THÀNH HÓA THẬP TỨ NIÊN- CHƯƠNG 59
Nói đến đất Hà Nam, ấy chính là nơi phát tích của nhà Ân Thương thuở xưa, từ cổ chí kim, nhân tài xuất hiện như nấm mọc sau mưa. Đến khi Tống Thái Tổ – lão Triệu cậy có tí võ nghệ ra oai – chọn Khai Phong làm thủ đô, thì Hà Nam lại càng như hổ mọc thêm cánh, đứng giữa thiên hạ mà hô mưa gọi gió, chẳng ai dám bảo là kém.
Nhưng mà, đời đâu có như là mơ. Tống triều bị ép cuốn gói dời đô về phương Nam, Hà Nam cũng theo đó mà tụt hạng, từ “đỉnh lưu” rớt xuống thành “hạng hai”.
Rồi thì Kim binh kéo đến, Mông Cổ lại vung roi, giày xéo Trung Nguyên, dân chúng chẳng biết bao lần lâm vào cảnh nước sôi lửa bỏng, đúng là "người đi chẳng trở, ngựa hí rền trời"...
Đến lúc bản triều Thái Tổ hoàng đế (tức hoàng đế khai quốc nhà Minh ấy mà) ngồi lên ngai vàng, thì tính ra cũng đã hơn trăm năm sau cuộc đại loạn rồi.
Năm ấy, Thái Tổ bệ hạ đi tuần thú ngang qua huyện Củng, nơi từng là đất thiêng chôn cất các đế vương triều Bắc Tống – thì bất ngờ phát hiện một sự tình đau lòng đến mức suýt ném luôn long bào mà khóc: đế lăng khi xưa oai nghiêm lẫm liệt, giờ chỉ còn lại bãi đất hoang lộn xộn, bia đá vỡ nát, nhà cửa tan tành, tượng đá nằm lăn lóc như say rượu, mà còn chẳng ai nhận ra tượng ấy là của ai nữa.
Nghe nói trong số đó, mộ của Cao Tông, Hiếu Tông, và cả hai vị “ đứng đầu hàng” Huy Tông – Khâm Tông đều bị bọn giặc đời trước đào lên lục tung, đập phá tan tành, tìm vàng tìm ngọc như thể đang đi shopping...
Thậm chí có lời đồn rằng hài cốt mấy vị hoàng đế Bắc Tống bị lôi ra khỏi mộ, vứt lên, rồi còn bị đốt! Vàng bạc châu báu thì chẳng biết bao nhiêu mà kể, hết bị bọn giặc nộp lên cho Hốt Tất Liệt, lại đem đi trang trí chùa chiền như thể cúng dường Phật tổ cũng cần dát vàng...
Thái Tổ hoàng đế thấy vậy, long nhan tức thì sa sầm, lệnh cho người trám lại những lỗ mộ bị đào, xây sửa lại đế lăng, ra chiếu cấm dân trộm cắp, chặt cây, lấy đá nơi lăng mộ, còn đặc biệt miễn thuế cho dân canh gác quanh vùng – đúng là vừa có nhân, vừa có nghĩa, lại cực có… chính sách.
Nhưng mà, nói gì thì nói, đó cũng là chuyện của mấy chục năm về trước. Dù đế lăng có được vá lại, thì vẫn cứ nằm chình ình ra đó.
Mà vật nằm yên thì lòng người lại không yên – mấy kẻ tiểu nhân thì đêm nằm mộng thấy kho báu, sáng dậy là xách cuốc đi đào, mồm hô: "Chí tại Kim Lăng, cuốc tại Tống Lăng!"
Đáng nói hơn, đế lăng của Bắc Tống lại rất "đặc dị" so với mấy triều trước.
Thời Tần Hán, vua chúa hay chơi kiểu “ẩn thân chi thuật”, lăng không bia, hầm chôn sâu, giống như Tần Thủy Hoàng – nằm dưới đất mấy nghìn năm, đến giờ vẫn chưa ai dám khui vì… chưa tìm thấy chính xác chỗ!
Đến đời Hán – Đường, lại chuộng kiểu "dựa núi mà nằm", gọi là “nhân sơn vi lăng, tạc sơn vi tạng” tức là khoét núi làm mộ, lấy núi làm đế vương chi địa, vừa hùng vĩ lại vừa khó bị trộm. Dĩ nhiên, trộm mộ thì cũng không phải tay vừa, núi có cao mấy thì cuốc vẫn đào như thường.
Còn đến triều Bắc Tống thì lại “lật kèo”, chẳng cần chui rúc trong núi nữa, mà chọn đất đồi thấp đối diện núi Tung, phía sau tựa vào sông Lạc, nhìn ra xa xa là sông Hoàng Hà cuồn cuộn – nghe nói là địa linh nhân kiệt, phong thủy cực chuẩn, tiện cho đế vương “quản lý vĩnh hằng”.
Chỉ có điều, tiện cho đế vương thì cũng... tiện tay cho đạo tặc luôn, khổ vậy!
Mà lại nói, trước khi nhà Tống rời đô về phương Nam, bảy đời hoàng đế đều được mai táng tại vùng này, lăng nọ cách lăng kia chẳng bao xa, thậm chí nhìn qua hàng cây còn có thể thấy mái đình bên lăng đối diện, với kẻ có tâm bất chính mà nói, quả là thiên thời địa lợi nhân hòa, đào một lăng chưa đủ, lại xách cuốc đào tiếp lăng bên cạnh, mệt thì nghỉ chút ăn lương khô rồi đào tiếp, cũng không ai quản.
Ấy vậy mà dù triều đình có cho dân trông nom, cử người gác lăng, tình trạng đạo mộ vẫn như muỗi mùa hạ, có thì không ít, nhưng cũng chưa bao giờ thành dịch, triều đình bắt được vài tên thì cũng chỉ xử cho có lệ, không đến mức long trời lở đất.
Cho đến gần đây, lại xảy ra một chuyện cực kỳ kỳ quặc, lại còn dọa người đến tê cả da đầu.
Nghe dân trong vùng nói, từ hơn một năm trước, mỗi khi trời về khuya, nơi lăng vắng lại vang lên những âm thanh rợn người, lúc đầu ai nấy còn tưởng là tiếng gió, nhưng nghe kỹ thì không phải, giống… tiếng khóc!
Khóc giữa đêm hôm? Khóc từ trong đế lăng? Người chết mấy trăm năm rồi mà còn khóc, chẳng lẽ là khóc vì triều Tống mất nước?
Nói về hai nơi phát ra tiếng động ấy, một là Vĩnh Hậu Lăng của Tống Anh Tông Triệu Thục, một là Vĩnh Chiêu Lăng của Tống Nhân Tông Triệu Chấn.
Anh Tông là hoàng đế kế vị Nhân Tông, nhưng không phải con ruột, mà là họ hàng trong tông thất được nhận nuôi, cũng là bất đắc dĩ, vì Nhân Tông sinh con nào chết con đó, cuối cùng buộc phải nhận người khác làm con.
Nhưng chuyện huyết thống lúc này không quan trọng, quan trọng là, ai đang khóc?
Mấy trăm năm rồi, ngay cả chó giữ lăng cũng thành tinh mà chuyển kiếp rồi, còn ai mà nửa đêm khóc lóc ở nơi vắng tanh ấy?
Vài hộ dân sống quanh khu lăng vốn có trách nhiệm trông nom, nghe tiếng lạ mấy hôm liền, cuối cùng nhịn không nổi, bèn cử vài người trong thôn đến Vĩnh Hậu Lăng xem thử. Ai ngờ đi rồi… chẳng thấy quay về.
Lúc ấy trưởng thôn mới cảm thấy không ổn, lập tức tập hợp người đi tìm, đồng thời báo lên huyện quan Củng huyện. Huyện nha điều người xuống lăng tra xét một lượt, chẳng tìm được người mất tích, chỉ thấy bãi cỏ bị dẫm nát và vài vết máu chưa khô.
Vì gần đó là sông Lạc, huyện quan bèn kết luận chắc mấy người kia đi ban đêm, sảy chân ngã xuống sông, bị nước cuốn trôi, thế là xếp hồ sơ, đóng dấu, kết án: “Tự rơi, bất khả kháng”.
Chuyện này theo thời gian trôi qua cũng dần chìm vào quên lãng, ngoại trừ mấy nhà có người mất, cả làng lại sống yên ổn như cũ.
Cho đến nửa năm trước “tiếng khóc” lại trở lại.
Nhưng lần này không chỉ có tiếng khóc, còn lẫn cả tiếng sấm!
Dân làng đêm ngủ bật dậy, chó tru, mèo kêu, gà gáy loạn xạ. Trưởng thôn sợ tới co cả râu, vội vàng lại báo lên nha huyện. Quan huyện Củng huyện lần này bán tín bán nghi, bụng nghĩ: “Tên trưởng thôn này tám phần lại đang rảnh quá hóa nghĩ quẩn.” Nhưng vì lăng tẩm của tiên hoàng liên quan đến mặt mũi triều đình, không thể xem nhẹ, đành cho mấy bộ khoái xuống cùng dân làng điều tra.
Không điều tra thì thôi, vừa đến lăng, phát hiện hai ba cái hố bị đào sâu hoắm, miệng hố còn vương vãi dây thừng, xẻng cuốc, đích thị có kẻ trộm mộ mò đến hành sự!
Quan huyện lúc này mới biết chuyện to, vội ra lệnh cho ba tên bộ khoái cùng sáu trai tráng trong thôn lập tức cắm trại canh giữ quanh lăng, thề sống chết bảo vệ tiên hoàng!
Trưởng thôn tuy tuổi cao, răng rụng, nhưng cũng máu nóng chưa tan, hăng hái tham gia, “Lão đây tuy già, nhưng một cây gậy tre vẫn còn đập được trộm vặt!” Thế là mười người chia làm hai nhóm, canh gác từng đêm.
Đêm đầu tiên, không có chuyện gì xảy ra. Trăng sáng như gương, nước sông Lạc róc rách chảy, thỉnh thoảng có con cú hú, trừ đó ra thì yên tĩnh đến mức khiến người ta ngáp.
Đêm thứ hai, cũng vẫn như vậy, chỉ khác là mấy anh canh gác bắt đầu cãi nhau chuyện nên mang theo bánh bao nhân thịt hay bánh mì chà bông.
Đến đêm thứ ba, chuyện lớn xảy ra rồi.
Sáng hôm sau, trong số mười người đi canh, chỉ có hai người quay lại.
Một là bộ khoái.
Một là trưởng thôn.
Một người… điên loạn gào rú, ai đến gần là đấm, mồm không nói tiếng người.
Một người… toàn thân máu me, đôi mắt đờ đẫn, miệng run run.
Lang y khám xong, thở dài lắc đầu: “Bộ khoái bị chấn động tâm thần, thần trí tan rã, chỉ sợ đời này… không chữa được.”
Còn trưởng thôn thì tuy thân thể suy yếu, nhưng vì sống lâu thành tinh nên ý chí hơn người, sau mấy ngày nghỉ ngơi thì hồi phục phần nào. Nhưng hễ ai hỏi đến chuyện đêm đó, lão liền im như hến, mắt nhìn trân trân, mồm chỉ lặp đi lặp lại hai câu:
“Thấy quỷ rồi…”
“Có… có quái vật!”
Quan huyện lúc này không dám giỡn nữa, lập tức tấu trình cấp trên, chuyện nghiêm trọng, không thể ém.
Trong tiểu viện phủ nha ở kinh thành, một vị quan trẻ tuổi họ Đường, tên Đường Phạm, đang ngồi nhâm nhi trà, nghe xong câu chuyện từ thư tín báo về, liền cau mày:
“Thấy quỷ? Có quái vật? Chắc lại là bọn đạo tặc giở trò làm phép, dọa người thôn quê mà thôi!”
Ngồi đối diện là Tùy Châu, thân mang chức tước trong Cẩm y vệ, gật đầu trầm ngâm:
“Ta cũng vừa tiếp được vụ án này, trên triều chỉ nghe mỗi lời tấu của huyện quan, chưa rõ thực hư, chỉ có cách đích thân đi xem mới biết.”
“Hửm?”
Đường Phạm nhướng mày, nheo mắt cười: “Chẳng lẽ ngài Tùy đại nhân thân chinh xuất mã? Vậy tiểu nhân đây có vinh hạnh đi theo bưng trà rót nước không?”
Tùy Châu hiện dù chỉ là thiên hộ, nhưng thực tế đã là người đứng đầu Bắc Trấn phủ tư, quan trường ai cũng kính gọi một tiếng “Tùy Trấn Phủ Sứ".
Nhưng đến miệng Đường Phạm thì, dù gọi đúng chức, cũng chẳng quên kèm theo giọng châm chọc như thể đang nói: “Ngài đích thân ra tay, có phải do ở nha môn ngồi lâu mốc râu không?”
Tùy Châu ngồi dựa vào lưng ghế, nhận lấy ly trà kiều mạch A Đông đưa tới, thong thả nói:
“Cùng vai sát cánh thì chưa chắc, nhưng đã là Trấn phủ sứ, đương nhiên phải trấn áp bốn phương rồi. Ngươi, một tiểu quan ngũ phẩm, đến lúc đó cũng phải nghe ta chỉ huy thôi.”
Câu này đương nhiên mang phần nhiều là đùa giỡn.
Đường Phạm nghe vậy liền cười ha hả:
“Thế thì ta phải tranh cao thấp với huynh rồi! Huynh là võ quan ngũ phẩm, ta là văn quan ngũ phẩm, triều Đại Minh ta từ thời Chính Thống đã luôn lấy văn chỉ huy võ. Theo nguyên tắc văn quan ngũ phẩm có thể chỉ huy võ tướng tứ phẩm, thì ngay cả lão đại nhà các huynh- lão Viên cũng phải nghe ta chỉ huy đó! Chẳng lẽ tay ta không thể xách, vai không thể gánh, lại bắt ta ra trận bắt trộm mộ à?”
Y lại nháy mắt với A Đông:b“Muội thấy ta nói có đúng không, muội tử?”
A Đông gật đầu: “Đúng ạ.”
Đường Phạm vênh váo bắt chéo chân, đắc ý với Tùy Châu: “Có tiểu muội vẫn hơn, A Đông nhà ta thật là hiểu chuyện!”
A Đông: “Ý muội là Tùy đại ca nói đúng.”
Đường Phạm không hài lòng: “Sao muội lại hướng về người ngoài vậy!”
A Đông khúc khích cười: “Tất nhiên phải hướng rồi! Đại ca, tiền của huynh giờ đều trong tay Tùy đại ca đó, không có huynh ấy, chẳng phải hai chúng ta chỉ còn biết uống gió Tây Bắc sống qua ngày sao!”
Đường Phạm không chịu thua: “Làm gì mà toàn bộ! Ta chỉ đưa một nửa thôi! Mỗi tháng ta vẫn để dành tiền mua rau cho muội còn gì!”
Tùy Châu: “Thế giờ ngươi còn bao nhiêu tiền trong tay?”
Thấy cả hai người đều nhìn mình chằm chằm, Đường Phạm vênh mặt đầy tự tin:
“Tiền riêng của nam nhân là bí mật quốc gia, không thể tùy tiện hỏi!”
A Đông lại quay sang hỏi Tùy Châu:
“Tùy đại ca, vậy huynh hiện có bao nhiêu tiền?”
Tùy Châu không giấu giếm gì: “Năm ngoái giúp hắn giữ 30 lượng, cộng với 350 lượng trước đó giao cho ta, tổng cộng là 380 lượng. Ta vốn cũng có chút tích lũy, cộng lại khoảng 1.400 lượng.”
A Đông trầm trồ không ngớt: “Tùy đại ca, huynh giàu ghê!”
Đường Phạm không cam lòng:n“Trong phòng ta còn có bức tranh của Vương Hy Mẫn đó, đáng giá hơn cả 1.400 lượng kia nhiều!”
A Đông thẳng thừng: “Rõ ràng là tranh phụ mẫu để lại cho huynh!”
Đường Phạm cười gượng: “Trời nay thật đẹp, món thịt đông pha kia đã cô đơn lâu lắm rồi, đang chờ chúng ta tới giải cứu. Nói chuyện tiền bạc thật tục khí, toàn mùi đồng thôi!”
A Đông bịt miệng cười: “Còn dám giấu tiền nhuận bút dưới gối không chịu nộp, muội cứ tưởng huynh giấu được bao lâu, ai ngờ quay đi quay lại đã mua cả đống sách nhảm!”
Đường đại nhân không phục: “Sách nhảm gì mà sách nhảm! Đó là Xuân Thu Tả Truyện Chính Nghĩa, bản in thời Tống đó nha, có tiền chưa chắc mua được, ta tìm mãi mới có đấy!”
A Đông chớp mắt: “Rõ ràng còn có quyển Xuân Triều Ký!”
Tùy Châu chau mày: “Sao tên nghe có gì đó sai sai?”
Đường Phạm hơi chột dạ: “Đó là truyện dã sử yêu quái đàng hoàng nha! Đừng có nghĩ bậy!”
Nhưng càng nói lại càng khiến người ta nghi ngờ.
Tùy Châu: “Lát nữa mang ra cho ta xem.”
A Đông lè lưỡi trêu Đường Phạm: “Muội cũng muốn xem!”
Đường đại nhân đau khổ: “Hôm trước muội lấy bản thảo Chiến Quốc Chí của ta mà còn chưa trả!”
Đường đại nhân tuy thỉnh thoảng có viết mấy thứ gọi là "nhàn thư" để giải khuây, tiện thể kiếm chút tiền nhuận bút, nhưng nói hắn viết toàn truyện phong nguyệt thì thật oan uổng.
Ví như Chiến Quốc Chí, chính là tác phẩm lấy thời Chiến Quốc Đông Chu làm bối cảnh, vì nội dung đồ sộ lại bận bịu công vụ, nên đến nay mới viết được hai phần ba.
Tùy Châu điềm nhiên: “Ta còn chưa xem xong, xem xong rồi sẽ trả.”
Đường Phạm: “Khi nào mới xem xong?”
Tùy Châu: “Đợi ngươi đảm bảo sau này không giấu tiền nhuận bút nữa.”
Đường đại nhân nổi khùng: “Thế còn huynh! Cũng đâu có giao tiền cho ta!”
Tùy Châu dứt khoát một câu: “Nhưng ta không có thói quen tiêu xài bậy bạ.”
Đường Phạm: “……”
Rầm một tiếng, lòng tự tôn của y vỡ vụn đầy đất.
Quan làm càng lớn, địa vị trong nhà lại càng thấp, thế này còn để người ta sống không?
Y phải… bỏ nhà đi bụi thôi…
Thấy hai tai y như cụp xuống, Tùy đại nhân hiếm khi dịu dàng, xoa đầu chó của y:
“Ta không tham tiền của ngươi, chỉ là giữ hộ thôi. Ai bảo ngươi hễ thấy sách là rạo rực, thư phòng sắp chất đầy tới nơi rồi, phải biết kiềm chế.”
Đường đại nhân lệ rơi đầy mặt.
Nói chuyện nghiêm túc một chút, đúng như Tùy Châu dự đoán, vụ án được trình lên Nội các, rồi dâng tới Hoàng thượng. Ngay cả Thành Hóa đế vốn không hay để tâm triều chính cũng bị kinh động, chẳng những truyền đạt thái độ coi trọng vụ việc cho Nội các, mà còn yêu cầu cử người liên kết cùng Cẩm y vệ điều tra rõ ràng, nếu đúng là có đạo tặc đào mộ hoàng lăng thì phải nghiêm trị không tha.
Có phải hoàng thượng thức tỉnh, đau lòng vì mười mấy mạng người đã chết?
Đương nhiên là không.
Chủ yếu là: đều là hoàng đế với nhau, hoàng lăng Bắc Tống bị đào, hoàng đế hiện tại thương xót lẫn nhau, nghĩ tới sau này nếu mình cũng bị đào thì sao?
Vậy nên phải xử nghiêm để răn đe.
Nội các hội ý một lúc, chuyển vụ việc về Bộ Hình – dù sao trộm mộ cũng thuộc phạm vi quản lý của Bộ Hình.
Thế nên, với tư cách đứng đầu Ty Thanh liêm Hà Nam, Đường Phạm đương nhiên phải gánh trách nhiệm.
Thượng thư Trương đặc biệt gọi y đến, giao cho nhiệm vụ hợp tác với Cẩm y vệ điều tra vụ án.
Từ sau lần Đường Phạm cãi tay đôi với Thị lang Lương, Thượng thư Trương lại thấy hắn… thuận mắt ra trò, chẳng ngại công khai tỏ ý khen ngợi.
Đường Phạm thừa biết Trương đại nhân muốn mượn y để đấu đá nội bộ, nhưng y cũng chẳng thiệt thòi, chí ít là nhờ đó mà thu phục được lòng người ở Ty Hà Nam.
Nói cho cùng, quan hệ giữa y và Trương đại nhân là kiểu “hợp thì đôi bên cùng có lợi”. Mà Trương đại nhân đường đường là Thượng thư Bộ Hình, có việc muốn giao thì Đường Phạm không thể chối từ.
Trương đại nhân cho gọi y vào phòng làm việc, ban đầu hỏi han vài câu: gần đây làm việc thế nào, có khó khăn gì không, có thì cứ nói, bổn Thượng thư nhất định hỗ trợ...
Đường Phạm cũng phải khách sáo đáp lại: “Nhờ đại nhân chiếu cố, hạ quan mọi sự thuận lợi.”
Hai bên trò chuyện một hồi, Trương đại nhân đi thẳng vào vấn đề: “Ngươi biết chuyện Tống đế lăng bị đào chứ?”
Đường Phạm gật đầu:n“Công văn đã chuyển tới Ty Hà Nam, hạ quan đã xem xét hồ sơ.”
Trương đại nhân hỏi: “Ngươi thấy vụ án đó thế nào?”
Đường Phạm đáp: “Hạ quan xin mạo muội nói thẳng – có phần rắc rối.”
Trương đại nhân khẽ thở dài: “Phải đấy. Những dân làng và bộ khoái kia, chưa chắc thật sự là rơi sông chết, mà cũng chưa chắc có thứ quỷ quái gì. Nhưng nếu thực sự là có người đứng sau, đã dám giết liên tiếp mười mấy mạng thì e rằng kẻ đó hung ác tột cùng, không dễ đối phó. Vụ án này quả là khó phá. Nhưng mà…”
“Cho dù vụ án này có rắc rối đến mấy, ngươi cũng phải dốc toàn lực điều tra. Nếu phá được án, ta sẽ dâng sớ lên các các lão trong nội các, xin ban thưởng công trạng cho ngươi.”
Đường Phạm vội nói: “Hạ quan nhất định sẽ dốc hết sức, không dám mơ tưởng công lao!”
Bất chợt, Trương Dĩnh hỏi tiếp: “Ta nghe nói các ngươi sau lưng thường gọi ta và năm vị Thượng thư các bộ khác là ‘Lục đại tượng đất’, có chuyện này thật sao?”
Đường Phạm vờ ngạc nhiên: “Sao lại có chuyện như vậy, hạ quan chưa từng nghe qua!”
Trương Dĩnh mỉm cười: “Không cần giả ngốc đâu, ta không trách tội, chỉ muốn nghe lời thật mà thôi.”
Đường Phạm đáp: “Hạ quan không dám nói thay người khác, nhưng năm Thành Hóa thứ ba, ngài lấy thân phận Hữu phó đô ngự sử tuần phủ Ninh Hạ, chính là nhờ ngài đề xướng và chủ trì, Ninh Hạ thành mới từ tường đất được xây lại thành gạch đá. Sau đó ngài đích thân dẫn dắt việc dẫn nước sông Hoàng tưới tiêu hơn bảy trăm mẫu ruộng ở Linh Châu, ân trạch phủ khắp dân sinh. Mấy việc công đức ấy ai cũng ghi nhớ, dân Ninh Hạ coi ngài như cha mẹ tái sinh. Nếu một người như ngài mà cũng bị gọi là tượng đất, vậy thì văn võ bá quan trong triều có mấy người thật sự làm được việc?”
Quả thật, tuy Trương Dĩnh bị gọi là “Tượng đất Thượng thư”, nhưng lão không phải lúc nào cũng là người chỉ biết trà nước nhởn nhơ như bây giờ. Lão cũng từng nhiệt huyết tràn đầy, tận trung vì nước, làm lợi cho dân; từng có thành tích hiển hách, tự nhận là bậc năng thần. Nhưng người đời chỉ nhìn thấy ông hiện tại suốt ngày nhàn tản uống trà, thì cho rằng lão trước nay vẫn như thế.
Nếu không phải nhờ Tùy Châu cho xem lý lịch của Trương Dĩnh, Đường Phạm cũng không biết lão từng có một thời gian phong quang đến vậy.
Quả nhiên, Trương Dĩnh lộ vẻ xúc động:
“Ngươi làm sao biết mấy chuyện này?”
Đường Phạm mỉm cười: “Sư phụ của hạ quan – Khâu Tuấn – từng nhiều lần khen ngợi Thượng thư là bậc năng thần cương trực. Sau khi biết hạ quan được bổ nhiệm đến Bộ Hình, liền viết thư bảo hạ quan phải cố gắng học hỏi từ ngài!”
Tất nhiên Đường Phạm đang… nịnh khéo. Cũng là để cho Trương Dĩnh một cái cớ hợp lý – chứ chẳng lẽ lại nói: Ta coi hồ sơ ngài từ Cẩm y vệ sao?
Trương Dĩnh nghe thế thì vừa cảm động vừa áy náy: “Không ngờ Khâu đại nhân lại đánh giá cao ta đến vậy. Chỉ tiếc nay ta đã già yếu, chẳng còn là người năm xưa nữa rồi!”
Đường Phạm thành khẩn: “Người đời khen chê không quan trọng, trăm năm sau lịch sử sẽ đưa ra phán xét công bằng cho đại nhân!”
Trương Dĩnh lăn lộn chốn quan trường nhiều năm, vốn không dễ xúc động, nhưng lời nói hôm nay của Đường Phạm lại nói trúng nỗi niềm chôn sâu trong lòng ông. Ngày nay ai cũng sợ vạ, chỉ mong an phận qua ngày.
Lão làm quan càng lâu, nhìn càng nhiều, trải càng nhiều, lại càng mất lòng tin, dần chôn vùi hết nhiệt huyết năm xưa, cũng học người ta “trồng hoa nuôi chim” mà sống cho xong.
Ai ngờ, chính vì vậy mà bị người ta gom chung với mấy vị vô năng như Ấn Khiêm, Lưu Chiêu, cùng bị đặt cho cái tên giễu cợt: “Sáu vị tượng đất”. Nghe riết rồi ông cũng quen luôn.
Vậy mà hôm nay, lại bị một viên tiểu lang trung nhìn thấu nỗi oan khuất trong lòng. Sao người có thể không xúc động?
Nhờ cuộc nói chuyện này, quan hệ giữa hai người lập tức thân thiết hơn nhiều.
Trương Dĩnh đổi giọng, xưng hô thân mật hơn: “Nhuận Thanh, vụ án này tuy rắc rối, nhưng đã được hoàng thượng đích thân để mắt. Nếu ngươi xử lý tốt, con đường làm quan sau này của ngươi chắc chắn sẽ rộng mở.”
Hiển nhiên, Trương Dĩnh nay đã coi Đường Phạm là “nửa người nhà”, nếu không thì đã chẳng nhắn nhủ kỹ càng như vậy.
Không chỉ vì Đường Phạm nói được câu vừa lòng, mà còn vì y là người không có gốc rễ trong Bộ Hình, lại mới đắc tội với Lương Thị lang, người duy nhất y có thể nương nhờ cũng chỉ còn Trương Dĩnh.
Một người trẻ thông minh biết tiến thoái như vậy, Trương Dĩnh đương nhiên sinh lòng muốn nâng đỡ.
Đường Phạm lập tức hiểu ý, cúi mình cảm tạ: “Đa tạ bộ đường chỉ điểm, hạ quan nhất định sẽ toàn lực điều tra vụ án này!”
Trương Dĩnh hài lòng gật đầu: “Chỉ là lần này điều tra cùng với Cẩm y vệ hơi bất tiện một chút. Nghe nói Trấn phủ sứ Bắc trấn phủ ty cũng sẽ đích thân đi. Nội các định để ngươi làm chính sứ, hắn làm phó sứ, cả hai cùng là Khâm sai. Nhưng Cẩm y vệ xưa nay đặc thù, chưa chắc chuyện gì cũng nghe theo ngươi. Có điều lần trước ngươi còn khiến Cẩm y vệ giúp điều tra vụ án của Doãn Nguyên Hóa, xem ra quan hệ cũng không tệ, ta cũng không lo lắng gì cho ngươi.”
Đường Phạm hơi ngại ngùng: “Lần trước hạ quan hành sự hấp tấp, làm phiền tới bộ đường, mong được tha thứ.”
Trương Dĩnh cười: “Lương Văn Hoa xưa nay cao ngạo, cứ tưởng Bộ Hình là thiên hạ một tay hắn, đúng là nên có người dập bớt lửa khí của hắn. Nhưng dù sao trên dưới có tôn ti, khi đối mặt với hắn, ngươi vẫn nên khiêm cung một chút, đừng để người ta bắt thóp.”
Đường Phạm tất nhiên răm rắp nghe theo. Việc này nên làm sớm chứ không nên chậm trễ. Sau khi bàn giao lại công việc cho Đới Hoành Minh, để y tạm thời quản lý Hà Nam Thanh liêm ty trong thời gian hắn vắng mặt, lại để lại hai viên tư lại cho y sai sử. Còn mình thì mang theo Doãn Nguyên Hóa cùng hai viên lại là Trình Văn và Điền Tuyên, cùng nhân thủ bên Cẩm y vệ rời kinh đến Hà Nam.
Theo lệ, Doãn Nguyên Hóa vốn không cần phải đi, vì hắn là phó ty, khi Đường Phạm vắng mặt thì hắn nên ở lại quản lý Hà Nam Thanh liêm ty mới phải.
Nhưng chẳng hiểu trúng gió gì, lại chủ động xin đi theo. Lương Thị lang cũng gật đầu, nói vụ án này nghiêm trọng, Hà Nam Thanh liêm ty nên cả chính lẫn phó cùng đi mới thể hiện được mức độ coi trọng.
Thế là... lại để cho Đới Hoằng Minh được lợi, tạm thời từ chức Chủ sự nhảy lên làm Lang trung, nắm quyền Hà Nam Thanh liêm ty.
Cuối tháng Năm, cả đoàn rời khỏi kinh sư, tiến về huyện Củng, phủ Hà Nam.
Tác giả có lời muốn nói:
Gà gà gà! Chương này kể nhiều chuyện ghê luôn á~
Tôi phát hiện tên mình ẩn giấu một bí mật to lớn! Thì ra tôi tên là Mộng Khê Thạch (萌溪石), bảo sao lại “萌” (dễ thương) đến vậy…
[Độc giả: ( ̄e(# ̄)☆╰╮( ̄▽ ̄///)]
Trong quan trường thời Minh sơ – Minh trung, có một đặc điểm rất rõ: dù cũng có tranh đấu, nhưng đối với người trẻ tài năng, rất nhiều vị tiền bối thực sự sẵn lòng bảo vệ, không phải vì lợi ích gì, mà là vì họ thật lòng hy vọng những người trẻ đó sau này sẽ trở thành rường cột quốc gia.
Điều này về sau gần như không còn thấy nữa – có thể xem là một luồng “
Bạn đang đọc truyện trên: truyentop.pro