Chương 2

Sau khi thức dậy, tôi lập tức ghi lại địa chỉ. Lúc này mới chỉ hơn ba giờ, tôi phấn khích đến mức không ngủ được nữa. Lấy điện thoại ra thử tìm kiếm trên mạng, xem thử rốt cuộc đây là một địa chỉ hư cấu hay nó thật sự tồn tại. Kết quả khiến tôi càng hào hứng hơn, địa chỉ này có thật, hơn nữa còn ở ngay trong thành phố này.

Không chần chừ thêm nữa, tôi nằm trên giường đến hừng đông. Trời tờ mờ sáng, tôi ăn qua loa rồi bắt xe đến địa chỉ đó. Mặc dù chưa rõ lắm chấp niệm của vong hồn ấy là gì, nhưng tôi chắc chắn rằng có liên quan đến địa điểm này.

Trên đường đi tôi vẫn luôn suy nghĩ, lẽ nào phong cảnh nơi đó rất đẹp chăng. Vong hồn kia đã từng nhìn thấy nó. Ai dè đến nơi thì quá đỗi thất vọng. Xung quanh vô cùng vắng vẻ, nằm ở ngoại ô thành phố. Thậm chí còn không có bất kỳ nhà hàng hay quán ăn gì gần đó chứ đừng nói đến mấy khu du lịch.

Địa chỉ nằm trên một con đường nhỏ rất tồi tàn. Dãy nhà trệt nằm san sát nhau, trông khá cũ kỹ. Ven đường có rất nhiều ông bà lão đang ngồi hóng mát, chẳng thấy bóng người trẻ nào cả. Chắc vong hồn nọ cũng phải bảy tám chục tuổi rồi quá. Vậy thì càng kỳ lạ, người già qua đời thường sẽ không có chấp niệm. Tuy vẫn còn tiếc nuối, nhưng dẫu sao cũng đã kinh qua bao mưa gió vất vả, nhìn đời cũng trở nên nhẹ nhàng hơn nhiều.

Mải nghĩ, tôi đã đến được địa chỉ kia. So với trong giấc mơ thì vẫn có đôi chút khác biệt. Biển số nhà cũ rích tơi tả, nếu không nhờ tôi hỏi thăm thì có trời mới nhận ra nổi. Đây cũng là một ngôi nhà nằm trên con đường nọ, trông chẳng khác mấy căn nhà bên cạnh là bao. Có điều trước cửa nhà được dọn dẹp sạch sẽ, thậm chí còn bày mấy chậu cây cảnh, đem lại một cảm giác khá gọn gàng ngăn nắp.

Tôi soạn sẵn lý do, định nói mình mơ thấy địa chỉ nhà này, hôm nay bèn đến thăm hỏi một chuyến. Mặc dù lý do nghe hơi gượng gạo và kỳ quặc, song cũng là cái cớ hiệu quả nhất, hễ tôi đề cập sơ qua về thác nước hoặc là hoàng hôn, có thể tôi sẽ phát hiện được gì đó qua biểu cảm của người trong nhà, đến lúc đó thì tùy cơ ứng biến. Tốt hơn nhiều so với việc bảo mình là nhân viên thu tiền gas rồi bị người ta tưởng lừa đảo đuổi ra ngoài.

Nghĩ vậy, tôi bèn gõ cửa. Bởi vì nơi đây quá xa xôi nên tôi cũng mất kha khá thời gian. Đã hơn 10 giờ rồi, chưa chắc trong nhà có người. Bất ngờ thay, chỉ mới gõ vài cái thì đã có một người ra mở cửa cho tôi. Người nọ là phụ nữ, còn khá trẻ, gương mặt vô cùng xinh đẹp, có vẻ đã hơn 30 tuổi. Chẳng qua trên đầu của cô ta đội một chiếc mũ chống nắng quê mùa trông rất lạc quẻ.

Thú thật, tình hình trước mắt không quá khả quan với tôi. Tôi cứ nghĩ người mở cửa phải là một lão già lụ khụ cơ. Người già thường mê tín lắm, vả lại cũng ít có người trò chuyện cùng, biết đâu cái cớ mà tôi viện ra có thể phát huy tác dụng. Nhưng lần này lại là một người trẻ tuổi, e rằng tôi chỉ mới mở miệng đã bị người ta đá đít liền.

Tuy nhiên giờ không kịp bịa chuyện nữa rồi, tôi chỉ đành nói luôn lý do đã chuẩn bị sẵn. Ngạc nhiên thay, người phụ nữ đó ngẩn ra, hỏi lại tôi, thật sao? Đoạn cô ấy tránh sang cho tôi vào. Người ta đã tin tưởng mình như vậy, tôi cũng không giấu giếm gì nữa.

Căn nhà được quét tước gọn gàng, mặc dù nội thất không quá đắt tiền nhưng nhìn cách bố trí và bày biện có thể thấy chủ nhà có mắt thẩm mỹ khá tốt. Ngồi xuống, tôi bèn nói thật về lý do lần này đến đây của mình. Bất kể đối phương có tin hay không, tôi cũng đã bộc bạch hết rồi.

Người phụ nữ nọ nghe xong, ánh mắt trở nên đờ đẫn, hồi lâu sau vẫn không đáp lại. Tôi nghĩ cô ta sợ rồi, bèn kể lại giấc mơ trong ba ngày của tôi từ đầu đến cuối. Không phải tôi cố ý nói quá hay hù dọa gì cả, lần này đến đây vì muốn xem thử có thể giúp được gì không.

Người phụ nữ ừ một tiếng, tỉnh táo lại. Cô đi vào phòng và lấy ra một thứ cho tôi xem, đó là một tập thơ. Tập thơ còn mới, chẳng biết xuất bản năm nào. Nhìn bìa và giấy của nó chắc đã lâu rồi. Bây giờ chẳng mấy ai mua thơ nữa, hầu như đều là tự mình xuất bản thôi. Tôi cũng không buồn giở ra xem, hỏi người phụ nữ có ý gì?

Người phụ nữ lật tập thơ đến một trang rồi đưa cho tôi nhìn. Trang này là một bài thơ hiện đại, không dài lắm. Nội dung cụ thể thì tôi không thuộc, giờ cũng chẳng thuật lại được. Nhưng nội dung đại khái lại khiến tôi sửng sốt, bởi nó không chỉ nhắc tới thác nước mà còn có mặt trời lặn, thậm chí là cả số nhà này. Tôi nhủ thầm, lẽ nào vong hồn ấy nhớ tập thơ này lắm chăng? Đốt nó đi liệu có thỏa mãn được tâm nguyện của vong hồn không?

Tôi nói ra phỏng đoán của mình với người phụ nữ kia, đề xuất cô ấy thử đốt nó đi. Ai dè cô lại lắc đầu, bảo, thật ra chồng cô không có ý đó. Đoạn, cô kể cho tôi nghe về chuyện gia đình mình.

Vong hồn nọ hay cũng chính là người chết, là chồng của cô. Hai người vốn là bạn đại học, bên nhau tám năm, mới kết hôn hai năm trước. Gia cảnh của người phụ nữ khá giả, nhưng gia đình chồng của cô ấy thì ngược lại. Do đó hai người đã bên nhau lâu như vậy nhưng vẫn không được nhà gái chấp nhận. Song người phụ nữ này rất kiên cường, khăng khăng đòi cưới chàng trai ấy. Cuối cùng xảy ra xung đột đến mức cắt đứt quan hệ với gia đình, hai người họ tới thành phố này sinh sống, trải qua những ngày tháng bình yên, dù cho tình hình kinh tế không tốt lắm, chỉ có thể ở tại một nơi như vầy nhưng hai người lại vô cùng hạnh phúc.

Người đàn ông cực kỳ yêu thích văn học, nhưng mãi vẫn lâm vào bế tắc thất bại. Tuy nhiên bình thường anh ta vẫn sẽ viết vài áng thơ tình cho vợ, giống như tăng thêm gia vị cho cuộc sống khó khăn của họ. Sau đó, người phụ nữ bèn bí mật bỏ tiền ra xuất bản tập thơ này, lưu lại kỷ niệm cho tình yêu của họ, đồng thời cũng muốn động viên chồng mình. Song tiền bạc không dư dả lắm, vậy nên tập thơ ấy khá cẩu thả từ khâu thiết kế, dàn trang cho đến in ấn. Đó là lý do tại sao tập thơ tuy mới ra lò nhưng lại trông rất cũ kỹ.

Thật ra đây là một chuyện hạnh phúc biết bao, khó khăn đến mấy rồi cũng hái được quả ngọt. Hai người tin rằng cứ kiên trì thì cuối cùng mọi thứ cũng sẽ tốt đẹp hơn. Nhưng đời ai biết trước chữ ngờ, ngay năm nay, người đàn ông bỗng nhiên được chẩn đoán mắc ung thư xương. Người phụ nữ cố gắng hết sức cũng không thể cứu nổi chồng mình, bèn về nhà xin giúp đỡ, người nhà còn giận cô nên không cho mượn một đồng nào, khiến cô đau lòng khôn nguôi. Sau cùng, chồng cô vẫn nhắm mắt xuôi tay.

Thành thật mà nói, câu chuyện thế này vẫn đang xảy ra hằng ngày, nhưng khi bạn nghe người trong cuộc kể lại, làm sao có thể nén nổi xót xa. Dẫu vô cùng xúc động, tôi vẫn tò mò hỏi cô ấy chuyện này có liên quan gì đến hoàng hôn và thác nước?

Người phụ nữ bảo tôi hãy đọc kỹ, rằng bài thơ này có nguồn gốc của nó. Từ nhỏ cô đã học múa, gen vốn đã tốt, làn tóc cô cực kỳ óng mượt. Ngày còn yêu đương, người đàn ông thường chải đầu cho cô, đây cũng là một hành động tình tứ giữa hai người họ. Dẫu sau này chồng cô phải nhập viện, anh vẫn tiếp tục làm việc đó. Bài thơ này, tưởng là miêu tả cảnh đẹp, thật ra lại là một bài thơ tình chải đầu do người ấy viết cho cô.

Tôi chẳng phải kẻ có tế bào nghệ thuật gì cho cam, nhờ người phụ nữ nói vậy mới vỡ lẽ. Kết hợp với bài thơ, đúng là nó mang ý nghĩa như thế. Thác nước chắc là ám chỉ mái tóc mượt mà của người phụ nữ, có lẽ tóc dài quá eo. Còn hoàng hôn, theo tôi thì hẳn là ánh mắt ngoảnh lại chan chứa ý cười của cô sau khi chải đầu chăng? Tôi cũng chỉ có thể diễn giải như vậy, dẫu sao mấy hình ảnh ẩn dụ của nhà thơ lúc nào cũng mơ hồ.

Mọi chuyện đến đây đã rõ ràng, đơn giản hơn tôi tưởng nhiều, lại còn rất ấm lòng. Tôi nghĩ, nếu suy ngược lại từ đầu thì hết thảy trở nên dễ hiểu rồi. Thật ra dấu vết đó vốn không phải là chữ F, chẳng qua vong hồn kia chỉ muốn vẽ một cái lược mà thôi.

Tôi bèn thương lượng với người phụ nữ, liệu tôi có thể chải đầu cho cô ấy một lần được không, có lẽ chấp niệm của vong hồn sẽ được hoàn thành. Người ở lại thì vẫn phải tiếp tục cuộc sống của mình.

Không ngờ người phụ nữ lại bẽn lẽn cười với tôi, đoạn cởi cái mũ che nắng ra. Bấy giờ tôi mới phát hiện cô ấy đã trọc rồi. Người phụ nữ nói cho tôi biết, từ ngày chồng mất, cô đã cạo trọc đầu mình. Bởi vì cô cảm thấy người chải đầu cho mình chẳng còn nữa, mái tóc này còn ý nghĩa gì đâu.

Tôi thấy vậy bèn không nói tiện thêm gì cả. Lúc ra về, thật lòng tôi còn muốn khuyên nhủ người phụ nữ ấy, nhưng cuối cùng vẫn không mở lời. Tôi đã chứng kiến vô số chấp niệm khác nhau, nhưng lần nào gặp chuyện như thế này vẫn cảm thấy buồn bã lạ thường.

Có lẽ vì thế gian này có quá nhiều thứ bất đắc dĩ. Cuối cùng tôi cũng chẳng đốt cuốn sổ ấy đi. Biết đâu một ngày nào đó, người phụ nữ kia nghĩ thoáng hơn và nuôi tóc dài trở lại, có thể mọi việc còn cứu vãn được. Nghĩ thế, tôi dường như hiểu ra tất cả. Có lẽ chấp niệm của người đàn ông vốn không phải là chải đầu cho vợ mình. Mà là hi vọng cô ấy sẽ quên được mình, nuôi tóc dài, rồi lại tìm được một người đàn ông có thể chải đầu cho cô ấy.

Sở dĩ tôi kể về chấp niệm này đầu tiên là vì muốn nói với các bạn rằng, những điều tốt đẹp trên đời vẫn luôn song hành cùng cái xấu. Chấp niệm cũng có tốt có xấu, tiếp theo, tôi sẽ kể về một cái 'xấu'.

Chấp niệm lần này tôi gặp được khi vừa vào nghề không lâu. Nói đúng ra thì không phải là tôi gặp, mà là chấp niệm tự tìm tới tôi. Khi đó tôi còn gà lắm, chưa trải qua bao nhiêu chuyện, vì vậy thấy chấp niệm nào tôi cũng vô cùng tò mò. Chưa suy xét kỹ càng đã lao đầu về phía trước. Chính vì thế mà tôi suýt nữa đã bỏ mạng. Từ đó trở đi, tôi mới bắt đầu thận trọng hơn rất nhiều.

Như tôi đã nói trước đây, chấp niệm hầu như đều được viết vào sổ góp ý. Song trường hợp này cực kỳ đặc biệt, chấp niệm được viết trên một bao thuốc lá. Trong nghề chúng tôi, thường thì chấp niệm được viết ở những chỗ khác không thuộc phạm vi giải quyết của chúng tôi. Chính vì những chấp niệm như thế mang theo oán khí rất nặng, muốn xử lý êm đềm thì không được, cần phải dùng tới thủ đoạn bạo lực.

Nói nôm na chính là âm hồn không tan. Nhưng mà trùng hợp làm sao, tôi có một người bạn thời cấp hai làm việc trong đội chống móc túi. Một hôm, họ đang canh gác ở quảng trường trước ga tàu lửa thì gặp một tên trộm đến đầu thú. Gã nói mình đã trộm ví của người ta.

Bạn học của tôi làm được mấy năm rồi, cũng bắt được kha khá tên trộm, song đây là lần đầu tiên gặp phải một tên chủ động đầu thú. Dù rất bất ngờ nhưng vẫn bắt tên trộm về đồn. Nghĩ đi nghĩ lại, chắc là đang xảy ra xung đột giữa các băng nhóm, có thể gã này đang tìm kiếm sự bảo vệ đây. Họ cũng không để ý, cứ làm theo thủ tục rồi chuẩn bị bàn giao gã vào ngày mai.

Tuy nhiên, ngay ngày hôm sau tên này lại thú nhận trong nhà gã có giấu rất nhiều tang vật gã trộm được. Tất nhiên gã chẳng có lý gì để lừa gạt đội chống trộm cả, vì vậy bạn học của tôi và đồng nghiệp đã đến nhà gã một chuyến. Lúc ấy chỉ muốn mau chóng lập công nên không tuân theo đúng quy trình. Hai người họ lấy chìa khóa nhà tên trộm rồi lên đường.

Quả thật tên này không hề nói dối, dưới gầm giường và trong tủ nhà gã tìm thấy rất nhiều ví tiền, điện thoại các loại mà gã chưa kịp mang đi tiêu thụ. Lẽ ra vụ án này đến đây là kết thúc, nhưng thật kỳ lạ, trong lúc bạn tôi và đồng nghiệp lục soát nhà của tên trộm lại phát hiện nơi đây khá kỳ quái.

Đầu tiên, tủ lạnh trong nhà bị lục tung, những thứ vốn nằm trong tủ lạnh lại bị vứt lung tung khắp nơi. Trong ngăn đá của tủ lạnh để rất nhiều bao thuốc lá rỗng không. Thứ hai, trong nhà đầy các thứ như thánh giá và tượng thần, đã thế còn thuộc về các tôn giáo khác nhau.

Gã trộm hiển nhiên chẳng phải người theo đạo, kể cả là có đi chăng nữa, cũng không thể nào lộn xộn thất thường như vậy được. Cộng thêm tình trạng của tủ lạnh, bạn tôi và đồng nghiệp cảm thấy khá hoài nghi, liệu tên trộm này có dính dáng gì đến án mạng nào nữa không, bởi thế nên mới suốt ngày nơm nớp lo sợ.

Hai người lập tức quay về thẩm vấn tên trộm, nhưng gã vẫn ngoan cố chối phăng, hỏi cả buổi cũng chỉ thừa nhận hành vi trộm cắp mà thôi. Về việc trong nhà có nhiều tượng thần Phật như vậy, gã chỉ nói là sở thích, không có nguyên nhân gì khác. Gã chẳng lộ vẻ gì là có tật giật mình cả. Không có bằng chứng trực tiếp, bạn tôi đành phải tuân theo quy trình, chuyển tên trộm cho đồng nghiệp khác.

Tuy nhiên bạn tôi vẫn còn để tâm đến việc này, bèn quay lại đó đem về mấy bao thuốc lá và tượng thần. Bởi vì cậu ta nghi ngờ tên trộm có thể sản xuất ma túy tại nhà, sau đó nhét vào bức tượng để che giấu tai mắt người khác. Biết đâu sẽ phát hiện ra dấu vết gì đó trên bao thuốc hoặc tượng thần.

Sau khi giao bao thuốc và tượng thần cho đồng nghiệp kiểm tra, kết quả vẫn không có phát hiện gì. Cuối cùng vụ án chẳng có tiến triển mới. Trong một lần hội họp, tôi nghe bạn học vô tình nhắc đến chuyện này. Khi ấy tôi hết sức hiếu kỳ, bèn bảo cậu ta hôm sau đem đến cho tôi một bao thuốc để tôi xem thử. Dẫu sao nghề tôi và nghề của cậu ta khác một trời một vực, không chừng tôi có thể tìm được manh mối gì đó.

Tôi có được một bao thuốc, nhận ra nó chỉ là một hộp thuốc lá rỗng cực kỳ bình thường. Hãng thuốc lá này cũng không đắt lắm, ở Trung Quốc có không ít người sử dụng. Hơn nữa bên trên cũng chẳng thấy có vết gì kỳ quái, sạch sẽ đến mức không một nếp nhăn.

Bao thuốc được bảo quản rất tốt, tôi hoài nghi là do chúng tôi nghĩ nhiều quá thôi. Có thể là tên trộm có đam mê sưu tầm bao thuốc lá. Bởi vì gã thật sự thích nó nên mới bỏ vào tủ lạnh, chuyện này cũng không có gì khó hiểu. Xung quanh tôi cũng vẫn có người sưu tầm bao thuốc, chẳng khác mấy so với sưu tầm con tem hay tiền xu cả.

Nhưng khi tôi nói ra suy đoán của mình, bạn tôi liền bảo rằng không thể nào. Bởi vì trong tủ lạnh chỉ có một loại bao thuốc này, do đó không thể nào là sưu tầm được. Cậu ta đoán nó dùng để đựng thứ gì đó, mà thứ này có kích thước tương đương với bao thuốc lá, lại còn cần phải bảo quản lạnh. Vì vậy gã trộm mới phải làm thế.

Bạn đang đọc truyện trên: truyentop.pro