Anh Hùng? Anh Hùng!
Nguyễn Đông Thanh bất giác nhớ đến một chuyện.
Sau sự kiện Thúc Dao, Nhật Chiêu bị bắt, Cương Mục chép: năm ấy dân đói to, phát sinh chứng dịch.
Cùng một việc này, Sử Ký lại ghi: "năm ấy đói và dịch bệnh, dân không cày cấy được, người chết gối lên nhau".
Cương Mục viết thời Nguyễn thì nói phát sinh dịch bệnh là do dân đói, không nói rõ nguyên do vì sao mà dân không đủ lương ăn. Sử Ký do Ngô Sĩ Liên viết ngay sau khởi nghĩa Lam Sơn lại chỉ viết đơn giản là do chứng dịch nên không cày cấy được, dân mới đói.
Trong chuyện này, ắt có vấn đề.
Cương Mục có thể do kỵ húy, chỉ viết lấp lửng.
Ngô Sĩ Liên lấy quả làm nhân, hẳn là muốn che lấp nguyên nhân thực sự.
Nguyễn Đông Thanh từng kiểm tra tận mắt kho lương ở Nha Nghi. Trong hai trăm tấn lương thực có một nửa là vừa thu hoạch, bao đóng còn mới. Lúc vào thành, dân chúng tuy sợ quân Lam Sơn, nhưng không đến nỗi gầy da bọc xương, lam lũ thê thảm.
Như vậy, chân tướng của cái gọi "nạn đói", khiến "dân chết gối lên nhau", cũng đã rõ ràng.
Chẳng phải thiên tai, mà là nhân họa.
Là một câu "ba ngày không cần tra đao" của Đặng Dung.
Lê Lợi nghiến răng, dậm chân mà lắc đầu. Nguyễn Trãi mặt không đổi sắc. Ba người cứ như vậy đứng bên vệ đường, nhìn dòng lũ "quân nhân nghĩa" của Hậu Trần tràn vào trong thành.
Chẳng mấy, tiếng oán thán váng cả trời đất.
Lê Lợi lắc đầu, vỗ vai Nguyễn Đông Thanh:
"Về. Đi đón hộ vệ của cậu thôi. Nguyễn bá hộ."
Dọc đường, Nguyễn Đông Thanh thấy lính Hậu Trần phá cửa xông vào nhà dân, chẳng mấy chốc máu tươi đã lênh láng đầy đất. Tiếng kêu cứu thất thanh của những người vợ, người mẹ, người con chẳng mấy mà đã bị nhấn chìm bởi giọng cười đầy thú tính.
Bước chân nặng như đổ chì...
Cách mấy bước, lại trông thấy một đám binh lính mình đeo vàng bạc, trên đao móc cái đầu của một ông cụ mà rêu rao giữa phố. Nguyễn Đông Thanh còn nhận ra người nọ chính là ông quan quỳ gối dâng sổ sách hôm nào.
Lại đi nửa dặm, có thể nhìn được cảnh một tên lính già đè nghiến một cô gái xuống bên bờ rào. Trong góc nhà, nằm rũ một xác đàn ông, nơi cổ còn đỏ lòm một vạt máu chưa khô.
Không giống như lúc Trần Thúc Dao chết dưới giáo của Lê Lợi, lần này Nguyễn Đông Thanh không buồn nôn.
Hắn chỉ thấy uất nghẹn nơi cổ họng.
Đây chính là người mà sử sách của Nho giáo viết là cúc cung tận tụy, đầu rơi máu chảy vì nước?
Đây chính là người mà chính sử đắp nặn thành một bậc anh hùng bi ai, ngồi dưới trăng mài kiếm Long Tuyền?
Vậy những người chết hôm nay tính là gì?
Một câu: dân đói to...
Bên dưới, lại che giấu từng chồng xương trắng, che giấu gương mặt nhe nanh, múa vuốt hút máu trăm họ, ăn thịt người dân.
Nguyễn Đông Thanh vô thức bước về nhà.
Cửa phủ bấy giờ đã mở toang, một đám binh lính cầm đao bấy giờ đang đứng hau háu trong sân, vây chặt lấy căn nhà năm gian lại.
Lê Lợi rút gươm, quát:
"Các ngươi muốn làm gì? Chẳng nhẽ còn dám cướp lương, cướp người của tướng quân ta sao?"
Quân lính Hậu Trần thấy rõ là Lê Lợi, mới vội vàng rút đi. Kẻ cầm đầu đi cuối cùng, trước khi ra khỏi phủ còn quay lại giải thích:
"Không biết đây là nơi tướng quân tạm chiếm. Anh em thấy nhà cao cửa rộng, đoán là kẻ này hút không thiếu máu mỡ của dân, bèn rủ nhau cùng vào thay trời hành đạo."
Nguyễn Đông Thanh không nói, chỉ mở cửa phòng.
Trần Yên Chi lúc này mới ló đầu ra, thở phào một cái, hỏi:
"Bên ngoài có chuyện gì thế?"
Nguyễn Đông Thanh nhớ lại cảnh tượng như địa ngục bên ngoài, thẫn thờ ngồi phịch xuống đất. Trong đôi mắt gã, không còn ánh sáng như thường ngày nữa.
Thấy Nguyễn Đông Thanh từ một người tưng tửng, thích đùa biến thành dáng vẻ chán chường, tuyệt vọng như bây giờ, Trần Yên Chi vô cùng giật mình. Cô nàng lui lại một bước, quay đầu hỏi hai người Lê Lợi, Nguyễn Trãi:
"Thanh bị sao thế?"
Lê Lợi lắc đầu, thở dài:
"Đều tại ta."
Nói đoạn, thuật lại mệnh lệnh của Đặng Dung cho cô nàng nghe.
Trần Yên Chi không che miệng ngồi thụp xuống như thiếu nữ bình thường, chỉ là bả vai không ngừng run lên.
Lê Lợi trông thấy, càng lấy làm hổ thẹn.
Hắn tưởng mình làm tiên phong, sớm chiếm Nha Nghi, còn có thể giảm thiểu một chút thương vong của người bình thường.
Thế nhưng Đặng Dung lần này tới, hạ lệnh ba ngày đao không vào vỏ, rõ là có ý muốn đồ thành.
Nguyễn Trãi lắc đầu:
"Thế đạo như thế. Sinh ra ở thời loạn, loại chuyện này ai cũng phải trải qua, không sớm thì muộn thôi. Anh Lợi không cần vơ hết trách nhiệm vào người mình như thế."
"Nhưng..."
Lê Lợi còn muốn nói gì đó, thì bên cạnh, tiếng cười thảm thiết đã cất lên.
"Anh hùng?"
"Anh hùng!"
"Ta cuối cùng cũng hiểu, té ra anh hùng trong lòng ta, và anh hùng do bọn hắn viết, từ xưa đến nay căn bản vốn không phải cùng một người."
Nguyễn Đông Thanh cong lưng, đấm tay xuống nền đất đến bật máu. Trong ánh lửa cháy đượm hắt từ bên ngoài vào phủ, hắn lúc này tựa như một con thú điên, đang tự hành hạ bản thân.
Tựa như đối với hắn, cơn đau thể xác có thể nhấn chìm vết thương trong lòng.
Ngày hôm sau...
Nguyễn Đông Thanh mặt đơ như khúc gỗ, viết vào một tờ giấy.
"Quận binh Nha Nghi liều chết phản kháng. Đặng tướng quân Đặng Dung dẫn binh trấn áp, chém đầu ba ngàn, đoạt được sáu trăm tấn lương thảo. Cùng ngày, tham quân Dị mở lượng hải hà, thu gom xác ba ngàn phản quân, chôn chung một chỗ mà đốt."
Đó là chiến báo của ngày hôm qua.
Nguyễn Đông Thanh nhờ Nguyễn Trãi đọc cho nghe, rồi dùng chữ quốc ngữ chép lại một bản
Hắn nhìn mảnh giấy trong tay. Qua mép giấy, Nguyễn Đông Thanh loáng thoáng trông thấy trong đống xác người thò ra một bàn tay bé xíu, tím tái nắm lấy cánh tay của một xác người không đầu.
Đầu người ở đâu?
Đầu sớm đã bị lính của Đặng Dung chặt xuống, dùng để lĩnh thưởng.
Nguyễn Đông Thanh nghiến răng, dùng hai tay xé nát tờ chiến báo hư ngụy giả dối trước mặt, quăng mảnh vụn vào trong hố xác. Mùi thi thể bị đốt truyền ra, ánh lửa đối xác hắt lên gương mặt lạnh căm căm của gã.
Nguyễn Đông Thanh lấy dao, gọt đứt tay áo mình, vạch đầu ngón tay, dùng máu viết lên vải:
"Năm ngàn mạng người chết dưới đồ đao của Đặng Dung. Hai ngàn đầu lâu hóa thành bậc thang để anh hùng leo lên vũ đài lịch sử, bái tướng phong hầu."
Tay ngừng, máu vẫn còn rơi...
Nguyễn Đông Thanh dập đầu trước hố xác, gằn từng chữ một:
"Các vị, nhất định có một ngày, ta sẽ để cái gọi là anh hùng thiên hạ phải run rẩy, quỳ gối, khóc lóc, van xin. Nhất định có một ngày, ta để tiếng gầm của các vị xuyên thủng màng nhĩ của chúng, chọc mù đôi mắt chó của chúng, nghiến nát cái lưỡi thối tha của chúng, giật tung cái mặt nạ giả tạo của chúng!
"Trời ngoảnh mặt làm lơ các vị... không xứng chứng giám lời thề này! Đất chôn vùi tiếng nói của các vị... cũng không xứng chứng giám lời thề này! Nguyễn Đông Thanh thề với danh dự của cha, ắt sẽ khiến thế gian ngập trong lệ máu anh hùng! Nếu trái lời này, không bao giờ nhìn mặt bố nơi chín suối!"
Gã đứng dậy, nhắm mắt, giang hai tay ra.
Tựa như muốn đón lấy hết thảy những tàn dư của người dưới hố huyệt.
Sau khi tạm dừng chân ở Nha Nghi, Đặng Dung lại lệnh cho hai cánh quân Lam Sơn, Trịnh Khả tiến ra bắc.
Dọc đường, cả thảy đi qua sáu cửa ải lớn nhỏ.
Đặng Dung tiếp tục truyền thống "sau khi phá thành, ba ngày không tra đao", cuốn theo một đội quân nửa lính nửa cướp, càn qua vùng Nghệ An.
Mà Nguyễn Đông Thanh cũng được mục sở thị độ hiệu quả của kiểu luyện binh đồ sát này.
Lính của Đặng Dung ban đầu nhiều kẻ tay cầm đao kiếm còn không chắc, nhưng trải qua mấy lần giết người, bọn hắn càng lúc càng hung hãn dữ tợn. Máu tanh tựa hồ có thể thay đổi một người. Cái cách quân Hậu Trần nhìn người dân bình thường dần dần thay đổi, giống như một đồ tể từ trên cao nhìn xuống đám gà sắp bị cắt tiết. Tiền bạc, đàn bà, thóc gạo dường như khiến bọn hắn quên đi rằng chỉ vài tháng trước, bọn hắn cũng chẳng khác gì những người đang ngã xuống dưới lưỡi gươm của mình.
Đáng sợ hơn, là loại khát máu này tựa như một căn bệnh truyền nhiễm, lây từ cánh quân này sang đạo quân khác. Lính của Trịnh Khả bây giờ đã hoàn toàn buông thả bản thân, mặc sức cướp giết. Binh sĩ của Lam Sơn do Lê Lợi thống binh có quy củ hơn một chút, song cũng có đến gần nửa bắt đầu làm cái chuyện giết người đốt nhà, đoạt vợ cướp của.
Trước đây quân của Lê Lợi cũng chẳng phải cánh quân lý tưởng, cũng có những chuyện đen tối, song con số thường thường chỉ khoảng hai, ba phần mười. Lần này hành quân cùng Đặng Dung chưa tới hai tháng, mà số binh mã tham gia đốt cướp đã tăng gấp đôi.
...
Không giống khi phá Nha Nghi, trên đường bắc phạt này Đặng Dung không để binh lính dưới quyền giết sạch dân nữa.
Trái lại, gã hạ lệnh cho Nguyễn Cảnh Dị phối hợp giám quân kiểm kê kỹ số hộ, rồi bắt đầu nhổ dân. Dân các làng xung quanh cửa ải bị đánh hạ chỉ có thể trơ mắt nhìn nhà mình cháy thành tro mà không dám tiến lên một bước, khóc lấy một câu. Kế đó, Đặng Dung chọn lấy trai tráng khỏe mạnh sung vào quân, trẻ em phụ nữ thì bị giám quân dùng vũ khí giải về Hóa Châu. Về phần những người già vướng víu, đầu của bọn họ tự nhiên là biến thành "chiến công" của các vị "lính nhà trời", "quân nhân nghĩa".
Chỉ mất ba tháng, quân Hậu Trần đã đánh đến tận cố đô Hoa Lư.
Thành Hoa Lư dễ thủ khó công, quân Hậu Trần vây mười ngày không hạ nổi, thương vong đến mấy ngàn. Đặng Dung đành hạ lệnh rút về vùng Tràng An, đóng quân dựng trại, chờ viện quân của Đặng Tất.
Bạn đang đọc truyện trên: truyentop.pro