Chương 28

7.3

Ngày Lục Lệnh Tùng mang binh vào đóng ở Ung Châu, hắn đã vô tình bắt gặp đoàn binh trong tay một hậu duệ quý tộc của Mạc Bắc Vương, sau đó thẳng tay kéo người ngã ngựa, kể từ đó lực lượng chủ yếu của người Bắc luôn do một tướng Hán tên Đinh Giám chỉ huy. Không dễ gì mới khiến cho kẻ này ra trận, lần duy nhất gã xuất binh cũng là lần tình cờ gặp được Lục Lệnh Tùng, trận đó không phân thắng thua, một người bị tước mất mũ sắt, kẻ còn lại bị chiếm đoạt kích tay.

Theo báo cáo của thám tử, thân binh dưới tay Đinh Giám đều là người Bắc, nhưng người này không có danh tiếng gì, xuất thân và bối cảnh đều khó tra xét, cũng không biết gã đã trổ tài gì mà khiến cho một đám mọi rợ cam tâm tình nguyện ra sức phò tá.

Tuy vậy, điều đó cũng mang lại một lợi thế cho trận chiến lần này - đoán ý người Hán luôn dễ hơn dò xét tâm tư người ngoại tộc. Câu "núi sông khác biệt, gió trăng chung trời" tuy không dám chắc hoàn toàn đúng, nhưng thường thì người Hán có thể hiểu được lẫn nhau.

Dựa theo kế hoạch, quân tiến vào đại doanh của Đinh Giám đêm nay sẽ chia thành bốn hướng. Hà Cáo dẫn quân thủ thành Ung Châu tiến công theo đường chính diện; dư bộ Hổ Sư ở phía Đông có Lý Kỳ, phía Tây có phó tướng Đàm Nhạc sẽ lặng lẽ hành quân phục kích từ hai cánh; Lục Lệnh Tùng dẫn đội thân vệ lấy một địch trăm của Chiêu Vương hành quân nhẹ, đột kích hiểm lộ ở hậu doanh. Cứ thế tạo thế trận bao vây, các bên thổi kèn truyền lệnh, hỗ trợ lẫn nhau tiêu diệt toàn bộ quân địch.

Địch trong tối ta ngoài sáng, chẳng rõ trong thành Ung Châu có tai mắt triều đình hay không, cho nên Lục Lệnh Tùng và Tạ Cánh không dám tùy tiện hành động cùng nhau. Sau khi bàn bạc, cuối cùng họ quyết định rằng Tạ Cánh sẽ trở về Ung Châu cùng đội trinh sát, hội họp với Hà Cáo rồi mới theo đoàn xuất quân.

Ban đêm trên sa mạc phía Bắc, thứ khiến người ta khó chịu nhất chính là cái lạnh. Gió như dao cắt vào mặt, không có vật gì che chắn cái lạnh buốt thấu từ ngoài vào trong xương

Tạ Cánh không có giáp trụ hay chiến bào, đành tìm một bộ từ quân doanh thay tạm, tuy hơi rộng nhưng vẫn tốt hơn là không trang bị gì. Lục Lệnh Tùng chỉ có thể tiễn y đến cửa doanh, trước khi đi, hắn ném chiếc áo choàng lớn lên lưng ngựa cho Tạ Cánh khoác, nói: "Hành động cẩn thận", rồi dõi mắt nhìn theo y và đội trinh sát rời đi.

Doanh trại của Đinh Giám nằm sâu trong đại mạc, vị trí cách khá xa thành Ung Châu. Thảo nguyên rộng lớn có tầm nhìn xa, nếu không có núi non và cát bụi che chắn thì rất dễ bị phát hiện. Vì vậy, Hà Cáo dựa vào thiên tượng để dự liệu, vừa đi vừa dừng, đến khi nhận được tín hiệu từ ba cánh quân còn lại mới hạ trại sau ngọn núi cách mục tiêu hơn chục dặm.

Hà Cáo vốn là cựu thần ở trong kinh, nhìn thấy món đồ rõ ràng không hề tầm thường như áo choàng ngự ban trên người Tạ Cánh thì sắc mặt thay đổi, cứ muốn nói lại thôi. Tạ Cánh cảm nhận được sự nghi ngờ của ông ta nhưng cũng không giải thích. Sự thật khó giấu, trước sau gì cũng sẽ có ngày lộ ra, chỉ là không phải lúc này.

Lực lượng bảo vệ bên ngoài doanh trại địch dày đặc, chốt gác được bố trí kín kẽ, rất khó để tấn công trực diện. Hà Cáo nói với Tạ Cánh: "Phải đánh tận gốc nhưng không thể cắt đứt quan hệ, nếu không sau này sẽ không còn gì để làm ăn, triều đình mà truy cứu thì Ung Châu sẽ phải gánh hết trách nhiệm. Trận đánh này khó nhất chính là kiểm soát mức độ."

Tạ Cánh gật đầu: "Quan trọng hơn hết là phải dụ được hắn ta ra ngoài."

Hà Cáo trầm ngâm một lát rồi nói: "Hình như điện hạ có ý đồ gì đó với Đinh Giám."

Tạ Cánh suy nghĩ rồi đáp: "Ý đại nhân muốn nói, điện hạ có ý chiêu an ông ta?"

"Có lẽ vậy, ta cũng không biết chắc, " Hà Cáo cười khổ lắc đầu nói, "Tuy rằng ta từng có mối quan hệ thầy trò với điện hạ, nhưng khi đó hắn còn rất nhỏ, giờ đây trò giỏi hơn thầy, ta không còn đoán được suy nghĩ của hắn nữa."

Tạ Cánh an ủi: "Đã vậy, đại nhân không cần quá bận tâm đâu. Điện hạ và Đinh Giám từng giao chiến, chắc chắn trong lòng ngài ấy đã có dự tính. Chúng ta chỉ cần tin tưởng là được."

Hà Cáo đồng ý, rồi nhớ đến nhiệm vụ tiên phong của họ, ông bèn hỏi: "Theo cậu thì khi nào ta xuất quân là tốt nhất?"

Tạ Cánh nhìn vào đêm tối sâu thẳm, mỉm cười: "Không cần vội."

Giữa đêm canh ba, tiếng trống trận bỗng dưng vang lên. Ở vòng ngoài cùng của doanh trại Mạc Bắc, binh lính phòng thủ lập tức báo cáo sự việc bất thường lên chủ tướng Đinh Giám. Đinh Giám là người Hán, gã dùng binh pháp của người Hán để đoán ý Chiêu Vương, nghĩ rằng vào dịp cuối năm này, đối phương sẽ không dễ gì xuất quân. Vì vậy tuy không lơ là nhưng cũng không căng thẳng, không bày sẵn trận địa đón địch như ngày thường. Đến khi nhận được báo cáo, gã ta không khỏi kinh ngạc.

Binh lính dưới trướng của gã vốn là những tay thiện chiến. Trong chốc lát, quân sĩ Mạc Bắc đã tập hợp đầy đủ, mặc giáp sẵn sàng xuất quân nghênh chiến. Thế nhưng thám tử được phái ra để điều tra trở về báo cáo lại rằng chỉ nghe thấy tiếng trống trận, không thấy quân đội người Hán nào cả.

Trong lúc còn đang nghi hoặc, tiếng trống trận bỗng ngừng bặt, thay vào đó không phải tiếng vó ngựa, mà là một âm thanh tựa như tiếng đàn hồ văng vẳng truyền đến, dường như nó phát ra từ nơi rất xa. Ban đầu, âm thanh này gần như không thể nghe rõ, dần dần mới nhận ra giai điệu nhưng vẫn đứt quãng, khi có cơn gió thổi đến thì âm thanh lại bị cuốn bay đi.

Đinh Giám không thạo âm luật, nghe thấy tiếng nhạc mà chẳng hiểu gì, gã nhìn quanh thì thấy các tùy tùng đều biến sắc, im lặng lắng nghe.

Một lúc sau, tiếng đàn hồ dường như gần hơn, giai điệu trầm buồn, không giống âm nhạc Trung Nguyên, cũng không phải những khúc hát sôi động hào hùng của thảo nguyên. Nhưng binh sĩ Mạc Bắc thì đều bàng hoàng sững sờ, nét mặt lộ rõ vẻ lo lắng.

Lúc này, trên đại mạc tĩnh mịch không một tiếng động, chỉ còn lại tiếng đàn hồ buồn não nề phiêu lãng theo gió bay thẳng lên trời cao.

Ở phía bên kia doanh trại địch, Lục Lệnh Tùng đã phục kích từ lâu nghe thấy tiếng đàn hồ bỗng khựng lại, tập trung xác định phương hướng, lắng nghe hồi lâu, rồi trong bóng đêm, hắn bắt đầu khe khẽ ngâm nga theo nhạc.

Thân vệ đi theo đều kinh sợ, âm thầm nhíu mày nhìn nhau, đánh bạo hỏi:

"Điện hạ, đây là ca khúc gì?'

Lục Lệnh Tùng không trả lời ngay, thấp giọng hát xong một lần mới đáp, "Khúc hát ru."

Hắn nhìn về hướng nơi quân lính Ung Châu canh giữ, thấy được ngọn đuốc xua tan đêm đen, "Con gái ta dạy đấy."

Thân vệ nghe vậy đều nghẹn lời, quay sang nhìn nhau.

Năm đó, có một vị nhạc công từ Mạc Bắc đến Vương phủ chơi, vợ của ông ta là hạ nhân trong phủ, bà ấy từng làm nhũ mẫu của Lục Thư Ninh khoảng một năm rưỡi. Sau này, mặc dù phải theo chồng về quê hương, bà vẫn kịp dạy cho Lục Thư Ninh khúc ru con rất phổ biến trong mọi gia đình ở Mạc Bắc. Lục Thư Ninh hát nhiều đến mức cả phủ Chiêu Vương ai nấy đều quen thuộc với giai điệu này - thậm chí bằng cách nào đó mà Lục Lệnh Tùng, người hoàn toàn mù tịt ngũ âm cũng học thuộc được.

Chỉ là không ai biết Tạ Cánh đã học khúc nhạc dị vực này từ bao giờ - Tiêu Vĩ cầm của y hãy còn treo trên tường thư phòng trong phủ Chiêu Vương kia mà.

"Tứ diện sở ca* sao, một bài hát ru trẻ con thôi mà cũng tính lừa ta à?" Sau khi nghe thủ hạ giải thích, Đinh Giám không khỏi nén giận. Gã ta biết rõ đây là mưu kế, nhưng đối diện với tình huống chỉ nghe thấy tiếng mà không thấy người, gã cũng không còn cách nào khác, đành ra lệnh cho binh sĩ không được phân tâm và luôn sẵn sàng tác chiến.

(*) Trong tiếng Hán, thành ngữ "Tứ Diện Sở Ca" được dùng để hình dung tình huống một người gặp khó khăn to lớn, tình hình xung quanh dường như cho thấy thất bại của người này.

Gã chỉ không ngờ rằng người đàn khúc nhạc này dường như không biết mệt mỏi, giai điệu nhẹ nhàng, trầm lắng cứ vang lên suốt cả đêm, vừa như ru ngủ vừa khơi gợi nỗi nhớ quê hương, mãi cho đến khi trăng tàn, trời gần sáng, âm thanh mới dần yếu đi giống như tiếng khóc của một đứa trẻ đã mệt nhoài, rồi cuối cùng lặng hẳn.

Đinh Giám thầm chửi mắng tên họ Lục đã chơi mình một vố, bên kia có lẽ chỉ cử một kẻ đánh trống trận và một kẻ gảy đàn đến, không biết là trốn ở xó xỉnh nào để phá quấy. Binh lính trong doanh trại Mạc Bắc cuối cùng cũng thở phào nhẹ nhõm, sau một đêm bị khúc nhạc kia tra tấn, chúng đều kiệt sức về cả thể xác lẫn tinh thần, chuẩn bị dặn dò nhà bếp nấu một bữa cơm chung.

Thế nhưng, còn chưa kịp ra lệnh, tiếng hò hét giết chóc bỗng chốc vang lên đồng loạt, phá vỡ tuyến phòng thủ đã hơi lỏng lẻo, binh mã từ bốn phía ào ạt tiến tới.

Quân Mạc Bắc lập tức chỉnh đốn lại đội hình lên đường ra trận, nhưng khoảnh khắc hỗn loạn đó đã đủ để chúng mất đi thế chủ động. Ngay lập tức, quân Hán và quân Mạc Bắc bắt đầu giao chiến hỗn loạn. Lúc này, quân thủ thành Ung Châu vốn là nhóm tiên phong theo lệnh của Hà Cáo vừa đánh vừa rút, làm như không thể chống lại quân tinh nhuệ do Đinh Giám chỉ huy, nhưng dần dần dẫn dắt chiến trường rời xa doanh trại Mạc Bắc, kéo quân ra thảo nguyên rộng lớn.

Lực lượng thủ thành Ung Châu đương nhiên không thể so sánh với đội quân Hổ Sư, nhiệm vụ bắt quân địch không đến phiên họ làm, vậy nên nhóm này đã tản ra, nhường chỗ cho hai nhóm của Lý Kỳ và Đàm Nhạc tiến vào. Gần như ngay lập tức, Hổ Sư lệnh vang lên khắp bốn phía khiến quân địch rối loạn, trong khi Hổ Sư lại thay đổi đội hình vô cùng trật tự. Dẫu vậy, vẫn phải thừa nhận man di quả nhiên là man di, mặc dù Hổ Sư đã được Chiêu Vương huấn luyện nghiêm ngặt, binh sĩ nào cũng đều dũng mãnh phi thường, nhưng khi đối đầu trực diện, trận chiến vẫn không hề dễ dàng chút nào.

Trời vừa sáng rõ, trong lúc đang giằng co, Đinh Giám bất ngờ nhìn thấy từ phía chân trời có một đội quân ầm ầm tiến tới như bão cuốn, dẫn đầu là một người mặc giáp bạc, khoác áo choàng đỏ, ánh sáng bình minh trải khắp người. Người ấy từ xa cất giọng vang dội:

"Đinh huynh!"

Đinh Giám nghe tiếng gọi thì giật mình, trong lòng vừa kinh ngạc vừa tức giận, gã lập tức thúc ngựa lao về phía trước để giao chiến. Lục Lệnh Tùng cười ngạo nghễ, giơ tay ném về phía Đinh Giám một vật gì đó, Đinh Giám bắt lấy thứ bay giữa không trung, hóa ra chính là cây kích tay mà hôm trước mình đoạt bị mất.

"Khi nào Đinh huynh mới trả lại chiếc mũ cho bổn vương đây?"

Đinh Giám không đáp lại lời đùa cợt này mà lao đến giao đấu với Lục Lệnh Tùng. Hai người chiến đấu suốt một hồi lâu mà vẫn bất phân thắng bại, trong lúc đó, quân Hổ Sư đã dần chiếm thế thượng phong trước quân Mạc Bắc. Đinh Giám thấy tình thế bất lợi, đành phải chỉ huy quân đội rút khỏi vòng vây nhưng vẫn cẩn thận đề phòng Lục Lệnh Tùng truy đuổi. Điều khiến gã ngạc nhiên là Chiêu Vương, người luôn dẫn đầu mọi trận đánh lần này lại không đuổi theo. Thay vào đó, Lục Lệnh Tùng ra lệnh cho quan quân thổi kèn điều khiển dư bộ tiếp tục truy kích, hắn chỉ đứng ở cách đó một khoảng nhìn theo hướng Đinh Giám rời đi, ánh mắt như hàm chứa ẩn ý sâu xa.

Không phải Lục Lệnh Tùng không muốn giành công, mà bởi vì hai lý do. Thứ nhất, hắn và Đinh Giám ngang tài ngang sức, nếu không thể tiêu diệt đối phương hoặc buộc gã quy hàng, việc đuổi theo sẽ trở nên vô nghĩa. Thứ hai, để Đinh Giám rút lui cũng là do trong quá trình bàn bạc trước đó, Tạ Cánh đã từng nói:

"Người Hán mà lại đi phụng sự cho Nhung, Địch ắt phải có nguyên do. Nếu như cố cưỡng ép thu nạp, chỉ sợ người đã hàng mà lòng chưa phục, khó có thể trở thành người của ta, ngược lại hóa thành mối họa. Chẳng bằng tìm hiểu rõ nguồn gốc trước rồi hẵng tính tiếp."

Lý Kỳ và những người khác thừa thắng xông lên, lúc này họ đã phá tan được đại bản doanh của Đinh Giám, tiêu diệt gần một nửa số quân lính phòng thủ. Tạ Cánh chỉ huy quân thủ thành Ung Châu, trong lúc thu dọn chiến trường đã tiện tay châm lửa đốt mấy dãy trại tích trữ lương thảo của quân địch, mượn hướng gió sớm để ngọn lửa lan rộng. Sau khi đạt được mục đích, họ nhanh chóng rút quân về thành theo đúng kế hoạch.

Trong phòng nghị sự của phủ Thái Thú, các tướng lĩnh đang bàn bạc cách bố trí phòng thủ thành Ung Châu sau khi quân Hổ Sư rút đi, cũng như các kế hoạch quân bị cho nửa năm tới. Khi đó mặt trời đã lên cao, qua giờ Ngọ từ lâu, chuyện quan trọng nhất cũng đã được giải quyết. Dù lần này quân Mạc Bắc không hoàn toàn hết hy vọng rút lui, nhưng tổn thất của chúng vô cùng nghiêm trọng, chắc chắn sẽ phải cân nhắc và do dự hơn nhiều. Sĩ khí quân thủ thành Ung Châu hiện tại đang cao ngất, chỉ cần cố thủ vững vàng, gần như sẽ không còn khả năng xuất hiện thêm mối đe dọa lớn nào đối với thành trì nữa.

Bên ngoài có hạ nhân vào báo cơm trưa đã chuẩn bị xong, Hà Cáo vừa định mời mọi người di chuyển đến bàn ăn thì Lục Lệnh Tùng bất ngờ quay sang ông, nói: "Hà đại nhân, còn một việc quan trọng nữa ta muốn giải thích rõ ràng với ông."

Hà Cáo thấy sắc mặt hắn nghiêm trọng bèn lập tức ra lệnh cho tất cả lui ra. Lục Lệnh Tùng cũng phất tay, vài phó tướng hiểu ý nhanh chóng rời khỏi phòng. Trong khoảnh khắc, cánh cửa phòng khép lại, phòng nghị sự chỉ còn lại ba người: Hà Cáo, Lục Lệnh Tùng và Tạ Cánh.

"Ngô Chỉ à, hay là cậu..." Hà Cáo bối rối nhìn Tạ Cánh, khách sáo chỉ về phía cửa, ý muốn mời y ra ngoài trước.

Nhưng lời chưa kịp dứt, Hà Cáo đã bất ngờ thấy Chiêu Vương và Tạ Cánh đồng loạt quỳ xuống trước mặt mình. Trước khi Hà Cáo kịp ngạc nhiên vì Lục Lệnh Tùng hành đại lễ với mình, những lời tiếp theo của hắn đã càng khiến ông chấn động hơn, khó tin đến nỗi đứng sững tại chỗ.

"Hà đại nhân đã thu nhận và bảo vệ vợ và con gái của ta suốt một năm qua, ngày sau nhà ta nhất định sẽ lấy thân báo đáp."

Hà Cáo trợn tròn mắt, há miệng định nói nhưng không thốt nên lời. Ông nhìn Lục Lệnh Tùng, rồi lại nhìn Tạ Cánh đang cùng hành lễ bên cạnh, tay vươn ra định đỡ người cũng quên cả rút về.

"V-vợ ư?"

Chút lý trí còn sót lại giúp Hà Cáo cố gắng giữ đúng phép tắc và cẩn trọng lựa chọn từ ngữ, ông không chỉ thẳng vào Tạ Cánh mà chỉ ngây ngốc nhìn y, xác nhận lại: "Cậu... Người là thê tử của điện hạ sao...?"

Tạ Cánh khẽ gật đầu, cúi người thêm lần nữa rồi nói: "Năm qua quấy rầy quý phủ, được đại nhân che chở, thế nhưng không thể không giấu giếm thân phận với đại nhân, trong lòng ta thật sự cảm thấy hổ thẹn."

Hà Cáo không kìm nén nổi mà hét lên: "Quả nhiên là người! Ta đã nói mà, ta không thể nào nhìn lầm nét chữ ấy được, quả nhiên chính là Tạ Cánh!"

Ngay sau đó, ông như bừng tỉnh ngộ, vỗ mạnh lên đùi mình một cái: "Lẽ ra ta phải nghĩ ra sớm hơn chữ, hai chữ 'Ngô Chỉ' đảo ngược lại chẳng phải chính là tự của người, Chi Vô đó sao!"

Tỉnh ngộ rồi, ông nhanh chóng đứng dậy đỡ hai người. Lục Lệnh Tùng nhường ông về ghế chủ tọa, còn hắn và Tạ Cánh thì ngồi xuống hai ghế khác, trước khi ngồi, Tạ Cánh còn kính cẩn dâng cho Hà Cáo một tách trà.

Hà Cáo vẫn còn bàng hoàng chưa nguôi, miệng lẩm bẩm: "Thảo nào ta cứ thấy lệnh ái có nét quen thuộc, cứ nghĩ là do duyên phận, nào ngờ lại thành ra thế này."

Tạ Cánh khẽ cười: "Đúng là con bé trông giống điện hạ hơn. Ta cũng phải thay Thư Ninh cảm ơn phu nhân đã yêu thương nó suốt thời gian qua."

Hà Cáo phất tay, rồi đột nhiên nghi hoặc: "Nếu nói như vậy, chẳng hay Vương phi rời kinh thành là để đến Ung Châu nương nhờ ta sao?"

Tạ Cánh và Lục Lệnh Tùng nhìn nhau, y cúi đầu trả lời: "Đến Ung Châu chỉ là vô tình, nhưng tìm đến ngài đúng là có chủ ý."

"Khi xưa ở Vương phủ, Tử Phụng đã nhiều lần nhắc đến việc ngày nhỏ được đại nhân dạy dỗ binh pháp võ nghệ, học đạo làm người, nhưng chưa học thành tài thì ngài đã bị biếm chức, rời xa quê hương. Những năm qua, chàng vẫn luôn nhớ về ngài. Ngày ta đến Ung Châu, nghe nói Thái thú chính là đại nhân, ta nghĩ ngài chắc chắn là người nghĩa khí, dùng người không nghi ngờ, cho nên mới cả gan dùng chút tài mọn, thay đổi thân phận tìm nơi an thân."

Mối quan hệ thầy trò giữa Hà Cáo và Lục Lệnh Tùng năm xưa không kéo dài quá lâu, bởi vì liên lụy đến vụ án cũ mà ông bị giáng chức. Lúc này, ông cũng không ngờ rằng Chiêu Vương vẫn nhắc đến chuyện cũ với Vương phi, trong lòng không khỏi xúc động, ông nói với Lục Lệnh Tùng: "Cảm ơn điện hạ vẫn còn nhớ đến ta."

Lục Lệnh Tùng đáp: "Năm ấy ta thân cô thế cô, nhìn thấy hoàn cảnh của ông trong lòng bất bình nhưng cũng đành bất lực. Suốt bao năm qua đó vẫn là điều làm ta tiếc nuối."

Hà Cáo thở dài: "Cũng qua nửa đời rồi, mọi thứ nên nhìn thoáng thì cũng đã nhìn thoáng. Chỉ có chuyện của nhà Tạ Ngự sử mới thực sự khiến người ta đau lòng."

Sau khi vào phủ Thái thú, Tạ Cánh từng nhiều lần nghe Hà Cáo tiếc thương cho thảm họa của nhà họ Tạ, nhưng lúc đó vì thân phận mà y không thể nói gì thêm. Y cũng biết đại khái khi xưa Hà Cáo và cha mình có mối giao tình, nhưng đã bao năm không gặp, có lẽ cảm xúc tiếc nuối của Hà Cáo chiếm nhiều hơn là nỗi buồn thương đồng cảm với số phận đầy bi kịch của nhà họ Tạ.

Quả nhiên, Hà Cáo cạy ngón tay, thấp giọng nói: "Ta có quen biết với ông nhà, tính ra cũng là chuyện từ hai mươi năm trước rồi."

Tạ Cánh không thay đổi biểu cảm, chỉ khẽ đáp: "Chuyện đã qua không thể cứu vãn, nhưng tương lai có thể đuối theo, đại nhân và ta đều nên nhìn về tương lai mới phải."

Hà Cáo gật đầu, hỏi: "Vậy tiếp theo điện hạ và Vương phi định như thế nào..."

Lục Lệnh Tùng nhìn Tạ Cánh, người nọ mím môi, sau đó nói: "Điện hạ phải về thôi, còn ta thì... Vẫn chưa quyết định."

Nguyện vọng để Tạ Cánh về kinh của Hà Cáo vẫn trước sau như một, "Về đi thôi, sớm muộn gì cũng nên trở về. Thành Lạc Dương cảnh xuân tươi đẹp, tài tử Lạc Dương không nên chết già ở cái nơi đất khách quê người này."

Hai mắt Tạ Cánh sáng lên, đột nhiên y ngẩng đầu nhìn Hà Cáo với đôi mắt đã mang dấu vết của tuổi già, nhẹ nhàng nói: "Chẳng lẽ đại nhân chưa từng thấy gió thu thổi qua mà nhớ đến món cá lư sao?"

Hà Cáo sững sờ trong giây lát, sau đó bất đắc dĩ đáp: "Nhớ thì được gì, thân thể ta già yếu bệnh tật thế này, chỉ e là không còn đủ thời gian về quê nữa."

Tạ Cánh đưa mắt nhìn Lục Lệnh Tùng như đang hỏi ý, hắn trầm ngâm một lát rồi khẽ gật đầu. Thấy vậy, Tạ Cánh liền nhìn thẳng vào Hà Cáo, giọng không lớn nhưng chắc chắn:

"Nếu đại nhân nguyện ý, xin hãy đợi thêm một chút nữa, cùng lắm là ba năm, không phải ta thì cũng là điện hạ, bọn ta sẽ đích thân đưa ngài về kinh thành để an hưởng tuổi già."

Hà Cáo không ngờ Tạ Cánh lại nói ra lời như vậy, nhất thời không biết đáp trả thế nào. Căn phòng yên tĩnh một lúc, rồi Lục Lệnh Tùng từ tốn nói thêm: "Dù đại nhân không tin ta, cũng có thể yên tâm giao phó tất cả cho Vương phi. Y nói được là sẽ làm được, từ trước đến giờ đều như vậy."

Tạ Cánh chỉ im lặng nhìn Hà Cáo bằng ánh mắt kiên định, rất lâu sau đó, hai mắt của Hà Cáo bỗng ướt nhoè, ông thở dài một tiếng, hồi sau mới thấp giọng nói: "Tạ Ngự sử có một người con trai như vậy, ông ấy ở dưới suối vàng hẳn sẽ rất yên lòng."

Nghe câu nói đó, trong mắt Tạ Cánh thoáng hiện vẻ sa sút, y im lặng rất lâu, sau đó mới cười khổ, thở nhẹ nói:

"Đại nhân khen quá lời rồi. Có lẽ ngài không biết, ngày xưa ta chính là một kẻ chẳng ra gì."

==

Bạn đang đọc truyện trên: truyentop.pro