Chương 8: Tám vạn dặm - Thăm dò

Edit: Bull

Beta: DiDi

Truyện chỉ được đăng tải tại WordPress và Wattpad Tuế Nguyệt An Nhiên. MỌI NƠI KHÁC ĐỀU LÀ REUP!

-------------------------------------

Chương 8: Tám vạn dặm – Thăm dò

Trong phòng riêng của Hội Tiên tửu lâu ở phường Tân Xương, cuối cùng Thẩm Ngu cũng cởi bộ y phục văn sĩ ra, thay bằng kim quan và đai lưng nạm ngọc. Nhất thời, trông tinh thần cậu chàng có vẻ sảng khoái lắm.

"Cuối cùng mẹ ta cũng đã ngộ ra rồi, giống như trong sách viết Nhân bất như cố, y bất như tân*! Ta không cần mặc y phục văn sĩ nữa, chúng ta phải ăn mừng thôi!"

(*Gốc là人不如新,衣不如旧: Quần áo chẳng gì quý bằng mới, người chẳng gì quý bằng cũ.)

Tuy Lục Kiêu cảm thấy câu thơ Thẩm Ngu đọc có vẻ hơi sai sai, nhưng hắn vẫn cầm lấy ly rượu bằng hai ngón tay, nói: "Cuối cùng cũng không rát mắt nữa. Trang phục trước đây của ngươi khiến ta cứ nghĩ rằng hôm sau ngươi sẽ cầm cái chén mẻ đến phủ ta xin tiền."

Thẩm Ngu trợn trắng cả mắt. Cậu chàng rót cho mình một ly rượu, lại rót đầy cho Lục Kiêu, chợt nhớ tới: "À mà Lục Nhị, khi ta vừa mới lên lầu thì tình cờ gặp được mấy người của Ngự Sử Đài, làm ta giật cả mình nè! Đợt trước đám người đó còn dâng tấu nói ta là đầu đội kim quan, hoang phí vô độ. Hứ, chắc bổn thế tử dùng vàng nhà mấy lão?"

Lương Quốc công không đứng về phe nào, cũng không gây sự, những chuyện hơi nguy hiểm thì tuyệt đối không dính vào. Mỗi khi thượng triều, cứ xảy ra cãi vã thì ông đứng nhắm mắt ngủ ngay, ngày ngày đếm tiền canh giữ kho bạc của gia đình. Ông vừa có tiền lại vừa chính trực, trong sạch vô cùng. Ngự Sử Đài không có gì để vạch tội nên chỉ có thể lôi chuyện Thẩm Ngu đội kim quan ra nói mãi.

"Ngự Sử Đài cũng đến đây dùng bữa à?" Ngón tay của Lục Kiêu gõ gõ vào mặt bàn, thái độ như đang xem kịch vui: "Nếu hôm nay mấy người ở đây đều là những kẻ có chức quan, vậy thì gọi món cũng phải bốc số rồi."

Ăn được một lúc, Thẩm Ngu đang kể cho Lục Kiêu nghe về con chim họa mi mình mới mua, đột nhiên nghe thấy bên ngoài rất ồn ào. Trước giờ cậu chàng luôn là kiểu hóng chuyện bất chấp, bèn túm lấy một tên bồi bàn vừa mới bước vào rồi ném một xâu tiền sang, đôi mắt phát sáng: "Bên ngoài có chuyện gì thế? Nói ta nghe xem."

Bồi bàn đã nhận tiền nên mồm miệng cũng lanh lợi lắm: "Có một tiểu cô nương họ Thôi loạng choạng chạy vào tửu lâu, tìm được vài vị đại nhân của Ngự Sử Đài. Nàng nói rằng sau khi phụ thân bệnh chết, mẹ kế và huynh trưởng của bà ta bắt tay mưu đoạt của hồi môn của nàng, bây giờ còn định gả nàng cho một tay cờ bạc góa vợ nữa. Sau khi nàng biết được thì sợ hãi lắm, bèn lén lút trốn ra, lại nghe nói người của Ngự Sử Đài đang ở đây nên mới đến cầu cứu."

Thẩm Ngu nắm được trọng điểm rất nhanh nhạy: "Tìm Ngự Sử Đài? Huynh trưởng của mẹ kế nàng ta làm quan à?"

Bồi bàn gật đầu, rồi phải nịnh bợ trước đã: "Thế tử lợi hại quá, đoán trúng phóc!" Lại nói tiếp: "Nghe bảo là nhậm chức ở Hàn Lâm Viện. Tốt xấu gì cũng là người từng đọc sách thánh hiền, vậy mà lại làm ra chuyện dơ bẩn thế đấy. Thủ đoạn này khác nào muốn ép chết tiểu cô nương đâu chứ. Không sợ cha ruột của tiểu cô nương biến thành ma tìm đến cửa à?"

Lục Kiêu vốn đang nghe câu được câu chăng, lúc này mới lên tiếng: "Nhậm chức ở Hàn Lâm Viện?"

"Đúng ạ. Chính là Hàn Lâm Viện, nhưng không biết là vị đại nhân nào." Thấy Thẩm Ngu xua tay, bồi bàn bèn cười tủm tỉm rồi lui ra ngoài, trước khi đi còn nói: "Hai vị ăn ngon miệng ạ."

Đuổi bồi bàn đi xong, Thẩm Ngu mới đóng cửa phòng riêng lại: "Người của Ngự Sử Đài đang rảnh rỗi chẳng có gì làm, bây giờ chuyện tự tìm đến, chắc là đều đang hầm hè, suy nghĩ xem mình nên viết tấu chương thế nào mới có thể lột da của tên bên chỗ Hàn Lâm kia."

Lục Kiêu chẳng mấy hứng thú: "Nếu chiếm đoạt của hồi môn của người ta thật thì chức vụ bên Hàn Lâm của tên đó cũng chẳng còn."

"Phá vỡ đạo đức cá nhân, vi phạm luật pháp, chắc là sẽ bị biếm đến nơi nào đó làm một tên quan quèn nhỉ?"

"Chắc là thế." Lục Kiêu thấy rất chán. Hắn nhìn ra ngoài cửa sổ. Đại Sở không ban hành lệnh cấm đi lại vào ban đêm nên tuy trời đã tối, nhưng trên phố vẫn còn đầy người qua lại. Thị lực hắn rất tốt. Hắn nhìn vào gian hàng kẹo đường một lúc, sau đó đưa mắt nhìn sang nơi khác, bỗng chốc khựng lại...

Nếu như hắn không nhìn lầm thì người đứng trong góc tối hình như là Tạ Trác và hộ vệ của y.

Tạ Trác khoác chiếc áo choàng nhạt màu. Trong tay họ chẳng cầm gì cả, không giống như ra ngoài mua đồ, cũng chẳng nhìn vào dòng người xung quanh.

Cứ như chỉ là đơn thuần đứng ở nơi đó mà thôi.

Đang hóng chuyện à?

Chẳng hiểu sao, trực giác của Lục Kiêu mách bảo rằng có gì đó hơi kỳ lạ.

Thẩm Ngu thì chẳng chịu ngồi yên, mà ra ngoài dạo một vòng, sau đó trở về kể cho Lục Kiêu nghe tin tức mới nhất: "Đám ngôn quan này mới ăn được một lát đã không ăn nữa. Cả đám đồng loạt gác đũa, rồi vội vàng quay về viết tấu chương mắng người ta. Không hổ là bọn họ!"

Lục Kiêu hỏi: "Còn tiểu cô nương cáo trạng thì sao?"

Hắn vừa hỏi vừa nhìn ra ngoài cửa sổ, nhưng lại không thấy bóng dáng Tạ Trác đâu nữa.

Thẩm Ngu nói: "Bị Ngự Sử Trung thừa dẫn đi mất rồi. Tuy Ngự Sử Trung thừa mắng người ta tàn nhẫn lắm, nhưng cha ta nói ông ta là một vị quan tốt. Chắc là đêm nay tiểu cô nương kia có thể ngủ ngon rồi."

Thôi Ngọc Anh theo Ngự Sử Trung thừa đi xuống lầu, lòng bàn tay bị trầy da vẫn còn cảm giác nóng rát. Trước khi xách váy bước lên xe, cô bé không kiềm được mà nhìn khắp nơi trong dòng người.

Người đó không có ở đây.

Cô bé cúi người ngồi vào xe, đồng hành với cô bé chỉ có tiếng vó ngựa và bánh xe, cô bé chợt nghĩ...

Từ nay về sau, lần gặp gỡ này chính là giấc mộng dưới trăng mà cô bé chẳng thể kể với người khác.

Nếu sau này có thể gặp lại người trong giấc mộng, chắc chắn cô bé sẽ nói với y rằng: Những gì huynh nói muội đã làm được rồi.

Ngự Sử Đài có quyền được nghe cáo trạng, vậy nên ngày hôm sau, tấu chương buộc tội Đãi chiếu ngũ phẩm Dương Nghiêm của Hàn Lâm Viện đã chất chồng trên ngự án.

Chẳng bao lâu sau, khế ước mua bán của cửa hàng son phấn ở phường Tuyên Bình và một tờ khế đất khác do chính Dương Nghiêm đứng tên bị lục soát ra hết. Ngoài ra, họ còn tìm được hai cây trâm bằng vàng ròng trong phòng thê tử Dương Nghiêm.

Số tiền tương ứng với phần của hồi môn mà người cha quá cố của Thôi Ngọc Anh để lại cho cô bé.

Án này đã định, Dương Nghiêm không còn cơ hội ngụy biện nữa.

Khi Tạ Trác đến Hàn Lâm Viện ứng mão, hầu như tất cả đồng liêu đều đang bàn tán về việc này.

"Tuy bình thường Dương đãi chiếu keo kiệt, nhưng không ngờ rằng lão ta lại là kẻ ủ mưu chiếm đoạt tài sản của một đứa nhỏ mồ côi đấy! Đúng là tri nhân tri diện bất tri tâm mà!"

"Nghe nói Dương đãi chiếu chọn cho cô nương Thôi gia một con bạc. Không chỉ vậy thôi đâu, gã ta còn thiếu cả đống nợ, sau khi uống rượu xong lại thích động tay động chân. Thê tử trước của gã vốn chẳng phải chết vì bệnh, mà là do ngày nào cũng bị đánh, bị tra tấn đến chết!"

"Lòng dạ thế này... khác nào muốn đẩy cô nương Thôi gia vào chỗ chết! May là cô nương Thôi gia trốn ra được."

Thịnh Hạo Nguyên thấy Tạ Trác đã đến, bèn lại gần chào hỏi: "Diên Linh tới rồi à?"

Tạ Trác thi lễ: "Thịnh đãi chiếu."

Thịnh Hạo Nguyên biết người này trước giờ thủ lễ, khiến người ta chẳng thể tìm ra lỗi được. Trò chuyện được mấy câu, hắn ta đã đứng bên cạnh Tạ Trác: "Dương đãi chiếu không chịu nổi tra khảo nên ngoại trừ hai tờ khế ước và chiếc trâm vàng ròng ra thì việc trước đây ông ta nhận hối lộ để đánh giá cho các quan viên thăng chức cũng bị đào lên hết. Tội chồng tội, bị đá ra huyện nhỏ hẻo lánh là kết cục đã định, sau này không còn cơ hội quay về Lạc Kinh nữa."

Dương Nghiêm vất vả suốt mấy năm, nhưng không ngờ rằng mình lại phải rời khỏi Hàn Lâm Viện, trở thành quan địa phương. Bởi Hàn Lâm Viện cao quý, ông ta lại là cận thần của Thiên tử, dù thế nào thì tiền đồ ở Lạc Kinh cũng xán lạn hơn việc làm quan địa phương, cả đời không thể thấy thiên nhan.

Chẳng qua là bây giờ, có lẽ cả đời này ông ta cũng chỉ có thể trấn thủ mãi ở nơi huyện nhỏ xa xôi kia.

Tạ trác nghe xong, vẻ mặt y hơi ngạc nhiên, suy nghĩ một lát rồi mới nói: "Vâng, sau khi trải qua chuyện này, hy vọng Dương đãi chiếu có thể tạo phúc cho bá tánh một phương."

"Mong là vậy. Chỉ là nếu vậy thì việc biên soạn Sử Ký bị thiếu mất một người, có lẽ Chưởng viện sẽ chọn người để bổ sung vào đó." Thịnh Hạo Nguyên khép ống tay áo lại, nhỏ giọng nói: "Chúc mừng Diên Linh trước nhé."

Vẻ mặt của Tạ Trác vẫn chẳng hề thay đổi: "Tạ sự coi trọng của Thịnh đãi chiếu, chỉ là Chưởng viện chưa phân công, Diên Linh không dám nhận lời chúc này."

"Ngươi đó, tuổi thì nhỏ, nhưng sao lại cẩn thận như thế? Còn cẩn thận hơn cả ta nữa?" Thịnh Hạo Nguyên phẩy ống tay áo: "Dù sao trong mắt ta, trong số những người có kinh nghiệm ngang nhau, nếu xét về học thức và tầm nhìn thì không ai sánh bằng Diên Linh. Vị trí trống này còn dành cho ai khác ngoài Diên Linh."

Trước khi tán nha, Chưởng viện Học sĩ phân công nhiệm vụ, vị trí còn trống của Dương Nghiêm thật sự đã rơi vào tay Tạ Trác. Nhất thời, có rất nhiều người đến chắp tay chúc mừng Tạ Trác, mà y cũng đáp lễ từng người một.

Thịnh Hạo Nguyên trêu y: "Ta có nói sai đâu? Ngươi đó, còn cẩn thận hơn cả ta."

Tạ Trác cùng hắn ta ra khỏi Hàn Lâm Viện, y lưỡng lự một lúc mới nói: "Mấy ngày trước Thịnh đãi chiếu nói tiền triều từng có người của Hàn Lâm Viện biên soạn Sử Ký đến mức suýt mất mạng."

Thịnh Hạo Nguyên thấy vẻ mặt của Tạ Trác không có vẻ vui mừng, hớn hở, mà ngược lại y còn sầu lo nhiều hơn thì rất ngạc nhiên: "Diên Linh nhận được việc tốt như vậy mà lại không thấy cười, hóa ra là đang lo chuyện này à?"

Tạ Trác lúng túng: "Đúng vậy."

Thịnh Hạo Nguyên bật cười, nói: "Có vẻ như ta đã dọa Diên Linh sợ rồi. Lỗi của ta! Nhưng ngươi cũng đừng lo lắng quá, số người bị hạch tội ít lắm!"

Vả lại, khi đó hắn ta đề cập đến chuyện này chẳng qua chỉ là vì cho Tạ Trác biết trong đó có rủi ro, chứ không hề ghen ghét gì y.

Không ngờ rằng Tạ Trác vẫn còn nhớ.

"Tham gia biên soạn Sử Ký của đế vương chính là vinh quang có thể được đưa vào từ đường. Huống chi năm xưa Diên Linh còn chưa đội mũ, nhưng không đầy một năm đã được vào Hàn Lâm Viện, sau này còn có thêm mục biên soạn Sử Ký thì việc kiểm tra đánh giá thăng quan sẽ dễ dàng hơn nhiều!" Thịnh Hạo Nguyên nói: "Đây chính là con đường lên thẳng mây xanh mà nhiều người cầu còn chẳng được đấy."

Tạ Trác xấu hổ nói: "Chẳng giấu gì Thịnh đãi chiếu, Diên Linh đã âm thầm thấp thỏm một lúc lâu."

"Ha ha ha." Thịnh Hạo Nguyên cười phá lên: "Ta lại nói sai rồi. Dù vẻ ngoài của Diên Linh có cẩn thận, điềm tĩnh đến mức nào thì trong lòng vẫn là một cậu thiếu niên mười chín tuổi dễ bị dọa thôi!"

Tạ Trác chẳng biết nói gì nữa, thế là dứt khoát chắp tay thi lễ, ra vẻ như ngại nói thêm: "... Khiến Thịnh đãi chiếu cười chê rồi."

Hàn Lâm Viện tọa lạc tại phường Thái Bình, chỉ cách tường cung một con phố. Thế nhưng, cho dù là Khởi Cư Chú của đế vương hay là Thì Chính Ký ghi chép lại những lời nghị tấu của triều đình đều được cất giữ trong Sử Quán, không dễ gì đưa được ra ngoài thành.

Chính vì vậy, Khâm Thiên Giám đã ấn định ngày sáu tháng tám âm lịch để các quan viên tham gia biên soạn Sử Ký dời đến Thiên Chương các ở phía đông Quốc Khánh điện, đến khi nào soạn xong Sử Ký mới được quay về Hàn Lâm Viện.

Mỗi khi ra vào cửa cung đều bắt buộc phải có lệnh bài, vậy nên trên thắt lưng của Tạ Trác ngoại trừ tấm phù hình cá bạc ra thì còn có thêm một tấm lệnh bài ra vào cung.

Ngày hôm sau, sau khi xác thực thân phận với với cấm vệ quân canh giữ trước cửa cung xong, Tạ Trác bèn thắt lại lệnh bài vào thắt lưng, rồi đi dọc theo bức tường cung điện sừng sững đến Thiên Chương các.

Thiên Chương các theo lối kiến trúc "Minh tam ám tứ", lầu một chỉ mở ra khi nghị sự hoặc xin cố vấn, trong khi lầu hai ba bốn dùng để chứa bản đồ, sổ hộ tịch và ngự thư. Lúc này, những cây cột hành lang màu xanh thẫm, khung cửa hoa ấu, mấy ngọn núi giả mang hình dáng kỳ lạ, và cả hàng cây xanh soi bóng nước đều đang chìm vào tĩnh lặng.

Hình như y tới hơi sớm.

Cùng tiếng chim hót véo von, Tạ Trác mặc bộ quan phục màu đỏ bước lên bậc thang, đẩy cánh cửa lớn của Thiên Chương các ra.

Kèm theo đó là ánh mặt trời buổi sớm chiếu vào.

Mà bước chân đang bước vào trong của Tạ Trác bất chợt khựng lại.

Có người đang ghé vào án thư ngủ say, đến tận khi một tia nắng dừng tại hàng mi đang khép chặt, hắn mới nhíu mày một cách khó chịu, sau đó mở mắt nhìn sang.

"Tạ thị độc?" Lục Kiêu vẫn mặc bộ kỳ lân phục màu đen như bình thường. Gương mặt hắn tuấn tú, sắc sảo, mái tóc được buộc cao lên bằng một chiếc cách quan có hoa văn đám mây mạ vàng, phần tóc vấn lên còn cắm một cây bút lông chưa chấm mực.

Hắn ngồi dậy, duỗi thẳng đôi chân dài rồi ngáp một cái.

"Lục tiểu hầu gia." Tạ Trác không đóng cửa, sau khi chào hỏi xong thì đi thẳng vào trong, rồi chọn bừa một vị trí để ngồi.

Lục Kiêu chống cằm với vẻ rất lười nhác, dường như giọng nói vẫn còn hơi ngái ngủ, cười nói: "Chỗ ngươi chọn ánh mặt trời không chiếu vào được, là chỗ lạnh lẽo, ẩm ướt nhất đấy. Ta kiến nghị Tạ thị độc nên đến ngồi bên cạnh ta. Nơi này sát cửa sổ, khi trời đẹp còn có thể mở cửa sổ ngắm nhìn khung cảnh ngoài sân, phơi nắng. Đến khi trời se lạnh, trong phòng đốt than đến mức không thở nổi cũng có thể mở cửa cho thoáng."

Tạ Trác đứng đó một lúc lâu, nhưng vẫn không từ chối, mà bước đến ngồi vào vị trí bên phải Lục Kiêu. Trên bàn đã bày sẵn giấy và bút mực cần dùng nên y bèn sắp xếp lại theo thói quen của mình.

Lục Kiêu nghiêng đầu, tầm mắt đi theo động tác của Tạ Trác. Hắn không thể không nghĩ, tay của Tạ Trác khác hẳn với tay hắn. Cánh tay y nhỏ gầy, ngón tay thon dài, cả lòng bàn tay và ngón tay đều không có vết chai do luyện đao kiếm hằng năm để lại.

Thật sự không hề giống với bàn tay có thể dùng một đao cắt đứt yết hầu của trinh thám Bắc Địch.

Thảo nào mọi người lại muốn gọi y là "Trác Ngọc lang", chẳng phải là giống hệt một người được đẽo ra từ ngọc đó sao?

Đột nhiên hắn cất tiếng: "Ngày hai mươi tám tháng bảy, hình như ta nhìn thấy Tạ thị độc ở gần Hội Tiên tửu lâu."

Hỏi xong, hắn bắt đầu quan sát vẻ mặt của Tạ Trác.

Tạ Trác vẫn khoan thai cầm lấy thỏi mực, không hề có một thoáng ngập ngừng nào, rồi trả lời hệt như đang nói chuyện phiếm: "Dạo gần đây ta chỉ đi đến chỗ Hội Tiên tửu lâu đúng một lần. Ngày đó, ta đột nhiên muốn ăn mứt hoa quả, mà ở phường Tân Xương có một vị sư phụ già làm mứt rất ngon."

"Vậy có mua được không?"

"Không mua được. Cứ vào ngày có số hai và số tám mỗi tháng, vị sư phụ già đó đều không mở cửa." Cứ như là không nhận ra sự thăm dò bất chợt của Lục Kiêu, Tạ Trác bèn hỏi: "Sao Tiểu hầu gia lại đến đây?"

Chẳng lẽ trực giác của hắn bị sai rồi ư?

Lục Kiêu cầm lấy một cây bút lông, sau đó cứ chuyền qua chuyền lại trong tay như thể không ngồi yên nổi: "Shh, bệ hạ chê ta ngày nào cũng mang phiền toái đến, còn bảo mỗi ngày đều có một chồng tấu chương hạch tội ta. Thế là bèn hỏi ta muốn đến cấm vệ quân giãn gân giãn cốt, tiêu hao bớt tinh lực, hay là đến Thiên Chương các để dính tí mùi văn chương, tu tâm dưỡng tính, tiện thể quản lý việc biên soạn Sử Ký."

Hắn nghiêng đầu nhìn Tạ Trác, giọng điệu rất chi là tùy tiện: "Đương nhiên là ta chọn Thiên Chương các. Đã không cần dãi nắng dầm mưa, lại chỉ có ta quản thúc người khác, chứ chẳng ai quản thúc được ta."

Tạ Trác nghe xong chỉ đáp đúng một câu: "Thì ra là vậy."

Lục Kiêu cũng chẳng hiểu vì sao, nhưng lại cảm thấy rất có hứng tìm tòi, khám phá.

Mỗi khi vị Tạ thị độc này đối mặt với hắn thì không chỉ không có ý muốn báo đáp, mà còn như đang hận vì chẳng thể viết mấy chữ "Cách xa ta ra một chút" lên mặt, vạch rõ giới hạn giữa hai người.

Nhưng cho dù là lần bao che cho hắn trước mặt Hàm Ninh đế, hay là sau khi sốt cao đến hôn mê, nắm chặt lấy quần áo hắn không buông... đều chẳng hề liên quan chút nào đến vẻ cố tình xa cách như những gì y thể hiện ra ngoài, thậm chí là trái ngược hoàn toàn, thật sự rất mâu thuẫn.

Thế là Lục Kiêu cắm cây bút lông vào phần phát quan xiêu vẹo, thi lễ với Tạ Trác với vẻ chẳng ra thể thống gì rồi cười ngả ngớn: "Sau này còn phiền Tạ thị độc chiếu cố nhiều hơn, để ta dính được chút chất văn chương."

---------Hết chương 8---------

Bạn đang đọc truyện trên: truyentop.pro