3.

Chương 3.

“Mệt quá…”

Tôi buông một tiếng thở dài, khẽ vùi mặt vào lớp chăn mềm đã được trải sẵn trên giường. Đầu ngón tay còn chưa kịp cảm nhận hết hơi ấm vải vóc, tôi đã nghe thấy một giọng nói áy náy cất lên bên cạnh.

"Kita-san, xin lỗi anh."

"Đâu phải lỗi tại em đâu, Osamu.”

“Chắc tại lâu rồi cha mẹ mới gặp anh nên họ mới nhiệt tình như vậy… khiến anh phải tiếp chuyện tới mức kiệt sức thế này.”

“Không sao, cũng tại anh nán lại hơi lâu.”

Kết quả là hôm nay tôi vẫn chưa thể đặt chân lên gác xép như dự định. Đó là bởi ngay lúc thấy Osamu dẫn tôi về, trưởng làng đã lập tức hủy bỏ kế hoạch ra ngoài, sau đó kéo tôi vào cuộc hàn huyên tâm sự tưởng chừng không có điểm dừng, từ lúc nắng còn treo đầu ngọn tre cho đến khi màn đêm buông xuống

Tôi liên tục bị hỏi dồn dập về tình hình cuộc sống dạo gần đây, về mùa vụ trong vườn thế nào, cả mấy mẩu hội thoại vu vơ với Ren, thậm chí còn phải đọc lại nguyên văn nội dung cuốn sách gần đây nhất tôi đã đọc. Tôi vừa dứt lời thì cả phòng liền vỗ tay tán dương, như thể tôi vừa trình bày xong một bài diễn thuyết vậy. Bộ đây là cái hội nghị hả? Osamu phải khó khăn lắm mới lấy được chìa khóa, nhưng cuối cùng thì… với tình trạng bị giám sát kỹ lưỡng thế này, chúng tôi cũng chẳng thể làm được gì.

Trưởng làng còn đặc biệt hào hứng hỏi về cuốn sách mà Ren mua cho tôi, và cả những nội dung tôi đã đọc trong nhà thờ. Sau khi nghe xong, ông ấy cứ tấm tắc khen: "Kita-kun đúng là thông minh thật.”, khiến tôi cũng không biết đáp lại gì hơn ngoài ngại ngùng cúi đầu cảm ơn. Suốt cả ngày, tôi cũng cảm nhận được ánh mắt vị hôn phu của mình ái ngại dán chặt lên tôi. Giữa chừng thì phu nhân trưởng làng cũng nhập cuộc, nên Osamu cũng chẳng còn đường thoát. Khi chúng tôi để ý thì trời đã khuya, màn đêm đã buông xuống,  và tôi không còn cách nào khác đành phải ngủ lại.

Thật ra tôi đã cố từ chối. Tôi nói nhà mình gần lắm, chỉ cần đi bộ một chút là tới. Nhưng luật làng không cho ai rời nhà sau khi mặt trời đã khuất bóng, phòng khi có yêu quái hồ ly bất ngờ xuất hiện. Đây là một trong những quy tắc được đặt ra sau khi số người mất tích một cách bí ấn càng ngày gia tăng.

Tệ hơn nữa, phu nhân còn nhiệt tình đề xuất rằng: “Hay là Kita-kun ở lại đây luôn đến khi Ren quay về đi?”, làm tôi nghe mà thấy chóng cả mặt.

“Dù gì thì mùa xuân năm sau con cũng sẽ dọn đến đây sống rồi mà. Ở sớm hơn một chút cũng đâu có sao, con nhỉ?”

Bà ấy cười dịu dàng mà nói, còn tôi chỉ có thể nở nụ cười khách sáo, đáp lại bằng một tiếng “à… ừm…” lửng lơ. Có vẻ rằng với họ, chuyện tôi kết hôn với Osamu đã là điều hiển nhiên, không còn gì phải bàn cãi.

Vẫn còn áp má vào gối, tôi nghe giọng nói ân cần của Osamu vang lên, nhẹ nhàng kéo tôi ngẩng đầu lên.

“Anh có lạnh không? Em pha ít trà cho anh nhé?”

"Nè, em thật sự thấy ổn với chuyện này sao?”

"Dạ?”

"Ý anh là, em sắp bị ép cưới một người do cha mẹ sắp đặt rồi. Ngoài kia còn nhiều người tốt hơn hơn anh mà.”

“Nhưng Kita-san là một người tốt mà…”

“Anh không có ý đó.”

Tôi ngắt lời cậu ấy. Nghe vậy, Osamu ngồi xuống bên mép giường tôi, ánh mắt mơ hồ như đang suy ngẫm điều gì đó xa xăm.

"Ý anh là… kết hôn với người mình yêu, kiểu như vậy sao? Nhưng chuyện đó, trong làng mình chỉ có trong truyện cổ tích thôi.”

Phải rồi, cậu ấy nói không sai. Dẫu cho có một số ít người vì yêu nhau mà nên duyên, nhưng cái gọi là ‘tình yêu đích thực’ chẳng mấy khi bén rễ, thứ tình cảm lãng mạn ấy dường như chỉ tồn tại trong những cái ngày xửa ngày xưa mà thôi.. Với tộc cáo, hôn nhân chỉ đơn thuần là để duy trì nòi giống, hoặc củng cố mối quan hệ giữa các nhánh trong tộc. Tôi đã hỏi một câu quá ngớ ngẩn, dù thừa biết rằng hôn nhân sắp đặt vốn là điều hiển nhiên ở đây.

Osamu thoáng im lặng, ánh mắt chợt hạ xuống.

“Thật lòng thì… em cũng chẳng biết nữa. Từ nhỏ đến giờ, tất cả những gì em được dạy là nhất định phải tiêu diệt con cáo trong lâu đài đó. Ngoài chuyện đó ra, em không nghĩ đến điều gì khác. Lúc cha mẹ nói em cưới anh, thì em cũng chỉ nghĩ đơn giản… Kita-san là người em quen biết, lại còn là một người tốt, nên nếu kết hôn với anh làm cha mẹ yên tâm, thì vậy cũng được.”

Sự thật là, giữa tôi và Osamu đâu có thứ gì gọi là tình ngay lý gian gì. Dù đang ngồi cạnh nhau trên cùng một chiếc giường, quan hệ của chúng tôi cũng chỉ là một đôi hôn phu trên danh nghĩa. Nghĩ đến trọng trách của Osamu và biểu cảm méo mó của cậu như đang đấu tranh với chính mình, tôi không thể nào trách cậu ấy được.

Osamu có quá nhiều gánh nặng trên lưng. Người đàn ông đã được định sẵn sẽ trở thành trưởng làng, sớm muộn gì cũng phải thực hiện nhiệm vụ trừ khử con yêu hồ kia để duy trì sự tồn tại của ngôi làng.

Nhưng mà… nếu tôi cảm thấy đáng tiếc cho cậu ấy, thì có phải là tôi quá ích kỷ không? Cả gia đình trưởng làng đều đối đãi rất tốt với tôi, tôi đâu có quyền nghĩ như vậy. Chỉ là, với tư cách là một người bạn thân thuở nhỏ của Osamu, tôi vẫn luôn mong cậu có thể sống một cuộc đời tự do hơn.

“Xin lỗi, tự nhiên anh hỏi linh tinh làm em khó xử.”

"Không sao ạ. Nhiều khi, em cũng chẳng hiểu nổi chính mình nữa. Mỗi lần ở một mình trong phòng, em cứ ngồi ngẩn ra, đầu óc trống rỗng. Nhưng mà, khi nói chuyện với anh thì cảm giác mất mát ấy lại vơi đi, nên nhẹ đầu hơn hẳn.”

Thấy nụ cười gượng gạo của cậu, tôi chỉ lặng lẽ kéo cậu về phía giường. Khi tôi trêu: "Có cần anh ru ngủ không?", Osamu cũng lập tức đáp lại bằng giọng đùa: “Tại sao không chứ?” rồi tinh nghịch nằm phịch xuống.

“Cảm giác đó… là cái kiểu thất thần như hồi còn nhỏ hả?”

Tôi hỏi, tay vỗ nhẹ vào bụng Osamu như thể đang dỗ dành một đứa con nít. Đó là chuyện từ hồi bé tí, khi mà Osamu gần như chẳng bao giờ ra khỏi nhà. Cậu ấy luôn rên rỉ than lạnh, cơ thể lờ đờ, bảo thấy người mình kỳ lạ. Chân thì lúc nào cũng đau, miệng bảo không thích ở một mình, thế mà lại cứ mãi ru rú trong phòng, không chịu ló mặt ra ngoài. Cũng vì biểu hiện như vậy mà người lớn trong làng lúc ấy lo sốt vó, bàn tán không ngớt về việc “Liệu đứa nhỏ đó có thực sự đủ tư cách để trở thành trưởng làng kế nhiệm không?”. Quả thật là vô duyên hết sức.

Nghe tôi hỏi, Osamu khẽ lẩm bẩm.

“Ừm… chắc là vậy. Mà em cũng không chắc nữa. Có khi chỉ là do đói bụng thôi.”

“Gì vậy chứ?”

Thế mà tự dưng tôi lo lắng làm gì không biết. Tôi bật ra tiếng thở dài đầy ngán ngẩm, còn Osamu thì cười khúc khích, vẻ thích thú.

"Xin lỗi anh nha… Mong là ngày mai tụi mình có thể lên gác mái ha.”

"Ừ."

Và rồi, chúng tôi chúc nhau ngủ ngon. Tôi cuộn người lại trong chiếc chăn đã được chuẩn bị từ trước, để lại phía sau một ngày dài trôi qua trong lặng lẽ.

Đêm hôm ấy, tôi cứ nghĩ rằng kiểu gì ngày mai cũng sẽ được về, rằng phu nhân chỉ nói đùa thôi. Ai mà có ngờ, bà ấy lại hoàn toàn nghiêm túc, buộc tôi ở lại nhà trưởng làng gần một tuần.

Họ cứ hỏi tôi hết chuyện này đến chuyện khác, hễ tôi lỡ miệng nói chưa từng thử qua điều gì là họ sẽ lại nài nỉ bắt tôi làm cho bằng được, rồi nhân cơ hội đó kéo dài thời gian tôi ở lại. Họ chiếm gần như hết mọi thời gian trong ngày của tôi. Đừng nói là lên gác mái, đến cả việc bước đến gần cầu thang tôi còn không có cơ hội. Tôi đã suy nghĩ đến việc sẽ lẻn đi vào ban đêm khi mọi người trong nhà đã ngủ say, nhưng vệ binh của trưởng làng luôn túc trực canh gác không rời nửa bước. Tôi cùng Osamu có vài lần thò đầu ra hành lang để thăm dò, xem thử liệu có lúc nào họ lơ là cảnh giác hay không, kết quả chẳng thu được gì đánh kể, chỉ đành chấp nhận bỏ cuộc.

Kể cả khi tôi nài nỉ họ cho tôi về vì lo lắng cho ruộng nhà mình lâu ngày không chăm nom, phu nhân cũng chỉ cho phép tôi ghé về nhà một lát, với điều kiện phải đi cùng Osamu và vệ binh. Tôi chỉ có thể về chăm sóc vườn rau và đàn gà, rồi đến tối lập tức lại bị dẫn về. Mỗi lần như vậy, trưởng làng và phu nhân đều sẽ lại nói câu quen thuộc:

“Dù gì thì khi mùa xuân tới, con cũng sẽ sống với nhà chúng ta thôi mà.”

Nhìn họ nhắc đi nhắc lại với nụ cười hiền như được lập trình sẵn, tôi đã thấy phát ngán với câu nói ấy đến tận cổ. Tới ngày mà Ren hứa sẽ quay về, tôi hạ quyết tâm phải rời đi. Tôi nhất quyết khước từ những lời giữ chân của phu nhân, chỉ kịp cúi đầu xin lỗi Osamu, rồi tôi phóng nhanh ra cửa chính, gần như bỏ chạy khỏi căn nhà đó.

Rốt cuộc cũng chẳng thu hoạch được thông tin gì đáng kể. Dường như là cường độ mùi hương ấy có phần thay đổi, nhưng thành thật mà nói, mũi tôi cũng đã quen dần với cái mùi kì lạ ấy từ khi nào không hay.

A, ghét thật chứ. Rốt cuộc, tôi vẫn chẳng thể tin tưởng hoàn toàn vào trưởng làng và phu nhân ông ta, mặc cho họ đối đãi tốt với tôi đến thế.

Tôi lao xuống dốc, vội vã băng qua đài phun nước. Như mọi ngày, ánh mắt xung quanh hướng về tôi vẫn đầy dè chừng, lạnh lẽo, nhưng hiện tại thì tôi cũng chẳng còn bận tâm nữa. Tôi đã hy vọng rằng khi mình trở về, sẽ thấy Ren đã có mặt ở nhà. Trái ngược hoàn toàn với kì vọng của tôi, ngôi nhà vẫn im lặng như tờ, mọi thứ vẫn y nguyên như lúc tôi rời đi cùng Osamu. Sao vậy nhỉ, cậu ấy sẽ về trễ sao?

Mặc cho cơn mệt mỏi xâm chiếm lấy cơ thể, tôi vẫn cố gắng đứng bếp, nấu một nồi súp thơm ngon để đón chờ người bạn cùng nhà trở về. Trong lúc khuấy súp, tôi bồn chồn liên tục đánh mắt về phía chiếc đồng hồ. Tôi mãi nghĩ về những chuyện mà tôi sẽ kể khi cậu ấy về, cho đến khi không còn tâm trí quan tâm đến chúng được nữa.

Không ổn, đã trễ quá rồi. Mặt trời đang khuất dần dưới chân đồi. Dù cho có muộn đến đâu, Ren cũng phải về từ đầu giờ chiều là trễ nhất. Bởi càng về đêm, nhiệt độ sẽ càng giảm, nguy hiểm dọc đường cũng sẽ nhiều hơn. Đó là lý do vì sao cậu ấy sẽ không đi đường khi màn đêm đã buông xuống. Với kinh nghiệm dày dặn của Ren, cũng khó mà tin được rằng cậu ấy lại đi lạc đường mà về trễ.

Cứ đứng ngồi không yên mãi vì lo lắng, tôi liền bước ra ngoài. Nhưng khi đứng trên đỉnh đồi nhìn xuống khu rừng rậm rạp, tôi vẫn chẳng thấy bóng dáng người bạn của mình đâu. Lạ thật đấy. Hay là cậu ấy quyết định dời chuyến đi lại một ngày? Nếu Ren ở lại thành phố qua đêm rồi ngày mai mới xuất phát, thì sẽ chẳng có gì đáng lo.

Tôi đi một vòng quanh nhà, dạo qua thửa ruộng, đến tận lúc mặt trời đã hoàn toàn khuất bóng vẫn chưa thấy Ren đâu. Khi tôi đang định bụng rằng có lẽ mình nên đi ngủ trước thì–

Có tiếng vó ngựa vang vọng từ phía xa.

Giật mình, tôi liền nheo mắt nhìn về phía khu rừng và bắt gặp con ngựa đen thân thuộc mà mỗi ngày tôi cùng Ren vẫn luôn chăm sóc. Dù bộ lông đen óng của nó đã hòa lẫn vào màn đêm, tôi vẫn chắc chắn đó chính là ngựa của nhà mình. Bước chân tôi loạng choạng chạy về phía nó, con ngựa kéo chiếc xe hàng vang lên tiếng lộc cộc, dậm vó liên tục đầy kích động. Tôi vội vã đưa tay vừa xoa vuốt nó, vừa lên tiếng dỗ dành “Ổn rồi, bình tĩnh nào”. Dần dần, nó cũng dịu xuống, nhưng vẫn có điều gì đó không ổn.

Yên ngựa vẫn còn y nguyên trên lưng nó, vậy thì tại sao Ren lại không có ở đây? Kiểm tra xe hàng cũng thấy trống trơn, không có chút sự hiện diện nào của người bạn tôi đang mong chờ. Đôi mắt con ngựa hốt hoảng đảo quanh liên tục, đầu nó run rẩy lắc qua lắc lại trông vô cùng sợ hãi.

“Này… Chuyện gì đã xảy ra? Ren đâu rồi?”

Giọng tôi có hơi run run khi cất câu hỏi. Nhưng loài ngựa vốn đâu thể trả lời tiếng người, nó chỉ lặng lẽ cụp mắt xuống, dáng vẻ đầy u sầu. Một linh cảm không lành dấy lên trong lòng tôi.

Tôi gắng gượng nuốt xuống nỗi lo lắng đang dâng trào lên cổ họng, tay cố gắng kéo con ngựa vào chuồng và cởi dây buộc xe. Khi tôi đặt trước mặt nó đống cỏ khô và nước sạch, nó mới phì một tiếng, thả lỏng và bắt đầu thè lưỡi uống. Nhìn nó ăn uống no nê, tôi lập tức quay trở lại nhà. Mặt trời đã lặn cách đây không lâu, mà nhiệt độ đã giảm xuống đáng kể, vì vậy tôi vội vã chạy lên tầng hai, khoác vào chiếc áo khoác mùa đông, kiểm tra lại bếp lửa cẩn thận rồi nhanh chóng quay lại chuồng ngựa.

“Xin lỗi mày nhé, cố chạy thêm chút nữa được không?”

Tôi khẽ vuốt ve cái bờm đen tuyền để trấn an nó. Con ngựa đang gặm nốt phần cỏ khô trong miệng khe khẽ hừ mũi, trông có phần không cam tâm nhưng vẫn ngoan ngoãn cho phép tôi gỡ hết hành lý trên lưng nó xuống và nhảy lên lưng.

"Này, cậu tính đi đâu? Ra ngoài ban đêm là phạm luật đấy.”

Một giọng nói vang lên từ phía sau, khiến tôi theo phản xạ quay đầu lại. Nhìn bộ đồng phục mà người kia khoác trên người, tôi đoán đó là lính canh gác. Ánh sáng loe lói từ chiếc đèn lồng trên tay anh ta chiếu rọi lên từng đường nét gương mặt, trông còn khá trẻ, có vẻ là cũng chỉ tầm tuổi tôi. Nhưng chiếc băng tay trên vai đã khẳng định chắc chắn anh ta là thành viên đội tuần tra của làng. Không ngờ rằng ngay cả ngọn đồi rìa làng này cũng không thoát khỏi con mắt của họ. Tôi nhẹ nhàng vỗ lên cổ con ngựa yêu quý để giữ nó bình tĩnh.

Sự nhiệt tình với công việc của anh ta thật khiến tôi thở dài một tiếng trong lòng. Bắt thì bắt lúc nào khác đi, cứ phải ngay lúc này vậy?

“Bạn cùng nhà của tôi vẫn chưa về. Tôi chỉ đi xem thử cậu ta đang ở đâu thôi.”

“Cậu không biết luật làng à? Ban đêm không ai được ra ngoài. Nhỡ chẳng may gặp phải hồ ly yêu quái thì sao?”

"Thì đó, tôi cũng đang lo bạn tôi bị chúng tấn công đây."

Đến thời gian liếc nhìn nhau một cái còn chẳng có, lấy đâu tâm trạng mà đứng đôi co với anh ta. Tôi sốt ruột liếc mắt sang thanh kiếm bên hông đối phương, thấy rằng anh ta không hề có ý định rút ra, vậy thì chẳng cần bận tâm làm gì nữa. Tôi siết chặt dây cương, chuẩn bị xuất phát.

"Dừng lại!"

Trên đời làm gì có ai lại đứng yên khi bị gọi vậy chứ?

Không chút do dự, tôi liền thúc gót vào bụng ngựa, giật dây cương và lao đi. Gần như ngay lập tức, tiếng bước chân dồn dập vang lên hòa lẫn vào nhịp vó ngựa.

"Tôi sẽ báo cho trưởng làng! Cậu đang vi phạm luật đấy!”

Tiếng hét xé toạc màn đêm, và chỉ vài phút sau, âm thanh của chiếc chuông báo động đã vang ầm ĩ khắp làng. Tôi nghiến răng, không nhịn được mà tặc lưỡi một cái. Chuông đã động rồi, thì chắc chắn sẽ có thêm lính canh tập hợp lại để đuổi theo tôi. Nhưng thế thì tôi càng không thể dừng lại.

Tôi nhất định phải tìm ra Ren trước khi bị họ bắt về.

Việc con ngựa nhà chúng tôi quay về một mình nghĩa là đã có chuyện gì đó xảy ra với cậu ấy. Nếu may mắn, tôi mong rằng cậu ấy chỉ là bị ngã ngựa. Nhưng về đêm thì khu rừng sẽ trở thành lãnh địa của lũ sói hoang. Dù cho có là một nhân hồ có vóc dáng cao lớn đi chăng nữa, nếu bị thương thì một mình cũng khó mà chống chọi nổi với đàn sói.

Cậu đang ở đâu? Làm ơn, hãy an toàn.

Tiến vào sâu trong khu rừng rậm rạp, con đường mòn mà ban ngày có thể dễ dàng nhìn thấy - giờ gần như đã bị màn đêm phủ kín hoàn toàn. Tôi thầm biết ơn chú ngựa thông minh của mình vì nó vẫn biết cách men theo lối quen thuộc để di chuyển. Giờ tôi chỉ có thể cố gắng căng mắt, dựa vào ánh trăng mờ ảo để quan sát.

Không có một dấu hiệu nào của con người cả, chỉ đôi khi nghe được thoang thoáng được tiếng thú rừng và côn trùng xung quanh. Hay là Ren đã bị ngã ngựa ở ven rừng phía bên kia? Nếu vậy thì liệu cậu ấy có quay lại thị trấn phía đông an toàn không nhỉ?

Cũng lâu lắm rồi tôi mới ra khỏi địa phận của làng. Đã vậy, từ trước đến giờ, tôi vẫn luôn tránh vào rừng hết sức có thể. Không như những nhân hồ thuần chủng như Ren và Osamu, tôi lại thiên về hình dạng con người nhiều hơn, cũng vì vậy mà chẳng mấy tự tin về sức mạnh của mình. Có lẽ tôi vẫn mạnh hơn con người bình thường đôi chút, nhưng nếu bị sói rừng hay thú ăn thịt tấn công, chắc chắn tôi chỉ có nước bỏ chạy.

Tôi kéo dây cương, giảm tốc độ của ngựa xuống mức tối thiểu để tránh gây tiếng ồn, làm kích động đám thú hoang. Càng đi sâu vào rừng, cây cối càng dày đặc và che lấp tầm nhìn hơn, khiến tôi dần mất phương hướng.

Lúc tôi vừa bắt đầu thấy lo rằng không biết liệu mình có tìm được đường quay về không, thì tiếng sói tru lên từ xa đột nhiên xộc thẳng vào màng nhĩ. Cả người tôi giật nảy lên theo phản xạ. Không ổn rồi, nếu để chúng đến quá gần, chúng sẽ đánh hơi thấy tôi ngay.

"Này… mày lạc Ren ở đâu vậy?"

Tôi thì thầm với con ngựa đen. Nó khẽ hất đầu về phía trước rồi tiếp tục đi thẳng như muốn nói rằng “hướng này”. Chẳng bao lâu sau, nó đột ngột dừng chân tại một khoảng đất trống.

Là ở đây sao?

Tôi ngẩng đầu lên, và thấy một cánh cửa sắt to khổng lồ hiện ra trước mắt.

Cánh cổng trông rất cũ kỹ. Dây thường xuân quấn kín những thanh sắt trông như đã vỡ nát, kì lạ thay, chúng không có vẻ gì là bị rỉ sét. Khác hẳn với con đường mòn chìm trong bóng đêm và bị cây cối che khuất lúc nãy, nơi này được ánh trăng trên đỉnh đầu sáng rực bao phủ. Cánh cổng mở hé, đủ rộng để cho một người có thể lách qua, và trên đất có vết dấu chân dẫn vào bên trong. Hai bên thành cổng là những bức tường đá cao sừng sững.

Và ở phía sau cánh cổng đó, ở cuối con đường in đậm dấu chân, là một tòa lâu đài khổng lồ vươn lên ngạo nghễ giữa màn đêm tăm tối.

"... Đừng có đùa chứ."

Tôi lẩm bẩm, rồi nhảy xuống ngựa. Phía xa xa, tôi lại nghe thấy tiếng sói tru vọng đến. Trên bầu trời, ánh trăng đang dần bị che khuất bởi những lớp mây trôi qua. Kể cả trong bóng tối mịt mù, tòa lâu đài vẫn không hề mất đi sự hiện diện uy nghiêm của nó. Không hề có bất kì ánh sáng nào le lói từ bên trong tòa thành, vậy mà hình dáng của nó vẫn hiện lên một cách rõ ràng đến lạ.

Tôi cầm dây cương, chậm rãi kéo con ngựa tiến gần hơn. Khi đẩy cổng ra, tôi quan sát những dấu giày trông còn khá mới đang in đậm trên mặt đất, kéo dài đến tận cửa chính của lâu đài. Kích cỡ đó.. trông có vẻ giống giày của Ren. Hoặc có lẽ tôi chỉ đang tự ám thị bản thân vậy thôi.

Tôi cố gắng mở cánh cổng đã phủ đầy rêu dại sao cho đủ rộng để dắt cả ngựa vào. Cùng với nó, tôi men theo khu vườn hoang tàn, lướt qua một đài phun nước đã cạn khô từ bao giờ. Đến gần hơn, tôi mới nhận ra chỉ có hai chiếc lò lửa ở hai bên cửa chính là còn đang cháy. Có người ở đây sao? Nếu là lũ hồ ly yêu quái, tôi cũng không biết liệu mình có thể thương lượng với chúng hay không. Nỗi sợ hãi bất chợt dấy lên trong lòng tôi.

Dù vậy, tôi vẫn lo về sự an nguy của Ren hơn.

“Nếu có chuyện gì xấu xảy ra, mày tự chạy trốn đi nhé. Chẳng may khi trời sáng mà tao vẫn chưa quay lại, mày cũng phải tự quay về làng đấy, hiểu không?”

Tôi khẽ vỗ lên lưng con ngựa khi nó cọ mũi vào tay tôi, rồi thả dây cương ra. Đối diện với cánh cửa đồ sộ, tôi vươn tay nắm lấy chiếc vòng gõ cửa nặng trĩu, hít sâu một hơi, rồi mới gõ mạnh.

Âm thanh nặng nề đập vào tai, thình, thình, thình.

“Xin lỗi… Có ai trong đó không?”

Tôi căng tai lắng nghe, nhưng không có tiếng ai trả lời. Tôi quyết định gõ thêm lần nữa, nín thở chờ đợi. Lúc này, cuối cũng có tiếng động - một âm thanh mơ hồ truyền đến bên tai từ phía bên kia cánh cửa. Tôi đứng thẳng lưng, cả người căng cứng đầy cảnh giác. Bước một vài bước lùi về phía sau, tôi muốn có thể sẵn sàng quay lưng bỏ chạy bất cứ khi nào nếu có điều gì không ổn xảy ra. Mắt tôi căng thẳng dán chặt vào cánh cửa trước mắt đang chầm chậm hé mở. Hai cánh của cửa ra vào được mở ra, một khoảng chỉ vừa đủ cho một người đi qua.

Nhưng không có ai bước ra cả. Khi cố liếc nhìn vào bên trong, tôi không thể thấy gì khác ngoài một màu đen kịt.

“Tôi vào được chứ?”

Tồi cẩn trọng mở lời, và lần này, có tiếng người đáp lại.

“Cậu không phải con người, đúng không?”

Bạn đang đọc truyện trên: truyentop.pro