Chương 16 - Tòa tháp từ thuở hồng hoang(1)

Tòa tháp từ thuở hồng hoang

Ngọn núi Hollow

Sấm sét giáng xuống


Từ thuở hồng hoang - Thành phố tổ ong Hatay-Antakya, Vùng hoang mạc phía đông Phoenicium

"Chúng ta đã sẵn sàng rồi, thưa đại nhân." Người đàn ông đổ mồ hôi đầm đìa, những giọt mồ hôi chảy từ dưới chiếc mũ da đỏ xuống trán rồi đọng lại trên bộ râu.

Oll, ngoại trừ việc lúc này ông vẫn chưa phải là Oll, và sẽ không chấp nhận cái tên đó trong một thời gian dài, ông ta nhìn viên tướng lãnh, rồi nhìn xuống con dốc nơi những máy bắn đá nằm trên lớp bụi của vùng đồng bằng. Hai mươi chiếc cả thảy, dây thừng và gỗ đang bị kéo căng ra, các tổ vận hành đang chờ bên cạnh những đống đá tảng đã được kéo từ bờ sông. Không có cái cây nào ở đây đủ lớn để làm khung nên họ đã thả chúng trôi theo sông từ những khu rừng phía bắc. Chỉ có một phần tư số thân cây này đủ chắc chắn để sử dụng. Phần còn lại đã được dùng để làm lá chắn cho đội quân công thành tiến lên phía sau. Nếu ông xoay đầu lại, ông sẽ thấy được trại lính gần nhất, một đại dương mênh mông lều trại được bao quanh bởi hàng rào, khói từ bếp lửa bốc cao lên và đâm thủng trời xanh. Hàng ngàn chiến binh, không chỉ là những người nông dân được lôi ra từ mảnh ruộng của họ, còn có cả những chiến binh thực thụ được huấn luyện và ràng buộc với mục đích cao cả hơn.

Những ngọn cờ treo trong cái nóng tĩnh lặng trên các trại lính, hình ảnh của những con thú và ngọn lửa cùng những ký ức về vùng đất bị chinh phục nơi những quân đoàn này đến từ đó. Một đội quân để tái thiết lại thế giới này.

Oll quay lại nhìn viên tướng lãnh, người vẫn cúi đầu.

"Bắt đầu thôi", ông nói.

Viên tướng lãnh đứng thẳng dậy, đưa nắm đấm lên ngực và ra lệnh. Những lá cờ tung bay trong tay những lính truyền tin. Phía sau họ, tiếng tù và và kèn trận vang lên inh ỏi. Không khí rung chuyển trong tai Oll. Ở chân dốc, cánh tay đòn của máy bắn đá đầu tiên thả ra với một tiếng động mạnh. Tảng đá vẽ một đường cong trong không trung khi nó bị ném ra khỏi dây treo. Oll quan sát nó xoáy tròn rồi lại xoáy tròn, bay vút theo các tuyến phòng thủ ngoại vi. Mắt ông ngước lên nhìn ngọn tháp bên kia bức tường. Tòa tháp cao chót vót đâm xuyên vào bầu trời như một lời buộc tội. Những tầng đá và gạch có màu của lòng sông bị mặt trời thiêu đốt. Ông nhìn thấy những mái vòm, cửa sổ và giàn giáo bằng gỗ bao quanh điểm cao nhất như một chiếc vương miện.

Tảng đá bay cao đập vào lan can đầu tiên. Đá, gỗ và gạch bùn nổ tung trong không khí. Ngay cả qua làn khói nóng hổi, ông vẫn có thể nhìn thấy những binh sĩ chạy dọc theo đỉnh tường. Ông có thể tưởng tượng ra máu, những cơ thể bị đập vỡ, những tiếng la hét và gào thét.

"Hơi quá lâu rồi đấy," một giọng nói vang lên ngay phía sau lưng ông. Ông không quay lại khi trả lời, mặc dù ông không nghe thấy người bạn của mình đang cùng ông leo lên dốc.

"Bọn họ đang điều chỉnh lại tầm bắn", Oll nói.

Âm thanh của máy bắn đá tiếp theo vang lên khi ông nói xong, rồi cái máy bắn đá tiếp theo, và rồi tiếp theo nữa.

Thình thịch-thình thịch-thình thịch. Những tảng đá bay lên trời, rơi xuống như những chấm nhỏ.

Oll theo dõi tảng đá đầu tiên đập vào tường thành.

"Chúng ta nên cử thêm một sứ giả tới đó lần nữa xem sao", ông nói.

"Chúng ta đã đi qua thời điểm mà điều đó có thể tạo ra sự khác biệt rồi", người đàn ông kia trả lời.

Oll cau mày. "Chúng ta có bao giờ thực sự vượt qua thời điểm đó không?"

"Điều này cần phải xảy ra."

Oll không nói gì.

"Ông không đồng ý à?" người đàn ông kia hỏi.

"Nếu không đồng ý thì sao tôi lại ở đây , đúng không?" Oll nói. Ông đang quan sát các tổ vận hành kéo cánh tay đòn của máy bắn đá đầu tiên xuống. Hai người đang đổ mồ hôi như tắm khi kéo một tảng đá đến nơi dây treo đang hạ xuống trên mặt đất.

"Toà tháp này không được phép đứng vững", người bạn của ông nói. "Nếu nó đứng vững, thì những lời nói và sức mạnh mà nó nắm giữ sẽ lan truyền từ đây ra khắp thế giới."

Oll lại im lặng.

Mây tụ lại phía trên đỉnh tháp, màu trắng chuyển thành màu đen và xám. Sét chớp nhấp nháy bên trên công trình kiến trúc đó. Đội ngũ điều khiển máy bắn đá chùn bước khi tiếng sấm rền vang khắp cao nguyên. Mưa đá bắt đầu rơi.

Những binh sĩ truyền tin và tướng lãnh đang hét lớn, tiếng tù và vang vọng khắp các trại lính. Những người đàn ông chạy đi tìm vũ khí. Băng giá rơi xuống va vào áo giáp. Nửa bầu trời đen kịt, sôi sục, nhấp nháy. Những cơn gió xoáy bốc lên từ mặt đất làm băng và bụi bay lên không trung. Các máy bắn đá bắt đầu rung chuyển tại chỗ.

"Ông thấy rồi đấy, bạn tôi ơi," giọng nói từ phía sau Oll vang lên, át cả tiếng gầm của cơn bão. "Chuyện này cần phải chấm dứt."

Oll quay lại. Bạn ông đứng giữa đoàn quân đang chạy qua chạy lại và cơn mưa đá. Vòng lá bạc quanh đầu ông ấy sáng lên. Đôi mắt ông ấy tối sầm, tĩnh lặng, phản chiếu một tia sáng của cơn bão trong sâu thẳm đôi mắt. Ông ấy trông thật đáng thương, Oll nghĩ bụng, trông như một người mang đến tin xấu cho một tâm hồn không đáng phải chịu đựng sự tàn nhẫn đó.

Oll mở miệng định gọi tên bạn mình.

Và thế giới bỗng dừng lại.

Cơn mưa đá treo lơ lửng trên không trung. Tia chớp lóe sáng trên tấm vải đóng băng. Đoàn quân đang chạy và những cột không khí đang xoáy tròn bỗng đứng yên.

"Vậy ra đó là như thế này sao?" John Grammaticus hỏi . "Lúc đó là khi cả hai người vẫn còn trẻ."

"Chúng tôi chưa bao giờ là trẻ cả," Oll nói.

Oll quay lại và nhìn cơn bão phía trên tòa tháp, cơn lốc lạnh giá màu trắng và xám than.

"Tôi đang nằm mơ", Oll nói. "Đúng không?"

"Cả ông và tôi nữa," John đáp, và mỉm cười, nhưng Oll có thể thấy được sự mệt mỏi trong mắt ông ta. John đang mặc một chiếc áo choàng sa mạc phai màu kèm theo một chiếc găng tay. Những vết xước và vết bẩn loang lổ trên lớp da và cao su của bộ đồ. Oll có thể nhìn thấy các cạnh của tấm giáp gốm thép nhô ra qua những vết rách nhỏ trên áo choàng.

"Giống như một giấc mơ vậy," Oll nói.

John nhún vai. "Đó không phải là kiểu giấc mơ thông thường của ông."

Oll vẫn tiếp tục đào sâu.

John lắc đầu và phẩy tay. "Dừng lại đi. Tôi là tôi, thật đấy, được rồi chứ? Ông muốn có bằng chứng không? Vậy thì chúng ta sẽ đành phải rỗi hơi làm theo cách cũ nhé, bạn của tôi, nhưng chắc chắn rồi. Hãy hỏi tôi điều gì đó mà chỉ mình tôi biết."

Oll vẫn nhìn chằm chằm vào ông ta.

"Ông muốn hỏi gì hả?" John hỏi. "Cái lần đầu tiên chúng ta gặp nhau phải không? Màu của làn khói trên Sennchar? Hay tất cả những thứ chúng ta chưa từng nói đến từ lần tôi cố giết ông trên Oos-Lua? Không ai khác thoát khỏi điều đó, vì vậy khả năng ai đó có thể lừa được ông là rất nhỏ." John xoè tay ra và nhún vai theo cách mà ông ấy luôn làm trong nhiều thế kỷ. "Tôi chẳng còn lại gì nữa đâu, bạn già ạ, ngoại trừ những câu chuyện. Không có bùa hộ mệnh hay dấu hiệu gì hết. Rất lấy làm tiếc."

"Thôi được rồi," Oll nói sau một hồi im lặng.

"Điều gì đã thuyết phục ông?"

"Chỉ có ông mới có thể nói nhiều như vậy khi mà chưa có ai đặt câu hỏi nào cho ông," Oll nói. Ông cau mày, cúi xuống, và nhặt một nắm đất sắp trở thành bùn nhão khi mưa rơi xuống. Ông chà xát bùn qua ngón tay. Cảm giác sạn đất chân thật như đá lạnh trong của Mê Cung. Ông thả nó rơi xuống. Nó rơi ra khỏi tay ông cách một gang tay và đông cứng lại.

"Ma thuật phải không?" Oll hỏi.

John gật đầu.

"Bí mật và những giấc mơ vô tận. Đó là những gì chúng ta đang bị cuốn vào. Ở đâu đó ngoài kia, ông và tôi, và bất kỳ ai ông mang theo đều nằm trong đó, quấn đầy dây leo có gai, mơ về những bí mật sâu thẳm nhất của chúng ta."

John nhìn lên tòa tháp đang xây dựng dang dở và những tia sét đang lóe sáng phía trên.

"Tôi đang đi sâu vào quá khứ, Oll, chứng kiến mọi mảnh quá khứ mà tôi đã cố gắng hết sức để quên đi: Nurth, toàn bộ trò hề với hội Cabal, và trước đó nữa... Nơi này kéo ông xuống bóng tối rồi ném lại tất cả những thứ mà ông đang cố gắng che giấu."

"Vậy thì đây là một cái bẫy," Oll nói. "Chính là nơi này, và cả cái thông điệp của ông."

John cười.

"Một cái bẫy, nhưng không chỉ dành cho chúng ta, Oll. Chúng ta chỉ rơi vào đó. Đây là cái bẫy dành cho cả nhân loại. Tất cả những người mà ông thấy họ lũ lượt kéo nhau đến đây, họ đã chọn đến được đây, và ham muốn đó lớn đến mức họ từ bỏ mọi thứ để theo tiếng gọi của giấc mơ. Giống như tiếng còi báo động của ông vậy, Oll, những ai nghe thấy đều không thể không đứng dậy và đi theo nó."

"Tôi đã hiểu rồi," Oll nói. "Thành phố tổ ong này đang ăn thịt bọn họ."

John cắn môi và gật đầu.

"Tất cả những thứ ông từng mong muốn nhưng lại sợ hãi, tất cả nỗi kinh hoàng, tất cả những thứ ông có thể mơ ước được trao lại cho ông, vô hạn và đầy mời gọi. Đám con cái của Fulgrim đã gieo những hạt giống này, tôi nghĩ vậy, đã ủ chúng trong cái nhà kính này bằng máu và thứ bụi phóng xạ của warp từ những gì đang diễn ra ở dãy Himalazia." John dừng lại và rùng mình. "Đây là khu vườn của Fulgrim về những thú vui trần thế, viễn tượng của hắn ta về tương lai. Chúng đã đặt một cái tên cho nó là..."

"Thiên đường," Oll nói.

John gật đầu.

"Tôi xin lỗi, Oll," ông ta nói. "Tôi đến Hatay vì các lời tiên tri nói rằng đây là nơi mà ông sẽ đến." Ông ta cười khúc khích cay đắng. "Và ông đã đến, chỉ là không phải trước khi tôi đến mà thôi."

"Tôi đến đây vì ông," Oll nói. "Tôi đã nghe thấy giọng nói của ông."

John lại cười.

"Một vòng lặp tự gây ra, ông đến đây vì ông theo tôi đến đây. Tôi đến đây vì đây là nơi các điềm báo cho tôi biết ông sẽ đến."

Oll im lặng một lúc, ngước nhìn ánh nắng chói chang bất động và tia chớp lạnh giá.

"Chúng ta đã đi chệch hướng," Oll cau mày và nhìn John. "Ông nói ông đã đọc các điềm báo và chúng nói rằng tôi sẽ đến đây. Vì vậy, nếu ông nghĩ tôi đã đi quá xa, ông hẳn đã đến điểm hẹn ban đầu. Ông hẳn đã nhìn thấy Bà ấy..."

John gật đầu.

"Thực sự thì ông đã gặp được Bà ấy rồi à?"

"Vâng. Bà ấy không được vui vẻ gì lắm khi thấy tôi, nhưng vâng, tôi đã gặp được Erda."

Oll nhìn xuống con dốc, hướng về phía những đội quân đang xung phong trong áo giáp Hauberk và váy giáp xích. Đôi mắt hoang dại nhìn bầu trời đầy sấm sét, miệng há ra để hét lên.

"Tôi nhớ bà ấy", Oll nghe thấy mình lẩm bẩm. Đó không phải là điều ông định nói ra, nhưng rồi ông không chắc mình định nói gì. Ông cau mày, lắc đầu.

"Bà ấy không đi cùng chúng ta à?"

Cái nhún vai và nụ cười của John trông như là đang nhăn nhó.

"Bà ấy phái đi một người để giúp tôi, một chiến binh, và Bà ấy đã tiễn tôi lên đường. Tôi không thể làm được điều đó nếu không có Bà ấy. Ông biết Bà ấy rõ hơn tôi mà, Oll, nhưng có điều gì đó nói với tôi rằng Bà ấy đang ở bên chúng ta nhiều như lịch sử cho phép."

"Bà ấy vẫn còn rất giận dữ," Oll nói.

"Ừ, tôi nghĩ vậy. Giận Người, giận những gì Người đã làm, giận vì Bà ấy đã giúp Người làm ra hai mươi thứ đã khiến toàn bộ mọi thứ sụp đổ. Và trên hết, giận vì nếu Người thất bại thì mọi thứ sẽ chấm hết."

Oll lắc đầu, ánh mắt hướng về tòa tháp.

"Không," Oll nói. "Đó không phải là lý do tại sao Bà ấy tức giận." Lời nói của ông làm John cau mày. "Bà ấy vẫn tức giận về cùng một điều mà tôi đang tức giận."

John đến đứng cạnh ông. Oll cảm thấy gió thổi vào mặt. Phía trên ông, cơn bão đang chuyển hướng. Những tia chớp đông cứng đang chớp chớp. Một giọt mưa rơi xuống má ông. "Bà ấy tức giận về những gì đã xảy ra ở đây."

"Và chuyện đó là gì thế, Oll?"

Oll lắc đầu trả lời. Bộ áo giáp của ông đã biến mất. Bộ đồ rằn ri ông mặc khi họ thực hiện nhát chém cuối cùng đến Trái Đất vẫn còn treo lủng lẳng trên người ông. Tứ chi ông nặng nề hơn một chút, già hơn một chút, già hơn rất nhiều so với hồi đó, trước khi tòa tháp kia sụp đổ. Mưa rơi lộp độp trên vải áo. Ông có cảm giác rằng nếu ông quay lại và nhìn ra sau, ông sẽ thấy mình mặc toàn bộ áo giáp, đứng cạnh một người đàn ông mà ông gọi là bạn.

"Tôi hiểu rồi, Oll," John nói. "Ông mang trong mình lịch sử, và nhiều hơn hầu hết mọi người. Ngay cả khi ông không muốn kể cho tôi nghe về nó."

Lúc này mưa rất to; những người lính vẫn đang chạy. Sấm sét rung chuyển không khí. "Dù sao thì, tôi không nghĩ ông được quyền có lựa chọn."

Nước mưa đang chảy dài trên khuôn mặt John và chiếc áo choàng của ông ta ướt đẫm. "Đó chính là những giấc mơ này, Oll. Chúng không chỉ là một cái bẫy, chúng đang lấy đi những bí mật của chúng ta ở đây, bất kể chúng ta có thích hay không. Đó là thứ mà những chiếc dây gai đang ăn. Đó là thứ mà chúng đang uống. Tất cả những bí mật mà chúng ta cất giữ."

Oll rùng mình. Phía trên đầu họ, một tia sét bắt đầu giáng xuống từ những đám mây như một ngọn giáo đâm xuyên qua không khí, nhanh hơn một cái chớp mắt nhưng chậm hơn một chiếc lông vũ đang rơi.

"Ông đang che giấu bí mật nào mà tôi không biết vậy, Oll?" John hỏi, giọng buồn bã. "Bởi vì đó là nơi chúng ta sẽ đi tiếp để thấy nó."


Tháp Babel trong kinh thánh




Núi Hollow

Họ gọi nó là núi Hollow. Trước khi ý chí của Hoàng đế tái tạo lại Terra, nó đã mang những cái tên khác, tất cả giờ đã chìm vào quên lãng. Đường hầm và hang động đã luồn lách qua trái tim của nó kể từ trước khi nhân loại phát hiện ra công dụng của đá đánh lửa.

Đỉnh núi đã chạm được tới mây và tạo ra những cơn bão vào thời điểm biển cả bao phủ vùng đất mà con người sẽ đổ máu và chết để chinh phục trong những kỷ nguyên tiếp theo. Ngọn núi này chẳng phải là một nơi yên tĩnh. Những hồn ma của người chết hát trên những cơn gió băng giá xoáy trên sườn núi. Những vị pháp sư đầu tiên bước vào hang động của nó sẽ nằm mơ và chết, và sống và mơ và chết hết lần này đến lần khác chỉ trong một đêm. Các sợi pha lê luồn qua các vách và sàn của những hang động đó. Đôi khi những sợi pha lê đó có màu đen. Đôi khi chúng sẽ phát sáng màu tím, hoặc cháy lên màu cam lửa.

Các nền văn minh và các chủng tộc cứ trỗi dậy rồi sụp đổ rồi lại trỗi dậy, và ngọn núi vẫn sẽ trường tồn, thu thập những lời thì thầm, truyền thuyết và những tên gọi: Quỷ Dữ Barb, Những Kẻ Ăn Linh Hồn, Cổng Trời, và Trái Đất. Những hình ảnh được vẽ nguệch ngoạc trong các hang động bên ngoài, và xương được thu thập trong bóng tối. Mỗi lần trong mỗi thời đại, một nhà Thần Bí sẽ đi xuống từ đỉnh núi với đôi mắt rực lửa. Những cuộc chiến tranh dữ dội và sự mặc khải bùng nổ sau sự thức tỉnh của họ. Trong suốt thời gian đó, ngọn núi ngủ yên và chỉ thốt ra những lời thì thầm.

Sau đó, Hoàng Đế đã đến và phá vỡ trái tim của nó. Máy khoan biến hang động thành đường hầm và đào sâu những hang động mà ánh sáng chưa bao giờ chạm tới. Bố cục của một số lối đi này tuân theo nhu cầu xây dựng, mở ra ngọn núi cho những máy đào đất và đội quân lao động sẽ đi theo sau. Những lối đi khác không có mục đích rõ ràng: các đường hầm được đào xuống hoặc lên vào khối núi, khối không gian được đào theo tính toán hình học chính xác và sau đó được niêm phong để mặc chúng nằm yên trong núi đá, bỏ lại trong những hang động tối tăm trong đá lạnh.

Nhiều người công nhân bị mất tích, hầu hết là vào ban đêm, nhưng những người khác sẽ rẽ nhầm vào một đường hầm sáng đèn và không bao giờ được nhìn thấy nữa. Khi các đường hầm và hang động hoàn thành, những chuyên gia về cộng hưởng Thiên Không lắp ráp những cỗ máy khiến các tinh thể trên tường cất lên tiếng hát. Những người có năng lực ngoại cảm đầu tiên đến muộn hơn một chút.

Có một ngàn người trong số họ đủ để thắp lên ngọn lửa. Họ bừng cháy với bài hát cuối cùng của linh hồn họ, và núi Hollow vang vọng bài hát đó. Trong khoảng không giữa các vì sao và nằm ngoài tầm suy nghĩ, một ánh sáng thắp sáng trong bóng tối...

Chiếc Kén Thả Quân đầu tiên đáp xuống đỉnh núi. Tuyết và băng tan thành hơi nước. Các đường dốc thả quân hạ xuống. Những chiến binh mặc giáp đen xuất hiện.

Một quả kén khác đâm vào, rồi một quả nữa, rồi một quả nữa. Những luồng hơi nước trắng tinh phun vào không khí mỏng. Những luồng lửa làm cháy xém mái vòm xanh của bầu trời phía trên.

Các gunship và các kén thả quân kéo dài các vệt màu đỏ và cam phía sau khi chúng lao xuống. Các tiêm kích đánh chặn bay theo hình xoắn ốc phía sau chúng. Thân máy bay vỡ thành nhiều mảnh. Bóng của các gunship băng qua mặt trời như những đám mây giông lởm chởm.

Chiếc gunship của Corswain lướt thấp xuống. Đường dốc thả quân đã mở ra.

Chuông báo động và đèn cảnh báo nhấp nháy khắp cabin. Dầu và ngọn lửa rỉ ra từ cánh máy bay. Một luồng đạn pháo bay tới xé toạc không khí bên dưới. Một máy bay đánh chặn màu trắng crôm vút qua phía trên đầu nó, tiếng động cơ rít lên.

"Đưa chúng ta đến gần nhất có thể," Corswain hét vào vox. Dây đai từ tính của anh bật ra và anh đã lao ra trên đường dốc thả quân. Một bức tường băng giá và đá đen mờ mờ lướt qua. Tia las mạnh mẽ bắn xuyên qua cánh cửa mở, và đâm xuyên qua ba Dark Angels khi họ vừa thoát ra khỏi dây đai. Chiếc gunship trượt ngang bầu trời. Corswain có thể thấy thế giới quay tròn qua lối cửa mở.

"Triển khai theo tín hiệu," giọng phi công vang lên qua vox, đều đều và bình tĩnh. Chiếc gunship xoay vòng, lật úp trên phần cánh đang bốc cháy. Đôi giày trận của Corswain khóa l nam châm từ tính vào boong tàu. Bộ giáp của anh gầm lên khi chống lại trọng lực và lực G. Anh đang nhìn thẳng xuống qua cánh cửa mở. Sườn núi đang rời xa tầm mắt của anh. Khi anh đang quan sát, một chiếc máy bay lộn nhào qua, đâm vào một mỏm đá xám và biến thành một quả cầu lửa. Chữ rune hiển thị trạng thái sẵn sàng chuyển sang màu hổ phách trên mũ trụ của anh. Corswain đã sẵn sàng. Chiếc gunship đột ngột lấy lại cân bằng rồi bay lên. Một mép vách đá mờ mờ lướt qua bên dưới nó. Các gai cảm biến bị gãy ở phần bụng của nó. Chữ rune trên mũ trụ của Corswain nhấp nháy màu xanh lá cây. Anh liền nhảy lên.

Anh đã đáp xuống Ngọn núi. Anh đáp xuống trong tư thế gập người. Đá và băng giá tung bay. Anh đứng dậy với tay lăm lăm thanh kiếm. Một luồng đạn hạng nặng bắn trúng chiến binh đáp xuống bên cạnh anh, nhưng Corswain đã nhảy lên sườn dốc đóng băng. Anh có thể nhìn thấy lô cốt hỏa lực phía trên đầu mình, nó được bố trí trong một vách đá.

Nòng pháo tự động nhô ra từ một lô cốt hình cầu bằng thép. Anh nhảy lên. Nòng pháo vung xuống. Máy đo khoảng cách bằng tia laser chạm vào bộ giáp của anh. Anh tóm được mép đá bê tông dưới bệ súng và chém bằng thanh kiếm của mình.

Những tia sét trên lưỡi kiếm chém xuyên qua khẩu pháo khi nó đang bắn. Corswain tận dụng đà tấn công và vùng dậy. Những khẩu pháo chết vung vẩy sang hai bên như đầu của một người mù. Anh đâm thanh kiếm xuống. Mũi kiếm xuyên qua khớp súng với một vụ nổ của các mảnh kim loại. Anh cưa nó sang một bên. Anh có thể nghe thấy tiếng vo ve của con servitor được kết nối vào bộ điều khiển pháo. Sau đó, lưỡi kiếm của anh cắt qua bộ nạp đạn. Vụ nổ thổi bay khẩu pháo ra khỏi giá đỡ và khiến nó rơi xuống sườn núi.

Phía trên đầu anh, đỉnh núi hình vòm đang cao dần lên.

Corswain nhìn xuống sườn núi đầy tuyết và đá vụn bên dưới. Có những chiến binh mặc giáp đen đang leo trèo, bắn phá. Những chùm đạn Las, bolt và đạn tự động được bắn từ đỉnh núi xuống để đáp trả. Các kén thả quân và tàu tấn công đậu rải rác trên lớp băng. Một số bị bốc cháy. Khói bốc lên trong không khí. Kẻ thù đã kiểm soát hoàn toàn cả ngọn núi và hệ thống phòng thủ của nó. Nếu lực lượng tấn công của anh ở vùng lộ thiên này quá lâu, họ sẽ bị tàn sát.

Một thứ gì đó che khuất ánh sáng. Ánh mắt của Corswain nhanh chóng hướng lên. Một bóng người đứng trên đỉnh lô cốt. Bộ giáp của hắn ta có màu đồng được đánh bóng, những viên đá quý nhỏ khảm trên sợi dây xích. Một búi tóc hợm hĩnh màu xanh lá cây nhô lên trên một chiếc mũ sắt không có thị kính nhưng có hàng chục lưới loa tròn.Khẩu súng trong tay hắn ta rối nùi với những ống mạ crôm. Corswain nghe thấy một âm thanh giống như một đàn côn trùng kêu vo ve và tiếng thét của những con quạ hấp hối. Anh liền nhảy lên cao. Khẩu súng trong tay tên phản bội cất tiếng. Một làn sóng âm thanh đánh vào khối đá bê tông bên cạnh Corswain và thổi bay nó thành bụi cám. Anh đáp xuống nhưng tên phản bội mặc bộ giáp màu đồng rất nhanh và chỉ cách một chút trước khi thanh kiếm của Corswain kịp chém tới. Tên phản bội cười lớn và âm thanh làm vỡ tan tinh thể của thấu kính mắt Corswain. Anh loạng choạng. Tên phản bội lại chĩa súng vào. Corswain giơ kiếm lên.

Tên phản bội bỗng giật mình bay lên không trung. Hắn lơ lửng trong một giây rồi ghim chặt vào bầu trời.

Sau đó, các tấm giáp của hắn liền cong vênh. Mũ trụ bị nhàu nát. Máu và thịt nhão tràn ra từ các vết nứt. Corswain có thể ngửi thấy mùi thuốc nổ và khói. Chiến binh mặc bộ giáp đồng thét lên một tiếng cuối cùng, sau đó cơ thể hắn bị nghiền nát thành một quả cầu máu của các mảnh giáp. Máu phun ra, làm tan chảy băng và tuyết thành một hỗn hợp màu hồng. Corswain nhìn xung quanh và thấy Vassago đang đứng trên một mỏm đá bên cạnh lô cốt. Những cuộn ánh sáng ma quái chảy ngược trở lại vào bộ giáp của hắn ta.

Corswain cúi đầu cảm ơn, nhưng viên Thủ Thư vẫn đứng sững khi anh bắt đầu trèo lên cùng.

"Nơi này..." Vassago gọi. "Có thứ gì đó bên trong. Thứ gì đó cản trở năng lực của tôi."

Nhiều Dark Angels đang di chuyển qua họ để leo lên sườn núi. Hầu hết lực lượng đã đáp xuống mặt đất, hoặc sẽ không bao giờ hạ cánh được nữa.

Họ trèo và nhảy, di chuyển lên cao hơn nữa, qua những mặt băng gồ ghề, đục những lỗ bám trên băng, mũi giầy bám vào những gờ băng mỏng như lưỡi kiếm.

"Sức kháng cự yếu hơn dự kiến", Vassago nói, vừa nhảy lên tảng băng và đá vụn một lần nữa.

"Ta không coi đó là sự an ủi đâu", Corswain nói.

Những luồng năng lượng lướt qua không trung khi các lô cốt bắn vào các Dark Angels đang leo lên dốc núi. Máy bay rít lên trên trời cao. Các cụm điểm đánh dấu đơn vị màu xanh nhấp nháy ở góc tầm nhìn của Corswain. Anh lách mình qua một mép đá và nhìn lên.

Cánh cổng trên sườn núi nằm bên dưới một mái hiên ngay phía trên anh, được niêm phong và không thể lay chuyển. Cánh cửa là một nút kim loại hình tròn được gắn vào lớp đá của ngọn núi: rộng hai mươi mét, được tán đinh, sương giá phủ trên bề mặt có nhiều lỗ gió. Không thấy có ổ khóa hay cửa sập. Người ta cho rằng có bảy cánh cửa được niêm phong như vậy rải rác dọc theo sườn núi, nhưng Corswain không thể hiểu và cũng không thể đoán được mục đích là gì. Hầu hết không thể tiếp cận bằng bất cứ thứ gì ngoại trừ cách đổ bộ từ trên không mà các Dark Angels vừa làm. Nhưng bất kể mục đích của chúng là gì, chúng đều mở ra một con đường để tiến vào. Anh đã chọn năm cánh cửa niêm phong và cử một lực lượng có sức mạnh tương đương với một Chapter đến mỗi cánh cửa. Đây là cánh cửa cao nhất, được đặt gần nhất với các cấu trúc chính bên trong ngọn núi, gần nhất với thiên đường.

Xung quanh anh, tiếng súng từ các tháp pháo đã yếu dần.

"Phá hủy nó đi", anh ra lệnh cho các chiến binh của mình.

Cánh cửa niêm phong bị thổi bay sau vài phút. Kim loại nóng chảy phát sáng phun vào bóng tối bên trong. Những Dark Angels đầu tiên đã vượt qua được lỗ hổng trước khi kim loại nguội đi từ màu trắng sang màu vàng. Corswain lao đi giữa họ, kiếm đã được rút ra và bừng sáng với năng lượng phân hạch.

Sự im lặng và bóng tối chào đón họ. Không có tiếng súng hay tiếng la hét hay các khẩu đội được bố trí ở bên trong. Anh đi chậm lại. Mối đe dọa màu hổ phách và các chữ rune nhắm mục tiêu lướt qua tầm nhìn của anh, tìm kiếm và không tìm thấy gì. Một đường hầm tròn nghiêng xuống từ cánh cửa mà họ đã phá vỡ. Các bức tường nhẵn bóng, sáng bóng như gương. Ánh sáng của lỗ thủng và ánh sáng rực rỡ từ thanh kiếm của Corswain lấp lánh trong những hình ảnh phản chiếu vụn vỡ. Một luồng không khí lướt qua mép áo choàng của anh và anh nghe thấy một tiếng rên rỉ nhỏ ở đằng xa.

"Thưa ngài?" Đó là Tragan, giọng của anh ta rất rõ ràng và to hơn cả vox khiến Corswain gần như giật mình. Người anh em đó đang đứng cách xa hai kilômét nhưng anh ta nghe như thể đang ở ngay cạnh Corswain. "Cánh cổng thứ tư và thứ ba đã bị phá vỡ để tiến vào vùng núi thấp hơn. Tất cả các tín hiệu vox thông qua và không bị gián đoạn. Có gặp phải kháng cự nhưng ít hơn dự kiến."

Corswain im lặng. Không khí lại co giật mạnh mép áo choàng của anh.

"Cái đường hầm này sẽ dẫn thẳng đến phòng hợp xướng chính". Vassago cho hay.

Những luồng sáng xanh lục-xanh lam gợn sóng trên đầu cây chùy của hắn. Hắn rùng mình, hành động được khuếch đại qua bộ giáp. "Có một... một giọng nói. Bất cứ thứ gì đã dập tắt ánh sáng của ngọn hải đăng đều biết chúng ta ở đây. Bọn chúng... đang chờ sẵn chúng ta."

Corswain nhìn xuống đường hầm. Nó có góc nghiêng đến mức không thể đi lại được; bước vào nó là lao vào một cú rơi và một chuyến bay vào bóng tối mà không có cách nào dừng lại hoặc giảm tốc độ lại được.

"Trong hoàn cảnh hiện tại, người anh em Vassago," anh nói, "Ta không nghĩ là chúng ta còn lựa chọn nào khác. Tất cả các đơn vị, mau lao xuống," anh nói, và gieo mình xuống miệng hố.


Bạn đang đọc truyện trên: truyentop.pro