúng tôi cũng nhìn thấy ngôi chùa ngầm. Không lớn như tôi tưởng tượng, kiểu dáng rất truyền thống. Nói thêm một chút, ngôi chùa này trông khá đơn sơ, nhưng những tấm biển, cửa mộ, mái ngói cong cùng trần nhà chạm trổ bên trong đều được lắp ghép từ vật liệu mang đến từ những ngôi mộ cổ hoặc di tích khác. Mức độ tinh xảo của những thứ đó khiến người ta mải ngắm mà chẳng để tâm đến việc thực ra cấu trúc của ngôi chùa chỉ được dựng bằng đất vàng và cột gỗ cũ.

Đập vào mắt đầu tiên là một cổng chùa nhỏ nhắn. Thời xưa, cổng chùa không xây ngay trên tường mà sẽ có một tòa kiến trúc riêng gọi là "môn lâu". Môn lâu thường có hai tầng, tầng trên để canh gác, tầng dưới là lối vào. Còn ở đây thì khá sơ sài, nhỏ nhắn xinh xắn, toàn bộ đều được chạm khắc gỗ tinh tế. Cổng chùa không lớn, chỉ đủ hai người đi song song, bậc cửa cũng không cao, bên trên có một tấm biển đề chữ: Tạng Địa Thính Lôi Thiên Tôn.

Trước cửa ngôi chùa có một con hươu ngọc trắng, là hươu sao, những vết đốm được khảm bằng mã não. Có thể thấy bụng con hươu rỗng, thậm chí khi soi đèn pin vào trong còn thấy hình bóng một con hươu con.

Đây là một kỹ thuật điêu khắc đặc biệt, dùng ngọc tạc hươu mẹ, sau đó đục rỗng từ rốn từng chút một để tạo hình hươu con bên trong, riêng một tác phẩm như vậy cũng phải mất hai, ba chục năm mới hoàn thành. Mắt giáo sư Tề gần như dán chặt, thứ quý giá đến thế mà lại bị đặt ngoài cổng chùa làm đồ trang trí.

Lúc đó tôi nghe thấy Bàn Tử phát ra tiếng tí tách tí tách, soi đèn vào thì thấy dưới chân hắn cũng có nước. Tôi hoảng hốt nghĩ thầm sao anh cũng chảy nước thế? Rọi đèn lên người Bàn Tử mới thấy nước bọt đang chảy từ khoé miệng.

Giáo sư Tề vòng qua con hươu ngọc, đi thẳng vào bên trong ngôi chùa ngầm. Tôi và Bàn Tử nhìn nhau một cái, đồng loạt bật ánh sáng đèn pin lên mức cao nhất rồi theo sau. Cổng chùa bị khóa nhưng giáo sư Tề rất am hiểu về loại khóa vạn năng này, chỉ khẽ xoay một chút là mở ra được. Ông ta đẩy cửa, chúng tôi thì soi sáng từ phía sau.

Đèn pin chiếu vào, đầu tiên là một khoảng sân lớn, phía trước chính là gian trước của ngôi chùa. Gian trước rất rộng, không nhỏ hơn một đạo quán thông thường. Trong sân chất đầy đủ loại hòn non bộ bằng đá. Tôi nói đá là gọi chung, nào là ngọc, đá cẩm thạch trắng, pha lê, thậm chí có cả đá Thái Hồ đính đầy tourmaline(4). Đủ mọi màu sắc, đèn pin chiếu vào thì lấp lánh rực rỡ, trong suốt lung linh, khiến Bàn Tử đứng sững không nhúc nhích nổi. Trong đó có một chậu cây cảnh lớn nhất, cũng là thứ bắt mắt nhất, vì gần như là một cây cam được làm từ sáp ong, sống động như thật. Lá cây làm bằng ngọc bích và tourmaline xanh, cành cây bằng mã não, còn quả cam thì bằng sáp ong. Nếu không nhờ ánh sáng phản chiếu của đá quý, hẳn chẳng ai phân biệt nổi thật giả. Lại gần nhìn còn thấy vô số ánh sáng lấp lánh, thì ra trên cây cam ấy còn có giọt sương được điêu khắc bằng pha lê, ở giữa còn có sáu con bướm với đôi cánh bằng vàng chạm rỗng, khảm ngọc lam đang đậu.

"Thiên Chân, bắn tôi luôn đi."

"Anh lại giở trò gì thế?"

"Tôi muốn được chôn cùng mấy món này." Bàn Tử nói.

"Anh không xứng." Tôi đáp.

Giáo sư Tề ngồi xổm dưới gốc cây cam, nhìn dòng chữ khắc trên bệ sứ ba màu bên dưới. Tôi không tiện tiết lộ chữ trên đó, nhưng sau khi nhìn thấy, toàn thân tôi nổi hết da gà.

Đó là nét bút của một vị hoàng đế rất nổi tiếng, rõ ràng món đồ này bị trộm từ một lăng mộ hoàng gia rồi đặt ở đây.

Tay Giáo sư Tề run rẩy: "Đúng như tôi dự đoán, mấy ngôi mộ lớn kia thật sự bị trộm rồi. Hơn nữa, với trình độ thủ công này, thẩm mỹ này, là báu vật vô giá của thời đại ấy. May mà Dương gia không vì tiền, chứ thứ này nhất định phải thuộc về quốc gia."

Tôi không còn chút ham muốn vật chất nào nữa. Khi nhìn thấy những thứ này, tôi cảm thấy một sự thỏa mãn to lớn về mặt thẩm mỹ. Tôi biết, chỉ cần đem bất kỳ món nào ở đây ra ngoài cũng đủ ăn đến mấy đời. Nhưng chính vì vậy, tôi lại cảm thấy mình không cần phải sở hữu bất kỳ món nào trong số đó.

Vì ánh sáng đèn pin khá rộng nên toàn bộ đống đá quý đều phát sáng. Hơn nữa, lâu lâu lại có tiếng sấm trên trời làm lay động những mảnh đồng, khiến cả khung cảnh trở nên vô cùng kỳ ảo.

Cùng lúc đó, tôi thấy nước nhỏ trên người Giáo sư Tề ngày càng nhiều. Tôi dùng chân giẫm thử vết nước thì thấy dính dính. Một tia sáng lóe lên trong đầu, tôi lập tức bước đến sau lưng ông ta, chọc nhẹ ngón tay vào gáy.

Vừa chạm tay vào, da ở cổ ông ta lập tức lõm xuống, giống như phần thịt bên trong đã tan ra, trở thành một thứ sền sệt.

-------

(1) Chi tiết được nhắc đến trong truyện mừng năm mới 2016: Điếu Vương.

(2) Dầu Tung hay dầu gỗ Trung Quốc là một loại dầu sấy khô thu được bằng cách ép hạt từ hạt của cây tung. Dầu Tung cứng lại khi tiếp xúc với không khí, và lớp phủ thu được trong suốt và có vẻ ngoài sâu, gần như ướt.

(3) Mớn nước hoặc mớn nước của tàu là độ sâu xác định của tàu bên dưới mực nước, được đo theo phương thẳng đứng đến điểm thấp nhất của thân tàu, chân vịt, sống tàu hoặc điểm tham chiếu khác. Mớn nước thay đổi tùy theo tình trạng chất tải của tàu.

(4) Tourmaline là một loại khoáng vật silicat vòng. Tourmaline là loại đá bán quý và trang sức có nhiều màu sắc khác nhau. Địa chất Tourmaline có mặt trong đá granit và granit pegmatit và trong các đá biến chất như schist và đá hoa. Các tourmaline giàu lithi và Schorl thường được tìm thấy trong granit và granit pegmatit.


Chương 16: Que kem thành tinh


Tôi và Bàn Tử nhìn nhau không nói nên lời, giáo sư Tề tỏ ra hơi khó hiểu, quay lại nhìn chúng tôi.

Tôi và Bàn Tử đồng loạt hít sâu một hơi, lùi về sau một bước, thấy ngũ quan trên gương mặt của giáo sư Tề có sự dịch chuyển nhẹ. Dù mức độ rất nhỏ, nhưng vì khác với người bình thường nên chúng tôi lập tức nhận ra ngay.

Giáo sư Tề nhìn chúng tôi, hỏi: "Làm sao thế? Hai đứa đừng có giở trò hù dọa tôi, mấy thứ ở đây đều có giá trị thẩm mỹ rất lớn đấy."

Bàn Tử nói: "Giáo sư Tề, ông không thấy trong người có gì là lạ à?"

"Không, tôi vẫn khỏe mà, đừng có nói nhảm." Ông ta rọi đèn pin về phía cánh cửa lớn của điện chính rồi bước thẳng tới đó, gọi chúng tôi đi theo.

Tôi và Bàn Tử lại nhìn nhau lần nữa, thấy ông ta đi qua để lại một dãy dấu chân ướt sũng trên nền đất, cảm giác phấn khởi lúc nãy khi nhìn thấy báu vật lập tức bị thay bằng cảm giác ớn lạnh.

"Chẳng lẽ giáo sư Tề là que kem thành tinh, sắp tan chảy rồi?" Bàn Tử hỏi.

"Anh liếm thử xem có vị gì? Tôi thấy giống que kem của hãng 'Bàn Chân Lớn'." Tôi đáp. Trước đây chỉ nghe nói khi ma nước đi sẽ để lại dấu chân ướt, chẳng lẽ giáo sư Tề là ma nước?

Nhưng nhìn cách nói năng của ông ta thì chẳng giống tà ma quỷ quái chút nào, vẫn nghiêm nghị, khí thế bừng bừng. Nếu có là ma nước thật thì chắc cũng là tấm gương đạo đức trong làng ma nước.

Hay là do quá phấn khích khi thấy báu vật nên bị liệt mặt rồi? Nhưng nếu như liệt mặt mà dẫn đến ngũ quan bị lệch như lúc nãy thì phải là hệ thần kinh ở nhiều vùng trên mặt đều gặp vấn đề mới đúng.

Khả năng lớn nhất là nước thực sự có vấn đề, khiến cơ thể giáo sư Tề bị ảnh hưởng. Tôi và Bàn Tử lại thử bấm nhau xem có gì khác thường không nhưng cả hai đều bình thường, vậy nên lại càng cảm thấy khó hiểu.

Chúng tôi run run bước tới điện chính. Điện chính cũng xây bằng đất vàng, nhưng khắp nơi đều là đồ trang trí ghép lại từ chỗ khác, cột kèo điêu khắc rực rỡ lại kết hợp với bức tường đất vàng. Khung cửa làm bằng gỗ tạp, nhưng toàn bộ cửa và cửa sổ đều làm bằng Nam Mộc tơ vàng quý giá, bên trên khắc cảnh "Hội Bàn Đào", nay đã phủ đầy bụi. Hai bên điện chính còn có tám cây cột, mỗi cột đều chạm cảnh "Bát tiên quá hải"(1), chân cột được đẽo thành hình chân con trâu rất tinh xảo.

Cánh cửa bị chặn bằng một cái chốt to bằng đùi người trưởng thành, trên chốt còn có bảy tám ổ khóa. Giáo sư Tề nhìn tôi một cái, tôi nói: "Giáo sư, hay là ta nghỉ tay chút đi, hình như mặt bác đang bị liệt đấy."

Ông ta sờ mặt mình, tôi thấy tay ông ta hơi run. Ông ta nói: "Trước kia từng bị rồi, không sao. Mở khóa đi, đâu phải mấy đứa không biết làm việc này."

Bàn Tử nhìn mặt giáo sư, vì mặt bị chảy xệ xuống, đến mức viền mắt đỏ ửng trông thấy rõ, trông rất tiều tụy. Bàn Tử hỏi: "Ông chắc là trước kia từng bị rồi đấy chứ?"

Giáo sư Tề đáp: "Thân thể tôi, tôi tự biết."

Tôi và Bàn Tử lại nhìn nhau, trong lòng nghĩ: Ông biết cái quỷ gì! Nhưng thấy tinh thần ông ấy vẫn tốt, mà giờ cũng không có đường lui, chẳng lẽ cứ đứng mãi ở đây? Không còn cách nào khác, đành phải tiếp tục tiến về phía trước.

Tôi và Bàn Tử trao đổi ánh mắt, quyết định trước mắt cứ án binh bất động, quan sát tình hình kỹ càng. Nếu đúng là ma nước thật mà không hại chúng tôi thì cứ mặc kệ. Nếu là do nước làm giáo sư gặp vấn đề mà ngày càng nghiêm trọng thì phải lập tức ngăn lại.

Bàn Tử bảo ông ta ngồi nghỉ, tôi dùng kim thép trong bộ dụng cụ đa năng ở chuôi dao để cạy mấy ổ khóa cũ này ra. Sau đó, tôi và Bàn Tử cùng dùng vai nhấc chốt cửa lên.

Chắc chắn cây chốt này làm từ ván quan tài, vừa nặng vừa được bảo quản cực kỳ tốt, nhấc lên mà tôi nghe thấy đốt sống lưng mình kêu rắc một tiếng.

Cửa lập tức mở ra, lộ ra đại điện sâu hun hút phía trước. Cảm giác chẳng khác gì khi mở một cánh cửa mộ, tôi và Bàn Tử lập tức tăng tiết adrenaline, đồng thời còn ngửi thấy mùi gỗ cũ từ bên trong phả ra.

Thứ đầu tiên mà ánh đèn pin chiếu vào là một pho tượng Thiên Tôn mạ vàng, hình như làm bằng đồng, tay giơ cao roi sắt, trên người quấn dải lụa hình con rắn. Trên đầu có một tấm biển tròn lớn, viết: "Cửu Thiên Ứng Nguyên Lôi Thanh Phổ Hóa Thiên Tôn(2)."

Hẳn là ban đầu toàn bộ tượng Thiên Tôn được sơn màu rực rỡ, nhưng giờ đã tróc hết, để lộ phần thân bằng đồng. Trước tượng có 36 chiếc trống sấm bằng ngọc, nhìn có vẻ là ngọc Côn Lôn, hai bên có hai đứa trẻ. Sau 36 chiếc trống là 36 vị thần cai quản sấm sét.

Ba mươi sáu vị thần sấm này đều là các xác tiên mặc đạo bào nhưng hình thể nhỏ bé, làm tượng Thiên Tôn trông càng đồ sộ hơn. Thực ra hai đứa trẻ bên cạnh tượng Thiên Tôn là hai xác trẻ con, da trắng bệch, không rõ dùng kỹ thuật gì mà dù da thịt đã nứt nẻ vẫn giữ được độ đầy đặn như lúc còn sống. Chẳng qua hai mắt đã bị khoét, thay vào đó là hai đồng tiền đồng. Nếu không phải vì những vết nứt trên da, người ta còn tưởng hai đứa trẻ này vẫn còn sống sờ sờ.

"Xác trẻ con cũng chuyển từ mộ khác đến. Ở vùng sâu vùng xa, nhà giàu thường mua trẻ con để làm Kim Đồng Ngọc Nữ chôn theo. Trong bụng bé trai toàn là vàng thỏi, bé gái thì toàn là ngọc quý." Giáo sư Tề nói. Tiếp đó, chúng tôi nhìn thấy bốn bức tường quanh đại điện có những bức bích họa.

Chỉ có phù điêu và bích họa mới có thể phục dựng được những manh mối về động cơ hành động khi người xưa xây dựng nơi này. Mọi người đều vô cùng phấn khích.

Chiếu đèn pin lên, những bức bích họa đơn sơ đến kinh ngạc. Dù đơn giản nhưng lại được vẽ rất cẩn thận, tỉ mỉ. Nhìn vào là biết tuy người vẽ không có tay nghề cao nhưng lòng thành thì có thừa. Cộng thêm lớp sơn ngoài bong tróc loang lổ khiến bức họa trở nên có giá trị.

Giáo sư Tề lau kính, chúng tôi nhìn ông ta chờ đợi. Tôi biết giáo sư là chuyên gia hàng đầu về mảng này, nhất định sẽ có lời giải thích hay ho. Ông ta nhìn một bức tường rồi nói: "Chỗ này ghi chép lại một nghi lễ."

"Nghi lễ gì ạ?"

"Cháu nhìn đi, ở đây có một đạo sĩ đã tu luyện đến một cảnh giới nhất định. Những người đang quỳ là đệ tử của ông ta." Giáo sư Tề chỉ lên bức bích họa, trên đó vẽ một đạo sĩ lớn tuổi đứng sau đàn tế. Rất nhiều đạo sĩ trẻ hơn một chút đang hành lễ với ông ta, bởi vì ai cũng được vẽ có râu, nên chỉ có râu của lão đạo sĩ là màu trắng, còn những người còn lại đều có râu đen.

Sau đó, các đạo sĩ vây quanh lão đạo sĩ, cùng đi đến bên một cái hồ nước. Lão đạo sĩ bị mổ bụng, nội tạng bị ném xuống hồ. Một con cá lớn, tôi liếc mắt là nhận ra ngay, chính là đồng loại với con cá quái vật mà chúng tôi từng thấy ở miếu Long Vương nước tù, lập tức nuốt trọn đống nội tạng đó. Con cá lớn bơi theo dòng sông ngầm dưới lòng đất, cứ thế bơi mãi, bơi mãi cho đến khi tới một cung điện kỳ lạ. Trong cung điện toàn là các vị thần tiên. Cá lớn nhả nội tạng ra, phần nội tạng ấy đã thai nghén thành một vị tiên trẻ tuổi. Dựa vào bộ râu bạc và mái tóc bạc, có thể thấy vị tiên ấy chính là lão đạo sĩ lúc trước, chẳng qua giờ đây ông ta đã trở nên vô cùng trẻ trung.

Lão đạo sĩ gặp mặt các vị thần rồi được các vị thần tiên vây quanh chào đón. Cảnh cuối cùng trong bức họa là những đạo sĩ râu đen đang ngẩng đầu nhìn lên thần tiên trên trời.

Trong loạt bích họa này, hành trình bơi dưới sông ngầm của con cá được vẽ rất chi tiết, có đoạn giống địa ngục đầy ma quỷ, có đoạn chất đầy vàng bạc châu báu, có đoạn là nơi loài rồng cư ngụ. Có thể thấy đây là những thử thách và cám dỗ trên đường đi. Dường như cá lớn đã hợp nhất với linh hồn con người, nếu trong hành trình đến tiên cảnh mà có chút dao động, ở phần dưới bức họa còn vẽ rất nhiều bộ xương cá, thì sẽ rơi vào cảnh không thể cứu vãn, hồn phi phách tán.

"Có phải hồ nước mà họ nói là cái hồ chúng ta đi qua lúc nãy không? Nếu đúng thì chúng ta đúng là tốt số thật." Bàn Tử nói.

"Hồ nước đó có tên, tên là 'hồ Sấm'." Tôi chỉ vào dòng chữ trên bức họa. Không biết có phải vùng Cực Hải bên ngoài chính là hồ Sấm không. Nếu không thì chắc ở đây còn có một cái hồ nữa.

"Xem ra bọn họ thực sự tu tiên ở đây. Đây là một ngôi chùa tu tiên, nhưng cách họ thành tiên lại là để cá nuốt mất nội tạng rồi đưa vào cõi tiên." Bàn Tử nói.

Hắn còn định hỏi tiếp giáo sư Tề, nhưng ông ta đã vội vã rời khỏi chỗ chúng tôi, đi ra bằng cửa sau của gian trước.

Những ai từng đến chùa hay đạo quán(3) đều biết, gian trước thông cả trước lẫn sau, đi qua sẽ đến điện chính và sân lớn. Sau pho tượng Thiên Tôn ở gian trước còn có ba pho tượng Quan Âm bằng ngọc phỉ thúy. Tôi thực sự không biết phải miêu tả chúng thế nào, trình độ nghệ thuật, kỹ thuật điêu khắc, cách phối hợp các loại đá quý, cả nếp gấp trên áo cũng vô cùng tinh xảo, rõ ràng đây là món đồ tùy táng có lai lịch ghê gớm. Ba tượng Quan Âm thể hiện ba trạng thái khác nhau. Mặc dù tượng Quan Âm xuất hiện trong chùa của Đạo giáo vốn không phù hợp với giáo lý, nhưng ở Trung Quốc thì đã thành lệ thường.

Giáo sư Tề chẳng buồn nhìn, cứ thế đẩy cửa sau của gian trước.

Khoảng sân giữa gian giữa và gian trước còn rộng hơn nữa, trong sân bày la liệt vật phẩm, đèn pin rọi đến đâu cũng lấp lánh ánh phản quang nhưng không nhìn rõ rốt cuộc là thứ gì. Chỉ thấy trên trục trung tâm của sân có một cây đào rất lớn, thân cây làm từ ngọc hóa thạch, hoa đào được khảm bằng tourmaline hồng và spinel(4), cây cao hơn ba người. Dưới gốc cây là một pho tượng tỳ bà bằng đá. Tượng tỳ bà cũng được chạm khắc rất tinh xảo, chỉ dùng đá thường để tạc nên có màu xám và vài vết nứt.

Tôi lập tức nhận ra đây là tác phẩm của cao thủ. Đặt một món như thế ở đây là có dụng ý. Hầu hết những món trước đó đều là phô trương sự quý giá, rực rỡ lóa mắt. Nhưng chỉ cần đặt pho tượng đá tỳ bà cùng cây đào này vào, mọi thứ lập tức trở nên khác hẳn.

Tôi đang thắc mắc tại sao thẩm mỹ trong ngôi chùa này lại đột nhiên được nâng tầm như vậy thì thấy Giáo sư Tề bất ngờ chạy vụt đi. Chúng tôi vội rọi đèn bám theo, chạy mãi đến khi tới phần nền của gian giữa. Nhưng rồi phát hiện ra gian giữa đã không còn, trước mắt chúng tôi chỉ là một đống đổ nát, gian giữa hoàn toàn bị phá hủy, khắp nơi là than cháy đen sì. Nhưng tại sao tôi nói là bị phá hủy chứ không phải là thiêu rụi? Vì cả nền đá bao quanh gian giữa cũng cháy xém đen kịt, bề mặt hiện lên hoa văn lan tỏa như bị nổ tung. Trên đá còn toàn là các vết nứt kỳ lạ.

"Bị sét đánh." Bàn Tử lẩm bẩm.

Hắn nói đúng, có lần sét rất lớn đã đánh trúng nơi này, phá hủy toàn bộ gian giữa.

Nhưng đây là lòng đất, lấy đâu ra sét? Chỉ có một khả năng, chính những mảnh đồng treo lơ lửng kia đã dẫn sét từ đỉnh núi xuống dưới này, gây ra tai nạn.

Chúng tôi lại gần gian giữa nhưng không thấy Giáo sư Tề đâu, ông ta không dừng lại ở đây mà đã chạy tiếp đi chỗ khác. Gian giữa vốn phải có một pho tượng thần lớn, giờ chỉ còn lại bệ đá, xung quanh toàn là gạch vụn và tàn tro. Chúng tôi ngẩng đầu soi đèn lên trần hang nhưng vòm hang quá cao, chỉ thấy lờ mờ vô số mảnh đồng lơ lửng phía trên.

"Sét truyền qua mấy mảnh đồng đó à?"

Không ai rõ cả. Nhưng tôi nghĩ còn có khả năng khác là nơi này từng xảy ra một vụ nổ lớn, khiến gian giữa bị phá hủy.

"Người Dương gia đã bí mật hoạt động ở đây lâu như vậy, cậu có tin chỉ vài ba người mà làm được đến mức này không?" Tôi nghĩ đến Dương Đại Quảng, thầm nghĩ có lẽ đến khi chỉ còn lại một người, hắn cũng vẫn không từ bỏ.

Nghĩ thế, một ý nghĩ bỗng nảy ra, tôi quay lại nhìn pho tượng tỳ bà kia.

"Làm sao thế?"

"Tổ tiên Dương gia có trình độ văn hóa không cao, anh nhìn bức bích họa lúc nãy còn chưa vẽ xong, nhưng tượng nhạc công ôm tỳ bà và cây đào bằng đá quý tourmaline kia thì lại đầy tính nghệ thuật. Một bên thì thô tục, một bên thì thanh tao, sự khác biệt giữa chúng là cả một trời một vực. Như vậy thật vô lý."

"Có lẽ chỉ là trùng hợp?"

"Chúng ta đi suốt từ đầu đến giờ, toàn thấy những thứ dát đầy ngọc ngà châu báu, chưa từng thấy tourmaline lại đi chung với tượng đá bình thường." Tôi và Bàn Tử quay lại chỗ tượng tỳ bà. Tôi ngồi xổm ra sau tượng, rọi đèn pin thì thấy có vật gì đó giống đồng xu đã rỉ sét bị kẹt dưới tượng, chỉ lộ ra một góc nhỏ. Bàn Tử giúp tôi nâng bổng tượng lên, lúc tôi rút "đồng xu" ra thì phát hiện ra pho tượng còn đè lên một vòng sắt.

Tôi lập tức bảo Bàn Tử dời hẳn tượng đi. Quả nhiên dưới phiến đá là một cái vòng sắt, vừa kéo thử thì thấy kéo lên được cả một đoạn xích sắt dài. Tôi và hắn nhìn nhau rồi cùng ra sức kéo xích lên khỏi hố đá, kéo được chừng hơn một mét thì nghe "keng keng keng", một loạt tiếng va chạm kim loại vang lên từ bên dưới. Tảng đá trước mặt chúng tôi sụp xuống, lộ ra một miệng giếng hình vuông.

Do mặt đá bị lún, tạo thành một dốc nghiêng. Chúng tôi bước lại gần nhìn xuống, thấy hình như phía dưới là một phòng bí mật có thể xuống được.

"Sao cậu biết?" Bàn Tử hỏi tôi.

Tôi đáp: "Logic của pho tượng này khác hoàn toàn với mọi thứ còn lại ở đây, chắc chắn có vấn đề. Tôi rất nghi ngờ pho tượng tỳ bà này là do chú Ba của tôi đặt vào."

"Trên đời này đâu phải chỉ có mỗi chú Ba của cậu am hiểu thẩm mỹ đâu."

Tôi đưa cho Bàn Tử xem đồng xu kia, thực ra không phải là xu mà là một bảng tên, mặt trước khắc Ngô Tam Tỉnh, mặt sau khắc tên một dự án, công trình 044, không rõ là gì. Nó vốn là bảng cài ngực, nhưng phần ghim cài đã bị bẻ mất, nhìn như một đồng xu.

Không còn nghi ngờ gì nữa, chú Ba của tôi từng đến đây, và chú ấy để lại chỉ dẫn rõ ràng đến bất ngờ.

--------

(1) " quá hải" là một tích truyện cổ trong văn hóa Trung Quốc, kể về tám vị tiên bất tử trong Đạo giáo, cùng nhau vượt biển Đông Hải đến dự tiệc của Tây Vương Mẫu. Tám vị tiên này là: Lý Thiết Quái, Chung Ly Quyền, Hà Tiên Cô, Tào Quốc Cửu, Lã Động Tân, Lam Thái Hòa, Trương Quả Lão và Hàn Tương Tử.

(2) Thiên Tôn Cửu Thiên Ứng Nguyên Lôi Thanh Phổ Hóa tức là vị Thiên Tôn của chín tầng trời, hợp nhất nguyên khí, phát ra tiếng sấm, phổ độ chúng sinh.

(3) là nơi tu luyện và cử hành nghi thức tôn giáo của các đạo sĩ. Đôi khi gọi là cung quán, ngoài ra còn có các kiến trúc với tên gọi theo quy mô lớn nhỏ khác nhau như: điện, đường, phủ, miếu, am, lâu, xá, trai, các, khuyết, đàn.

(4) là một khoáng vật nhôm magnesi trong nhóm spinel, công thức hóa học của khoáng vật là MgAl₂O₄. Balas ruby là tên gọi cũ của một biến thể nhiều màu hồng của khoáng vật này.


Chương 17: Phòng bí mật


Tôi và Bàn Tử cẩn thận đi xuống phòng bí mật.

Phòng bí mật rộng chừng tám mươi mét vuông, toàn bộ đều lát đá phiến. Chính giữa có một hồ nước rộng khoảng bốn mươi mét vuông, sâu không thấy đáy, hơi giống bể tắm trong nhà tắm công cộng. Trên các bức tường đá xung quanh cũng đầy bích họa, tuy có hơi ẩm, mốc meo loang lổ, nhưng vì niên đại không quá xa nên vẫn còn nhìn rõ sơ sơ hình dáng.

Dưới sàn toàn là đá, phía dưới từng bị đè bởi rất nhiều bùa chú, giờ chỉ còn sót lại rất ít còn nhìn rõ được, còn lại đều bị ẩm mục nát hết. Các loại nấm mốc mọc đầy từng mảng trên lớp phân hủy màu đen ấy, lan cả lên tường. Dưới chân tường cũng có nấm, nhưng phần giữa thì ít hơn nên vẫn còn thấy rõ một chút bích họa.

Bức bích họa này rất thú vị, hình như mô tả một con sông ngầm, cứ cách một đoạn lại có một hồ nước lớn, trong mỗi hồ đều có một tấm bia đá khắc hai chữ "Cực Hải". Mỗi hồ lớn lại kèm theo một hồ nhỏ bên cạnh, cũng có bia đá, khắc hai chữ "hồ Sấm".

"Đây là bức tranh 'Non Sông Vạn Dặm' của Cực Hải." Bàn Tử lẩm bẩm nói.

"Trừu tượng quá." Tôi nói. Nếu lấy bản đồ này để đi tìm con sông ngầm Cực Hải khổng lồ kia thì e rằng đi chưa được vài cây số đã lạc mất rồi, vì tất cả hình vẽ trên bản đồ đều rất ngẫu hứng. Nhưng tấm bản đồ này lại truyền đạt một điều rất rõ ràng: Cái hồ nhỏ này chính là hồ Sấm, còn cái hồ lớn bên cạnh là Cực Hải, hai thứ này luôn xuất hiện theo cặp. Lúc đó, Bàn Tử ra hiệu bảo tôi quay đầu lại, tôi nhìn về phía tảng đá ở góc tường, thấy trên đó có một bia đá, trông giống mấy bia đá trấn trạch nhỏ kiểu Thái Sơn Thạch Cảm Đương(1). Quả nhiên có hai chữ "hồ Sấm" được khắc trên đó.

Nếu hồ nhỏ này là hồ Sấm, vậy thì chắc hẳn từng mổ bụng đám đạo sĩ tu tiên ở đây, ném nội tạng vào trong đó, mà hồ nước này còn thông với hồ lớn ở bên cạnh.

Bản đồ còn cho thấy không chỉ có trường hợp thế này ở đây, hơi giống kiểu hồ Nhật Nguyệt. Không rõ đây là hình thành do tự nhiên hay con người cố ý xây nên như vậy, hoặc cũng có thể là ngược lại, chỉ những cặp hồ như thế này mới được gọi là Cực Hải và hồ Sấm, mới có giá trị tu luyện.

Nhưng điểm thú vị nhất của bức bích họa là Cực Hải được vẽ thành một vòng tròn. Tức là họ cho rằng thực ra con sông ngầm dài nhất Trung Quốc là một dòng sông vòng tròn khép kín. Mà trong hệ thống sông ngòi thì không thể có hình dạng thế này, sông thì phải có thượng nguồn và cửa biển, hoặc là biến mất trong hoang mạc. Một con sông vòng tròn như vậy gần như chắc chắn là do tổ tiên Dương gia bịa ra.

Bàn Tử cúi người xuống nhìn hồ nước, nước vẫn đục ngầu, không biết sâu bao nhiêu. Căn cứ vào bích họa thì có thể phía dưới hồ thông tới sông ngầm, rất sâu, bên trong còn có cá lớn.

Bàn Tử quay lại nói với tôi: "Cậu có nội tạng nào không dùng nữa không? Thử xem sao." Tôi nhìn hắn, chợt cảm thấy trong hồ có thứ gì đó, bèn rọi đèn pin xuống, đúng lúc đó, một bóng đen đột ngột đứng bật dậy từ hồ nước.

Nó thực sự đang đứng lên, ngay sau lưng Bàn Tử. Còn chưa kịp nhìn kỹ thì thứ đó đã lập tức chìm xuống lại. Chắc chắn là một con cá lớn, mà tôi còn kịp thấy rất nhiều tiền đồng gắn trên vảy của nó, y hệt con cá quái vật ở miếu Long Vương nước tù mà chúng tôi từng gặp, chẳng qua hình như con này còn lớn hơn.

Tiếng nước làm Bàn Tử giật mình, lập tức tránh xa mép hồ. Mặt hồ nổi sóng lăn tăn.

"Cái gì thế?" Tôi kéo hắn lại, nhìn xuống hồ thì thấy mặt nước nổi đầy bọt khí. Ngay sau đó, một vật thể nổi lên rồi nhanh chóng chìm xuống.

Đó là dây an toàn của tôi, dây tôi tháo ra lúc lặn vào đường hầm trước đó, giờ lại xuất hiện ở đây. Như vậy có nghĩa là gì?

"Lúc chúng ta vào đây, chỗ ngăn nước dưới hành lang đá thông với con sông ngầm bên dưới. Nói cách khác, chỗ ngăn nước, Cực Hải ở bên ngoài và hồ Sấm ở đây, ba nơi này đều thông nhau. Lúc những người chết đuối kia chết, họ sợ đến vậy có lẽ là vì trước khi chết, họ phát hiện ra trong nước có cá quái vật."

"Là thứ vừa rồi à?"

"Ừ, thứ vừa nãy dí sát mông anh ấy, chính là loại mà ông cụ Lôi(*) từng câu năm xưa." Tôi nói. Bàn Tử xoay cổ: "Thế thì chúng ta quay lại kiểu gì? Loại cá này mà có ở trong nước thì người bên ngoài đừng mơ vào, còn chúng ta cũng đừng mơ ra."

Điều tôi nghĩ đến là không biết có bao nhiêu con? Nếu hơn năm con thì e rằng phải có thợ lặn săn cá chuyên nghiệp mới dọn sạch được ở chỗ ngăn nước đó.

Con cá đó gắn đầy tiền đồng toàn thân, là có người cố ý gắn vào, chẳng khác gì mặc giáp! Nhưng tôi vừa thấy mấy đồng tiền đã mục nát, chỉ còn lại viền, chắc giờ cũng chẳng còn nhiều tác dụng bảo vệ. Tiếc là không có súng, nếu có khẩu 54, chúng tôi có thể lấy đùi Bàn Tử làm mồi dụ ra một con, bắn chết, moi nội tạng ra làm mồi tiếp, câu tiếp cho đến khi trong hồ không còn con nào cắn câu nữa.

Làm vậy thì còn hy vọng quay lại đường cũ. Chứ không nếu mà phải tìm đường khác thì chắc phải mất ít nhất ba ngày. Giờ tôi đã bình tĩnh lại, không còn tâm trạng mừng rỡ trước mấy món đồ quý nữa, những thứ ở đây quá sức kinh khủng. Nếu không ra ngoài báo cáo sớm, nhỡ đâu có gì bị hỏng, tôi lo rằng tôi và Bàn Tử khó mà chối bỏ liên quan.

Mặt nước dần lặng lại, tôi nói lo ngại của mình cho Bàn Tử, hắn cũng gật đầu: "Còn chuyện nữa là tình hình của giáo sư Tề hiện giờ, tôi lo lão mà xảy ra chuyện gì, cuối cùng chúng ta có nhảy xuống Hoàng Hà cũng không rửa hết tội. Cái mặt này của tôi, ai nhìn vào cũng thấy tôi có tướng mưu mô, hại người vì tiền. Bàn Gia không muốn ôm nỗi oan này đâu."

Thế là tôi nói ra điều tôi thấy tiếc nuối, Bàn Tử đáp: "Sao cứ phải là chân tôi? Chân cậu cũng thơm mà. Nếu thực sự phải làm thì phải công bằng thi đấu, hai cái chân cùng thả xuống, xem nó thích chân nào. Mà tôi nói cậu nghe, tôi quen một ông người Thái, ông ta bảo cá không thích ăn mỡ."

Tôi bật cười, cảm thấy khá thư giãn. So với mấy lần xuống đấu trước, lần này nhẹ nhàng hơn hẳn, những khó khăn hiện tại cũng chưa tính là gì. Nhưng có một chuyện làm tôi thắc mắc, trong hồ Sấm này lại không có bất kỳ manh mối tiếp theo nào mà chú Ba của tôi để lại. Đáng lẽ ra, nếu chú ấy để lại ký hiệu ở trên kia là để người sau chú ý tới nơi này, vậy sao khi xuống tới rồi lại chẳng có gì nữa?

"Chẳng lẽ chú Ba của cậu cũng mổ bụng ở đây rồi? Ông ấy thành tiên rồi à? À đúng rồi, giờ ông ấy là thần Sấm rồi. Chắc tiếng sét đó là ông ấy đánh đấy." Bàn Tử nói với tôi. "Có khi nào ý của chú Ba cậu là bảo cậu cũng mổ bụng ở đây, biến thành nội tạng để đi tìm ông ấy không?"

"Nếu chú Ba của tôi mà thành thần Sấm rồi thật thì chắc chắn việc đầu tiên là đánh chết anh trước." Tôi đáp. Trong lòng tôi hơi rối, giờ thì không còn nghi ngờ gì nữa, đúng là chú Ba đã từng đến nơi này nhưng lại chẳng để lại dấu vết gì, có nghĩa là chú ấy chỉ để lại một tín hiệu rỗng.

Chú Ba tôi xưa nay chưa bao giờ sai sót trong mấy chuyện đánh đố kiểu này. Hay là do tôi bỏ sót thứ gì? Nghĩ vậy, ánh mắt tôi chậm rãi bị hút về phía mảng tường đối diện đang phủ đầy nấm mốc. Đó là mảng tường ngay đối diện cửa ra vào, có một bức bích họa rất lớn bị hỏng hoàn toàn, phủ kín bởi đám nấm mốc đủ màu, không biết ban đầu vẽ gì ở đó.

"Anh đã từng xem bộ phim khoa học viễn tưởng nào mà trong đó có cảnh bức tường mọc đầy nấm mốc chưa?" Tôi hỏi Bàn Tử. "Mà thật ra khi nhìn kỹ sẽ thấy, chỗ mốc đó là một người bị ép bẹp lên tường, thi thể thối rữa rồi mọc nấm."

Chúng tôi bước đến gần bức tường nấm mốc dọc theo rìa hồ nước. Vì vậy phải giẫm lên cả đám nấm, tôi không ngừng ho sù sụ, không hiểu sao mấy thứ nấm mốc đó khiến phổi tôi rất khó chịu.

Đến gần rồi, khoảng cách giữa chúng tôi và rìa hồ chỉ còn tầm ba đến bốn bước chân, tôi thấy hơi bất an. Mực nước rất cao, lại đục ngầu, nếu trong đó có ma nước thì chỉ cần vươn tay là kéo được tôi xuống. Tôi cố ý nghiêng người, không để lưng quay về phía hồ nước rồi liếc mắt nhìn sang mảng mốc to tướng kia. Chắc chắn không phải là người bị dán vào tường, nhưng mùi thối nồng nặc khiến tôi chắc chắn có gì đó bên dưới lớp nấm đó.

Tôi và Bàn Tử lục tìm được một cục đá ở bên cạnh, Bàn Tử gan hơn, còn rửa sạch dưới nước, còn tôi thì cố chịu đựng lớp bùn thối bám trên đó. Cả hai cùng cạo sạch đám mốc, chúng tôi nhìn thấy trên bức tường phía sau, bức bích họa đã bị phá hỏng, có ai đó dùng thứ gì đó vừa thối vừa nhớp bôi lên ba chữ to.

"Ngươi—sắp—chết?" Bàn Tử đánh vần từng chữ. "Có nghĩa là gì vậy?"

Vừa dứt lời, tôi thoáng thấy một bóng đen lao vọt lên từ bể nước từ khóe mắt, mặt nước tung tóe, một cái miệng đỏ lòm há to lao thẳng về phía mắt cá chân tôi, là một con cá lớn.

Tôi phản xạ cực kỳ nhanh, lập tức bật lên như con khỉ, con cá đó cắn hụt, đâm thẳng vào tường. Tôi bị hất vào đống đá, gần như rơi nửa thân người xuống nước, tôi lật người rồi nhảy trở lại bờ theo phản xạ.

Bàn Tử chửi ầm lên, vớ lấy cục đá đập thẳng vào đầu con cá, con cá lập tức quay đầu lao xuống nước, tạo thành một cột nước lớn. Tôi rọi đèn pin xuống, thấy trong nước lấp loáng toàn bóng cá, chẳng khác gì Hoa Cảng Quan Ngư(2). Một cái hồ nhỏ xíu mà lại chen chúc đầy những con cá lớn kiểu đó.

Tôi và Bàn Tử đứng bất động, không dám nhúc nhích, mãi đến khi mặt nước dần trở lại yên tĩnh, Bàn Tử mới nói: "Thiên Chân, đây là cái bẫy của chú Ba cậu."

Hắn vừa dứt lời, một con cá lớn khác bất ngờ lao lên khỏi mặt nước, nhằm thẳng vào Bàn Tử mà cắn. Con cá này còn nhanh hơn con trước, Bàn Tử giơ tay lên đỡ, đèn pin đập vào đầu cá, nhưng lớp vảy sắc nhọn trên thân nó lập tức rạch một mảng da lớn trên tay Bàn Tử, máu túa ra hòa vào trong nước.

"Đừng nói gì nữa, chạy!" Tôi hét lên rồi ngã nhào về phía lối vào. Bàn Tử cũng lao theo sau, cả hai lăn lộn ngã chồng lên nhau. Chúng tôi quay đầu lại, thấy trong hồ nước đầy rẫy những bóng đen to lớn hơn hẳn lúc nãy, dường như bị mùi máu của Bàn Tử hấp dẫn nên trở nên kích động dữ dội.

----

(*) Ông cụ Lôi: Nhân vật Lôi Bản Xương trong Điếu Vương (truyện mừng năm mới 2016)

(1) Thái Sơn Thạch Cảm Đương có nghĩa rất đơn giản là: đá của Thái Sơn có thể chống đỡ được tất cả mọi thứ. Đây là Linh Vật Hóa Sát khá phổ biến trong Phong Thủy, nhất là ngoài miền Bắc. Thạch Cảm Đương đã có lịch sử lâu đời, những ghi chép sớm nhất về Thạch Cảm Đương xuất hiện từ đời Hán.

(2) Hoa Cảng Quan Ngư là một địa điểm nổi tiếng tại Tây Hồ, Hàng Châu, Trung Quốc, được biết đến là một trong mười cảnh đẹp của Tây Hồ. Đây là một khu vườn rộng lớn, nổi bật với ao cá đỏ và các cảnh quan thiên nhiên, đặc biệt là nơi du khách có thể ngắm cá và thưởng ngoạn vẻ đẹp của hoa lá.


Chương 18: "Hà Mộc Tập"


Đây thực sự là một cái bẫy. Chú Ba dụ người xuống để làm mồi cho cá, tại sao?

Tôi suy nghĩ một hồi, thấy không ổn. Những ký hiệu bên ngoài rất rõ ràng, chứng tỏ chú Ba muốn có người xuống đây, rồi những kẻ đó sẽ chết ở nơi này. Khi có người đến ngôi chùa ngầm vì điều tra chuyện này, nhìn thấy ký hiệu rồi tiến vào, họ sẽ tiếp tục lần theo các manh mối bên dưới. Lúc ấy, chắc chắn đám vi khuẩn trên tường sẽ thu hút họ. Khi họ lại gần quan sát, sẽ rất dễ bị lũ cá này tấn công bất ngờ.

Lẽ nào không phải là chú Ba muốn tôi điều tra toàn bộ chuyện này, mà là tôi bị người khác giật dây? Họ lợi dụng chú Ba để lôi kéo tôi vào vụ này, bắt tôi đi qua cái bẫy mà chính chú Ba đã giăng ra? Cũng có thể. Nhưng cũng không loại trừ khả năng chú Ba biết Muộn Du Bình ở bên tôi, nên những cái bẫy này sẽ vô dụng với tôi. Có lẽ chú ấy không quan tâm chuyện mình từng đặt bẫy, mà chỉ muốn tôi nhúng tay vào chuyện này. Chẳng qua hẳn là chú ấy không ngờ tôi lại sống buông thả thế này, lại còn tách khỏi Muộn Du Bình để hành động riêng.

Nhưng cái bẫy này trông cũng được tạo ra từ nhiều năm trước rồi. Tôi và Bàn Tử thở hồng hộc, Bàn Tử nhìn vết thương rồi chửi: "Có Paraquat(1) là tôi đổ cả tấn xuống đấy. Đám này là cá gì vậy?"

"Cá lớn từng này, thời xưa chắc đã gọi là 'rồng' rồi." Tôi thở hổn hển đáp. Dòng sông ngầm ở đây vốn đã có nhiều truyền thuyết về các vực sâu ăn thịt người, xem ra đều do đám cá quái dị này gây ra. Nhiều nơi có hệ thống sông ngầm phức tạp đều lưu truyền những câu chuyện tương tự kiểu bò rơi xuống hố, kéo lên chỉ còn lại bộ xương, trên xương vẫn còn vết cắn. Đoán chừng cũng do loài cá này gây ra.

Thông thường cá sống trong sông ngầm rất nhỏ, lại còn mù. Đám này cũng có vẻ là dựa vào thính giác, nhưng với kích thước này thì chứng tỏ bên dưới còn có những hồ nước khổng lồ, có thể sâu tới hàng trăm mét. Tuy nhiên, tôi không tin trong các sông ngầm ở Trung Nguyên lại có loài cá nước ngọt hung dữ tự nhiên như vậy. Chắc chắn chúng được người xưa mang từ nơi khác tới, không rõ là nhóm người xây miếu Long Vương nước tù thuộc triều đại nào, chắc chắn là tác phẩm của họ.

Tôi và Bàn Tử nhìn nhau, hắn hất tay cho văng hết máu, tôi lại lôi đồng xu ấy ra, thầm nghĩ rốt cuộc chú Ba muốn làm gì? Lẽ nào năm xưa chú đặt bẫy ở đây là vì đấu với ai?

"Chú ấy không nhằm vào mấy tên trộm mộ bình thường đâu. Mấy tay trộm vớ vẩn nhìn thấy đống báu vật trên kia là sáng mắt lên rồi, chẳng đời nào để ý tới tảng đá này cả. Chú ấy nhắm đến mấy người lần theo manh mối của công trình 044. Chỉ có mấy người như thế mới chẳng quan tâm kho báu mà lùng sục khắp nơi." Tôi nghĩ vậy rồi đỡ Bàn Tử đứng dậy.

Bàn Tử bảo: "Thế sao chúng ta lại dính chưởng? Chúng ta đâu phải là cao thủ gì." Tôi đáp: "Chú Ba đâu biết bây giờ chúng ta tỉnh táo đến mức mấy món châu báu kia chẳng còn mấy sức hút. Tảng đá trông có vẻ chẳng có gì đặc biệt kia lại thu hút chúng ta."

"Thôi mặc kệ đi, đợi đội khảo cổ xuống điều tra toàn diện sẽ lòi ra hết dấu vết thôi. Người ta đông lại có phương pháp khoa học. Chúng ta lo phục vụ cho giáo sư Tề là được. Nếu đây là bẫy thì chắc chắn không chỉ có một cái. Đến lúc đó mà giáo sư chết thì khổ." Bàn Tử nói.

Hai chúng tôi rời khỏi hồ Sấm, quay lại sân rồi tiến thẳng về gian sau tìm giáo sư Tề, quả nhiên ông ta đang ở đó.

Gian sau xây trên một tảng đá cao hơn, do thế đất khác nhau nên sân nhỏ hơn, chất đầy đá, có vẻ là vật liệu xây dựng chưa dùng đến. Hai bên có cầu thang lên theo hình chữ nhân(2), đứng ở gian sau có thể nhìn bao quát gian trước và gian giữa. Nếu đủ ánh sáng còn có thể nhìn thấy cả bia Cực Hải.

Đây là nhà thờ họ(3) riêng của Dương gia, bên trong bày đầy bài vị tổ tiên, tất cả đều mang họ Dương. Khá giản dị, không có đồ tùy táng, mang phong thái của người tu đạo. Giáo sư Tề đang nằm gục trên bàn thờ, tôi ngẩn ra một lúc, nghĩ bụng giáo sư là người Dương gia à? Sao lại nằm đó khóc lóc nhận họ nhận hàng thế này?

Chúng tôi tiến lại gần, chiếu đèn pin xung quanh, vừa nhìn rõ cảnh tượng trong nhà thờ họ thì toàn thân tôi dựng hết cả tóc gáy. Bốn phía nhà thờ họ đầy rẫy bia đá và bia gạch, lớn nhỏ đủ loại, thoạt nhìn dễ lầm tưởng là các tấm bia khắc nét chữ của người nổi tiếng. Nhưng hoa văn trên những tấm bia này thì tôi quá quen thuộc, chúng đều đến từ các ngôi mộ cổ khác nhau, là những văn bia ghi chép tiểu sử của chủ mộ. Trên đỉnh mỗi tấm bia đều treo một dải lụa dài, trên đó chi chít chữ nhưng không phải là kinh văn, cũng chẳng phải thần chú.

Tôi soi đèn đọc thử một dòng, bên trên ghi rõ lai lịch của tấm bia, mang ra từ ngôi mộ nào, đã lấy thứ gì từ đó và đặt nó ở đâu trong này. Mục đích không phải để lấy tiền tài mà là để tu tiên. Ngay cả vị trí mộ, cách vào và quá trình mở cũng đều ghi rõ ràng. Cuối cùng bao giờ cũng có một câu, hy vọng sau khi thành tiên sẽ trả mọi thứ về chỗ cũ, đưa trở lại phần mộ.

"Đừng nhìn nữa, Bàn Tử." Tôi thấy hắn đang tiến lại gần một tấm bia ngọc to nhất.

Chỉ nhìn là biết ngay tấm bia này thuộc loại khủng nhất ở đây. Chưa rõ là tiểu sử của ai nhưng chắc chắn đến từ một ngôi mộ huyền thoại. Về sau nếu đội khảo cổ xuống, kiểu gì cũng sẽ bị phong tỏa, chưa chắc được công bố sớm. Nếu bây giờ nhìn thấy, nhỡ đâu sau này có uống rượu lỡ miệng nói ra, bị người ta dò ra được, khớp với nội dung trên bia thì chắc chắn rước họa vào thân.

"Đây chính là phiên bản thực của ghi chép trộm mộ, là phiên bản 3D của "Hà Mộc Tập", còn sống động gấp mấy lần quyển mà ông cậu để lại cho cậu đấy." Bàn Tử nói. "Bàn Gia mà không nhìn thử thì làm sao yên tâm được? Nếu nhìn xong mù mắt, tôi chỉ dùng một mắt thôi, tôi nhất định phải nhìn."

Tôi thở dài, đành mặc kệ hắn.

Tôi quay sang nhìn giáo sư Tề, cảm thấy ông ta có gì đó rất bất thường. Dưới người toàn là nước, nằm úp bất động. Lẽ nào thấy mấy tấm bia này xong thì lên cơn đau tim? Tôi vội vàng đỡ ông ta dậy, nhưng vừa lật người lại thì hoảng đến mức ngã ngửa ra sau, miệng ông há to, cả khuôn mặt khô tóp lại, chuyển sang tím tái, hai mắt trợn ngược.

Trên mặt và cổ đầy những vết bầm do xuất huyết dưới da, làn da trông lỏng lẻo như da người vừa giảm cân cấp tốc, chưa kịp đàn hồi lại nên chảy xệ thành từng nếp gấp. Toàn thân như thể đang tan rã nhanh chóng, ông ta sắp biến thành một cái xác rỗng.

Tôi bắt mạch ông ta, tim không còn đập. Ông ta thật sự đã chết.

Tôi ấn thử lên người, nhận thấy nhiều chỗ gần như đã bị "đục rỗng" từ bên trong, cảm giác như đang chạm vào một quả bóng xì hơi.

"Bàn Tử, có chuyện rồi!" Tôi gọi to.

Bàn Tử bước lại gần, nhìn thấy cảnh tượng ấy bèn nhìn tôi một cái. Tôi lại nhìn vệt dấu chân ướt mà giáo sư Tề để lại khi đi vào, bỗng dâng lên cảm giác rằng có lẽ ông ta đã cận kề cái chết từ trước, chỉ nhờ vào niềm đam mê mãnh liệt với sự nghiệp này mà gắng gượng được đến đây. Ông ta đã được toại nguyện, nhìn thấy thứ mình mong mỏi, coi như cũng trọn vẹn rồi.

Chúng tôi luôn dành sự kính trọng cho những người sống vì đam mê và lý tưởng.

Bàn Tử vỗ vai tôi: "Những phát hiện này đều là công lao của ông Tề. Giờ phải tìm cách liên lạc với người ở trên, đưa ông ta ra ngoài."

Tôi thở dài, chuyện này đâu đơn giản như vậy. Đúng lúc đó tôi thấy Bàn Tử bò lên bàn thờ tổ, cúi người vái một cái, sau đó đi kiểm tra sau mấy hàng bài vị, không thấy gì bèn quay lại nói với tôi: "Phải quay lại gian trước, chỗ tượng thần Sấm, tôi muốn tháo cái roi sắt kia xuống."

"Giờ này mà anh còn nghĩ đến chuyện mò đồ à!"

"Ông Tề chết ở đây rồi, giờ mà tôi còn tham thì còn là người à?" Bàn Tử nói, liếc nhìn những tấm bia rồi nói tiếp: "Ông ta chết ở đây chính là để canh chừng chúng ta. Ông ta biết báu vật thật sự ở đây. Lão già nhỏ con này đầu óc cũng ghê gớm lắm. Tôi cần cái roi sắt để làm theo cách của cậu, dùng đùi câu cá. Nhưng chúng ta phải có vũ khí phòng thân đã." Nói rồi, Bàn Tử nhìn miệng giáo sư Tề, lại ấn nhẹ lên người ông ta rồi nhìn tôi lần nữa: "Cơ thể ông ta bị đục rỗng phải không, miệng há to như vậy, có khi nào có thứ gì đó đã chui ra từ trong người ông ta không?"

Tôi nhìn cái cổ gần như bị rách toạc của giáo sư Tề, cũng bắt đầu nghi ngờ phải chăng có thứ gì đó đã chui ra từ khí quản? Trước đó bọn họ bảo mấy cái xác trong này đều rất nhẹ, có lẽ hiện tượng "bị đục rỗng" kỳ quái này chính là nguyên nhân khiến trọng lượng giảm đi?

Bất chợt, con mắt bên trái của giáo sư Tề khẽ xoay về một hướng.

-------

(1) : Loại muối này là một trong những loại thuốc diệt cỏ được sử dụng rộng rãi nhất. Nó hoạt động nhanh và không chọn lọc, giết chết mô cây xanh khi tiếp xúc.

(2) Chữ nhân: 人

(3) hay từ đường là một ngôi nhà dành riêng cho việc thờ cúng tổ tiên của một dòng họ hay từng chi họ tính theo phụ hệ. Nhà thờ họ phổ biến trong văn hóa người Việt tại khu đồng bằng và trung du Bắc Bộ và Trung Bộ.


Chương 19: Giun dẹp khoang xanh


Tôi và Bàn Tử cùng hít sâu một hơi. Có thứ gì đó đang chuyển động trong tròng trắng mắt của ông ta, trông như thể có sinh vật ký sinh bên trong vậy. Chúng tôi ghé sát lại, Bàn Tử chiếu ánh sáng mạnh của đèn pin vào lòng trắng mắt của giáo sư Tề, phát hiện ra toàn bộ nhãn cầu đã mỏng đi rất nhiều, bên trong còn có vảy lấp lánh.

Là một con cá nhỏ! Toàn bộ nhãn cầu như một quả trứng sắp nở, con cá bên trong đã hình thành đầy đủ nhưng vẫn chưa phá kén chui ra, chỉ đang chờ khoảnh khắc phá vỡ lớp vỏ.

Tôi liếc nhìn Bàn Tử. Dù kể ra thì nghe không quá đáng sợ, nhưng khi tận mắt chứng kiến, quả thật khiến người ta rợn tóc gáy. Tôi lại nhìn sang mắt còn lại của giáo sư Tề, còn kinh khủng hơn, có đến hai con cá trong con mắt đó. Dường như thủy tinh thể bên trong đã bị hòa tan, cá có thể bơi nhẹ trong đó.

Thực ra bên dòng sông ngầm khá mát mẻ, cũng không quá ẩm thấp, quần áo lặn và tóc chúng tôi gần như đã khô. Ngoài chuyện mặt đất gồ ghề khiến bàn chân hơi đau thì nơi đây còn dễ chịu hơn cả ở phía trên.

Nhưng sau khi nhìn thấy mắt của giáo sư Tề, tôi mới nhận ra nơi này không hề mát mẻ mà là lạnh lẽo. Không biết là do nhiệt độ giảm khi chúng tôi vào đây hay là do tâm lý tôi.

"Bị ký sinh rồi sao?" Bàn Tử định dùng dao rạch nhãn cầu của giáo sư Tề nhưng tôi ngăn lại. Nếu để lại vết dao, lát nữa sẽ càng khó giải thích. Tôi bảo hắn soi đèn cho tôi rồi ấn vào thân thể giáo sư Tề, cởi áo ra thì thấy trên thân thể có thêm nhiều vết bầm giống như ở cổ, đều là vết bầm dài dạng sợi. Những vết bầm đó bắt đầu từ phần dưới cơ thể, lan dần lên, qua cổ và cuối cùng đến não. Tôi phỏng đoán: "Có thể đây là đường ký sinh của loài cá này, xâm nhập từ hậu môn rồi bơi ngược lên."

Tôi lần theo đường đó, thấy các vùng bị bầm đều bị sụp xuống nghiêm trọng, mỡ và cơ thịt bị tan chảy nhiều nhất.

"Có vẻ sau khi loài cá này vào cơ thể người sẽ làm tan rữa mô, bơi ngược lên và cuối cùng vào mắt nên mắt giáo sư Tề mới tan chảy thế này."

"Tôi nhớ hình như từng nghe về kiểu ký sinh như này, gọi là gì nhỉ?"

"Là giun dẹp khoang xanh(1)." Tôi nói. Có một thời gian tin tức về nó từng gây sốt, là một loài ốc sên mới, sau khi bị ký sinh sẽ bò lên ngọn cây, hai mắt phồng lên và giật giật như đang múa. Mắt của nó có hoa văn đầy màu sắc, động đậy nhìn rất gây ám ảnh, khiến người ta nổi da gà. Vũ điệu này hấp dẫn sự chú ý của các loài chim và ốc sên sẽ bị chim ăn, giúp sán chui vào ruột chim để đẻ trứng.

Tôi không rõ loài cá này có điều khiển được hành vi của giáo sư Tề không. Theo lý thuyết sinh học thì kiểu ký sinh này có thể điều khiển não người, tạo ra ảo giác muốn nhảy xuống hồ. Cực Hải ở ngay bên ngoài, nếu đúng vậy thì lẽ ra giáo sư Tề đã chạy về phía đó, nhưng ông ta lại dẫn chúng tôi đi vào trong. Có vẻ như những người mang theo nỗi ám ảnh rất khó bị thao túng.

Không biết loài cá này có chủ yếu ký sinh trong xác chết chết đuối hay không, còn như trường hợp giáo sư Tề, chưa chết mà vẫn bị ký sinh và bò lên bờ thì chắc là hiếm gặp?

"Nếu để mặc bọn cá ký sinh này ăn hết giáo sư Tề, tôi đoán ông ta sẽ bị ăn đến mức chỉ còn lại lớp da giống mấy cái 'xác tiên'. Đợi thêm chút nữa có khi thật sự chỉ còn lại một lớp da thôi." Bàn Tử nói với tôi. "Cầu trời đừng có lây nhiễm. Tốt nhất là lôi ra đạp chết luôn đi."

Tôi lắc đầu, chuyện này không thể đùa được. Phía trên là đội khảo cổ chính quy, tôi thật sự không thể nào giải thích nổi việc vì sao sau khi giáo sư Tề vào đây lại toàn thân đầy vết dao, rồi lại nói là bị cá ký sinh. Người trong nghề thì có thể tin chứ người ngoài chắc chắn không chấp nhận.

Nghĩ vậy, tôi lại sờ thử người Bàn Tử. Dù sao chúng tôi cũng đã xuống nước, vẫn nên cẩn thận. Vừa ấn vào, tay tôi đã đầy mồ hôi. Tôi bóp nhẹ mồ hôi đó, thấy rất dính, bèn nhìn sang mặt Bàn Tử. Sắc mặt hắn thay đổi: "Không sao, chỉ là mồ hôi dính thôi."

Đúng lúc đó, tôi nhìn thấy một thứ gì đó lóe lên trong lòng trắng mắt Bàn Tử. Hắn thấy sắc mặt tôi thay đổi thì lập tức im bặt. Tôi nhìn chằm chằm vào mắt hắn, dù ánh sáng chỉ lóe lên một thoáng nhưng tôi chắc chắn trong mắt hắn có thứ gì đó. "Anh dính chưởng rồi, Bàn Tử."

Nhưng Bàn Tử lại nói với tôi: "Giáo sư Tề động đậy rồi."

Tôi lập tức quay lại. Trong ánh sáng mờ mờ của bóng tối, giáo sư Tề thật sự đang bò dậy khỏi mặt đất, chậm rãi bò đi như một con lười.

"Giáo sư Tề?" Tôi tưởng vừa rồi ông ta chỉ giả chết, chưa tắt thở hẳn, bèn chiếu đèn pin vào mặt ông ta. Hai mắt ông ta đang đảo loạn theo hai hướng ngược nhau, mũi gần như dán xuống đất như thể đang lần theo dấu chân của chính mình lúc nãy rồi bò tiếp về phía trước.

"Cậu đoán xem ông ta định đi đâu?" Bàn Tử hỏi.

Rõ ràng dấu chân ướt là từ dưới nước lên. Có thể loài cá này điều khiển được não người chết, khiến xác bám theo dấu chân quay ngược lại chỗ nước ban đầu?

Giờ chúng tôi chỉ có hai chiếc đèn pin. Tuy ánh sáng rất mạnh nhưng đại điện phía sau vô cùng rộng lớn, xung quanh lại hoàn toàn tối đen. Lúc trước ở trong sân, vì xung quanh đều là châu báu phản chiếu nên chỉ cần soi một chỗ, những chỗ khác cũng sáng theo. Nhưng ở đây thì không, khi chiếu vào xác giáo sư Tề, những nơi khác vẫn đen kịt. Nhìn cái xác bò từng chút một như vậy, lông tôi dựng hết cả lên.

"Trong tròng mắt anh có thứ gì đó." Tôi vừa nhìn giáo sư Tề vừa nói với Bàn Tử. "Có thể anh cũng bị cá ký sinh rồi. Nhìn mắt tôi xem."

Tôi vạch mí mắt một bên ra cho Bàn Tử nhìn, còn mắt kia vẫn không rời giáo sư Tề. Tôi nghĩ thầm, chúng ta phải mau chóng rời khỏi đây, nếu chết ở đây thì quá không đáng. Bàn Tử nhìn vào mắt tôi, nói: "Không nhìn rõ lắm, nhưng hình như có bóng mờ. Cậu vẫn nhìn rõ chứ? Cậu có thấy có cái bóng nào bơi qua trước mắt không?"

Đầu tôi "ong" lên một tiếng, lúc trước không cảm thấy gì, nhưng giờ thì rõ ràng mắt tôi căng tức, có cảm giác như có dị vật bên trong. Tôi định dụi mắt theo phản xạ thì bị Bàn Tử giữ chặt lại. Tuy vậy, thị lực của tôi vẫn bình thường, cũng không rõ loài cá này ký sinh kiểu gì.

Lúc ấy, giáo sư Tề đã bò ra ngoài hơn chục mét. Khi tôi chiếu đèn pin lại, phát hiện ra ông ta đã đứng dậy, quay đầu nhìn về phía chúng tôi, nét mặt cứng đờ, lạnh lẽo đến rợn người.

----

(1) là một loài giun sán ký sinh trong họ Leucochloridiidae. Đây là loài giun ưa ký sinh trong ốc sên, sau đó điều khiển vật chủ bò ra chỗ thoáng để thu hút các loài chim săn mồi. Chúng có khả năng kiểm soát những tế bào thần kinh vận động của vật chủ, biến nạn nhân thành một thây ma.


Chương 20: "Câu" cá


Trong mắt giáo sư Tề, tất cả những con cá đều đã nở ra, mắt cá áp sát vào lòng trắng, nhìn ra ngoài. Cả hai mắt ông ta giống như mắt kép(1), đang nhìn chằm chằm về phía chúng tôi.

Tôi và Bàn Tử cứ thế đối mặt với thi thể của giáo sư Tề. Dưới ánh sáng mạnh từ đèn pin của chúng tôi, chắc chắn một người bình thường đã phải nhắm mắt lại từ lâu, nhưng những con mắt nhỏ trong mắt kép của ông ta vẫn không ngừng chuyển động, hai mắt xoay tròn như kính vạn hoa, cực kỳ kỳ dị.

Bỗng nhiên, giáo sư Tề mở miệng nói chuyện. Có vẻ cổ họng ông ta cũng đã bị phân hủy, tiếng nói phát ra lèm bèm không rõ, nhưng có thể thấy ông ta đang cố gắng giao tiếp với chúng tôi.

Giáo sư Tề nhìn chúng tôi bằng ánh mắt âm u rợn người, cất giọng ngắc ngứ: "Mệt quà nì ngật(2)."

Bàn Tử nheo mắt, hơi ngạc nhiên, nói nhỏ: "Chưa chết à? Vậy mau kéo ông ta ra ngoài, còn có thể cứu." Nói rồi định bước lại gần đỡ giáo sư Tề.

Tôi lập tức chặn Bàn Tử lại. Khi giáo sư Tề nói chuyện, toàn thân ông ta gần như đã phân hủy, nước dãi liên tục chảy xuống, người cúi rạp, đôi mắt là mắt kép. Trong trạng thái này, ông ta đã không còn là con người nữa. Dường như cổ ông ta không thể chống đỡ nổi, đầu lúc lắc liên tục. Ông ta nghiêng đầu tiếp tục lặp lại: "Mệt quà nì ngật."

"Nghĩa là gì?" Bàn Tử hỏi. "Mệt rồi à? Mệt thì ông đừng bò nữa."

Giáo sư Tề vẫn tiếp tục phát ra những âm thanh kỳ quái, nghe như đang nói gì đó nhưng ông ta không thể nói rõ ràng. Đột nhiên, thi thể của giáo sư Tề bất ngờ nứt toác ra, da thịt và cơ bụng của ông ta không còn chịu nổi sức nặng từ nội tạng bên trong, lập tức vỡ toang, để lộ hết toàn bộ phần nội tạng.

Dưới ánh đèn pin cường độ cao, ruột của ông ta đã trở nên trong suốt, bên trong toàn là những "con mắt nhỏ". Nhưng thực ra, những "con mắt nhỏ" đó đều là cá con, nội tạng của ông ta gần như đã biến thành những "bọc trứng", chứa đầy cá bên trong.

Giáo sư Tề từ từ ngồi thụp xuống, giống như một quả bóng xì hơi, không còn cử động gì nữa, đầu gục hẳn xuống.

Tôi và Bàn Tử kinh hoàng tột độ, đứng chờ một lúc, thấy ông ta thật sự không nhúc nhích nữa mới dám tiến lại gần. Bàn Tử cúi sát xem kỹ đống "bọc trứng" đó, không rõ nguyên lý hoạt động là gì mà khiến nội tạng con người trở nên trong suốt như vậy, tất cả gần như đã tan chảy.

Tôi bỗng nhận ra thi thể ở nơi này đều thoát xác theo kiểu như vậy. Tôi nói với Bàn Tử: "Những cái xác ở đây, phần thịt và nội tạng đều bị loài cá này ăn sạch, chỉ còn lại lớp da nên mới nhẹ như thế."

"Rốt cuộc vừa rồi Giáo sư Tề đã chết chưa? Sao lại nói với chúng ta mấy câu đấy?" Bàn Tử hỏi tôi.

Rốt cuộc những lời ông ta nói là thật sự muốn truyền đạt gì đó hay chỉ là tiếng động vô nghĩa từ thân xác bị thao túng, đến giờ không ai biết chắc được.

Tôi nhìn đồng hồ, nói với Bàn Tử: "Bàn Tử, chúng ta không còn nhiều thời gian đâu, cùng lắm là mười lăm phút nữa thôi."

"Là sao?" Hắn ngớ ra.

"Tôi nghĩ khả năng cao là cả tôi và anh đã bị nhiễm rồi. So với thời điểm giáo sư Tề tử vong thì cùng lắm chúng ta chỉ còn khoảng bốn mươi phút nữa là sẽ thành ra như vậy. Nếu muốn sống thì sau mười lăm phút tới nhất định phải rút khỏi đây, như thế sẽ còn lại hai mươi lăm phút để chạy đến phòng y tế chữa trị."

Mặt Bàn Tử tái mét: "Giờ muốn ra ngoài chỉ còn cách thử chiêu hồi nãy cậu nghĩ ra. Mà đó là cách liều mạng, chưa chắc hiệu quả. Hay là viết di chúc trước đã?" Tôi nhìn phần nội tạng của giáo sư Tề, nghĩ đến bức bích họa ở gian trước, cảm thấy nội tạng này chắc còn có ích hơn đùi của mình, bèn quay sang tìm một lá cờ còn nguyên vẹn, giật xuống, bọc lấy đống nội tạng đó.

Mùi hôi thực sự rất khủng khiếp. Tôi ôm đống nội tạng ấy chạy như điên cùng với Bàn Tử. Bàn Tử thì đi lấy thanh gươm đồng treo trên cửa mộ lúc mới vào, còn tôi thì quay lại gian trước lấy chiếc roi sắt.

Tôi và Bàn Tử đến bên bờ hồ Sấm. Bàn Tử tìm một tảng đá, đập mạnh vào đống nội tạng của giáo sư Tề, mấy con cá nhỏ bên trong lập tức bị nghiền nát thành bùn cá. Hắn ném một nửa xuống nước, nửa còn lại thì treo lên tảng đá bên bờ. Tôi cầm roi sắt, Bàn Tử giơ đèn pin, cả hai cùng co người ở một góc.

Thanh gươm đồng lúc trước được hắn đập cong bằng đá, uốn thành móc câu hai đầu. Một đầu móc vào đám nội tạng, đầu kia thì móc chặt vào kẽ đá dưới nền hồ Sấm. Chúng tôi còn dựng thêm một chiếc đèn pin khác lên một tảng đá bên cạnh làm điểm chiếu sáng thứ hai, để lát nữa có chuyện gì còn nhìn thấy được.

Chẳng bao lâu sau, mặt nước bắt đầu lăn tăn, có thứ gì đó đang khuấy động bên dưới. Tôi và Bàn Tử liếc nhìn nhau, tôi nói: "Hình như loài cá này rất thính. Lúc ra tay phải nhanh—" Chưa kịp nói hết câu, một bóng đen đã lao vụt từ dưới nước lên, táp luôn phần nội tạng còn lại trên bờ.

Miệng con cá rất to, nuốt trọn đống nội tạng rồi định rút lui, nhưng Bàn Tử móc câu rất chắc, lưỡi câu là đầu thanh gươm đồng móc thẳng vào hàm nó. Tôi hét lên một tiếng, lao tới, giáng roi sắt thẳng vào đầu con cá. Cú quật đó như đập vào tảng đá, tóe lửa. Không ngờ trên đầu con cá lại có gắn một chiếc gương đồng, như thể đội mũ giáp. Cổ tay tôi đau nhói nhưng vẫn tiếp tục vụt một roi nữa lên thân nó, toàn thân phủ đầy tiền đồng hoen gỉ, vậy mà tôi lại cảm thấy gần như không hề gây tổn thương gì. Roi sắt cào qua lớp vảy nhưng chẳng để lại dấu vết gì.

Tôi ngạc nhiên vô cùng. Tôi biết mình ra tay rất mạnh, đến mức có thể khiến một con bò nứt sọ, vậy mà thứ này lại không hề hấn gì?

Bàn Tử lao tới chửi: "Cậu đúng là ra tay càng ngày càng kém!" Sau đó giật lấy cây roi của tôi, định đâm vào mắt con cá. Nhưng đúng lúc đó, con cá bất ngờ quẫy mạnh, một vệt máu phụt ra từ miệng nó, lưỡi câu bằng đồng lập tức tuột ra. Nó định quay đầu chuồn xuống nước. Bàn Tử lập tức nhào tới, tóm lấy mang cá hai bên, cả người lẫn cá cùng ngã nhào xuống nước. Tôi sững lại vài giây mới nhận ra, không phải là chúng tôi đang câu cá, mà là Bàn Tử bị cá câu đi rồi.

Nếu là Muộn Du Bình, lát nữa y sẽ nhảy vọt lên khỏi mặt nước, tay xách theo ruột cá, tôi cũng chẳng thấy lạ. Nhưng đây là Bàn Tử, khả năng cao là lát nữa hắn sẽ nổi lềnh bềnh, lưng ngửa lên, tôi lật người lại thì thấy nội tạng đã bị ăn sạch.

Bàn tay còn lại của Bàn Tử vẫn đang cầm đèn pin, ánh sáng dưới nước trở thành một điểm sáng chớp nháy liên tục. Tôi không nghĩ nhiều, lập tức giật mạnh thanh gươm rồi cũng nhảy xuống. Kết quả là vừa đúng lúc Bàn Tử đang nổi lên muốn bò lên bờ, tôi lao xuống lại đè trúng hắn, làm hắn chửi ầm lên rồi lại bị tôi kéo tụt xuống nước lần nữa.

Vừa ngã xuống nước, đầu tôi như nổ tung. Từ trên mặt nước nhìn xuống chẳng thấy gì, dù tôi biết dưới đó đầy cá nhưng vẫn phải đoán xem số lượng là bao nhiêu. Giờ vừa xuống nước, tôi lập tức cảm thấy rõ bên dưới toàn là mấy con cá quái vật đó, mỗi con dài gần bằng người tôi. Vừa duỗi tay ra đã chạm ngay vào mấy đồng tiền cổ đính trên da cá, mấy con cá đó lặng lẽ bơi lướt qua ngay sát bên người.

Tôi lập tức bật ngửa trồi khỏi mặt nước, đèn pin trong tay Bàn Tử quét thẳng vào mắt tôi, suýt nữa làm tôi mù. Hai chúng tôi hoảng loạn bò vội lên bờ, lũ cá quái dị kia lại chẳng đuổi theo tấn công chúng tôi.

Chúng tôi thở hổn hển, nhìn mặt nước đang gợn sóng. Bàn Tử nói: "Có phải vừa rồi tôi liều quá không?"

Tôi bảo: "Liều hay không không quan trọng, vấn đề là chúng ta tiêu thật rồi."

Hai chúng tôi đều chán nản. Nội tạng mất rồi, cá không bắt được, lát nữa có khi bọn tôi cũng sẽ biến thành cái xác bọc trứng với mắt kép, bị đám cá gặm sạch, thoát xác ngay tại đây. Bàn Tử ngẫm nghĩ một chút, bất ngờ bật dậy, giật lại roi sắt và thanh gươm đồng trong tay tôi rồi tụt luôn quần lót ra, buộc roi và gươm vào bắp chân.

Vì chỉ có một cái quần lót nên buộc không chắc, hắn quay sang nhìn tôi. Tôi bắt gặp ánh mắt quyết tâm đó, đồng thời cũng thấy ánh sáng như vảy cá lấp lánh trong lòng trắng mắt hắn. Biết không cần nói nhiều nữa, tôi gật đầu dứt khoát rồi cũng tụt quần lót ra đưa cho hắn. Chúng tôi gần như trần truồng nửa người dưới, Bàn Tử đưa đèn pin cho tôi, còn hắn thì cầm một tảng đá rồi từ từ nhúng chân xuống nước.

Cây roi sắt và thanh gươm đồng này là để ngăn cá cắn xuyên qua thịt bắp chân hắn hoặc cắn gãy xương. Dù vậy, nếu cá ngoạm đúng chỗ hiểm, chân Bàn Tử vẫn có thể bị cắn nát.

Nhưng Bàn Tử chấp nhận đánh cược.

"Nếu tôi bị tàn phế, cậu nhớ nuôi tôi nốt nửa đời còn lại—Á!"

Chưa kịp dứt câu đùa, đúng lúc chân hắn vừa nhúng xuống nước, mặt nước bỗng rung lên. Một con cá như tên biến thái háu gái lao ra, ngoạm trúng bắp chân Bàn Tử, kéo hắn rơi tõm xuống nước.

Cá dưới nước khỏe kinh khủng. Vì một chân hắn ở dưới, chân kia vẫn còn trên bờ, cú ngoạm mạnh làm hắn bị kéo thành tư thế xoạc chân. Gần như cùng lúc đó, tôi nghe thấy một tiếng "rắc" ở ngay bẹn Bàn Tử, sau đó hắn gào lên: "Á! Thiên Chân, kéo! Kéo—"

Tôi kẹp chặt nách Bàn Tử, hai tay kéo mạnh về phía sau, phần eo và bụng dùng hết sức, lực kéo cũng khá mạnh. Một cái đầu cá trồi lên khỏi mặt nước. Có phải là con tôi vừa đánh trúng lúc nãy không thì tôi cũng chịu.

Con cá quái dị đó ngoạm chặt lấy bắp chân Bàn Tử, hắn hét lên: "Túm lấy mang của nó!"

Tôi lập tức buông tay lao tới, đâm thẳng tay vào mang con cá. Bên trong toàn là gai ngược, tay tôi vừa chạm vào đã bị rách toạc, máu me đầm đìa. Tôi gào lên một tiếng, vẫn cố nhét tay sâu hơn nữa, không bao lâu sau đã lần tới được bắp chân của Bàn Tử. Nhờ có thanh gươm đồng móc ngược, con cá lại bị mắc vào, không vùng ra được. Tôi luồn tay nắm lấy roi sắt buộc ở chân hắn, Bàn Tử hét lớn: "Lên—!"

Hai chúng tôi cùng dồn sức, nhưng con cá quái vật này khỏe như bom, chúng tôi hoàn toàn không lay chuyển nổi. Tôi từng đi câu ở biển nên biết rõ, mấy con cá cỡ này mà ở trong nước thì trong hai mươi phút đầu gần như luôn chiếm ưu thế tuyệt đối. Chúng tôi lại chẳng có cần câu, không thể dụ nó từ từ được.

Lúc ấy Bàn Tử mới bắt đầu cảm thấy đau, hét loạn lên: "Giết nó! Giết nó!"

Tay tôi bị những cái gai trong mang cá cứa rách tả tơi, máu thịt bầy nhầy, không còn chút sức nào nữa mà con cá kia vẫn không ngừng vùng vẫy, mỗi cú giật của nó gần như lôi cả tôi và Bàn Tử ngã lăn xuống nước. Tôi hét lớn, nhìn xuống nước thấy toàn là máu, máu của tôi, của Bàn Tử, cả máu của con cá, tất cả hòa thành một dòng đỏ ngầu.

Đúng lúc tôi đang tuyệt vọng không biết làm gì thì mặt nước bỗng nổ tung, một cột nước khổng lồ hất chúng tôi ngã lăn quay. Một cái bóng to lớn xuất hiện dưới nước, lớn hơn cả con cá quái vật kia rất nhiều. Nó lao vọt từ dưới đáy lên, cắn phập một phát, ngoạm nửa thân dưới của con cá đang bị chúng tôi giữ lại.

Tôi và Bàn Tử ôm lấy nửa thân trên đứt lìa của con cá, ngã lăn ra bờ, trố mắt nhìn mặt nước gợn sóng, chết lặng.

"Cái quái gì vậy?"

Cái bóng khổng lồ vừa rồi phải to gấp ba lần con cá mà chúng tôi đang giữ. Theo lẽ thường, dù có chênh lệch kích thước, cá cùng loài cũng không đến mức tự cắn xé nhau kiểu đó. Tôi nhìn hồ nước đỏ ngầu máu, bỗng có một suy nghĩ, có khi nào máu của chúng tôi đã kích thích bản năng săn mồi của lũ cá? Sau đó con cá khổng lồ đó vốn định đớp chúng tôi nhưng lại đớp nhầm đồng loại?

Tôi bẻ miệng con cá ra, Bàn Tử rút chân ra khỏi miệng nó. Nhờ có roi sắt và gươm đồng buộc ở chân mà bắp chân hắn không bị cắn đứt. Hàm răng cá bị kẹt giữa hai lớp kim loại, dù một vài chiếc vẫn xuyên được vào thịt khiến vết thương rất sâu, nhưng nếu không có hai món đó thì chắc giờ chân hắn chỉ còn dính mỗi khúc xương. Máu từ chân hai đứa tôi chảy dài từ bờ xuống tận chỗ chúng tôi đang ngồi, nhìn mà rùng mình, vết thương thảm không nỡ nhìn.

Tôi chợt nhận ra rằng cơ hội ban đầu của chúng tôi đã tan thành mây khói. Con cá lớn như thế, nếu còn dùng bất kỳ bộ phận nào trên cơ thể làm mồi nhử thì nó chỉ cần đớp một phát là chúng tôi toi mạng. Nhưng đồng thời, một cơ hội khác lại xuất hiện, tôi phát hiện ra những con cá này cực kỳ nhạy cảm với máu.

Tôi cầm lấy đèn pin, dặn Bàn Tử nằm im còn mình thì chạy ra ngoài, lao tới chỗ có chậu cây cảnh, nhổ hết san hô ra, cẩn thận đặt sang một bên, sau đó đổ hết mã não dùng làm đất ra rồi ôm nguyên cái chậu chạy thẳng về phía hồ Sấm.

Đó là một chậu sứ men đỏ đời Hồng Vũ. Tôi ôm chậu quay lại, thấy Bàn Tử đang trốn trong một góc nhưng sắc mặt của hắn trông có vẻ không ổn. Tôi rọi đèn pin ra mặt nước thì thấy con cá lớn lúc nãy đã quay lại từ lúc nào, lơ lửng trên mặt nước. Lần này có thể nhìn rõ hơn một chút, thứ đó trông giống cá mà cũng chẳng giống cá, bởi vì nó có rất nhiều tay.

—-----

(1) là loại mắt cấu tạo từ nhiều đơn vị thị giác nhỏ, gọi là ommatidia, xếp cạnh nhau như các ô trong tổ ong. Mỗi ommatidia có một thấu kính riêng và hướng về một phía khác nhau, giúp côn trùng có trường nhìn rộng và khả năng phát hiện chuyển động tốt.

(2) Chỗ này giáo sư Tề nói lắp bắp, không rõ chữ, chỉ nghe loáng thoáng có chữ "mệt".

Bản này được sao lưu từ website Nhị Đạo Bạch Hà. Nếu bạn đọc nội dung này ở nơi khác, đó chắc chắn là bản reup.

Bạn đang đọc truyện trên: truyentop.pro