Chương 1
《 1.1 - Hiện tại 》
Tam quan mờ mịt trời đỏ ráng
Núi non trùng điệp cảnh não nề.
Dõi mắt trông ra là cảnh núi non dày đặc như rồng hổ ẩn nấp, ánh mặt trời vốn đã xa xăm nay biến mất hơn nửa. Ngàn vạn thung lũng nhấp nhô bị cát bụi mênh mông bao phủ, đất trời mang cùng một sắc màu, chỉ còn dư lại mấy chữ cô hồng, phá tan đường trời dài dằng dặc mà đến.
Ở nơi tầm mắt không với đến truyền ra một âm thanh chói tai, thoáng chốc xới tung một đám bụi đất lên, hồng nhạn giật mình gáy vang, tiếng kêu không ngớt quanh quẩn rất lâu.
Ngay cuối đường cát vàng, một con ngựa trắng vô cùng to lớn đạp vó phi đến, người trên ngựa tay cầm trường thương, từ trong ngàn lớp bụi mù như phát ra một luồng ánh sáng!
Mà khi khói bụi nhạt dần, hàng lối xếp dài đến tận chân trời như con rắn kia rõ ràng chính là Hổ Sư Đại Tề tắm máu ba nghìn dặm đồng hoang khiến Mạc Bắc nghe mà biến sắc.
Hàng ngàn lá cờ chiến đón gió bay phần phật, hoa văn xích diễm như ngọn lửa cắn nuốt lấy chữ "Lục" vô cùng phóng khoáng ở chính giữa cờ kia.
Tướng địch hãi hùng trố mắt, mặt mày biến sắc. Bọn chúng du mục ở Mạc Bắc quanh năm, rất quen thuộc với địa hình vùng núi, đó là lý do chúng dám yên tâm hành quân vào ban ngày nhờ vào sự che chắn của bão cát, không ngờ chỉ mới nửa đường đã gặp phải những vị khách không mời như từ trên trời rơi xuống này
Gót sắt lao vùn vụt như giẫm trên đất bằng, lâu la cản đường đều bị kỵ binh tinh nhuệ phía sau giải quyết, cho nên dù chỉ lướt qua một chốc, máu tươi cũng đã nhuộm đỏ con đường, vậy mà lưỡi bạc của trường thương kia vẫn sạch sẽ chói lòa, cảnh tượng giống như "bốn lạng đẩy ngàn cân*", gạt mở mắt trận tiến quân thần tốc.
(*) Nguyên văn 四两拨千斤 - bốn lạng đẩy ngàn cân: trong Thái cực quyền đây là một kĩ xảo đầy công lực, không cần dùng sức mà vẫn thắng đối phương.
Ngay khi giáo mác chạm nhau, tuấn mã gần như bay lên không trung, mũi thương áp sát trước mặt tướng địch.
Tướng địch xách đao nghênh chiến, rồi lại vì sợ hãi từng nhát thương cực nhanh mà khó chống đỡ chính diện, vài lần gần như không tránh được chỗ hiểm. Người kia thì ngược lại, hắn thờ ơ với từng cú móc và lực vung, nhìn như là cố tình trêu đùa đối phương một phen vậy.
Ngay lúc hắn giơ thương ra sau, cánh tay trái nâng lên kéo theo áo giáp làm miếng ngọc treo bên hông lộ ra ngoài, tung lên một đường cong cùng với động tác xoay của hắn.
Lưỡi đao không có mắt của tướng địch đến từ không trung, trùng hợp cắt đứt dây nối, ngọc bích lập tức rơi ra, vô lực rớt xuống đất cát dưới chân.
Người kia thoáng chốc đổi sắc, ánh mắt vốn chẳng phân biệt được buồn vui trong khoảnh khắc tràn ra sát khí tàn bạo, chiêu thức cũng đột ngột trở nên mạnh mẽ sắc bén, mũi thương có thể kéo theo ánh sáng sắc lạnh tới từ bốn phía, gió thương đi đến đâu, cỏ cây đung đưa theo đến đó.
Loáng cái đã lấy được đầu của kẻ trước mặt, không hề lưu tình chút nào.
Đầu đuôi hàng dài Hổ Sư nối nhau, bao vây đường lui của những kẻ xâm lược còn lại, bây giờ đang nghiêm nghị gác đao chờ lệnh.
Hắn trở tay xoay trường thương ra sau vai, sau đó phi ngựa nhảy qua cái xác của tướng địch, chẳng nói lời nào mà chỉ lạnh lùng nhìn đám tàn quân sợ hãi trước sát khí không dám tiến lên.
Rất lâu sau, Chiêu Vương điện hạ của Đại Tề là Lục Lệnh Tùng mới trở mình xuống ngựa, trước ánh nhìn chăm chú của ba vạn quân Hổ Sư tinh nhuệ cùng với hàng trăm tàn dư quân địch, hắn quỳ một gối xuống đất, dùng hai tay nâng miếng ngọc trắng từ trong bùn đất lên, cẩn thận lau đi những vệt máu đen nho nhỏ trên nó, sau đó nâng niu cất vào trong ngực áo, đặt ở gần tim.
Giáp bạc như tuyết, áo choàng đỏ hơn cả lửa, hắn đứng dậy nhìn thành trì bị bão cát thổi qua, rốt cuộc cũng nói:
"Gõ chiêng vàng!"*
(*) "Gõ chiêng vàng" là một loại tín hiệu sử dụng trong chiến tranh thời xưa, bình thường người ta dùng nó để ra hiệu dừng tấn công hoặc lui binh. Người ta sẽ gõ chiêng hoặc đánh chuông (chất liệu là vàng) để ra tín hiệu.
Dân tộc Nhung, Địch ở Mạc Bắc đã quấy nhiễu biên thuỳ Đại Tề mấy năm nay, mỗi năm cứ vào mùa đông khi cỏ cây khô héo, chúng nhất định sẽ xuôi Nam cướp bóc ở biên cương, quấy nhiễu việc buôn bán của thành Ung Châu, chợ biên giới khó mở, dân chúng không được yên bình.
Thái thú Ung Châu Hà Cáo nhậm chức đến nay đã trải qua hai mươi mùa đông. Biết bao năm trôi qua khoảng thời gian này là thời gian khó chống cự nhất, đã gặp trở ngại chiến tranh, dân chúng lại không thể rời thành buôn bán như bình thường, cạn lương thực thiếu quần áo, ăn đói mặc rách, cuộc sống thật sự không ổn định chút nào.
Cũng may Hà đại nhân có cách luyện binh, tường phòng thủ của thành Ung Châu kiên cố, dù sao thì các tướng sĩ vẫn có thể kiên trì được đến đầu xuân, khi cây cối xanh tươi trở lại, người Bắc lui binh trở về chăn thả. Đến lúc không chống đỡ được nữa quan thương cũng sẽ phát lương thực và cháo miễn phí, cho nên trong thành vẫn chưa đến nỗi kêu than khắp trời.
Dù vậy, chiến tranh cơ hàn ắt có thương vong, quan phụ mẫu như Hà đại nhân vẫn không đành lòng chút nào.
Nhưng mà tình hình năm nay hình như đã có hơi khác rồi.
Gần đây Hà đại nhân vừa tuyển được một phụ tá, người này hiến kỳ mưu nhiều lần, bắt đầu từ trận chiến mùa đông cho đến hôm nay, tướng sĩ thủ thành chẳng tổn thất bao nhiêu không nói, thậm chí thu được không ít binh mã và lương thảo vào kho.
Hơn nữa, có Chiêu Vương điện hạ dẫn theo Hổ Sư uy danh hiển hách đến đây, dẹp yên giặc cỏ Lũng Tây rồi quay đầu ngựa lên phía Bắc, tiếp nhận quân mệnh đến Ung Châu viện quân.
Hà Cáo thật lòng thấy hơi kinh sợ... Ông còn nghe nói, "quân mệnh" này là do Chiêu Vương điện hạ đích thân xin lên Thánh thượng.
Từ xưa đến nay, Ung Châu là vùng giao tranh của nhà binh, nhưng bởi vì các chiến tích của hắn đều không tệ, chưa từng bị thương nặng đến mức ảnh hưởng gân cốt, thế nên tuy rằng hằng năm triều đình chu cấp không ít nhưng chưa bao giờ quan tâm quá mức.
Hà đại nhân cũng không biết mình có tài đức gì mà có thể khiến cho Chiêu Vương tôn quý đến tận nơi này.
Trinh sát mới vừa truyền tin tới, nói rằng Chiêu Vương đã thuận tay giải quyết xong một toán quân địch đánh lén ở sa mạc cách thành hai mươi dặm, hiện đang chỉ huy quân tiến về Ung Châu, khoảng một canh giờ nữa là đến.
Hà Cáo vội vàng truyền lệnh xuống, sai người chuẩn bị mở tiệc tại phủ Thái thú để mời khách từ phương xa đến ăn cơm. Điện hạ ra tay rộng rãi, binh mã chưa tới nơi đã tặng trước một trận thắng lớn làm quà gặp mặt, ông thật sự không nhận nổi*.
(*) Nguyên văn là "折煞" = "chiết sát": ý chỉ người hưởng thụ quá mức mà giảm phúc giảm thọ, cũng có nghĩa là không thể thừa nhận nổi.
"Đã như vậy, cuối cùng thì phụ lão Ung Châu cũng có thể sống yên ổn qua năm nay rồi." Hà Cáo chắp tay đứng đầu tường, cảm thán với phụ tá mà ông mới nhận.
Người trẻ tuổi tên là "Ngô Chỉ" kia cười nhạt đáp: "Đại nhân có lòng nhân ái, trời cao ắt sẽ đáp lại."
"Rốt cuộc vì sao mà Chiêu Vương lại muốn đến đây nhỉ, ta thật sự không thể hiểu được." Hà Cáo trầm ngâm một lát rồi lại lắc đầu tự giễu: "Được thiên gia che chở mà còn ở đây đoán mò, ông lão ta mới là người sai ấy nhỉ."
"Lòng điện hạ buộc với non sông, đương nhiên đó cũng là phúc của dân chúng Ung Châu." Thanh nhiên chen vào phụ họa.
Hà Cáo gật gù, cảm thán: "Chỉ mới ba năm mà đã có thể mài giũa Hổ Sư thành một lợi kiếm thần binh như vậy, phá Liêu Đông lấy Lũng Tây, lay động Kinh Nam bình định Hoài Bắc... Không hổ là con trai trưởng mà tiên đế coi trọng."
Thanh niên thấp giọng nói: "Đại nhân, lời này..."
Hà Cáo phẩy phẩy tay: "Ta biết là không thích hợp, chỉ là không nói thì không được mà thôi."
Ông gượng cười nói với Ngô Chỉ: "Rời kinh đã nhiều năm rồi, có ai thèm nhớ đến bộ xương già như ta nữa đâu, cậu suy nghĩ nhiều rồi, phải sửa cái tính ông cụ non này đi thôi."
Ngô Chỉ cũng mỉm cười: "Chẳng phải đại nhân cũng chưa sửa cái tính không nói không được hay sao?"
Hà Cáo nghe vậy cười to, nhìn sắc trời rồi nói: "Không còn sớm nữa, chúng ta cũng về phủ sửa soạn thôi."
Ngô Chỉ cúi người hành lễ, nói: "Thưa đại nhân, bữa tiệc hôm nay, e là tại hạ sẽ vắng mặt."
Hà Cáo khó hiểu: "Sao thế? Ta còn đang định giới thiệu cậu với Chiêu Vương điện hạ nữa đây, nếu như được khen ngợi, ngày khải hoàn về triều ngài sẽ bày tỏ cả công lao của cậu, thế là được trở về kinh làm quan, không phải ở lại vùng đất lạnh giá này nữa rồi."
Thế nhưng Ngô Chỉ chỉ dịu dàng nói: "Sự ưu ái của đại nhân, tại hạ suốt đời khó quên, chỉ là hôm nay tôi đã đồng ý với con gái là sẽ dẫn con bé ra ngoài chơi một chút rồi."
Thanh niên kia tài cao thế nào Hà Cao biết rõ cả, cũng hiểu rõ tính cách kì lạ của y... Dù là chuyện cấp bách đến đâu, nhưng chỉ cần so với con gái thì chẳng đáng nhắc đến nữa. Ông cũng không ép uổng, đồng ý để cho Ngô Chỉ đi.
Lý do mà Hà Cáo tuyển chọn phụ tá này, nghĩ lại thì thấy cũng khá là ngẫu nhiên.
Trong phủ Thái phó có rất nhiều việc lặt vặt, tất cả đều do một tay Hà phu nhân quản lý, thế nhưng mấy tháng trước có lần Hà phu nhân trở bệnh, quản gia bèn lấy sổ sách rồi để lên bàn của Hà Cáo.
Từ trước đến giờ ông không có kiên nhẫn xem những thứ này, không biết nghĩ thế nào mà lại thử lật một quyển, lật được một món bảo bối - quyển sách kia chỉ dùng đúng một nét chữ, chính là "Khứ Hà thể" do đệ nhất tài tử Tạ Cảnh ở phía Nam Trường Giang sáng tác.
Năm ấy Tạ Cảnh đi du sơn ngoạn thủy ở Dao Đài, nhìn về sông Trường Giang ở nơi xa rồi sáng tác bài thơ "Tây Giang Ngâm", sau đó viết vào quyển sách này bằng kiểu chữ Khứ Hà. Bởi vì bút lực xinh đẹp mềm mại vừa đủ, không sắc bén cũng chẳng thô thiển, giống hệt như một viên ngọc không tì vết, cho nên mới có tên như vậy. Khi đó, ở trong kinh người người tranh nhau ca tụng, viết theo, nhưng văn chương cao quý khó ai bì kịp, trong chốc lát đã được truyền thành giai thoại.
Tuy rằng Hà Cáo đang ở biên thuỳ, nhưng ông cũng từng không ít lần xem bản sách gốc mà vãng thương xuôi nam ngược bắc bán ra, vừa nhìn thấy đã ngạc nhiên, vội vàng gọi quản gia đến hỏi thăm mới biết quyển sách này đến từ phòng thu chi ở phủ Thái thú.
Người ở phòng thu chi chính là Ngô Chỉ. Y tự xưng là nhân sĩ Giang Bắc, ngày xưa vào kinh cầu lấy công danh nhưng không có kết quả, vô thân vô cố, chỉ có đứa con gái nhỏ, vốn định về quê làm thầy giáo dạy học nhưng rồi lại gặp loạn Hoài Tứ, buộc lòng phải lưu vong đến tận nơi này.
Về phần Khứ Hà thể, y nói lý do rằng là do năm đó lúc còn ở trong kinh đã giúp người ta sao chép từ bản gốc để kiếm sống.
Hà Cáo nhìn nét bút gần giống như thật kia, thở dài: "Hầy, nếu như không vì chuyện năm đó, vị này làm sao đến nỗi..."
Lời nói đến bên miệng rốt cuộc cũng không nói ra.
Hà Cáo lại hàn huyên với Ngô Chỉ thêm vài câu, phát hiện y ăn nói không tầm thường, rất có tầm nhìn đối với thời sự... Nhất là về chiến sự Ung Châu, ông bèn nảy lòng chiêu hiền nạp sĩ.
Hỏi ý của y, thanh niên cũng rất sảng khoái đồng ý, chỉ không chịu nhận lương, y vẫn kiêm luôn việc ở phòng thu chi, yêu cầu duy nhất mà y đưa ra chỉ có mỗi việc xin Hà Cáo cho phép mình tự do ra vào Tàng Thư các ở phủ Thái thú.
Đương nhiên là Hà Cáo đồng ý, quả thật thanh niên nọ không hề khiến người ta thất vọng, tuân theo nguyên tắc tuyển người thì không nghi ngờ người ta, ông không hề truy vấn ngọn nguồn.
Hoàng hôn xuống, về đêm trời càng lúc càng lạnh.
Khi Tạ Cánh bước vào sương phòng ở hậu viện phủ Thái phó, lửa than trong phòng đã được đốt lên. Lục Thư Ninh đang ngồi dưới ánh đèn, ngẩn người với tàn cục của ván cờ trên bàn, nghe thấy tiếng động thì ngẩng đầu lên cười dịu dàng, đương nhiên là đang chờ được mẹ khen ngợi.
"Hôm nay linh hoạt hơn rồi đấy." Tạ Cánh quay lại đóng cửa.
Trời đang vào đông, lại một năm nữa sắp qua. Mười ngón tay chưa từng chạm qua nước mùa xuân giờ đây đã có vết chai, con gái Lục Thư Ninh tuổi hãy còn nhỏ của y cũng đã quá quen với việc nhóm lửa thêm than.
Ở Ung Châu ba năm, đúng là đã thay da đổi thịt rồi.
Bản thân Tạ Cánh thì không sao, y chỉ cảm thấy tủi thân thay cho Lục Thư Ninh... Ở tuổi này, con bé vốn nên được chiều chuộng trong Vương phủ, mặc quần áo chỉ việc đưa tay, ăn cơm chỉ việc há miệng. Nay đã lưu lạc đến tận biên thuỳ phía Bắc, tất cả đều nhờ "phúc" của mẹ nó.
Có điều tính tình của Lục Thư Ninh trời sinh đã giống với người nào đó, em rất ít để những chuyện phiền lòng ở trong đầu, mắt thấy ván cờ này đã đến bước đường cùng cũng không để ý, chỉ bình tĩnh rút hai tay vào trong tay áo, tiếc nuối nói: "Cờ này khó chơi quá, mẹ tìm thấy nó từ sách cờ nào vậy?"
Tạ Cánh đun trà lên, thuận miệng nói: "Khi cha và anh con đánh cờ mẹ ở bên cạnh xem, lúc đấy rảnh rỗi không làm gì thì nhớ thôi."
Lục Thư Ninh nghe vậy chỉ khựng lại một lát nhưng sắc mặt vẫn như thường, em nói: "Vậy dựa vào thế công thủ, con đoán anh chắc chắn sẽ lấy cờ trắng."
"Con tự tin chút đi, không cần phải đoán. Hình như mẹ chưa từng nói với con, biệt danh của cha con ở ngoài chính là "Lục Nhượng Bạch" đó."
Lục Thư Ninh cười phá lên, nhưng đường cong trên môi lập tức nhạt đi, "Con còn chưa được chơi cờ cùng cha nữa."
Em lại vùi đầu xuống nhìn những con cờ ngang dọc đầy bàn cờ kia, thấp giọng nói: "Anh có thể chơi cờ vây cùng cha đến trình độ đó, cũng không biết con có thể thắng cha được mấy ván nữa?"
Tạ Cánh nhớ lại những tàn cục mà y đã từng chứng kiến vô số lần và khắc ghi trong lòng: "E là không dễ đâu."
"Mẹ cũng không tin con sao?"
"Không phải mẹ không tin con. Chỉ vì con là do mẹ dạy," Tạ Cánh đẩy một chén nước canh đã đun ấm tới cho cô bé, khẽ nói, "Còn Thanh Nhi là do cha con dạy."
Ở biên châu Bắc Cảnh, vào đông trong thành sẽ có chợ đêm, đúng lúc năm nay thu hoạch tốt, lại không bị chiến sự quấy nhiễu như bao năm trước, chợ đêm cũng náo nhiệt hơn một chút. Chỉ là trời mau lạnh, áo bông mà Tạ Cánh làm cho Lục Thư Ninh từ hồi đầu mùa bây giờ đã phát huy tác dụng, chỉ là y không có nhiều tiền dư để làm thêm một cái cho mình, chỉ đành mặc đi mặc lại rồi mới giặt mấy cái áo bào cũ.
Từ nhỏ Lục Thư Ninh đã sống ở Ung Châu, nhìn ánh chiều tà và cung đao, ngựa Hồ thành quen, vậy nên chỉ mỗi mấy quả pháo hoa nhỏ ở chợ đêm thôi cũng đủ để thu hút ánh mắt của em rồi. Còn về những gì ghi trên sách, nội dung trong thoại bản, Giang Nam - quê hương em trong lời kể của Tạ Cánh, oanh gáy trên đường đê, gió xuân mười dặm đều là những điều em chưa từng nghĩ đến.
Lục Thư Ninh bưng chén canh sủi cảo thịt dê nóng hổi lên, sau đó khuôn mặt nhỏ nhắn bị bao phủ trong làn hơi nước mờ mịt.
"Kim Lăng cũng có chợ đêm hả mẹ?"
"Có. Mùng một, ba, năm, mở suốt đêm luôn ấy."
"Vậy ở Kim Lăng có canh sủi cảo thịt dê không ạ?"
Tạ Cánh ngồi đối diện em hoàn hồn, y cau mày nhìn Lục Thư Ninh. Cô bé khó hiểu, vừa ăn vừa mở to mắt chờ đợi câu trả lời của y.
"Có... Chứ?"
Tạ Cánh cảm giác y cần phải cân nhắc một chút, để cho vị điện hạ kia tiện đường đưa Lục Thư Ninh về kinh thành trải nghiệm mới được.
Cửa sổ sát đường hơi rung rinh, chắc là Hổ Sư đã đến. Có lẽ là họ hạ trại ở bên ngoài, chỉ có hộ vệ cận thân đi theo Chiêu Vương vào thành, đường cái của thành Ung Châu không rộng lắm mà luôn đông đúc người qua lại, dù vậy, khi soái kỳ tăng lên, hơn ngàn kị binh nhẹ vào thành lại yên tĩnh như chỉ có một người đi, tiếng vó ngựa lên xuống cũng không hề lẫn chút tạp âm nào.
Ngay sau đó, dân chúng vây xem bên đường cũng bắt đầu giảm thấp tiếng nói lại, sợ làm phiền đến nghi thức như hành quân này, trong lòng thầm cảm thán, không hổ là thân vệ càn quét bát hoan lục hợp của Chiêu Vương, có duyên nhìn thấy đúng là được mở rộng tầm mắt.
Khó đè nén sự kích động e là chỉ có các cô nương. Trước khi uy danh lan khắp Tứ Cảnh, danh tiếng của Chiêu Vương mà bọn họ nghe được trong lời truyền lại từ kinh thành chính là "tiếng đẹp". Năm đó, khi tiên đế còn tại thế đã xây một tòa nhà cao rường cột chạm trổ, đặt tên là "Dao Đài", đám thiếu niên anh tuấn là vương tôn và hậu duệ quý tộc trong kinh thường đến đây giao du yến ẩm, trong số này, người có thân phận lẫy lừng nhất, phong thái trưởng thành nhất có hai người, bọn họ được người đương thời gọi chung là "Dao Đài Song Bích".
Mà "Dao Đài Song Bích" gồm một văn một võ, trong đó "võ" chính là vị Chiêu Vương điện hạ - người gánh vác mười bốn châu này, là người trong mộng của biết bao nhiêu cô gái trong kinh, có đến hàng ngàn người muốn qua cầu độc mộc, muốn được ngồi lên vị trí "Chiêu Vương phi" kia.
Có ai ngờ sau này... Sau này thì thôi, không nhắc tới cũng được.
Tuy rằng ngày nay chỉ có thể nhìn thấy một nửa của Song Bích, nhưng nói cho tròn thì có vẻ như là cũng đáp ứng được tâm nguyện của các cô nương rồi.
Qua cửa sổ tầng hai của một quán trà ven đường, Tạ Cánh chống cằm, buồn chán nhìn lướt qua bên ngoài.
Trong số các thân vệ có vài gương mặt quen, ba năm không gặp, bọn họ đều đã lãng phí quá nhiều thời gian với gió cát. Đến cả Lý Kỳ là người có năng lực kém nhất trong đám hỗn thế ma vương bọn họ năm đó nay cũng đã trở thành phó tướng, tuy rằng đường nét khuôn mặt vẫn còn chút ngây ngơ nhưng sắc mặt gã rất nghiêm nghị, đi ngay hàng đầu. Hổ Sư phải tuân theo quân kỷ cực kì nghiêm minh, nghe nói không thể bỏ qua công lao của gã.
Chiêu Vương điện hạ cầm thương bạc cưỡi bạch mã đi không nhanh không chậm phía trước kỵ binh. Từ lầu hai nhìn xuống, y thấy dường như tâm trạng của hắn không được tốt lắm, hoàn toàn không nhìn ra là vừa mới đánh một trận thắng lớn xong.
Gầy hơn nhiều rồi, Tạ Cánh nhủ thầm.
Đường nét ngũ quan và vóc dáng cao ngất càng lúc càng rõ ràng, quả thật là có mang theo làn gió "Chiến Thần".
Tạ Cánh gần như vô thức tìm kiếm miếng ngọc trắng giữa áo choàng đỏ giáp bạc kia, ánh mắt dừng lại lâu hơn một chút rồi mới giật mình hoàn hồn, y tự nói với mình, nơi đó chẳng còn gì cả.
Chiêu Vương đi được hơn mười bước nữa thì bỗng nhiên dừng lại.
Hơn một nghìn thân vệ phía sau cũng đồng thời dừng chân, bất động như núi, im lặng chờ chủ soái truyền lệnh.
Nhưng Lục Lệnh Tùng chỉ dắt dây cương, ngựa hơi nghiêng mình đi, quay đầu lại, nhìn qua lầu hai của một quán nước trong vô số hàng quán chằng chịt rồi dán chặt ánh mắt nghi ngờ của hắn ở nơi đó cả buổi trời.
Đưa tay lên vuốt ve ngực trái nơi cất giữ bạch ngọc, đột nhiên hắn cảm thấy tim mình đập hơi nhanh.
Bạn đang đọc truyện trên: truyentop.pro