Eragon - Inheritance (Translator: nguyen_ly) Chương 41-58

41. ĐAU KHỔ VÌ KHÔNG CHẮC CHẮN

Posted on Tháng Mười Hai 31, 2011

Nasuada mở mắt.

Gạch lát che phủ trần nhà hình vòm tối tăm. Trên đó là họa tiết hình chữ nhật mang màu đỏ, xanh lơ và vàng kim: một ma trận phức tạp những đường kẻ khiến cô bần thần nhìn chăm chú.

Cuối cùng cô cố tập trung để nhìn đi chỗ khác.

Một ánh sáng vàng cam tỏa ra từ đâu đó đằng sau. Ánh sáng đủ mạnh để cô nhìn rõ căn phòng hình bát giác, nhưng lại quá mờ ảo để đẩy lùi bóng tối như sương mù phủ ở các góc phòng.

Cô nuốt nước bọt. Cổ họng cô khô rang.

Cô đang nằm trên mặt sàn lạnh lẽo, trơn nhẵn và cứng đến khó chịu. Cơn  lạnh luồn lách trong xương và khiến cô nhận ra cổ chị mặc một chiếc váy ngủ trắng mỏng.

Mình đang ở đâu?

Ý ức tràn về cùng lúc không có cảm xúc hay thứ tự: Một loạt hình ảnh không vui vẻ gì ập vào đầu óc cô khiến đầu óc cô căng ra.

Cô thở hổn hển và cố ngồi thẳng dậy – để chạy trốn hoặc để chiến đấu nếu cô có thể – nhưng cô phát hiện mình không thể di chuyển nổi vài centimet. Cô đeo cùm ở tay và chân, một thắt lưng da ấn chặt đầu cô vào phiến đá, không cho cô ngồi lên hay trở mình.

Cô căng người lên nhưng xích quá chắc khiến cô không thể nào làm đứt nổi.

Cô thở ra và nằm im nhìn lên trần. Nhịp tim đập nện lên tai cô như tiếng trống đánh điên cuồng. Cô nóng người; má cô nóng, tay và chân có cảm giác như bị bôi mỡ.

Vậy là mình sẽ chết thế này đây.

Trong một lúc, sự tuyệt vọng và tự tiếc thương bản thân lấn át lý trí cô. Cô còn chưa đi hết đoạn đầu đời chứ n ói gì tới kết thúc, mà đặc biệt lại theo cái cách kinh tởm nhất thế này. Tệ hơn, cô không còn gì. Không còn kháng chiến, không còn tình yêu, không con cái và không có cả cuộc sống. Đứa con duy nhất của cô chỉ có chiến trận và những xác chết cùng những thứ cần thiết cho nó: quá nhiều mưu kế đến nỗi cô không nhớ nổi; những lời thế vì tình bạn và lòng trung thành giờ chẳng bằng lời hứa của diễn viên kịch câm; và đội quân quá yếu, què quặt và hay cau có được dẫn dắt bởi một Kỵ sĩ còn trẻ hơn cô. Có lẽ sẽ chẳng có nhiều người nhớ tới tên cô. Cô là người duy nhất còn lại trong dòng họ mình. Và khi cô chết, dòng họ cô sẽ tuyệt hậu.

Ý nghĩ đó làm cô đau và cô tự mắng nhiếc mình vì sao không sinh con khi có cơ hội.

“Con xin lỗi,” cô thì thầm, như nhìn thấy gương mặt cha trước mặt.

Sau đó cô phục hồi lại tinh thần và dẹp nỗi tuyệt vọng sang một bên. Cô chỉ tự kiểm soát bản thân mình mới vượt qua nổi tình hình này và cô không định buông xuôi mình gặm nhấm những sự nghi ngờ, nỗi sợ và hối hận. Miễn cô còn làm chủ đầu óc mình, cô sẽ không hoàn toàn vô vọng. Dù chỉ là chút tự do nhỏ nhoi nhất – tự do trong tư tưởng – nhưng thế là đủ, vì cô biết cô sẽ sớm không còn tự do.

Nhưng dù sao cô vẫn còn một nhiệm vụ phải làm: ngăn cản những câu hỏi của chính mình. Cô cẩn kiểm soát bản thân tới phút cuối đời. Nếu không, cô sẽ nhanh chóng bị gục ngã.

Cô thở chậm lại để bình tĩnh vượt qua các cảm xúc khác. Sau đó cô quyết định nên nghĩ về cái gì cho an toàn. Có rất nhiều vấn đề nguy hiểm – cho cô, cho Varden, cho quân đồng minh hoặc cho Eragon và Saphira. Cô không xem xét lại những vấn đề cô cần tránh, có thể sẽ đưa cho kẻ cai ngục ngoài kia thông tin hắn cần. Thay vào đó, cô nghĩ tới những hồi ức và suy tưởng vô hại – tự thuyết phục mình rằng mọi thứ mình đang có, đã có bao gồm những thứ nhỏ bé đó.

Cô cố gắng tạo nên một con người mới và đơn giản hơn để khi bị thẩm gia, cô có thể hoàn toàn tỏ ra ngu ngốc. Đây là một kỹ xảo nguy hiểm; để thành công, cô buộc phải tin cô thực sự như vậy, và nếu cô có ngày tự do, cô sẽ rất khó lấy lại tính cách thật sự của mình.

Nhưng mà cô nào có cơ hội được tự do hay giải cứu. Hy vọng của cô nằm trong tay kẻ bắt giữ cô kìa.

Gokukara, hãy cho con sức mạnh để chịu đựng hoàn cảnh trước mắt. Hãy bảo vệ con cú nhỏ bé của người, và nếu con chết, hãy mang con an toàn rời khỏi nơi này… nang con tới vùng đất của cha con.

Cô nhìn khắp căn phòng lát gạch kỹ lưỡng hơn. Cô đoán đang ở Urû’baen. Murtagh và Thorn chỉ có thể mang cô tới đây và nó giải thích cho phong cách thần tiên của căn phòng; các thần tiên đã xây dựng rất nhiều kiến trúc ở Urû’baen, thành phố họ gọi là Ilirea, hoặc trước khi xảy ra chiến tranh cùng loài rồng – từ rất, rất lâu rồi – hoặc sau khi thành phố trở thành thủ đô của Đế chế Broddring thời các Kỵ sĩ Rồng.

Hoặc như cha cô đã nói. Cô không nhớ gì về thành phố quê hương mình.

Nhưng cô cũng có thể ở một nơi hoàn toàn khác; một trong những dinh cơ riêng của Galbatorix chẳng hạn. Hoặc một căn phòng không có thật. MỘt pháp sư quyền năng có thể tạo ra cho cô mọi thứ cô đang thấy, cảm thấy, nghe thấy, ngửi thấy và làm thế giới xung quanh cô méo mó đi mà cô không hay biết.

Dù chuyên gì đang xảy ra – hoặc dường như xảy ra – cô cũng không được để bản thân bị lừa. Kể cả nếu Eragon xông vào cắt dây trói cho cô, cô cũng vẫn phải tin là trò bịp của kẻ bắt cóc. Cô không dám tin vào các giác quan.

Lúc Murtagh bắt cô khỏi doanh trại, thế giới đã trở nên dối trá và cô không thể biết bao giờ mới hết dối trá. Cô chỉ chắc chắn rằng mình còn sống. Ngoài ra tất cả đều phải nghi ngờ, kể cả suy nghĩ của cô.

Sau khi cú shock lúc đầu qua đi, khoảng thời gian chờ đợi mòn mỏi làm cô mệt mỏi. Cô không biết mấy giờ mà chỉ thấy mình đói khát. Cơn đói cứ tăng dần. Cô thử đếm số để tính giờ nhưng rồi chán và cô luôn quên mình đếm đến đâu khi đếm tới chục ngàn.

Dù cô biết ác mộng đang chờ đợi mình nhưng cô lại mong kẻ bắt cóc sẽ xuất hiện sớm. Cô hét lên mấy phút nhưng chỉ có sự im lặng trả lời cô.

Ánh sáng vàng vọt đằng sau chưa một lần xao động; cô đoán nó giống với ngọn đèn không dùng lửa của người lùn. ÁNh sáng khiến cô khó ngủ nhưng rồi sự kiệt sức chiến thắng. Cô lơ mơ thiếp đi.

Cô sọ nằm mờ. Cô dễ bị giết nhất khi đang ngủ và cô sợ đầu óc không tỉnh táo sẽ tiết lộ những thông tin cô muốn che giấu. Nhưng cô có nhiều lựa chọn đâu. Dù sớm dù muộn, cô vẫn phải ngủ và bắt mình thức chỉ khiến sức khỏe tệ hơn.

Thế là cô ngủ. Nhưng giấc ngủ không sâu và cô vẫn thấy mệt khi tỉnh dậy.

Một tiếng bùm khiến cô giật mình.

Ở đâu đó phía trên và đằng sau, cô nghe có tiếng mở then cửa và tiếng cọt kẹt của cánh cửa mở ra.

Nhịp tim của cô tăng lên. Cô đoán một ngày đã qua từ lúc tỉnh dậy. Cô khát tới khô cô, lưỡi dính lên vòm hongj và toàn bộ cơ thể đau nhừ tử vì nằm một chỗ quá lâu.

Tiếng chân đi xuống cầu thang. Tiếng bốt mềm đi trên đá. Dừng lại. Tiếng kim loại leng keng? Chìa khóa? Dao? Hay cái gì đó kinh khủng hơn?… Rồi tiếng bước chân tiếp tục. Giờ họ đang tới gần cô. Gần hơn… gần hơn.

Cô thấy một gã đàn ông béo tốt mặc áo trấn thủ len xám mang theo một đĩa thức ăn: bơ, bánh mỳ, thịt,, rượu và nước. Hắn dừng lại và đặt đĩa lên bệ tường rồi quay người tiến tới chỗ cô với sải chân ngắn, nhanh và chuẩn xác. Khá thanh lịch.

Gã ta thở khò khè dựa vào tấm ván mà nhìn cô. Đầu hắn giống hình quả bầu: phình trên phình dưới và tóp giữa. Hắn ta mày râu nhẵn nhụi tới mức gần như hói, trờ chút tóc đen, cắt ngắn. TRán gã sáng bóng, cái má nần nẫn thịt hồng hào còn môi xám như màu áo trấn thủ. Ánh mắt gã chẳng có gì đặc biệt: nâu híp.

Hắc tặc lưỡi và cô thấy răng hắn đua ra như bàn cào khiến hắn hắn hơi vổ.

Hơi thở ấm và ấm ướt của hắn hơi mùi gan và tỏi. Cô thấy buồn nôn.

Cô thừa biết mình đang trong tình trạng không một mảnh vải che thân. Cô cảm thấy mình không có sức chống cự giống như một thứ đồ chơi hay thú cưng bày ra đó. GIận dữ và mỉa mai khiến cô nóng má.

Không đợi  hắn nói ra, cô cố nói, hỏi lấy nước nhưng cô họng cô khô cháy; cô chỉ có thể kêu trong họng.

Gã mặt đồ xám tặc lưỡi và tháo dây xích dưới sự ngạc nhiên của cô.

Khi vừa được thả ra, cô ngồi thẳng dậy, dùng tay phải như một lưỡi dao đánh vào cổ gã.

Hắn tóm lấy cổ tay cô dường như chẳng tốn sức mấy. Cô gầm gừ và dùng ngón tay kia chọc vào mắt gã.

Hắn lại tóm cổ tay cô. Cô giằng ra nhưng hắn nắm quá chặt ; cổ tay cô như thể bị giam trong đá.

Cô thất vọng ngả người về đằng trước và cắn vào tay hắn. Máu ngập trong mồm cô có mùi mằn mặn và mùi đồng. Cô ngưng thở nhưng vẫn cắn sâu xuống mặc cho máu chảy ra dưới môi. GIữa răng và lưỡi, cô cảm nhận được cơ bắp của gã căng ra xẹp xuống như hàng trăm con rắn đang tìm đường thoát.

Ngoài ra, hắn không phản ứng gì.

Cuối cùng, cô thả tay hắn ra và nhổ máu vào mặt hắn.

Kể cả lúc đó gã vẫn không tỏ thái độ, thậm chí chẳng chớp mắt hay tỏ ra đau hay tức giận.

Cô giằng tay ra lần nữa rồi quăng chân và hông sang đã vào bụng hắn.

Trước khi cô kịp đá trúng đích, hắn thả tay trái cô ra và tát mạnh vào mặt cô.

Cô nổ đom đóm mắt và sự bùng bổ im lặng dường như bùng phát. Mặt cô lệch sang một tên, răng nghiến ken két và cơn đau chạy dọc sống lưng lên tới sọ.

Khi nhìn rõ, cô ngồi nhìn chăm chăm gã nhưng không định tấn công thêm lần nữa. Cô hiểu mạng sống của cô nằm trong tay gã… Cô hiểu cô cần tìm thứ gì đó cắt cổ họng hắn hoặc đâm vào mắt hắn nếu muốn thắng hắn.

Hắn thả tay kia của cô ra và lấy từ trong áo ra một chiếc khăn tay trắng. Hắn lau vết máu và nước bọt trên mặt hắn. Sau đó, hắn buộc khăn tay quanh cánh tay và dùng hàm răng vổ giữ một đầu vài (bẩn)

Cô giật lùi khi hắn vươn tay ra cầm lấy chân cô bằng đôi tay thô kệch. Hắn cái còng xám ra và chân cô chạm đất. Cô như một con búp bê hắn nắm trên tay.

Hắn nhấc bổng cô lên. Lần này, chân cô chạm đất. Hắn giúp cô tới một chiếc cửa nhỏ cô không thể thấy khi nằm. Bên cạnh đó là một cầu thang ngắn dẫn tới căn phòng thứ hai rộng rãi hơn – cùng cánh cửa gã cai ngục vừa bước vào. Ở giữa phòng có một khung sắt đóng chặt nhưng đằng sau nó cô thoáng thấy một bức tranh theo treo trên bức tường đá nhẵn nhụi.

Hắn đẩy cửa mở và dẫn cô vào một căn phòng bí mật hẹp. Cô an tâm vì hắn bỏ cô một mình. Cô tìm trong căn phòng xem có gì dung được làm vũ khí hay để trốn thoát, nhưng chung quanh cô chỉ có bụi, mùn cưa và vệt máu khô.

Thế cô đành làm những gì cần làm và sau khi đi ra khỏi căn phòng, gã đồ xám bóng nhẫy mồ hôi nắm tay cô dẫn về phiến đá xích.

Khi tới gần, cô bắt đầu đấm đá giãy giụa; cô thà bị đau còn hơn để hắn xích cô lại. Nhưng cô không thể nào khiến hắn dừng lại hay chậm bước. Hắn như sắt thép dưới những cú đấm đá của cô.

Hắn xử lý cô dễ dàng như với một đứa bé, hắn nhấc cô đặt tên tấm đá, đè vai cô xuống, xích chân tay cô lại. Cuối cùng, hắn khóa thắt lung trên đầu cô để giữ cô nằm yên nhưng không bị đau.

CÔ mong hắn sẽ đi ăn   trưa – hoặc tối hay gì cũng được – nhưng  hắn lại mang tới cho cô và đưa cô uống cốc rượu pha nước.

Cô khó lòng uống khi nằm ngửa vì thế cô phải nuốt thật nhanh. Cảm giác rượu trôi xuống họng thật dễ chịu và mát.

Khi cốc rượu đã hết, gã đặt nó sang một bên và cắt bánh mì và bơ rồi giơ trước mặt cô.

“Cái gì…” cô nói, giọng nói cuối cùng cũng trở lại. “Tên anh là gì.”

Gã nhìn cô vô cảm. Cái trán dô của hắn sang bóng dưới ngọn đèn không dùng lửa.

Hắn đẩy bánh mỳ và pho mát trước mặt cô.

“Anh là ai?… Đây là Urû’baen sao? Anh cũng là tù nhân à? CHúng ta có thể giúp nhau. Galbatorix không thể biết tất cả. Chúng ta có thể cùng tìm cách trốn. Tôi thề là dù chuyện này có vẻ không tưởng nhưng chúng ta có thể làm được.” Cô nói nhỏ và bình tĩnh, hy vọng gã sẽ đồng cảm hay hứng thú.

Cô biết cô có khả năng thuyết phục người khác – hàng giờ đại diện của Varden thương lượng đã chứng minh năng lực của cô – nhưng dường như từ ngữ của cô chẳng ảnh hưởng gì tới gã. Ngoại trừ thở, gã như người chết rồi khi chỉ đưa đó chìa bánh mỳ pho mát ra. Cô bỗng nghĩ có khả năng hắn điếc nhưng nhanh chóng loại bỏ vì vừa rồi hắn nghe thấy cô xin nước.

Cô nói hết nước hết cái và khi dừng lại – để tìm cách nói khác – gã đặt bơ và bánh mỳ lên môi cô và giữ nguyên đó. CÔ tức giận buộc hắn bỏ đi, nhưng tay hắn không buông, gã tiếp tục nhìn vào cô bằng vẻ lãnh cảm, vô tình như cũ.

Cô dựng tóc gáy khi nhận ra gã không bị ảnh hưởng; lời nói của cô không là gì với gã. Cô sẽ hiểu nếu gã ghét cô hoặc nếu hắn thích tra tấn cô, hoặc hắn là nô lệ vâng lệnh Galbatorix, nhưng dường như đều không đúng. Hắn khác biệt, thiếu những cảm xúc nhỏ nhất. Cô không nghi ngờ gì rằng hắn sẽ giết cô nếu muốn, như khi một ngươi di chết một con kiến.

Cô thầm chửi rủa, mở miệng và để hắn đặt bánh mỳ pho mát lên đầu lưỡi, dù thực tâm cô muốn cắt đứt ngón tay hắn.

Hắn cho cô ăn. Như một đứa bé. Hắn dùng tay bón thức ăn cẩn thận như thể miệng cô là một khối cầu mỏng manh dễ vỡ.

Một cảm xúc chôn vùi sâu bên trong trào dâng. Cô là lãnh tụ tối cao của đội quân đồng minh lớn nhất trong lịch sử Alagaësia. Nhưng cô là con gái cha cô. Cô đã sống trong cái nóng, cái bụi của Surda, giữa những tiếng rao hàng của lái buôn trong những khu chợ đông đúc. Cô chỉ là thế. Coi không được phép tự kiêu, không được gục ngã.

Nhưng cô ghét gã. Cô ghét mình bị bón ăn trong khi cô tự mình ăn được. Cô ghét rằng Galbatorix, hoặc ai đang quan sát cô, đang cố hạ nhục nhân phẩm của cô. Và cô ghét rằng, ở một mức độ nào đó, họ đã thành công.

Cô quyết định rằng mình sẽ giết gã. Nếu cô còn muốn cái gì trong đời thì đó là mạng sống của gã cai ngục. Ngoài trốn thoát ra, không còn gì có thể cho cô sự hài lòng tương đương. DÙ sao mình cũng phải tìm được cách.

Cô hài lòng và ăn hết phần còn lại.

Khi cô ăn xong, gã cầm cái khay rời đi.

Cô nghe tiếng bước chân hắn tới cánh cửa, đóng cửa và cài then ra đi. Sau đó tiếng bước chân xa dần.

Một lần nữa cô lại một mình, chờ đợi và tìm cách giết người.

Cô lại mất một lúc nhìn những đường kẻ trong hoa văn xem nó kết thúc và bắt đầu từ đâu. Cô chonj đường kẻ màu xanh lơ; màu tượng trưng cho con người cô không dám nghĩ tới.

Sau đó, cô chán và với ý muốn trả thù, cô nhắm mắt lại và ngủ lơ mơ khoảng vài giờ, với những cơn ác mộng ngược đời.

Khi gã đàn ông mặc đồ xám quay lại, cô gần như mừng vì gặp gã. Cô khinh thường bản thân vì cảm xúc này, coi đó là một điểm yếu.

Cô không chắc mình đã đợi bao lâu – sao biết chắc khi không ai nói cho biết – nhưng cô biết hắn tới sớm hơn lần trước. Nhưng, chờ đợi vẫn dài dằng dặc và cô sợ rằng cô bị bỏ lại một mình – nhưng chắc chắn không phải không ai để ý. Cô ghét khi mình mừng vì gã tới thăm cô thường xuyên hơn đã nghĩ. Nằm trên một phiến đá phẳng đã đủ đau đớn rồi, đừng nói là còn không được giao tiếp với bất kỳ sinh vật sống nào – kể cả một kẻ bị thịt và đáng ghét như gã cai ngục này.

Khi gã mở khóa, cô thấy vết thương trên tay hắn đã lành, da hẵn mịn và hồng như da lợn sữa.

Cô kiềm chế không đánh gã nhưng trên đường tới phòng nhỏ, cô giả vờ bị choáng ngã, hòng tới gần đĩa thức ăn cướp con dao nhỏ dùng để cắt thức ăn. Nhưng đĩa quá xa, gã quá nặng cứ lôi cô xềnh xệch khi không biết ý định của cô. Kế hoạch thất bại và cô buộc mình phải bình tĩnh trong suốt quá trình gã chăm sóc cô; cô cần thuyết phục gã rằng cô đã từ bỏ và hắn sẽ lơi là hoặc may mắn hơn, trở nên bất cẩn.

Trong khi gã cho cô ăn, cô quan sát móng tay gã. Lúc trước cô quá tực giận không để ý, nhưng giờ khi bình tĩnh hơn, cô thấy nó khác tường.

MÓng tay hắn dày và khá cong. Chúng nằm sâu trong da và phần da thừa trên móng lớn và rộng. MÓng tay hắn không giống người hay người lùn nào cô từng gặp.

Cô gặp họ lúc nào nhỉ?… Cô không nhớ.

Hắn chăm sóc móng khá cẩn thân. Chăm sóc theo cô là một từ miêu tả đúng, vì móng tay hắn như những cây hoa hiếm được người làm vườn quan tâm hàng giờ liền. Tay hắn không hề bị xước móng rô, móng tay cắt gọn gàng – không quá dài không quá ngắn – và được giữa gọn. Phần móng tay hắn bóng như sứ, lớp da xung quanh như thể bôi dầu hoặc bơ.

Trừ các thần tiên, cô chưa thấy gã đàn ông còn trai nào chăm sóc móng kỹ càng tới mức này.

Thần tiên ư? Cô bỏ qua và phát bực với chính mình. Cô có biết thần tiên nào đâu.

Móng tay là một điều bí ẩn; một thứ tạo hóa ban tặng dễ hiệu như kỳ lạ; một bí ẩn cô muốn khám phá, dù tốn công vô ích.

Cô không biết ai chăm sóc móng. Chính hắn sao? Hắn khá khó chiều và cô không tưởng tưởng nổi có một người vợ, con gái hay người hầu nào có thể gần gũi hắn tới mức giúp hắn chăm sóc cả ngón tay. Tất nhiên, cô nhận thấy cô có thể nhầm. Rất nhiều những thương binh mang vết sẹo chiến tranh – những người lầm lì ít nói dường như tình yêu duy nhất đời chỉ là rượu, gái gú và chiến tranh – lại khiến cô ngạc nhiên vì tích cách trái ngược với vẻ ngoài: thích khắc gỗ, nhớ những bài thơ tĩnh lãng mạn hay làm mọi điều vì gia đình để giúp họ sống yên ổn khỏi phần còn lại của thế giới. Cô phải mất rất nhiều năm mới biết Jör—

Cô quên ngay đi trước khi nghĩ xa hơn.

Lúc nào cũng vậy, trong đầu cô luôn vang lên câu hỏi: vì sao? Cô muốn được biết, kể cả khi đề tài đó là móng tay.

Nếu bộ móng tay này là sản phẩm của ai đó, thì họ hoặc là vì tình yêu hoặc vì sợ hãi mà giúp. Nhưng cô vẫn thấy có gì đó sai.

Nếu, chính gã chăm sóc móng thì nghe còn có lý. Có thể chăm sóc móng là cách gã kiểm soát cuộc đời không còn của gã. Hoặc có thể gã thấy đó là phần cơ thể đẹp duy nhất. Hoặc cũng có thể do thói quen thôi.

Dù thế nào đi nữa vẫn có một sự thực rằng một ai đó đã chăm sóc, bôi dầu, bơ cho móng tay gã không hề lơ đễnh chút nào.

Cô tiếp tục ngẫm nghĩ trong khi ăn. Thi thoảng, cô ngước lên nhìn khuôn mặt nặng bì bì của gã tìm một vài dấu hiệu, nhưng không thành công.

Sau khi đã cho cô ăn xong miếng bánh mỳ cuối cùng, gã bước khỏi phiến đá, cần cái đĩa và đi ra.

Cô nhau và nuốt miếng bánh mì nhanh nhất có thể mà không cần thở; sau đó giọng cô khàn khàn cất lên vì lâu không nói, “MÓng tay anh rất đẹp. Chúng rất…bóng.”

Gã dừng bước và cái đầu to, lù đù của gã quay lại nhìn cô. Trong một chốc, cô nghĩ gã sẽ lại đánh cô nhưng rồi đôi môi xám xịt của hắn mở ra thành một nụ cười, nhe hết hai hàm răng trên và dưới.

Cô kiềm chế cơn rùng mình; gã như thể định cắn đứt đầu một con gà.

Sau đó, vẫn với cảm xúc không bình thường đó, gã đi ra khỏi tầm nhìn cuả cô, và vài giây sau, cô nghe có tiếng cửa mở ra và đóng lại.

Nụ cười nở trên môi cô. Tự hào và thích nịnh bợ là những điểm yếu cô có thể khai thác. Nếu cô chỉ giỏi một chuyện thì đó là bắt người khác phục tùng ý chí của mình. Gã đã chìa cho cô một bàn tay – dù chỉ là đầu ngón tay, hay đúng hơn bằng cái móng tay – thế là đủ. Giờ cô có thể trèo lên.

42. CĂN PHÒNG CỦA NHÀ TIÊN TRI

Posted on Tháng Mười Hai 31, 2011

Lần thứ ba gã tới thăm, Nasuada còn đang ngủ. Tiếng cửa đập làm cô giật mình thức giấc, tim đập loạn xạ.

Cô mất vài giây mới nhận ra mình ở đâu. Lúc nhận ra, cô chớp mắt và nhíu mày để nước mắt chảy đi. Cô ước gì mình chùi nước mắt đi được.

Cô càng nhăn trán tợn khi nhìn thấy những chấm bẩn do rượu vẩy lên người trong bữa ăn.

Sao hắn quay lại sớm thế nhỉ?

Tim cô chùng xuống khi hắn bước qua với một lò than.Hắn đặt xuống cách phiến đá một quãng. Trên lò than có ba que sắt dài.

Thời khắc cô sợ hãi cuối cùng cũng tới.

Cô cố nhìn vào mắt hắn nhưng hắn không chịu nhìn cô khi lấy đá lửa và que cời lò trong túi giắt nơi thắt lưng ra và đốt bùi nhùi. ÁNh lửa lóe lên và lan tỏa như một bó dây sáng đỏ. Gã cúi xuống,  chu môi thổi lửa, nhẹ nhàng như mẹ hôn con và đốm lửa lòe lên thành ngọn lửa nhỏ.

Hắn nhóm lửa trong vài phút, xếp than thành một lơp dày vài cm, khói tỏa lên trên khung sắt bên trên. Cô cứ thần người quan sát dù biết chuyện gì sắp tới. Cả cô và gã đêu không noisl như thế họ quá xấu hổ vì chuyện sắp xảy ra vì cả hai đều biết đó là chuyện gì.

Hắn nhóm lửa tiếp rồi quay lại như thể tới gần cô.

Đừng nhượng bộ, cô nói với mình.

Cô nắm tay thành quyền và nín thở khi hắn tới gần…gần hơn…gần hơn…

Cơn gió nhẹ thổi qua mặt cô khi hắn đi quá. Cô lắng nghe tiếng chân hắn đi vào in lặng khi hắn lên cầu thang rời khỏi phòng.

Cô thở hắt ra khi thư giãn một chút. Giống như bị nam châm hút,, cô nhìn chăm chăm vào những viên than sáng hồng.

Cô liếm môi và nghĩ tới giờ có chút nước uống thì tốt.

Một viên than nảy  lên và nứt đôi nhưng căn phòng vẫn trỗng trải.

Khi nằm đó, không thể chiến đấu hay trốn thoát, cô cố không nghĩ. Nghĩ sẽ làm cô yếu lòng. Chuyện gì xảy ra sẽ xảy ra và dù cô có sợ hay căng thẳng thế nào cũng không thay đổi nổi.

Tiếng bước chân mới vang vọng ngoài hành lang: lần này là một nhóm người, vài người đi theo nhịp, vài người không. Họ cùng nhau tạo nên tiếng vọng vang động khiến cô không thể biết có bao nhiêu người. Tiếng chân dừng lại trước cửa. Cô nghe có tiếng người nói nho nhỏ và sau đó hai tiếng bước chân lạch cạch – cô đoán là hắn đi giày đế cứng – vào phòng.

Cánh cửa đóng sầm lại.

Từ trên cầu thang vang lên bước chân đều đặn và thận trọng. Cô thấy cánh tay ai đó đặt một chiếc ghế gỗ chạm trổ.

Một người đàn ông ngồi lên đó.

Hắn to lớn: không béo nhưng vai rộng. Ông ta khoác một chiếc áo choàng dài đen trông nặng nề như thể áo giáp. Ánh sáng tỏa ra từ than và ngọn đèn không dùng lửa mạ vàng lên vẻ ngoài ông ta nhưng các đường nét vẫn khó nhìn nhận do bóng tối. Nhưng dù sao bóng tôi không thể che đi phần đỉnh đầu nhọn trên lông mày được.

Tim cô lỡ nhịp. Sau đó, cố gắng lắm tim cô mới đập nhanh như cũ.

Người đàn ông thứ hai mặc áo choàng không tay màu nâu sẫm và quần chẽn – thêu chỉ vàng – bước tới bên lò than và đứng quay lưng với cô trong khi dùng que sắt gẫy than.

Người đàn ông trên ghế kéo từng ngón găng tay một. Sau đó, ông ta rút hẳn găng tay ra. Da ông ta mang màu đồng.

Khi ông ta nói, giọng trầm, dầy và đầy uy lực. Bất cứ một nhà thơ nào sở hữu chất giọng ngọt ngào này đều có thể được tôn vinh thành một đại thi hào. Giọng nói này khiến cô sởn gai ốc; từ ngữ dường như dòng nước ấm vỗ lên người cô, vỗ về cô, đánh lạc hướng cô và trói buộc cô. Cô nhận thấy nghe ông ta nói cũng nguy hiểm như nghe Elva nói.

“Chào mừng tới Urû’baen, Nasuada, con gái của Ajihad,” người đàn ông ngồi ghế nói. “Chào mừng tới ngôi nhà của ta, bên dưới những phiến đá lâu đời. Lâu lắm rồi nơi này mới đón chào một vi khách cao quý như cô. Tôi có nhiều nhiệm vụ phải làm nhưng từ giờ trở đi, tôi sẽ không nơi là trách nhiệm chủ nhà.” Nói tới cuối, có chút đe dọa lẩn quất trong giọng nói ông ta, giống như móng vuốt xòe khỏi đệm móng.

Cô chưa bao giờ gặp Galbatorix mà chỉ được nghe tả hay xem các bức chân dung, nhưng ảnh hưởng từ lời nói của người đàn ông này lên cô quá mạnh khiến cô thực sự nghĩ ông ta chính là lão bạo chúa.

Cả âm điệu lẫn cách phát âm của lão đều có cái gì đó của cái khác, như thể ngôn ngữ lão nói không phải ngôn ngữ mẹ đẻ. Giọng lão chỉ hơi khác chút xíu nhưng một khi đã để ý cô nhận ra ngay. Cô đoán có thể ngôn ngữ đã thay đổi trong nhiều năm kể từ khi lão ra đời. Đó dường như là cách giải thích có lý nhất, vì cách nói của lão khiến cô nhớ – Không, không, cô chẳng nhớ cái gì.

Lão nhoài người và cô thấy ánh mắt găm lên người cô.

“Cô trẻ hơn ta tưởng. Ta biết tuổi cô đã trưởng thành nhưng vẫn chỉ là một đứa trẻ mà thôi. Cô giống bất cứ đứa nhỏ nào: hiếu động, tự kiêu, ngốc nghếch không biết đâu là điều tốt nhất cho mình – những đứa nhỏ cần sự hướng dẫn của những người lớn tuổi hơn và khôn ngoan hơn.”

“Như ông?” cô nói bằng giọng khinh miệt.

Cô nghe lão cười khúc khích. “Vậy cô muốn thần tiên cai quản chúng ta ư? Tôi là người duy nhất trong giống loài chúng ta có thể khiến họ tránh xa. Với sự hiểu biết của họ, những bô lão già nhất của chúng ta cũng chỉ là những đứa nhỏ không hiểu chuyện , những người lớn không có trách nhiệm.”

“Theo như quan điểm của họ, ông cũng vậy thôi.” Cô không biết lòng dũng cảm của cô tới từ đâu nhưng cô thấy mạnh mẽ và không sợ hãi. Dù lão bạo chúa có định trừng phạt hay không, cô cũng quyết không để lộ tư tưởng.

“À, nhưng ta đã tích lũy được nhiều kiến thức hơn qua nhiều năm. Ký ức của hàng trăm người giờ là của ta. Cuộc sống chất chồng lên cuộc sống: tình yêu, thù hận, những trận chiến, chiến thắng, thất bại, những bài học, những lỗi lầm – đều năm trong đầu ta, thì thầm những điều khôn ngoan vào tai ta. Ta nhớ những thời đại. TROng toàn bộ lịch sử, không có ai như ta, kể cả trong thần tiên.”

“Sao có thể?” cô thì thầm.

Lão di chuyển trên ghế. “Đừng giả bộ với ta, Nasuada. Ta biết Glaedr trao tim cho Eragon và Saphira, và rằng ông ta ở đó cùng Varden vào thời điểm này. Cô hiểu ta đang nói tới nơi nào.”

Cô sợ. Galbatorix đang sẵn sàng nói chuyện về những thứ đó với cô – lão ta muốn, dù nó sẽ tiết lộ quyền năng của lão ta – khiến cô mất hết hy vọng nhỏ nhoi rằng lão định thả cô.

Sau đó lão dùng găng tay phẩy về căn phòng. “Trước khi bắt đầu, cô nên biết đôi chút về nơi này. Khi các thần tiên lần đầu tiên đặt chân tới miền đất này, họ thấy một khe nứt sâu trong vách núi chạy tới các đồng bằng gần đây. Họ đánh giá vách núi này  như một bức tường phòng thủ trước các cuộc tấn công của loài rồng, nhưng vết nứt lại là một cái khác. Ngẫu nhiên họ biết rằng hơi nước bốc ra từ vết nứt sẽ khiến những người ngủ cạnh đó sẽ thấy một chút tương lai. Vì vậy, khoảng trăm trăm năm mươi ngàn năm trước, thần tiên đã xây dựng căn phòng này bên trên vêt nứt và cách đây khoảng vài trăm năm, một nhà tiên tri tới sống nơi đây, ngay sau khi các thần tiên rời khỏi Ilirea. Bà ta ngồi ngay chỗ cô nằm, và bà ta giành hàng thế kỷ để tiên mộng những điều đã và sẽ xảy ra.

“Tới lúc trong không khí không còn thứ hiệu lực đó nữa, nhà tiên tri và những người phục vụ rời đi. Bà ta là ai và đã đi đâu thì không ai biết. Người ta không biết tên bà mà chỉ gọi là NHà tiên tri, và có một số câu chuyện cho ta tin rằng bà ta không phải tiên, người lùn hay một dạng gì hoàn toàn. Có thể, trong thời gian bà ta sống, căn phòng này được gọi là Căn phòng của Nhà tiên tri, và giờ nó vẫn mang tên này. – chỉ có điều giờ đây cô mới là nhà tiên tri, Nasuada, con gái của Ajihad ạ.”

Galbatorix mở rộng cánh tay. “Đây là nơi sự thật được tiết lộ. Ta không tha thứ cho bất cứ kẻ nào dám nói dối trong căn phòng này, dù là lời nói dối nhỏ nhất. Ai nằm trên bàn đá kia sẽ là nhà tiên tri đương nhiệm, và dù nhiều người thấy khó lòng làm nổi nhiệm vụ này nhưng lại chưa ai từ chối nó. Cô cũng không khác.”

Chân ghế kéo lê trên mặt sàn. Sau đó cô cảm thấy hơi thở ấm nóng của Galbatorix bên tai. “Ta biết cái này sẽ làm cô bị tổn thương, Nasuada, đau hơn cô tưởng. Cô sẽ phải thay đổi bản thân trước khi lòng tự trọng của cô cho phép cô phục tùng. Dù ở đâu đi chăng nữa thì chuyện thay đổi bản thân luôn là vấn đề khó nhất. Ta hiểu, vì ta không dưới một lần thay đổi chính mình. Nhưng, ta sẽ ở đây giúp đỡ cô vượt qua lần thay đổi này. Cô nên biết ta sẽ không bao giờ nói dối cô. Không một ai trong chúng ta. Không phải trong căn phòng này. Cô có thể nghi ngờ ta nhưng dần già cô sẽ tin ta. Đối với ta nơi này rất linh thiêng và ta thà cắt đứt tay mình còn hơn báng bổ nó. Cô có thể hỏi bất cứ câu hỏi nào, và ta hứa với cô, Nasuada, con gái của Ajihad rằng ta sẽ trả lời thành thật. Với tư cách vua của vùng đất này, ta thề với cô.”

Cô cắn răng không biết nên trả lời sao. Sau đó, cô nghiến răng nói. “Tôi sẽ không bao giờ nói ông nghe điều ông muốn biết!”

Lão cười trầm vang căn phòn. “Cô hiểu nhầm rồi; ta không mang cô tới đây vì ta cần thông tin. Ta đã biết tất cả. Số lượng và cách sắp xếp quân đội; tình trạng lương thực; vị trí đoàn xe tiếp viện; cô định chiếm thành phố này như thế nào; nhiệm vụ, thói quen và khả năng của Saphira cùng Eragon; thanh Dauthdaert cô có lúc ở Belatona; kể cả quyền năng của cô nhóc – phù thủy Elva mà cô đã giữ lại bên mình tới gần đây – tất cả ta đều biết, thậm chí biết nhiều hơn. Ta có nhiều mật thám hơn cô tưởng tượng và ta còn có nhiều cách khác để thu lượm thông tin. Cô không giấu được gì khỏi mắt ta đâu, Nasuada. Vì thế cô không mở miệng cũng thế thôi.

Từ ngữ của lão như giáng búa lên người cô, nhưng cô vẫn cố không để chúng làm cô nhụt chí. :Vậy thì vì sao?”

“Vì sao ta mang cô tới đây ư? Vì, cô gái thân mến ạ, cô có tài chỉ huy, và điều này còn nguy hiểm hơn bất cứ câu thần chú nào. Eragon và cac tiên nhân không hề đe dọa được ta, nhưng cô… cô nguy hiểm theo cách khác. Không có cô, Varden giống như một con bò mù vậy, họ sẽ tức giận và sẽ nhắm mắt xông tới không quan tâm tới gì trên đường. Sau đó, vì sự ngu ngốc của chúng, ta sẽ tóm chúng và hủy diệt chúng.”

“Nhưng hủy diệt Varden không phải lý do ta mang cô tới đây. Không, cô ở đây vì cô đáng để ta chú ý. Cô dũng cảm, mạnh mẽ, tham vọng, và thông minh – những phẩm chất ta đánh giá cao nhất đối với một người hầu cận. Ta mong có cô bên canh, Nasuada, nhưng tư vấn tối coa và chỉ huy quân đội sẽ xây dựng trong bước cuối kế hoạch ta đã lập ra trong gần một thế kỷ. Trên Alagaësia sẽ có một trật tự mới và ta muốn cô nằm trong đó. Từ khi Thập Tam chết, ta đã tìm những người thay thế họ. Cho tới hiện nay, ta vẫn chưa tìm được ai. Durza là một công cụ hữu ích nhưng hắn là một Tà thần, vì thế hắn có một số hạn chế nhất định: hắn không thể duy trì duy nhất một thân xác. Trong tất cả những ứng viên, Murtagh là người đầu tiên tỏ ra có năng lực và là người đầu tiên sống sót qua những thử thách của ta. Cô sẽ là người thứ hai và Eragon là người tiếp theo.”

Nasuada kinh hoàng. Những gì hắn định làm còn kinh khủng hơn cô đoán.

Người đàn ông mặc áo choàng nâu cạnh lò than làm cô giật mình vì dùng que sắt chọc mạnh vào đống than khiến đầu qua sắt chạm vào cả đĩa đồng bên đưới.

Galbatorix tiếp tục nói. “Nếu cô sống, cô sẽ có cơ hội biến mình hoàn hảo hơn khi ở bên Varden. Hãy nghĩ đi! Phục vụ ta, cô sẽ mang lại hòa bình cho toàn bộ Alagaësia, và cô sẽ trở thành nhà xây dựng mang lại làn gió mới.”

“Ta thà để ngàn con rắn độc cắn còn hơn phục vụ ông.” Sau đó cô nhổ nước bọt.

Tiếng cười của lão vọng trong căn phòng lần nữa: âm thanh của một người không sợ gì hết, kể cả cái chết. “Chúng ta xem xem.”

Cô giật mình khi thấy một ngón tay chạm vào khuỷu tay cô. Nó từ từ vẻ một vòng tròn, rồi trượt xuống vết sẹo trên cẳng tay và dừng lại trên phần sẹo. Ngón tay vỗ ba lần trước khi lần xuống vết sẹo kế tiếp, rồi lùi lên, chạy lên chạy xuống như dùng bàn giặt quần áo.

“Cô đã đánh bại đối thủ trong  Thách đấu Trường Đao,” Galbatorix nói. “với nhiều vết cắt hơn bất cứ người nào có. Điều nay có nghĩa rằng đầu óc cô cực kỳ mạnh mẽ và sức tưởng tượng phong phú – khiến bất cứ người đàn ông nào phải cúi đầu trước cô. Nhưng, giờ chúng không giúp nổi cô đâu. Ngược lại, chúng là thứ cản trở cô. Mọi người đều có một giới hạn, vấn đề là bao giờ người ta mới đạt được điểm đó. Và cô sẽ đạt được, ta hứa với cô. Sức mạnh của cô sẽ cản trở nhưng không thể xóa bỏ thời khắc đó. Lưới phòng họ cũng không bảo vệ nổi cô dưới sức mạnh của ta. Vậy, sao cô phải đau khổ vô ích chứ? Không ai dám nghi ngờ lòng dũng cảm của cô; cô đã chứng minh cho cả thế giới biết. Giờ nhượng bộ đi. Không có gì là nhục nhã khi chấp nhận điều tất nhiên sẽ tới. Tiếp tục sẽ chỉ khiến cô bị tra tấn chẳng vì lý do gì cả chỉ để dạy dỗ cô. Hãy bỏ qua nhiệm vụ của cô đi và thề trung thành với ta bằng ngôn ngữ cô và chỉ trong một giờ, cô sẽ có hàng tá kẻ hầu người hạ, những xúc lụa và vải hoa Damacus, vô số căn phòng ở và một chỗ ở bàn ăn cùng ta.”

Lão dừng lại đợi cô trả lời, nhưng cô chỉ nhìn chằm chằm vào những đường vẻ trên trần nhà mà không chịu nói.

Trên tay cô, ngón tay tiếp tục di chuyển, từ vết sẹo tới hõm trên cổ tay, nơi động mạch chính chạy qua.

“Được thôi. Cô muốn thế nhé.” Lực ấn trên cổ tay cô biến mất. “Murtagh, tới đây. Đừng bất lịch sự với khách chứ.”

Ôi trời, không phải hắn nữa chứ, cô nghĩ và đột nhiên thấy buồn vô tận.

Người đàn ông bên cạnh lò than bắt đầu quay người lại, và dù hắn đeo mặt nạ bạc che nửa trên khuôn mặt nhưng cô vẫn thấy đó chắc chắn là Murtagh. Đôi mắt hắn ẩn trong bóng tôi, miệng và quai hàm không tỏ rõ biểu hiện gì.

“Không biết sao Murtagh lưỡng lự khi bắt đầu phục vụ ta, nhưng sau đó hắn đã chứng minh mình là một học trò có năng lực nhất. HẮn có tài năng của cha hắn. Đúng không?”

“Vâng, thưa ngài,” Murtagh nói bằng giọng thô cứng.

“Hắn khiến ta ngạc nhiên vì giết chết vua Hrothgar tại Cánh Đồng Cháy. Ta không nghĩ hắn chào đón người bạn cũ nhiệt tình thế nhưng sau đó, Murtagh của chúng ta đã trở nên hoàn toàn tức giận và khát máu. Hắn có thể xé toang cổ họng một Kull bằng tay nếu ta cho hắn cơ hội, và ta đã cho hắn. Không gì sung sướng bằng giết chóc. Đúng không?”

Cơ bắp trên cổ Murtagh căng ra. “Không, thưa ngài.”

Galbatorix cười nhẹ. “Murtagh Vua Sát thủ…tên đó hay đó, sẽ tạo ra một huyền thoại nhưng cậu sẽ không có được nếu không có ta chỉ dẫn.” Sau đó nói với cô. “Từ trước tới giờ ta chưa hề dạy qua hắn nghệ thuật thuyết phục, vì thế hôm nay ta mang hắn tới đây. HẮn có kinh nghiệm với lĩnh vực này nhưng chưa bao giờ thực hành, giờ là lúc hắn cần nắm bắt nó. Vậy còn cách nào hay hơn cách ngồi đây học cùng cô? Dù sao, Murtagh cũng là người thuyết phục ta rằng cô có thể gia nhập thế hệ phụ tá mới của ta.”

Một cảm giác bị phản bội lạ lùng lan tỏa trong cô. Dù chuyện gì xảy ra cô vẫn nghĩ tốt cho Murtagh. Cô muốn hắn giải thích nhưng hắn chỉ đứng im lặng như một người lính gác.

Sau đó nhà vua chỉ lò than và nói đều đều. “Cầm que sắt lên.”

Tay Murtagh co lại thành nắm đấm nhưng không động đậy.

Một từ vang lên trong tai Nasuada như tiếng chuông. Thế giới dường như rung lên, như một người khổng lồ dùng một sợi chỉ buộc vào thế giới và đang rung nó. TROng một lúc, cô tưởng mình đang rơi, không khí trước mặt cô mờ ảo như nước. Dù từ  đó mang sức mạnh khủng khiếp nhưng cô lại không thể nhớ nổi thậm chí là nó thuộc về ngôn ngữ nào, vì cô nghe tai này ra tai kia, chỉ còn nhớ nổi về sức ảnh hưởng của nó.

Murtagh rùng mình; sau đó hắn vặn người, cần một trong những que sắt lên. Tia lửa bắn lên không khí, vài vụn lửa rơi xuongs sàn nhưng hạt giống thông rơi ra khỏi quả thông.

Đầu que sắt sáng vàng, khi cô quan sát, nó ngả sang màu cam nâu. Ánh sáng từ thanh kim loại nóng phản chiếu trên chiếc mặt nạ che nửa mặt của Murtagh, dáng người cô in trên đó với đôi chân dài chạy theo những đường nét chạm khắc cong cong trên mặt na che má Murtagh.

Dù bị trói nhưng cô vẫn cố đẩy xích ra khi hắn tới gần.

“Tôi không hiểu,” cô nói với Galbatorix bằng sự bình tĩnh ngụy tạo. “Sao ông không dùng tư tưởng hạ gục tôi?” Cô không muốn lão dùng hình thức này nhưng cô thà tự mình đề phòng đòn tấn công còn hơn phải chịu đau đớn từ khối sắt nung.

“Sẽ có lúc ta dùng nếu cần,” Galbatorix nói. “Nhưng giờ ta thích xem cô dũng cảm thế nào, Nasuada, con gái của Ajihad. Hơn nữa ta không thích kiểm soát đầu óc cô và buộc cô thề trung thành với ta. Ta muốn cô tự mình quyết định.”

“Vì sao?” cô khàn giọng nói.

“Vì ta thích. GIờ, lần cuối, cô đồng ý không?”

“Không bao giờ.”

“Được thôi. Murtagh?”

Thanh sắt hạ xuống, đầu nó như một viên đá hồng ngọc to lớn tỏa sáng.

Cô không cắn được vào cái gì để kìm cơn đâu, vì thế cô hét vàcăn phòng bát giác vọng lên tiếng thét đau đớn của cô tới khi giọng của cô mất đi và bóng tôi che phủ con người cô.

43. TRÊN CÁNH RỒNG

Posted on Tháng Mười Hai 31, 2011

Eragon ngửng đầu, hít một hơi sâu cảm thấy sự lo lắng lùi dần.

Ngồi trên lưng rồng không lấy gì làm thoải mái nhưng gần Saphira giúp cả nó và cô em bình tĩnh. Sự vui vẻ đơn giản vì được tiếp xúc cơ thể với nhau giúp chúng được ản ủi theo cách mà ít thứ làm được. Hơn nữa, những âm thanh và chuyển động đều đều của đôi cánh giúp nó bỏ qua những suy nghĩ u ám trong đầu.

Dù chuyến đi của chúng rất gấp gáp và toàn quân Varden đang rơi vào cảnh hiểm nghèo nhưng Eragon lại mừng được rời xa quân đội. Những cuộc chém giết gần đây khiến nó cảm thấy như nó không còn là chính mình.

Từ hội gia nhập Varden ở Feinster, nó đã dành hầu hết thời giand dể chiến đấu hoặc chờ đợi chiến đấu, và nó bắt đầu thấy căng thẳng, đặc biệt sau sự kiện kinh hoàng đẫm máu ở Dras – Leona. Thay mặt Varden, nó đã giết hàng trăm tên lính – vài người trong đó thậm chí còn chẳng động nổi vào sợi lông chân của nó – và dù hành động của nó mang công lý nhưng nó vẫn thấy phiền. Nó không muốn cuộc chiến nào cũng tuyệt vọng và mọi đối thủ đều ngang cơ với mình hoặc giỏi hơn, nhưng đồng thời chém giết quá dễ dàng khiến nó thấy mình giống đồ tể hơn một chiến binh. Nó dần dà tin rằng cái chết là thứ ăn mòng và nó càng gần cái chết nó càng xa rời nhân cách của mình.

Nhưng, một mình cùng Saphira – và cả Glaedr, dù rồng vàng vẫn im lặng từ lúc khởi hành – giúp Eragon trở lại trạng thái bình thường. Nó thấy yên ổn nhất khi ở một mình hoặc trong một nhóm nhỏ, và nó không hề thích ở một thành phố hay thậm chí một doanh trại như của Varden. Không giống phần đông những người khác, nó không ghét hay sợ thiên nhiên hoang dã; vì tại những vùng đất không người luôn tiềm tang sự yên bình và vẻ đẹp không một nhà nghệ thuật nào diễn tả nổi và nó thấy mình sống lại.

Vì thế nó để tiếng đập cánh của Saphira làm nó xao nhãng và trong lúc trời sang, nó quan sát cảnh vật lướt qua.

Từ doanh trại Varden tới bờ hồ Leona, Saphira bay trên làn nước, nhứm về phía tây bắc và bay cao khiên Eragon phải dùng thần chú để chống rét.

Mặt hồ chia thành những khối màu rõ rệt: những con sóng phản chiếu ánh sáng mặt trời lên người Saphira lấp lánh, nơi không có ánh sáng mang mày tối xám. Eragon chưa bao giờ chán ngắm sự thay đổi thường xuyên của ánh sáng: không gì trên thế giới này có thể sánh bằng.

Chim bói cá, sếu, ngỗng, vịt, sáo đá và những loài chim khác thường bay là là trên mặt nước. Hầu hết những con chim không để ý tới Saphira nhưng một số chim bói cá bay lượn theo cô nàng một lúc, chủ yếu vì tò mò hơn sợ hãi. Hai con thậm chí còn lượn lờ trước mặt cô nàng, chỉ cách những chiếc răng dài sắc nhọn có vài chục cm.

Những con chim săn mồi mỏ khoằm, mào vàng làm Eragon nghĩ tới Saphira. SAphira thích chí với cách nhận xét đó, dù thực ra cả về vẻ bề ngoài lẫn kỹ năng săn mồi chúng đều không bằng Saphira.

Bờ sông phía sau họ dang dần biến vào trong đường chân trời tím nhạt, sau đó hoàn toàn khuất dạng. Khoảng hơn nửa tiếng, họ chỉ nhìn thấy những con chim và những đám mây trên trời và làn nước lóng lánh che phủ bề mặt trái đất.

Rồi, phía trước và bên trái họ xuất hiện đường viền xám mờ nhạt của rặng Spine chào đón Eragon. Dù đây không phải những ngọn núi của thời tuổi thơ nó, nhưng chúng vẫn thuộc cùng một dãy, và nhìn thấy chúng làm nó thấy mình không xa nhà lắm.

Rặng núi càng lúc càng gần cho tới khi đỉnh núi đá tuyết phủ xuất hiện trước mặt họ nhưng một bức tường phòng thủ bị thời gian bào mòn. Dọc bên dưới sườn núi xanh đậm là hàng tá những dòng suối chảy róc rách, uốn lượn tới khi hòa vào một hồ lớn dưới chân núi. Sáu ngôi làng gần chân núi, nhưng dưới phép thuật của Eragon, dân làng không hề thấy Saphira khi cô nàng bay qua.

Khi nó nhìn những ngôi làng, nó mới thấy sao chúng nhỏ bé và cô độc đến thế và làng Carvahall nhỏ bé và biệt lập thế nào. So với những thành phố lớn nó từng tới, những ngôi làng trông chẳng hơn vài ngôi nhà lụp xụp, chỉ dành cho những người cùng khổ. Nó biết rất nhiều người trong số họ chưa từng đi xa nơi họ sinh ra vài dặm và sẽ sống cả đời nơi này.

Quả là một sự tồn tại hạn hẹp,  nó nghĩ.

Nhưng nó lại nghĩ liệu cứ sống ở một nơi và học tất cả những gì cần thiết có hơn việc nay đây mai đó không. Liệu biết nhiều nhưng chỉ hiểu bề nổi có tốt hơn biết ít nhưng hiểu sâu không?

Nó không chắc. Nó nhớ ông Oromis từng nói với nó rằng nếu ai đó nhìn kỹ sẽ thấy cả thế giới này bắt đầu từ hạt cát nhỏ nhất.

Rặng núi Spine chỉ bằng một mảnh nhỏ so với núi Beor nhưng những đỉnh núi cao dựng đứng vươn lên trên Saphira tới 350m khi cô nàng bay lượn giữa các vách núi, đi theo những hẻm núi và thung lũng phủ bóng tối chia cắt dãy núi. Thi thoảng cô nàng phải bay cao hơn để tránh những khe núi hẹp phủ tuyết. Lúc đó, tầm nhìn của Eragon được mở rộng, nó thấy các ngọn núi rất giống những chiếc răng mọc lên từ lợi là mặt đất nâu.

Khi Saphira đánh võng trên một thung lũng sâu, nó thấy cả đáy một dòng suối chạy lững lờ qua trảng cỏ. Và dọc theo bãi cỏ, nó hình như thoáng thấy mấy ngôi nhà – hoặc có thể là lều; khó mà phân biệt được – ẩn dưới tán lá cây vân sam vẫn mọc nhiều trên núi. Một ánh lửa nhỏ chiếu xuyên qua các cành cây, như một mẩu vàng nhỏ lẫn trong những lớp kim khâu, và nó nghĩ nó thấy một bóng người đốn gỗ bên bờ suối. Trông bóng người đó đồ sộ tới lạ thường, đầu nó quá to so với người.

Anh nghĩ có Urgal.

Đâu? Saphira hỏi,và nó cảm thấy cô nàng đang tò mò.

Ở tráng trống trước mặt đằng sau chúng ta ấy. Nó cho cô nàng xem ký ức vừa qua. Anh ước chúng ta có thời gian quay lại tìm hiểu. Anh muốn xem họ sống ra sao.

Cô nàng khụt khịt. Khói nóng bốc ra từ lỗ mũi rồi bay xuống dưới cổ và sang người nó. Họ sẽ không tử tế với một con rồng và Kỵ sĩ nếu họ hạ cánh không báo trước.

Nó ho hắng và chớp mắt vì nước mặt giàn giụa. Em có phiền không?

Cô nàng không trả lời, nhưng khói bốc ra từ lỗ mũi cô nàng dừng lại, và không khí quanh nó nhanh chóng trở về trạng thái trong lành.

Không lâu sau đó, hình dáng ngọn núi bắt đầu quen thuộc với Eragon, và một khe nứt lớn hiện ra trước khi Saphira và nó nhận ra chúng đang bay ngang qua khe núi dẫn tới Teirm – cùng khe núi nó và ông Brom đã hai lần cưỡi ngựa đi qua. Con đường vẫn y như trong tâm trí nó: nhánh sông chảy về phía tây của sông Toark vẫn chảy nhanh và hung hãn về đại dương xa xôi, mặt nước cuồn cuộn sóng. Con đường gồ ghề nó và ông Brom đi vẫn là con đường mòn bụi bặm chẳng to hơn đường hươu đi là mấy. Nó nghĩ nó thấy cả rặng cây họ dừng lại nghỉ ngơi ăn uống.

Saphira bay về hướng tây và chúi xuống con sông cho tới khi không còn thấy dãy núi mà chỉ còn thấy những cánh đồng ắp nước, từ đó cô nàng đảo hướng về phía bắc. Eragon không hỏi vì sao cô em quyết định bay như vậy; cô nàng chưa bao giờ đánh mất phong thái của mình, kể cả vào những đêm không sao hay khi ở sâu trong Farthen Dûr.

Mặt trời xuống gần đường chân trời khi họ bay qua Spine. Khi hoàng hôn dần phủ lên vùng đất, Eragon tự làm cho mình bận rộn bằng cách nghĩ cách bẫy, giết hoặc lừa Galbatorix. Sau một lúc, Glaedr rời khỏi hòn đảo cô độc của mình và cùng nó tìm cách. Họ dành khoảng một giờ để thảo luận vô số sách lược, sau đó tập tấn công và phòng thủ tâm tưởng. Saphira cũng tham gia bài tập, nhưng ít khi thành công, vì bay khiến cô nàng khó tập trung vào những thứ khác.

Sau đó, Eragon nhìn lên những ngôi sao lạnh lẽo. Rồi nó hỏi Glaedr, Liệu Cổng Linh HỒn có chứa những Eldunarí mà các Kỵ sĩ đã giấu khỏi Galbatorix không?

Không,Glaedr trả lời không chút đắn đo. Không thể. Oromis và ta sẽ biết nếu Vrael lập kế hoạch này. Và nếu có bất cứ Eldunarí còn sót lại tại Vroengard, chúng ta đã tìm thấy khi quay về tìm kiếm trên hòn đảo. Không dễ để che giấu những sinh vật sống đâu.

Vì sao không?

Vì nếu một con nhím có cuộn tròn lại, thì nó cũng không thể nào biến thành vô hình, đúng không? Tư tưởng cũng chẳng có gì khác biệt. Ngươi có thể giấu suy nghĩ không cho những người khác đọc được nhưng sự tồn tại của ngươi vẫn rõ rành rành trước mắt những người rà soát khắp một vùng…

Chắc chắn thầy có thể dùng thần chú để…

Nếu một câu thần chú có thể che mờ các giác quan, chúng ta sẽ biết, vì chúng ta có lập lưới phòng hộ tránh điều đó xảy ra.

THế là, không có Eldunarí, Eragon chán nản kết luận.

Không may là không.

Họ bay trong im lặng tới khi mặt trăng khuyết xuất hiện trên đỉnh núi nham nhở của rặng Spine. Dưới ánh trăng, mặt đất trông như thể rải thiếc, và Eragon tưởng tượng ra rằng đây chính là tác phẩm của người lùn tạc khắc và cất giữ trong một hang động lớn bằng cả Alagaësia.

Eragon có thể cảm nhận sự hài lòng của Glaedr trong chuyến bay. Giống Eragon và Saphira, ông rồng già thích được rời mặt đất, dù chỉ trong một thời gian ngắn, để tự do bay lượn trên bầu trời.

Saphira là người cất tiếng trước. Giữa những tiếng đập cánh chầm chậm, từ từ, cô nói với Glaedr. Kể chuyện cho bọn con nghe đi, Ebrithil.

Con muốn nghe thể loại truyện gì?

Về làm sao người và Oromis bị THập Tam Phản đồ bắt rồi thoát được.

Lúc này, sự hứng thú của Eragon tăng lên. Nó luôn luôn tò mò vì vấn đề này nhưng chưa bao giờ đủ can đảm để hỏi Oromis.

Glaedr im lặng rồi nói, Khi Galbatorix và Morzan trở lại từ miền hoang dã và bắt đầu xử lý những người chống lại chúng, lúc đầu chúng ta không nhận ra mối nguy hiểm tiềm tàng. Tất nhiên chúng ta có lo lắng nhưng nếu biết Tà thần bước chân vào mảnh đất này thì hành động của chúng ta không chỉ dừng lại ở mức đó. Galbatorix không phải Kỵ sĩ đầu tiên điên loạn, dù hắn là người đầu tiên có môn đệ như Morzan. Vì Morzan chúng ta biết mình đang đối diện với mối nguy hiểm như thế nào, nhưng sự thực chỉ hiển hiện vào phút cuối.

Lúc đó, chúng ta không ngờ Galbatorix có thể tụ tập những kẻ đồng lõa hay hắn có ác tâm làm chuyện đó. Chúng ta luôn cho chuyện những kẻ đồng đạo có thể bị những lời đường ngọt chứa độc của Galabatorix dụ dỗ là điều vô lý. Morzan là Kỵ sĩ trẻ, hắn yếu lòng cũng dễ hiểu. Nhưng những Kỵ sĩ trưởng thành thì sao? Chúng tôi chưa bao giờ nghi ngờ lòng trung thành của họ. Chỉ tới khi họ bị dụ dỗ họ mới để lộ ra rằng họ đã bị lòng hận thù và những điểm yếu đánh gục. Vài người trong số đó muốn trả thù cũ; vài người tin rằng, vì có sức mạnh nên Kỵ sĩ và Rồng phải là đấng thống trị Alagaësia; và những kẻ khác, ta sợ phải nói rằng, đơn giản họ chỉ thích có cơ hội xe tan những gì vốn có và tự làm theo những gì mình muốn

Ông rồng già ngừng lại, và Eragon cảm thấy sự hận thù và nỗi buồn từ ngày xa xưa phủ lên tâm trí ông. Sau đó Glaedr tiếp tục: Những sự kiện tại thời điểm đó…hỗn loạn. Chúng ta biến rất ít và những báo cao chúng ta nhận được chỉ toàn là xuất phát từ những lời đồn đãi nên không có tính hữu dụng. Oromis và ta bắt đầu nghi ngờ có gì đó cực kỳ xấu đang xảy ra mà chúng ta không nhận ra. Chúng ta cố thuyết phục vài con rồng và Kỵ sĩ lớn tuổi hơn nhưng họ không đồng ý và bác bỏ mối lo ngại của chúng ta. Họ không ngu ngốc, nhưng nhiều thế kỷ hòa bình đã làm tầm nhìn của họ kém tinh anh và họ không thể thấy rõ thế giới đang biến động quanh họ.

Thất vọng vì không kiếm được thông tin, Oromis và ta rời Ilirea để tự tìm hiểu. Chúng ta đi cùng hai Kỵ sĩ trẻ hơn, cả hai đều là thần tiên và là chiến binh được tôi luyện, vừa trở về từ chuyến do thám phía bắc rặng Spine. Một phần do họ mà chúng ta đã mạo hiểm viễn chinh. Có thể các con nhận ra họ, vì họ là Kialandí và Formora.

“À,” Eragon nói, đột ngột hiểu chuyện.

Đúng. Sau một ngày rưỡi đi lại, chúng ta dừng lại ở Edur Naroch, tòa tháp canh cổ quan sát toàn bộ Cánh rừng Silverwood. Chúng ta không hề biết trước đó Kialandí và Formora đã tới tòa tháp giết chết ba yêu tinh trông giữ cánh rừng. Sau đó, họ đặt bẫy trên những tảng đá bao vòng quanh tòa tháp. Chính bẫy đó đã tóm được chúng ta khi ta đặt móng xuống đất. Đây là một câu thần chú thông minh; Galbatorix đã tự mình dạy cho họ. Chúng ta thèm phòng vệ lại, vì câu thần chú không gây hại cho chúng ta, mà chỉ giữ chân và làm chậm tiến độ của chúng ta, giống như thể chúng ta bị đổ mật lên đầu óc và thân thể. Trong khi chúng ta đừng đó gầm ghè, từng phút trôi qua như từng giây. Kialandí, Formora, và con rồng của họ bay lượn quanh chúng ta còn nhanh hơn chim ruồi; họ chỉ như những mảnh loang loáng tối.

Khi họ sẵn sàng, họ thả chúng ta ra. HỌ đã niệm hàng ta câu thần chú – để giữ chúng ta tại chỗ, khiến chúng ta mù và không cho Oromis nói làm ông ấy khó lòng niệm chú. Một lần nữa, thần chú của họ không làm hại chúng tôi và chúng tôi và vì thế chúng tôi không phòng vệ lại… Lúc có thể, bọn ta tấn công Kialandí, Formora,và con rồng của họ bằng tư tưởng. Chúng ta giằng co hàng giờ và phần thắng thuộc về chúng ta. Kỷ niệm đó….chẳng lấy gì làm vui vẻ. Họ yếu và thiếu kinh nghiệm hơn Oromis và ta, nhưng hai đấu một mà, và họ có trái tim của con rồng Agaravel – họ đã lấy từ Kỵ sĩ bị họ bức hại – và gia tăng sức mạnh. Kết quả là chúng ta phải chầy chật để bảo vệ mình. Chúng ta sau đó phát hiện ra, mục đích của họ là buộc chúng ta giúp Galbatorix và Thập Tam Phản Đồ có thể tiến vào Ilirea mà không bị để ý, sau đó họ có thể đánh úp các Kỵ sĩ và lấy những Eldunarí trong thành phố.

“Vậy sao hai người trốn được?” Eragon hỏi.

Lúc đó, rõ ràng chúng ta không thể thắng nổi họ. Vì thế, Oromis quyết định liều dùng pháp thuật để chúng ta tự do, dù ông ấy biết nó sẽ làm cho Kialandí và Formora dùng pháp thuật phản kích lại. Chúng ta làm vậy vì tuyệt vọng nhưng làm gì còn lựa chọn nào khác.

Vào một lúc, ta không biết kế hoạch của Oromis, ta đã đánh trả hai kẻ tấn công, cố làm bị thương họ. Oromis đợi thời cơ đó. Ông ấy biết Kỵ sĩ hướng dẫn Kialandí và Formora dùng pháp thuật, chính vì thế ông ta quen với cách dùng chú của họ. Vì thế, ông ấy đoán ra Kialandí và Formora sẽ dùng thần chú thế nào, và lỗ hổng trên đòn chú nằm ở đâu.

Oromis chỉ có vài giây để hành động; giây phút ông sử dụng pháp thuật, Kialandí và Formora nhận ra ông định làm gì, họ hoảng loạn bắt đầu dùng thần chú. Oromis phải mất ba lần để bẻ gẫy vòng trói của họ. Ta không thể nói chính xác ông ấy làm thế nào. Ta nghi có khi ông ấy còn chẳng hiểu nữa là. Hiểu theo cách đơn giản nhất, ông ấy di chuyển  chúng ta dịch đi một ngón tay từ chỗ chúng ta đang đứng.

Giống như cách Arya đưa quả trứng của con từ Du Weldenvarden tới Spine phải không ạ? Saphira hỏi.

Đúng và không đúng, Glaedr trả lời. Đúng, ông ấy di chuyển chúng ta từ nơi này tới nơi khác bằng dịch chuyển tức thời. Nhưng ông ấy không chỉ di chuyển vị trí mà còn thay đổi da thịt khiến chúng ta không còn là mình. Rất nhiều điểm nhỏ nhất trên cơ thể chúng ta đã thay đổi nhưng không gây ra hậu quả nghiêm trọng, và ông ấy là thế với tất cả các cơ bắp, xương và nội tạng.

Eragon nhíu mày. Câu thần chú đó đòi hỏi sự sắp xếp cao nhất, một đòn vô tiền khoáng hậu trong lịch sử. Nhưng, Eragon có ấn tượng tới đâu nó vẫn không thể đừng hỏi, “Nhưng làm thế nào ạ? Giờ ngài vẫn như cũ mà.”

Có thể như cũ, cũng có thể không. Sự khác biệt của chúng ta trước và sau rất nhỏ, nhưng đủ để làm hỏng đòn phép Kialandí và Formora ếm lên chúng ta.

Vậy họ dùng thần chú gì khi phát hiện ra điều tiền bối Oromis làm?  Saphira hỏ

i.

Eragon thấy Glaedr giã cánh xuống như thể ông đã quá mệt mỏi vì đứng một tư thế quá lâu. Thần chú đầu tiên của Formora định giết chúng ta, nhưng lưới phòng vệ của chúng ta đã ngăn lại. Câu thứ hai từ Kialandí … khác. Đó là câu thần chú hắn học từ Galbatorix và lão học từ những linh hồn ác chiếm trụ Durza. Cái này ta biết, vì ta tiếp cận trí óc của Kialandí trong khi hắn đọc thần chú. Đó là một câu thần chú thông minh, xảo quyệt nhằm không cho Oromis sử dụng dòng năng lượng quanh ông ấy, như vậy chúng ta sẽ không  dùng pháp thuật được.

“Kialandí có làm vậy với ông không?”

HẮn có thể nhưng hắn sợ câu thần chú sẽ giết ta hoặc ta và trái tim sẽ không còn liên hệ với nhau. Như vậy tạo ra hai bản thể của ta thì làm sao họ chống chịu được. Rồng còn phụ thuộc vào pháp thuật để tồn tại nhiều hơn thần tiên; không có nó chúng ta sẽ chết.

Eragon có thể cảm nhận sự tò mò của Saphira dâng cao. Có thể sao? Liên kết giữa rồng của Eldunarí của rồng có thể ngắt trong khi cơ thể rồng vẫn sống?

Có thể, nhưng đây là câu chuyện khác ta sẽ kể lúc khác.

Saphira im lặng nhưng Eragon thừa biết cô nàng sẽ hỏi lại cơ hội đó sớm nhất có thể.

“Nhưng câu thần chú của Kialandí không ngăn nổi sư phụ Oromis dùng phép đúng không ạ?”

Không hoàn toàn. Đáng ra câu thần chú phải làm được điều đó nhưng khi Kialandí dùng câu thần chú đó thì Oromis di chuyển chúng ta từ nơi này tới nơi khác, chính vì thế ảnh hưởng của nó giảm đi. Nhưng dù sao ông ấy chỉ có thể sử dụng một phần phép thuật nhỏ nhất. Câu thần chú đó để lại di chứng cả đời ông ấy, dù những thầy thuốc giỏi nhất đã cố gắng thế nào.

“Sao lưới phòng hộ không bảo vệ ông ấy?”

Glaedr hình như đang thở dài. Không ai biết. Không ai làm điều này trước đó, Eragon, và trong những người còn sống sót, chỉ có Galbatorix biết bí mật của nó. Phép thuật đó ếm lên tư tưởng Oromis nhưng lại không trực tiếp ảnh hưởng tới ông ấy. Thay vào đó, nó ảnh hưởng lên nguồn năng lượng và liên kết của ông với năng lượng. THần tiên đã nghiên cứu pháp thuật từ lâu nhưng họ cũng không hoàn toàn hiểu các thế giới vật chất và phi vật chất tương tác thế nào. Đó là một câu đố không bao giờ có lời giải. Tuy vậy, hình như các linh hồn hiểu về vật chất và phi vật chất rõ hơn chúng ta, vì họ là đại diện cho cái thứ hai và họ trở thành cái thứ nhất khi ở dạng Tà thần.

Dù sự thật thế nào thì chúng ta cũng biết: Oromis đọc thần chú, chúng ta tự do, nhưng ông ấy đã bị ảnh hưởng quá nặng. Cả đời ông ấy không thể nào dùng một câu thần chú quyền năng tới vậy nữa và từ đó trở đi, thân thế ông ấy rất dễ bị tổn thương. Ông ấy rất dễ bị giết. Điểm yếu này đã tồn tại khi Kialandí và Formora bắt chúng ta, nhưng khi ông ấy  di chuyển chúng ta và thay đổi hình dạng cơ thể, điểm yếu này còn trở nên tệ hơn.

Oromis ngã xuống và trở nên yếu ớt như một con chim non. Lúc đó Fomora và con rồng của bà ta, một con vật màu nâu xấu xí lao tới, hai kẻ kia theo sát sau. Nếu họ biết ông ấy đã yếu, họ sẽ tận dụng thời cơ để chui vào đầu óc mà điều khiển ông ấy. Ta phải đánh lạc hướng họ cho tới khi Oromis phục hồi… Ta chưa bao giờ chiến đấu dũng mãnh như vậy trong đời. Bốn chọi một, hoặc năm nếu các trò tính cả Agaravel. Cả hai con rồng, con màu nâu và màu tím của Kialandí đều nhỏ hơn ta nhưng răng chúng sắc còn móng vuốt thì sắc nhọn. Nhưng cơn giận đã tiếp sức mạnh cho ta, ta gây ra những vết thương chí mạng cho chúng. Kialandí ngu ngốc khi tiến tới tầm đánh của ta và ta đã dùng móng vuốt tóm hắn và ném trả về. Glaedr hét lên một tiếng. Phép thuật không bảo vệ ông ấy khỏi mũi lao phóng tới từ lưng con rồng tím, và đáng ra ta đã giết chết hắn nếu như không có con rồng nâu ngáng đường.

Chúng ta chiến đấu thêm gần năm phút nữa thì Oromis kêu rút lui. Ta ném đất vào mặt kẻ thù và trở về chỗ Oromis, dùng móng phải nắm lấy ông ấy và bay đi từ Edur Naroch. Kialandí và con rồng không thể đuổi theo, nhưng Formona và con rồng nâu lại có thể.

Họ bắt kịp chúng ta khi chúng ta mới bay khỏi tòa tháp canh một dặm. Thi thoảng chúng và ta rất gần, rồi con rồng nâu bay dưới ta, ta thấy Formora định dùng kiếm đâm chân phải ta. Bà ta muốn ta đánh rơi Ormis hoặc muốn giết ông ấy. Ta vặn mình, vì thế thay vì mất chân phải, ta mất chân trái.

KÝ ức của Glaedr thảm khốc, lạnh lẽo như thể lưỡi kiếm của Formona làm bằng băng chứ không phải thép. Cảm giác đó khiến Eragon nôn nao. Nó nuốt nước bọt và nắm chặt dây cương, mừng vì Saphira được an toàn.

Không đau như các con tưởng tượng nhưng ta biết ta không thể tiếp tục chiến đấu, vì thế ta quay người bay về Ilirea nhanh nhất có thể. Formora mờ mắt vì chiến thắng, vì dù chân đâu nhưng ta vẫn cắt đuôi được con rồng nâu và trốn thoát.

Oromis có thể ngăn máu chảy nhưng ông ấy lực bất tòng tâm, còn không thể nào liên kệ với các Kỵ sĩ tiền bối để cánh báo về kế hoạch của Galbatorix. Một khi Kialandí và Formora báo cáo lại, Galbatorix sẽ tấn công Ilirea ngay lập tức. Nếu hắn chờ đợi sẽ cho chúng ta thời gian củng cố lực lượng, và dù hắn có sưc mạnh song yếu tố bất ngờ vẫn là vũ khí mạnh nhất của hắn vào hồi đó.

Khi chúng ta tới Ilirea, chúng ta đã thất vọng khi thấy vài lệnh vẫn còn đó, trong lúc chúng ta vắng mặt, có nhiều người bỏ đi tìm Galbatorix hoặc đi gặp Vrael ở Vroengard. Chúng ta thuyết phục những người còn lại là họ đang gặp nguy hiểm, và chúng tôi nhớ họ cảnh báo Vrael và những con rồng và Kỵ sĩ tiền bối. Họ không tin Galbatorix có lực lượng để tấn công Ilirea – hoặc lão dám làm chuyện đó – nhưng cuối cùng chúng tôi cũng khiến họ nhìn vào sự thật. Thế là họ quyết định tất cả các Eldunarí ở Alagaësia phải được đưa tới Vroengard để giữ an toàn.

Đó có vẻ là một biện pháp bảo đảm nhưng chúng tôi đáng ra phải đưa tới Ellesméra. Nếu không, chúng ta nên để chúng lại tại Du Weldenvarden. Ít nhất vài tim rồng có thể an toàn trước Galbatorix. Chúa ơi, nhưng không ai nghĩ rằng họ sẽ an toàn cùng các thần tiên hơn ở Vroengard.

Vrael ra lệnh cho rồng và Kỵ sĩ trong vài ngày phải tới trợ thủ cho Ilirea nhưng Oromis và ta sợ rằng họ đã quá trễ. Và chúng ta không thể nào tăng cường hàng phòng thủ cho Ilirea. Vì thế chúng ta đã tập hợp tất cả các nguồn trợ cấp cần thiết và cùng với hai học trò – Brom và con rồng giống tên con, Saphira – chúng ta rời thành phố ngay trong đêm. Ta nghĩ con đã hiểu Oromis đau khổ thế nào khi quyết định ra đi.

Eragon vô thức gật đầu khi nhớ lại thành phố với những tòa tháp tuyệt đẹp nằm trên vách núi và được ánh trăng rọi sang.

Chính vì thế chúng ta không ở Ilirea và Thập Tam Phản đồ tấn công chỉ vài giờ sau đó. Và đó là lý do vì sao chúng ta không ở Vroengard khi những tên đó đánh bại toàn bộ lực lượng và chiếm giữ Doru Araeba. TỪ Ilirea chúng ta tới Du Weldenvarden với hy vọng những thầy thuốc loài tiên có thể chữa bệnh cho Oromis và phục hồi khả năng dùng phép.Khi họ không thể, chúng ta quyết định ở lại vì ở lại sẽ an toàn hơn bay tới Vroengard trong khi cả hai đều bị thương và có thể bị tấn công trong khi bay.

Brom và Saphira không ở lại cùng chúng ta. Dù chúng ta khuyên ngăn nhưng họ vẫn tham chiến và trong cuộc chiên này, Saphira đã hy sinh… Và giờ hai con đã biết sao mà Thập Tam phản đồ bắt được chúng ta và chúng ta đã thoát ra sao.

Sau một lúc, Saphira nói, Cám ơn người đã kể chuyện, Ebrithil.

Không có gì, Bjartskular, nhưng đừng bao giờ bảo ta kể lại.

Khi trăng lên tới ngọn, Eragon thấy một chùm ánh sáng vàng cam nhạt trôi trong bóng tối. Nó mất một lúc mới nhận ra đó là ánh đuốc và đèn từ Teirm cách đó rất xa. Và, cao hơn những ánh đèn là một điểm sáng màu vàng xuất hiên trong tích tắc như một con mắt lớn liếc nhìn nó, rồi biến mất rồi xuất hiện, lóe chớp như thể đôi mắt đang chớp.

Đèn hải đăng Teirm đã lên đèn,  nó nói với cả Saphira và Glaedr.

Vậy là sắp có bão, Glaedr nói.

Saphira thôi đập cánh và Eragon cảm nhận cô nàng đang lượn xuống chầm chậm trên mặt đất.

Nửa tiếng sau cô nàng đáp xuống. Lúc đó, Teirm chỉ còn là một đốm sáng mờ nhạt phía bắc và ánh sáng từ ngọn đèn hải đăng chẳng sáng hơn ánh sao là bao.

Saphira thổi lừa đốt lửa trại ở bờ biển vắng. Dưới ánh trăng, bờ biển cứng, phẳng trở nên trắng trong khi những con sóng vỗ bờ mang màu xám và đen trông giận dữ, như thể biển đang tham lam ngốn lấy đất liền.

Eragon tháo đai đeo ở chân và trượt khỏi Saphira, mừng vì được duỗi cơ bắp. Nó để ý thấy mùi nước biển khi đi dọc bãi biển tới đám lửa lớn, áo choàng phấp phới sau lưng. Sau đó, nó quay người chạy về chỗ Saphira.

Cô nàng vẫn ở nguyên chỗ cũ, nhìn xa xăm ra biển. Nó ngừng lại không biết cô nàng định nói gì đây – nhưng vì cô em nó vẫn giữ im lặng, nó quay người một lần nữa tới bên đống lửa. Cô em nó sẽ nói khi sẵn sàng.

Eragon chạy đi chạy lại cho tới khi ấm người và chân bắt đầu run.

Nhưng trong suốt thời gian đó, Eragon chỉ nhìn ra biển.

Khi Eraagon ngồi xuống cạnh cô nàng, Glaedr cất tiếng. Thử là trò ngu ngốc.

Eragon nghiêng đầu không biết con rồng già đang nói với ai.

Con biết con làm được, Saphira nói.

Con chưa bao giờ tới Vroengard, Glaedr nói. Và nếu có bão, con sẽ bay thẳng ra biển hoặc còn tệ hơn. Rất nhiều con rồng đã chết vì tự tin thái quá. Cơn gió không phải bạn của con, Saphira. Nó có thể giúp con nhưng cũng có thể giết chết con.

Con không phải con rồng con bị cơn gió điều khiển!   

Không, nhưng con vẫn còn trẻ và ta không nghĩ con đã sẵn sàng.

Nếu đợi chúng ta sẽ tốn rất nhiều thời gian!

Có thể, nhưng thà an toàn tới đó còn hơn.

“Hai người nói gì vậy?” Eragon hỏi.

Cát dưới chân trước Saphira kêu lạo xạo khi cô nàng ấn móng xuống.

Chúng ta phải quyết đinh, Glaedr nói. Từ đây, Saphira hoặc có thể bay thẳng tới Vroengard hoặc theo bờ biển phía bắc tới khi tới đất liền gần nhất và sau đó – chỉ tới lúc đó – mới rẽ về hướng tây và bay qua biển.

Đường nào nhanh hơn? Eragon hỏi dù đã đoán ra câu trả lời.

Bay thẳng, SAPhira nói.

Nhưng nếu thế, cô ấy sẽ phải bay suốt không nghỉ.

Saphira chen vào vì tức giận. Nhưng chặng đường cũng chẳng xa hơn đoạn đường từ Varden tới đây. Con có nói sai không?

GIờ con mệt rồi, và nếu có bão.

Vậy thì con sẽ bay qua bão! Cô nàng nói và thở ra một ngọn lửa xanh vàng từ lỗ mũi.

Ngọn lửa biến mất ngay trước mắt Eragon chỉ để lại dư ánh sáng loáng. “Á! Giờ anh không thấy gì.” Nó dụi mắt để dư ảnh biến mất. Chẳng nhẽ bay thẳng từ đây thật sự chỉ toàn nguy hiểm?

Đúng, Glaedr gầm.

Thế nếu bay theo đường bờ biển chúng ta sẽ mất thêm bao nhiêu thời gian?

Nửa ngày hoặc hơn.

Eragon hãi cằm khi cô nàng nhìn chằm chằm vào mặt nước. Sau đó nó ngước nhìn Saphira và, bằng giọng trầm, nó nói. “Em chắc chắn mình làm được không?”

Cô nàng xoay cổ nhìn nó bằng một con mắt to tướng. Con ngươi nó mở rộng tới khi gần thành một hình tròn; nó quá đen và lớn, Eragon có cảm giác mình bị hút và sẽ biến mất trong đó.

Em chắc, cô em nó nói.

Nó gật đầu và vuốt tóc khi cân nhắc. Vậy chúng ta phải thử…Glaedr, nếu cần, người hướng dẫn em ấy nhé? Người có thể giúp em ấy đúng không?

Con rồng già im lặng một lúc lâu; sau đó ông khiến Eragon ngạc nhiên khi rên rừ rừ trong tư tưởng giống như khi Saphira rên rừ rừ vì hài lòng hay vui sướng. Rất tốt. Nếu chúng ta phải liều thì chúng ta không được phép hèn nhát. CHúng ta sẽ bay qua biển.

Vấn đề giải quyết xong, Eragon leo lên lưng Saphira và mới một cú nhảy, cô nàng để lại mảnh đất an toàn bên dưới và bay theo những con sống nối nhau không kết.

44. LÃO RÓT MẬT VÀO TAI NGƯƠI, LÃO CHẠM TAY VÀO NGƯỜI NGƯƠI

Posted on Tháng Mười Hai 31, 2011

“Aaaaaaaaaaa!”

“Cô có thề trung thành với ta hay không?”

“Không bao giờ!”

Câu hỏi và câu trả lời của hai bên cứ liên tục lặp lại như hai đứa con nít chơi trò chơi nhưng chỉ trừ có điều cô thua ngay cả khi thắng.

Nhờ việc này mà Nasuada còn tỉnh táo. Cô vẫn nắm được thế giới của mình – co có thể chịu đừng từng thời khắc trôi qua, vì chúng cho cô cơ hội nắm một cái gì đó khi mà mọi thứ khác đang vuột khỏi tầm tay. Những suy nghĩ, hành động, nỗi đau và sự nhẹ nhõm: cô sống nhờ vào những thứ đó. Không có chúng, có lẽ cô đã thua cuộc, trở thành một con cừu không có người chăn dắt, một con chiên mất lòng tin… một Kỵ sĩ xa rời con rồng.

Nhưng không may thay, diễn biến luôn kết thúc cùng một cách: với ngọn sắt nung đỏ.

Cô hét lên và cắn phải lưỡi, máu chảy tràn ra miệng. Cô ho, cố thông cổ họng nhưng có quá nhiều máu khiến cô bị sặc. Phổi cô cháy bỏng vì thiếu ô xi, và những đường viền trên trần nhà uốn éo và trở nên mờ nhạt, sau đó, ký ức của cô bay biến chảng còn lại gì, thậm chí chẳng còn màu đen.

Sau đó, Galbatorix nói với cô trong khi nung nóng thanh sắt.

Đó cũng là một phần trong diễn biến.

Lão chữa lành lưỡi cho cô – ít nhất là cô nghĩ đó là lão chứ không phải Murtagh – và nói. “Lưỡi cô mà đứt thì sao cô nói được? Làm sao ta biết khi nào cô đồng ý phục tùng ta?”

Như trước, lão bạo chúa ngồi bên phải, cô chỉ thấy hắn là một bóng người khuất trong bóng tối, ẩn dưới lớp áo choàng dài và nặng nề.

“Cô biết rằng ta đã gặp cha cô, khi ông ấy là người quản lý tài sản của Enduriel,” Galbatorix nói. “Ông ấy nói cho cô nghe chưa?”

Cô rùng mình và nhắm mắt cảm nhận nước mắt lăn ra từ khóe mi. Cô ghét nghe lão nói. Giọng nói của lão quá quyền lực, quá quyến rũ; nó khiến cô muốn làm tất cả những gì lão sai khiến.

“Đúng,” cô thì thào.

“Lúc đó ta hầu như không để ý nhiều tới ông ta. Vì sao ư? Ông ấy chỉ là một nô bộc, không ai để ý. Enduriel cho phép ông ấy có chút tự do, để quản lý cơ nghiệp cho hắn – nhưng hóa ra lại là tự do quá đáng.” Lão bạo chúa vung tay không chủ đích, và ánh sáng chiếu vào bàn tay gầy như móng vuốt của lão. “Enduruel luôn là người dễ tính. Con rồng của hắn mới quái tính; Enduriel thường làm theo những gì con rồng bảo…Thật là trò đùa kỳ lạ của số phận. Khó lòng mà tin được một người đàn ông chỉ soi mặt lên đôi giày bóng lộn của ta lại trở thành kẻ thù khó chơi nhất chỉ sau Brom, và giờ cô, con gái của ông ta, trở lại Urû’baen và sắp sửa phục mệnh ta, như cha cô. Thật là mỉa mai, phải không nhỉ?”

“Cha tôi đã trốn thoát và ông ấy đã suýt giết Durza,” cô nói. “Tất cả các câu thần chú và lời thề của ông không thể giữ ông ấy cũng như sẽ không ràng buộc được tôi.”

Cô nghĩ Galbatorix vừa nhíu mày. “Đúng, thật không may làm sao. Lúc đó Durza đã suýt mất mạng. Gia đình dường như dễ dàng giúp một con người thay đổi bản thân và tên thật của mình, vì thế sau này ta chọn tâm phúc là những kẻ không vướng bận gia đình. Nhưng, cô đã nhầm nếu nghĩ có thể tìm ra lỗ hổng trong lời chú của ta. Cách duy nhất thoát khỏi Căn Phòng của Nhà tiên tri là thề trung thành với ta hoặc là chết.”

“Vậy ta thà chết.”

“Thật là thiển cận.” BÓng bạo chúa nhoài về phía cô. “Cô đã bao giờ nghĩ tới thế giới này sẽ hỏng nếu ta không lật đổ các Kỵ sĩ chưa?”

“Các kỵ sĩ giúp thế giới hòa bình,” cô nói. “Họ bảo vệ Alagaësia không lâm vào cảnh nồi da nấu thịt, bệnh dịch hoành hành… khỏi các Tà thần. Lúc gặp nạn dịch hạch, họ mang thức ăn cho những người chết đói. Làm sao không có họ lại làm thế giới tốt đẹp hơn chứ?”

“Vì chúng ta phải trả giá cho sự phục vụ của họ. Cô và mọi người đều biết cái gì cũng có giá của nó, hoặc là bằng vàng, thời gian hoặc bằng máu. Không có gì mà không có giá, kể cả các Kỵ sĩ. Đặc biệt là các Kỵ sĩ.

“Đúng, họ giữ hòa bình, nhưng họ đàn áp mọi giống loài trên mảnh đất này, dù là tiên, người lùn hay thậm chí là con người. Những người hát rong thường ca ngợi họ cái gì nhỉ? Rằng họ trị vì hàng ngàn năm, rằng trong suốt ‘kỷ nguyên vàng’ đó rất ít có biến cố hoàng gia nào. Ồ, ở đây có những nguy hiểm nho nhỏ: tà thần ở đây, Urgal tấn công, hai bộ lạc người lùn xung đột vì một mỏ khoáng thạch nhưng chẳng ai quan tâm. Nhưng nhìn tổng thể, trật tự mọi thứ vẫn giữ nguyên như khi các Kỵ sĩ mới nắm quyền.”

Cô nhe có tiếng kim loại leng keng khi Murtagh đảo than trong lò. Cô ước gì cô thấy được khuôn mặt hắn để xem phản ứng của hắn trước những gì Galbatorix vừa nói, nhưng hắn vẫn đứng đó cúi mặt nhìn đống than hồng. Hắn chỉ nhìn cô khi nhấn que sắt nóng lên da thịt cô. Đó là những gì hắn làm và cô nghi hắn cần nó như cô cần những lời đáp trả Galabtorix của mình.

Galbatorix vẫn ra rả nói: “Thế không phải quá tàn ác hay sao Nasuada? Đời thay đổi nhưng các Kỵ sĩ vẫn xích chặt mảnh đất này không cho nó phát triển, hay thụt lùi theo quy luật tự nhiên… không thể trở thành một thứ mới mẻ. Ta tận mắt chứng kiến những công văn tại Vroengard và ở đó, ở Ilirea, rằng những phát hiện nhỏ nhặt nhất – về phép thuật, cơ khí, và những triết lý tự nhiên – bị các Kỵ sĩ giấu kín vì họ sợ điều xảy ra nếu ai cũng biết những kiến thức đó. Các Kỵ sĩ hèn nhát muốn đi theo lối mòn trong cách sống và tư duy. Họ cố gắng duy trì nó tới hơi thở cuối cùng. Có thể sự chuyên chế của họ mang lại hòa bình nhưng sẽ duy trì thế giới theo một hình thái tới mãi mái.”

“Nhưng giết người và phản bội có thực sự là giải pháp?” cô hỏi, không quan tâm hắn sẽ trừng phạt cô thế nào.

Lão cười, dường như hứng khởi. “Đạo đức giả! Cô buộc tội ta vì bất cứ điều gì cô nghĩ ra. Nếu có thể, cô nên giết ta ngay tại đây, đừng do dự. Cứ cho ta là một con chó dại mà giết đi.”

“Ông là kẻ phản bội còn tôi thì không.”

“Ta là kẻ chiến thắng. Thế là đủ. Chúng ta không khác nhau nhiều như cô nghĩ đâu Nasuada. Cô muốn giết ta vì cô tin cái chết của ta sẽ giúp Alagaësia tiến một bước mới và vì cô – một đứa nhỏ – tin rằng cô có thể trị vì Vương QUốc tốt hơn ta. Sự ngốc nghếch của cô sẽ khiến cho kẻ khác muốn trừ khử cô. Nhưng tất nhiên không phải ta. Ta đã chống lại Kỵ sĩ vì nguyên do tương tự, ta có quyền làm vậy.”

“Vậy ông không hề có ý định trả thù?”

Cô nghĩ lão cười. “Có thể ta xuất phát từ mục đích cá nhân nhưng hận thù hay trả thù không phải động cơ thúc đẩy của ta. Ta nghĩ về Kỵ sĩ là gì và rằng chỉ khi họ bị xóa sổ chúng ta mới lớn mạnh được.”

Trong một lúc cơn đau từ vết thương quá kinh khủng khiến cô không mở miệng nổi. Sau cùng cô cũng thì thầm: “Nếu những gì ông nói là thực – và tôi không  có lý gì mà tin ông, nhưng nếu đúng là thật – vậy thì ông cũng đâu hơn các Kỵ sĩ. Ông cướp lấy thư viện và thu thập kho kiến thức của họ nhưng ông cũng không chia sẻ với một ai.”

Lão tới gần cô hơn, cô cảm thấy hơi thở lão bên tai. “Vì, trong những bí mật của họ, ta đã tìm thấy một sự thực vĩ đại hơn, một sự thật có thể trả lời cho bất kỳ câu hỏi nào trong lịch sử.”

Một cơn rùng mình chạy dọc xương sống cô. “Câu hỏi… nào?”

Hắn ngả người ra ghế và cầm lấy đuôi áo choàng. “Câu hỏi làm thế nào mà một vị vua hay nữ hoàng có thể ban hành luật lệ trị vì những sinh vật sử dụng pháp thuật. Khi ta nhận ra điều đó, ta đã bỏ qua những thứ khác và tự mình lần theo sự thật đó, câu trả lời đó, vì ta biết nó cực kỳ quan trọng. Vì thế ta giữ cho mình những bí mật của Kỵ sĩ rồng;  vì ta còn bận nghiên cứu. Tới khi ta tìm ra câu trả lời ta sẽ công bố những bí mật kia. Thế giới này vốn là một nơi nhiều vấn đề và tốt nhất nên để nước lặng trước khi khuấy động nó lên… Ta mất gần một thế kỷ để tìm ra thông tin mình cần, và giờ khi đã có, ta sẽ dùng nó để thay đổi Alagaësia.

Pháp thuật làm thế giới này không có công bằng. Sẽ là công bằng nếu kẻ yếu có khả năng đó – nhưng không. Thường kẻ mạnh mới có khả năng dùng phép và họ có được nhiều hơn những người khác. Cứ nhìn thần tiên thì biết. Vấn đề này không chỉ ảnh hưởng tới một cá nhân mà còn gây ảnh hưởng tới quan hệ giữa các giống loài. Thần tiên dễ dàng duy trì trật tự xã hội hơn chúng ta vì hầu hết họ có thể sử dụng pháp thuật và rất ít trong số họ phải cần người khác ban ơn. Họ may mắn nhưng chúng ta, người lùn và kể cả Urgal thì không. Chúng ta chỉ có thể sống ở Alagaësia vì thần tiên đồng ý. Nếu họ muốn, họ có thể xóa sổ chúng ta khỏi mặt đất dễ dàng như cơn lũ cuốn phăng một tổ kiến. Nhưng giờ khi ta có thể đối địch với họ thì họ không thể làm được nữa.”

“Những Kỵ sĩ sẽ không bao giờ để họ giết hoặc đuổi chúng ta đi.”

“Không, nhưng hồi các Kỵ sĩ tồn tại, chúng ta phải sống dựa vào lòng nhân ái của họ và chúng ta không nên sống phụ thuộc vào sự gia ơn của kẻ khác. Các kỵ sĩ lúc đầu là công cụ duy trì hòa bình giữa tiên và rồng, nhưng cuối cùng, mục đích chính của họ lại là duy trì luật lệ trên mảnh đất này. Nhưng họ không đủ tài cán, cũng giống như những pháp sư của ta, Bàn ta đen. Vấn đề này là vấn đề nan giải. Cuộc đời ta là bằng chứng đây. Kể cả nếu có đủ lượng pháp sư sống trên Alagaësia – đủ để can thiêp vào những trường hợp lạm dụng quyền hành nhỏ nhặt nhất – chúng ta vẫn phải nhờ cậy vào những kẻ quyền lực hơn chúng ta. Mảnh đất này lúc đó chẳng an toàn hơn hiện giờ là bao. Không, để giải quyết vấn đề này, chúng ta phải tìm hiểu tới gốc rễ vấn đề. Những người cổ đại biết và giờ ta cũng biết.”

Galbatorix dịch người trên ghế và cô thấy ánh nhìn sắc lẹm trong mắt lão, nhờ ánh đèn hắt ra trong một hang động. “Ta sẽ khiến các pháp sư không thể làm hại người khác, dù đó là người, người lùn, hay thần tiên. Không ai được dùng thần chú trừ khi ta cho phép và chỉ có phép thuật phục vụ lợi ích con người mới được dùng. Kể cả thần tiên cũng bắt buộc phải theo và họ sẽ học được cách dùng từ đúng đắn hoặc câm họng lại.”

“Ai là người cho phép?” cô hỏi. “Ai sẽ quyết định nên dùng câu thần chú nào và không dùng câu nào? Ông ư?”

“Ai đó. Ta biết cái gì cần và ta tìm ra cách và ta sẽ thi hành. Cô nghi ngờ ư? Được, hãy tự hỏi mình, Nasuada: ta có phải một quân vương tồi không? Thành thực đi. Nếu chiếu theo người tiền nhận, ta không hề quá đáng.”

“Ông độc ác.”

“Không giống nhau…. Cô dẫn dắt Vardenl cô hiểu gánh nặng của người chỉ huy. Chắc chắn cô thấy được phép thuật đe dọa các Vương quốc thế nào? Ta cho cô một ví dụ. Ta đã nhiều lần tìm câu thần chú bảo vệ lãnh thổ. Nhưng chắc chắn sẽ có kẻ tìm được cách lách luật và cũng có kẻ tìm cách lừa tiền cả quý tộc lẫn dân thường. Vậy cô nghĩ vì sao ta phải cẩn trọng hạn chế sử dụng pháp thuật trong Vương quốc?”

“Vì ông sẽ gặp nguy.”

“sai! Cô hoàn toàn sai. Không gì đe dọa được ta. Không ai và không một cái gì. Nhưng những pháp sư là những kẻ đe dọa sự bình yên cho vương quốc và ta sẽ không dung thứ cho chúng. Một khi ta buộc tất cả các pháp sư trên thế giới thực hiện luật, hòa bình và trật tự sẽ được thiết lâp. Không một con người hay người lùn nào phải e dè thần tiên. Chúng ta không cần núp dưới bóng các Kỵ sĩ. Những kẻ bình thường không còn phải tôn thờ kẻ có pháp thuật. Alagaësia sẽ thay đổi, và với sự an toàn mới thiết lập này, chúng ta sẽ xây nên một tương lai hoành tráng hơn, và cô có thể trở thành một phần trong đó.

“Phục tùng ta, Nasuada và cô sẽ có cơ hội thấy sự kiến tạo thế giới này – một thế giới con người dựa nào sức mạnh cơ bắp và ý chí chứ không phải phép thuật. Con người có thể tập luyện để khỏe mạnh và rèn luyện ý chí nhưng không phải ai sinh ra cũng có khả năng dùng phép. Như ta đã nói, phép thuật thiếu tính công bằng và vì sự tốt đẹp, ta sẽ hạn chế khả năng của các pháp sư.”

Cô nhìn những đường kẻ trên trần nhà và cố lờ lão đi.Lão nói rất nhiều thứ giống với suy nghĩ của cô. Lão đúng: pháp thuật là năng lực có sức hủy diệt thế giới này nhất, và nếu ban hành điều luật hạn chế dùng pháp thuật, Alagaësia sẽ trở nên tốt hơn. Cô ghét phải thừa nhận không có gì có thể ngăn Eragon khỏi…

Xanh. Đỏ. Những màu sắc đan xen trên thảm. Cơn đau nhói. Cô tuyệt vọng cố tập trung vào những thứ khác. Dù cô có nghĩ gì thì thứ đó cũng không tồn tại.

“Cô cho ta là quỷ dữ. Cô nguyền rủa tên ta và tìm cách hạ bệ ta. Nhưng hãy nhớ, Nasuada: ta không khơi mào chiến tranh và ta không chịu trách nhiệm cho những kẻ chết trong trận chiến ấy. Ta không phải kẻ khơi mào. Cô cơ. Ta giành thời gian nghiên cứu, nhưng Varden cứ cố lấy cắp quả trứng của Saphira khỏi kho báu của ta và cô cũng những kẻ đồng bọn của cô phải chịu trách nhiệm cho cảnh đầu rơi máu chảy. Cô là kẻ đã reo rắc tang thương trên miền đất này, chứ không phải ta. Và giờ cô lại to mồm kêu ta sai! Nếu cô vào thăm những người nông dân, họ sẽ nói cho cô hay họ sợ nhất là Varden. Họ sẽ nói cho cô nghe họ trông mong binh lính của ta bảo vệ họ thế nào và họ hy vọng Triều đình sẽ đánh bại Varden và mọi chuyện lại trở về như cũ thế nào.”

Nasuada liếm môi. DÙ cô biết sự cứng đầu của mình sẽ phải trả giá thế nào nhưng cô vẫn nói, “Tôi thấy ông phản biện quá nhiều…Nếu sự thịnh vương là mối quan tâm chính của ông, vậy ông nên đầu hàng Varden từ hàng tuần trước, thay vì để quân đội đi lại lung tung. CHỉ có khả năng ông không chắc chắn như ông đang giả bộ. Hoặc ông sợ thần tiên sẽ chiếm lại Urû’baen khi ông bỏ đi?” Như một thói qune. Cô nói về Varden như thể cô chỉ là một người bình thường nghe danh về họ thôi vậy.

Galbatorix nhúc nhích và cô biết hắn định đáp lời nhưng cô chưa nói xong.

“Và Urgal nữa chứ? Ông không thể thuyết phục tôi rằng mục đích khi xóa sổ cả một giống loài là để xoa dịu nỗi đau khi mất đi con rồng đầu tiên. Ông có câu trả lời không, kẻ Phản bội?…Giờ nói cho tôi nghe về những con rồng đi. GIải thích vì sao ông giết hại quá nhiều khiến chúng gần như lâm vào tuyệt diệt. Và cuối cùng, hãy giải thích cách ông dùng các Eldunarí một cách sai trái đi.” Trong cơn giận dữ, cô để cho mình nói ra một điều. “Ông đã buộc họ cúi mình làm theo những gì ông muốn. Ông sai, ích kỷ và thèm khát quyền lực.”

Galbatorix đánh giá co một lúc. Sau đó cô thấy hắn khoanh tay. “Ta nghĩ sắt đủ nóng rồi. Murtagh, nếu ngươi có thể…”

Cô nắm chặt tay, móng tay chọc vào da, không khống chế nổi cơ bắp đang run lên. Một trong những thanh sắt chạm vào vành lò than khi Murtagh kéo nó ra. Hắn đối mặt với cô, và cô không thể không nhìn chằm chằm vào đầu sắt nóng đỏ. Sau đó cô nhìn vào mắt Murtagh. Cô thấy sự tội lấy và đau đớn trong đó, cô cũng cảm nhận nỗi buồn đang dâng lên trong cô.

Chúng ta thật ngốc, cô nghĩ. Những kẻ ngốc đáng thương yếu đuối.

Sau đó, cô không còn sức mà nghĩ và thế là cô làm theo tiến trình cũ, bám vào đó mà sống như một người chết đuối bám láy cọc.

Khi Murtagh và Galbatorix rời đi, cô quá đau đớn chỉ còn sức nhìn mông lung lên hoa văn trên trần nhà trong khi cố không khóc. Cô đổ mồ hôi và run lẩy bẩy, như thể đang lên cơn sốt. Cô không thể tập trng vào một thứ trong vài giây. Cơn đau không hề thuyên giảm như khi cô bị cắt hay bị thâm tím; ngược lại, cơn đau tỉ lệ thuận với thời gian.

Cô nhắm mắt và tập trung thở chậm lại cho bình tĩnh.

Lần đầu tiên Galbatorix và Murtagh tới, cô rất dũng cảm. Cô chửi bới họ và làm tất cả những gì có thể để khiến họ tổn thương. Nhưng, sau những màn tra tấn của Murtagh và Galbatorix, cô đã dần dần hết hứng phản kháng ra ngoài. Sắt nóng làm cô sợ hãi; dù những ký ức về nó thôi cũng đủ khiến cô muốn cuộn tròn lại thành một quả bóng nhỏ. Trong lần thăm thứ hai gần đây nhất, cô đã nói ít nhất có thể.

Cô đã cố thử xem có thực sự Galbatorix và Murtagh không lừa cô. Cô đã hỏi họ về những công việc Triều chính, những điều gián điệp đã báo cáo cô trừ những điều Gabatorix không tin rằng cô biết. Tới giờ, Galbatorix và Murtagh vẫn nói thật, nhưng cô không tin bất cứ điều gì nhà vua nói khi cô không có bằng chứng lão nói thật.

Cô không chắc về Murtagh. Khi đi cùng nhà vua, cô không tin những gì hắn nói, nhưng khi hắn tới một mình…

Vài giờ sau cuộc gặp mặt đau đớn đầu tiên với Bạo chúa Galbatorix – khi cô đã ngủ lơ mơ một lúc lâu – Murtagh tới một mình, mắt mờ và hơi thở có mùi rượu. Hắn đứng trước khối đá cô nằm, và hắn nhìn chằm chằm cô với biệu hiện lạ lùng, khiến cô không chắc hắn định làm gì.

Cuối cùng, hắn quy người bước tới bức tường gần nhất và trượt ngồi xuống. Hắn ngồi đó, bó gối lên gần ngực, mái tóc dài nhờn bóng của hắn che gần hết khuôn mặt, máu chảy ra từ đốt ngón tay phải. Sau vài phút, hắn cho tay vào trong áo choàng nâu 0 hắn vẫn mặc nguyên bộ đồ cũ chỉ có điều không đeo mặt nạ – và lấy ra một chai đá nhỏ. Hắn uống vài ngụm rồi bắt đầu nói.

Hắn nói còn cô nghe. Cô không còn lựa chọn nhưng cô không cho phép mình tin lời hắn. Lúc đầu thì không. Theo như những gì cô biết, những gì hắn nói và làm đều nhằm chiếm lòng tin của cô.

Murtagh bắt đầu bằng việc kể cho cô nghe về một người đàn ông tên Tornac, về tai nạn và vài lời khuyên Tornac cho hắn về một người đàn ông nên sống như thế nào. Cô không thể biết Tornac là bạn, kẻ tôi bộc, người họ hàng xa hay kết hợp của mấy thứ đó. Nhưng dù ông ta là gì, rõ ràng ông ta rất quan trọng với Murtagh.

Khi hắn kể gần hết hắn nói, “Galbatorix định giết cô. Lão biết Elva không bảo vệ cô nhưng trước, vì thế hắn quyết định giờ là thời khắc hoàn hảo để ám sát cô. Tôi chỉ tình cơ biết được kế hoạch đó; tôi tình cờ ben cạnh lão khi lão ra lệnh cho Bàn tay đen.” Murtagh lắc đầu. “Đó là lỗi của tôi. Tôi thuyết phục lão đưa cô tới đây. Lão thích nó; lão biết cô sẽ khiến Eragon đâm đầu vào rọ nhanh hơn…Nhưng chỉ có cách đó tôi mới cứu được cô… Tôi xin lỗi…Tôi xin lỗi.” Và hắn vùi đầu vào cánh tay.

“Tôi thà chết còn hơn.”

“Tôi biết,” hắn nói bằng giọng khàn khàn. “Cô tha thứ cho tôi nhé?”

Cô không trả lời. Cô cảm thấy khó chịu. Vì sao hắn lại muốn cứu mạng cô, và hắn muốn cô làm gì cho hắn?

Murtagh không nói gì thêm. Sau đó, hắn kể cô nghe về lần hắn bị diễu tới trước Galbatorix, về việc lão đã không tin và ghen tị thế nào khi gặp con trai của Morzan, về những tên quý tộc muốn dùng hắn để chiếm được sự sủng ái của nhà vua, và niềm khao khát người mẹ hắn hầu như không nhớ mặt. Hai lần hắn nhắc tới Eragon và chửi cậu ta vì được định mệnh ưu ái. “Hắn sẽ không làm tốt nếu như chúng tôi đổi vị trí. Nhưng mẹ chúng tôi đã chọn hắn để đưa tới Carvahall, chứ không phải tôi.” Hắn vỗ lên sàn nhà.

Coo thấy toàn bộ màn diễn đều là tự khóc thương bản thân, là điểm yếu của hắn không có gì ngoài mong sự thương cảm từ cô cho tới khi hắn kể lại Cặp song sinh đã bắt hắn khỏi Farthen Dûr thế nào và chúng đã xử tệ với hắn thế nào trên đường tới Urû’baen, và Galbatorix đã tra tấn hắn thế nào. Hắn kể ra vài trò tra tấn còn tệ hơn của cô và, nếu thật sự có, khiến cô có chút thương cảm cho hắn.

“Tôi sống được là nhờ có Thorn…” Cuối cùng hắn thừa nhận. “Khi cu cậu nở ra vì tôi và chúng tôi kết nối….” hắn lắc đầu. “Tôi yêu nó. Sao lại không thể yêu nó chứ? Tôi yêu nó như Eragon yêu Saphira. Giây phút tôi chạm vào nó tôi đã lạc lối. Galbatorix dùng nó để chống lại tôi. Thorn mạnh hơn tôi. Nó chưa bao giờ từ bỏ. Nhưng tôi không thể trơ mắt nhìn nó chịu đau vì thế tôi đã thề trung thành với nhà vua, và sau đó…” Môi Murtagh cong lên vì kinh sợ. “Sau đó, Galbatorix đi vào trong tư tưởng tôi. Lão biết mọi thứ về tôi, sau đó hắn biết tên thật của tôi. Giờ tôi là của lão…Mãi mãi.”

Sau đó hắn dựa đầu vào tường, nhắm mắt và cô thấy nước mắt chảy ra từ khóe mắt hắn.

Sau dần hắn đứng lên, khi bước về cửa, hắn dừng lại cạnh cô và chạm vào vai cô. Cô để ý móng tay hắn sạch sẽ và hồng hào, nhưng không được chăm sóc kỹ lưỡng như gã cai ngục. Hắn nói gì đó bằng ngôn ngữ cổ và một lát sau, cơn đau của cô bay biến, dù vết thương vẫn như cũ.

Sau đó hắn rút tay thì cô nói. “Tôi không thể tha thứ…nhưng tôi hiểu.”

Nghe tới đó hắn gật đầu và đi mất, để lại cô phân vân không biết có phải mình đã tìm ra đồng minh mới không.

45. NHỮNG CUỘC NỔI LOẠN NHO NHỎ

Posted on Tháng Một 1, 2012

Khi Nasuada nằm trên phiến đá toát mồ hôi lạnh, mọi phần trên cơ thể đều nhức nhối, cô thấy mình đang ước Murtagh trở lại, chỉ như thế hắn mới có thể giải thoát cô khỏi cơn đau đớn cực độ về cả thể xác lẫn tinh thần.

Cuối cùng cánh cửa vào căn phòng bát giác cũng bật mở, cô không thể nào không thấy nhẹ nhõm; nhưng sự nhẹ nhõm biến thành thất vọng khi cô nghe có tiếng chân nặng nề của gã cai ngục bước xuống cầu thang dẫn vào căn phòng.

Người đàn ông vai hẹp, chắc nịch dùng khăn ướt lau người cho cô và sau đó dùng gạc băng vết thương lại. Khi gã thả cùm cho cô để cô đi nhà nhỏ, cô thấy cô quá yếu không thể cầm nổi con dao trên khay. Thay vào đó, cô cảm ơn gã và lần thứ hai khen ngợi móng tay gã, lúc này còn sáng hơn trước và rõ ràng hắn muốn cô thấy, vì hắn cứ giơ tay ở chỗ cô dễ nhìn.

Sau khi gã cho cô ăn và rời đi, cô cố ngủ nhưng cơn đau khiến cô chỉ có thể ngủ gà gật.

Cô mở choàng mắt khi nghe có tiếng chốt cửa mở.

Đừng nữa chứ! Cô nghĩ và sợ hãi lớn lên trong cô. Đừng sớm thế chứ! Mình không chịu nổi…Mình đâu có đủ mạnh. Sau đó cô kiềm chế nỗi sợ và tự nhủ, Đừng. Đừng nói gì hoặc không cô sẽ tin chúng mất. Nhưng, dù cô vẫn làm chủ được hành vi nhưng không thể bắt trái tim không đậm loạn nhịp.

Hai tiếng bước chân vọng trong phòng và rồi Murtagh xuất hiện. Hắn không đeo mặt nạ. Trông hắn buồn rười rượi.

Lần này hắn trị thương cho cô luôn. Cô cảm thấy cơn đau qua ngay lập tức. Trong cả đời cô chưa bao giờ thấy thoải mái như khi vết thương khô da.

Cô thở hổn hển và nói. “Cám ơn.”

Murtagh gật đầu; sau đó hắn tới bức tường và ngồi như tư thế cũ.

Cô nhìn hắn một phút. Da trên đốt ngón tay đã lành, hắn có vẻ buồn nếu không thì là lầm lì không nói. QUần áo hắn từng rất đẹp nhưng giờ rách tả tơi, bạc màu, vá chằng đụp và cô còn thấy vài vết rách trên tay áo. Cô không biết có phải hắn vừa đánh nhau không.

“Galbatorix biết anh ở đây không?” cuối cùng cô hỏi.

“Có thể, nhưng tôi nghĩ là không. Lão bận chơi với mấy thê thiếp. Hoặc thế hoặc là ngủ rồi. Giờ cũng là nửa đêm rồi mà. Hơn nữa tôi đã ếm bùa không cho ai nghe lỏm. Hắn có thể phá vỡ lời chú nhưng tôi sẽ biết.”

“Nếu  hắn biế thì sao?”

Murtagh nhún vai.

“hắn sẽ biết nếu vượt qua lưới phòng hộ tư tưởng.”

“Vậy đừng để hắn làm được. Anh mạnh mẽ hơn; hắn không thể dùng ai mà đe dọa anh. Anh có thể chống lại hắn, không giống như tôi. Quân Varden sẽ sớm tới cùng với thần tiên từ phía bắc. Nếu anh chịu đựng thêm vài ngày nữa, có lẽ chúng ta sẽ có cách…giải thoát cho anh.”

“anh không tin họ làm được, đúng không?”

Hắn lại nhún vai.

“…Vậy giúp tôi thoát đi.”

HẮn cười khó khăn. “Thế nào? Tôi không thể đi giày nếu như Galbatorix không đồng ý cơ.”

“anh có thể nới còng cho tôi, và khi anh đi, anh có thể quên đóng cửa.”

Môi trên hắn cong lên khinh bỉ. “Có hai người gác ngoài, có kết giới bảo vệ căn phòng này để giúp Galbatorix biết nếu tù nhân bước chân ra ngoài, cùng hàng trăm tên lính gác giữa đây và cổng gần nhất. May ra thì cô đi được đến hết hành lang.”

“Có thể, nhưng tôi muốn thử.”

“Cô sẽ giết chết mình.”

“Giúp tôi đi. Nếu anh muốn, anh có thể tìm ra cách thoát khỏi kết giới.”

“Tôi không thể. Lời thề không cho tôi dùng pháp thuật chống lại lão.”

“Còn tụi lính? Anh có thể giữ chân chúng để tôi tới cánh cổng, sau đó náu trong thành phố. Nếu Galbatorix có biết cũng không sao…”

“Thành phố là của lão. Ngoài ra, dù cô đi đâu, hắn đều có thể dùng bùa chú tìm ra cô. Cách duy nhất giữ cô an toàn là đi xa nhất trước khi hắn biết, mà dù trên lưng rồng cô cũng không thoát được.”

“Phải có cách!”

“Nếu có…” hắn cười chua chát và nhìn xuống. “cũng vô hiệu cả thôi.”

Cô thất vọng nhìn lên trần nhà trong một chốc. Sau đó, “Ít nhất hãy tháo còng cho tôi.”

Hắn thở ra vì bực.

“Để tôi đứng lên cái,” cô nói. “Tôi ghét nằm trên phiến đá này, nó làm mắt tôi đau vì liếc xuống nhìn anh.”

Hắn lưỡng lự, rồi đứng dậy, tới bên bàn đá, bắt đầu tháo dây trói quanh cổ tay và cổ chân cô. “Đừng nghĩ rằng cô có thể giết tôi,” hắn trầm giọng nói. “Cô không thể đâu.”

Ngay khi được cô được tự do, hắn lùi về vị trí cũ và ngồi trên sàn, nhìn về xa xăm. Cô nghĩ chắc hắn đang định cho cô chút riêng tư. Cô chuyển động khó khan – người đau như cháy ở nhiều chỗ – và cô không tài nào giấu nổi mình vì cô lấy gì mà che thân chứ.

Nền nhà bằng đá hoa cương man mát dưới gót chân chô khi cô tiến tới ngồi cạnh hắn. Cô ôm tay quanh mình để bảo tồn sự e lệ của mình.

“Tornac có phải là người bạn duy nhất của anh không?” cô hỏi.

Murtagh không nhìn cô. “Không, nhưng ông ấy như cha tôi vậy. Ông ấy dạy dỗ tôi, an ủi tôi… mắng mỏ tôi khi tôi quá cứng đầu, và giúp tôi không làm chuyện ngu ngốc. Nếu ông ấy còn sống, ông ấy sẽ đánh tôi vì tội uống như rồ như dại mấy ngày nay.”

“Anh nói ông ấy chết khi anh trốn khỏi Urû’baen?”

Hắn khụt khịt mũi. “Tôi nghĩ rằng mình thông minh. Tôi đút lót cho một tên lính canh để hắn mở cửa cho tôi. Chúng tôi định chuồn khỏi thành phố trong đêm, và Galbatorix sẽ chỉ biết khi quá muộn. Nhưng hắn biết ngay từ đầu. Tôi không biết làm sao hắn biết nhưng tôi đoán hắn theo dõi tôi ngay từ đầu. Khi Tornac và tôi đi qua cổng, chúng tôi thấy lính đợi chúng tôi ở bên kia…Họ được lệnh áp giải chúng tôi về an toàn, nhưng chúng tôi đánh trả, và một trong số họ đã giết chết Tornac. Người kiếm sĩ giỏi nhất Triều đình đã ngã xuống vì một con dao đâm sau lưng.”

“Nhưng Galbatorix đã để anh trốn.”

“Toi không nghĩ hắn tính tới chuyện chúng tôi đánh trả. Hơn nữa, hắn đang hướng tới mục tiêu khác trong đêm đó.”

Cô nhiusmayf khi nhìn thấy một nụ cười quái gở nhất trên khuôn mặt Murtagh.

“Tôi đoán là ngày,” hắn nói. “Ra’zac ở Thung lũng Palancar, tìm kiếm trứng Saphira. Cô biết đó, hôm đó Eragon mất cha nuôi của mình cùng lúc tôi mất cha tôi. Định mệnh thật trêu ngươi, đúng không?”

“Ừ…Nhưng nếu Galbatorix có thể theo dõi anh, vì sao sau đó hắn không tìm anh và mang ạnh về Urû’baen?”

“Tôi đoán hắn chơi đùa với tôi. Tôi đã ở trong một trang viên một người bạn tôi tin tưởng. Nhưng tôi biết mình đã lầm khi Cặp song sinh mang tôi trở lại đây. Galbatorix biết tôi ở đó, và hắn biết tôi vẫn còn tức giận vì cái chết của Tornac, vì thế hắn dự định để tôi ở trang viên đó trong khi hắn tìm Eragon và Brom…Nhưng tôi đã khiến hắn ngạc nhiên. Tôi bỏ đi, và khi hắn biết tôi biến mát, tôi đã trên đường tới Dras-Leona. Thế nên Galbatorix cũng tới đó. Hắn tới không phải để trừng trị Lãnh chúa Tábor – dù tất nhiên hắn vẫn làm điều đó – mà là để tìm tôi. Nhưng hắn tới quá muộn. Lúc hắn tới thành phố tôi đa gặp Eragon và Saphira, và chúng tôi đã lên đường tới Gil’ead.”

“Vì sao anh bỏ đi?” cô hỏi.

“Eragon không nói với cô sao? Vì…”

“Không, không phải rời Dras-Leona. Vì sao anh rời trang ấp? Ở đó anh an toàn, hoặc anh nghĩ anh an toàn. Vì sao anh bỏ đi?”

Murtagh yên lặng một lúc. “Tôi muốn đánh trả Galbatorix và tôi muốn xa rời cái bóng của cha tôi. Cả đời tôi, mọi người nhìn tôi theo cách khác chỉ vì tôi là con trai Morzan. Tôi muốn họ tôn trọng chính bản thân tôi, không phải ông ấy.” Cuối cùng hắn nhìn cô, liếc nhanh thì đúng hơn. “Tôi đoán tôi đã có cái mình muốn, nhưng một lần nữa, định mệnh lại trêu tôi.”

Cô phân vân không biết anh còn quan tâm tới ai sống trong Triều đình không, nhưng cô quyết định không nói tới đề tài nguy hiểm này. Vì thế, cô hỏi. “Galbatorix biết bao nhiêu về Varden?”

“Mọi thứ. Lão có nhiều mật thám hơn cô tưởng.”

Cô ấn tay vào bụng vì dạ dày co thắt. “Anh biết cách giết chết lão ta không?”

“Một con dao. Một thanh kiếm. Một mũi tên. Thuốc độc. Pháp thuật. Những cách thông thường. Vấn đề là, hắn dùng rất nhiều bùa chú bảo vệ bản thân nên không ai hay cái gì làm hại tới lão được. Eragon là người may mắn nhất; Galbatorix không muốn giết chết nó, vì thế cậu ta có hơn một cơ hội tấn công lão. Và nếu Eragon có tấn công lão cả trăm lần, nó cũng không thể tìm ra cách vượt qua lá chắn bảo vệ của lão đâu.”

“Tất cả các câu đố đều có lời giải, và mọi người đều có điểm yếu,” Nasuada tiếp tục. “Lão ta có đặc biệt yêu thích một thê thiếp nào không?”

Cái nhìn trên gương mặt Murtagh đã cho cô câu trả  lời. Sau đó hắn nói, “Liệu Galbatorix tiếp tục làm vua có thực sự tai hại không? Thế giới lão nhắm tới là một thế giới tốt đẹp. Nếu hắn đánh bại Varden, toàn bộ Alagaësia cuối cùng cũng được yên bình. Hắn sẽ chấm dứt việc dùng pháp thuật sai  mục đích; thần tiên, người lùn, và loài người sẽ không có lý gì để ghét nhau. Hơn nữa, nếu Varden thua, Eragon và tôi có thể trở thành anh em như chúng tôi đáng ra phải thế. Nhưng nếu Varden thắng, tôi và Thorn sẽ đi đời. Chuyện phải thế thôi.”

“Ồ? Thế còn tôi?” cô hỏi. “Nếu Galbatorix thắng, vậy tôi sẽ trở thành nô lệ nghe theo sai bảo của lão ư? Murtagh không trả lời, nhưng cô thấy tay hắn nắm chặt lại. “Anh không thể bỏ cuộc, Murtagh.”

“Tôi làm gì được lựa chọn!” hắn hét vang.

Cô đứng lên và nhìn chằm chằm hắn. “Anh có thể chiến đấu! Nhìn tôi này…Nhìn tôi đi!”

Hắn không chịu ngước lên.

“Anh có thể tìm cách chống lại lão. Anh có thể làm được! Nếu lời thế của anh chỉ cần cho anh cơ hội phản kháng nhỏ nhất, anh vẫn phải làm.” Cô dùng câu hỏi của hắn để phản pháo. “Anh còn lựa chọn nào ư? Anh có thể sống cả đời như một kẻ không có hy vọng đáng thương. Anh có thể để Galbatorix biến anh thành một con quái vật. Hoặc anh chiến đấu!” Cô mở rộng cánh tay để hắn thấy hết các vết bỏng trên người cô. “Anh thích làm tôi đau không?”

“Không!” hắn hét.

“Vậy chiến đấu đi chứ, đồ hèn nhát! Anh có thể chiến đấu hoặc mất tất cả mọi thứ. Kể cả Thorn.”

Cô đứng nguyên vị trí khi hắn đứng lên, uyển chuyển như một con mèo tiến tới chỗ cô cho tới khi chỉ cách cô vài cm. Cơ hàm hắn gồng lên khi gầm gừ với cô, hơi thở nặng nề bốc ra từ mũi hắn. Cô nhận ra kiểu biểu hiện này vì cô đã nhìn thấy nhiều lần rồi. Đây là tư thế của một người đàn ông mà lòng tự trọng bị tổn thương và muốn đánh người vừa chửi rủa anh ta. Giờ tiếp tục chọc tực hắn rất nguy hiểm nhưng cô biết cô phải lmaf, vì có thể cô sẽ không bao giờ có cơ hội này một lần nào nữa.

“Nếu tôi tiếp tục chiến đấu,” cô nói, “thì anh cũng có thể.”

“Trở về phiến đá,” hắn giận dữ nói.

“Tôi biết anh không phải một thằng hèn, Murtagh. Thà chết còn hơn sống phục vụ một kẻ như Galbatorix. Ít nhất anh còn giữ lại được vài tính cách cao đẹp của mình, và tên anh sẽ được nhớ cùng với sự nhân hậu của anh kể cả khi anh đã chết.”

“Về lại tảng đá,” hắn gầm lên, nắm lấy tay cô và kéo cô về bàn đá.

Cô để hắn kéo cô về tảng đá màu tro, trói chân tay cô lại, rồi buộc dây quanh đầu. Khi hắn làm xong, hắn đứng nhìn cô, ánh mắt tối đen và hoang dại, những đường nét cơ thể căng như dây đàn.

“Anh phải quyết định xem có muốn liều mạng cứu mình không,” cô nói. “Cả anh và Thorn. Và giờ anh phải quyết định khi vẫn còn kịp. Hỏi bản thân: Tornac muốn anh thế nào đi.”

Murtagh không trả lời và dang cánh tay phải đặt lên ngực cô, bàn tay hắn nóng hổi. Cô ngừng thở vì sự đụng chạm này.

Sau đó, không hơn một tiếng thì thầm là bao, hắn bắt đầu nói bằng ngôn ngữ cổ. Khi những từ ngữ xa lạ tuôn ra từ miệng hắn, nỗi sợ của cô lớn hơn bao giờ hết.

Hắn nói vài phút. Cô không cảm thấy có gì khác biệt khi hắn dừng lại.

Không khí mát lạnh lướt trên ngực cô kh Murtagh nhấc tay ra. Hắn lùi lại và bắt đầu đi vượt qua cô, về cánh cửa. Cô định gọi hắn – để hỏi hắn vừa làm gì – thì hắn dừng lại và nói, “Cái này sẽ giúp cô không phải chịu những vết thương nặng nhất, nhưng dù gì cô vẫn phải giả bộ đau, không Galbatorix sẽ biết được tôi vừa làm gì.”

Sau đó hắn đi.

“cám ơn,” cô thì thầm nói trong căn phòng trống.

Cô dành một lúc lâu ngẫm nghĩ về cuộc trò chuyện giữa họ. Hình như Galbatorix không cử Murtagh tới nói chuyện với cô. Nhưng cũng có thể lắm chứ. Cô không hiểu thực sự Murtagh là người tốt hay kẻ xấu. Cô nghĩ tới vua Hrothgar –  đối với cô ông như một  người bác – và Murtagh đã giết ông như thế nào tại Cánh Đồng Cháy. Sau đó cô nghĩ tới tuổi thơ của Murtagh và những khó khăn trong đời hắn, và hắn đã để Eragon và Saphira đi thế nào khi hắn dễ dàng bắt họ tới Urû’baen.

Nhưng dù Murtagh có từng là người đáng tin tưởng thì giờ sự nô lệ đã khiến con người hắn khác đi.

Cuối cùng, cô quyết dịnh sẽ mặc kệ quá khứ của Murtagh và đánh giá hắn qua những việc hắn làm ở hiện tại. Dù tốt, xấu hay vừa tốt vừa xấu thì hắn cũng là một quân đồng minh có tiềm năng, và cô cần có sự giúp đỡ của hắn. Nếu hắn không giúp, cô cũng chẳng mất gì.Nếu hắn giúp, cô có thể trốn khỏi Urû’baen, vậy cũng đánh để thử chứ.

Không  còn đau nên cô ngủ một giấc dài và sâu lần đầu tiên từ hổi bị bắt tới thủ đô.Cô tỉnh dậy với tinh thần phấn chấn hơn trước, và một lần nữa nghiên cứu những đường vẽ trên trần nhà. Đường kẻ xanh mỏng khiến cô để ý đến một hình màu trắng nhỏ ở góc gạch. Cô mất một lúc mới nhìn ra chỗ đó mất một góc.

Cô thấy vui vui vì cuối cùng hóa ra căn phòng hoàn hảo của Galbatorix lại không hề hoàn hảo.

Khi cánh cửa vào căn phòng mở ra, cai ngục của cô mang tới cô một bữa ăn trưa. Cô hỏi hắn xem mình có được ăn trước không, sau khi gã cho cô ngồi dâyh, vì cô nói cô rất đói, dù thực tế không hoàn toàn vậy

Gã đồng ý  dù không nói lời nào mà chỉ mỉm cười và ngồi xuống cạnh phiến đá. Khi hắn bón cháo cho cô, cô nghĩ mọi kế hoạch cho mọi tình huống xảy ra, vì cô biết cô chỉ có một cơ hội thành công.

Vì đề phòng nên cô khó lòng chén hết đĩa thức ăn. Nhưng cô cũng chén hết khẩu phần, uống nước để sẵn sàng.

Như thường lệ, gã đặt khay thức ăn xuống bức tường phía xa, gần chỗ Murtagh hay ngồi và có lẽ cách 10 foot từ cánh cửa tới phòng nhỏ.

Khi đã thoát khỏi cùm xích, cô nhảy khỏi phiến đá. Gã đầu quả bầu vươn tay tóm lấy tay trái của cô, nhưng cô giơ tay lên, và bằng giọng ngọt ngào nhất, cô nói, “Tôi tự mình đứng được, cám ơn.”

Gã lưỡng lự, rồi mỉm cười và chặc lưỡi hai lần như thể nói, “Vậy thì, tôi mừng cho cô!”

Sau đó họ cùng tới nhà nhỏ, cô đi trước còn gã đi sau. Khi cô bước được bước thứ ba, cô cố tình xoay cổ chân phải và ngã. Gã hét lên và cố đỡ cô – cô cảm thấy những ngón tay to bè của lão gần cổ cô – nhưng gã quá chậm, và cô tránh được cú chộp của gã.

Cô ngã đúng vào cái khay, làm vỡ bình nước – trong đó còn một chút rượu – và làm cái bát gỗ rơi lạch cạch xuống sàn nhà. Cô cố tình hạ tay xuống dưới thân, và ngay khi sờ thấy cái khay, cô bắt đầu dùng những ngón tay tìm cái thìa sắt.

“A!” cô hét lên như bị đau, rồi quay lên nhìn gã đàn ông, cố giả bộ khó chịu. “Có lẽ tôi chưa sẵn sàng,” cô nói và cười hối lỗi với hắn. Ngón cái của cô chạm thấy cái thìa và cô nắm lấy nó ngay khi gã kéo cô đứng thẳng dậy.

Hắn nhìn cô và nhăn mũi, như thể kinh tởm cái mùi rượu trên người cô. Trong lúc đó, cô cho tay ra sau, nhét cái thìa vào cái lỗ thủng trên viền quần áo. Sau đó, cô giơ tay, ra bộ ta không cầm cái gì.

Hắn làu bàu, nắm lây tay kia của cô rồi dẫn cô tới nhà nhỏ. Khi cô bước vào, hắn chạy về chỗ cái khay, lầm bầm gì đó.

Khi cô đóng cửa, cô lôi cái thìa ra và đặt nó lên môi, trong khi nhổ vài sợi tóc dài nhất ở sau gáy. Cô dùng tay trái vò đuôi tóc và rồi bện lại thành một đoạn dây. Cô lạnh người vì đoạn tóc ngắn quá. Cô vội vã kết đuôi tóc lại đặt xuống sàn nhà.

Cô giật mọt nắm tóc  nữa và bện thành cuộn thứ hai, buộc lại như cuộn thứ nhất.

CÔ biết mình chỉ còn vài giây, cô quỳ một chân xuống và buộc hai đoạn tóc vào với nhau. Sau đó, cô lấy cái thìa và buộc vài chân trái, đúng chỗ mép áo che đi.

Cô phải buộc vào chân trái vì Galbatorix luôn ngồi bên phải cô.

Cô đứng dậy và kiểm tra xem có giấu được cái thìa không, sau đó đi vài bước xem nó có rơi ra không.

Không.

Cô an tâm cho mình thở ra. GIờ cái khó của cô là về phiến đá mà gã cai ngục không biết chuyện cô vừa làm.

Gã đã đợi cô khi cô bước ra khỏi nhà nhỏ. Hắn nhìn cô, lông mày giao nhau thành một đường kẻ.

“Thìa,” hắn nói, đánh vần như thể từ ngữ là một miếng củ cải nấu quá lửa.

Cô nâng cừm chỉ vào rìa phòng nhỏ.

Hắn nhíu mày tợn. Hắn vào phòng và cẩn thận kiểm tra những bức tường, sàn nhà, trần nhà, và tất cả những thứ khác trước khi đi ra. Hắn tặc lưỡi và gãi đầu, có vẻ không vui và cô nghĩ, đau vì cô ném cái thìa đi. Cô từng rất tử tế với gã, và cô biết hành động này làm hắn bối rối và tức giận.

Cô cố không lùi lại khi gã bước tới, đặt đôi tay to tướng lên đầu cô và dùng những ngón tay vuốt tóc cô. Khi hắn không tìm ra cái thìa, mặt gã ủ rũ. Hắn nắm tay cô dắt tới phiến đá và cùm cô lại.

Sau đó, hắn sưng sỉa cầm cái khay lên đi ra khỏi phòng.

Cô đợi tới khi chắc chắn hắn đã đi xa mới vươn ngón tay ra từng chút từng chút một.

Một nụ cười tỏa trên mặt cô khi cô cảm nhận được muỗng thìa ở đầu ngón trỏ.

Giờ cô đã có vũ khí.

46. VƯƠNG MIỆN BĂNG TUYẾT

Posted on Tháng Một 5, 2012

Khi tia sáng yếu ớt đầu tiên chiếu xuống mặt biển gợn sóng, chiếu sáng những con sóng không màu lấp lánh như làm từ pha lê, Eragon bừng tỉnh khỏi giấc mộng và nhìn về phía tây bắc, tò mò xem ánh sáng sẽ cho thấy hình dạng đám mây gì ở đằng xa.

Nó không thích thú gì với cảnh trước mắt: những đám mây giăng tới một nửa chân trời, đám mây trông như một cột khói trắng cao bằng những đỉnh núi rặng Beor, quá cao khiến SAphira không thể bay vượt qua. Phần trời sang duy nhất đã nằm sau cô nàng, và giờ nó cũng đang bị cơn bão đang tới nuốt dần.

CHúng ta phải bay qua nó, Glaedr nói và Eragon cảm thấy sự lo lắng của Saphira.

Vì sao không bay qua? Cô nàng hỏi.

Eragon cảm nhận được Glaedr đang thông qua Saphira kiểm tra cấu trúc những đám mây. Cuối cùng rồng vàng nói, Ta không muốn con bay quá xa. CHúng ta còn một đoạn đường dài, và nếu con không đủ sức…

Vậy thì người cho con mượn sức.

Hừm. Kể cả vậy thì con cũng nên cẩn trọng. Ta đã thấy những cơn bão tương tự rồi. Nó lớn hơn con tưởng nhiều. Nếu con muốn bay vòng, con sẽ phải bay rất xa về phía tây vượt qua Vroengard, và con sẽ mất một ngày để quay lại đảo.

Khoảng cách tới Vroengard đâu xa lắm, cô nàng nói.

Không, nhưng gió sẽ làm giảm tốc độ của chúng ta. Hơn nữa, bản năng mách bảo ta rằng cơn bão sẽ bao quanh hòn đảo. Kiểu gì thì kiểu chúng ta cũng phải bay qua. Nhưng tất nhiên chúng ta không cần phải bay vào tâm bão. Con có thấy khía hình chữ V giữa hai cột mây nhỏ đằng tây không?

Có ạ.

Bay tới đó, có lẽ từ đó chúng ta sẽ tìm ra đường bay an toàn.

Eragon nắm chặt phần trước yên khi SAphira hạ vai trái và bay về hướng tây, nhằm vào khía hình chữ V Glaedr chỉ. Nó ngáp và xoa mắt khi cô nàng bay lên cao; sau đó nó quay lại cầm một quả táo và vài miếng bò khô ở túi treo đằng sau lung. Đây là một bữa sáng xoàng xĩnh, nhưng nó không đói lắm và nếu ăn nhiều trong khi ngồi trên lưng Saphira sẽ khiến nó buồn nôn.

Trong khi nắm, nó nhìn qua những đám mây xuống mặt biển lấp lánh. Nó không thích thú cảm giác xung quanh chỉ là biển và đất liền gần nhất, theo như ước tính của n ó, còn cách độ 50 hải lý. Nó rùng mình khi tưởng tượng mình chết chìm trong làn nước sâu lạnh lẽo của biển cả. Nó tự hỏi ở đáy biển có gì, và nó bỗng nghĩ dùng phép thuật nó sẽ khám phá ra ngay, dù thật sự nó cũng chẳng định làm thế. Vực thẳm nước sâu đó quá tối và quá nguy hiểm. Nó cảm thấy nó không muốn dành cuộc đời chu du nơi đó. Tốt hơn hết nên để biển cho những sinh vật kỳ lạ vốn đã sống ở đó.

Ban sáng qua đi, những đám mây rõ ràng là xa hơn lúc đầu, và như Glaedr nói, cơn bão lớn hơn Eragon và Saphira tưởng tượng.

Một cơn gió ngược nhè nhẹ thổi qua, và Saphira bay có hơi vất vả hơn chút, nhưng cô nàng vẫn bay được.

Họ vẫn bay ở rìa cơn bão. Saphira khiến Eragon và Glaedr ngạc nhiên vì lặn nông trên mặt nước và bay sát rạt mặt biển.

Khi cô nàng lao xuống, Glaedr nói, Saphira, con định làm gì đó?

Con đang tò mò, cô nàng trả lời. Và con muốn cho đôi cánh nghỉ ngơi trước khi tiến vào những đám mây.

Cô nàng lướt trên những cánh sóng, hình ảnh phản chiếu và bóng đen của cô nàng đối xứng như hai người bạn ma đồng hành, một sáng một tối. Sau đó, cô nàng chao cánh và với ba cú đập cánh nhanh, cô nàng giảm tốc độ và hạ cánh xuống mặt nước. Những giọt nước bắt lên hai bên khổ khi ngực cô nàng đập xuống nước, té hàng trăm giọt nước lên người Eragon.

Nước lạnh nhưng sau một lúc, không khí trở nên ấm áp dễ chịu – thật ra là quá ấm khiến Eragon bỏ áo khoác và găng tay.

Saphira cụp cánh và lướt nhẹ nhàng trên biển. Eragon để ý có vài đám rong biển màu nâu ở bên phải. Loài cây này trông như một bụi râm với những bong bóng cơ trái sơ ri ở đốt thân.

Cao trên đầu họ, gần với độ cao Saphira vừa bay, Eragon thấy chim hải âu cánh điểm đen đang bay ra khỏi cơn bão. Nó càng buồn bực hơn; những con chim biển nhắc nó nhớ hồi nó thấy một đàn sói chạy theo một đàn nai ra khỏi đám cháy rừng ở rặng Spine.

Nếu chúng ta thông minh, nó nói với Saphira, thì chúng ta nên quay lại.

Nếu chúng ta thông minh, chúng ta nên rời Alagaësia và không bao giờ quay lại, cô nàng hưởng  ứng.

Cô nàng chúi đầu xuống làn nước, sau đó lắc đầu và thè lưỡi ra vào lần, như thể nếm phải cái gì đó không ngon lành.

Sau đó Eragon cảm thấy Glaedr hoảng loạn, và ông rồng già gầm lên: Bay lên! Ngay lập tức! Bay lên!

Saphira không hỏi lại. Cô nàng mở cánh và bắt đầu đập cánh rẽ sóng bay lên.

Eragon nhoài người nắm lấy yên cương để không ngã ngửa ra sau. Saphira đã tạo ra một màn sương mù che phủ tầm nhìn của nó, và nó phải dùng tư tưởng để tìm kiếm thứ khiến Glaedr hoảng sợ.

Từ sâu bên dưới, vươn lên với tốc độ Eragon khó lòng tin nổi là một cái gì đó lạnh và lớn…và đói khát. Nó cố khiến sinh vật kia hoảng sợ, bắt nó tránh xa nhưng sinh vật đó không thèm để ý. Từ trong vùng ý thức tối tăm lạ lẫm của sinh vật đó, Eragon thoáng thấy kí ức không biết bao nhiêu nằm lang thang một mình trong đại dương tăm tối, đi săn và bị săn.

Eragon cũng hoảng, nó nắm lấy chuôi kiếm Brisingr khi Saphira bay lên khỏi mặt nước. Saphira! Nhanh lên! Nó hét trong câm lặng.

Cô nàng từ từ  lấy được tốc độ và độc ao, sau đó, một cuộn nước trắng bay lên bên dưới cô nàng và Eragon thấy những hàm răng xám xịt sáng bóng trong đó. Cái hàm đó lớn đủ nuốt trọn một con ngựa và kị sĩ với hàng trăm những cái răng trắng sắc nhọn.

Saphira ý thức được cái nó vừa thấy, và cô nàng xoay người để tránh cú đớt. Một giây sau, Eragon nghe thấy tiếng cái hàm đó đóng lại.

Nững chiếc răng sắc như đầu mũi kim chỉ cách đuôi Saphira có vài cm.

Khi con quái vật rơi xuống nước, phần còn lại của cơ thể nó hiện ra rõ ràng hơn: cái đầu dài hình chữ nhật. Cái mào xương xẩu  ở giữa hai mắt và trên cái mào đó là cái xúc tu dài 6feet. Cái cổ sinh vật khiến nó liên tưởng tới một con rắn khổng lồ đang trườn. Lớp da nó rất mịn và nhiều thớ thịt khá dày. Hai cái vây dạng mái chèo của nó nằm hai bên ngực, giương lên trong không khí.

Một giây sau, sinh vật phóng lên còn cao hơn lúc trước.

Chỉ trước khi nước phủ lên hình dạng con quái vật, Eragon đã nhìn vào trong con mắt trông như giọt nhựa đường của nó. Trong mắt nó ánh lên sự ác ý – cơn hận thù và giận dữ và thất vọng – đủ khiến Eragon lạnh người và ước gì nó đang ở giữa Sa mạc Hadarac. Chỉ có ở đó nó mới cảm thấy an toàn khỏi sự khát máu có từ lâu của sinh vật này.

Tim đập thình thịch. Eragon thả tay nắm Brisingr và nắm lấy yên. “Con gì vậy?”

Nïdhwal, Glaedr trả lời.

Eragon nhíu mày. Nó không nhớ có đọc về thứ này hồi ở Ellesméra. Nïdhwal là con gì?

Loài này rất hiếm và ít khi được nói tới. CHúng sống ở biển trong khi Fanghur sống trên trời. Cả hai loại này đều có họ hàng với loài rồng. Dù chúng và chúng ta khác biệt về vẻ ngoài và kích thước, nhưng Nïdhwal gần gũi với chúng ta hơn Fanghur. CHúng thông minh, và trong ngực chúng có thứ tương tự với Eldunarí. Ta tin thứ đó sẽ giúp chúng sống được quãng thời gian dài dưới độ sâu kinh khủng.

CHúng thở ra lửa được không?

Không, nhưng giống với Fangur, chúng thường sử dụng khả năng tư tưởng để tóm con mồi, và nhiều con rồng đã biến thành mồi vì khả năng này của chúng.

Chúng ăn cả đồng loại của mình! Saphira nói.

Đối với chúng, chúng ta chẳng là gì,Glaedr đáp. Nhưng chúng cũng ăn cả đồng loại, chính vì thế còn lại rất ít Nïdhwalar. Chúng không thích có có kẻ xâm nhập lãnh thổ của mình và không xa rời lãnh thổ. CHính vì vậy chúng ta khó gặp một con gần bờ. TỪng có lúc phải bay từ đất liền vài ngày mới thấy chúng, ở nơi sâu nhất. Có vẻ chúng hoặc là liều mạng hơn hoặc liều lĩnh hơn từ hồi Kỷ nguyên của các Kỵ sĩ rồng kết thúc,

Eragon lại rùng mình khi nhớ tới trí óc của Nïdhwal. Vì sao cả người và sư phụ Oromis đều không nói cho con biết về thứ này?

CHúng ta không dạy con nhiều điều, Eragon. CHúng ta chỉ có từng đó thời gian, và tốt nhất nên dạy con cách chiến đấu với Galbatorix hơn là tất cả những sinh vật bí ẩn ở Alagaësia.

Vậy có còn những thứ khác giống Nïdhwal mà chúng c on không biết không?

Một vài thứ.

Người sẽ dạy cho bọn con chứ, Ebrithil? Saphira hỏi.

Ta sẽ. Đợi vài tuần nữa, nếu chúng ta còn sống và tự do, ta sẽ rất vui được dành mười năm tiếp theo dạy dỗ các con về những loài ta biết, bao gồm cả những loài bọ cánh cứng, mà số lượng loài lên tới vô số. Nhưng cho tới lúc đó, hãy tập trung vào nhiệm vụ trước mắt. Đồng ý không?

Eragon và Saphira miễn cưỡng đồng ý và họ không nói gì nữa.

Cơn gió chướng mạnh lên thành một trận cuồng phong khi họ bay tới trước cơn bão. Saphira phải bay chậm lại bằng nửa tốc độ bình thường. Thi thoảng, những cơn gió mạnh làm cô nàng đảo cánh và thi thoảng làm cô nàng đứng yên mất một lúc. Họ luôn biết lúc nào gió sẽ quất tới, vì họ có thể thấy những những hình thu như vảy sáng bạc lao vào phía họ trên mặt nước.

Từ lúc hoàng hôn buông xuống, những đám mây càng lúc càng lớn hơn. Khi họ tơi gần chúng trông thậm chí còn kinh khủng hơn. Chúng tối đen đặc ở phần dưới với những trận mưa bão giăng giăng trên biển như những đoạn dây thừng rối rắm. Lên trên, đám mây mang mày trắng đục, trong khi phần đỉnh có màu trắng trong và trông cứng như những viên đá lát ở Tronjheim. Ở phía bắc, giữa tâm bão, những đám mây hình thành một hình cái đe bẹt đầu che phủ toàn bộ, như thể các vị thần đang muốn tạo nên một loại nhạc cụ kỳ lạ và kinh khủng.

Khi Saphira bay quay hai cuộn mây trắng – so với chúng cô nàng chẳng to hơn môt hạt bụi là mấy – và biển biến mất dưới màn mây trắng xốp, cơn gió chướng yếu đi và không khí trở nên động, đẩy họ đi theo hướng nào không biết. Eragon nghiến răng, bụng dạ nó nôn nao khi Saphira hạ độ cao xuống khoảng 2 mét rồi ngay lập tức bay lên 6m.

Glaedr nói, Ngoài lần gặp bão ở giữa Thung lũng Palancar và Yazuac, con đã từng gặp bão lần nào nữa không?”

Không, Saphira trả lời, ngắn gọn và cáu bẳn.

Glaedr dường như đoán trước được câu trả lời, vì thế ông ngay lập tức hướng dẫn cô nàng cách bay qua những đám mây. Nhìn theo những đường chuyển động và hiểu về chúng, ông nói. Nhờ chúng, con có thể đoán được gió thổi mạnh nhất ở đâu và hướng gió thế nào.

Hầu hết những gì Glaedr nói cô nàng đều đã biết, nhưng nhờ giọng nói đều đều của ông rồng già, Eragon và Saphira thấy bình tĩnh hơn. Nếu họ cảm nhận sự hoảng sợ trong trí óc của ông rồng, họ sẽ nghi ngờ bản thân mình, và có lẽ Glaedr ý thức được điều đó.

Những đám mây tản mát chắn ngang đường bay của Saphira. Thay vì bay vòng qua, cô nàng lao thẳng vào đám mây như một mũi lao xanh lấp lánh. Khi làn sương mù xám xịt bao phủ lấy họ, tiếng gió rít ngưng bặt, và Eragon nhíu mắt và giơ tay trước mắt để bảo vệ tầm nhìn.

Khi họ bay ra khỏi đám mây, hàng triệu những hạt nước nhỏ tí xíu bám lên thân mình Saphira. Trông cô nàng lấp lánh như kim cương được dát lên những chiếc vẩy vốn đã sáng lấp lánh.

Hành trình  bay tiếp tục không bình yên tẹo nào; một lúc trước cô nàng vừa cất cánh bay lên thì một lúc sau, những cơn gió thổi át cô nàng sang một bên, hoặc giả một dòng không khí đi lên từ đâu nâng một bên cánh cô nàng lên và đẩy cô nàng bay theo hướng ngược lại. Chỉ ngồi trên lưng cô nàng trong lúc cô nàng đang chiến đấu tới mệt mỏi mới biết cô nàng đâu còn lựa chọn nào khác ngoài tiến lên.

Sau một hai tiếng họ không thấy điểm tận cùng của cơn bão. Cuối cùng, Glaedr nói, Chúng ta phải quay lại. Con phải bay vòng từ phía tây lại cho an toàn, và nếu chúng ta tiếp tục đi vào cơn bão, không sớm thì muộn con cũng kiệt sức.

Không nói một lời, Saphira chao cánh về phía bắc tới những đám mây sáng đựng đứng nằm giữa con bão lớn. Khi họ tới gần đám mây – đó là thứ lớn nhất Eragon đã từng thấy, thậm chí còn lớn hơn cả Farthen Dûr—những tia sáng xanh lóe lên, những ánh sét chớp giật phát ra từ đỉnh đám mây bão.

Một lát sau, một tiếng sâm nổ vang dội bầu trời. Eragon phải lấy tay che tai. Nó biết lưới phòng vệ sẽ bảo vệ họ khỏi tia sét nhưng nó vẫn cảm thấy lông tóc dựng ngược khi ở gần những tia sét nổ đì đùng đó.

Dù Saphira có sợ thì nó cũng không cảm nhận được. GIờ nó chỉ thấy sự quyết tâm của cô nàng. Cô nàng vỗ cánh nhanh hơn, và vài phút sau họ xuyên qua đám mây tiến vào tâm bão.

Chung quanh họ là những màu sắc không rõ ràng, xám ngắt và không hình  khối.

Eragon cảm thấy phần còn lại của thế giới đã biến mất. Những đám mây khiến nó không nhìn thấy mũi, đuôi và cánh của Saphira. Họ bị mù hoàn toàn, và chỉ còn trọng lượng của họ khiến họ hết lên cao rồi xuống thấp.

Eragon mở đầu óc cho phép tư tưởng trải rộng, nhưng nó không cảm nhận thấy bất kỳ sinh vật sống nào ngoài Saphira và Glaedr dù chỉ là một con chim lạc. May làm sao là Saphira vẫn còn cảm nhận được phương hướng; nếu không, họ sẽ lạc mất. Nhờ dùng tư tưởng tìm kiếm các vật thể sống, dù là cây cối hay động vật, Eragon có thể chắc chắn chúng không đâm vào vách núi.

Nó cũng lầm rầm một câu thần chú mà Oromis dạy để cho nó và saphira biết chính xác họ gần mặt nước – hay mặt đất thế nào.

Từ lúc tiến vào đám mây giông, hơi nước làm ướt bộ quần áo len của cậu, khiến chúng trĩu nặng. Đó là chưa kể tới gió và hơi nước lạnh buốt khiến nó bực bội. Không chóng thì chầy nó cũng chẳng còn cảm thấy hơi ấm và tiêu đời. Vì thế nó đọc một câu thần chú khác, khiến những giọt mưa không rơi vào người nó – và chiểu theo nguyện vọng của cô em nó – cũng như xung quanh mắt Saphira, vì nước mưa rơi xuống mắt cô nàng, khiến cô nàng liên tục chớp mắt.

Gió tạt bên hông lại rất nhẹ nhàng. Eragon nói với Glaedr nhưng ông rồng già vẫn im lặng. CHúng ta chưa gặp tình huống tệ nhất thôi.

Lời nói của ông nhanh chóng thành sự thật khi một luồng gió bôc slene nâng Saphira bay bao hơn trăm mét, nơi không khí quá loãng khiến Eragon khó lòng hít thở và sương mù đóng băng thành vô số những hạt pha lê nhỏ xíu đâm vào mũi, vào má nó cũng như cánh Saphira như những lưỡi dao sắc như dao cạo.

Cô nàng khép cánh, lao về phía trước tránh luồng không khí bốc lên. Sau vài giây, áp suất bên dưới cô nàng biến mất, thay vào đó là luồng không khí đẩy xuống mạnh tương tự, khiến cô nàng hạ xuống mặt biển với tốc độ đáng sợ.

Khi họ rơi xuống, những viên pha lê băng tuyết tan chảy, hình thành những giọt mưa tròn tròn cỡ lớn trôi như không trọng lượng bên cạnh Saphira. CHớp lóe lên – màu xanh nhạt qua những đám mây – và Eragon hét lên đau đớn vì tiếng sấm nổ đùng quanh họ. Tai nó vẫn ong ong, nó xé lấy hai mảnh vải vụn rồi cuộn lại nhét vào tai sâu hết mức có thể.

Tới khi tới đáy đám mây, Saphira mới thoát khỏi luồng khí. Ngay lập tức, một luồng gió bốc lên thứ hai như một bàn tay khổng lồ, bốc cô nàng lên cao.

Sau một lúc lâu Eragon không còn nhận thức về thời gian. Những cơn gió giận dữ khiến Saphira không thể chống cự nổi và tiếp tục nâng lên hạ xuống như một mẩu tàu đắm nổi trong vòng nước xoáy. Cô nàng thoát nhưng lại gặp một luồng khí khác tóm lấy.

Eragon thấy mình, Saphira và Glaedr thật là nhỏ bé và vô dụng trước cơn  bão và họ sẽ không thể nào đương đầu với nguồn năng lượng trên trái đất này.

Gió hai lần suýt đẩy Saphira xuống nước. Trong lần thứ hai, Eragon nhìn qua vai Saphira và nó thoáng thấy Nïdhwal dưới mặt nước nổi sóng. Nhưng, khi tia chớp thứ hai lóe lên, con vật  biến mất, và nó phân vân liệu có phải bóng tôi đang đùa giỡn nó.

Sức lực của Saphira càng lúc càng giảm, cô nàng càng lúc càng không thể chống trọi cùng trận gió. Thay vào đó cô nàng mặc kệ nó đưa cô nàng tới đâu thì đến. Cô nàng chỉ nỗ lực chống lại cơn bão khi quá sát mặt nước. CÒn không, cô nàng chỉ giang cánh và giảm hoạt động hết mức có thể. Eragon cảm thấy lúc Glaedr tiếp sức cho cô em nó, nhưng kể cả vậy cũng không đủ.

Nhưng khi những tia chớp ít dần đi, Eragon lại cảm thấy tuyệt vọng. Gần cả ngày trời họ bị cơn bão quăng qua quật lại, và nó vẫn chưa có dấu hiệu tan hay Saphira sắp thoát khỏi cơn bão.

Mặt trời vừa lặn là Eragon đã không còn nhìn thấy mũi của mình và nó nhắm mắt hay mở mắt cũng chẳng có gì khác biệt. Như thể có một tấm chăn len dày bao lấy nó và Saphira, và quả thực, bóng tối có sức nặng riêng, đè lên chúng từ mọi phía.

Cứ vài giây  lại một ánh chớp lóe lên trong màn đêm, thi thoảng ẩn trong những đám mây, thỉnh thoảng xé ngang bầu trời, tỏa thứ ánh sáng bằng của mười hai mặt trời cộng lại, để lại trong không khí cái mùi ngai ngái của sắt. Sau vài ánh chớp, bầu trời còn tối hơn gấp đôi. Eragon và Saphira bị mù không chỉ vì ánh chớp mà còn bởi màn đen thăm thẳm sau đó. Dù các tia sét gần thế nào, chúng cũng không đánh trúng Saphira, nhưng những tiếng sâm đều đều vang lên khiến Saphira và Eragon phát bệnh.

Eragon không biết còn tiếp tục trong bao lâu nữa.

Sau đó, Saphira gặp một luồng gió bốc lên mạnh hơn trước. Ngay lập tức, Saphira phải vật lộn để thoatsm nhưng cơn gió quá mạnh, cô không thể giữ nổi cánh.

Cuối cùng, cô nàng thất vọng gầm lên và thở ra một ngọn lửa nhỏ, chiếu sáng những viên pha lên băng đá xung quanh. Chúng tỏa sáng như những viên đá quý.

Giúp với, cô nàng nói với Eragon và Glaedr. Con không thể tự mình thoát.

THế là cả hai cùng hòa tâm trí, cùng với sự hỗ trợ từ Glaedr, Eragon hét, “Gánga fram!”

Câu thần chú giúp Saphira vọt lên, nhưng với một tốc độ rất chậm, vì chuyển động chéo trong cơn gió giống như bơi qua sông Anora khi tuyết tan vào mùa xuân. Vì Saphira tiến lên theo hướng nằm ngang nên luồng không khí tiếp tục bốc cô nàng lên rất nhanh. Sau một lúc, Eragon bắt đầu hụt hơi và họ vẫn bị vây trong dòng không khí.

Chúng ta đã đi quá lâu và tốn quá nhiều năng lượng, Glaedr nói. Ngừng câu thần chú.

Nhưng…

Dừng câu thần chú. Chúng ta không thể thoát nếu cả hai con đều ngất. Chúng ta phải đi cưỡi trên những con gió tới khi nó yếu đi và SAPhira có thể thoát được.

Bằng cách nào? Cô nàng hỏi trong khi Eragon làm theo lời chỉ dẫn của Glaedr. Sự kiệt sực cùng cảm giác thất bại tràn ngập tư tưởng cô nàng khiến Eragon lo lắng.

Eragon, con phải tiếp tục câu thần chú giữa ấm chô con, ta và Saphira. Trời càng lúc càng lạnh, lạnh hơn cả mùa đông khắc nghiệt nhất trên rặng Spine, và nếu không dùng phép thuật, chúng ta sẽ đóng băng tới chết.

Kể cả người?

Ta sẽ vỡ như một mảnh thủy tinh nóng đặt trong tuyết. TIếp theo con phải đọc câu thần chú thu lấy không khí xung quanh con và Saphira để bọn con có thể thở. Nhưng hãy để khí cũ thoát ra, nếu không con sẽ chết ngạt. Câu thần chú rất phức tạp và con không được phạm lỗi, vậy hãy nghe cho kỹ. Nghe đây…

Khi Glaedr nói, Eragon nhắc lại cho ông nghe rồi đọc thần chú giúp giữ ấm.

Họ đợi, trong khi cơn gió nâng họ lên càng lúc càng cao. Vài phút trôi qua, Eragon bắt đầu tự hỏi họ có dừng lại không, hay tiếp tục quay cuồng trong cơn gió cho tới khi chạm tới mặt trăng và các vì sao.

Nó tự nhiên nghĩ vì sao lại có hiện tượng sao băng: có thể một con chim, một con rồng hoặc một sinh vật nào đó bay lên cùng với một cơn gió và bị ném văng qua bầu trời cùng tốc độ với họ trong lúc này, như một mũi tên lửa. Nếu quả thực như vậy, nó đoán, nó, Saphira và Glaedr sẽ là ngôi sao băng sáng nhất, đẹp nhất in đâm trong ký ức những người có dịp chứng kiến.

Tiếng gió rít dần dà nhẹ nhàng hơn. Cả cả những tiếng sấm đau đầu nhức óc cũng ngưng bặt. Khi Eragon bỏ nùi vải ra khỏi tai, nó ngạc nhiên vì sự tĩnh lặng xung quanh. Hó vẫn nghe thấy âm thanh rì rào bên dưới, như tiếng một con suối nhỏ chảy róc rách trong rừng, nhưng ngoài ra, tất cả đều tĩnh lặng.

Khi âm thanh giận dữ của cơn bão đã qua, nó để ý sự ảnh hưởng của câu thần chú cũng tăng – không phải từ câu thần chú giúp họ tránh lạnh mà từ câu thần chú thu  nén không khí trước nó và Saphira. Dù vì lý do gì, năng lượng cần để duy trì câu thần chú thứ hai nhiều hơn so với câu thứ nhất, và nó nhận ra những dấu hiệu chứng tỏ năng lượng sống của nó còn rất ít: tay nó lạnh, tim đập không đều và có lẽ tệ nhất là cảm giác buồn ngủ.

THế là Glaedr bắt đầu giúp nó. Eragon an tâm cảm nhận gánh nặng giảm dần khi sức mạnh của ông rồng tràn vào người nó, cơ thể nó nóng như sốt làm tan cơn buồn ngủ và giúp nó lấy lại cảm giác ở cơ bắp.

Thế là họ tiếp tục.

Cuối cùng sau một lúc lâu, Saphira phát hiện cơn gió yếu đi – ít thôi nhưng cũng đủ để nhận ra – và cô nàng chuẩn bị thoát ra khỏi luồng khí.

Trước đó, những đám mây trên họ mỏng đi, Eragon thoáng nhìn thấy những thứ lấp lánh: những ngôi sao trắng bạc sáng hơn nó từng thấy.

Nhìn kìa, nó nói. Sau đó các đám mây tan ra, Saphira vươn lên khỏi cơn bão giữ thăng bằng trên những cơn gió.

Eragon thấy toàn bộ cơn bão bên dưới họ, trải ra có thể tới hàng trăm dặm. Tâm bão giống một mái vòng hình nấm cong cong, trơn tru nhờ có những cơn gió mạnh thổi từ tây sang đông de dọa thổi bay SAPhira. Những đám mây dù gần hay xa đều mang màu trắng sữa và phát sáng như dạ quang. Một cảnh tượng đẹp và hiền hòa – những thứ yên tĩnh, bình yên thường ẩn chứa những thứ kinh khủng bên trong.

Sau đó Eragon để ý bầu trời. Nó nín thở vì trên đó có nhiều sao hơn  nó tưởng. Những ngôi sao màu đỏ, xanh, trắng, vàng nằm trên trời như những hạt bụi lấp lánh. Những tinh vân quen thuộc vẫn hiện hữu nhưng giờ chúng nằm lẫn với hàng ngàn ngôi sao mờ nhạt hơn mà nó lần đầu tiên nhìn thấy. Không chỉ sao sáng hơn mà bầu trời đằng sau cũng đen hơn. Cứ như thể những lần trong quá khứ nó nhìn lên bầu trời, nó bị một tấm màn che mắt.

Nó cứ nhìn cảnh tượng kỳ thú đó trong một lúc lâu, bị ấn tượng vì bản chất của những ngôi sao lấp lánh không tên. CHỉ khi hạ tầm nhìn xuống nó mới thấy có gì khác lạ về chân trời màu tím. Thay vì trời biển giao nhau tại đường thẳng – như thường thấy – nó lại thấy một đường cong, như nó nhìn thấy một phần của hình tròn lớn không thể tưởng tượng nổi.

Đó quả lại một cảnh tượng kỳ lạ khiến Eragon mất vài giây định hình xem nó thấy gì. Nó cảm thấy da ngứa ngáy và không thở nổi.

“Thế giới hình tròn,” nó thì thầm. “Bầu trời lõm vào và mặt đất hình tròn.”

“Có vẻ thế” Glaedr nói, nhưng có vẻ ông không ấn tượng mấy. Ta đã nghe những con rồng hoang dã kể nhưng ta không bao giờ nghĩ mình sẽ được tận mắt chứng kiến.

Ở phía đông, một màu vàng mờ nhạt chiếu sáng một góc chân trời, chào đón mặt trời quay lại. Eragon đoán nếu Saphira giữ nguyên vị trí trong bốn hay năm phút nữa, họ có thể thấy mặt trơi fmocj, dù có thể phải mất hàng giờ trước khi những tia nắng ấm áp, mang lại sự sống chạm tới mặt nước bên dưới.

Saphira giữ nguyên vị trí thêm một lúc, cả ba người họ kẹt giữa những ngôi sao và mặt đất, trôi nổi trong cảnh chạng vạng tĩnh lặng như những bóng ma vô định. Họ chẳng ở thiên đường hay nhân gian – mà ở giữa nơi phân cách hai thế giới đó.

Sau cùng Saphira lao về phía trước, nửa bay nửa lượn về hướng nam, vì không khí quá mỏng khiến cánh cô nàng không thể đỡ hoàn toàn trọng lượng khi cô nàng thoát khỏi luồng khí bốc lên.

Khi cô nàng lượn xuống, Eragon nói, Nếu chúng ta có đủ đá quý, và nếu chúng ta dự trữ đủ năng lượng trong đó, em nghĩ chúng ta có thể bay tới mặt trăng không?

Ai biết có thể không? Glaedr nói.

Khi Eragon là một đứa bé, Carvahall và thung lũng Palancar là tất cả những gì nó biết. Nó nghe tới Triều đình, nhưng nó chưa bao giờ sống động tới khi nó bắt đầu chu du trong đó. Sau nay, trong tâm trí nó hình ảnh về thế giới bao gồm phần còn lại của Alagaësia và những mảnh đất nó từng được đọc. Và giờ nó nhận ra rằng những cái nó nghĩ là lớn thực sự lại chỉ là một mảnh nhỏ của một tổng thể vĩ đại  hơn. Như thể tầm nhìn của nó vừa được mở rộng, từ tầm nhìn của một con kiến thành một con đại bàng.

Ví dụ như bầu trời khum khum còn trái đất hình tròn.

Nó phải đánh giá và sắp xếp lại… mọi thứ. Trận chiến giữa Varden và Triều đình dường như chẳng là gì nếu so sánh với kích cỡ của toàn bộ thế giới, và nó nghĩ những nỗi đau đớn và lo lặng hàng ngày thật vụn vặt khi nhìn xuống từ trên cao.

Nó nói với Saphira, Nếu mọi người chỉ cần nhìn thấy những gì chúng ta đang chứng kiến, có lẽ thế giới sẽ bớt chiến tranh hơn.

Anh đưng mong sói hóa cừu non.

Không, nhưng sói sẽ không phải tàn độc với cừu.

Saphira nhanh chóng hạ xuống đám mây tối đen, nhưng cô nàng xoay xỏa tránh rơi vào một vòng không khí nâng lên hạ xuống. Thay vào đó, cô nàng lướt trên những cơn gió thổi tạt xuống trong cơn bão, dựa vào chúng để tránh mất sức.

Một hai giờ sau, sương mù tan. Họ bay khỏi những đám mây khổng lồ hình thành tâm bão. Họ hạ xuống lướt trên những đám mây mỏng mềm như một tấm chăn, che phủ mọi thứ trừ chính đám mây đó.

Khi mặt trời xuất hiện ở cuối chân trơi, cả Eragon và Saphira đều không còn sức ngắm cảnh sắc xung quanh. Với chúng thứ gì chẳng giống nhau.

Rồi Glaedr cất tiếng, Saphira, bên phải con đó. THấy không?

Eragon ngửng đầu nheo mắt để mắt điều tiết với ánh sáng.

Cách đó vài dặm về hướng bắc là một vòng cung những dãy núi vút lên khỏi những đám mây. NHững đỉnh núi phủ băng tuyết, và chúng hình thành một vương miện lâu đời, tua tủa nằm trên màn sương. Sườn núi phía đông đón nắng sáng rực rỡ, sườn phía đông và bóng tôi xanh đậm phủ lên sườn phía đông và kéo dài tới khắp đồng bằng phủ tuyết trắng bên dưới.

Eragon vươn thẳng người, không dám tin cuộc hành trình đã tới lúc kết thúc.

Chiêm ngưỡng đi các con, Glaedr nói, Aras Thelduin, rặng núi lửa bảo vệ trung tâm Vroengard. Bay nhanh lên, Saphira, vì chúng ta chỉ còn một đoạn ngắn nữa thôi. 

47. GIÒI ĐẤT

Posted on Tháng Một 6, 2012

Chúng bắt được cô khi cô tới điểm giao nhau giữa hai hành lang giống hệt nhau, đều có những cột nhà, đuốc và những lá cờ hiệu nền đỏ tươi trên là ngọn lửa vàng đang bừng cháy – biểu tượng của Galbatorix.

Nasuada không mong trốn được, nhưng cô không thể nào không thất vọng vì thất bại. Cô chỉ mong chạy trốn được xa hơn.

Cô chiến đấu suốt đoạn đường tụi lính lôi cô về căn phòng giam giữ cô. Những người đàn ông mặc áo giáp ngực và đeo miếng bảo vệ cẳng tay, nhưng cô vẫn cào được vào mặt chúng và cắn tay chúng, làm hai gã bị thương khá nặng.

Những tên lính thốt lên thất vọng khi họ bước vào Căn phòng của Nhà tiên tri và thấy cô đã làm gì với gã cai ngục. Cẩn thận không dẵm vào vũng máu, chúng mang cô tới bàn đá, trói cô xuống và nhanh chóng bỏ đi, để lại cô một mình cùng xác chết.

Cô hét lên trong xà lim và giật cùm, tức giận vì không thể làm tốt hơn. Vẫn còn tức giận, cô nhìn xuống thi thể trên nền nhà, rồi nhanh chóng rời mắt đi. Dù chết nhưng gương mặt hắn vẫn hằn lên sự buộc tội khiến cô không tài nào chịu nổi.

Sau khi ăn cắp được cái thìa, cô đã dành hàng giờ để mài tay cầm vào bàn đá. Thìa được làm bằng sắt mềm, vì thế nó rất dễ định hình.

Cô đã nghĩ Galbatorix và Murtagh sẽ tới gặp cô, nhưng thay vào đó lại là gã coi ngục mang cho cô bữa ăn tối. Hắn bắt đầu tháo cùm để đưa cô vào nhà nhỏ. Ngay khi hắn tháo cùm bên tay trái, cô dùng phần tay cầm thìa sắc nhọn đâm vào họng hắn. Gã hét chói lói khiến cô nghĩ tới lợn bị chọc tiết, rồi quay người, đập cánh tay xuống ngã xuống sàn nhà, nằm đó ngấp ngoái một lúc lâu.

Cô không muốn giết gã. Cô không nghĩ gã là người xấu – cô không chắc gã  là cái gì – nhưng vì gã quá đần độn khiến cô có cảm giác mình lợi dụng gã. Nhưng cô phải làm điều cần thiết và dù cô không thích nhưng cô vẫn cho rằng hành động của mình là đúng.

Khi gã nằm bất động chết trên sàn nhà, cô tháo xích và nhảy khỏi bàn đá. Sau đó, cô lo lắng rút cái thìa ra khỏi cổ gã – giống như là vặn nút chai ra – khiến máu tuôn ra khắp chân cô, khiến cô nhảy lùi lại trong khi phun ra một tiếng chửi thề.

Hai gã lính gác ngoài Căn phòng của nhà Tiên tri rất dễ đối phó. Cô đã khiến chúng bất ngờ và giết chết tên bên phải cùng cách giết gã cai ngục. Sau đó, cô lôi con dao từ thắt lưng y và tấn công tên còn lại trong khi hắn cố đâm ngọn giáo về phía cô. Đánh gần thì giáo không thể có lợi bằng dao găm và cô đã giết chết hắn trước khi hắn kịp chạy trốn hay tri hô.

Nhưng cô không chạy được xa. DÙ vì câu thần chú của Galbatorix hay vì xui xẻo thì cô đã đụng một nhóm năm tên lính, và chúng nhanh chóng, nếu không nói là dễ dàng, tóm được cô.

Chỉ nửa tiếng sau cô nghe có tiếng chân người đi giày đế sắt đi về phía căn phòng. Sau đó Galbatorix xuất hiện cùng một vài tên lính gác.

Như thường lệ, hắn dừng lại chỉ đủ để cô liếc mắt nhìn thấy một bóng người cao, ẩn trong bóng đen với khuôn mặt vuông chữ điền. Cô thấy hắn quay đầu khi nhìn cảnh tượng trước mắt; sau đó, bằng giọng lạnh lùng, hắn nói. “Sao lại thế này?”

Một tên lính mũ trụ gắn lông chim chạy lên trước Galbatorix, quỳ xuống giơ cái thìa được mài sắc lên. “Bẩm bệ hạ, chúng thần tìm thấy cái này bên ngoài.”

Nhà vua cầm cái thìa lên và xoay nó trong tay. “Ta hiểu.” Hắn liếc nhìn cô. Hắn nắm lấy cái thìa và chẳng tốn sứ bẻ nó làm đôi. “Cô biết cô không thể trốn mà còn cố. Ta không thích cô giết những binh lính của ta để chọc giận ta. Cô không có quyền cướp đi mạng họ. Cô không có quyền làm bất cứ điều gì trừ phi ta cho phép.” Hắn ném hai mẩu kim loại xuống sàn. Sau đó hắn quay người và bước ra khỏi Căn phòng của nhà tiên tri, áo choàng nặng nề phấp phới sau lưng.

Hai tên lính lôi xác gã cai ngục đi, sau đó lau căn phòng và chửi rủa cô.

Khi họ đi và cô lại một mình, cô để cho mình thở dài và cô bớt căng cơ hơn.

Cô ước cô có cơ hội ăn uống, vì giờ khi sự phấn khích qua đi, cô quả thực rất đói. Tệ hơn, có lẽ cô phải đợi hàng giờ mới được ăn bữa tiếp, vì có vẻ Galbatorix không trừng phạt cô bằng cách bắt cô nhịn ăn.

Cô thèm bánh mì và thịt rán cùng một cốc rượu. Nhưng không bao lâu sau co nghe có tiếng g giày gõ bên ngoài xà lim. Cô giật mình, cố gắng chuẩn bị tinh thần cho bất cứ trường hợp xấu nào, vì chắc chắn nó sẽ xấu.

Cánh cửa mở ra và hai tiếng bước chân vọng trong căn phòng bát giác khi Murtagh và Galbatorix tiến vào. Murtagh đứng tại vị trí cũ nhưng không mang theo lò than. Hắn khoanh tay dựa vào tường và nhìn chằm chặp vào sàn nhà. Cái cô nhìn thấy qua cái mặt nạ bạc không an ủi cô; đường nét khuôn mặt hắn có vẻ cứng hơn, và hắn lẩm nhẩm cái gì đó khiến cô lạnh tới tận xương.

Thay vì ngồi như thường lệ, Galbatorix đứng đằng sau đầu cô, khiến cô cảm nhận được sự hiện diện của hắn rõ ràng hơn bao giờ.

Lão xòe bàn tay dài như móng vuốt trước mặt cô. Lão cầm một chiếc hộp nhỏ trang trí một chiếc kèn cong có lẽ là những con chữ tượng hình của ngôn ngữ cổ. Những tiếng kèn kẹt nho nhỏ phát ra, nhẹ nhàng như tiếng chuột cào tường, nhưng không rõ ràng.

Lão dùng ngón tay cái đẩy khóa hộp lên. Sau đó lão cho tay vào lấy ra một con giòi lớn màu ngà. Sinh vật dài khoảng 6cm, và có cái mồm nhỏ xíu, kêu kèn kẹt thể hiện sự không thích thú gì thế giới này. Nó mập và có những nếp gấp trên thân trong như con sâu bướm, nhưng nếu nó có chân thì chúng cũng quá bé nên cô không nhìn thấy.

Sinh vật uốn éo để cố thoát ra khỏi những ngón tay của Galbatorix. Nhà vua nói. “Đây là con giòi đất. Trông nó có vẻ không giống. Chúng chỉ sống tại một vùng của Alagaësia và cô khó lòng bắt được nó. Lấy nó đi, như một biểu hiện sự kính trọng ta dành cho cô, Nasuada, con gái của Ajihad. Ta sẽ sử dụng nó trên người cô.” Giọng lão hạ thấp xuống, trở nên quyến rũ hơn. “Nhưng, ta sẽ không muốn đổi chỗ cho cô đâu.”

Tiếng kèn kẹt của con giòi đất to lên khi Galbatorix thả nó xuống cánh tay phải trần trụi của cô, ở ngay dưới khuỷu tay. Cô giật mình khi sinh vật ghê tởm rơi xuống; nó nặng hơn vẻ bề ngoài và nó bám lấy cô như thể bằng hàng trăm cái móc nho nhỏ.

Con giòi đất vặn vẹo thêm một lúc nữa; sau đó nó cuộn tròn lại và nhảy vài cm lên trên cánh tay cô.

Cô vặn người, mong khiến con giòi rơi xuống, nhưng nó vẫn tiếp tục nhảy.

Tiếp tục nhảy.

Rồi dần dà lên tới vai cô, những cái móc đâm vào da cô như quả gai. Cô liếc mắt thấy con giòi đất nâng cái đầu không mắt lên và nhắm vào mặt cô, như thể ngửi không khí. Cái mồm nhỏ xíu của nó mở ra, và cô thấy hàm trên sắc nhọn đằng sau môi trên và môi dưới.

Skree-skree? Con bọ nói. Skree-skra?

“Không phải ở đó,” Galbatorix nói bằng ngôn ngữ cổ.

Con bọ nghe thấy và tránh xa đầu cô khiến cô thấy nhẹ nhõm đôi chút. Sau đó nó nhảy ngược lại cánh tay cô.

Vài thứ khiến cô sợ. Những que sắt nóng làm cô sợ. Ý nghĩ Galbatorix sẽ bị vì Urû’baen làm cô sợ. Tất nhiên cô cũng sợ chết dù không nhiều vì cô sợ sẽ để lại những thứ chưa hoàn thành.

Nhưng, dù vì lý do gì, cảnh thượng vào cảm giác về con giòi này làm cô sợ hơn mọi thứ. Mọi cơ bắp trên người cô dường như nóng lên và nhột nhạt, và cô muốn chạy, cái mồm nhỏ xíu kia làm cô nhớ miệng một đứa nhỏ. Âm thanh của nó rất kinh khủng khơi dậy những sự  kinh sợ nguyên sơ trong con người cô.

Con giòi đất dừng lại ở khuỷu tay cô.

Skree-skree!

Sau đó, cơ thể mềm nhũn, béo múp của nó nhún lại, nhảy cao khoảng 4 5 inch lên không khí rồi chúi đầu xuống phần mềm ở khuỷu tay cô.

Khi nó chạm xuống, con bọ biến thành mười hai con rết xanh sáng nhỏ, bò lên tay cô trước khi mỗi con tìm một chỗ chui vào, luồn lách trong da thịt cô.

Cơn đau quá kinh khủng; cô vùng vẫy và hét lớn, nhưng không thể nào thoát nổi sự tra tấn. Nó như kéo dài mãi mãi. Que sắt nóng làm cô đau hơn nhưng cô thà để nó đốt cháy da thịt cô còn hơn, vì kim loại nóng là thứ cô có thể đoán trước. Nỗi sợ khi biết cơn đau của mình là do một sinh vật sống nhai thịt cô rất đặc biệt, và tệ hơn, sinh vật đó nằm trong cô.

Cuối cùng, cô đánh mất lòng tự trọng và kiểm soát. Cô hét cầu xin nữ thần Gokkukara thương xót và cô bắt đầu lập bập như một đứa bé, không thể nào kiểm soát từ ngữ thoát ra.

Đằng sau cô, cô nghe tiếng cười của Galbatorix, và việc lão hưởng thụ sự đau đớn của cô làm cô ghét lão hơn bao giờ hết.

Cô chớp mắt từ từ bình tĩnh lại.

Sau một lúc, cô nhận thấy Galbatorix và Murtagh đã đi. Cô không nhớ họ đi lúc nào; chắc lúc đó cô bất tỉnh.

Cô đỡ đau hơn những vẫn cảm thấy kinh sợ. Cô liếc nhìn cơ thể và ngước mắt lên, tim đập dồn dập. Da cô sưng lên và những đường máu tụ chạy theo những đường con bọ đào xới dưới da cô, và chúng đang đau nóng lên. Như thể cô vừa bị ai dùng roi quật vào người.

Cô phân vân liệu con bọ còn trong người mình không. Có thể nó đang nằm đâu đó để tiêu hóa thức ăn. Hoặc giả nó đang làm kén, như giòi hóa ruồi hoặc chuyển thành một dạng kinh khủng hơn. Hoặc, đây là khả năng kinh tởm nhất, chúng đẻ trứng trong người cô, và sẽ có càng nhiều con nở ra và chén sạch cô.

Cô rùng mình và khóc vì sợ hãi và thất vọng.

Cơn đau làm cô không giữ nổi bình tĩnh. Mắt cô mờ đi và cô thấy mình đang sụt sùi khóc. Cô thấy ghê tởm bản thân nhưng cô không dừng lại được, dù cố đến thế nào. Để quên đi, cô nói chuyện với bản thân – hầu hết toàn chuyện vô nghĩa – về bất cứ thứ gì giúp cô tập trung vào vấn đề khác. Nó thành công, nhưng chỉ một chút.

Cô biết Galbatorix không muốn giết cô, nhưng co sợ cơn giận sẽ khiến lão đi xa hơn dự định. Cô run rẩy, toàn bộ cơ thể nóng bừng như thể cô bị hàng trăm con ong đốt. Sức mạnh ý chí có thể giúp cô chống chọi trong một thời gian dài; dù cô quyết tâm thế nào thì nó cũng chỉ có một giới hạn mà thôi. Và cô sợ cô đã vượt qua giới hạn. Cái gì đó sâu kín bên trong cô dường như đang vỡ vụn, và cô không tin mình có thể phục hồi sau vết thương.

Cánh cửa lại bật mở.

Cô cố tập trung xem ai tới.

Đó là Murtagh.

HẮn nhìn cô, môi cong lên, thở phì phò, lông mày nhíu chặt. Lúc đầu cô nghĩ hắn giận nhưng sau đó cô nhận ra thực ra hắn đang lo lắng và sợ hãi tới chết. Sự quan tâm của hắn khiến cô ngạc nhiên. Cô biết hắn thích cô – nếu không sao hắn nhọc công thuyết phục Galbatorix để cô sống? – nhưng cô không nghĩ hắn lại quan tâm tới cô nhiều.

Cô cố an ủi hắn bằng một nụ cười. Nụ cười có vẻ méo mó nên Murtagh nghiến răng như thể cố trấn tĩnh.

“Đừng cử động,” hắn nói và nâng tay lên trước người cô và bắt đầu lẩm bẩm bằng ngôn ngữ cổ.

Làm như tôi cử động được ấy, cô nghĩ.

Phép thuật có hiệu quả và dần dần, cơn đau qua đi, nhưng không biến mất hoàn toàn.

Cô nhíu mày không hiểu thì hắn nói, “Tôi xin lỗi. Tôi không thể làm gì hơn. Galbatorix sẽ biết tôi làm mất.”

“Vậy còn…còn Eldunarí của anh. Chắc chắn họ giúp được.”

Hắn lắc đầu. “Chỉ toàn rồng trẻ khi cơ thể họ chết đi. Họ biết rất ít về phép thuật và Galbatorix hầu hết dạy cho họ biết kể từ khi… tôi xin lỗi.”

“NHững thứ đó còn trong tôi không?”

“Không! Không. Galbatorix đã bắt chúng ta hết khi cô ngất đi.”

Cô an tâm hơn. “Câu thần chú của anh không làm tôi ngớt đau.” Cô cố không nói giọng buộc tội, nhưng cô không thể giấu sự tực giận trong giọng nói.

Hắn nhăn nhó. “Tôi không chắc vì sao. Dù sinh vật đó là gì, nó cũng không phải loại sinh vật bình thường.”

“Anh biết nguồn gốc của nó không?”

“Không. Hôm nay tôi mới biết khi Galbatorix mang nó tới từ phòng riêng.”

Cô nhắm mắt.

“Thả tôi ra.”

“Cô có chă…”

“Thả tôi ra.”

Hắn im lặng tháo còng cho cô. Sau đó cô ngồi dậy trong khi chờ đợi cơn đau đầu giảm đi.

“Đây,” Murtagh nói, đưa cho cô một chiếc áo choàng. Cô quấn nó quanh người, che cơ thể và giữ ấm và để cô không những thấy những vết bỏng, vết sẹo và những đường thâm tím.

Con giòi đất đã chui tới tận chân cô. Cô đi khập khiễn tới góc phòng. Cô dựa người vào tường và từ từ ngồi xuống.

Murtagh ngồi cạnh cô và cả hai nhìn chăm chăm bức tường đối diện.

Cô bắt đầu khóc.

Một lúc sau, hắn vỗ vai cô và cô giật nảy người. Cô không chịu được. Hắn đã làm cô bị thương vài ngày trước và dù cô biết  hắn không muốn nhưng cô không thể quên chính hắn là người gí cây sắt nóng vào người cô.

Nhưng khi cô nhìn thấy phản ứng của hắn, cô vươn tay ra nắm lấy tay hắn. Hắn bóp nhè nhẹ những ngón tay cô, sau đó vòng tay quanh vai cô kéo coo lại gần. Cô phản kháng một lúc rồi cũng thư giãn trong vòng tay hắn và ngả đầu vào ngực hắn mà khóc. TIếng khóc vang vọng khắp phòng.

Vài phút sau, cô thấy hắn cử động và nói. “Tôi thề sẽ tìm cách thả cô ra. Đã quá muộn chô tôi và Thorn. Nhưng không phải cho cô. Miễn là cô không thề trung thành với Galbatorix, tôi sẽ có cơ hội đưa cô ra khỏi Urû’baen.”

Cô ngước mắt nhìn hắn và hiểu hắn thật lòng. “BẰng cách nào?” cô thì thào.

“Tôi không biết,” hắn thừa nhận cùng một nụ cười gượng gạo. “Nhưng tôi sẽ tìm ra cách. Dù thế nào tôi cũng tìm ra. Nhưng cô phải hứa với tôi sẽ không bỏ cuộc – cho tới khi tôi tìm ra cách chứ?”

“Tôi không nghĩ mình chịu nổi cái…vật đó thêm lần nữa. Nếu hắn cho nó vào người tôi, tôi sẽ cho hắn cái gì hắn muốn.”

“Cô sẽ không phải lam vậy; hắn không dịnh sử dụng lại con giòi đất.”

“…Vậy hắn định làm gì?”

Murtagh im lặng trong hơn một phút. “Hắn định làm méo mó những gì cô nhìn thấy, nghe thấy, cảm nhận thấy và nếm thấy. Nếu không thành công, hắn sẽ tấn công đầu óc cô. Cô không thể chống lại hắn. Không ai có thể. Nhưng tôi chắc rằng trước khi hắn ra tay, tôi sẽ cứu được cô. Tất cả những gì cô cần làm là tiếp tục chiến đấu. Chỉ vài ngày thôi.”

“Làm sao tôi chiến đấu nổi khi không tin nổi giác quan của mình?”

“Hắn không thể làm chủ một giác quan của cô.” Murtagh xoay người nhìn thẳng vào mắt cô. “Cô có thể cho tôi chạm tới tư tưởng không? Tôi sẽ không đọc suy nghĩ của cô. Tôi chỉ muốn cô biết đầu óc tôi cảm nhận cái gì, để cô có thể nhận ra – cô có thể nhận ra tôi – trong tương lai.”

Cô lưỡng lự. Cô biết đây sẽ là một bước ngoặt. Hoặc cô đồng ý tin hắn hoặc từ chối. Nếu từ chối có thể cô sẽ mất đi cơ hội cuối cùng tránh trở thành nô lệ cho Galbatorix. Nhưng cô vẫn cảnh giác với những người muốn tiếp cận đầu óc cô. Murtagh có thể lừa cô hạ thấp lưới phòng vệ để hắn dễ dàng bước vào tư tưởng của cô. Hoặc có thể hắn muốn tìm kiếm thông tin trong đó.

Sau cùng cô nghĩ, Vì sao Galbatorix lại sử dụng mánh này? BẢn thân lão tự làm cũng được. Murtagh nói đúng; mình không thể chống lại lão…Nếu mình đồng ý với Murtagh, mình toi, nhưng nếu mình từ chối, mình toi chắc. Dù cách nào Galbatorix cũng tấn công mình được. Chỉ là vấn đề thời gian thôi.

“Cứ làm gì anh muốn,” cô nói.

Murtagh gật đầu và hơi nhắm mắt.

Trong tư tưởng bình lặng, cô bắt đầu ngâm nga một đoạn thơ cô hay sử dụng để giấu những suy nghĩ và bảo vệ trí óc khỏi kẻ xâm nhập. Cô tập trung vào nó, quyết tâm phản kháng lại Murtagh nếu cần và cố không nghĩ về những bí mật cô muốn giấu.

Ở El-harim có một người đàn ông mắt vàng

Ông ấy nói với tôi, “Hãy cẩn trọng với những lời nói thầm, vì chúng thì thầm những điều dối trá.

Đừng vật lộn với những con quỷ trong bóng tối,

Nếu không chúng sẽ đóng dấu lên đầu óc con;

Đừng nghe lời bóng tối thẳm sâu

Không chúng sẽ săn lùng con khi con say giấc ngủ.”

Khi tư tưởng của Murtagh chạm vào cô, cô khụt khịt mũi và tiếp tục lẩm nhậm đoạn thơ với nhịp điệu nhanh hơn. Cô ngạc nhiên vì tư tưởng của hắn khá quen thuộc với cô. Sự tương tự giữa tư tưởng của hắn và – Không, cô không thể nói của ai, nhưng tương đồng đến đáng ngạc nhiên nhưng cũng có những điểm khác biệt. Khác nhất chính là sự giận dữ của hắn, nằm ở trong tâm tưởng hắn như một trái tim đen lạnh lẽo bị bóp chặt và nằm im với những mạch máu của sự thù hận vươn ra khắp phần còn lại của tư tưởng. Nhưng sự quan tâm của hắn dành cho cô che lấp cơn giận. Cô đã biết hắn muốn giải cứu cô là thực, vì con người khó mà giấu được nội tâm. Cô tin Murtagh không lừa cô.

Hắn giữ đúng lời tiến sâu vào trí óc cô, và sau vài giây, hắn rút ra và cô lại thấy tư tưởng mình một mình.

Murtagh mở mắt và hắn nói. “Xong rồi. Giờ cô có thể nhận ra tôi nếu tôi chạm vào tư tưởng cô không?”

Cô gật đầu.

“Tốt. Galbatorix có thể làm nhiều việc nhưng lão không thể lừa cảm giác của trí óc. Tôi sẽ cố cảnh báo cô trước khi lão bóp méo các giác quan của cô và tôi sẽ liên hệ với cô khi lão ngừng lại. Bằng cách đó, lão sẽ không thể khiến cô rối trí.”

“Cám ơn anh,” cô nói và không thể diễn đạt được sự biết ơn bằng vài câu chữ ngắn ngủi đó.

“May là chúng ta có thời gian. Varden mới hành quân được ba ngày và các thần tiên sẽ nhanh chóng tiến tới từ mạn bắc;. Galbatorix đã đi để quan sát hàng phòng ngực của Urû’baen và thảo luận binh pháp với Lãnh chúa Barst là người chỉ huy quân đội trong thành phố.”

Cô nhíu mày. Cái này báo trước điềm gở. Cô đã nghe tới Lãnh chúa Barst, hắn mang tai tiếng nhất trong những quý tộc của triều đình Galbatorix. Người ta nói hắn có đầu óc bệnh hoạn và bàn tay đẫm máu. Chỉ có ai ngu ngốc mới thích đối chọi với hắn. Những kẻ đó chỉ có chết.

“Không phải anh ư?” cô hỏi.

“Galbatorix có kế hoạch khác cho tôi nhưng lão chưa nói.”

“lão sẽ bận chuẩn bị trong bao lâu?”

“Hết ngày hôm nay và cả ngày mai.”

“Anh nghĩ có thể thả tự do cho tôi trước khi lão quay lại không?”

“Tôi không biết. Có lẽ là không.” Họ ngừng lại không nói gì. Sau đó hắn nói. “Giờ tôi có câu hỏi cho cô: vì sao cô lại giết những người đó? Cô biết cô không thể thoát cơ mà. Có phải cô chỉ muốn chọc giận Galbatorix thật?”

Cô thở dài và đẩy người khỏi lồng ngực Murtagh để ngồi thẳng dậy. Hắn lưỡng lữ rời tay khỏi vai cô. Cô sụt sịt sau đó nhìn thẳng vào mắt hắn. “Tôi không thể nằm đó chờ hắn làm gì tôi thì làm. Tôi phải chiến đấu; tôi phải cho hắn thấy hắn không bẻ gẫy nổi tôi và tôi muốn làm hắn tổn thương trong khả năng của mình.”

“Đó là chọc giận đó!”

“Đúng một phần thôi. Thế thì sao?” Cô nghĩ hắn sẽ tỏ ra kinh tởm hay ghét hành động của cô, nhưng ngược lại,, hắn nhìn cô vẻ tán thưởng và môi cong lên thành một nụ cười nhỏ vẻ hiểu biết.

“Cô làm tốt lắm,” hắn trả lời.

Sau một lúc cô cười lại với hắn.

“Hơn nữa,” cô nói. “nếu có cơ hôi là tôi sẽ trốn.”

Hắn nhăn mặt. “Lúc đó thì rồng cũng ăn cỏ.”

“Kể cả vậy tôi cũng thử.”

:Tôi hiểu. Nếu tôi có thể tôi cũng sẽ làm điều tương tự khi Cặp song sinh mang tôi tới đây.”

“Và giờ?”

“Tôi không thể, mà dù tôi có thể, tôi làm có mục đích gì?”

Cô không biết trả lời sao. Họ im lặng. Cuối cùng cô cất tiếng, “Murtafh, nếu không thể cứu tôi khỏi đây, tôi muốn anh hứa với tôi rằng anh sẽ giúp tôi thoát bằng…cách khác. Tôi sẽ không yêu cầu anh…tôi không muốn đặt gánh nặng lên vai anh, nhưng có anh thì chuyện sẽ đơn giản hơn, vì tôi không có cơ hội làm một mình.” Môi hắn mím càng lúc càng chặt khi cô nói, nhưng hắn không ngắt lời. “Dù có chuyện gì xảy ra, tôi cũng không muốn bản thân trở thành đồ chơi cho Galbatorix. Tôi sẽ làm bất cứ điều gì, bất cứ điều gì để tránh định mệnh đó. Anh hiểu không?”

Hắn gật đầu.

“Anh hứa với tôi nhé?”

Hắn nhìn xuống và  nắm chặt tay, hơi thở hỗn loạn. “Ừ.”

Murtagh là người ít nói nên dù cô có gợi chuyện nhưng họ cũng chỉ nói về vài vấn đề nhỏ nhặt. Murtagh nói với cô về việc hắn cải tiến chiếc yên cương Galbatorix đưa hắn như thế nào – Murtagh rất tự hào vì nó giúp hắn lên xuống nhanh hơn, chũng như rút kiếm dễ hơn. Cô nói hắn về đường phố mua sắm tại Aberon, thủ đô của Surda, và khi con bé, cô thường chạy trốn vú nuôi thế nào để tới chơi ở đó. Cô thích những lái buôn du mục. Tên ông ấy là Hadamanara-no Dachu Taganna nhưng hắn thích cô gọi ông thân mật bằng cái tên Taganna. Ông bán đao kiếm và ông thường rất thích đưa cô đi xem gian hàng của mình, dù cô chẳng bao giờ mua cái gì.

Khi cô và Murtagh tiếp tục nói chuyện, họ trò chuyện càng lúc càng thân mật và thoải mái hơn. Dù họ đang trong hoàn cảnh chẳng lấy gì làm hay ho nhưng cô thích nói chuyện với hắn. Hắn thông minh và có học thức. Cô thích cách châm chọc của hắn, đặc biệt trong hoàn cảnh của cô.

Murtagh dường như cũng thích nói chuyện với cô. Nhưng được một lúc họ nhận ra nếu tiếp tục nói chuyện sẽ làm ngu ngốc. Họ có thể bị bắt gặp. Vì thế cô quay lại bàn đá, nằm xuống và để hắn trói lại.

Khi hắn định đi, cô nói. “Murtagh.”

Hắn dừng lại nhìn cô.

Cô lưỡng lự một lúc rồi dùng hết can đảm mà nói. “Vì sao?” Cô nghĩ hắn hiểu cô muốn nói gì. Vì sao lại là cô? Vì sao lại cứu cô, và giờ vì sao lại cố giải thoát cho cô? Cô đã đoán ra câu trả lời nhưng cô vẫn muốn nghe hắn nói.

Hắn nhìn cô rất lâu, lâu nhất từ trước tới giờ rồi nói bằng giọng trầm, khó hăn. “Nàng biết vì sao mà.”

48. GIỮA ĐỐNG ĐỔ NÁT

Posted on Tháng Một 8, 2012

Những đám mây xám xịt dày tan đi. Từ trên lưng Saphira, Eragon chiêm ngưỡng đảo Vroengard.

Trước mắt họ là một thung lũng lòng chảo bao quanh bởi những dãy núi vòng cung cao vượt những đám mây. Trong khi rừng rộng lớn là những cây gỗ vân sam, thông, linh sam che phủ sườn núi cũng như chân núi. Trông chúng như một đội quân những chiến binh đầy gai hành quân từ đỉnh núi xuống. Những cái cây lớn và rậm rạp đến mức từ trên cao Eragon cũng thấy rêu và địa y bám lên những cành cây chắc nịch. Màn sương mù trắng phủ lên sường núi, và tại một vài chỗ trong thung lũng, mưa đang giăng giăng.

Trên mặt thung lũng là những tảng đá đủ loại: những tảng đá trước là lối vào những hang động; những đá phiên thuộc về những tòa tháp đã bị thiêu trụi; đá lát đại sảnh với mái đã sập xuống; và vài tòa nhà nhỏ hơn trông có vẻ vẫn ở được.

Hơn mười hai con sông chảy từ núi xuống và uốn lượn dọc mặt đất phủ cây lá xanh tươi tới khi đổ vào một hồ nước lớn yên ả gần trung tâm thung lũng. Xung quanh hồ là phần còn lại của thành phố của các Kỵ sĩ, Doru Araeba. Những tòa nhà khổng lồ – những căn phòng lớn tới mức có thể chứa toàn bộ dân làng Carvahall. Mỗi cánh cửa đều giống như lối vào một động lớn rộng mênh mông chưa người khám phá. Mỗi cánh cửa sổ đều cao và lớn như cổng lâu đài và mỗi bức tường đều phẳng và dựng đứng.

Những cây trường xuân ken dầy trên những phiến đá. Ở những nơi không có trường xuân thì có rêu phủ khiến những tòa nhà trông giống như mọc lên từ lòng đất. Những tảng đá có vẻ từng có màu vàng đất, dù được sơn màu đỏ, nâu, hay xanh dương.

Với kiến trúc đặc trưng của thần tiên, những ngôi nhà trông duyên dáng và thon dài hơn những tòa nhà của loài người và người lùn. Nhưng ở chúng có sự rắn chắc và quyền lực mà những căn nhà cây ở Ellesméra thiếu. Eragon thấy thấp thoáng bóng dáng những căn nhà ở Thung lũng Palancar. Nó nhớ tới những kỵ sĩ rồng loài người đầu tiên đã tới vùng đất này của Alagaësia. Nhờ có ông mà ở đây kiến trúng rất đặc trưng, không hoàn toàn theo kiểu thần tiên hay loài người.

Hầu hết các tòa nhà đã bị hư hại nhưng một số còn hỏng nghiêm trọng hơn. Sự tổn thất dường như tỏa ra từ một điểm nhỏ phía bắc thành phố, nơi có một hố sâu xuống lòng đất khoảng 6m. Những cây phong mục bật rễ và những chiếc lá úa của nó lay động trong gió.

Khu vực trông trong thành phố giờ là nơi sinh sống của tảo và cây bụi. Những mảnh kính vỡ rơi đầy trên những phiến đá lát đường.  Nơi những tòa nhà che chắn cho Vườn Thượng Uyển khỏi vụ nổ tàn phá thành phố, những bông qua màu xám xịt vẫn mọc theo kiểu trang trí nghệ thuaatj, hình dáng của chũng chắc chắn đã được định hình bằng những câu thần chú đã chìm vào quên lãng.

Tất cả các phần của thung lũng cùng nhau phô bày một bức tranh ảm đạm.

Hãy chứng kiến sự tan hoang của cái vốn là niềm tự hào và kiêu hãnh của chúng ta, Glaedr nói. Sau đó: Eragon, con phải đọc một câu thần chú khác. Như thế này này –  Và ông đọc vài dòng bằng ngôn ngữ cổ. Đó là một câu thần chú kỳ lạ; từ ngữ tối nghĩa và quên vào nhau. Bản thân Eragon chẳng hiểu nó dùng làm gì.

Khi nó hỏi Glaedr, ông rồng già nói, Ở quanh đây có thứ thuốc độc vô hình, trong không khí con đang hít thở, ở mặt đất con bước đi và thức ăn và nước uống. Câu thần chú sẽ bảo vệ chúng ta.

Độc…gì? Saphira hỏi, ý nghĩ của cô nàng chậm như những nhịp đập cánh.

Eragon thấy từ Glaedr hình ảnh hố sâu trong lòng thành phố và ông rồng nói, Trong trận chiến với THập tam phản đồ, một trong số chúng ta, một thần tiên có tên Thuviel đã dùng phép thuật để tự sát. Dù cố tình hay hữu ý thì con cũng thấy kết quả rồi đó. Vụ nổ đã khiến nơi này không còn ai có thể sống nổi. Những người còn lại nhanh chóng bị nhiễm trùng da và rụng tóc. Sau đó nhiều người đã chết.

Eragon lo lắng đọc thần chú – cần khá ít năng lượng – trước khi nói, Làm sao một người, kể cả có là thần tiên chăng nữa lại gây thiệt hại lớn thế này? Dù có sự giúp sức của con rồng đi nữa, con không nghĩ Thuviel có khả năng gây ra chuyện này, trừ khi con rồng của ông ấy phải to cỡ quả núi.

Con rồng không giúp, Glaedr nói. Con rồng đó đã chết. Không, tự Thuviel đã gây ra đó.

Nhưng bằng cách nào?

Cách duy nhất là biến toàn bộ da thịt thành năng lượng.

Ông ấy trở thành một linh  hồn ư?

Không, Năng lượng một khi không có tư tưởng và vật chứa đựng sẽ tỏa ra tới khi biến mất hết.

Con không biết một cơ thể lại chứa đựng nhiều năng lượng tới vậy.

Ít người biết, nhưng dù những vật nhỏ nhất cũng chứa một lượng năng lượng lớn. Vấn đề là thường năng lượng ở trạng thái đóng băng. Nếu con đốt nóng nó, con sẽ gây ra một cơn lũ ít người có thể chịu đựng nổi… Người ta nói là tận Teirm còn nghe thấy tiếng nổ và khói bụi bay cao bằng đỉnh núi Beor.

Đó là vụ nổ giết chết Glaerun phải không ạ? Eragon hỏi, nhớ tới một trong Thập tam phản đồ chết ở Vroengard.

Đúng. Galbatorix và những tên phản đồ còn lại đã có thời gian chuẩn bị và có thể bảo vệ bản thân. Nhưng rất nhiều đồng minh của chúng ta không có được may mắn đó và đã chết.

Khi Saphira chao cánh xuống dưới những đám mây, Glaedr hướng dẫn cô nàng cách bay tới phần tây bắc thung lũng. Glaedr đọc tên từng ngọn núi cô nàng bay qua: Ilthiaros, Fellsverd, and Nammenmast, cùng với Huildrim vàTírnadrim. Ông cũng đọc tên rất nhiều những toa fnhaf và những ngọn tháp đổ bên dưới, và ông đã dạy lịch sử cho Eragon và Saphira, dù chỉ Eragon chú ý tới lời giảng giải của ông rồng già.

Trong tâm tưởng Glaedr, Eragon cảm nhận được một nổi buồn từ lâu bị đánh thức. Nỗi buồn này không chỉ vì sự sụp đổ của Doru Araeba mà còn vì cái chết của cac Kỵ sĩ, loài rồng gần như tuyệt diệt và các giống loài đã mất đi hàng ngàn năm gom nhặt kiến thức và sự hiểu biết. Ký ức về những gì đã xảy ra – mà ông rồng từng có với những người khác – càng làm thêm sự độc bá của Glaedr. Cái đó cùng với nỗi buồn của ông rồng tạo nên một cảm giác phiền muộn khiến Eragon buồn theo.

Nó hơi rút lui khỏi tư tưởng Glaedr nhưng trông thung lung vẫn ảm đạm và thê lương như chính thung lũng đang khóc than cho ngày tàn của những Kỵ sĩ.

Saphira bay càng thấp thì các tòa nhà càng lớn. Khi kích cỡ thật của chúng lộ ra, Eragon nhận ra rằng những gì nó đọc trong Domia abr Wyrda không hề phóng đại: những đại lộ lớn khổng lồ. Saphira hoàn toàn có thể bay trong đó.

Gần thành phố bị lãng quên là những khúc xương trắng khổng  lồ ngổn ngang mặt đất: đó là bộ xương rồng. Cảnh tượng khiến nó khiếp sợ nhưng nó không thể rời mắt. Nó ấn tượng về kích thước. Vài con rồng nhỏ hơn Saphira nhưng hầu hết lớn hơn rất nhiều. Bộ xương to nhát nó nhìn thấy có khi phải dài 24m, rộng 4,5m. Chỉ riêng một cái bộ xương – bị phủ địa y trong như một tảng đá sần sùi – dài hơn và cao hơn cả người Saphira. Kể cả ông Glaedr cũng chỉ nhỏ xíu so với con rồng chết đó.

Đó là Belgabad, con rồng vĩ đại nhất, khi nhận ra sự chú ý của Eragon ông rồng già giải thích.

Eragon nhớ mang máng cái tên đó từ những cuốn sách lịch sự nó đọc hồi ở Ellesméra; tác giả chỉ viết là ông rồng đó đã xuất hiện và biến mất trong trận chiến, thế thôi.

Kỵ sĩ của ông ấy là ai? Nó hỏi.

Ông ấy không có kỵ sĩ. Ông ấy là một con rồng hoang dã. Ông ấy đã sống một mình trong hàng thế kỷ ở con sông băng ở phía bắc. Nhưng khi Galbatorix và Thập tam phản đồ giết loài chúng ta, ông ấy đã tới giúp sức.

Ông ấy là con rồng lớn nhất phải không ạ?

Lớn nhất á? Không. Chỉ tính tại thời điểm đó thôi.

Sao ông ấy tìm đủ thức ăn chứ?

Khi tới độ tuổi và kích thước đó, rồng thường dùng hầu hết thời gian ngủ đông, mơ mộng về những ngôi sao, những ngọn núi nâng lên hạ xuống trong hàng thiên niên kỷ hoặc thậm chí những thứ nhỏ bé như chuyển động của cánh bướm. Lúc này ta đã cảm thấy muốn mơ nhưng ta thức vì ta còn có việc cần làm.

Người…có…biết…Belgabad? Saphira hỏi, cố nói từng từ vì mệt nhọc.

Ta đã gặp ông ấy nhưng ta không biết ông ấy. Luật là, những con rồng hoang dã không đi cùng những con rồng được gắn kết với Kỵ sĩ. Họ coi thường chúng ta vì chúng ta bị thuần hóa và hay ỉ ôi kêu ca. Còn chúng ta coi thường họ vì họ bị bản năng lấn át quá nhiều, nhưng đôi khi chúng ta tôn trọng họ vì lý do tương tự. Nhưng, con phải nhớ, họ không nói ngôn ngữ của chúng ta. Chính vì thế chúng ta và họ khác biệt nhiều hơn con nghĩ. Ngôn ngữ giúp giải thích tư tưởng theo cách khó có thể giải thích được. Những con rồng hoang dã có thể giao tiếp hiệu quả như bất cứ người lùn hay thần tiên nào, nhưng họ không biết cách chia sẻ ký ức, hình ảnh, cảm xúc bằng từ ngữ. Họ cứng đầu không chịu học.

Glaedr ngừng lại rồi nói thêm, Nếu ta nhớ đúng, Belgabad là tổ tiên xa của Hắc long Raugmar và ta chắc con nhớ, Saphira, Raugmar là cụ cố của mẹ con, Vervada.

Saphira mệt mỏi nên rất chậm chạp trong phản ứng. Mãi lúc sau, cô nàng mới ngoái cổ lại nhìn cái bộ xương to tướng đó. Ông ấy phải là một thợ săn giỏi.

Ông ấy là người giỏi nhất, Glaedr nói.

Vậy…con mừng vì mang trong mình dòng máu của ông ấy.

Những khúc xương rải rác trên mặt đất làm Eragon ấn tượng. Tới lúc này nó mới hiểu hết quy mô trận chiến và số lượng rồng từng sinh sống trên mặt đất. Cảnh tượng làm nó thêm ghét Galbatorix, và một lần nữa nó thể sẽ giết nhà vua.

Saphira bay xuống một màn xương mù, những đám mây bay bay ở đầu cánh cô nàng trông như những xoáy nước nhỏ xíu trên trời. Sau đó một bải cỏ rậm rạp chạm vào và cô nàng hạ cánh nặng nề. Chân phải cô nàng chông xuống, cô nàng đổ sang một bên, ngã đập ngực và vai xuống với một lực đủ khiến Eragon, nếu không có lưới phòng vệ đã bị lưỡi giáo phía trước đâu thủng họng.

Sau đó cô nàng năm im bất động. Sau rốt, cô nàng từ từ co chân, gấp cánh, cuộn tròn lại.

Eragon thả dây quấn chân, nhảy xuống đất. Đất ướt và mềm. Nó khuỵu một bên gối xuống vì bốt lún sâu trong đất.

“Chúng ta tới rồi,” nó thích thú nói. Nó tới chỗ đầu Saphira. Khi cô nàng cúi đầu nhìn vào mắt nó, nó đặt tay lên đầu cô nàng và đặt trán lên mũi cô nàng.

Cám ơn em, nó nói.

Nó nghe có tiếng cụp khi cô nàng khép mi mắt lại, sau đó đầu cô nàng rung lên cùng tiếng rừ rừ sâu trong lòng ngực.

Sau một lúc, Eragon thả cô em nó ra và nhìn khung cảnh xung quanh. Cánh đồng Saphira vừa đáp xuống ở ngoại ô phía bắc thành phố. Những mảnh đá lát sàn vỡ – có mảnh to gần bằng Saphira – nằm rải rác trên cỏ. Eragon nhẹ nhõm vì cô nàng tránh được chúng.

Cánh đồng dốc lên, xa khỏi thành phố, tới một chân núi gần nhất phủ kín cây. Nơi cánh đồng và ngọn đồi gặp nhau là một khoảng đất trống được lát đá bừng khẳng. Phía bên kia khoảng đất trống là những cột đá lớn kéo dài nửa dặm về phía bắc. Chắc đây từng là tòa nhà lớn nhất và được trang trí kỳ công nhất.Eragon thấy những cột đá được trang trí cũng như những cây hoa và dây leo quấn quanh đầy nghệ thuật cùng với rất nhiều bức tượng nhưng hầu hết chúng đã mất mất vài phần, như thể chính chúng cũng tham gia trận chiến.

Đây là Đại Thư Viện, Glaedr nói. Hoặc là cái còn lại sau khi bị Galbatorix đập phá.

Eragon từ từ quay người quan sát khu vực xung quanh. Ở phía nam thư việc là một con đường mòn đã mờ dấu chân người mọc đầy cỏ dại. Con đường mòn dẫn từ thư viện tới một vườn táo bị khuất khỏi tầm nhìn. Sau những cây tạo là một tảng đá lớn vươn lên cao khoảng 60m, trên đó mọc lên vài cây bách xù.

Eragon mừng rỡ. Nó chắc chắn dù vẫn hỏi, Có phải nó không sư phụ? Có phải tảng đá Kuthian đây không?

Eragon có thể nhìn thấy Glaedr đang dùng mắt nó để nhìn, rồi ông rồng già nói, Ta thấy nó rất quen nhưng ta không thể nhớ ta đã từng  nhìn thấy nó khi nào…

Eragon không cần ông nói gì thêm. “Đi nào!” nó nói. Nó bước qua những cây cỏ cao tới thắt lưng tiến tới con đường mòn gần nhất.

Cỏ mọc không quá dày. Nó có thể cảm nhận những tảng đá cuội cứng dưới từng bước chân thay vì mắt đất ướt đẫm nước mưa. Với Saphira ở sát sau, nó nhanh chóng đi trên đường, và họ cùng nhau bước dưới bóng cây táo. Cả hai người đều cẩn trọng, vì những cái cây có vẻ nguy hiểm và đang quan sát chúng. Những cành cây quá lớn như thể chúng là những móng vuốt vậy.

Eragon không cố ý thở dài vì an tâm khi đi ra khỏi bóng cây.

Tảng đá Kuthian đứng sừng sững trước một vườn hoa hồng, cây kế, cây mâm xôi, và cây thủy độc cần. Đằng sau tảng đá là những cây gỗ vân sam kéo dài tới tận ngọn núi cao cao phía sau. Tiếng những con sống kêu vang trong khắp khu rừng. Nhưng họ chỉ nghe thấy tiếng chứ không hề nhìn thấy chúng.

Ba chiếc ghế đá – hình dạng của chúng nửa bị che dưới những rễ cây, dây leo và cây leo – nằm cách nhau một quãng dều đặn quanh khu đất trống. Ở một bên là những cây liễu từng là nơi cho các Kỵ sĩ ngồi dưới bóng cây mà ngắm cảnh. Nhưng đã qua hàng trăm năm và những cây đã quá lớn, cành lá ken quá dày. Không một con người, thần tiên hay người lùn có thể chui vào nổi.

Eragon dừng lại trước khoảng trốn nhìn Tảng đá Kuthian. Bên cạnh nó, Saphira nằm xuống làm rung chuyển mặt đất và khiến nó cúi chân để giữ thăng bằng. Nó vỗ vai cô em, rồi nhìn tòa tháp đá. Nó thấy lo lắng.

Eragon mở toang đầu óc tìm kiếm khu đất trống và những cái cây đằng sau xem có ai đang theo dõi chúng không. Nó chỉ cảm nhận thấy những cái cây, những con chuột chũi, chuột nhắt, côn trùng và những con rắn sọc trong những bụi rậm mà thôi.

Sau đó nó bắt đầu đọc câu thần chú cho phép nó biết có bất cứ bẫy pháp thuật nào xung quanh. Trước khi nó đọc được vài từ, Glaedr nói. Dừng lại. Con và Saphira đã quá mệt. Trước tiên hãy nghỉ ngơi; ngày mai chúng ta sẽ quay lại và tìm xem có gì không.

Nhưng…

Hai còn không thể tự bảo vệ mình nếu chúng ta buộc phải chiến đấu. Dù chúng ta cần tìm gì thì cứ để sáng mai đi.

Eragon lưỡng lự rồi buộc phải dừng câu thần chú. Nó biết Glaedr đúng, nhưng nó ghét phải chờ đợi trong khi nhiệm vụ sắp hoàn thành.

Tốt thôi, nó nói và trèo lên lưng Saphira.

Với một tiếng hốp, cô nàng đứng lên và từ từ quay người đi dưới bóng cây táo. Dưới bươc chân cô nàng, nhiều cây rụng ra, một trong số đó rơi vào lòng Eragon. Nó nhặt lá lên và định ném đi thì nhận ra lá có hình dạng kì lạ. Răng cưa nó dài hơn và rộng hơn những lá táo nó từng nhìn, những đường gân lá chạy theo đường bất kỳ chứ không theo hình mạng thông thường.

Nó nhặt thêm một chiếc lá nữa vẫn còn xanh. Giống như chiếc lá vừa rồi, chiếc lá xanh này có đường răng cưa lớn và mạch gân là lạ.

Từ sau trận chiến, mọi thứ đã không còn như nó vốn có, Glaedr nói.

Eragon nhíu mày và ném chiếc lá đi. Một lần nữa nó nghe thấy tiếng sóc kêu nhưng không nhìn thấy con nào dù tư tưởng nó cảm nhận được chúng.

Nếu anh có vảy, chắc anh dựng ngược vảy lên rồi, nó nói với Saphira.

Một cột khói nhỏ bay lên từ lỗ mũi cô nàng khi cô nàng khụt khịt vẻ thích thú.

Từ dưới tán vây, cô nàng đi về phía nam tới một dòng suối chảy xuống từ trên núi. Tới đó, Saphira quay mình và đi theo dòng suối tới một cánh đồng phía trước khi rừng xanh ngắt.

Đây, Saphira nói rồi nằm xuống.

Đây có vẻ là một nơi cắm trại tốt. Saphira không thể tìm kiếm hơn nên Eragon đồng ý và trèo xuống. Nó dừng lại để chiêm ngưỡng cảnh sắc nhìn từ thung lũng. Sau đó nó tháo yên và túi xách trên lưng Saphira xuống. Cô nàng lắc đầu, đảo vai và vặn cổ liếm chỗ ngực bị dây sít vào.

Sau cùng, cô nàng cuộn tròn trên cỏ, chuồi đầu dưới cánh và quấn đuôi quanh mình. Đừng đánh thức em trừ khi có cái gì đó định thịt chúng ta, cô nàng nói.

Eragon mỉm cười và vỗ đuôi cô nàng, sau đó nhìn thung lũng lần nữa. Nó đứng đó rất lâu, hầu như không suy nghĩ gì mà chỉ quang sát mà thôi.

Cuối cùng nó lấy túi ngủ ra nằm cạnh Saphira.

Người trông chừng cho chúng con nhé? Nó nhờ Glaedr.

Ừ, nghỉ ngơi đi và đừng lo nghĩ gì.

Eragon gật đầu dù Glaedr không nhìn thấy nó. Sau đó nó chui vào trong chăn và để mình lang thang trong những giấc mơ.

49. SNALGLÍ CHO HAI NGƯỜI

Chiều muộn Eragon mới mở mắt dậy. Tấm màn mây đã tan ở vài nơi, những tia sáng vang chiếu tỏ thung lũng, thắp sáng nóc vài tòa nhà hoang phế. Dù thung lũng vẫn còn lạnh lẽo, ẩm ướt và thiếu hơi người nhưng anh sáng đã mang  lại một diện mạo mới. Lần đầu tiên, Eragon hiểu vì sao các Kỵ sĩ lại chọn định cư trên hòn đảo này.

Nó ngáp rồi nhìn sang Saphira, nhẹ nhàng chạm vào trí óc cô em. Cô nàng vẫn còn ngủ không mộng mị gì. Tâm trí cô nàng giống một ngọn lửa le lói trong than, dễ dàng bén lên nếu cần.

Nó không yên tâm – nó nhớ tới cái chết – vì vậy nó lùi lại và chỉ duy trì liên lạc như một đường chỉ mỏng: đủ để nó biết cô em nó an toàn.

Trong khu rừng đằng sau, một cặp sóc đang cãi nhau với những tiếng ré cao độ. Nó nhíu mày mà nghe; giọng chúng quá sắc, quá nhanh và quá líu lo. Như thể một sinh vật khác đang giả giọng chúng vậy.

Nó nghĩ mà sởn da gà.

Nó nằm đó thêm một tiếng nữa, lắng nghe những tiếng sóc kêu trong khu rừng và quan sát những tia nắng nhảy nhót trên những ngọn đồi, những cánh đồng, những ngọn núi bao quanh thung lũng lòng chảo.

Sau đó những đám mây tụ lại, trời tối dần và tuyết bắt đầu rơi xuống, phủ trắng đỉnh núi.

Eragon đứng dậy nói với Glaedr, Con sẽ đi tìm ít củi. Con sẽ về sau vài phút nữa.

Con rồng đồng ý và Eragon cẩn thận đi trên cánh đồng tới khu rừng, cố không đánh thức Saphira dậy. Khi vào rừng, nó rảo bước. Dù có rất nhiều cảnh củi khô ở bìa rừng nhưng nó muốn duỗi chân duỗi cẳng và tìm ra chỗ phát ra tiếng sóc, nếu có thể.

Bóng tôi phủ kín khu rừng. Không khí lạnh là yên tĩnh như một hang động sâu trong lòng đất. Khu rừng có mùi nấm mốc, gỗ mục và nhựa cây. Rêu và địa y bám trên những cảnh cây nhưng những mảnh vải vụn, dù đã sờn cũ nhưng vẫn mang vẻ đẹp tinh tế. Chúng chia cây thành nhiều phần làm cho Eragon khó lòng nhìn xa hơn 15m.

Eragon nghe theo tiếng suối để tìm đường đi trong rừng. GIờ khi đã tới gần nó thấy cây thường xanh nơi đây không hề giống trên rặng Spine hay Du Weldenvarden. Chúng là một cụm bảy nhánh thay vì ba nhánh. Dù trong ánh sáng mờ ảo đi nữa, Eragon vẫn cảm thấy như bóng tối đang treo trên cây như một tấm áo choàng phủ lên đó. Mọi thứ trên cái cây, từ những vết nứt trên vỏ cây đến rễ cây lồi lên hay quả cây – mọi thứ đều xương xẩu khác thường và cứng nhắc trông như thể sắp bật rễ và rơi đổ xuống thành phố bên dưới.

Eragon rùng mình và rút thanh Brisingr. Nó chưa bao giờ trong một khu rừng trong tình trạng bị đe dọa. Những cây như thể đang giận dữ và – cùng với những cây táo nó đã thấy ban nãy – chúng như muốn vươn ra xé xác nó vậy.

Nó đung mu bàn tay đẩy những cây địa y vàng để mở lối tiến lên trước.

Giờ nó vẫn chưa thấy có dấu hiệu của động vật, gấu hay sói. Nó bối rối. ở đây khá gần con suối. Đáng lý phải có vài bầy thú tới uống nước chứ.

Có thể lũ động vật tránh đoạn rừng này,nó nghĩ. Nhưng vì lý gì?

Một đoạn cây đổ chắn ngang đường. Nó bước qua, đôi giày nó lún tới tận mắt cả trong lớp rêu. Một giây sau, gedwëy ignasia trên tay nó bắt đầu ngứa ngáy. Nó nghe có tiếng skree-skree! skree-skra! Khi một tá những con sâu trắng mũm mĩm – mỗi con phải to bằng ngón tay cái – chui ra khỏi đám rêu và bắt đầu nhảy xa khỏi nó.

Một bản năng vốn có trỗi lên. Nó dừng lại như khi gặp rắn. Nó không chớp mắt. Nó thậm chí chẳng thèm thở khi quan sát những con giòi béo múp míp ghê tởm chạy đi chỗ khác. Cùng lúc đó, nó nhớ ra hồi ở Ellesméra có nghe về chúng nhưng nó không nhớ chính xác chúng là giống gì.

Glaedr! CHúng là gì vậy? Nó cho con rồng nhìn những con giòi. Tên chúng bằng ngôn ngữ cổ là gì?

Eragon thất vọng khi nghe Glaedr nói,Ta không biết. Ta chưa từng thấy hoặc chưa bao giờ nghe kể tới ấy chứ. Chúng mới có ở Vroengard và Alagaësia. Đừng để nó chạm vào con; chúng có thể nguy hiểm hơn vẻ bề ngoài.

Khi chúng ta tránh xa Eragon một đoạn, những con bọ không tên nhảy cao hơn trước và với tiếng skree-skro! Chúng chui vào đám rêu. Khi rưi xuống, chúng chia ra thành những con rết xanh, nhanh chóng biến mất trong mặt rêu rối.

TỚi lúc đó Eragon mới dám thở.

Sao có thể thế, Glaedr nói. Ông có vẻ đang lo lắng.

Eragon từ từ nhấc giày lên và trở lại sau gốc cây. Nó kiểm tra đám rêu kỹ lưỡng hơn. Lần này nó đã nhận ra thứ nó tương là một cảnh cây mục thò lên khỏi đám rêu thực ra là những cái xương và gạc nai gẫy – hay là phần còn lại của một vài con hươu.

Đắn đo một lúc, Eragon quay lại bước tiếp và lần này tránh những đám rêu bên đường, dù việc này chẳng dễ tẹo nào.

Tìm ra tiếng sóc kêu trong rừng không đáng cho nó liều mạng – đặc biệt nó nghi ngờ rằng ẩn nấp dưới tán cây kia còn có những thứ nguy hiểm hơn giòi. Tay nó vẫn ngứa ngáy. Theo kinh nghiệm, nó biết vẫn còn có cái gì đó  nguy hiểm gần đây.

Khi nó nhìn thấy cánh đồng và màu xanh lơ của vảy Saphira giữa những bụi cây thường xuân, nó quay lại và bước tới dòng suối. Rêu bám trên bờ suối, thế là nó bước từ những gốc cây lên những tảng đá cho tới khi nó đứng trên một tảng đá phẳng ở giữa dòng nước.

Nó ngồi xổm, tháo găng tay, rửa tay, mặt mũi và cổ. Nước lạnh làm nó khỏe người, trong giây phút, toàn bộ cơ thể nó ấm trở lại.

Một tiếng chít chít vang lên trên dòng suối khi nó gạt những giọt nước ra khỏi cổ.

Cố cử động ít nhất có thể, nó nhìn lên ngọn cây bên bờ kia.

Trên khoảng 9m, có bốn bóng đen ngồi trên nhánh cây. Từ cái đầu đen hình ô van là những sợi lông tỏa ra mọi hướng. Hai con mắt thù hằn với đường kẻ dọc tỏa sáng giữa hình ô van và sự trống rỗng trong ánh nhìn của chúng khiến Eragon  khó biết chúng đang nhìn gì.  Bối rối nhất là, như mọi bóng đen, những bóng đen này không tài nào nhìn thấu. Khi đôi mắt quay đi, chúng biến mất.

Eragon không rời mắt, vươn tay nắm lấy thanh Brisingr.

Bóng đen bên trái gãi long rồi kêu ré lên tiếng kêu mà lúc trước nó tưởng là tiếng sóc. Hai bóng ma kia làm tương tự, và trong khu rừng vọng lên tiếng hét.

Eragon định thử chạm vào trí óc chúng, nhưng nhớ tới Fanghur trên đường tới Ellesméra nên nó thôi ngay ý tưởng nó.

Nó trầm giọng nói, “Eka aí fricai un Shur’tugal.” Ta là Kỵ sĩ và là bạn.

BÓng đen dường như đang nhìn thẳng vào nó. Trong một lúc, chúng im lặng, chỉ còn lại tiếng rì rầm của dòng suối. Sau đó chúng bắt đầu chít chít tiếp, mắt chúng sáng hơn cho tới khi giống như những mẩu sắt nóng trắng.

Sau khoảng vài phút, những bóng đen không hề tấn công nó nhưng cũng không định rời đi. Thế là Eragon đứng dậy và cẩn thận bước lùi một bước.

Dường như cử động đó đã đánh động những bóng ra; chúng đồng loạt kêu ré lên. Sau đó chúng rung người và ở chỗ chúng xuất hiện bốn con cú lớn. Chúng mở cái mỏ vàng ra và kêu với nó như tiếng sóc. Sau đó chúng cất cánh im lặng bay vào lùm cây và nhanh chóng biến mất trong đó.

“Barzûl,” Eragon nói. Nó nhảy ngược lại đường cũ và nhanh chóng về cánh đồng. Nó chỉ dừng lại để ôm bó củi khô về.

Ngay khi tới chỗ Saphira, nó đặt củi khô xuống, quỳ một chân, tạo lưới phép nhiều nhất có thể. Glaedr cho nó biết một câu thần chú, rồi nói. Hồi ta và oromis còn ở đây thì không có những sinh vật này. Chúng không bình thường. Phép thuật đã làm mảnh đất và những sinh vật sống trên đó biến đổi. Giờ đây trở thành nơi ma quỷ.

Những sinh vật gì? Saphira hỏi. Cô nàng mở mắt và ngáp. Eragon chia sẻ ký ức và cô nàng cất tiếng. Đáng nhẽ anh phải cho em theo. Em có thể chén lũ giòi và những con chim bóng đó. Anh sẽ chẳng việc gì phải sợ chúng.

Saphira!

Cô nàng đảo mắt. Em đói. Dù là có phép thuật không, em cũng được ăn những sinh vật kỳ dị kia chứ?

Nhưng chúng có thể ăn con, Saphira Bjartskular, Glaedr nói. Con biết quy tắc săn mồi đầu tiên là: không săn những con mồi cho tới khi con biết chắc nó là con mồi. Bằng không, con sẽ thành mồi ngon cho kẻ khác.

“Anh không thấy một con nai nào hết,” Eragon nói. “Anh nghi ở đây cũng chẳng có nhiều nai hoẵng đâu. Hơn nữa, trời đã tối. Mà kể cả chưa tối, con cũng không dám chắc chắn đây là địa điểm săn bắn an toàn.”

Cô nàng gầm nhẹ. Tốt thôi. Vậy em nên ngủ tiếp. Nhưng sáng mai, em phải đi săn dù nguy hiểm thế nào. BỤng em rỗng không và em phải ăn trước khi bay qua biển lần nữa.

Saphira nói là làm. Cô nàng nhắm mắt ngủ tiếp.

Eragon đốt một đống lửa nhỏ, sau đó ăn một bữa tối xoàng xĩnh rồi quan sát thung  lũng chìm vào bóng tối. Nó và Glaedr nói về kế hoạch cho ngày mai. Glaedr nói cho nó nghe nhiều hơn về hòn đảo, từ thời trước khi các thần tiên tới Alagaësia, khi Vroengard là nơi ở chỉ của riêng loài rồng.

Trước khi ánh sáng cuối cùng của ngày biến mất khỏi bầu trời, ông rồng già nói,  Con có muốn thấy Vroengard như hồi ở Kỷ nguyên của các Kỵ sĩ?

Con muốn, Eragon nói.

Vậy nhìn đi, Glaedr nói và Eragon cảm nhận ông rồng chiếm giữ trí óc nó và chuyển vào đó những hình ảnh và cảm quan. Tầm nhìn của Eragon thay đổi, từ đỉnh nó nhìn thấy hình ảnh song sinh ma mị của thung lũng. Ký ức về thung lũng trong bóng chiều chạng vạng như lúc nay. Nhưng trên trời không có lấy một đám mây và hàng ngàn ngôi sao đang chiếu sáng lấp lảnh trên vòng tròn núi lửa Aras Thelduin. Những cái cây vào thời đó dường như cao hơn, thẳng hơn, ít nguy hiểm hơn. Trong thung lũng, nhưng tòa nhà của Kỵ sĩ còn nguyên vẹn, tỏa sáng như đèn báo hiệu trong hoàng hôn với ánh sáng phát ra từ ngọn đèn không dùng nến của thần tiên. Trường xuân và rêu không phủ những phiến đá màu hoàng thổ nhiều như bây giờ. Những đại sảnh và tòa tháp dường như trông sang trọng theo cái cách khác với đống đổ nát ngày nay. Dọc theo những con đường đá cuội và cao trên đó, Eragon thấy rất nhiều bóng rồng tỏa sáng: những kẻ khổng lồ duyên dáng giấu trong hang động số kho báu của một ngàn nhà vua.

Hình ảnh cuối cùng kéo dài lâu hơn; rồi Glaedr thả trí óc của Eragon ra, thung lũng lại trở về vẻ vốn có.

Đẹp quá, Eragon nói.

Ừ, nhưng giờ nó đã không còn.

Eragon tiếp tục ngắm thung lũng, so sánh với thung lũng của thời xa xưa. Nó nhíu mày khi nhìn thấy ánh sáng – nó nghĩ là ánh đèn – trong thành phố bỏ hoang. Nó thì thầm câu thần chú tăng thị lực. Nó thấy những bóng người đội mũi mặc áo choàng đen trong đống đổ nát. Họ trông trang nghiêm thoát tục. Dường như họ đang thực hiện một nghi lễ gì đó.

Ai vậy?  Nó hỏi Glaedr. Có cảm thấy như nó nhìn thấy cái gì đó không cho kẻ khác nhìn.

Ta không biết. Có lẽ là hậu duệ của những người đã chạy trốn khỏi trận chiến. Có thể họ là những con người đã tới đây định cư sau Ngày tàn của các Kỵ sĩ. Hoặc cũng có thể họ  là những người thờ rồng là Kỵ sĩ như thánh thần?

Sao có thể?

Có thể. Chúng ta không cho phép, nhưng tại nhiều vùng của Alagaësia.…Ta nghĩ may mà con đã đặt lá chắn.

Eragon quan sát những người đội mũ đi trong thành phố trong  khoảng một tiếng. Cho tới khi họ khuất dạng, ánh đèn biến mất dần. Eragon không còn nhìn thấy họ nữa, dù nó được pháp thuật giúp sức.

Sau đó Eragon dùng đất dập lửa và chui vào chăn nằm ngủ.

Eragon! Saphira! Dậy!

Eragon mở choàng mắt. Nó ngồi dậy nắm lấy thanh Brisingr.

Trời tối, trừ ánh sáng đỏ phát ra từ đống than bên phải và bầu trời sao phía đông. Dù ánh sáng mờ nhạt nhưng Eragon vẫn thấy hình dáng khu rừng và cánh đồng… và con sên khổng lồ dị hơm đang trườn trên cỏ.

Eragon bật dậy lùi về sau. Con ốc sen – vỏ cao mét rưỡi – đang lừng chừng, rồi trườn nhanh về phía nó với tốc độ người chạy. Tiếng rít như tiếng rắn phát ra từ cái mồm đen sì và đôi mắt đó to bằng nắm tay Eragon.

Eragon nhận ra nó không đủ thời gian đứng dậy. Đằng sau nó không đủ không gian mà rút thanh Brisingr. Nó chuẩn bị đọc thần chú nhưng trước khi đó, Đầu Saphira phóng về phía nó như một mũi tên. Cô nàng dùng hàm gặm con ốc sên. Vỏ ốc vỡ ra và sinh vật ré lên chói lói.

Saphira vặn cổ ném con ốc vào không khí, há rộng hàm đợi nuốt trọn sinh vật như chim sáo ăn giun đất vậy.

Eragon nhìn xuống. Nó thấy có bốn con ốc sên khổng lồ khác đang tiến tới. Một trong số chúng chui vào vorl nhưng con khác nhanh chóng chuồn mất.

“Đằng này!” Eragon hét.

SAPhira phóng tới. Toàn bộ cơ thể cô nàng rời mặt đất một chốc. Sau đó, cô nàng gặm ba con. Cô nàng không ăn con chui trong vỏ còn lại nhưng cô nàng dùng ngọn lửa vàng xanh đốt cháy 30 mét xung quanh.

Cô nàng duy trì ngọn lửa trong một hai giây. Sau đó cô nàng dùng hàm nhặt con ốc sên đang bốc khỏi lên – nhẹ nhàng như mèo mẹ cắp mèo con – mang tới đặt trước mặt Eragon. Nó nhìn con vật với vẻ khó tin nhưng có vẻ con vật thực sự chết rồi.

Giờ anh có bữa sáng rồi đó, Saphira nói.

Nó nhìn cô em chằm chằm, rồi bắt đầu cười – nó cứ cười tới khi gập người lại, đặt tay lên đầu gối thở phì phò.

Sao nào? Cô nàng hỏi và ngửi cái vỏ cháy đen.

Đúng, sao con cười thế Eragon? Glaedr hỏi.

Nó lắc đầu và tiếp tục cười. Cuối cùng nó nói “Vì…” Sau đó nó chuyển sang nói bằng tư tưởng để Glaedr cũng nghe được. Vì ….ốc sên và trứng! Sau đó nó lại khúc khích cười ngu ngốc. Vì, ốc sên nướng!…Đói không? Ăn thịt nướng đi! Thấy mệt không? Hăn mắt đi! Ai cần uống rượu khi ta có nhớt chứ?! Con có thể cho thịt nướng vào một cái cốc, như một bó hoa và chúng sẽ… Nó cười sặc sụa đến mức không thể cười nổi nữa. Nó quỳ một chân xuống trong khi hít thở, nước mắt tràn ra.

SAphira mở hàm nhe một nụ cười đầy răng sau đó lục cục gì đó trong cổ. Thi thoảng anh quái quái thế nào ấy, Eragon.  Nó cảm thấy sự vui vẻ của nó ảnh hưởng tới cô em. Cô nàng ngửi cái vỏ lần nữa. Có chút bia uống cũng hay.

“Ít nhất là em đã có cái bỏ bụng,” nó nói bằng cả tư tưởng lẫn miệng.

Chưa đủ no để quay về Varden.

Khi dứt cười, Eragon dùng mũi giày đá con ốc sên. Đã rất lâu kể từ ngày loài rồng sống trên Vroengard. Có thể chúng không nhận ra em là ai và nghĩ anh dễ xơi…Nếu chết vì ốc sên ăn thì quả là cái chết lãng xẹt.

Nhưng đáng nhớ, Saphira nói.

Nhưng đáng nhớ, nó đồng tình, cảm nhận sự vui vẻ đang quay lại với nó.

Và ta đã nói với con gì về nguyên tắc đi săn đầu tiên, con gái? Glaedr hỏi.

Cả Eragon và Saphira đều trả lời. Đừng chén mồi trước khi con biết chắc chúng là con mồi.

Rất tốt, Glaedr nói.

Sau đó Eragon nói, Những con giòi nhảy, chim bóng ma, giờ là những con sên khổng lồ….Làm sao những câu thần chú trong trận chiến lại tạo ra chúng được?

Những Kỵ sĩ, những con rồng, và Thập tam Phản đồ đã phát tán một lượng năng lượng khổng lồ khi giao đấu. Rất nhiều năng lượng không gắn kết trong những câu thần chú. Những người còn sống đã kể lại rằng, trong một khoảng thời gian, thế giới trở nên điên loạn. Con người không thể tin vào những điều mắt thấy tai nghe. Một trong số năng lượng đó chắc chắn đã truyền vào tổ tiên loài giòi và những con chim con thấy ngày hôm nay. Nhưng con đã nhầm về những con ốc sên. Snalglí vẫn luôn sống ở Vroengard. Chúng là thức ăn ưa thích của loài rồng chúng ta. Và ta chắc vì lý do gì thì con biết.

Cô nàng rên rừ rừ và liếm mép.

Nhưng không chỉ thịt chúng mềm và thơm ngon, mà vỏ ốc cũng rất tốt cho tiêu hóa.

Nếu chúng chỉ là những động vật bình thường, vậy sao lưới phòng vệ của con không chặn chúng lại? Eragon hỏi. Ít nhất con phải biết nguy hiểm đang cận kề chứ.

Glaedr trả lời, Cái này có thể là kết quả của trận chiến. Pháp thuật không tạo ra snalglí nhưng không có nghĩa chúng không bị ảnh hưởng bởi lực tác động lên toàn bộ nơi này. Chúng ta không nên lảng vản lâu tại đây. Tốt nhất chúng ta nên đi trước khi có cái gì quyết định nếm thịt chúng ta.

VỚi sự giúp đỡ của Saphira, Eragon đập vỡ vỏ ốc và dưới ánh sáng của đèn ma, nó dọn sạch phần ruột bên trong. NHớt con sên ngập tới tận khuỷu tay nó. Sau đó Eragon và Saphira chôn đống thịt gần đống than.

Sau cùng, Saphira trở về bãi cỏ quen thuộc, cuộn người lại và ngủ. Lần này Eragon tới gần cô nàng. Nó mang chăn và túi đựng trái tim của Glaedr. Nó chui dưới cánh cô em và nằng dựa vào chỗ ấm áp giữa cổ và thân mình cô nàng. Nó giành hết buổi đêm để suy nghĩ và mơ mộng.

Ngày tiếp theo trời ảm đạm và xám xịt y như hôm trước. Ánh sáng xuyên qua tuyết phủ xuống sườn núi và chân núi. Không khí lạnh lẽo khiến Eragon phải tin rằng cuối ngay sẽ có tuyết rơi.

Saphira mệt nên không thức giấc tới khi mặt trời ngang đỉnh núi. Eragon mất bình tĩnh nhưng vẫn để cô nàng ngủ. Cô nàng hồi phục sức lực sau chuyến bay tới Vroengard còn quan trong hơn việc bắt đầu tìm kiếm.

Một khi thức dậy. Saphira giúp Eragon đào ruột ốc sên lên nấu bữa sáng cỡ bự…nó không biết gọi món này là gì: ốc sên hun khói ư? Dù tên gì thì thịt ốc sên cũng thực ngon và nó ăn nhiều hơn thường lệ. Saphira chén hết phần còn thừa. Chúng đợi thêm một giờ vì thật không khôn ngoan chút nào khi tham chiến với cái bụng đầy thức ăn.

Sau cùng, Eragon gấp chăn và đặt yên lên lưng Saphira. Cùng với Glaedr họ cũng nhau tới Tảng đá Kuthian.

50. TẢNG ĐÁ KUTHIAN

Posted on Tháng Một 10, 2012

Con đường dưới tán cây táo dường như ngắn hơn ngày hôm trước. Những cái cây xương xẩu dường như to lớn hơn bao giờ hết. Eragon nắm chặt chuôi Brisingr trong suốt cuộc hành trình.

Nó và Saphira cũng dừng lại trướng một trảng trống trước Tảng đá Kuthian. Đàn quạ đậu trên tảng đá. Khi nhìn thấy Saphira chúng tung cánh bay lên trời – Eragon thấy đó là một điềm gở.

Trong suốt nửa tiếng, Eragon đứng đọc hết thần chú này tới thần chú khác để tránh phép thuật lại tổn hại tới nó, Saphira hay Glaedr. Trong khắp bãi trống, trên Tảng đá Kuthian – và toàn bộ hòn đảo – là hàng tá các câu bùa phép. Một trong số đó ếm sâu trong lòng đất  với sức mạnh như một con sông lớn chảy dưới chân nó. Số khác nhỏ hơn chỉ đủ khả năng tác động lên một bông hoa hay cành cây. Một nửa trong số các bùa phép không hoạt động – vì không đủ năng lượng hoặc không có đích tác động tới hay đang đợi một điều kiện cụ thể. Một số lượng lớn các câu thần chú khắc chế lẫn nhau, như thể các Kỵ sĩ, hoặc bất  kỳ ai đọc chúng ra, đã làm thay đổi câu thần chú ban đầu.

Eragon không thể biết hầu hết các câu thần chú để làm gì. Nó không biết về những từ ngữ mà chỉ biết tới dạng năng lượng mà các pháp sư đã qua đời từ đâu cẩn thận tạo ra. Những cấu trúc đó quá khó, nếu không muốn nói là không thể dịch ra nổi. Glaedr có giúp, vì ông ấy quay thuộc với những câu thần chú lâu đời và phức tạp hơn từ hồi còn ở Vroengard. Nhưng còn lại Eragon phải đoán. May mà dù nó không phải lúc nào cũng biết chủ đích câu thần chú nhưng nó biết câu thần chú đó có ảnh hưởng tới nó, Saphira hay Glaedr hay không. Đó là một quá trình phức tạp đòi hỏi câu thần chú phức tạp. Eragon mất cả tiếng nữa mới kiểm tra được toàn bộ.

Cái khiến nó – và cả Glaedr – lo lắng nhất là những câu thần chú họ không tài nào nhận diện. Khám  phá các câu thần chú càng ngày càng khó nếu những người niệm thần chú thực sự muốn giấu.

Cuối cùng, khi Eragon tự tin không có bẫy nào xung quanh họ hay quanh Tảng đá Kuthian, nó và Saphira bước lên trảng đất trống tới chân ngọn tháp phủ đầy địa y.

Eragon ngửa cổ nhìn lên đỉnh. Quá là xa. Nó không thấy tảng đá hay Saphira có gì bất thường.

Chúng ta hãy xưng tên cho xong đi, cô nàng nói.

Eragon hỏi Glaedr và ông rồng đáp, Con bé nói đúng. Chúng ta chẳng việc gì phải chần chừ. Hãy nói tên mình, ta và Saphira cũng làm tương tự.

Eragon căng thẳng nắm chặt tay hai lần sau đó cầm khiên và thanh Brisingr.

“tên tôi,” nó nói lớn, rành mạch, “là Eragon Khắc tinh của tà thần, con trai của Brom.”

Tên tôi là Saphira Bjartskular, con gái của Vervada.

Còn tên tôi là Glaedr Eldunarí, con trai Nithring đuôi dài.

Họ chờ đợi.

Ở đằng xam bầy quạ kêu như trêu ngươi họ. Eragon không thoải mái nhưng nó không để ý. Nó không mong cánh cửa sẽ dễ dàng mở ra.

Thử lại xem, nhưng lần này nói bằng ngôn ngữ cổ, Glaedr khuyên.

Thế là Eragon nói, “Nam iet er Eragon Sundavar-Vergandí, sönr abr Brom.”

Và Saphira cũng như Glaedr nhắc lại tên và nguồn gốc bằng ngôn ngữ cổ.

Không có gì xảy ra.

Eragon càng lúc càng bất an. Nếu chuyến hành trình này vô ích… không, nó không dám nghĩ. Chưa dám nghĩ. Có thể chúng ta phải nói lớn tên lên, nó nói.

Bằng cách nào? Saphira hỏi. Chẳng nhẽ em phải hét vào tảng đá à? Còn sư phụ Glaedr thì sao?

Anh có thể nói tên hộ em, Eragon nói.

Hình như không đúng như những gì nó muốn, nhưng chúng ta cứ thử xem, Glaedr nói.

Bằng ngôn ngữ này hay ngôn ngữ cổ.

Bằng ngôn ngữ cổ. Nhưng thôi, thử cả hai cho chắc.

Hai lần Eragon đọc tên nhưng tảng đá vẫn không thay đổi. Cuối cùng, nó thất vọng nói, Có lẽ chúng ta tới sai nơi; có thể cổng vào Hầm Mộ những Linh Hồn ở bên kia tảng đá. Có thể ở trên nóc lắm.

Nếu thế, vì sao trong Domia Abr Wyrda không nhắc tới hướng? Glaedr hỏi.

Eragon hạ khiên xuống. Có bao giờ có câu đố nào dễ giải đâu?

Hay là chỉ anh cần xưng tên thôi? Saphira nói với Eragon. Không phải Solembum nói là, …”khi ngươi sức cùng lực kiệt, hãy tới tảng đá Kuthian và xưng tên để mở cánh cửa vào Hầm mộ của Những Linh Hồn.” Tên của anh, chứ không phải của em hay sư phụ Glaedr.

Eragon nhíu mày. Có thể. Nhưng nếu chỉ cần tên anh thì có lẽ anh nên nói khi chỉ có một mình.

Với một tiếng gầm, Saphira bay lên, làm dựng đứng tóc Eragon và thổi bạt cây cỏ. Thử đi, và nhanh lên đấy nhé! Cô nàng nói khi bay về phía đông, tránh xa tảng đá.

Khi Saphira cách ¼ dặm, Eragon nhìn lên bề mặt đá và một lần nữa nâng khiên, một lần nữa xưng tên, bằng cả hai ngôn ngữ, loài người và thần tiên.

Không có cánh cửa hay lối đi nào lộ ra. Không có một vết nứt nào trên mặt đá. Không một dấu hiệu nào. Tòa tháp đá vẫn chỉ là một tảng đá hoa cương, không hở ra một bí mật nào/

Saphira! Eragon hét gọi bằng tư tưởng. Sau đó nó chửi thề và bước tới bước lui, đá bay những viên đá và cành cây trên đất.

Nó quay lại chân tảng đá khi Saphira đáp xuống bãi đất trống. Móng vuốt đâm sâu vào đất. Lá cây và lá cỏ cuốn quanh cô nàng như trong cơn cuồng phong.

Khi đã cô nàng đáp xuống trên bốn chân và gập cánh, Glaedr nói, Ta đoán là con không thành công?

Không, Eragon cục cằn đáp và nhìn chằm chằm lên ngọn tháp đá.

HÌnh như ông rồng già thở dài. Ta sợ chỉ có một khả năng…

Là Solembum nói dối chúng ta? Rằng cậu ta cho chúng ta đi chơi để Galbatorix có thể hủy diệt Varden?

Không. Rằng để mở cái…cái…

Hầm mộ của Những Linh Hồn, SAPhira nói.

Đúng, cái hầm mộ mà hắn nói với các con – để mở nó, chúng ta phải dùng tên thật ấy.

Những từ đó rơi vào họ như một tảng đá  nặng trịch. Họ không nói gì. Ý nghĩ đó khiến Eragon sợ. Nó không dám vì sợ làm tình huống tệ hơn.

Nhưng nếu đây là một cái bẫy….Saphira nói.

Vậy thì đây là cái bẫy nguy hiểm nhất, Glaedr nói. Các con cần quyết định rằng: các con có tin Solembum không? Việc này không chỉ đe dọa mạng sống chúng ta mà còn cả sự tự do của chúng ta. Nếu các con tin hắn, liệu các con có thể thành thực với bản thân để tìm ra tên thật nhanh chóng không? Nhưng các con có dám sống cả đời với cái đó dù cho nó chẳng lấy gì làm thoải mái? Vì nếu không, giờ chúng ta phải bỏ đi ngay. Ta đã thay đổi từ khi Oromis chết, nhưng ta biết ta là ai. Nhưng con có biết con là ai không, Saphira? Còn con nữa, Eragon? Con có thể nói thật cho ta biết cái gì bên trong con rồng và Kỵ sĩ này không?

Eragon chán nản nhìn Tảng đá Kuthian.

Mình là ai? Nó tự hỏi.

51. CẢ THẾ GIỚI CHỈ LÀ GIẤC MƠ

Posted on Tháng Một 12, 2012

Nasuada cười khi bầu trời đầy sao xoay xung quanh cô và cô rơi vào một ánh sáng trắng dưới đó cả dặm.

Gió lùa vào tóc cô, váy cô bay phần phật, những sợi sơ trên ống tay áo đung đưa như những sợi dây. Những con dơi đen to tướng bay tới, dùng răng tấn công vào những vết thương của cô.

Cô vẫn cười.

Ánh sáng chói lòa làm cô mù mắt trong một phút. Khi đã nhìn rõ, cô thấy mình đang đứng trong Căn phòng của Nhà tiên tri, nhìn thấy chính mình trói trên chiếc bàn đá màu khói. Cảnh thân xác cô là Galbatorix: cao, vai rộng, bóng tối che khuất khuôn mặt và vương miện đỏ như lửa trên đầu.

Hắn quay lại chỗ cô đứng và xòe bàn tay đeo găng. “Tới đây, Nasuada, con gái của Ajihad. Hãy bỏ qua lòng tự trọng và hãy thề trung thành với ta. Ta sẽ cho cô mọi thứ cô muốn.”

Cô phát ra tiếng kêu chế nhạo và dùng tay nhắm về phía lão. Trước khi cô kịp xé toang cổ họng hắn, nhà vua biến mất trong màn sương mù đen.

“Cái ta muốn là mi chết đi!” cô hét vào xà lim.

Căn phòng vang lên tiếng Galbatorix từ mọi hướng: “Vậy cô hãy ở đây tới khi nhận ra lỗi lầm.”

* * *

Nasuada mở mắt. Cô vẫn trên bàn đá, cổ tay và cô chân bị trói, những vết thương do con giòi đục xới nhói đau không ngừng.

Cô nhíu mày. Cô vừa bất tỉnh hay vừa nói chuyện với nhà vua? Cô không biết khi…

Ở góc phòng, cô thấy một dây leo dày màu xanh mọc trên những phiến đá vẽ hình, làm chúng  nứt ra. Nhiều sợi dây leo xuất hiện cạnh sợi thứ nhât hơn; chúng bò khắp bức tường, trên sàn nhà như những con rắn đang bò vậy.

Nasuada cười khi quan sát chúng bò tới gần. Đây là tất cả những thứ lão có thể nghĩ ra? Mình mơ mấy thứ kỳ lạ thế này mỗi đêm.

Như để trả lời cô, bàn đá tan chảy, những sợi dây leo bò lên người cô, giữ chặt cô hơn cả những sợi xích. Những cành dây leo càng lúc càng dày đặc làm tầm nhìn của cô tối lại. Cô chỉ nghe thấy duy nhất âm thanh khi chúng bò  lên nhau: khô khốc như tiếng cát chảy.

Không khí xung quanh cô ngột ngạt và nóng nực. Cô cảm thấy khó thở. Nếu cô không biết những sợi dây leo kia chỉ là ảo ảnh, cô sẽ sợ. Nhưng cô chỉ nhìn chăm chăm vào bóng tối, chửi rủa tên Galbatorix. Không phải một lần đầu. Và cô chắc không phải lần cuối cùng. Nhưng cô không thể để hắn mãn nguyện vì làm cô mất cân bằng.

Ánh sáng…Những tia nắng mặt trời vàng ruộm tưới lên những con đồi chen lẫn những cánh đồng và vườn nho. Cô đang đứng ở góc một cái sân nhỏ, dưới dàn lưới tắm những tia nắng ban mai. Những sợi dây leo gợi cho cô một sự quen thuộc không vui vẻ gì. Cô đang mặc chiếc váy màu vàng xinh đẹp. Tay phải cô cầm một cốc rượu pha lê và trên lưỡi cô có vị rượu anh đào. Một cơn gió nhẹ thổi tới từ phương tây. Không khí ấm áp, thoái mái, sảng khoái.

“À, nàng đây rồi,” có giọng nói phía sau cô. Cô quay lại t hấy Murtagh đang sải bước tới gần cô từ một dinh cơ rộng lớn. Giống như cô, hắn đang cầm một ly rượu. Hắn  mặc quần bó chẽn đen và áo chẽn bằng xa tanh đỏ thẫm với những chiếc khuy vàng. Hắn đeo một con dao găm ở nạm đá quý ở thắt lung. Tóc hắn dài hơn cô nhớ. Hắn có vẻ thư thái và tự tin theo cách cô chưa từng thấy. Và ánh nắng chiếu trên mặt hắn làm cho hắn đẹp trai tới nghẹt thở – thậm chí còn thanh tao nữa.

Hắn cùng cô đứng dưới giàn lưới và đặt tay lên cánh tay trần của cô. Cử chỉ đó thật bình thường. “Cô gái tinh ranh, nàng dám bỏ ta lại với Lãnh chúa Ferros và câu chuyện dài dằng dặc của ông ấy. Tôi mất nửa tiếng mới thoát nổi đấy.” SAu đó hắn ngừng nói và nhìn cô gần hơn, trong ánh mắt có chút gì đó quan tâm. “Nàng ốm à? Da nàng xám quá.”

Cô mở miệng nhưng không nói gì. Cô không biết phải phản ứng thế nào.

Murtagh nhíu mày. “Nàng bị tấn công nữa sao?”

“Tôi…tôi không biết…Tôi không thể nhớ sao tôi lại ở đây, hay…” Cô không nói gì khi thấy nỗi đau trong mắt Murtagh. Hắn nhanh chóng giấu nó đi.

Hắn trượt tay lên lung cô khi đi ra sau lựng cô nhìn vào khung cảnh những ngọn đồi nhấp nhô. Sau đó, bằng giọng trầm trầm, hắn nói. “Tôi hiểu vì sao nàng bối rối…Đây không phải lần đầu tiên, nhưng…” Hắn hít một hơi thật sâu và nhẹ nhẹ lắc đầu. “Nàng nhớ cái gì nào? Teirm? Aberon? Cithrí? … hay món qua tôi tặng nàng vào một đêm ở Eoam?”

Cô càng lúc càng không hiểu. “Urû’baen,”, cô thì thào. “Căn phòng của Nhà tiên tri.Tôi chỉ còn nhớ thế.”

Ngay lập tức, cô cảm nhận được bàn tay run rẩy của hắn. Nhưng mặt hắn không biểu lộ gì.

“Urû’baen,” hắn khan giọng nhắc lại. Hắn nhìn cô. “Nasuada..đã tám năm kể từ khi chúng ta ở Urû’baen.”

Không, cô nghĩ. Không thể. Nhưng mọi thứ cô nhìn thấy, cảm thấy đều quá thật. Tóc Murtagh tung bay trong gió, mùi cánh đồng, chiếc váy chạm lên da cô – tất cả đều như thật. Nhưng nếu cô thực sự ở đó, vậy vì sao Murtagh không an ủi cô bằng cách chạm vào tư tưởng cô như hắn từng làm? Hay hắn đã quên? Nếu tám năm đã trôi qua, hắn có thể không nhớ lời hứa với cô ở Căn phòng của Nhà tiên tri.

“Tôi…” cô định nói rồi nghe thấy tiếng một người phụ nữ gọi:

“Tiểu thư ơi!”

Cô quay đầu nhìn một người hầu gái đẫy đà chạy tới từ căn nhà, tạp dề tung phấp phới. “Tiểu thư,” cô hầu gái nói và nhún gối chào. “Tôi xin lỗi vì làm phiền tiểu thư, nhưng những đứa trẻ mong tiểu thư cùng chúng chơi với những vị khách.”

“Con ư,” cô thì thầm. Cô nhìn Murtagh và thấy mắt  hắn sáng lên vì những giọt nước mắt.

“Đúng,” hắn nói. “Con. Bốn đứa, tất cả đều khỏe mạnh và hiếu động.”

Cô rùng mình vì cảm xúc ùa tới. Cô không đừng được. Sau đó cô hơi nâng cằm. “Hãy cho tôi biết tôi quên những gì. Hay cho tôi biết vì sao tôi quên.”

Murtagh cười một nụ cười tự hào. “Tôi rất vui lòng,” hắn nói và hôn lên trán cô. Hắn cầm lấy cốc rượu của cô và đưa cả hai cho người hầu gái. Sau đó hắn nắm lấy tay cô, nhắm mắt lại, cúi đầu.

Ngay lập tức, cô cảm nhận sự hiện diện của hắn trong tư tưởng cô. Cô biết: không phải hắn. Không thể là hắn.

Cô lức giận vì bị lừa gạt và mất đi những thứ cô chưa thể nào có. Cô rút bàn tay phải khỏi tay Murtagh, nắm lấy con dao găm và đâm vào người hắn. Cô hét:

Ở El-harím, Ở El-harim có một người đàn ông mắt vàng

Ông ấy nói với tôi, “Hãy cẩn trọng với những lời nói thầm, vì chúng thì thầm những điều dối trá.

Murtagh nhìn cô với vẻ tò mò sau đó hắn biến mất. Mọi thứ xung quanh cô – hàng rào mắt cáo, sân, dinh thự, ngọn đồi với những vườn nho – biến mất. Cô thấy mình trôi trong không gian không màu sắc và âm thanh. Cô cố tiếp tục cầu nguyện nhưng cô không nói được. Cô không thể nghe nổi nhịp tim đập.

Sau đó cô cảm nhận bóng tối vặn xoắn, và…

Cô giật mình chống tay và đầu gối xuống. Những tảng đá sắc nhọn cào xước lòng bàn tay cô. Cô chớp mắt để điều chỉnh thích ứng với ánh sáng. Cô đứng lên nhìn xung quanh.

Sương mù. Những cuộn khói bay trên cánh đồng trơ trụi rất giống Cánh Đồng cháy.

Cô một lần nữa mặc bộ đồ tù rách nát. Chân trần.

Có cái gì đó đang gầm gào ở đằng sau cô. Cô quay người lại nhìn thấy một Kull cao hơn 3m đang chạy tới, cầm theo một cái chày sắt tô bằng người cô. Một tiếng gầm nữa phát ra từ bên trái. Kull thứ hai xuất hiện cùng bốn Urgal nhỏ hơn. Sau đó những bóng những kẻ gù mặc áo choàng xuất hiện trong màn xương. Chúng chạy tới chỗ cô, kêu gào và giơ những thanh kiếm mỏng như lá lúa. Dù cô chưa từng thấy chúng trước đó, nhưng cô biết chắc đó là Ra’zac.

Cô lại cười. Giờ Galbatorix định trừng trị cô.

Cô lờ tịt những kẻ thù đang tiến tới kia đi – cô biết cô không thể giết chết hay trốn thoát nổi – cô ngồi khoanh chân trên đất và bắt đầu ngâm nga một giai điệu của người lùn.

Nếu Murtagh không báo trước chắc chắn mục đích lừa gạt cô của Galbatorix đã thành công. Để giữ bí mật về sự giúp đỡ của Galbatorix, cô giả vờ ngu ngơ không biết Galbatorix đã tạo nên những không gian thực khác. Nhưng dù cô nhìn thấy hay cảm thấy cái gì, cô không thể để nhà vua khiến cô nghĩ tới những thứ không nên nghĩ tới và tệ hơn, thề trung thành với lão. Không phải lúc nào cũng dễ thoát khỏi sự khống chế của hắn. Nhưng cô vẫn duy trì cách nghĩ, cách nói. Nhờ đó, cô có thể phá ngang kế hoạch của nhà vua.

Ảo ảnh đầu tiên là một người phụ nữ khác, tên Rialla, đã tới Căn phòng của Nhà tiên tri. Cô ta là bạn tù với cô. Người phụ nữ nói cô ta bí mật kết hôn với một gián điệp của Varden ở Urû’baen. Cô ta bị bắt khi giúp anh này chuyển tin. Dường n hư một tuần sau, Rialla cố lấy lòng Nasuada, thuyết phục cô rằng kế hoạch của Varden đã tàn đời. Họ chẳng còn lý gì mà chiến đấu. Tốt nhất họ nên nghe theo Galbatorix.

Lúc đầu, Nasuada không biết Rialla là một ảo ảnh. Cô nghĩ Galbatorix đã làm méo mó từ ngữ hay nhân dạng người phụ nữ này. Hoặc giả lão can thiệp vào cảm xúc của chính cô để cô dễ bị lôi kéo vì những lời nói của Rialla.

Ngày qua ngày, Murtagh không tới thăm hay liên hệ với cô. Cô sợ rằng hắn đã bỏ mặc cô. Cô giận hơn cô muốn thừa nhận. Mỗi giây mỗi phút cô đều lo nghĩ tới nó.

Sau đó cô bắt đầu phân vân vì sao Galbatorix không tới tra tấn cô. Đột nhiên cô nghĩ, nếu thực sụ một tuần đã qua, vậy thì Varden và thần tiên đã tấn công Urû’baen rồi. Và nếu việc này xảy ra, Galbatorix chắc chắn sẽ nhắc đến trong sự hả hê. Hơn nữa, cách xử xự của Rialla có chút không bình thường. Kết hợp với việc cô lúc nhớ lúc không, Galbatorix không tra tấn cô, Murtagh tiếp tục im lặng, – vì cô không tin hắn dám thất hứa với cô – cô biết Rialla chỉ là một bóng ma và thời gian trôi qua chưa tới một tuần.

Cô rùng mình khi nhận ra Galbatorix đã khiến cô nhầm tưởng về số ngày trôi qua. Cô bất đắc dĩ chấp nhận ý tưởng đó. Cảm giác thời gian của cô đã không còn sắc bén từ  hồi bị giam cầm, nhưng cô vẫn còn ước chừng chung chung được. Nếu mất khái niệm về thời gian, cô sẽ càng phụ thuộc vào Galbatorix hơn.

Tới lúc này, cô vẫn kiên quyết chống lại sự cám dỗ của Galbatorix, dù bao lâu đã trôi qua. Nếu cô có thể chịu án một trăm năm, vậy thì cô sẽ chịu đựng trong cả trăm năm đó.

Khi cô miễn nhiễm với những lời thì thầm à ơi của Rialla – thực ra cô còn bảo người phụ nữ đó là kẻ hèn nhát và kẻ phản bội – cô ta bị giải đi. Galbatorix chơi sang trò khác.

Sau đó, trò lừa gạt của hắn càng công phu hơn. Không một cái nào vô lý hay đối nghịch với những cái hắn đã nói với cô. Nhà vua vẫn muốn cô không biết hắn đang can thiệp vào đời sống của cô.

Hắn lừa cô rằng đã đưa cô tới một ngục thất trong thành phố. Cô thấy Eragon và Saphira bị xích. Galbatorix đã dọa giết Eragon nếu cô không thề trung thành với lão. Cô từ chối, Galbatorix rất không vui – và cô nghĩ, cả ngạc nhiên nữa. Sau đó Eragon dùng một câu thần chú giúp cả ba đào tẩu. Rồi sau một màn dây dưa  ngắn, Galbatorix chạy trốn– cô nghi ngờ trong đời thật còn lâu hắn mới làm – và  cô, Eragon và Saphira bắt đầu mở đường máu ra khỏi thành phố.

Chuyến du hành vừa vội vã vừa phấn khích. Cô đã bị dụ dỗ xem kết quả sẽ đi tới đâu. Nhưng sau đó cô thấy chán chơi với Galbatorix. Thế là cô dựa vào sự khác biệt đầu tiên – hình dạng vảy xung quanh mắt Saphira – và dùng nó để buộc tội nhà vua tạo ra một thế giới giả.

“Ông thề không nói dối tôi trong khi tôi ở Căn phòng của Nhà tiên tri!” cô hét. “Nhưng đây là một sự dối trá, Kẻ bội ước kia?”

Galabtorix tức giận tột cùng. Cô đã nghe tiếng gầm như tiếng rồng. HẮn bỏ qua tất cả để hành hạ cô bằng những hình ảnh.

Cuối cùng, những ảo ảnh biến mất. Murtagh liên lạc cho cô biết cô có thể tin vào các giác quan rồi. Cô chưa bao giờ hạnh phúc hơn lúc đó.

Tối đó, hắn đến. Họ giành hàng giờ ngồi cạnh nhau nói chuyện. Hắn nói với cô về tiến độ hành quân của Varden – họ đã gần tới kinh thành – và về sự chuẩn bị của Triều đình. Hắn giải thích rằng hắn tin đã tìm ra cách giải thoát cho cô. Khi cô bắt hắn nói rõ, hắn không chịu mà chỉ nói, “Tôi cần thêm một hai ngày để xem có thành công không. Nhưngcách, Nasuada. Tin tôi đi.”

Cô đã tin vào sự thành thật và sự quan tâm hắn dành cho cô. Kể cả nếu cô không thể thoát, cô cũng mừng vì mình không đơn độc.

Sau đó cô kể lại những gì Galbatorix làm, cách cô đánh bại hắn. Murtagh cười. “Cô là đối thủ đáng gờm hơn hắn tưởng. Đã rất lâu rồi hắn mới một đối thủ xứng tầm. Tôi chắc chắn…tôi hiểu có chút, nhưng tôi biết việc tạo ra những ảo ảnh như thật vô cùng khó. Bất cứ một pháp sư giỏi nào cũng có thể làm cho cô có cảm giác mình đang bay trên trời, lạnh hay nóng hoặc hoa nở trước mặt cô. Những thứ nhỏ bé phức tạp hoặc to lớn đơn giản là những thứ ai không phải ai cũng tạo ra được. Nó đòi hỏi người ta phải tập trung cao độ để duy trì ảo ảnh. Nếu cô mất tập trung, tất cả những bông hoa sẽ chỉ còn có bốn cánh thay vì mười cánh. Hoặc tất cả những bông hoa sẽ biến mất. Tạo ra những chi tiết là công đoạn khó nhất. Thiên nhiên có rất nhiều những chi tiết. Nhưng trí óc chúng ta chỉ có thể ghi nhớ một chút ít. Nếu cô không biết những gì mình đang nhìn thật là giả hay thật, cô hãy nhìn vào chi tiết của nó. Hãy nhìn những đường nối trong thế giới, nơi những pháp sư không biết hay quên rằng ở đó nên có gì, hoặc không tạo ra để đỡ tốn sức.”

“Nếu khó vậy thì sao Galbatorix làm được?”

“Lão dùng Eldunarí.”

“Tất cả?”

Murtagh gật đầu. “Họ cho hắn năng lượng và những chi tiết. Hắn điều khiển chúng theo ý hắn.”

“Vậy thì, những thứ tôi nhìn thấy dựa trên ký ức của những con rồng?” cô hỏi, có chút kính sợ.

Hắn lại gật. “Và ký ức của các Kỵ sĩ, vì chúng là những con rồng có Kỵ sĩ.”

SÁng hôm sau, Murtagh đánh thức cô dậy và nói với cô rằng Galbatorix sắp tiếp tục. Sau đó, những bóng ma và ảo ảnh thuộc mọi thể loại bao lấy cô. Nhưng một ngày trôi qua, cô để ý rằng tất cả các hình ảnh – ngoài một số cái rất đẹp, như trang viên của Murtagh và cô – đã trở nên càng lúc càng đơn giản. Hình như Galbatorix và các Eldunarí đã mệt.

Giờ cô ngồi trên cánh đồng trơ trụi, ngâm nga một giai điệu của người lùn trong khi các Kull, Urgal, Ra’zac lao về phía cô. Chúng bắt cô, đánh chém cô. Cô hét và ước cơn đau chấm dứt, nhưng cô không một lần nào muốn Galbatorix thỏa ước nguyện.

Rồi cánh đồng biến mất cùng những cơn đau. Cô nói với mình. Chỉ là tưởng tượng thôi. Mình sẽ không bỏ cuộc. Mình không phải con vật. Đầu có mình mạnh hơn xác thịt.

Hang động tối được thắp sáng bởi những cây nấm xanh xung quanh. Cô nghe thấy tiếng một sinh vật nào đó khụt khith và đi lại trong bóng tối giữa các măng đá trong vài phút. Rồi cô cảm nhận hơi thở ấm áp của nó trên gáy cô. Cô ngửi thấy mùi xác thối.

Cô lại cười. Cô tiếp tục cười khi Galbatorix bắt cô đối diện với hết kinh hoàng này tới kinh hoàng khác để làm cô vừa đau vừa sợ mà bỏ cuộc. Cô cười vì cô biết tư tưởng của cô mạnh hơn tưởng tượng của hắn. Cô cười vì cô biết cô có thể tin tưởng Murtagh sẽ giúp cô. Và với hắn là đồng minh, cô sẽ không sợ những cơn ác mộng Galbatorix mang tới. Dù chúng kinh khủng tới mức nào.

52. CÂU HỎI VỀ NHÂN CÁCH

Posted on Tháng Một 13, 2012

Nó trượt chân vì dẫm phải bùn. Nó ngã xuống lớp cỏ ướt. Nó rên rỉ và nhăn mặt vì đau hông. Chắc chắn nó bị thâm rồi.

“Barzûl,” nó nói khi chống chân đứng dậy. Ít nhất mình không hạ cánh trúng Brisingr,  nó nghĩ khi phủi bùn lạnh lẽo trên quần.

Nó ủ rũ bước tới tòa nhà đổ nát họ đã cắm trại vì họ tin tại đó sẽ an toàn hơn trong rừng.

Khi nó bước qua đám cỏ, nó giật mình khi thấy số lượng ếch bò đang nhảy đi trốn. Những con ếch bò chỉ là một trong những sinh vật lạ lùng khác chúng gặp trên đảo. Trên mắt chúng có vết lồi ra như sừng. Ở giữa trán chúng có một cái ống cong cong như cần câu. Cuối cái ống là một miếng da nhỏ sẽ phát ra ánh sáng trắng vàng vào đêm. Ánh sáng đó lừa hàng trăm những con bọ bay vào gầm tầm với của lưỡi ếch. Chúng kiếm mồi dễ nên to béo khác thường. Có vài con bằng cỡ đầu gấu, mồm và đôi mắt trố rộng bằng hai bàn tay có cộng lại.

Những con ếch làm Eragon nhớ tới Angela. Nó đột nhiên ước bà ở trên Vroengard cùng họ. Nếu ai có thể nói cho chúng ta biết tên thật, mình đoán sẽ là bà ấy. Vì lý do gì đó, Eragon luôn có cảm giác bà lang thấu hiểu nó, hiểu mọi thứ về nó. Nó không thích nhưng lúc này thì nó mong điều đó.

Nó và Solembum quyết định sẽ tin Solembum và ở lại Vroengard thêm ba ngày nữa để tìm ra tên thật. Glaedr đã cho chúng tự quyết định. Ông nói, Các con biết rõ Solembum hơn ta. Ở hay không tùy các con. Nhưng kiểu gì thì chúng ta cũng gặp nguy hiểm. Không có con đường mòn nào là an toàn cả.

Saphira là người đưa ra quyết định. Những ma mèo không bao giờ phục vụ, Galbatorix, cô nàng nói.  Họ rất coi trọng tự do. Con tin họ hơn bất cứ sinh vật nào khác, kể cả thần tiên.

THế là họ ở lại.

HỌ dành phần còn lại của ngày hôm dó và hầu hết ngày hôm sau để ngồi, suy nghĩ, nói chuyện, chia sẻ ký ức, kiểm tra đầu óc kẻ khác và thử hàng tá cách kết hợp từ ngữ bằng ngôn ngữ cổ hòng tìm ra tên thật. Hoặc,nếu may mắn, họ sẽ tình cờ tìm ra nó.

Glaedr giúp nếu chúng hỏi. Nhưng phần lớn thời gian, ông im lặng và để Eragon và Saphira trò chuyện riêng tư. Eragon có nhiều điều nó xấu hổ không muốn người khác biết.  Chỉ có người đó mới tìm ra tên thật của người đó, Glaedr nói. Nếu ta biết, ta sẽ nói – vì chúng ta không có thời gian mà lãng phí – nhưng tốt nhất là các con tự mình tìm lấy.

Nhưng chẳng ai thành công cả.

Kể từ khi ông Brom giải thích cho nó về tên thật của mình, Eragon đã muốn biết nó tên gì. Những kiến thức, đặc biệt là những kiến thức về bản thân, vô cùng hữu ích. Nó hy vọng tên thật của nó sẽ giúp nó làm chủ suy nghĩ và cảm xúc tốt hơn. Nhưng nó vẫn cảm thấy lo lắng vì cái nó có thể tìm ra.

Nó không chắc nó có thể biết tên mình chỉ trong nội mấy ngày sắp tới không. Nó hy vọng là mình làm được, vì nó muốn hoàn thành nhiệm vụ và không muốn Glaedr hay Saphira biết được. Nếu nó phải tìm ra một từ miêu tả chính xác con người nó, nó muốn tự mình biết, hay vì để người  khác nói cho mình nghe.

Eragon thở dài khi trèo lên bốn bậc thang vỡ dẫn vào tòa nhà. Kiến trúc này từng theo kiểu nhà tổ chim. Hay theo như Glaedr nói, theo chuẩn mực của Vroengard, tỏa nhà này quá bé nhỏ. Dù vậy nhưng những bức tường vẫn cao hơn tòa nhà ba tầng, không gian bên trong đủ cho Saphira ra vào dễ dàng. Góc nhà phía đông nam đã sụp cùng một phần mái nhà, nhưng phần còn lại vẫn ngon lành.

Tiếng bước chân của Eragon vang vọng khi bước qua sàn nhà mọc cỏ vào căn phòng chính.

Saphira dừng liếm chân trước. Nó cảm thấy cô nàng có gì muốn hỏi nó. Nó lắc đầu, và cô nàng tiếp tục chải chuốt.

Eragon bỏ áo choàng, bước đến bên cạnh đống lửa gần tường. Nó trải tấm vải ướt trên sàn sau đó bỏ đôi giày dính bùn ra và để chúng gần đống lửa cho nhanh khô.

Có phải trời lại sắp mưa không? Saphira hỏi.

Có thể.

Nó ngồi xổm gần đống lửa một lức rồi ngồi lên túi ngủ và dựa vào tường. Nó quan sát Saphira dùng cái lưỡi đỏ ngầu liếm móng chân. Nó đột nhiên nghĩ ra là lẩm bẩm một cụm từ bằng ngôn ngữ cổ, nhưng chẳng cảm nhận được gì từ từ ngữ đó. Saphira cũng không có phản ứng như khi lão Sloan nghe ra Eragon nói tên thật của lão.

Eragon nhắm mắt ngửa đầu ra sau.

Nó chán nản vì tự mình không tìm ra tên thật của Saphira. Nó có thể chấp nhận rằng mình không hoàn toàn hiểu bản thân. Nhưng nó biết Saphira từ giây phút cô em nó chui khỏi vỏ trứng. Nó biết hầu hết những gì cô nàng biết. Làm sao có chuyện cô nàng có gì giấu nó được? Sao nó có thể hiểu một kẻ giết người như lão Sloan hơn là người bạn đồng hành được phép thuật – ràng buộc? Có phải vì cô nàng là rồng còn nó  là người? Có phải vì Sloan đơn giản hơn Saphira?

Eragon không biết nữa.

Một trong những bài tập mà nó và Glaedr làm – theo gợi ý của sư phụ Glaedr – là nói cho nhau biết từ chi tiết họ để ý tới: về người bạn đồng hành. Một bài tập bình thường. Glaedr cũng đưa ra những nhận xét. Dù ông rồng chỉ tốt bụng muốn giúp nhưng Eragon vẫn không thể không cảm thấy tổn thương lòng tự trọng khi nghe Glaedr kể ra một loạt những khuyết điểm. Bản thân Eragon cũng biết nó cần phải biết để tìm ra tên thật.

Đối với Saphira, điều khó nhất là nhận ra tính tự phụ của mình. Cô nàng luôn phủ nhận điều này. Đối với Eragon, đó là sự ngờ nghệch, cảm giác quan tâm đối với người nó đã ra tay giết hại, và tất cả những tính nóng giận, ích kỷ và những tật xấu khác trong con người nó.

Nhưng, dù họ đã thành thật với bản thân hết sức có thể, họ vẫn không khám phá ra điều gì.

Chúng ta chỉ còn hôm nay và ngày mai.  Ý nghĩ tay trắng quay về với Varden làm nó buồn. Làm sao chúng ta đánh bại được Galbatorix đây? Nó tự hỏi rất nhiều lần. Chỉ vài  ngày nữa là mạng sống chúng ta sẽ không còn nằm trong tầm tay của chúng ta.Chúng ta sẽ trở thành nô lệ, giống như Murtagh và Thorn.

Nó lầm bẩm chửi rủa và lén lút đấm tay xuống sàn.

Bình tĩnh nào, Eragon, Glaedr nói. Eragon nhận ra ông rồng đã bao lấy suy nghĩ nó để Saphira không nghe được.

Sao con bình tĩnh được chứ?

Rất dễ để bĩnh tĩnh khi con không có gì để lo lắng, Eragon ạ. Nhưng, thử thách giành cho sự kiềm chế bản thân là liệu con có giữ đường bình tĩnh trong những tình huống khó khăn nhất hay không. Con không thể để sự tức giận  hay nỗi thất vọng làm mờ ý chí của con. Ngay lúc này, đầu óc con cần sáng.

Người có thể luôn giữ bình tĩnh trong tình huống như thế này không?

Ông rồng già dường như đang cười. Không, ta thường gầm lên và cắn và đá đổ cây cũng như xé toang mặt đất. Ta đã có lần lật tung một đỉnh núi trên rặng Spine. Những con rồng khác giận ta lắm. Nhưng ta đã có rất nhiều năm học được rằng giận dữ chẳng giúp được gì. Ta biết con không có, nhưng hãy để kinh nghiệm của ta giúp con. Hay bỏ qua những lo lắng và tập trung vào nhiệm vụ trước mắt. Điều gì cần đến sẽ đến, và lo lắng về nó chỉ khiến nỗi sợ của con trở thành hiện thực mà thôi.

Con biết, Eragon thở dài, nhưng làm thì đâu có dễ.

Tất nhiên là không dễ. Nhưng có vài thứ cần phải như vậy.  Sau đó Glaedr rời đi và để lại nó một mình trong im lặng.

Eragon kiếm cái bát trong túi, nhảy lên trên vòng tròn đá bán nguyệt rồi đi chân trần trên vũng nước bên dưới lỗ hổng trần nhà. Một trận mưa phùn nhẹ đang bắt đầu rơi,phủ lên sàn nhà một lớp nước khiến người ta dễ trượt chân. Nó ngồi chồm hổm gần vũng nước và dùng cái bát để múc nước.

Khi bát nước đã đầy, Eragon lùi lại vài bước và đặt nó lên một tảng đá nặng bằng cả một cái bàn. Sau dó nó nghĩ tới Roran và thì thầm, “Draumr kópa.”

Nước trong bát rung lên, hình ảnh Roran xuất hiện trên nền trắng tinh khiết. Anh đang đi bên cạnh chú Horst và Albriech và dắt thêm con ngựa của anh, Tuyết lửa. Cả ba người đều mệt mỏi và đau chân, nhưng họ vẫn mang theo vũ khí. Eragon biết vậy là Triều đình chưa bắt được  họ.

Sau đó nó triệu hồi Jörmundur, rồi Solembum – lúc này đang xé một con chim sáo vừa bị giết chết – rồi tới Arya, nhưng lá chắn của Arya đã không cho nó nhìn thấy nàng. Nó chỉ thấy một màn đen.

CUối cùng Eragon dừng câu thần chú và đổ nước trở lại vũng nước. Khi nó leo lên hàng rào chắn xung quanh khu trại, Saphira vươn người và ngáp, người cô nàng cong lên như một con mèo. Cô nàng nói, Họ sao rồi?

“An toàn.”

Nó đặt cái bát vào túi rồi nằm trên túi ngủ, nhắm  mắt lại và tiếp tục tìm kiếm tên thật. Cứ vài phút nó lại nghĩ ra vài khả năng, nhưng chẳng cái nào đúng cả. Nó lại tiếp tục tìm kiếm cái mới. Tất cả những cái tên đều mang theo vài điều tất yếu: nó là kỵ sĩ; sự ảnh hưởng cúa nó tới Saphira và Arya; khát vọng muốn đánh bại Galbatorix; quan hệ của nó với Roran, cậu Garrow, ông Brom và quan hệ máu mủ với Murtagh. Nhưng dù nó hết hợp những yếu tố đó thế nào, nó vẫn không tìm ra được cái tên. Rõ ràng nó đã quên mất một nét đặc thù của bản thân mình. Vì thế càng lúc nó càng tạo ra cái tên dài lê thê, hy vọng sẽ vô tình tìm ra cái nó đang tìm kiếm.

Khi những cái tên phải mất hàng phút mới đọc xong, nó nhận ra nó đang phí thời gian. Nó cần kiểm tra lại bản thân. Nó nghĩ lỗi của mình nằm ở việc bỏ qua một số khiếm khuyết, hoặc không đủ quan tâm tới những điểm yếu vốn có của bản thân. Nó biết, hầu hết mọi người thường không muốn biết về sự khiếm khuyết của bản thân. Nó cũng vậy. Bằng cách nào đó, nó phải tìm cách mở mắt cho mình. Nó không nhìn ra khiếm khuyết do nó bị che mắt bởi lòng tự trọng và tự tôn quá lớn. Nó cứ nghĩ bản thân nó là người hoàn hảo. Giờ nó không muốn tiếp tục dối lòng nữa.

Vì thế, nó cứ nghĩ và nghĩ, nhưng vẫn thất bại.

Mưa càng lúc càng nặng hạt. Eragon không thích tiếng mưa rơi trên vũng nước. Âm thanh vô thưởng vô phạt đó khiến nó khó lòng nghe thấy tiếng nếu có kẻ khác định đánh lén chúng. Từ đêm đầu tiên ở Vroengard, nó đã không thấy hay cảm nhận được những người lạ mặt đội mũ trùm nữa. Nhưng, Eragon vẫn biết tới sự hiện diện của họ. Nó có cảm giác như mình và Saphira có thể bị tấn công bất cứ lúc nào.

Những tia nắng xám xịt của một ngày dần biến mất trong hoàng hôn. Một buổi tối đen kịt, không trăng không sao bao trùm thung  lũng. Eragon cho thêm nhiều củi vào đống lửa. Đó là nguồn sáng duy nhất trong căn nhà tổ chim. Ngọn lửa vangd đó giống như ngọn nến bé tí tẹo trong một không gian rộng lớn, vang vọng. Sàn nhà mọc cỏ gần đống lửa phản chiếu ánh sáng từ những que củi cháy. Nó sáng lên như phủ băng đá, những màu sắc thường làm Eragon xao lãng.

Eragon không ăn tối. Nó đói, nhưng quá căng thẳng khiến thức ăn không thể ở yên trong dạ dày.. Nó nghĩ thức ăn sẽ làm chậm suy nghĩ. Không khi nào đầu óc nó hoạt động tốt bằng khi dạ dày rỗng không.

Nó quyết định sẽ không ăn cho tới khi tìm ra tên thật, hoặc tới khi họ rời đảo.

Vài tiếng trôi qua. Họ nói rất ít, dù Eragon vẫn để ý tới những cảm xúc và suy nghĩ chung nhất của Saphira. Cô nàng cũng vậy.

Sau đó, khi Eragon định đi ngủ  và mơ – để nghi ngơi và hy vọng những giấc mơ sẽ cho nó vài gợi ý – Saphira kêu yowl, duỗi móng chân phải và đặt nó xuống sàn. Vài cảnh củi trong đống lửa bật lên và rời ra, khiến vài tàn lửa bắn lên trần nhà.

Eragon giật mình đứng dậy, rút thanh Brisingr trong khi tìm kiếm trong bóng tối xem kẻ thù trốn ở đâu. Một giây sau, nó nhận ra Saphira không phải đang lo lắng hay giận dữ, mà là cảm giác chiến thắng.

Em làm được rồi! Saphira reo lên. Cô nàng ngửng cổ thở ra một ngọn lửa xanh vào lên mái nhà. Em biết tên thật của em rồi! Cô nàng nói một đoạn ngôn ngữ cổ. Bên trong đầu óc Eragon dười như rung lên như chuông. Một giây sau, những cái vảy Saphira sáng lên. Cô nàng trông như được tạo nên từ những vì sao.

Cái tên đó thật lớn lao và tráng lệ, nhưng lại nhuốm chút buồn thương, vì cô là con rồng cái cuối cùng. Trong những từ đó, Eragon nghe thấy được cả tình yêu và sự cống hiến cô nàng dành cho nó, cũng như những đặc điểm làm nên tính cách cô nàng. Nó nhận ra hầu hết; nhưng một vài thì không. Những tật xấu và những điểm tốt đều nổi bật; nhưng trên hết, đó là sự nhấn mạnh tới ngọn lửa, vẻ đẹp và sự tráng lệ.

Saphira rung lên từ mũi tới chóp đuôi. Cô nàng rung cánh.

Em đã biết em là ai, cô nàng nói.

Giỏi lắm, Bjartskular, Glaedr nói và Eragon có thể thấy được sự ấn tượng của ông rồng. Con có một cái tên đáng để tự hào. Nhưng ta sẽ không nhắc lại cái tên đó, dù nói thầm, cho tới khi chúng ta tới… tới cái ngọn tháp. Con phải cẩn trọng không được tiết lộ cái tên của mình.

Saphira chớp mắt rung cánh lần nữa. Vâng, thưa Sư phụ. Cô nàng đang vô cùng phấn khích.

Eragon bỏ Brisingr vào bao và đi tới cạnh cô em. Cô nàng cúi thấp xuống ngang tầm nó. Nó vuốt ve hàm cô nàng, rồi ấn trán lên cái mũi cứng và giữ chặt. Những cái vảy thật sắc dưới cảm nhận của nó. Những giọt nước má nóng bắt đầu chảy xuống má nó.

Sao anh khóc?  Cô nàng hỏi.

Vì…anh thật may mắn khi có em.

Ôi, anh bé nhỏ.

Họ nói chuyện thêm một lúc nữa, vì Saphria rất muốn nói về những thứ cô đã biết về bản thân. Eragon vui vẻ lắng nghe, nhưng nó vẫn có chút cay đắng vì vẫn chưa tìm ra tên thật của mình.

Sau đó Saphira cuộn người lại và đi ngủ, để lại Eragon một mình dưới ánh sáng của ngọn lửa trại đang dần tàn lụi. Glaedr vẫn thức. Thi thoảng Eragon nói chuyện với ông, nhưng chủ yếu nó dành thời gian mà ngẫm nghĩ.

Hàng giờ trôi qua, Eragon càng lúc càng buồn. Nó chẳng còn bao nhiêu thời gian – theo đúng lịch trình, ngày mai nó và Saphira sẽ rời Vroengard – nhưng tới lúc này nó vẫn không thể hiểu bản thân.

Gần tới nửa đêm, mưa đã tạnh.

Eragon bồn chồn cố quyết định. Sau đó nó đứng dậy vì không thể nào ngồi lâu hơn được nữa. Con sẽ đi dạo, nó nói với Glaedr.

Nó cứ nghĩ ông rồng già sẽ phản đối. Nhưng thay vào đó, Glaedr nói, Bỏ lại vũ khí và áo giáp lại.

Vì sao ạ?

Dù con tìm thấy cái gì, con phải tự mình đối mặt. Con không thể biết con là cái gì nếu con dựa vào sự giúp đỡ của người khác hay thứ khác.

Eragon hiểu những gì Glaedr nói, nhưng nó vẫn không muốn tháo bỏ kiếm và dao găm cùng áo giáp. Nó đeo giày và mặc áo choàng ướt vào. Sau đó nó đặt túi đựng trái tim của Glaedr gần Saphira hơn.

Khi Eragon dợm bước rời khỏi vòng tròn đá, Glaedr nói, Làm cái gì con cần, nhưng phải cẩn thận. 

* * *

 Bên ngoài ngôi nhà tổ chim, Eragon mừng thấy những ngôi sao và ánh trăng đang chiếu qua những đám mây soi tỏ đường lối xung quanh.

Nó nhảy lên vài lần. Nó không biết đi đâu. Sau rồi nó quyết định tới trung tâm thành phố đổ nát. Sau vài giây, nó đỡ buồn hơn và tăng nhịp bước.

Khi lắng nghe tiếng thở và tiếng bước chân vang lên trên những tảng đá lát đường, nó tự hỏi mình, MÌnh là ai? Nhưng nó không có câu trả lời.

Nó chạy cho tới khi gần như không thở nổi. Nó chạy thêm một chút nữa cho tới khi không còn đủ sức. Nó dừng lại bên một đài phút nước nổi đầy rêu và dựa tay vào trong khi phục hồi hơi sức.

Chung quanh nó là những tòa nhà khổng lồ: những người khổng lồ trong bóng đêm đó trông giống như những rặng núi cổ xưa vậy. Đài phun nước nằm giữa một sân hình vuông rộng lớn, nhiều viên đá trên đó đã bị vỡ vụn.

Nó đẩy mình đứng dậy, và từ từ đi vòng quanh. Từ xa xa, nó nghe có tiếng ếch bò kêu ồm ộp. Âm thanh đó càng lớn đặc biệt khi có thêm một con nào tham gia cùng.

Một phiến đá vỡ cách đó vài mét khiến nó chú ý. Nó đi tới, bám vào cạnh đá và dùng sức nâng nó lên khỏi mặt đất. Nó đau rần tay và loạng choạng đi vào bước tới góc sân, và ném phiến đá lên lớp cỏ trên đó.

NÓ hạ cánh đánh bụp.

Nó lùi lại đài phút nước, cởi áo choàng và ném nó lên bức tượng. Sau đó nó tới cạnh một viên đá khác – một viên đá hình chữ V rơi khỏi một tảng đá lớn hơn – và đặt nó lên vai.

Trong một giờ đồng hồ, nó làm sạch toàn bộ sân. Vài tảng đá quá lớn, nó phải dùng pháp thuật để di chuyển nhưng hầu hết nó làm bằng tay. Nó làm rất có phương pháp. Nó đi đi lại lại trong sân, và với mỗi tảng đá, nó đều dừng lại và di chuyển chúng đi.

Nó toát mồ hôi. Nó muốn cởi áo, nhưng nếu thế những rìa sắc nhọn của những tảng đá sẽ làm nó bị thương. Như thường lệ, nó lĩnh vài vết bầm trên ngực và vai, tay xước không biết bao nhiêu vết.

Lao động giúp nó bình tĩnh và vì công việc không đòi hỏi nó nghĩ nhiều, nó thoát khỏi những suy nghĩ rối ren về chuyện nó đang và sẽ là ai.

Khi đang làm dở công việc, khi đang ngồi nghỉ, nó nghe có tiếng rít đầy đe dọa. Nó nhìn thấy một con snalglí – vỏ nó phải cao 1.2m – đang lao ra khỏi bóng tối với tốc độ đáng giật mình. Cái cổ không xương của sinh vật thò ra hoàn toàn, cái mồm không môi của nó trông như một hố đen, con mắt trố lố đang nhìn thẳng vào Eragon. Dưới ánh trưng, phần thịt lộ ra ngoài của snalglí  cùng đường nhớt nó để lại trên mặt đất sáng lên như bạc

“Letta,” Eragon nói và đứng thẳng dậy, vẩy sạch máu từ bàn tay bị thương. ““Ono ach néiat threyja eom verrunsmal edtha, O snalglí.”

Khi nó cảnh cáo, con ốc sên chậm lại và đảo mắt một chút. Nó dừng lạ khi còn cách Eragon một đoạn. Nó lại rít lên và vòng sang bên trái.

“Ôi, đừng thế chứ,” Eragon lầm bầm và quay theo con vật. Nó liếc nhìn để chắc chắn không còn một snalglí nào lảng vảng quanh đây.

Con ốc sên khổng lồ dường như nhận ra nó không khiến Eragon bất ngờ. Nó dừng lại và rít lên và đảo tròng mắt.

“Mày kêu như ấm đun nước sôi ấy,” Eragon nói.

Đôi tròng mắt của snalglí đảo nhanh hơn rồi nhìn thẳng vào Eragon.

Eragon đợi tới phút chót rồi nhảy sang một bên và để cho snalglí lỡ trón phóng qua. Nó cười và vỗ lên vỏ sinh vật. “Mày cũng chẳng quá thông minh nhỉ?” Nó nhảy qua và bắt đầu nói chuyện với sinh vật, gọi nó bằng đủ cái tên thóa mạ nhưng chính xác.

Con ốc sên hình như đang điên lên – cổ nó phình lên, nó mở miệng nhanh hơn và bắt đầu vừa rít vừa phun phì phì.

Sinh vật hết lần này tới lần khác lao vào Eragon. Lần nào Eragon cũng nhảy tránh. Cuối cùng snalglí mệt. Nó lùi lại gần 6m và nhìn chằm chằm Eragon bằng đôi tròng mắt to bằng cả nắm tay.

“Mày tóm được mọi thứ kiểu gì khi chậm thế hả?” Eragon chế nhạo hỏi. Nó lè lưỡi trêu ngươi con ốc sên.

Con snalglí lại rít lên. Sau đó nó quay người chui vào bóng tối.

Eragon đợi vài phút cho chắc sinh vật đã bỏ đi trước khi quay lại dọn đống đá vụn. “Có lẽ mình nên lấy hiệu là Khắc tinh của Ốc sên mới đúng,” nó lầm bầm khi lăn một cột đá trên sân. “Eragon, Khắc tinh của Tà thần, Khắc tinh của Ốc sên… Mình sẽ khiến nhiều người sợ tới tim đập chân run ấy chứ.”

Đêm đã vào thời gian đen tối nhất thì nó cuối cùng cũng dọn sạch cái sân. Nó đứng đó mà thở dốc. Nó lạnh, đói và mệt. Những vết thương trên bàn tay và cổ tay cứ nhói lên.

Nó đứng tại góc đông bắc cái sân. Phía bắc là một đại sảnh lớn đã bị hủy hoại hầu hết trong chiến tranh. Nhưng gì còn lại chỉ là một bức tường đen và một cột đá bị trường xuân cuốn quanh ở nơi từng là lối vào.

Nó nhìn cột đá lâu nhất. Trên đó, là những ngôi sao – màu đỏ, xanh và trắng – chiếu sáng trên bầu trời như những viên kim cương đã được đẽo gọt. Nó cảm thấy bị cuốn hút vì một thứ gì đó kỳ quặc.

Nó vô thức bước tới chân cột – trên mặt đất lổn nhận đất đá – rồi vươn cao hết mức có thể và chạm vào bụi trường xuân mọc dày nhất. Những sợi dây leo tô bằng cẳng tay nó và có hàng ngàn rễ con.

Nó giật sợi dây leo. NÓ bám chắc, thế là Eragon nhảy khỏi mặt đất và trèo lên. Nó ước chừng cột đá cao 90 mét, nhưng khi leoo lên nó cảm thấy cột đá còn cao hơn nhiều.

Nó biết nó đang hấp tấp, nhưng sau đó, nó cảm thấy mình hấp tấp.

Được nửa chừng, những sợi tua nhỏ hơn của dây leo bắt đầu tuột khỏi đá khi nó bám vào. Sau đó, nó phải cẩn thận chỉ bám vào những cành chính và những nhánh cây dày hơn.

Nó suýt tuột tay khi gần lên tới nóc.. Chóp cột đá vẫn còn nguyên vẹn. Nó là một mặt phẳng hình vuông đủ lớn để ngồi lên mà còn thừa ra mỗi bên 0,3 m.

Eragon hơi run. Nó khoanh chân và đặt hai tay lên đầu gối, để cho không khí mơn man làn da bị thương.

Bên dưới nó là thành phố đổ nát; một mê cung những thứ đổ nát thường vọng lại những tiếng kêu thét kỳ lạ và tuyệt vọng. Ở vài nơi từng là một hồ nước, nó thấy ánh sáng mờ mờ từ đèn bắt mồi của những con ếch bò, giống như ánh đèn nhìn từ khoảng cách xa.

Những con ếch câu cá, nó đột nhiên nghĩ bằng ngôn ngữ cổ. Đó là tên chúng: ếch câu cá. Nó biết nó đúng, vì từ  ngữ đó đúng như kiểu chìa khóa tra đúng ổ vậy.

Sau đó nó nhìn những ngôi sao bên đầu. Nó thở từ từ và tập tủng duy trì cách thở. LẠnh, đói, run rẩy khiến nó cảm thấy cực kỳ minh mẫn. Nó như đã thoát xác, như thể kết nổi giữa tinh thần và xác thịt đã lỏng lèo hơn. Nó đang trôi lên trên ngắm toàn bộ thành phố và hòn đảo. Nó cực kỳ nhạy cảm với từng luồng gió và từng âm thanh và mùi vị thổi qua đỉnh cột đá.

Nó ngồi đó, nghĩ đến nhiều cái tên hơn. Dù không cái nào mô tả hoàn toàn về nó, nhưng thất bại không làm nó nản lòng, vì giờ đây sự minh mẫn đang ở sâu trong con người nó.

Làm sao mình có thể miêu tả toàn bộ con người mình chỉ bằng vài từ?  Nó phân vân và tiếp tục đặt những câu hỏi khi quan sát những vì sao.

Ba bóng đen biến dạng bay qua thành phố – như những vết rạn nhỏ, biết chuyển động vậy – đậu xuống mái nhà bên trái nó. Sau đó, những bóng ma cú dựng lông lên và nhìn nó bằng đôi mắt sáng như mắt quỷ. NHững bóng đen rì rào nói chuyện với nhau. Hai trong số chúng rỉa cánh bằng những móng vuốt đen sì. Con thứ ba đang dùng móng vuốt đen như gỗ mun quặp một con ếch bò.

Nó quan sát những con chim ma vài phút, chúng cũng nhìn lại nó.Sau đó chúng bay đi và biến mất ở phía động, phát ra tiếng động không to hơn tiếng lông rơi là mấy.

Gần bình minh, Eragon nhìn thấy ngôi sao mai giữa hai đỉnh núi phía đông. Nó tự hỏi. “MÌnh muốn cái gì?”

Tới lúc đó, nó chẳng cần nghĩ sâu xa hơn tới câu trả lời. Tất nhiên nó muốn hạ bệ Galbatorix. Nhưng, liệu nó và quân Varden có thành công không? Từ khi nó rời khỏi Thung lũng Palancar, nó cứ nghĩ nó và Saphira sẽ có ngày trở lại, ở ngọn núi nó yêu thích. Nhưng, giờ khi nghĩ lại, nó chẳng hứng thú gì nữa.

Nó đã lớn lên ở Thung lũng Palancar. Nó luôn coi đó là quê hương của nó. Nhưng ở đó còn gì cho nó hay Saphira thương nhớ? Làng Carvahall đã bị hủy diệt, mà kể cả nếu dân làng có dựng lại làng, ngôi làng cũng không còn như cũ nữa. Hơn nữa, bạn bè của nó và Saphira hầu hết sống ở nơi khác. Nó và Saphira có nghĩa vụ với rất nhiều nòi giống của Alagaësia. CHúng không thể lờ những trách nhiệm đó đi. Và sau tất cả những gì chúng đã làm và chứng kiến, nó không nghĩ rằng cả hai có thể sống tại một nơi tách biệt và giản dị như thế.

Vì bầu trời khum khum còn trái đất hình tròn…

Kể cả nếu chúng quay lại, chúng sẽ làm gì nào? Chăn bò và trồng lúa mì ư? Nó không muốn sống chắt bóp như đã từng sống hồi thơ bé. Nó và Saphira giờ là Kỵ sĩ và rồng. Định mệnh tới chết của chúng là bay tới tận cùng lịch sử, chứ không phải ngồi trước đống lửa tới béo ị ra.

Và còn Arya nữa. Nếu nó và Saphira sống ở Thung lũng Palancar, nó sẽ hiếm, nếu không muốn nói là không bao giờ, được gặp lại  nàng.

“Không,” Eragon nói, từ ngữ vang lên trong cảnh tĩnh lặng như một tiếng búa nện. “MÌnh không muốn trở lại.”

Nó lạnh sống lưng. Nó biết nó đã thay đổi từ ngày nó, ông Brom và Saphira rời đi lần theo dấu vết Ra’zac. Nhưng nó vẫn nghĩ, sâu trong tâm khảm, nó vẫn là con người cũ. Nhưng giờ  nó biết là không phải. Câu nhóc lần đầu tiên đặt chân ra khỏi thung  lũng Palancar đã không còn; Eragon không giống cậu nhóc đó, không hành động như cậu nhóc đó, và nó không còn mong muốn những thứ như cậu nhóc đó.

Nó hít một hơi thật sâu và thở dài khi thấm thía sự thật đó.

“Mình không còn là mình nữa.” Nó nói lớn như để giảm bớt sức nặng.

Sau đó, khi ánh bình minh đầu tiên chiếu sáng bầu trời phía đông của Vroengard – nơi các Kỵ sĩ và rồng từng sinh sống, nó nghĩ tơi một cái tên – một cái tên nó chưa bao giờ nghĩ tới. Nhưng khi đã nghĩ ra, nó vô cùng chắc chắn.

Nó nói cái tên, thì thầm nó cho riêng mình nghe. Toàn bộ cơ thể nó như ngay lập tức run lên, như thể Saphira đang rung cây cột vậy.

Sau đó nó thở gấp và vừa cười vừa khóc – cười vì nó thành không và vì hạnh phúc vì đã hiểu bản thân; khóc vì tất cả những thiếu sót và những sai lầm của mình giờ đã trở nên rõ ràng. Giờ nó không thể lờ chúng đi để làm mình vui vẻ.

“Mình không còn là mình nữa,” nó thì thầm và bóp chặt láy một bên cột, “nhưng mình biết mình là ai.”

Cái tên, cái tên thật của nó, yếu và nhiều khiếm khuyết hơn nó thích. Nó ghét bản thân vì điều đó. Nhưng trong đó có rất nhiều điều để ngưỡng mộ. Nó càng nghĩ tới cái tên đó nhiều, nó càng chấp nhận được bản chất con người mình hơn. Nó không phải người tốt nhất trên thế giới này. Nhưng nó không phải kẻ tệ hại nhất.

“Và minh sẽ không  bỏ cuộc,” nó hét lên.

Nó thấy được an ủi vì tính cách không phải cái bất biến. Nó có thể cải thiện bản thân nếu muốn. Và lúc này, nó thề với lòng sẽ làm tốt hơn trong tương lai, dù có khó khăn thế nào.

Nó vẫn vừa cười vừa mà ngửa mặt lên trời và dang rộng cánh tay. Lúc này, những giọt nước mắt và tiếng cười đã ngừng lại. Nó cảm thấy cực kỳ bình tĩnh. Dù Glaedr nhắc nhở gì, nó vẫn một lần nữa thì thầm tên thật, một lần nữa để cơ thể rung lên trước những từ ngữ.

Nó vẫn dang rộng cánh tay, đứng trên nóc cột đá, rơi cắm đầu xuống đất. Trước khi chạm mặt đất, nó nói, “Vëoht”. Nó rơi chậm lại, đảo người và đứng trên tảng đá vỡ nhẹ nhàng như vừa bước ra từ một cỗ xe ngựa.

Nó quay lại đài phun nước ở giữa sân và mặc lại áo choàng. Sau đó, khi ánh sáng chiếu tỏ thành phố đổ nát, nó rảo bước trở về nhà tổ chim, vui vẻ đánh thức Saphira và nói cho cô em nó và Glaedr về phát hiện của mình.

53. HẦM MỘ CỦA NHỮNG LINH HỒN

Eragon nâng kiếm và khiên. Nó vừa háo hức, vừa lo sợ.

Như lúc trước, Eragon và Saphira đứng dưới Tảng đá Kuthian trong khi trái tim Glaedr nằm ở một cái hộp nhỏ giấu trong túi trên lưng Saphira.

Giờ vẫn là sáng sớm, mặt trời chiếu sáng rạng rỡ qua những giọt mưa rơi xuống từ tấm màn mây. Eragon và Saphira muốn đi thẳng tới Tảng đá Kuthian ngay khi Eragon trở về nhà tổ chim. Nhưng Glaedr bắt Eragon ăn trước, sau đó chờ đợi cho thức ăn tiêu hóa.

GIờ khi đã đứng trước tảng đá lởm chởm. Eragon cũng như Saphira mệt mỏi phải chờ đợi.

Ngay khi chúng cho nhau biết tên thật của mình, mối liên hệ giữa họ dường như còn mạnh hơn. Co lẽ vì giờ chúng đã nghe rất nhiều thứ mà chúng quan tâm về nhau. Nó là một cái gì đó chúng luôn  biết, nhưng dù sao, giờ chũng càng thân thiết hơn.

Ở nơi nào đó phương bắc, có tiếng quạ kêu.

Ta sẽ thử trước,  Glaedr nói. Nếu đây là cái bẫy, ta sẽ biết trước khi nó tóm được hai con.

Eragon định rút tư tưởng khỏi Eragon. Saphira cũng làm tương tự. Chúng muốn ông rồng già nói tên thật của mình mà không bị ai nghe lỏm. Nhưng Glaedr nói, Không, các con đã nói cho ta biết tên. Giờ các con có quyền biết tên ta.

Eragon nhìn Saphira, rồi cả hai cùng nói, Cám ơn, Ebrithil.

Sau đó Glaedr nói tên. Nó nổ tung trong đầu óc Eragon như một tiếng kèn trumpet, vương giả nhưng nghịch tai, đầy màu sắc vì nỗi buồn và sự tức giận trước cái chết của ông Oromis. Tên ông dài hơn cả tên Eragon và Saphira. Nó kéo dài tới vài câu – như một bản ghi chép kéo dài hàng thế kỷ và mang cả hạnh phúc và nỗi buồn không thể kể hết. Sự thông thái của ông hiển hiện rõ trong cái tên, nhưng cũng có sự trái nghịch: phức tạp tạo khiến người ta khó nắm bắt con người ông.

Saphira và Eragon kính sợ khi nghe tên ông. Âm thanh đó khiến chúng nhận ra chúng còn non trẻ thế nào và chúng phải đi bao xa mới có thể xứng tầm hiểu biết và kinh nghiệm của Glaedr.

Không biết tên thật của Arya là gì, Eragon tự nhủ.

Họ quan sát tảng đá Kuthian, nhưng không thấy gì thay đổi.

Saphira tiếp. Cô nàng vươn cổ và móng vuốt trên mặt đất theo tư thế sắp sửa tấn công. Cô nàng tự hào nói tên thật. Dù dưới ánh sáng ban ngày, lớp vảy lại một lần nữa sáng lên.

Nghe cô em và Glaedr nói tên thật làm Eragon ít nghĩ về bản thân hơn. Tất cả đều không hoàn hảo, nhưng họ không ai đánh giá thấp kẻ khác mà ngược lại, họ hiểu nhau và tha thứ cho nhau hơn.

Một lần nữa, không có gì xảy ra.

Cuối cùng, Eragon bước lên. Trán nó rịn mồ hôi lạnh. Nó biết đây có thể là hành động cuối cùng của nó cũng như Glaedr và SAphira trong tư thế một kẻ tự do. Họ đã đồng ý rằng nó tốt nhất là không nói lớn tên, để giảm khả năng có kẻ nghe lỏm được.

Khi Eragon nghĩ chữ cuối cùng trong đầu, một đường kẻ đen mỏng xuất hiện ở chân tòa tháp.

Nó chạy lên cao 15m sau đó chia làm đôi và vòng sang hai chiều, hình thành hai cánh cửa lớn. Trên cánh cửa là từng hàng từng hàng chữ tượng hình bằng vàng: lưới bảo vệ chống lại sự tìm kiếm bình thường cũng như bằng pháp thuật.

Một khi đường nét bên ngoài đã hình thành xong, cánh cửa bật mở khỏi then chốt vô hình, thổi tung lớp bụi bẩn và cây cỏ mọc lùm xùm trước tòa tháp kể từ lần cuối cánh cửa được mở ra. Qua cánh cửa là một đường hầm dốc xuống sâu trong lòng đất.

Cánh cửa mở một nửa, khu đất trông lại chìm vào im lặng.

Eragon nhìn chăm chăm vào đường hâm đen tối, càng lúc càng thấy sợ hãi. Họ đã tìm thấy cái tìm tìm kiếm, nhưng nó vẫn không chắc liệu họ có rơi vào bẫy không.

Solembum không nói dối, Saphira nói. Lưỡi cô nàng thò thụt đánh hơi.

Ừ, nhưng cái gì sẽ chờ đợi chúng ta bên trong kia? Eragon hỏi.

Nơi này không nên tồn tại, Glaedr nói. Chúng ta và các Kỵ sĩ đã che giấu rất nhiều bí mật ở Vroengard, nhưng hòn đảo này quá nhỏ cho một đường hầm lớn như thế này được xây dựng mà không ai hay biết. Mà ta chưa nghe về nó bao giờ.

Eragon nhíu mày và liếc nhìn xung quanh. Nơi đây chỉ có mình họ; không ai định đánh úp họ cả. Liệu có khả năng nó được xây dựng trwocs khi các hiệp sĩ đến định cư trên Vroengard không?

Glaedr nghĩ một lát. Ta không biết. Nhưng cũng có thể. Đây là giải thích hợp lý duy nhất, nhưng nếu vậy thì đường hầm này quá cổ xưa.

Ba người dùng tư tưởng tìm kiếm trong đường hầm, nhưng không có sinh vật sống nào trong đó.

Được rồi, Eragon nói. Mồm nó chua mùi sợ hãi, bàn tay đeo găng nó túa mồ hôi. Dù họ sẽ tìm thấy cái gì ở cuối đường hầm, nó muốn biết luôn. Saphira cũng lo lắng, dù không bằng nó.

Chúng ta hãy đào con chuột trốn trong hang này ra, cô nàng nói.

Sau đó họ cùng nhau bước qua cánh cửa vào đường hầm.

Khi chóp đuôi Saphira lướt qua bản lề, cánh cửa đóng lại phía sau với một tiếng rầm lớn, nhốt họ trong bóng tối.

“A, không, không, không!” Eragon hét lên và lao về phía cửa. “Naina hvitr,”nó nói, và một ánh sáng trắng không biết từ đâu chiếu sáng lối vào đường hầm.

Bề mặt bên trong cánh cửa trơn nhẵn tới độ hoàn hảo. Dù nó đẩy và đấm thế nào, nó vẫn không suy xuyển. “Chết tiệt. Chúng ta phải dùng que gậy hoặc đá may ra mới nậy nó ra được,” nó rên rỉ trách cứ mình vì không nghĩ tới trước.

Nếu chúng ta buộc phải làm, chúng ta luôn có khả năng đập đổ cánh cửa này, Saphira nói.

Ta nghi ngờ lắm, Glaedr nói.

Eragon lại nắm chặt thanh Brisingr. Vậy con đoán chúng ta không còn lựa  chọn nào ngoài đi tiếp.

Có khi nào chúng ta có lựa chọn nào khác  ngoài đi tiếp đâu?

Eragon thay đổi câu thần chú để ngọn đèn ma tiếp tục tỏa sáng từ một điểm duy nhất gần trần hầm – nếu không nó và Saphira sẽ không biết hang sâu bao nhiêu – và sau đó, họ cùng nhau bước xuống đường hầm dốc.

Nền hang có chút mấp mô vì thế họ đi dễ dàng dù không có các bậc thang. Tường và sàn hang như hòa vào nhau tựa như đá được đun nóng chảy. Eragon nghĩ có khả  năng cái hang này là tác phẩm của thần tiên.

Họ càng đi sâu hơn vào lòng đất. Eragon đoán họ đã phải tới chân đồi đằng sau Tảng đá Kuthian và chui sâu vào lòng ngọn núi đằng sau đó. Đường hầm không hề có khúc quanh hay phân nhánh. Trên tường không có một cái gì.

Cuối cùng Eragon cảm nhận được một luồng khí ấm bốc lên từ sâu trong đường hầm. Nó để ý có ánh sáng cam nhạt chiếu tới từ phía xa. “Letta,” nó lẩm bẩm, và ngọn đèn ma tắt rụi.

Không khí càng lúc càng ấm hơn khi họ đi xuống. ÁNh sáng càng lúc càng sáng. Dần dần họ đã thấy cuối đường hầm: một mái vòm đen khổng lồ khắc chi chít những con chứ tượng hình khắc nổi trông như những chiếc gai. Không khí ảm mùi lưu huỳnh. Eragon chảy nước mắt.

Họ dừng lại trước cổng vòm. Trước mắt họ chỉ là một sàn nhà xám xịt phẳng lì.

Eragon liếc nhìn lại đoạn đường họ vừa đi qua, sau đó lại nhìn mái vòm. Kiến trúc lởm chởm này khiến nó  và Saphira bồn chồn lo lắng. Nó cố đọc những chữ tượng hình, như chúng quá dày và lộn xộn khiến nó không hiểu được. Nó không hề thấy có năng lượng nào dự trữ trong khối kiến trúc màu đen này. Nhưng nó không tin rằng nơi đây không bị ếm bùa. Dù ai xây đường hầm thì kẻ đó cũng đã thành công trong việc giấu cánh cửa khỏi thế giới bên ngoài. Như vậy họ hoàn toàn có thể giấu bất cứ thứ gì trong đây.

Nó liếc nhìn Saphira rồi liếm môi khi nhớ lại điều sư phụ Glaedr từng nói: Không có con đường nào an toàn.

Saphira khụt khịt và thở ra một ngọn lửa nhỏ qua hai lỗ mũi. Sau đó, cả hai sánh bước đi qua cổng vòm.

54. NHỮNG HỐC ĐÁ (PHẦN I)

Posted on Tháng Một 14, 2012

Eragon ngay lập tức để ý tới vài điều.

Thứ nhất, họ đang đứng ở một bên căn phòng hình tròn có bán kính hơn 60 mét. Ở giữa căn phòng đặt một chiếc bình lớn. Đó chính là nguồn sáng họ nhìn thấy lúc trước. Thứ hai, trong phòng cực kỳ nóng. Thứ ba, bao quanh căn phòng là hai vòng tròn bậc thang như ghế băng – hàng sau cao hơn hàng trước – trên đó có rất nhiều những vật thể ẩn trong bóng tối. Thứ tư, bức tường đằng sau vòng bậc thang lóe sáng ở nhiều chỗ, như thể trên đó gắn pha lê màu. Nhưng nó không có cơ hội xem xét bức tường hay những vật thể tối đen kia, vì khu vực trống cạnh cái bình phát sáng có một người đàn ông đầu rồng đang đứng.

Người đàn ông này là bức tượng kim loại. Hắn tỏa sáng như làm bằng thép bóng. Ông ta chỉ đóng một cái khố, ngực và tứ chi cuồn cuộn cơ bắp như Kull.Tay trái hắn ta cầm một cái khiên, tay phải cầm một lưỡi kiếm phát ra ánh sáng ngũ sắc. Đó là thanh kiếm của Kỵ sĩ.

Đằng sau người đàn ông, sâu trong căn phòng, Eragon lờ mờ nhìn thấy một ngai vàng và một bóng người ngồi trong đó.

Người đàn ông đầu rồng bước lên. Da và cơ bắp hắn mịn màng như da người, nhưng mỗi cử động lại như cả tấn hạ xuống sàn nhà. Hắn dừng lại khi cách Eragon và Saphira 9m. Hắn nhìn chúng bằng cặp mắt như hai hòn lửa đỏ. Sau đó, hắn ngửng cái đầu đầy vẩy lên và gầm lên tiếng gầm có hơi hướm kim loại vang vọng như có cả tá sinh vật hưởng ứng theo.

Ngay khi Eragon đang phân vân có nên đánh hay không, nó cảm nhận có một tư tưởng kỳ lạ, rộng suốt chạm vào nó. Nó chưa gặp loại tư tưởng này. Dường như nó chứa rất nhiều giọng la hét, những tiếng ngân vang chói tai khiến nó liên tưởng tới tiếng gió trong cơn bão.

Trước khi nó kịp phản ứng, tư tưởng đó vượt qua lưới phòng thủ và làm chủ suy nghĩ của nó. Dù nó đã dành bao nhiêu thời gian luyện tập cùng Glaedr, Arya và Saphira, nó vẫn không thể ngăn chặn cuộc tấn công này. Thậm chí nó còn không cản bước nổi. Như thể nó dùng tay trần ngăn cả một cơn thủy triều vậy.

Một luồn ánh sáng cùng một tiếng gầm đinh tai nhức óc bao lây nó như thể vang tới từng ngóc ngách trong cơ thể nó. Sau đó, tiếng kêu đó như thể kẻ đột nhập đang xé toạc đầu óc nó ra thành nửa tá miếng nhỏ – từng mảnh vẫn biết đến nhau, nhưng chúng không thể làm điều chúng muốn – và thị giác của nó mờ đi. Nó nhìn căn phòng mà như nhìn qua một viên đá được mài giũa.

Sau ký ức khác nhau bắt đầu xâm nhập vào tư tưởng nó. Nó không chọn nhớ lại chúng. Chúng đơn giản chỉ xuất hiện, và trôi nhanh khiến nó không kịp hiểu chuyện. CÙng lúc đó, nó cúi gập người theo nhiều tư thế khác nhau. Nó giơ thanh Brisingr lên ngang tầm mắt. Nó chứng kiến cùng lúc sáu phiên bản của cùng một thanh kiếm. Kẻ xâm nhập thậm chí còn buộc nó đọc thần chú. Nó không hiểu mục đích câu thần chú là gì. Nó bị điều khiển. Nó không cảm thấy gì ngoài nỗi kinh hoàng đang nhạt dần.

Eragon cảm giác như kẻ lạ mắt kia dành hàng tiếng đồng hồ kiểm tra từng ký ức một, từ lúc nó rời nhà đi săn nai trên rặng Spine – ba ngày trước khi tìm thấy trứng của Saphira – cho tới hiện tại. Eragon có thể cảm nhận điều tương tự xảy ra cho Saphira. Nhưng dù biết nó cũng không làm được gì.

CUối cùng, rất lâu sau khi nó mất hy vọng được thả ra thì đoạn điệp khúc đó cẩn thận ghép từng mảnh tư tưởng của nó lại rồi rút lui.

Eragon lảo đảo bước lên và ngã khuỵu một chân xuống trước khi lấy lại được thăng bằng. Bên cạnh nó, Saphira lắc lư, tớp không khí.

Bằng cách nào? Nó nghĩ. Ai vậy? Để bắt được tất cả cùng một lúc, kể cả Glaedr không phải một điều dễ dàng. Nó tin kể cả Galbatorix cũng đừng hòng làm được.

Một lần nữa tư tưởng đó lại chạm tới đầu óc Eragon. Nhưng lần này nó không tấn công. Lúc này, tư tưởng đó nói. Chúng ta xin lỗi, Eragon và Saphira. Nhưng chúng tôi phải đảm bảo biết rõ mục đích của các ngươi. Chào mừng tới Hầm mộ của Những Linh Hồn. Chúng ta đã đợi hai ngươi rất lâu rồi. Và chào mừng ngươi nữa, người anh em. Chúng ta mừng là ngươi còn sống. Giờ hãy nhớ lại. Cuối cùng nhiệm vụ của ngươi cũng hoàn thành!

Một tia năng lượng lóe lên giữa Glaedr và tư tưởng đó. Một giây sau, Glaedr gầm lên khiến thái dương Eragon đau nhói. Cảm xúc của con rồng vàng rất hỗn độn: buồn có, chiến thắng có, không tin có, hối hận có, và trên hết, là cảm giác thanh thản. Eragon cười không biết vì sao. Nó cảm thấy đang tiếp xúc với tư tưởng của ông Glaedr không chỉ có một mà là vô số tư tưởng khác khác. Tất cả đều đang thì thầm to nhỏ.

“Ai đấy?” Eragon hỏi nhỏ. Trước mặt họ, người đàn ông đầu rồng không suy suyển lấy một phân.

Eragon, Saphira nói. Hãy nhìn bức tường. Nhìn đi…

Nó nhìn. Và nó thấy bức tường hình tròn không phải được trang trí bằng pha lê như nó tưởng. Trên tường có hàng tá, hàng tá lỗ đục trên tường. Trong mỗi hõm là một khối cầu phát sáng. Một số lớn, một số nhỏ, nhưng chúng đều tự mình tỏa ra ánh sáng dìu dịu, như than cháy sắp tàn.

Trái tim Eragon lỡ nhịp khi hiểu chuyện gì xảy ra.

Nó cúi xuống nhìn những vật thể đen đen trên hàng ghế bên dưới. Chúng nhẵn nhụi, hình trứng như thể mài dũa từ những viên đá màu sắc khác  nhau. Cũng giống như những khối cầu, ở đây có viên lớn viên nhỏ. Nhưng dù kích cỡ thế nào, Eragon cũng nhận ra hình dạng của chúng bất cứ nơi đâu.

Một cơn gió nóng thổi bạt qua nó. Đầu gối nó bủn rủn. Không thể nào. Nó muốn tin điều mình nhìn thấy, nhưng nó sợ đây chỉ là ảo ảnh đáp ứng hy vọng của nó. Nhưng dù chỉ là khả năng thôi cũng đủ khiến nó nín thở và lảo đảo và bất ngờ tới không biết làm gì hay nói gì. Phản ứng của Saphira cũng tương tự, nếu không muốn nói là mãnh liệt hơn.

Sau đó tư tưởng kia nói: Đứa nhỏ kia, ngươi không hề lầm và đôi mắt ngươi không hề đánh lừa ngươi. Chúng ta là hy vọng bí mật của giống loài ngày. Ở đây là trái tim của chúng ta – những Eldunarí tự do cuối cùng trên mảnh đất này – cùng những quả trứng chúng ta đã canh giữ hơn một thế kỷ.

55. NHỮNG HỐC ĐÁ (PHẦN II)

Posted on Tháng Một 17, 2012

Trong một lát, Eragon không thể cử động. Hay hít thở.

Sau đó nó thì thầm, “Những quả trứng đó, Saphira… Trứng.”

Cô nàng rùng mình như bị lạnh. Những cái vảy trên xương sống dựng đứng khỏi lớp da.

Các vị là ai? Nó hỏi tư tưởng. Sao chúng tôi biết có thể tin các vị hay không?

Họ nói thật, Eragon, Glaedr nói bằng ngôn ngữ cổ. Ta biết, vì Oromis là một trong những người đã lên kế hoạch cho nơi này.

Sư phụ Oromis…?

Trước khi Glaedr cất lời, tư tưởng kia nói, Tên ta là Umaroth. Kỵ sĩ của ta là tiên nhân Vrael, người lãnh đạo vùng đất này trước ngày tàn của chúng ta tới. Ta đại diện nhưng không ra lệnh cho những người khác, vì mặc dù một số trong chúng ta được ràng buộc với Kỵ sĩ nhưng phần đông thì không. Những trí tuệ hoang dã có quyền kiểm soát bản thân họ. Khi nói tới đây, ông rồng có chút bực bội. Nếu tất cả chúng ta đều nói cùng lúc, ngươi sẽ khó hiểu nổi. Vì thế ta sẽ nói hộ họ.

Còn ông là…? Eragon chỉ người đàn ông đầu rồng màu bạc đằng trước nó và Saphira.

Không, Umaroth trả lời. Hắn là Cuaroc, Thợ săn Nïdhwal và Khắc tinh của Urgal. Bà phù thủy Silvarí đã tạo nên cơ thể hiện giờ cho hắn, để hắn giúp chúng ta chống lại Galbatorix hoặc bất cứ kẻ thù nào xâm nhập Hầm mộ của Những Linh Hồn.

Khi Umaroth nói, người đàn ông đầu rồng dùng tay phải đặt lên một cái then ẩn, mở phần trước ngực ra như mở một cái chạn bát đĩa. Bên trong ngực Cuaroc là một trái tim rồng màu tím được bao quanh bởi hàng ngàn sợi dây bạc mỏng như sợi tóc. Sau đó Cuaroc đóng giáp ngực lại. Uraroth nói. Không, ta ở đây, rồi ông ta hướng ánh nhìn của Eragon tới một cái hõm chứa một Eldunarí trắng lớn.

Eragon chậm rãi tra Brisingr vào bao.

Trứng và Eldunarí. Eragon không thể tin nổi. Đầu óc của nó chậm chạp và trị trệ như vừa bị quai vào đầu – có khi nó lãnh đòn thật chứ chẳng chơi.

Nó bắt đầu đi về vòng tròn tới phía bên phải mái vòm đen khắc những con chữ tượng hình. Sau đó, nó dừng lại trước Cuaroc và nói, nói lớn và bằng tinh thần. “Tôi có thể chứ?”

Người đàn ông đầu rồng nghiến răng và lùi lại vài bước. Hắn đứng cạnh cái bình phát sáng ở giữa phòng. Nhưng hắn vẫn rút gươm, khiến Eragon không thể không đề phòng gã.

Eragon vừa phân vân vừa tôn kính khi tiến gần những quả trứng. Nó dựa người vào vòng tròn thấp và thở một hơi run rẩy trong khi nhìn quả trứng màu đỏ vàng cao gần 1.5m. Nó đột nhiên thấy vội vã. Nó tháo găng tay và dùng lòng bàn tay chạm vào quả trứng. Quả trứng thật ấm. Khi nó vươn đầu óc cùng bàn tay ra, nó cảm thấy được tư tưởng đang ngủ say của con rồng chưa nở.

Hơi thở nóng ấm của Saphira phả vào cổ nói khi cô nàng tới gần.

Quả trứng của em nhỏ hơn thế này, nó nói.

Vì mẹ em không quá lớn tuổi và không lớn như con rồng đã đẻ ra quả trứng này.

À. Anh chưa bao giờ nghĩ tới điều đó.

Nó nhìn lên toàn bộ những quả trứng còn lại. Cổ họng nó khô cứng. “Có quá nhiều,” nó thì thầm. Nó tì vai lên hàm Saphira và thấy cô nàng đang run. Nó biết, cô em nó không muốn gì hơn ngoài việc được ôm trong tư tưởng với đồng loại. Nhưng giống như nó, cô nàng không dám tin những gì đang chứng kiến là thực.

Cô nàng khụt khịt và nhìn vòng quanh hết phòng. Sau đó cô nàng gầm làm bụi trên trần nhà rơi lả tả. Làm thế nào? Cô nàng gầm lên bằng tư tưởng. Sao các vị có thể trốn khỏi Galbatorix? Những con rồng chúng ta không trốn chạy khi chiến đấu. Chúng ta không phải những kẻ hèn nhát trốn chạy nguy hiểm. Hãy giải thích đi!

Đừng nói lớn vậy, Bjartskular, không con sẽ làm những con rồng non trong trứng buồn đấy, Umaroth khiển trách.

Vậy nói đi, ông già, nói cho chúng tôi biết đi.

Umaroth hình như phấn khích trong chốc lát. Nhưng khi trả lời, ông nói nghe ảm đạm. Con nói đúng: chúng ta không phải kẻ hèn nhát. Chúng ta không trốn chạy khi chiến đấu. Nhưng kể cả rồng cũng phải nằm chờ thời cơ. Con có đồng ý không, Saphira?

Cô nàng khụt khịt và đập đuôi từ bên này sang bên kia.

Và chúng ta không giống lũ Fanghur hay những con rắn độc thấp kém bỏ con cái mình tự sinh tự diệt. Nếu chúng ta tham chiến ở Doru Araeba, chúng ta sẽ tuyệt diệt hết. Chiến thắng của Galbatorix là điều chắc chắn – đúng như hắn đã tin – và loài chúng ta sẽ bị xóa sổ hoàn toàn khỏi trái đất.

Ngay khi chúng ta biết rõ về sức mạnh và tham vọng của Galbatorix, Glaedr nói, và ngay khi chúng ta biết hắn và những kẻ phản bội định tấn công Vroengard, Vrael, Umaroth, Oromis và ta, cùng một số người khác đã quyết định giấu những quả trứng cùng một số Eldunarí. Chúng ta cũng dễ thuyết phục những con rồng hoang dã thôi. Galbatorix săn đuổi họ, và họ không thể chống lại pháp thuật của hắn. Họ đã tới đây, họ đưa những đứa con còn đang trong trứng cho Vrael cùng những người có thể đẻ trứng được. Chúng ta biết sự sống còn của nòi giống đang bị đe dọa. Chúng ta đã đúng.

Eragon day thái dương. “Vì sao các vị không biết từ trước? Vì sao không phải là sư phụ Oromis? Sao các vị có thể giấu tư tưởng được? Người nói với con là không thể cơ mà.”

Không thể, Glaedr trả lời, hay ít nhất không thể chỉ bằng pháp thuật. Nhưng trong trường hợp này, nơi pháp thuật không thành công, khoảng cách lại làm nên chuyện. Đó là lý do vì sao chúng ta ở sâu trong lòng đất, sâu dưới núi Erolas những một dặm. Kể cả nếu Galbatorix hay Thập Tam phản đồ nghĩ tới dùng tư tưởng tìm kiếm những nơi không ai ngờ tới, những tảng đá cản đường sẽ khiến họ chỉ cảm tháy có một nguồn năng lượng bất thường. Họ sẽ cho đó là mạch sống của trái đất. Cái đó cũng nằm rất gần chúng ta. Hơn nữa, trước Trận chiến Doru Araeba, hơn một trăm năm trước, tất cả các Eldunarí đã được đặt ở trạng thái hôm mê sâu như chết giả. Chính vì thế chúng càng khó lòng tìm ra họ. Kế hoạch của chúng ta là sẽ đánh thức họ sau khi trận chiến kết thúc. Nhưng những ai xây dựng nơi này cũng ếm câu thần chú đánh thức họ dậy sau vài tuần trăng.

Đúng như vậy, Umaroth nói. Hầm mộ của Những Linh Hồn được đặt tại đây còn vì một lý do khác. Cái bình trước mặt các con là cánh cửa mở vào một bể nham thạch nằm dưới dãy núi này kể từ ngày khai sinh lập địa. Nó cung cấp nhiệt độ cho những quả trứng và cung cấp ánh sáng cho các Eldunarí duy trì sức lực.

Eragon nói với Glaedr, Người vẫn chưa trả lời câu hỏi của con: vì sao Người và sư phụ Oromis không nhớ nơi này?

Umaroth là người trả lời: Vì tất cả những người biết về Hầm mộ của Những Linh Hồn đã đồng ý bị tẩy não và thay vào đó một ký ức giả. Kể cả Glaedr. Đây không phải một quyết định dễ dàng, đặc biệt với mẹ của những quả trứng. Nhưng chúng ta không thể ai ngoài những người trong căn phòng này biết sự thật. Ít nhật là Galbatorix. Vì thế chúng ta từ biệt bạn bè và chiến hữu. Chúng ta biết mình sẽ không bao giờ gặp lại họ và rằng, nếu những điều xấu nhất qua đi, họ sẽ nghĩ rằng chúng ta đã tan biến vào hư vô… Như ta đã nói, đây không phải một quyết định dễ. Chúng ta cũng phải xóa tên tảng đá đánh dấu cổng vào nơi thần thánh này, cũng như đã xóa tên mười ba con rồng phản bội chúng ta.

Cả trăm năm cuối đời, ta đã tin loài giống mình đã tuyệt diệt, Glaedr nói. Giờ, khi biết tất cả những đau khổ đã không còn gì…Ta rất mừng rằng sự ngu dốt của ta đã giúp ta bảo vệ họ.

Sau đó Saphira nói với Umaroth, Vì sao Galbatorix không biết người và những quả trứng đã biến mất?

Hắn nghĩ chúng ta chết trận. Chúng ta chỉ là một số lượng Eldunarí ở Vroengard. Hắn không thể nào nghi ngờ sự biến mất của chúng ta. Đối với những quả trứng, chắc chắn hắn điên lên vì chúng không còn. Nhưng hắn không đời nào nghĩ hai chuyện có liên hệ với nhau.

Ờ đúng, Glaedr buồn buồn nói. Thế nên Thuviel đồng ý tự sát: để Galbatorix không biết chúng ta chơi khăm hắn.

“Nhưng không phải chính Thuviel cũng giết chết rất nhiều chiến hữu sao?” Eragon hỏi.

Ừ, và đó là một đại họa, Umaroth nói. Nhưng dù sao chúng ta cũng đã thỏa thuận rằng ông ta sẽ không hành động nếu như chúng ta chúng ta chắc chắn chiến bại. Ông ấy đã hy sinh bản thân, hủy diệt toàn bộ những tòa nhà thường là nơi giữ trứng. Ông ấy biến hòn đảo thành một kho thuốc độc để Galabatorix không chọn đóng đô tại đây.

“Ông ấy có biết vì sao ông ấy phải tự sát không?”

Lúc đó thì không. Chỉ khi cần thiết ông ấy mới biết. Một trong Thập tam Phản đồ đã giết chết con rồng của Thuviel cách đó một tháng. Dù Thuviel không tan biến, vì chúng ta cần càng nhiều chiến binh càng tốt để chống trả Galbatorix, ông ấy đã không thiết sống nữa. Ông ấy mừng vì mình được nhận nhiệm vụ đó. Ông ấy sẽ được giải thoát mà vẫn phục vụ mục đích cao cả của chúng ta. Nhờ món quà sự sống đó, chúng ta đã bảo vệ được giống nòi và các Kỵ sĩ. Ông ấy là một người anh hùng vĩ đại dũng cảm. Rồi sẽ có một ngày, mọi ngóc ngách Alagaësia đều vang lên bài ca về ông ấy.

Vậy là sau khi trận đánh kết thúc, mọi người ở lại chờ đợi, Saphira nói.

Ừ, Umaroth đồng tình. Suy nghĩ dành hàng trăm năm sống trong môt căn phòng nằm sâu trong lòng đất khiến Eragon nao núng. Nhưng chúng ta không lười biếng. Khi chúng ta thức giấc, chúng ta bắt đầu phóng tư tưởng ra, lúc đầu chậm thôi.Sau đó với một sự tự tin hơn bao giờ hết, vì Galbatorix và Thập tam phản đồ đã bỏ đi. Khối sức mạnh của chúng ta rất lớn. Chúng ta có thể nhìn trước những chuyển biến trên mảnh đất này. Thường thì chúng ta không thể nhìn thấy rõ. Nhưng chúng ta có thể thấy những sợi năng lượng rối rắm trên toàn Alagaësia. Chúng ta có thể lắng nghe suy nghĩ của những kẻ không biết bảo vệ tư tưởng. Nhờ vậy, chúng ta nắm bắt được thông tin.

Hàng thập kỷ trôi qua, chúng ta tuyệt vọng vì không có ai có thể đánh bại Galbatorix. Chúng ta đã chuẩn bị để chờ đợi hàng thế kỷ nếu cần thiết. Nhưng ta có thể cảm nhận sức Phá- trứng đang lớn lên. Chúng ta sợ rằng chúng ta sẽ phải đợi hàng ngàn hay vì hàng trăm năm. Chúng ta đồng ý rằng, điều này là không thể chấp nhận, vì lợi ích của cả chúng ta và những con rồng con trong trứng. Chúng bị ếm phép làm chậm nở. Chúng có thể mãi là trứng trong nhiều năm. Nhưng dù gì việc ở trong trứng quá lâu cũng không tốt. Nếu vậy, tư tưởng của chúng sẽ biến động và khác thường.

Vì lo lắng, chúng ta bắt đầu can thiệp vào những sự kiện mình nhìn thấy. Lúc đầu chỉ rất nhỏ: ở đây thì thuyết phục ai đó, đằng kia thì đưa ra lời khuyên, hay cảnh bảo cho ai sắp bị hại. Không phải lúc nào chúng ta cũng thành công. Tuy nhiên chúng ta có thể giúp những người vẫn ngoan cường chống trả Galbatorix. Thời gian trôi qua, càng lúc chúng ta càng tự tin hơn vào khả năng của mình. Trong một số ít trường hợp, người ta phát hiện ra sự hiện diện của chúng ta dù không biết chúng ta là ai hay cái gì. Chúng ta ba lần sắp đặt cái chết của một trong Thập tam Phản đồ. Khi không bị cảm xúc che mờ mắt, Brom là một vũ khí hữu hiệu.

“Các người đã giúp ông Brom!” Eragon reo lên.

Đúng, và giúp nhiều người khác nữa. Khi con người tên Hefring trộm trứng của Saphira khỏi phòng báu vật của Galbatorix – vào một buổi đêm cách đây hai mươi năm – chúng ta đã giúp hắn thoát, nhưng chúng ta đã đi quá đà. Hắn phát hiện ra chúng ta và sợ hãi. Hắn tháo chạy và không gặp mặt quân Varden như dự kiến. Sau đó, sau khi Brom cứu quả trứng của con, Varden cùng thần tiên bắt đầu truyền tay nhau quả trứng của con, trước khi tìm ra cho con một người kỵ sĩ thích hợp. Chúng ta quyết định rằng mình phải chuẩn bị sẵn sàng cho tình huống đó. Vì thế chúng ta đã vươn tư tưởng tới gặp ma mèo. Họ là bạn lâu năm với rồng. Chúng ta nói chuyện với họ. Họ đồng ý giúp. CHúng ta cho họ biết về Tảng đá Kuthian và thép sáng dưới rễ cây Menoa. Sau đó chúng ta tẩy tất cả những ký ức về cuộc nói chuyện khỏi trí não họ.

“Người làm tất cả ư, từ đây?” Eragon phân vân hỏi.

Và còn nhiều hơn thế. Con đã bao giờ nghĩ vì sao quả trứng của Saphira lại tình cờ xuất hiện trước mặt con khi con đang ở giữa đại ngàn Spine?

Người làm ư? SAphira cất tiếng. Cô nàng cũng choáng nặng như Eragon.

“Con cứ nghĩ vì Brom là cha con, Arya đã đưa nhầm.”

“Không, Umaroth nói. Phép thuật của thần tiên không có chỗ cho lầm lẫn. Chúng ta đã thay đổi dòng chảy pháp thuật để con và SAphira gặp nhau. Chúng ta nghĩ có thể có – dù cơ hội rất nhỏ, nhưng dù sao vẫn là cơ hội – rằng con sẽ phù hợp với cô bé này. Chúng ta đã đúng.

“Nhưng sao người không cho chúng con tới đây sớm hơn?” Eragon hỏi.

Vì con cần thời gian để tôi luyện, và chúng ta cũng sợ sẽ đánh động Galbatorix về sự hiện diện của chúng ta trước khi con và Varden sẵn sàng đối diện với hắn. Ví dụ, nếu chúng ta liên hệ với các con ngay sau Trận chiến trên Cánh đồng cháy, chúng ta sẽ được lợi gì nào, khi Varden vẫn còn cách Urû’baen quá xa?

Một phút im lặng.

Eragon từ từ nói, “Người còn làm gì cho chúng con nữa?”

Vài điều nho nhỏ, chủ yếu là cảnh báo thôi. Hình ảnh Arya ở Gil’ead, khi cô ấy cần sự giúp đỡ của con. Giúp chữa lành lưng cho con ở Agaetí Blödhren.

Glaedr không đồng ý. Anh gửi chúng tới Gil’ead, không hề được huấn luyện và không có lưới phòng hộ, trong khi các anh biết chúng phải đối mặt với một Tà thần ư?

CHúng ta nghĩ Brom sẽ ở cùng họ. Nhưng ngay khi ông ta chết, chúng ta không thể chặn hai đứa nhỏ lại, vì chúng vẫn phải tới Gil’ead để tìm quân Varden.

“Đợi đã,” Eragon nói. “Vậy sự…thay đổi của con là do mọi người?”

Một phần. Chúng ta chạm vào hình ảnh phản chiếu giống loài ta khi các thần tiên triệu hồi nó trong buổi lễ. Chúng ta đã tạo hình ảnh, còn cái đó tạo nên sức mạnh cho câu thần chú.

Eragon nhìn xuống và nắm tay thành quyền trong giây lát. Nó không giận, nhưng lại bùng lên những cảm xúc khác. Saphira, Arya, thanh kiếm của nó, vẻ ngoài của nó – nó nợ những con rồng trong căn phòng này. “Elrun ono,” nó nói. Cám ơn.

Không có gì đâu con, Khắc tinh của Tà thần.

“người cũng giúp anh Roran nữa ư?”

Anh họ con không cần chúng ta giúp. Umaroth dừng lại. Chúng ta quan sát cả hai con, Eragon và Saphira trong nhiều năm liền. Chúng ta quan sát các con lớn lên từ khi còn là đứa bé tới khi trở thành một chiến binh dũng mãnh. Chúng ta tự hào vì các con. Con, Eragon, con là tất cả những gì chúng ta hy vọng ở một Kỵ sĩ mới. Còn con, Saphira, con đã chứng minh mình xứng đáng đứng vào hàng ngũ những con rồng vĩ đại nhất.

Sự vui sướng và tự hào của Saphira tràn ngập trong eragon. Nó quỳ một chân xuống, kể cả cô nàng cũng đặt chân xuống sàn và cúi gục đầu. Eragon muốn nhảy lên, la hét và ăn mừng nhưng nó kìm lại. Nó chỉ nói, “Thanh kiếm của con là của người…”

…Cũng như răng và móng vuốt của con, Saphira nói.

“Tới ngày tận thế,” họ đồng thanh nói. “Người muốn gì ở chúng cơn, Ebrithilar?”

Umaroth hài lòng. Ông rồng trả lời, Giờ các con đã tìm thấy chúng ta, những ngày trốn chạy của chúng ta đã kết thúc. Chúng ta sẽ cùng các con tới Urû’baen và sát cánh chống lại Galbatorix. Giờ là lúc rời tổ và đối diện với kẻ đập-trứng phản bội kia một lần cho xong. Không có chúng ta, hắn có thể mở toang đầu óc con dễ như chúng ta vừa làm. Vì hắn có rất nhiều Eldunarí dưới trướng.

Con không thể mang theo tất cả mọi người, Saphira nói.

Con không cần làm thế, Umaroth nói. Năm người sẽ ở lại trông chứng cùng với Cuaroc. Nếu chúng ta thua Galbatorix, họ sẽ không còn nhiều năng lương nhưng cũng đủ để chờ đợi tới lúc an toàn trở lại để chu du trong Alagaësia. Nhưng các con đừng lo lắng; chúng ta sẽ không trở thành gánh nặng cho con. Chúng ta sẽ cho con mượn sức.

“Ở đây có bao nhiêu người ạ?” Eragon hỏi và đảo mắt nhìn quanh phòng.

Một trăm ba mươi sáu. Nhưng đừng nghĩ chúng ta có thể đánh bại những Eldunarí bị Galbatorix nô dịch. Chúng ta quá ít, những người được chọn ở lại hầm mộ này hoặc quá già không thể hy sinh trong trận chiến hoặc quá trẻ và quá ít kinh nghiệm thực chiến. Chính vì thế ta mới ở lại đây với họ. Ta là cầu nối trong nhóm, ở mốc hiểu biết thông thường nếu không có sẽ là một sự thiếu sót. Những người già thông thái và có nhiều quyền năng. Nhưng trí óc họ đi lang thang theo những con đường kỳ lạ. Khó có thể thuyết phục họ tập trung vào những điều nằm ngoài giấc mơ. Những con rồng khác trẻ hơn và kém may mắn hơn: họ đã rời bỏ thân thể quá sớm. Chính vì thế đầu óc bị hạn chế theo kích thước của Eldunarí. Họ sẽ không thể lớn hơn khi đã rời bỏ cơ thể. Hãy để đó làm bài học cho con, Saphira, đừng từ bỏ Eldunarí của con. Trừ khi con đã đạt tới một kích cỡ đáng nể hoặc đối diện với sự nguy hiểm một sống một chết.

“Vậy là chúng ta vẫn kém hơn chúng,” Eragon ảo não nói.

Đúng đó Khắc tinh của Tà thần. Nhưng giờ Galbatorix không thể bắt con khuất phục ngay khi nhìn thấy con. Chúng ta có thể không đánh bại được chúng, nhưng chúng ta có thể cầm chân Eldunarí của hắn đủ lâu để con và Saphira làm những gì phải làm. Chúng ta biết nhiều điều, nhiều bí mật về chiến tranh và pháp thuật và cách thế giới xoay vần. Chúng ta sẽ dạy cho con những gì chúng ta có thể dạy. Có thể những kiến thức đó sẽ giúp con đánh bại nhà vua.

Sau đó, Saphira hỏi về những quả trứng. Ở đây có tổng cộng hai trăm bốn mươi ba quả. Hai mươi sáu quả đã được kết nối với các kỵ sĩ; số còn lại thì chưa. Sau đó họ nói chuyện về chuyến bay tới Urû’baen. Trong khi Umaroth và Glaedr đưa ra lời khuyên về cách bay nhanh nhất tới thành phố cho Saphira, người đàn ông đầu rồng tra kiếm vào bao, hạ khiên xuống và lần lượt đưa các Eldunarí trên tường xuống. Hắn đặt từng viên đá như ngọc đó vào một túi lụa sau đó nhẹ nhàng đặt trên nền nhà cạnh cái bình phát sáng. Eldunarí lớn nhất có kích cỡ kinh khủng. Người đàn ông mình sắt đầu rồng không thể ôm trọn tay quanh nó được.

Khi Cuaroc làm việc và bọn họ nói chuyện, Eragon vẫn thấy ngờ vực. Nó không dám mơ rằng còn có những con rồng trốn tại Alagaësia. Thế mà giờ họ ở đây như một phần của những năm tháng đã mất. Như thể câu chuyện của những người già biến thành sự thực. Nó và Saphira bị lạc giữa câu chuyện.

Cảm xúc của Saphira còn phức tạp hơn. Biết nòi giống không bị đe dọa tuyệt diệt nữa đã bỏ bớt gánh nặng trong lòng cô nàng – gánh nặng đã nằm đó rất lâu – và cô nàng quá vui mừng. Niềm vui ấy dường như khiến đôi mắt và vảy cô nàng sáng hơn bình thường. Nhưng, cô nàng vẫn có chút tự vệ vì cô nàng rất tỉnh táo đối mặt với Eldunarí.

Dù bị lạc trong cảm xúc, Eragon vẫn nhận thức thấy sự thay đổi cảm xúc của Glaedr; ông không hoàn toàn quên đi nỗi buồn, nhưng đây là khoảnh khắc hạnh phúc nhất của ông kể từ ngày Oromis mất. Và khi giờ đây Glaedr không khác gì Umaroth, ông đối xử với những con rồng khác với sự kính trọng mà Eragon chưa từng thấy, kể cả khi Glaedr nói chuyện với Nữ hoàng Islanzadí.

Khi Cuaroc gần hoàn tất công việc, Eragon đi tới cạnh cái bình và nhìn vào đó. Nó thấy một cần trục hình tròn chìm sâu trong tảng đá hơn ba mươi mét, mở vào một cái động chìm một nửa trong những viên đá phát sáng. Chất lỏng màu vàng đặc sệt nổi bóng như một chậu keo sôi. Khí bốc lên từ bề mặt. Nó nghĩ nó thấy một ánh sáng, như ánh sáng của một linh hồn bay trên bề mặt biển nham thạch. Nhưng nó biến mất quá nhanh khiến Eragon không dám chắc.

TỚi đây, Eragon, Umaroth nói khi người đàn ông đầu rồng đặt những Eldunarí cuối cùng vào túi. Con phải đọc thần chú ngay bây giờ. Như thế này này…

Eragon nhíu mày lắng nghe. “Cái gì…vặn ở câu thứ hai ạ? Con phải vặn cái gì cơ, không khí ư?”

Umaroth giải thích còn làm Eragon điên đầu hơn. Umaroth thử lại, nhưng Eragon vẫn không hiểu. Những con rồng già hơn khác cùng ní chuyện, nhưng giải thích của họ còn khó hiểu hơn. Vì họ chỉ truyền cho nó xem hàng loạt những hình ảnh, những cảm giác, những sự so sánh kỳ dị khiến Eragon hoang mang rối trí.

Saphira và Glaedr cũng choáng tương tự. Vì thế Eragon cũng thoái mải phần nào. Nhưng dù sao Glaedr cũng nói, Ta nghĩ là ta hiểu, nhưng cái này giống như là bắt một con cá đang sợ vậy. Cứ khi nào ta nghĩ ta bắt được nói, nó lại chuồi khỏi miệng ta.

Cuối cùng Umaroth nói. Đây là bài học dành cho lúc khác. Con biết câu thần chú dùng để làm gì nhưng không biết làm thế nào. Thế là đủ. Hãy lấy sức mạnh từ chúng ta và đọc thần chú. Sau đó chúng ta đi.

Eragon lo lắng nghĩ lại những từ ngữ trong đầu để tránh phạm lỗi. Sau đó nó bắt đầu đọc. Nó rút năng lượng từ Eldunarí. Da thịt nó ngứa ngáy khi dòng năng lượng khổng lồ truyền vào nó, như một dòng nước vừa nóng vừa lạnh.

Không khí xung quanh bao Eldunarí rung chuyển. Sau đó cái túi tự khóa miệng lại và biến mất. Một luồng gió thổi bạt tóc Eragon. Một tiếng thịch nho nhỏ vang lên trong phòng.

Eragon kinh ngạc quan sát Saphira ngửa đầu ra sau và bổ đầu vào chỗ những Eldunarí vừa biến mất. Họ biến mất hoàn toàn như chưa bao giờ tồn tại. Nhưng nó và cô em vẫn cảm nhận được tư tưởng của của những con rồng đang rất gần.

Một khi rời khỏi hầm mộ, Umaroth nói, lối vào túi không gian này lúc nào cũng ở gần các con trong một khoảng cách nhất định, trừ khi các con ở khu vực bị hạn chế hoặc khi có một cơ thể con người đi qua. Lối vào không lớn hơn một đầu kim, nhưng nó chết người hơn bất kỳ một thanh kiếm nào. Nó có thể cắt xuyên da thịt con nếu con chạm vào.

Saphira khụt khịt. Cả mùi của người cũng biến mất.

“Ai tìm ra cách thực hiện câu thần chú này thế?” Eragon ngạc nhiên hỏi.

Một ẩn sĩ sống ở bờ biển phía bắc Alagaësia cách đây hai trăm năm, Umaroth trả lời. Đây là một đòn hay nếu con muốn giấu một thứ gì khỏi con mắt người thường. Nhưng đồng thời nó rất khó và nguy hiểm buộc con phải làm chính xác. Sau đó con rồng im lặng. Eragon có thể cảm nhận ông ta đã tập trung suy nghĩ. Sau đó Umaroth nói, Giờ còn có một điều con và Saphira cần biết. Ngay khi con đi qua cổng vòm đằng sau kia – Cánh cổng Vergathos – con sẽ quên Cuaroc và những quả trứng. Khi con tới cánh cửa cuối đường hầm, tất cả những ký ức sẽ bị xóa sạch. Kể cả chúng ta, những Eldunarí cũng quên mất những quả trứng. Nếu chúng ta giết được Galbatorix, cánh cổng sẽ trả lại ký ức cho chúng ta. Nhưng cho tới lúc đó, chúng ta sẽ không biết gì. Umaroth dường như đang gầm lên. Ta biết, chuyện này…không vui, nhưng chúng ta không thể để Galbatorix biết về những quả trứng.

Eragon không thích, nhưng nó không thể nghĩ ra phương án hợp lý hơn.

Cám ơn đã nói cho chúng con biết, Saphira nói. Eragon cũng nói lời cám ơn.

Sau đó chiến binh kim loại vĩ đại, Cuaroc nhặt khiên lên, rút gươm và đi tới cái ngai xưa cũ rồi ngồi xuống. SAU khi đặt lưỡi gươm lên đùi và đặt khiên xuống cạnh ngai, hắn đặt tay lên hông và bất động như tượng, chỉ trừ những tia lửa nhảy múa trong đôi mắt đỏ thẫm đang chăm chăm vào những quả trứng.

Eragon rùng mình quay lưng khỏi cái ngai. Có cái gì đó ám ảnh và bóng người cô đơn nơi cuối căn phòng. Khi biết Cuaroc và những Eldunarí sẽ phải ở lại trông trừng trong một trăm năm nữa – có khi hơn – khiến Eragon khó lòng rời đi.

Tạm biệt, Nó dùng tư tưởng nói.

Tạm biệt, Khắc tinh của tà thần, năm tiếng thì thầm trả lời, Tạm biệt, Vảy sáng. Chúc các con may mắn.

Sau đó Eragon mở rộng vai. Nó cùng Saphira rảo bước đi qua Cánh cổng Vergathos và rời khỏi Hầm mộ của những Linh hồn.

56. TRỞ VỀ

Posted on Tháng Một 17, 2012

Eragon nhăn mặt khi bước ra khỏi đường hầm. Ánh sáng đầu chiều nhuộm vàng trảng trống phía trước Tảng đá Kuthian.

Nó cảm thấy như đã quên mất điều gì quan trọng. Nó cố nhớ, nhưng không thể nào nhớ ra. Nó chỉ cảm thấy sự trống trải tới khó chịu. Phải làm gì với…không, nó không thể nhớ. Saphira, em có… nó nói, nhưng lại quên mất.

Cái gì?

Không có gì. Chỉ là anh nghĩ…Thôi đừng để ý, không có gì đâu.

Cánh cửa đằng sau họ đóng sầm lại. Những dòng chữ tượng hình mờ dần. Ngọn tháp phủ rêu xù xì lại một lần nữa trở thành một tảng đá đặc.

Tới đây, Umaroth nói, đi thôi. Ngày còn dài và đoạn đường giữa đây và Urû’baen còn nhiều chướng ngại vật.

Eragon liếc nhìn chung quanh trảng trống. Nó vẫn cảm thấy mình bỏ sót cái gì. Sau đó nó gật đầu và leo lên yên.

Khi quấn chặt dây buộc chân, tiếng chíu chit chói tai của những con chim bóng đen vang lên từ những cây vân sam ở bên phải. Nó nhìn, nhưng không thấy chúng đâu. Nó ngô nghê cười. Nó mừng được tới Vroengard, nhưng nó cũng mừng tương đương được rời đi. Hòn đảo này không phải một nơi hiếu khách.

Chúng ta đi chưa? SAphira hỏi.

Ừ, đi thôi, nó nói, thấy thoải mái hơn nhiều.

Với một tiếng đập cánh, SAphira nhảy lên trời và bay qua rặng táo bên kia trảng trống. Cô nàng nhanh chóng cất cảnh bay lên khỏi thung lũng lòng chảo, lượn vào quanh khu đổ nát của thành phố Doru Araeba. Một khi đủ cao để bay qua những con núi, cô nàng bay về phía đông và tiến về đất liền và Urû’baen, để lại đằng sau một nơi từng là chứng nhân huy hoàng của thời đại Kỵ sĩ.

57. THÀNH PHỐ BUỒN THƯƠNG

Posted on Tháng Một 19, 2012

Mặt trời lên gần ngọn sào khi Varden tới Urû’baen.

Roran nghe có tiếng hét của những người đàn ông ở đầu đội quân khi họ khi qua đỉnh núi. Anh tò mò nhìn lên qua đầu những người lùn đứng trước. Khi tới đỉnh núi, anh dừng lại ngắm nhìn, cũng như những chiến binh theo sau.

Mảnh đất thoai thoải dốc xuống vài dặm, mở vào một đồng bằng. Trên đồng bằng điểm xuyết những nông trại, cối xay và những dinh cơ đá. Anh nhớ tới Aroughs. Cách đó khoảng năm dặm, đồng bằng kéo dài tới bức tường thành Urû’baen.

Không giống tường thành Dras-Leona, những bức tường kinh thành bao trọn thành phố. Chúng cũng cao hơn nhiều. Dù ở khoảng cách xa, Roran có thể thấy chúng cao hơn cả tường thành Dras-Leona lẫn Aroughs. Anh đoán ít nhất tường cao 90m. Trên khu phòng ngực rộng lớn, anh để ý có những cỗ máy bắn đá và bắn tên.

Anh lo lắng. Những cỗ máy kia không thể hạ gục một sớm một chiều – chúng chắc chắn được phép thuật bảo vệ. Kinh nghiệm cho anh biết những vũ khí này chết người như thế nào.

Đằng sau những bức tường là tổ hợp kỳ lạ những kiến trúc nhà của loài người và của thần tiên.Những tòa nhà theo phong cách thần tiên nổi bật nhất là những tòa tháp duyên dáng cao sáu tầng – làm từ đá ma la sít xanh – rải rác thành hình cung bao quanh khu phố cổ nhất. Hai tòa tháp bị bay mất nóc. Anh nghĩ anh thấy chân tòa tháp khuất hẳn trong những ngôi nhà lộn xộn bên dưới.

Nhưng điều khiến anh thấy thú vị nhất không phải bức tường hay những tòa nhà mà là, phần lớn thành phố khuất dưới một vách đá lớn. Nó che phủ chỗ hẹp nhất nửa dặm ngang và 150m dọc. Một quả đồi lớn kéo dài tới đông bắc vài dặm. Trên vách đá còn có một bức tường khác, giống bức tường bao quanh thành phố, trên đó có vài tòa tháp canh.

Hõm vào trong vách đá là một thành trì đầy những tòa tháp và bờ công sự. Tòa thanh vươn lên trội khỏi thành phố. Đáng sợ nhất là cánh cổng trước pháo đài: một cánh cổng vĩ đạiđủ cho Saphira và Thorn sóng bước vào.

Ruột Roran quặn thắt. Nếu cánh cổng này chỉ ra điều gì thì đó là Shruikan to lớn đủ tự mình thổi bay cả đội quân Varden. Eragon và Saphira phải nhanh lên, anh nghĩ. Và các thần tiên nữa. Từ những gì anh quan sát, thần tiên có thể cầm chân con rồng đen của nhà vua. Nhưng họ khó lòng giết được lão.

Roran đã quan sát tất cả và còn thêm nhiều điều nữa khi dừng lại trên đỉnh đồi. Sau đó anh giật cương con Hỏa tuyết. Con bạch mã khịt mũi và đi theo Roran, xuống đoạn đường uốn lượn dẫn xuống vùng đất thấp.

Anh có thể cưỡi ngựa – đúng là là nên cưỡi ngựa, vì anh là trung đoàn trưởng – nhưng sau chuyến đi tới Aroughs, anh không thích ngồi lên yên ngựa.

Trong lúc đi, anh nghĩ cách tốt nhất tấn công thành phố. Urû’baen bị bao vây trong dãy núi đá sẽ tránh cho thành phố bị tấn công từ nhiều hướng, ngoài rìa cũng như từ trên cao. Chắc chắn đây là lý do thần tiên chọn đây là nơi định cư khi mới đặt chân lên Alagaesia.

Nếu chúng ta có thể đột nhập qua dãy núi, chúng ta có thể đập tan thành trì và phần còn lại của thành phố, anh nghĩ nhưng anh cũng biết ý tưởng đó không khả thi vì tảng đá quá dày. Nhưng, chúng ta có thể chiếm lấy tường thành trên đồi. Sau đó chúng ta sẽ ném đá và đổ dầu nóng từ trên xuống. Nhưng cũng không dễ. Đánh nhau trên đồi, và những bức tường…Có thể thần tiên làm được. Hoặc Kull. Có thể họ sẽ thích ý tưởng này.

Sông Ramr cách phía bắc Urû’baen vài dặm. Varden không thể lợi dụng nó. Saphira có thể đào một con mương đủ lớn để xoay dòng. Nhưng kể cả cô nàng cũng phải mất tới vài tuần. Varden không đủ lương thực cho vài tuần đó. Họ chỉ còn lương thực dự trữ cho vài ngày. Sau đó, hoặc họ sẽ chết đói hoặc sẽ đào ngũ.

Lựa chọn duy nhất của họ là tấn công trước quân Triều đình. Không phải Roran không tin Galbatorix có thể tấn công. Tới giờ dường như nhà vua vẫn đợi Varden tới. Sao lão phải liều mạng chứ? Lão càng chờ đợi bao lâu, chúng ta càng yếu đi bấy nhiêu.

Vậy là phải  đánh chính diện – mở một cuộc tấn công ngu xuẩn chạy băng qua vùng đất trống tới những bức tường quá dầy không thể nào xuyên thủng và quá cao không thể leo qua, trong khi cung thủ và những cỗ máy chiên tranh lúc nào cũng nhè vào họ. Chỉ tưởng tượng thôi đã làm anh mướt mồ hôi trán. Họ sẽ chết. Anh chửi rủa. Chúng ta sẽ biến thành từng mảnh vụn và trong lúc đó Galbatorix chỉ việc ngồi cười trong cung điện…Nếu chúng ta có thể tới gần tường thành, những binh lính sẽ không thể dùng những thứ máy móc kinh khủng kia tấn công chúng ta. Nhưng tới lúc đó, chúng sẽ dùng đá, dầu nóng mà dội lên đầu chúng ta thôi.

Kể cả nếu họ vượt qua được bức tường, họ vẫn phải đương đầu với quân đội của Galbatorix. Quan trọng hơn hàng phòng thủ, là tinh thần và số lượng lĩnh Varden sẽ phải đối mặt. Liệu họ có thể chiến đấu tới hơi thở cuối cùng? Liệu họ có sợ không? Họ có thể phá vòng vây mà tháo chạy nổi? Họ có bị lời thề hay câu thần chú nào trói buộc không?

Những gián điệp của Varden đã báo cáo lại rằng Galbatorix đã sắp đặt bá tước Barst chỉ huy quân đội Urû’baen. Roran chưa bao giờ nghe tới Barst. Nhưng thông tin này khiến Jörmundur ngao ngán. Lính tráng dưới trướng Roran đã kể đủ câu chuyện cho Roran tin vào sự ác độc của hắn. Có thể Barst là lãnh chúa một vùng rộng lớn ở gần Gil’ead. Nhưng do sự các thần tiên tới nơi này nên hắn phải rời đi. Kẻ hầu người hạ sợ hắn, vì Barst có xu hướng trừng phạt những kẻ mang tội theo cách ác độc nhất, hoặc đơn giản là xử tử những kẻ hắn cho là làm sai. Điều này cũng bình thường; vì có lãnh chúa Triều đình nào không thế. Nhưng Barst không chỉ độc ác mà còn mạnh – cực kỳ mạnh – và quái gở. Trong tất cả những câu chuyện Roran nghe kể, sự thông minh của hắn là điều không có gì phải bàn cãi. Có thể hắn là một thắng khốn, nhưng là một thằng khốn thông minh. Roran biết mình sẽ sai nếu đánh giá thấp hắn. Galbatorix không chọn một kẻ yếu đuối hay một thằng đần để chỉ huy quân đội.

Và lại còn Murtagh và Thorn nữa. Galbatorix có thể không động thủ, nhưng con rồng đỏ và Kỵ sĩ của nó chắc chắn sẽ bảo vệ thành phố. Eragon và Saphira phải dụ chúng đi chỗ khác. Nếu không, chúng ta sẽ không bao giờ vượt qua tường thành. Roran nhăn mặt. Đây là vấn đề. Murtagh khỏe hơn Eragon. Eragon cần thần tiên trợ giúp để giết hắn.

Một lần nữa, Roran thấy oán giận. Anh ghét khi phải phụ thuộc vào những kẻ có thể dùng pháp thuật. Ít nhất khi cần tới sức mạnh, những con người có thể bổ trợ cho nhau. Nhưng không thể nào con người bổ sung cho thiếu pháp thuật.

Anh thất vọng nhặt một viên đá cuội lên. Như Eragon đã dạy, anh nói, “Stenr rïsa.” Viên đá cuội không nhúc nhích.

Viên đá cuội luôn không nhúc nhích.

Anh khụt khịt và ném nó xuống vệ đường.

Vợ và đứa con chưa sinh của anh ở cùng quân Varden. Nhưng tới giờ anh không thể giết Murtagh hay Galbatorix. Anh nắm tay và tưởng tượng mình đang bẻ thứ gì đó. Hầu hết là xương.

Có thể chúng ta nên chạy. Đây là lần đầu tiên anh có ý nghĩ đó. Anh biết có những vùng đất ở phía đông nằm ngoài tầm với của Galbatorix – những đồng bằng mầu mỡ chỉ có dân du mục sinh sống. Nếu những người dân làng khác đi cùng anh và Katrina, họ có thể bắt đầu lại, tránh xa Triều đình và Galbatorix. Ý kiến đó làm anh bệnh. Anh sẽ phải bỏ lại Eragon, những người lính của anh, và vùng đất quê hương. Không mình không thể để con mình sinh ra tại nơi Galbatorix nắm quyền. Thà chết còn hơn sống trong sợ hãi.

Tất nhiên, anh vẫn không biết cách nào chiếm được Urû’baen. Lúc trước, lúc nào cũng có những điểm yếu cho anh khai thác. Ở Carvahall, đó là thất bại của Ra’zac cho anh biết dân làng có thể chống lại hắn. Khi anh đấu vật với Urgal Yarbog, đó là sừng của sinh vật. Ở Aroughs, đó là các dòng kênh. Nhưng ở Urû’baen, anh không tìm ra điểm yếu, không tìm ra chỗ nào anh có thể dùng gậy ông đập lưng ông.

Nếu chúng ta có viện trợ, mính sẽ đợi và chờ chúng chết đói. Đó là cách tốt nhất. Làm gì cũng là điên. Nhưng anh biết, chiến tranh là điên rồ rồi.

Chỉ có cách dùng pháp thuật, cuối cùng anh kết luận. Pháp thuật và Saphira. Nếu chúng ta có thể giết Murtagh, sau đó cô rồng hoặc thần tiên sẽ giúp chúng ta vượt tường thành.

Anh nhăn nhó, nếm trong miệng có vị chua. Anh sải bước nhanh hơn. Cắm trại càng nhanh càng tốt. Chân anh đau vì đi bộ. Nếu anh chết, anh muốn mình được một bữa ăn nóng sốt và một giấc ngủ ngon cái đã.

Varden dựng lều cách Urû’baen một dặm, cạnh một cón suối nhỏ hòa dòng với sống Ramr. Sau đó, người, người lùn, Urgal bắt đầu xây công sự tới đêm và gần sáng. Thật ra, họ càng ở lâu một chỗ, họ càng có thời gian củng cố hàng phòng ngự. Những chiến binh đã mệt mỏi, nhưng lao động giúp họ bận bịu và hơn nữa, có thể cứu mạng họ.

Mọi người nghĩ mệnh lệnh được Eragon giả đưa ra. Roran biết thực ra là lệnh của Jörmundur. Anh đã tôn trọng người chiến binh lão luyện này từ khi Nasuada bị bắt cóc còn Eragon rời đi. Jörmundur đã chiến đấu với triều đình gần hết cuộc đời. Ông hiểu sâu và những chiến thuật và logic. Ông và Roran khá thân; họ đều là những con người của đao thép, chứ không phải của pháp thuật.

Và vua Orrin – sau khi hàng phòng ngữ được lập xong – Roran rất ghét vị vua này. Orrin luôn làm anh bực. Nếu ai có thể khiến người khác dùng dao đâm mình thì chính là hắn. Roran biết nhục mạ nhà vua chẳng phải chuyện hay ho. Nhưng tên ngu đó muốn cho người đưa tin tới cổng thành Urû’baen mà thách thức, theo cách họ đã làm tại Dras-Leona và Belatona.

“Ngài muốn khiêu khích Galbatorix à?” Roran gầm lên. “Nếu chúng ta làm vậy, hắn sẽ đáp trả ngay!”

“Ờ, tất nhiên,” vua Orrin đáp và đứng dậy. “Chúng ta phải đường đường chính chính thông báo mục đích và cho hắn cơ hội cầu hòa.”

Roran nhìn chăm chăm. Sau đó anh quay đi vì khó chịu và nói với Jörmundur, “Ngài ấy không thể hiểu chuyện được à?”

Ba người bọn họ đang ở trong lều của vua Orrin. Nhà vua đã triệu họ tới.

“Thưa Bệ hạ,” Jörmundur nói. “Roran nói đúng. Tốt nhất chúng ta nên chờ đợi.”

“Nhưng chúng đã thấy chúng ta,” Orrin phản kháng “Chúng ta cắm trại ngay trước tường thành. Chúng ta sẽ… vô lễ khi không gửi người đi báo tin. Hai người chỉ là thường dân; ta không mong hai người hiểu. Hoàng gia bắt buộc có những cử chỉ nhã nhặn, kể cả trong chiến tranh.”

Roran muốn đập nhà vua. “Ngài có điên mới tin Galbatorix coi ngài là đối thủ! Chúng ta chỉ là những con bọ với lão. Lão không quan tâm tới cử chỉ nhã nhặn của ngài. Ngài quên rồi. Galbatorix cũng chỉ là thường dân giống như chúng tôi khi hắn tiếm quyền các Kỵ sĩ. Cách hành xử của hắn và của ngài không giống nhau. Trên thế giới này không có ai như hắn. Ngài nghĩ ngài hiểu được hắn ư? Ngài nghĩ ngài xoa dịu nổi hắn ư?”

Orrin biến sắc. Ông ta ném cốc rượu xuống đất. “Ngươi đi quá xa rồi đó, cây búa Dũng mãnh. Không ai có quyền chửi rủa ta như ngươi vừa làm!”

“Tôi có quyền làm gì tôi muốn,’ Roran hét lớn. “Tôi không phải đồ chơi của ngài. Tôi không nghe lệnh ngài. Tôi là người tự do, tôi sẽ chửi rủa bất cứ ai tôi muốn, bất cứ khi nào – kể cả người đó có là ngài. Gửi ngươi đưa tin là một sai lầm, và tôi…”

Có tiếng kim loại rền vang khi Vua Orrin rút kiếm ra khỏi vỏ. Roran không hoàn toàn không chú ý. Anh đã cầm sẵn búa trên tay. Khi nghe tiếng động, anh đã rút búa ra khỏi thắt lưng rồi.

Lưỡi kiếm của nhà vua tỏa ánh sáng bạc dưới ánh sáng mờ mờ trong lều. Roran nhìn thấy đường kiếm của Orrin và bước tránh ra. Sau đó anh nắm lấy cạnh cùn lưỡi kiếm, làm nó rung lên và bắn khỏi tay Orrin.

Thứ vũ khí nạm đá quý rơi xuống, rung lên trên sàn.

“Bệ hạ,” có tiếng hét của những lính gác ngoài lều. “Ngài ổn chứ?”

“Ta vừa đánh rơi khiên,” Jörmundur đáp. “Không sao đâu.”

“Vâng, thưa ngài.”

Roran nhìn nhà vua. Có cái gì đó ám ảnh, hoang dại trên gương mặt ông ta. Roran không rời mắt và nhét búa lại vào thắt lưng. “Liên lạc với Galbatorix là hành động ngu xuẩn và nguy hiểm. Nếu ngài thử làm, tôi sẽ giết bất cứ người nào người gửi đi trước khi anh ta kịp tới thành phố.”

“Ngươi dám!” Orrin nói.

“Ồ, có chứ. Tôi sẽ không ngài đặt chúng tôi vào vòng nguy hiểm để thỏa mãn lòng kiêu hãnh hoàng gia của ngài. Nếu Galbatorix muốn nói chuyện, hắn biết chỗ nào tìm chúng ta rồi đấy. Còn không, cứ kệ hắn.”

Roran lao ra khỏi lều. Anh đứng ngoài, đặt tay lên hông và nhìn những đám mây trong khi đợi nhịp hô hấp ổn định. Orrin giống như một một con lừa già: bướng bỉnh, quá tự tin, và quá muốn đá hậu bạn nếu bạn cho hắn cơ hội.

Hắn quá say sỉn nữa, Roran nghĩ.

Anh đi đi lại lại trước lều đợiJörmundur xuất hiện. Trước khi  người chiến binh kịp lên tiếng. Roran nói, “Tôi xin lỗi.”

“Ừ.” Jörmundur rút tẩu thuốc ra khỏi túi đeo thắt lưng và viên cỏ cardus thành viển ồi nhét vào tẩu. “Ta phải mất lúc lâu để thuyết phục ông ấy không gửi phái viên đi chỉ để chọc giận anh.” Ông dừng trong chốc lát. “Anh thực sự sẽ giết lính của Orrin ư?”

“Tôi không nói chơi,” Roran nói.

“Tôi cũng không nghĩ vậy. .. Chỉ hy vọng là ông ta không làm gì.” Jörmundur bắt đầu đi xuống con đường giữa các căn lều. Roran theo sau. Những người lính tránh đường và kính trọng cúi đầu chào. Jörmundur vung cây tẩu chưa đốt và nói, “ Ta thừa nhận, ta muốn chửi rủa Orrin một trận không biết bao nhiêu lần rồi.” Ông nở một nụ cười. “Không may là phần chín chắn luôn luôn chiến thắng.”

“Ông ấy luôn quá… cứng đầu thế à?”

“Hừm? Không, không. Ở Surda, ông ấy rất thông suốt.”

“Vậy sao lại như thế này?”

“Tôi nghĩ là ông ấy sợ. Đó là một khái niệm lạ lẫm đối với người đàn ông này.”

“Ừ.”

“ Có thể tôi nói thế này anh sẽ buồn, nhưng anh hành động khá là ngu ngốc đó.”

“Tôi biết. Tôi hãy bị cảm xúc che lấp.”

“Và giờ anh đã biến một nhà vua thành kẻ thù cho mình.”

“Ý ông là thêm một nhà vua nữa.”

Jörmundur cười trầm trầm. “Ừ, tôi nghĩ khi Galbatorix là kẻ thù cá nhân của mình, tất cả những thứ khác đối với anh cũng chẳng là gì. Hơn nữa,…” Ông dừng lại cạnh đống lửa trại  và rút một nhánh cây nhỏ khỏi đống lửa. Ông dùng đầu que châm tẩu, hút vài lần, đặt que củi vào đống lửa. “Hơn nữa, tôi không thể không thấy cơn giận của Orrin. Ông ta muốn giết anh. Nếu ông ta còn để tâm, rồi có ngày ông ta sẽ trả thù. Tôi sẽ cho lính canh lều cho anh trong vài ngày tới. Nhưng sau đó thì…” Jörmundur nhún vai.

“Sau đó, có thể tất cả chúng ta đều chết hoặc bị nô lệ rồi.”

Họ bước đi trong im lặng vài phút. Tẩu luôn nằm trên môi Jörmundur. Khi họ sắp sửa chia đường, Roran nói, “Khi gặp Orrin lần sau…”

“Vâng?”

“Có thể ông nên cho ông ấy biết nếu ông ta hoặc những binh lính dưới quyền làm hại Katrina, trước mặt doanh trại, tôi sẽ xé toạc bụng ông ta ra.”

Jörmundur cúi cằm xuống đứng suy nghĩ một lát. Sau đó ông ta nhìn lên và gật đầu. “Tôi nghĩ tôi sẽ tìm ra cách nói, Cây búa dũng mãnh.”

“Cám ơn nhé.”

“Không có gì đâu.”

“Vâng thưa ngài.”

Roran tìm Katrina và bảo cô mang cơm tối tới con đê phía bắc. Tại đây anh có thể coi chừng bất cứ phái viên nào do Orrin gửi đi. Katrina trải bạt trên nền đất sỏi cho họ ngồi ăn. Sau đó họ ngồi cùng nhau trong khi trời dần tối, những ngôi sao bắt đầu xuất hiện trên bầu trời màu tím trên vách đá.

“Em rất vui được ở đây,” cô nói và ngả đầu lên ngực anh.

“Thật sao?”

“Nơi đây rất đẹp, và em có anh.” Cô nắm chặt tay anh.

Anh kéo cô lại sát hơn, nhưng bóng đen trong tim anh vẫn còn đó. Anh không thể quên đi sự nguy hiểm đang treo trên đầu cô và con họ. Biết kẻ thù nguy hiểm nhất đang cách mình có vài dặm đang đốt cháy lòng anh. Anh không muốn gì hơn là đứng lên, chạy tới Urû’baen và giết chết Galbatorix.

Nhưng làm sao có thể. Vì thế anh mìm cười rồi cười lớn để che giấu sự sợ hãi. Anh biết cô cũng che giấu sự sợ hãi của bản thân cô.

Chết tiệt, Eragon, anh nghĩ, chú nên nhanh lên, không anh thề anh sẽ đội mồ ám chú.

58. HỘI ĐỒNG CHIẾN

Posted on Tháng Một 21, 2012

Trong hành trình bay từ Vroengard tới Urû’baen, Saphira không phải vượt qua một trận bão nào. May hơn nữa là gió thuận chiều, vì các Eldunarí nói với cô nàng cách tìm ra luồng khó nhanh nhất, thường thổi vào tầm này của năm. Hơn nữa, Eldunarí cung cấp năng lượng đều đặn cho cô. Nhờ vậy cô nàng không bao giờ mệt.

Chỉ hai ngày sau khi rời đảo, bóng dáng thành phố đã xuất hiện ở chân trời.

Hai lần trong chuyến đi, khi mặt trời tỏa sáng nhất, Eragon nghĩ nó có thoáng tháy túi không gian nơi các Eldunarí bay ẩn đằng sau Saphira. Trông nó như một điểm đen, quá nhỏ khiến nó không thể nhìn nhiều hơn một giây. Lúc đầu nó tưởng đó là một hạt bụi. Nhưng sau, nó thấy điểm đó luôn giữ cùng một khoảng cách với Saphira. Khi nó nhìn thấy, cái hạt bụi vẫn ở cùng một chỗ.

Trong hành trình, những con rồng đã thông qua Umaroth truyền các ký ức vào Eragon và Saphira: những kinh nghiệm – trong chiến trận, thắng có, thua có, những thù hận, những câu thần chú, những sự kiện xảy ra trên khắp miền, những nỗi hối hận, những nhận thức, những suy tư về thế giới. Những con rồng có hàng ngàn năm kiến thức. Họ cho nó biết từng chút một.

Quá nhiều rồi! Eragon phản đối. Chúng con không thể nhớ hết, chứ đừng nói là hiểu hết.

Không, Umaroth nói. Nhưng các con có thể nhớ một ít. Có thể những kiến thức đó sẽ giúp các con đánh bại Galbatorix. Giờ, chúng ta tiếp tục.

Quá nhiều thông tin. Có nhiều lúc Eragon cảm thấy như đã quên mất mình là ai vì những ký ức của rồng nhiều hơn số lượng ký ức của nó. Khi điều đó xảy ra, nó sẽ tách trí óc ra khỏi họ và nhắc lại tên thật của mình cho tới khi nó biết mình là ai.

Những thứ nó và Saphira học được thật đáng ngạc nhiên và gây rắc rối cho nó. Nó thường xuyên phải hỏi lại niềm tin của mình. Nhưng nó không bao giờ có thời gian kiểm tra vì luôn có những ký ức khác lấp vào. Nó biết, nó sẽ mất hàng năm để hiểu những gì những con rồng vừa truyền dạy.

Nó càng biết nhiều về những con rồng, nó càng ngưỡng mộ họ hơn. NHững sinh vật đã sống hàng trăm năm có cách suy nghĩ khá lạ lẫm. Những con rồng già nhất khác Glaedr và Saphira như thể Glaedr và Saphira khác những con Fanghur ở rặng Beor. Nó khó lòng nói chuyện với những ông rồng lớn tuổi. Họ nhảy đoạn, kết hợp các ý tưởng dường như chẳng có ý nghĩa gì. Nhưng, Eragon biết chúng có ý nghĩa sâu sa. Nó ít khi hiểu họ định nói gì. Những con rồng già cũng không giải thích để nó hiểu.

Sau một hồi, nó nhận ra rằng họ không thể diễn giải. Sau hàng thế kỷ, đầu óc họ đã thay đổi; những thứ đơn giản bình thường với nó lại phức tạp với họ và ngược lại. Nghe tư tưởng của họ khiến nó có cảm giác đang lắng nghe tiếng nói của thần thánh.

Khi nó đưa ra nhận xét, Saphira khụt khịt và nói với nó, Có khác nhau đấy.

Chỗ nào?

Không giống thần thánh, họ tham gia vào những sự việc của thế giới này.

Có thể thần thánh chọn cách hành động mà không bị người ta nhìn thấy.

Vậy thì họ có gì tốt?

Em tin rằng rồng còn tốt hơn thần thánh, nó ngạc nhiên hỏi.

Đúng, nhưng chỉ khi bọn em đã trưởng thành hoàn toàn. Làm gì còn sinh vật nào vĩ đại hơn bọn em? Kể cả Galbatorix cũng phải dựa vào bọn em để có sức mạnh.

Thế Nïdhwal thì sao?

Cô nàng khụt khịt. Bọn em bơi được nhưng họ đâu có bay được.

Eldunarí già nhất mang tên Valdr – có ý nghĩa “kẻ thống trị” trong ngôn ngữ cổ – chỉ nói trực tiếp với họ một lần duy nhất. Nhờ ông ấy, chúng đã thấy được những chùm sáng biến thành những sóng cát,  cũng như cảm giác rối ren khi mọi thứ dường như đông đặc. Sau đó Valdr cho họ nhìn thấy một vùng những con chim sáo đá đang ngủ. Eragon cảm nhận được giấc mơ của chúng lóe lên trong đầu nó nhanh như chớp mắt. Lúc đầu cảm xúc của Valdr giống như khinh bỉ – giấc mơ của những con chim sáo rất nhỏ nhặt, không đầu không cuối – nhưng sau đó, cảm xúc của ông thay đổi, ấm áp và cảm thông hơn. Kể cả những quan tâm nhỏ nhặt của những con sáo đá cũng trở nên quan trọng ngang với mối quan tâm của những vị vua.

Valdr chần chừ lưu lại hình ảnh. Ông ấy như muốn đảm bảo Eragon và Saphira nhớ kỹ nó trong mối lùng nhùng những suy nghĩ khác. Dù cả hai không chắc chắn ông rồng muốn nói gì và Valdr cũng không giải thích sâu hơn.

Khi cuối cùng Urû’baen đã hiện ngay trước mắt, Eldunarí ngừng chia sẻ ký ức với Eragon và Saphira. Umaroth nói, Giờ con sẽ được hiểu biết kỹ nhất về hang ổ kẻ thù.

Saphira lao gần sát mặt đất. Những thứ chúng thấy không giúp chúng phấn chấn, nhất là khi Glaedr nói,  Galbatorix đã xây dựng thêm nhiều kể từ khi hắn đẩy lùi chúng ta ra khỏi nơi đây. Hồi trước những bức tường không dày và cao như giờ.

Umaroth nói thêm, trong trận chiến giữa chúng ta và thần tiên, Ilirea cũng không thành cao kiên cố như bây giờ. Kẻ phản bội kia đã đào sâu và đắp cả một núi đá trước hang. Ta nghĩ hắn sẽ không chui ra khỏi hang đâu. Hắn giống một con lửng rút trong hang và sẽ cắn chảy mũi bất cứ ai dám lôi hắn ra.

Cách một dặm về phía tây nam là doanh trại của Varden. Nó lớn hơn Eragon nhớ rất nhiều. Nó bối rối cho tới khi nhận ra rằng Nữ hoàng Islanzadí cùng quân đội cuối cùng đã hợp quân với Varden. Nó thở dài nhẹ nhõm. Kể cả Galbatorix cũng phải dè chừng thần tiên vài phần.

Khi nó và Saphira còn cách doanh trại một 3 dặm, các Eldunarí giúp Eragon mở rộng tư tưởng tới khi nó cảm nhận được trí óc con người, người lùn, thần tiên và Urgal trong trại. Nó chỉ chạm rất nhẹ vào đầu óc họ nên họ không chú ý, trừ khi họ cố ý. Trong giây phút nó cảm nhận được âm nhạc hoang dã đặc trưng cho tư tưởng của Blödhgarm, nó chỉ tập trung vào vị tiên nhân này.

Blödhgarm,  nó gọi. Tôi đây, Eragon đây. Những cụm từ cung cách trở nên quen miệng hơn sau khi nó dành một khối thời gian lớn học hỏi kinh nghiệm của bao nhiêu năm quá khứ.

Khắc tinh của Tà thần! Anh an toàn không? Tư tưởng của anh lạ lắm. Saphira có ở cùng anh không? Cô ấy có bị thương không? Có chuyện gì xảy ra với Glaedr không?

Họ đều an toàn. Tôi cũng vậy.

Vậy thì – Blödhgarm bối rối.

Eragon ngắt lời nói, Chúng tôi không ở xa lắm. Nhưng tôi đang ẩn mình. Ảo giác của tôi và Saphira vẫn còn dưới đó chứ?

Vâng, thưa Khắc tinh của tà thần. Chúng tôi cho Saphira bay lượn vào trên doanh trại khoảng một dặm. Thi thoảng tôi cho ảo ảnh ẩn trong màn mây hoặc làm như anh và cô ấy đang đi tuần. Nhưng chúng tôi không dám để lộ cho Galbatorix biết anh đã đi rất lâu rồi. Chúng ta sẽ cho hình ảnh của anh biến mất ngay. Anh sẽ có thể tới đây mà không gây nghi ngờ.

Không. Hãy duy trì thêm một thời gian nữa.

Vì sao?

Chúng tôi sẽ không trực tiếp quay lại doanh trại, Eragon liếc nhìn mặt đất. Có một ngọn đồi cách đây hai dặm về phía đông nam. Anh biết chỗ đó không?

Tôi biết.

Saphira sẽ hạ cánh tại đó. Hãy báo Arya, Orik, Jörmundur, Roran, Nữ hoàng Islanzadí, và Đức vua Orrin tới đó. Nhưng đừng để họ cùng rời doanh trại một lúc. Nếu anh có thể dùng phép ẩn thân cho họ là tốt nhất. Anh cũng nên tới nữa đó.

Vâng…Nhưng Khắc tinh của tà thần, anh đã tìm thấy gì ở….

Không! Đừng hỏi tôi. Giờ rất nguy hiểm. Hãy tới và tôi sẽ cho anh hay. Nhưng tôi không muốn tiết lộ câu trả lời với những ai có thể đang nghe lỏm chúng ta.

Tôi hiểu. Chúng tôi sẽ gặp anh nhanh nhất có thể. Nhưng chắc cũng phải mất một lúc đó.

Tất nhiên. Tôi tin anh sẽ làm điều gì tốt nhất.

Eragon dừng liên lạc và ngả người trên yên. Nó cười mỉm khi tưởng tượng ra biểu hiện của Blödhgarm khi anh ta biết về Eldunarí.

Saphira hạ cánh xuống đỉnh đồi. Những con cừu xung quanh đó hoảng loạn chạy biến mất sau vài tiếng be be.

Saphira gập cánh. Cô nàng nhìn theo lũ cừu và nói, Bắt chúng dễ cực, vì chúng đâu có thấy em. Cô nàng liếm mép.

“Ừ, nhưng đó là môn thể thao gì?” Eragon hỏi và tháo đai quanh chân.

Nhưng thể thao không làm no bụng.

“Không, nhưng giờ em không đói, đúng không?” Năng lượng từ các Eldunarí, dù không đều đặn, nhưng giúp cô nàng không thèm ăn.

Cô nàng thở một hơi như thể thở dài. Không, không hẳn…

Trong khi chờ đợi, Eragon duỗi các cơ bắp mỏi nhừ, sau đó ăn bữa trưa nhẹ. Nó biết Saphira đang nằm ườn trên đất dù nó không nhìn thấy. Sự hiện diện của cô nàng để lộ bóng đen trên lớp cỏ bị đè bẹp, giống như có một lỗ đen kỳ lạ vậy. Nó không biết vì sao, nhưng cảnh tượng đó làm nó thích thú.

Khi ăn, nó nhìn xa xăm ra cánh đồng bao quanh ngọn đồi, ngắm nhìn gió vuốt ve lúa mỳ lúa mạch. Những bức tường dài, cao làm bằng đá cắt cánh động thành nhiều phần: chắc các nông dân trong vùng phải mất hàng trăm năm để đào những viên đá đó ra khỏi lòng đất.

Ít nhất đây không phải vấn đề của cư dân Thung lũng Palancar, nó nghĩ.

Một lát sau, một trong những ký ức của những con rồng quay lại với nó. Nó biết chính xác tuổi đời những bức tường đá kia: chúng có từ thời con người sống ở vùng đổ nhát của Ilirea, sau khi thần tiên đánh bại những chiến binh của đức vua Palancar. Nó thấy như mình ở đó. Nó thây từng người phụ nữ, đàn ông, trẻ con  cúi lưng trên cánh đồng và mang như tảng đá họ tìm thấy đặt nên vị trí giờ là bức tường.

Sau một lúc, Eragon để cho ký ức đó trôi qua. Nó mở toang tư tưởng để cảm nhận những luồng năng lượng xung quanh. Nó lăng nghe suy nghĩ của những con chuột trong bụi cỏ và những con sâu trong lòng đất hay những con chim bay trên trời. Việc làm này khá nguy hiểm vì nó có thể đánh động pháp sư của quân địch nếu chúng ở gần đây. Nhưng nó thích được biết ai hay cái gì đang ở gần mình để không ai có thể bất ngờ tấn công tụi nó.

Vì thế nó cảm nhận được Arya, Blödhgarm, và nữ hoàng Islanzadí. Nó không sợ khi nhìn thấy dấu bước chân họ tiến tới nó từ sườn đồi phía tây.

Không khí gợn sóng như nước. Sua đó ba thần tiên xuất hiện trước mặt nó. Nữ hoàng Islanzadí đứng đầu, vẫn vương giả như bao giờ. Bà mặc một bộ giáp vàng với mụ trụ nạm đá quý và áo choàng sọc đỏ trắng trên vai. Bà đeo một thanh kiếm dài mỏng bên eo. Một tay bà cầm thanh giáo lưỡi trắng và một tay cầm khiên hình lá phong.

Arya cũng mặc giáp trụ. Nàng đã thay bộ đồ đen thường ngày bằng bộ áo giúp giống mẹ nanf – dù bộ giáp của nàng có màu xám của sắt chứ không phải vàng kim. Nàng đội mũ trụ có trang trí hình dây thừng trên trán và mũi và có hình cánh đại bàng hai bên thái dương. So sánh với sự tráng lệ của nữ hoàng, bộ đồ của Arya có vẻ ảm đạm nhưng chết người hơn. Mẹ và con gái giống như một cặp kiếm, một để trưng bày, một để chiến đấu.

Cũng giống hai người phụ nữ, Blödhgarm mặc áo giáp nhưng không đội mũ trụ. Ông không mang theo vũ khí gì trừ một con dao nhỏ giắt thắt lưng.

“Xuất hiện đi, Eragon Khắc tinh của Tà thần,” Islanzadí nói và nhìn về nơi nó đang đứng.

Eragon bỏ câu thần chú che giấu nó và Saphira. Sau đó cúi đầu chào nữ hoàng của thần tiên.

Bà nhìn dọc người nó, nghiên cứu nó như nó là một con ngựa chiến quý giá. Không giống như trước, nó không khó khăn gì mà không nhìn bà. Sau vài giây, nữ hoàng nói, “Ngươi đã tiến bộ rồi, Khắc tinh của Tà thần.”

Nó cúi đầu lần nữa, không thấp như lần trước. “Cám ơn, thưa Nữ hoàng.” Như tường lệ, giọng bà nghe rờn rợn. Nó như ngân lên cùng âm nhạc và phép thuật, như mọi từ ngữ đều là một bài thơ. “Đó quả là một lời khen đáng giá xuất phát từ một người thông thái và xinh đẹp như nữ hoàng.”

Islanzadí cười, để lộ những chiếc răng dài. Ngọn đồi và cánh đồng rung lên theo. “Giờ ngươi cũng giỏi ăn giỏi nói hơn rồi! Con không nói cho ta biết đâu nhé, Arya!”

Một nụ cười nhạt xuất hiện trên gương mặt Arya. “Chàng vẫn đang học.” Sau đó nàng nói với Eragon, “Thât mừng vì chàng đã an toàn trở về.”

Những thần tiên liên tiếp hỏi nó, Saphira và Glaedr hàng tá câu hỏi. Nhưng cả ba không đồng ý trả lời cho tới khi những người khác tới. Nhưng Eragon nghĩ các thần tiên vẫn cảm nhận được về các Eldunarí. Eragon nhận thấy dôi khi họ liếc về phía trái tim rồng, dù họ dường như không nhận ra.

Orik là người tiếp theo tới. Ông cưỡi một con ngựa con đang thở khò khè. “Họ, Eragon! Họ, họ!” vị vua người lùn hét lên và giơ nắm đấm. Ông trượt xuống và chạy ào tới, ôm chặt và vỗ vào lưng Eragon.

Sau khi màn chào hỏi xong xuôi, Eragon hỏi. “Những cận vệ của ngài đâu?”

Orik nhún vai. :Đang bên râu cạnh một nông trại cách đây một dặm về phía tây. Tôi dám nói là chẳng ai thích thú đâu. Tôi tin tất cả bọn họ – họ cùng bộ tộc với tôi – nhưng Blödhgarm nói tôi nên đi một mình. THế là tôi đi một mình thôi. GIờ nói cho tôi xem, vì sao phải giữ bí mật? Cậu tìm thấy gì ở Vroengard?

“Ngài sẽ biết khi những thành viên khác của hội đồng chiến tới,” Eragon nói. “Nhưng tôi rất mừng được gặp lại ngài.” Nói rồi nó vỗ vai Orik.

Roran tới ngay sau đó. Trông anh buồn và bẩn thỉu. Anh nắm lấy cánh tay Eragon và chào mừng nó. Sau đó anh đẩy nó sang một bên và nói, “Chú có thể để họ không nghe thấy chúng ta nói chuyện được không?” Anh hất hàm về phía Orik và các thần tiên.

Eragon mất vài giây đọc thần chú lập kết giới. “Xong.” Cùng lúc đó, nó tách tư tưởng ra khỏi Glaedr và những Eldunarí khác, nhưng không phải với Saphira.

Roran gật đầu và nhìn về phía cánh đồng. “Anh có nói qua nói lại vài thứ với Vua Orrin khi chú đi vắng.”

“Qua lại cái gì? Thế nào?”

“Ông ta là đồ ngu, và anh đã bảo ông ta thế.”

“Em đoán ông ta phản ứng không vui vẻ gì.”

“Em có thể nói thế. Ông ta định đâm anh.”

“Ông ta định gì cơ?”

“Anh đã đánh rơi thanh gươm ra trước khi hắn kịp trở tay. Nhưng nếu có cơ hội, có lẽ hắn sẽ giết anh.”

“Orrin?” Eragon khó lòng tin nhà vua dám làm chuyện đó. “Anh có làm ông ta bị thương nặng không?’

Lần đầu tiên Roran mỉm cười: một nụ cười nhẹ biến mất rất nhanh. “Anh làm hắn sợ, như thế có khi còn tệ hơn.”

Eragon càu nhàu và nắm lấy chuôi kiếm. Nó nhận ra nó và Roran là hình ảnh tương phản của nhau qua một tấm gương. Họ cùng đặt tay trên vũ khí. Họ cùng đứng dựa người trên một chân. “Còn ai biết chuyện này?”

“Jörmundur— ông ấy ở đó – và những người nào Orrin nói cho nghe nữa.”

Eragon nhíu mày cố gắng dừng nhịp bước trong khí quyết định phải làm gì. “Không còn thời điểm nào tệ hơn.”

“Anh biết. Anh không nên gây hấn với Orrin. Nhưng hắn cứ muốn “chào hỏi theo phương thức hoàng gia” với Galbatorix và những thứ linh tinh vớ vẩn khác. Hắn sẽ đặt tất cả chúng ta vào vòng nguy hiểm. Anh không thể để cho chuyện đó xảy ra. Chắc chú cũng làm vậy thôi.”

“Có thể, nhưng chuyện này làm mọi thứ khó khăn hơn. Giờ em là chỉ huy quân Varden. Nếu có ai tấn công anh hay bất kỳ chiến binh nào dưới lệnh em thì chẳng khác nào tấn công em. Orrin biết điều đó, và ông ta biết chúng ta là anh em ruột thịt. Ông ta làm vậy chẳng khác nào đấm vào mặt em.”

“Ông ta say,” Roran nói. “Anh nghĩ ông ta chẳng biết mình đang làm gì khi rút kiếm đâu.”

Eragon thấy Arya và Blödhgarm tò mò nhìn nó. Nó ngừng đi lại và quay lưng với họ.

“Anh rất lo cho Katrina,” Roran nói thêm. “Nếu Orrin giận, có thể hắn sẽ cho người giết anh hoặc chị ấy. Kiểu gì thì cô ấy cũng bị tổn thương. Jörmundur đã cho người gác ngoài trại, nhưng thế là chưa đủ.”

Eragon lắc đầu. “Orrin không dám làm tổn thương chị ấy đâu.”

“Không ư? Hắn không thể làm hại chú. Hắn cũng không dám trực tiếp đối đầu với anh, vậy hắn còn có thể nhắm vào ai? Phục kích thôi. Dùng dao tấn công trong bóng tối. Giết Katrina là cách trả thù dễ dàng nhất.”

“Em không nghĩ Orrin dám ám sát trong đêm – hay làm hại Katrina đâu.”

“Chú không thể nói chắc được.”

Eragon nghĩ một lúc. “Em sẽ ếm vài bùa chú vào Katrina để chị ấy an toàn. Đồng thời em sẽ báo cho Orrin biết về điều đó. Như vậy sẽ ngăn chặn bất cứ kế hoạch nào nào của ông ấy.”

Roran dường như không còn căng thẳng nữa. “Anh cám ơn chú.”

“Em sẽ đặt thêm lưới phòng thủ cho anh.”

“Không, chú hãy giữ sức. Anh có thể tự lo cho mình.”

Eragon đòi nhưng Roran vẫn từ chối. Cuối cùng, Eragon nói. “Chết tiệt! Nghe em này. Chúng ta sắp đánh nhau với những tên lính của Galbatorix. Anh phải có cái gì bảo vệ anh chứ. Em sẽ giăng lưới phòng hộ cho anh, dù anh muốn hay không. Vì vậy tốt hơn anh nên cười cảm ơn em đi!”

Roran nhìn nó chằm chằm, sau đó càu nhàu và giơ tay. “Được, cứ làm gì chú muốn. Chú không bao giờ biết bỏ cuộc.”

“Ồ, thế anh biết sao?”

Roran khùng khục cười. “Anh nghĩ là không. Anh đoán đó là gen di truyền rồi.”

“Mmh. Giữa bố Brom và cậu Garrow, em không biết ai cứng đầu hơn ai nữa.”

“Bố anh,” Roran nói.

“Ơ…Bố Brom cũng – Không, anh nói đúng. Cậu Garrow.”

Họ cười nhăn nhở khi nhớ  lại thời sống ở nông trại. Sau đó Roran chuyển tư thế và nhìn Eragon một cách lạ lùng. “Em khác trước.”

“Thế sao?”

“Ừ. Em có vẻ tự tin hơn.”

“Có lẽ vì em hiểu bản thân mình rõ ràng hơn.”

Roran không trả lời.

Nửa tiếng sau, Jörmundur và vua Orrin cũng cưỡi ngựa tới. Eragon lịch sự chào đón vua Orrin. Nhưng Orrin chỉ chào hỏi qua loa và tránh ánh nhìn của nó. Từ cách xa vài bước chân, Eragon vẫn ngửi thấy mùi rượu trong hơi thở của ông.

Một khi hj đã tụ tập trước Saphira, Eragon bắt đầu. Đầu tiên, nó bắt mọi người thề giữ bí mật bằng ngôn ngữ cổ. Sau đó nó giải thích khái niệm Eldunarí cho Orik, Roran, Jörmundur, và Orrin. Nó nhắc lại một chút lịch sử về trái tim đá quý của rồng cùng với Kỵ sĩ và Galbatorix.

Tần tiên có vẻ không thích việc Eragon cà kê kể về Eldunarí trước mặt người khác. Nhưng họ không phản đối. Nó vui vì họ không làm vậy. Ít nhất nó cũng có được sự tin tưởng của nhiều người. Orik, Roran và Jörmundur ngạc nhiên, không tin và có cả tá câu hỏi cho nó. Roran mắt ánh xanh như thể thông tin này cho anh rất nhiều cách đánh bại Galbatorix.

Nhưng Orrin vẫn tỏ ra không tin vào sự tồn tại của Eldunarí. Cuối cùng, ông ta chỉ thôi nghi ngờ khi Eragon lấy trái tim của Glaedr ra và giới thiệu ông rồng với bốn người.

Sự kính trọng đối với Glaedr đã củng cố tinh thần cho Eragon. Kể cả Orrin cũng bị ấn tượng, dù sau khi nói vào lời với Glaedr, ông ta quay qua hỏi Eragon, “Nasuada  có biết không?”

“Có. Tôi đã nói với cô ấy hồi ở Feinster.”

Điều này không làm Orrin hài lòng. “Vậy thêm một lần nữa hai người bỏ rơi ta. Không có sự hỗ trợ của quân lính cùng lương thực của đất nước ta, Varden không thể chống lại Triều đình. Ta là người trị vì một trong bốn quốc gia của Alagaësia. Quân đội của ta đóng một vai trò quan trọng trong lực lượng này. Vậy mà cả hai đều không tôn trọng ta, không thông báo cho ta biết!”

Trước khi Eragon kịp đáp lời, Orik bước ra. “Họ cũng không nói với tôi, Orrin,” vị vua người lùn gầm gừ. “Và những người của tôi còn giúp Varden lâu hơn ông. Ông không nên suy nghĩ về vấn đề này. Eragon và Nasuada làm những gì họ cho là tốt nhất. Họ không thiếu tôn trọng ai.”

Orrin càu nhàu và vẻ mặt như muốn tiếp tục cãi cõ. Nhưng Glaedr chen ngang nói, Họ làm điều ta yêu cầu, Thưa đức vua của Surda. Eldunarí là bí mật lớn nhất của giống nòi chúng ta. Chúng ta không thể gặp ai cũng nói, kể cả đó có là một vị vua.

“Vậy vì soa người lại chọn thời điểm này để tiết lộ?” Orrin hỏi. “Người có thể vào trận mà không để lộ thân phận.”

Để trả lời, Eragon kể lại cuộc hành trình tới Vroengard, kể cả việc chạm trán cơn bão giữa biển và cảnh tượng thấy trên những đám mây. Arya và Blödhgarm  dường như rất hứng thú với phần này của câu chuyện, còn Orik thì không.

“Barzûl, đây có vẻ là một kỷ niệm không vui,” ông nói. “Tôi rùng cả mình. Mặt đất là nơi thích hợp với người lùn, chứ không phải bầu trời.”

Tôi đồng ý, Saphira nói. Orik nhăn nhó nghi ngờ và xoắn đuôi râu bện.

Eragon kể lại cách họ vào được Hầm mộ của Những Linh hồn. Nhưng nó không nói vụ tên thật ra. Khi cuối cùng nó kể cho mọi người biết hầm mộ chứa cái gì, mọi người im lặng vì choáng váng.

Sau đó Eragon nói, “Mở tư tưởng ra.”

Một lát sau, những tiếng thì thầm vang lên trong không khí. Eragon cảm nhận được sự hiện diện của Umaroth và những con rồng khác xung quanh họ.

Những thần tiên loạng choạng, Arya khụy xuống và đặt tay len đầu như thể vừa bị đấm. Orik hét lên và nhìn quanh, mắt trợn trừng. Trong khi đó, Roran, Jörmundur và Orrin đứng như trời trồng.

Nữ hoàng Islanzadí quỳ xuống cùng một tư thế với cô con gái. Trong đầu óc mình, Eragon nghe thấy tiếng bà nói với những con rồng, chào đón họ bằng những cái tên và coi họ như những người bạn cũ. Blödhgarm cũng làm vậy. Vài phút sau, một luồng tư tưởng trao đổi giữa những con rồng và những người đang tề tựu dưới chân đồi.

Những âm thanh quá nhiều, Eragon phải bảo vệ mình và lùi lại ngồi xuống chân trước của Saphira trong khi chờ đợi những tiếng ồn đó giảm đi. Thần tiên dường như bị ảnh hưởng mạnh nhất. Blödhgarm nhìn trời vừa vui mừng vừa phân vân. Arya tiếp tục quỳ. Eragon nghĩ nó nhìn thấy nước mắt lăn xuống má nàng. Islanzadí tỏa ra những tia sáng chiến thắng. Lần đầu tiên kể từ ngày nó gặp bà, Eragon thấy bà thực sự hạnh phúc.

Orik lắc mình tỉnh mộng. Ông nhìn Eragon nói, “Lưỡi búa của Morgothal ơi, điều này sẽ tạo nên một bước ngoặt mới! Với sự giúp đỡ của họ, chúng ta có thể giết Galbatorix!”

“Trước đây ngài không nghĩ là có thể sao?” Eragon nhẹ nhàng hỏi.

“Tất nhiên tôi nghĩ là có. Chỉ là không bằng bây giờ.”

Roran lắc đầu như vừa tỉnh mộng. “Anh không… Anh biết chú  và thần tiên có thể chiến đấu rất kiên cường. Nhưng anh không tin rằng chú có thể thắng.” Anh nhìn Eragon. “Galbatorix đã đánh bại rất nhiều Kỵ sĩ. Em cũng chỉ là một trong những Kỵ sĩ đó, có điều em không già. Trước đây anh nghĩ chúng ta không thể thắng Galbatorix.”

“Em biết.”

“Nhưng giờ thì…” Một cái nhìn ranh mãnh hiện trong mắt Roran. “Giờ chúng ta có cơ hội.”

“Đúng,” Jörmundur nói. “Và chỉ cần nghĩ: chúng ta sẽ không phải lo lắng về Murtagh. Hắn không thể là đối thủ của cậu và những con rồng.”

Eragon nệm gót giày lên chân Saphira mà không trả lời. Nó có những ý nghĩ khác. Hơn nữa, nó không muốn giết Murtagh.

Sau đó Orrin nói. “Umaroth nói rằng cậu đã có kế hoạch. Anh có định nói không, Khắc tinh của Tà thần?”

“ Ta cũng muốn nghe,” Islanzadí nói bằng giọng nhẹ nhàng hơn.

“Tôi nữa,” Orik nói.

Eragon nhìn họ một lúc rồi gật đầu. Nó nói với nữ hoàng Islanzadí, “Quân đội của người đã sẵn sàng tham chiến chưa?”

“Rồi. Chúng ta đã đợi thời cơ trả thù rất lâu rồi. CHúng ta không muốn đợi lâu hơn.”

“Còn quân đội của chúng ta?” Eragon hỏi Orrin, Jörmundur và Orik.

“Những knurlan của tôi đã rất muốn tham chiến,” Orik tuyên bố.

Jörmundur liếc nhìn Vua Orrin. “Những người lính của chung ta mệt mỏi và đói, nhưng ý chí của họ rất kiên định.”

“Các Urgal cũng thế.”

“Urgal cũng thế.”

“Vậy thì chúng ta tấn công thôi.”

“Khii nào?” Orrin hỏi.

“Khi ánh sáng đầu tiên chiếu rọi.”

Không ai nói gì.

Roran là người phá vỡ sự im lặng. “Nói thì dễ, làm mới khó. Làm thế nào?”

Eragon giải thích.

Khi nó nói xong, mọi người lại im lặng.

Eragon ngồi xổm xuống và bắt đầu cạy móng tay. “Nguy hiểm đây.”

“Nhưng dũng cảm,” Orik nói. “Rất dũng cảm.”

“Giờ đâu còn có cách nào an toàn.” Eragon nói. “Nếu chúng ta có thể đánh vào lúc Galbatorix chưa kịp chuẩn bị, chúng ta sẽ làm lệch cán cân một chút.”

Jörmundur xoa cằm. “Vì sao không giết Murtagh trước? Tôi không hiểu phần đó. Vì sao không giết hắn và Thorn khi chúng ta có cơ hội?”

“Vì,” Eragon trả lời, “Vậy thì Galbatorix sẽ biết về họ.” Nó chỉ về chỗ các Eldunarí đang trôi nổi. “Chúng ta sẽ đánh mất yếu tố bất ngờ.”

“Thế còn đứa trẻ kia thì sao?” Orrin cay nghiệt hỏi. “Làm sao cậu nghĩ cô nhóc ấy sẽ giúp cậu? Lần trước cô nhóc ấy đâu có giúp.”

“Lần này sẽ giúp,” Eragon hứa, tự tin hơn thực sự.

Nhà vua cằn nhằn không tin.

Sau đó nữ hoàng Islanzadí nói, “Eragon, đây là một kế hoạch vừa tuyệt vời vừa kinh khủng. Cậu có sẵn lòng làm không? Ta hỏi không phải vì ta nghi ngờ sự dũng cảm hay sự cống hiến của cậu. Nhưng có quá nhiều thứ phải lo. Vì thế ta hỏi cậu: cậu có muốn làm điều này ngay cả khi biết cái giá phải trả?”

Eragon không đứng dậy, nhưng giọng nó sắc lạnh hơn. “Có. Đó là chuyện phải làm, chúng ta phải làm nhiệm vụ đó. Dù giá phải trả như thế nào, chúng ta cũng không thể bỏ chạy.”

Saphia hơi há mồm và ngậm lại, đúng khi nó kết thúc câu, ngầm ra hiệu đồng tình.

Islanzadí ngửa mặt nhìn trời. “Vậy người và những người ngài đại diện cho có đồng ý không, Umaroth-elda?”

Chúng tôi ủng hộ, con rồng trắng đáp lời.

“Vậy thì làm thôi,” Roran lẩm bẩm.

Bạn đang đọc truyện trên: truyentop.pro

Tags: