Chương 34,35,36

Chương 34


Đầu năm 1959, một sự hoảng hốt bao trùm thành phố Bắc Kinh. Có tin đồn sắp tới các công xã cũng sẽ được thành lập ở các thành phố. Mọi người đều nghĩ tài sản cá nhân của họ sẽ sắp phải sung công và trở thành tài sản của nhà nước. Thế là thành phố Bắc Kinh biến thành một cái trọ trời khổng lồ. Ai cũng tìm cách bán những tài sản qní giá của họ để giữ lấy đồng tiền. một khi những tài sản còn lại của họ bị sung vào công xã.

Cuộc sống của gia đình tôi sa sút trông thấy kể từ khi bắt đầu chiến dịch đại nhảy vọt và cũng vì phần lớn thời gian trong năm l958 tôi phải đi với Mao trong các chuyến công du của ông, nên tôi chẳng giúp được họ hàng nhiều. Tôi vui mừng vì cuối cùng tôi đã trở về. Mẹ tôi lo ngại bà sẽ bị cưỡng bức đi lao động ở công xã của thành phố, mặc dù bà đã già yếu và hàng ngày phải trông nom hai đứa con trai tôi trong khi vợ tôi đi làm. Nếu công xã được thành lập, thì ai sẽ chăm sóc những đứa trẻ. Mao muốn bọn trẻ đến nhà trẻ của nhà nnớc. Trong lúc tin đồn còn chưa lắng, thì người ta đã đề nghị tôi và Lý Liên, cũng như mẹ tôi và các con trai tôi, chuyển đến sống ở Trung Nam Hải. Nhưng tôi không muốn đưa gia đình tôi vào sống trong khu dinh thự đó khi chưa thật cần thiết. Đồng thời, tôi cũng cần có một nơi để tạm lánh, mỗi khi có thể được. Đối với tôi, nơi ở cũ của gia đình tôi luôn luôn là nơi duy nhất, mà tại đó chúng tôi thực sự là một gia đình, giúp chúng tôi có thể quên đi những lo âu để vui cười và tận hưởng hạnh phúc. Vì thế, tôi muốn giữ lại cho mình nơi ẩn náu này.

Mao đã nghe thấy những lời ta thán thê lương của nhân dân thành phố nên ông vội bỏ kế hoạch thành lập công xã ở thành phố. Tuy vậy, phần lớn tài sản của gia đình tôi đã bị tịch thu. Mấy vị cán bộ hay soi mói ở khu phố tôi đã phát giác rằng mẹ tôl và hai con trai tôi chỉ ở trong 5 căn phòng ở toà nhà đồ sộ có tới 3o phòng của gia đình tôi. Mẹ tôi để cho mấy người họ hàng ở trong một số phòng. Những phần còn lại được cho thuê với giá tượng trưng. Mùa đông 1957-1958 khi chiến dịch tuyên truyền mang tính chất tả khuynh lên đến đỉnh cao, chính quyền địa phương nơi gia đình tôi ở, Sở nhà cửa thành phố Bắc Kinh Sở công an đã quyết định sung công cả tòa nhà của gia đình tôi, trừ những căn phòng mà mẹ và các con tôi đang ở. Dĩ nhiên. người ta không gọi việc làm này là sung công. Mẹ tôi được đền bù vì đã tự nguyện bán toà nhà của bà và bà cũng đồng chủ nhà khi có người dọn đến ở. Mặc dù vậy mẹ tôi và tôi vẫn sững sờ vì toà nhà là di sản của chúng tôi và thuộc quyền sở hữu của chúng tôi từ nhiều thế hệ nay. Vợ tôi giục tôi hãy đến trình bày với cấp trên của tôi ở Ban Anh Ninh và Ban y tế trung ương. Có thể tôi sẽ đạt được thỏa thuận nào chăng.

Cá tôi cũng phát hoảng, nhưng tôi không thể đòi hỏi một cách giải quyết đặc biệt được. Gia đình tôi đã được luôn luôn ưu đãi trong khi hầu hết những người cùng làm việc với tôi đều xuất thân từ nông dân nghèo khó. Cấp trên của tôi chẳng có lý do gì để cho tôi tíep tục sở hữn ngôi nhà gia đình tôi - nhất là trong giai đoạn mà bâu không khí khuynh tả đang thắng thế. Có thể những cố gắng của tôi sẽ dẫn đến kết quả là tôi là lời đề nghị chuyển gia đình tôi vào ở Trung Nam Hải. Và đó lại là điều tôi muốn tránh. Vì vậy chúng tôi đành phải từ bỏ tài sản của gia đình chúng tôi. Chúng tôi chỉ còn lại những căn phòng mà mẹ và các con tôi đang ở. Người ta đã mua tòa nhà với số tiền tượng trưng đến nực cười đến nỗi có thể nói là chúng tôi đã tặng không tòa nhà cho nhà nước. Còn mẹ tôi cũng không thể tham gia ý kiến khi cần chọn lựa ai đó đến thuê nhà.

Tôi tìm mọi cách an ủi mẹ tôi và cố giải thích cho bà hiểu rằng bà vẫn có thể vui mừng vì vẫn còn căn phòng nữa, trong khi những cán hộ trong thành phố thường chật chội và đa số mọi người chỉ có hai bàn tay trắng. Vào mùa đông năm l958 - l959 này, thực phẩm trở nên khan hiếm và tình trạng của mẹ tôi ngày càng xấu đi trông thấy. Lý Liên vẫn ăn ở nhà ăn trong Trung Nam Hải mỗi khi tôi tới đó. Tôi cùng ăn với Lý Liên. Bữa ăn không có thịt, thức ăn ngày càng tệ hơn. nhưng vẫn đủ. Trung Nam Hải là nơi cuối cùng mà người ta cảm nhận được sự khủng hoảng về lưu thông phân phối phối. Mẹ tôi thiếu cả những thực phảm thiết yếu. Trước các cửa hàng thực phẩm những hàng người đứng xếp hàng rồng rắn.

Hồi đó, mẹ tôi đã ngoài 70 tuổi, bà thường đau ốm hơn trước. Bà mắc chứng cao hyết áp. Chúng tôi nhờ hàng xóm đi chợ giúp mẹ tôi. Nhưng tình tạng kinh tế mỗi tháng một tồi hơn. Vậy mà Điền Gia Anh nói đây mới chỉ là bước đầu. Nông dân đã trở thành nạn nhân của sự thiếu thốn và trước mắt vẫn chưa thấy có gì khá hơn. Vì tình trạng khủng hoảng ngày càng trầm trọng, nên tôi mong Mao sẽ ở lại Bắc Kinh. Nhưng tôi đã thất vọng.

Một buổi tối cuối tháng giêng năm l959, tôi tôi thăm Hồ Kiều Mục đang nằm trong bệnh viện Bắc Kinh để điều trị bệnh lóet dạ dày tái phát. ở đó tôi nhận được lệnh khẩn: toi phải trở về nhóm Một ngay lập tức. Chắc là Mao ốm đột ngột. Tôi vọt ra ngoài, thậm chí không kịp mang theo chiếc cả chiếc áo pullover. Tôi nhảy lên xe đạp và lao ra cổng bệnh viện đúng lúc vệ sĩ Tiểu Lý đánh xe ô tô rẽ vào. Thì ra Mao quyết định đi thăm Mãn Châu. Ông muốn khởi hành ngay.

Chủ tịch đã lên đường ra sân bay khi tôi vừa về đên Trung Nam Hải. Ông đã mang theo dụng cụ đồ lề của tôi và một chiếc ô-tô đang chờ tôi. Tôi chẳng còn thời gian để gói ghém bàn chải đánh răng, chứ chưa nói đến thu xếp quần áo. Chúng tôi đến sân bay đúng lúc máy bay của Mao vừa cất cánh. Một chiếc máy bay khác đang nổ máy chờ chúng tôi. Tôi và Tiểu Lý là hành khách duy nhất của chiếc máy bay này. Khi chúng tôi vừa lên khoang thì máy bay cũng rời đường băng. Vài giờ sau tôi rời khỏi máy bay ở Tân Cương, thuộc tỉnh Liêu Ninh nơi lạnh nhất của Trung quốc vào tháng lạnh nhất của năm mà không có áo khoác không có áo pullover. Thật may, các phòng được sưởi ấm, chẳng bù cho lúc ở ngoài tôi đã bị cóng một cách thảm hại. Mao đùa:

- Đồng chí đã bán hết quần áo vì chiến dịch đại nhảy vọt hay đã quyên góp cho công xã nhân dân rồi?

Thật là phúc, chuyến công du này chỉ kéo dài 5 ngày. Chủ tịch đến miền Bắc Trung quốc vì ở đó có mỏ than lớn nhất và các nhà máy luyện kim. Ông muốn biết người ta luyện thép như thế nào và chất lượng thép của các lò luyện kim gia đình được đánh giá ra sao. Ông định bãi bỏ việc sản xuất thép để giải thoát nông dân khỏi tình trạng kiệt quệ về nhiên liệu và tước quyền bọn quan liêu trong nền kinh tế tập trung đang làm tê liệt các ngành. Nhưng Mao vẫn chưa tìm được câu hỏi mà ông thường căn vặn tôi: Tại sao các nước công nghiệp tiên tiến phương Tây lại sử dụng các cơ sở sản xuất khổng lồ, trong khi các lò luyện kim gia đình nhỏ xíu cũng có thể sản xuất được thép có chất lượng tốt? Ngoài ra, ông còn quan tâm đến việc người ta đốt nóng các lò này như thế nào. ở nông thôn, nơi mà nhiên liện trở nên khan hiếm sau khi cây rừng bị đốn hết, nông dân đã phải đốt cả cửa và những đồ đạc bằng gỗ của họ để nnôi ngọn lửa trong lò. Những nhà máy luyện kim lớn và hiện đại ở vùng Tây Bắc có một khoản dự trữ than khổng lồ nên Mao muốn tận mắt nhìn thấy các cơ sở luyện kim và các mỏ than.

Bài học mà ông thu được trong chuyến đi này là chỉ có những nhà máy luyện kim lớn hiện đại với nhiệt độ nung thích hợp chẳng hạn được đốt nóng bằng than mới có thể sản xuất thép có chất lượng cao. Thế nhưng ông vẫn không ra lệnh đình chỉ việc sản xuất thép của các lò luyện kim gia đình. Sự lãng phí to lớn sức người và sức của không làm ông lo ngại nhất. Mà Mao chẳng muốn làm nguội đi một chút nào lòng nhiệt tình của quần chúng.

Chúng tôi trở về Bắc Kinh ít lâu thì Mao lại tiếp tục đi Thiên Tân. Tế Nam, Nam Kinh, Thượng Hải và Hàng Châu. Ông mời La Thụy Khanh và Dương Thượng Côn cùng đi, vì ông muốn lợi dụng chuyến đi này để cải tạo họ.

Cả hai đã không còn được Chủ tịch quí mến như xưa nên họ rất lấy làm vinh dự khi nhận lời mời này. La Thụy Khanh, người lúc nào cũng trung thành với Mao vẫn luôn tìm cách lấy lòng Mao bằng cách ông tránh xa cơ quan an ninh và thậm chí ông còn đi bơi - Thế nhưng ông vẫn chưa lấy lại được toàn bộ lòng tin của Mao đối với ông.

Dương Thượng Côn, người vẫn còn cay cú do bị cách chức bí thư Ban chấp hành trung ương sau vụ những lá cờ đen vài tháng trước đây cũng ra sức lấy lòng Mao - ông tập trung vào những công việc hành chính thay vì những công việc chính trị, cốt tỏ ra là người giúp việc tin cẩn không hề có bất kỳ mối tham vọng chính trị nào. Do bị cô lập và cảm thấy bấp bênh, Dương đã theo Đặng Tiểu Bình người sẽ che chở cho ông trước những biến cố chính trị khó lường - Dương ít có cơ hội gặp Mao, nên ông có vẻ rất phấn khởi khi được đi cùng với Mao.

Chuyến đi này lại là một chuyến đi thanh tra. Chúng tôi tới thăm các nhà máy, các trường dại học các công xã và các trường học - Các nhà lãnh đạo đảng - quân đội nồng nhiệt bắt tay Chủ tịch với những lòi ca tụng và hứa luôn trung lhành với Mao - Mặc dù tình hình kinh tế ngày một xấu đi. nhưng sự tôn sùng Mao lại tăng lên. Khi thực phẩm khan hiếm người ta không quy trách nhiệm cho Mao mà lại đổ cho giới lãnh đạo ở địa phương. Ai cũng tin rằng Chủ tịch đến để uốn nắn lại những sai lầm. Thái độ này của dân chúng đối với Mao bắt nguồn từ truyền thống của Trung quốc: vua không bao giờ sai, cùng lắm là do đám quan lại trong triều báo cáo láo hoặc cố vấn sai. ở đâu cũng có những đám đông khổng lồ đón tiếp, và chào Mao với những tràng pháo tay như sấm và tiếng hô to: Mao Chủ tịch muôn năm! Mao cho La và Dương thấy dân chúng tôn sùng ông đến mức nào và ông đã đại được mục đích của mình. La Thụy Khanh và Dương Thượng Côn rất xúc động. Với lời mời của mình. Chủ tịch đã tạo được ở Dương và La sự kính trọng sâu sắc đối với ông. Hai ông đã ngập trong ánh hào quang xung quanh Chủ tịch.

Dương Thượng Côn chỉ còn tiếc mỗi một việc là trong chuyến đi. Mao đã nói nhiều đến đề tài như có thể tổ chức các mối quan hệ giữa công nghiệp và nông nghiệp như thế nào, phải xây dựng các công xã nhân dân ra sao, làm thế nào để phân phối và trả lương cho công bằng. Nhưng chẳng ai ghi lại những lời giáo hnấn của Chủ tịch. Một đêm, khi nói với La Thụy Khanh và một sự cộng sự khác. Dương nói ông luôn tìm cách ghi lại những lời nói của Chủ tịch - trong các chuyến công du qua các tỉnh. Mao thường nói về những dự định chính trị của ông, nhưng Ban bí thư trung ương chẳng nhận được thông tin gì về việc này - nên không thể ghi lại những lời phát biểu của ông, để trình bày những phương hướng chính trị trên giấy. Các cán bộ địa phương cũng gặp phải những vấn đề như vậy. Họ có thể gửi những bài bình luận của Mao tới các cấp cao hơn - đến Lưu Thiếu Kỳ và Đặng Tiểu Bình - nhưng nếu không có những văn bản chính thức thì chẳng ai muốn truyền đạt lại chính sách với những thông tin từ các tỉnh gửi về. Dương Thượng Côn nói: Chúng ta phải nghĩ xem làm thế nào chúng ta ghi lại được lời Chủ tịch nói và có thể nộp tất cả các biên bản cho Ban bí thư trung ương để rồi họ đánh giá phân tích. Đó là sáng kiến độc đáo của một cấp dưới vốn không quên ơn Chủ tịch.

Diệp Tử Long kể với tôi. Dương đã đề nghị ông ta xin Mao cho ông mang theo một người ghi tốc ký trong các chuyến công du sau này. Như vậy. trung ương sẽ có biên bản đày đủ về những lời nói của Mao - nhưng Mao không muốn có người ghi tốc ký. Ông coi những ý kiến của ông chỉ là phụ và ông cũng biết lời nói của ông có sức mạnh - Cả đất nước Trung hoa vội vã thành lập công xã nhân dân khi Mao vừa mới tuyên bố: Công xã thật là tuyệt. Ông không mnốn một nhận xét tình cờ bỗng nhiên lại trở thành một chính sách cụ thể và như vậy trách nhiệm sẽ quá lớn. Ngay sau đó một toán nhân viên kỹ thuật của cơ quan công an đã lên đoàn tàu của Mao để lắp máy nghe trộm trong toa ngủ của ông và trong phòng khách. Những chiếc microphon nhỏ xíu được gắn trong các chụp đèn, đèn treo tường và trong các lọ hoa để Mao không phát hiẽn được.

Những chiếc microphon này được nối với một máy ghi âm ở một toa khác nơi có một nhân viên kỹ thuật trẻ tên là Lưu làm việc. Anh ta thu ráp nối các cuộc nói chuyện và bảo quản hệ thống máy móc này. Mao không bao giờ biết nhiệm vụ của Lưu là gì, nhưng chàng trai trẻ này theo chúng tôi đi khắp nơi trong các chuyến công du - Sau này Diệp Tử Long cho tôi biết người ta cũng đã gắn những máy như vậy trong các nhà khách ở các tỉnh mà Mao thường hay lui tới. Những nhân viên nhóm Một chúng tôi có nhiệm vụ phải giữ bí mật tuyệt đối. Việc nghe trộm Chủ tịch như Diệp Tử Long cho chúng tôi biết là do thượng cấp quyết định. Nếu bí mật này bị tiết lộ hậu quả sẽ rất khủng khiếp. Tất cả chúng tôi đều phải nín lặng. Đảng đã ra lệnh chúng tôi phải chấp hành. Không một ai trong chúng tôi biết quyết định này sẽ mang lại tai họa như thế nào.


  Chương 35


Khi hội nghị trung ương đảng lần thứ 7 khóa 8 diễn ra từ ngày 2 đến ngày 5 tháng 4 năm 1959 ở Thượng Hải. Mao vẫn luôn tỏ ra lạc quan. Lòng tin của ông vào đại nhảy vọt và vào công xã nhân dân vẫn không thay đổi - Tuy chiến dịch đại nhảy vọt đã vấp phải một số vấn đề nhỏ nhưng có thể giải quyết được. Cơ cấu tổ chức của các công xã phải được hoàn thiện có nghĩa là phải định ra chính sách điều tiết sức lao động giữa các lò luyện kim gia đình và sản xuất nông nghiệp. Mao đã kéo quá nhiều đàn ông khỏe mạnh khỏi công việc đồng áng. Phương thức trả lương ở các công xã được điều chỉnh và các khoản thuế cũng phải được giảm bởi bớt sao cho hợp lý hơn.

Lo ngại lớn nhất của Mao không phải là thiếu lương thực, những chỉ tiêu kế hoạch quá cao hay những lò luyện kim gia đình đã phung phí quá nhiều sức lao động và tạo ra vô số phế phẩm, mà ông lo nhất là tính sáng tạo của quần chúng đã được phong trào đại nhảy vọt cởi trói sẽ bị kìm hãm. Nếu ông nhận thức được rằng đất nước sẽ đang tới gần một thảm họa, thì không bao giờ ông để lộ suy nghĩ này. Tôi cũng luôn cho rằng những vấn đề hiện tại chỉ là tạm thời. Đó là hậu quả do khó khăn trong việc liên lạc với các cấp cơ sở ở địa phương. Tôi đồng ý với Mao và bỏ ngoài tai mọi dư luận bên ngoài.

Trong thời gian Hội nghị họp ở Thượng Hải. Mao ở trên đoàn tàu của ông. Vĩ một là ông không ưa cách bài trí trưởng giả trong nơi ở cũ của Silas Hardoon: hai là ông vẫn quan hệ với có Tiểu Lý, y tá đi theo đoàn tàu đặc biệt của ông. Tối nào ông cũng đi với Tiểu Lý đến câu lạc bộ Tân Cương vốn là của Pháp trước đây và bây giờ trở thành nơi đàng điếm sang trọng dành cho các cán bộ cao cấp.

Biết Mao đặc biệt sủng ái giới nữ nên cơ quan an ninh địa phương đã bố trí để Mao gặp các nữ diên viên và nữ danh ca nổi tiếng nhất của Thượng Hải. Thế nhưng Mao chẳng hề để mắt đến những phụ nữ này. Đối với Mao. họ quá già và biết quá nhiều - Mao chỉ thích những cô gái trẻ, thơ ngây vì họ dễ xiêu lòng hơn - Thế là tối tối cơ quan an ninh thành phố Thượng Hải lại phải đưa các thiếu nữ từ các đoàn văn công đến trình diễn cho Mao xem.

Kha Thanh Thế cũng cho trình diễn một vở kinh kịch nữa về Hải Thụy. Năm ngoái, khi Mao ở Trường Sa, câu chuyện về nhân vật này đã từng gây ấn tượng mạnh đối với ông - Trong vở diễn, Hải Thụy đã phải ngồi tù vì ông phái hiện ra một cách trơ trẽn rằng cái tên của vua là Gia Tĩnh lại có nghĩa là vua sẽ đưa nhân dân đến tai họa. Lúc đầu vua dọa sẽ xử trảm Hải Thụy nhưng sau khi đọc lá sớ giải thích của viên quan này lần thứ hai rồi lần thứ ba cuối cùng vua nhận ra rằng Hải Thụy là một người trung thực và cương trực, sẵn sàng quên mình vì hạnh phúc của nhân dân. Tuy Hải Thụy vẫn bị giam trong ngục, nhưng vua đã bãi bỏ án tử hình đối với ông. Một hôm, người coi ngục mang đến cho Hải Thụy một bữa cơm rất thịnh soạn. Viên quan này tưởng rằng đây là bữa ăn cuối cùng của người tử tù. Nhưng khi ông vừa ăn xong, thì người cai ngục liền chúc mừng ông và báo cho ông biết tin vua đã băng hà. Hải Thụy, người thực sự trung thành với vua, đã buồn đến nỗi ông đã nôn hết những gì ông vừa ăn. Một lần nữa Mao lại thán phục Hải Thụy, Mao bắt đầu quảng bá tư cách của Hải Thụy bằng cách cho in tiểu sử Hải Thụy và phân phát cho những người tham dự Hội nghị. Ông hối thúc họ noi gương Hải Thụy. Sau này ông đề nghị các nhà sử học phải nghiên cứu kỹ hơn nữa về Hải Thụy và các bài viết của họ đã được đăng trên các báo chí cả nước. ở Thượng Hải và Bắc Kinh người ta đã dàn dựng những vở kịch hiện đại Hải Thụy khiến viên quan đời nhà Minh này trở thành người anh hùng của dân tộc.

Lòng ngưỡng mộ của Mao đối với Hải Thụy cũng tiềm ẩn nỗi trớ trêu - Cũng vì sau này nhân vật Hải Thụy trở thành một biểu tượng chủ yếu của sự bất bình đối với chiến dịch làm trong sạch đảng, chống lại Bành Đức Hoài và đối với việc khởi đầu của cách mạng văn hoá nên tôi thường ngẫm nghĩ ý nghĩa của nhân vật này đối với Mao. Tính khí của Mao thật phức tạp và đầy thuẫn. Cũng như vua, Mao tin là ông không hề làm gì sai trái - Nếu có một quyết định nào sai, thì lỗi không phải ở ông, mà chỉ vì ông nhận được tin tức sai. Vua không hề nhầm lẫn được, nhưng vẫn có thể bị lừa.

Mao đặc biệt thích Hải Thụy vì ba lý do: Hải Thụy chỉ nói sự thật, luôn trung thành với vua và mặc dù bị kết án oan, ông chịu chết không một lời phản kháng để giữ tiếng cho vua và giữ hạnh phúc cho nhân dân. Hải Thụy không đổ lỗi cho vua mỗi khi có việc gì đó không thành, mà quy tội cho bọn quan lại lừa lọc và đồi bại.

Mao cũng muốn người ta luôn nói sự thật với ông. Mặc dù đến nay tôi đã tỉnh ngộ nhưng tôi vẫn thường cho rằng nếu Mao biết được toàn bộ sự thật ngay từ khi chiến dịch bắt đầu thì ông đã ngăn chặn ngay sự tiến triển đày tai họa này từ rất sớm. Tuy nhiên, phải có một Hải Thụy hiện đại có những điều kiện của riêng ông ta thì mới có thể nói cho Mao biết được sự thật. Nhưng Mao lại không thể chấp nhận được sự thật, nếu sự thật đó chứa đựng những lời chỉ trích ông, hoặc bắt nguồn từ những quan chức thâm hiểm, có lẽ, cũng đang thèm khát quyền lực của ông. Cho nên, nói cho ông biết sự thật là nhiệm vụ của những người không có tham vọng chính trị.

Nhưng chỉ có rất ít người như vậy leo đến được chức vụ cao trong bộ máy quyền lực chính trị. Trong thực tế hầu như chẳng có một cán bộ nào không thành kiến, không vụ lợi mà lại dám sẵn sàng đứng ra vì hạnh phúc của đất nước. Vì Mao biết quá rõ lịch sử Trung quốc với tất cả các cuộc phân tranh quyền lực và các thủ đoạn chính trị - nên ông cũng đã tính đến những âm mưu trong triều đình của ông và chính ông cũng tham gia trò choi này.

Như vậy việc Mao khuyến khích người noi gương Hải Thụy cũng như như việc ông kêu gọi trí thức phê phán đảng đều nằm trong chiến lược có chủ định của riêng ông. Ông muốn nghe sự thật từ những người tuyệt đối trung thành với ông và không hề có tham vọng chính trị. Tuy nhiên việc Mao đề cao Hải Thụy là một xảo thuật để nhử kẻ thù bò ra khỏi hang. Cũng như vua, Mao tự cho mình được độc quyền phán xét xem ai là thuộc hạ trung thành, ai là người chỉ phê phán vua để củng cố quyền lợi của chính người đó. Nhưng lập luận của Mao vẫn có những kẽ hở. Trong khi Mao đánh giá rất cao những ông vua như Tần Thủy Hoàng, vua Chu, vua Tùy Dạng, những ông vua mà nhân dân căm giận nhất, thì đa số những người đã đọc truyện về Hải Thụy đều coi những ông vua đó và cả vua Gia Tĩnh là những kẻ tàn bạo và bất công. Nhiều thuộc hạ thân tín của Mao tỏ ra sẽ trung thành với Mao như Hải Thụy trung với vua. Mao khẳng định rằng hẳn là những cán bộ cấp dưới đã nói dối vì họ phải chịu sức ép từ trên xuống và do đó họ đã phê bình cả những nhân viên của chính họ. Nhưng sức ép đó lại chính do Mao gây ra. Năm 1958, ông quy cho những người đã phê phán ông là hữu khuynh và trừng phạt họ một cách không thương tiếc. Sau đó, ông thường lôi kéo đảng vào những chiến dịch mới và khích cán bộ lãnh đạo phải nâng cao chỉ tiêu sản xuất. Chính ông đã tạo ra bầu không khí khiến các nhà chính trị khác khó có thể nói lên sự thật và các cán bộ cấp cao của đảng vì trung thành hoặc vì sợ ông mà phải theo ông. Mao không nhận thấy sai lầm của chính ông ở những cán bộ lãnh đạo khác của đảng ở đám quan lại đồi bại trong triều đình Gia Tĩnh. Lòng hâm mộ Hải Thụy của ông còn giúp ông đổ lỗi của mình cho người khác. Tuy nhiên, những người như Châu Tiểu Châu lại hiểu lịch sử một cách khác. Họ là những người như Hải Thụy thuộc hạ tin cẩn của Mao, họ đã bị kết tội và bị phạt oan, khiến Mao không còn là một ông vua xứng đáng của họ nữa.

Giữa tháng 4 năm 1959, chúng tôi trở về Bắc Kinh để dự kỳ họp thứ nhất của Đại hội nhân dân toàn quốc khóa hai - tức là Quốc hội ở Trung quốc. Hội đồng nhân dân - theo chỉ thị của ủy ban trung ương đảng, chấp thuận việc Mao xin từ chức Chủ tịch nước và bầu Lưu Thiếu Kỳ lên thay. Còn Chu Đức vẫn tiếp tục điều hành ủy ban Thường vụ Hội đồng nhân dân. Tống Khánh Linh và Đổng Bích Vũ được bầu làm phó Chủ tịch nước.

Việc Mao từ chức và bầu Lưu Thiếu Kỳ vào chức vụ trên đã đươc dự định từ lâu và sự thay đổi này cho đến lúc đó vẫn chưa được công bố. Đến lúc này, cả hai chức được goi là Chủ tịch - Chủ tịch đảng cộng sản Trung quốc Chủ tịch nước Cộng hòa nhân dân Trung hoa - đều trong tay Mao và chỉ có một mình Mao có chức danh này. Từ khi bổ nhiệm Lưu Thiếu Kỳ giữ chức Chủ tịch nước ở Trung quốc nơi mà chức danh được coi là quan trọng, có hai Chủ tịch. Điều này khiến Mao không chịu được. Việc Trung quốc có hai Chủ tịch trong khi Mao vẫn nắm quyền tối thượng đã kéo theo những hậu quả chính trị mà tôi và đa số nhân dân Trung quốc lúc đó không thể lường hết được. Thế nhưng trận đấu của Mao để đoạt lại quyền giữ chức Chủ tịch duy nhất của Trung quốc đã bắt đầu và sẽ được kết thúc bằng sự sụp đổ của Lưu Thiếu Kỳ với việc ông bị phế truất khỏi chức Chủ tịch nước Cộng hoà Nhân dân Trung hoa.

Chúng tôi ở lại Bắc Kinh một tháng và cuối tháng chúng tôi lại lên tàu xuôi xuống miền Nam Trung quốc.

  Chương 36


Tất cả đều đổi thay. Lửa trong những lò luyện kim gia đình đã lụi. Người ta cũng không còn thấy phụ nữ với những bộ quần áo sặc sỡ nữa. Trên các cánh đồng không có một bóng người. Không còn những vụ mùa bội thu. Thành phố Vũ Hán, nơi vẫn do bạn Mao là Vương Nhiệm Trọng lãnh đạo đang lâm vào tình trạng vô vọng.

Như thường lệ, chúng tôi ăn ở nhà khách Mỹ Viên, nhưng lần này chẳng có nhiều thưởng thức. Thỉnh thoảng người ta chiêu đãi chúng tôi món cá. Còn rau xanh thì thật là hiếm hoi. Khắp nơi trong tỉnh người ta chẳng lần nổi thuốc lá hay dăm que diêm, các cửa hàng rỗng tuếch, mọi thứ đều đã bán sạch.

Mới vài tháng trước đây, Vương Nhiệm Trọng, người luôn luôn nịnh bợ Mao còn khoe rằng: ở Hồ Bắc mỗi mẫu người ta sẽ thu hoạch được từ 10 đến 20 nghìn cân lúa (1 cân Trung quốc = 0, 45 kg ND). Thế mà bây giờ nạn đói đang hoành hành ở đó.

ở Trường Sa thuộc tỉnh Hồ Nam, quê Mao, tình hình có khá hơn, ở đó lương thực cũng không còn nhiều như trước, nhưng không ai bị đói và những quán ăn nhỏ ngoài đường vẫn còn phục vụ được khách hàng. Chúng tôi ở trong nhà khách Vườn Sen tráng lệ, gồm những tòa nhà hiện đại, rất đẹp và có đầm sen bao quanh. Nước trà và thuốc lá ở trong phòng chúng tôi thật nhạt nhẽo và vô vị. Vì quí trọng chúng tôi, nên người ta đã lấy những thứ đó trong kho ra mời. Nhưng các cửa hàng ở đây chưa trống rỗng và trà thuốc lá của vùng này vẫn nổi tiếng là ngon nhất ở Trung quốc. ở Hồ Nam chúng tôi còn được ăn thịt. Đó là món giò đã từng làm tỉnh này nổi danh.

Đối với Châu Tiểu Châu sự trái ngược mỉa mai giữa Hồ Nam và Hồ Bắc chẳng có gì lạ. Viên bí thư tỉnh ủy Hồ Nam này, người đầu tiên cho Mao biết về nhân vật Hải Thụy, đã bị Mao phê phán kịch liệt hồi năm 1957 vì tỉnh của ông không thu hoạch nổi hai vụ một năm. Vương Nhiệm Trọng theo Mao đến Trường Sa. Một hôm, khi La Thụy Khanh, Vương Nhiệm Trọng, Châu Tiểu Châu và tôi ngồi tán chuyện gẫu. Châu không thể kìm được nữa bắt đầu châm chọc Vương. Ông hỏi cay độc: Năm ngoái Triết Giang được khen vì đã đóng góp lương thực rất nhiều cho nhà nước phải không? Còn Hồ Nam lại bị khiển trách. Nhưng bây giờ các đồng chí thử nhìn Hồ Bắc xem. ở đó ngay cả trà và thuốc lá tồn kho cũng chẳng còn. Các đồng chí đã xài hết cả số dự trữ rồi. Tuy chúng tôi nghèo nhưng ít ra chúng tôi vẫn còn dự trữ được.

Vương Nhiệm Trọng lặng lẽ ngoảnh mặt đi, trong khi tất cả chúng tôi lúng túng lặng thinh. Nhưng Châu đã nói đúng, ngay ở ngoài phố người ta đã đủ thấy sự khác biệt. ở Hồ Nam vẫn còn có cái để mà ăn.

Mao quyết định tới thăm làng cũ Thiếu Sơn của ông. Từ năm 1927 tới nay nghĩa là đã 32 năm nay ông chưa về thăm làng.

Việc trở lại Thiếu Sơn sẽ giúp Mao hiểu rõ sự thật. ở Thiếu Sơn sẽ chẳng có những màn kịch được dàn dựng chu đáo.

Ông chẳng tin những cán bộ lãnh đạo - ông biết nơi này quá rõ và ông sẽ phát hiện ra ngay bất cứ mưu đồ nào nhằm qua mặt ông. Vả lại dân làng sẽ cởi mở chuyện trò với ông, họ vốn là những người chất phác, chân thật. Còn Mao cảm thấy dường như ông không có gì xa lạ đối với họ. Ông tin vào những người nông dân.  






Bạn đang đọc truyện trên: truyentop.pro