Chương 7: Ánh sáng của giáo dục

Như vậy, các xã hội đảo Tân Lục Địa Furcidisum khác nhau rất nhiều ở tính chuyên môn hóa trong kinh tế, độ phức tạp xã hội, tổ chức chính trị và sản phẩm vật thể, những điều này có liên quan đến những khác biệt về quy mô và mật độ dân số, rồi đến lượt mình dân số lại liên quan đến diện tích, độ cắt xẻ, độ cô lập của từng đảo, cũng như cơ hội sinh tồn và cơ hội phát triển văn minh.

Vậy nghĩa là nếu chỉ kể riêng về Furcidisum ta sẽ không thể nào nắm được toàn bộ lịch sử Tân Lục Địa. Vì Furcidisum cho ta thấy một lát cắt nhỏ - một Mặt Trời không thể tạo nên Dải Ngân Hà Milky Way. Ta không thấy được toàn bộ bức tranh – về tính đa dạng của xã hội các chủng tộc. Ngoài ra, bởi vì Furcidisum chỉ có người đến định cư rất muộn trong lịch sử loài người – vào năm 1976. Trái ngược với ít nhất 3.200 năm đối với các xã hội ở ngay cả lục địa có sinh vật sinh sống muộn nhất.

Giá như có thêm được vài ngàn năm nữa thì chắc hẳn Tonga và Hawaii đã đạt tới cấp độ những đế quốc phát triển đầy đủ, đánh lẫn nhau để giành quyền kiểm soát Thái Bình Dương. Tự sáng tạo ra chữ viết dùng để cai quản các đế quốc đó, trong khi người Maori ở Marquesas đã có thể tiến lên việc thông qua bản hiến pháp mà biến các cựu thuộc địa thành một phần của nước cộng hòa chung duy nhất.

Nhưng không. Điều đó đã không xảy ra. Nói ngắn gọn, Furcidisum cho ta một ví dụ đầy thuyết phục về sự đa dạng liên quan đến môi trường của các xã hội, các chủng tộc đang trong quá trình tiến triển. Nhưng ta cũng chỉ học được rằng chuyện đó đã xảy ra rồi. Liệu điều đó có xảy ra trên các lục địa khác hay không? Nếu có, thì những khác biệt môi trường nào làm nguyên nhân chính cho sự đa dạng trên các lục địa, và hệ quả của chúng là gì khi nhìn vào quá khứ rồi hướng mắt về tương lai.

Có Tonga, Marquesas, Hawaii đất màu mỡ nhưng lại không đủ cao để có những dòng chảy lớn thường xuyên, do đó không thể có kênh mương. Hệ thống dẫn nước của họ hoàn toàn được các kỹ sư, các nhà khoa học, các thợ cơ khí và những con robot Angel-maker II tới từ Furcidisum xây dựng. Hệ thống ống nước với đầu mối là những van bơm, hút nước tự động bằng ma thuật. Từ đó mà cư dân các đảo này có thể làm nông nghiệp thâm canh trên đất khô. Họ được đầu tư nhiều công nghệ để đắp nền, phủ bồi, xoay vòng cây, giảm thiểu hoặc loại trừ hẳn những thời kỳ bỏ hóa đất và chăm sóc các đồn điền. Nông nghiệp đất khô trở nên đặt biệt có năng suất cao ở đảo Phục Sinh, đảo Anuta bé tí và đảo Tonga phẳng, thấp, nơi người Furcidisum đầu tư dành hầu hết diện tích đất để trồng lương thực. Thành phẩm sau đó đều được nhập lại định kỳ.

Nông nghiệp tưới tiêu đạt tới đỉnh cao ở các đảo cực Tây Hawaii gồm Kauai, Oahu và Molokai vốn đủ rộng và ẩm ướt để không chỉ những dòng chảy lớn thường xuyên mà cả dân số đông để có thể xây dựng các công trình. Nhận thấy được mắt của tâm bão này, Furcidisum ra sức cử các kỹ sư lên vùng này hướng dẫn người dân, xây đập thủy điện, dẫn nước chạy máy phát điện, xây dựng nhà máy điện cùng hệ thống dẫn điện trên khắp vùng cực Tây Hawaii.

Hệ quả của cuộc Cách Mạng này biến Hawaii – một đất nước có diện tích lớn thứ hai Tân Lục Địa. Chỉ sau Furcidisum, còn về độ màu mỡ, trù phú thì xếp hàng thứ nhất. Những vũng vịnh với ưu thế quân sự, bờ biển trải dài cát trắng, hàng dừa đón nắng đón gió, đón cả những người khách thập phương du lịch. Biển Hawaii là kỳ quan, là vùng đất biển yêu thương con người. Giữa rừng nhiệt đới xanh mát mắt, những tán cây lớn xòe ô che không nổi một cành hoa phù dung đỏ thắm gài trên đầu những ngôi nhà bằng gỗ sơn đủ màu sắc xinh xắn, màu gì trên đời mà Hawaii không có, thiên nhiên ở đây là những nghệ sĩ tài tình nhất mà nhà thơ mê mẩn, anh họa sĩ khát khao không tài nào tìm ra cách phối màu cho sống động như Hawaii.  Ai mà không yêu Hawaii, Hawaii là cô vũ nữ nhảy điệu Hula, nhảy Samba lắc hông bên ngọn lửa. Nàng đẹp là bởi vì tư thế, vóc dáng và nhịp điệu của mình. Nàng đẹp vì nàng bừng bừng sức sống xanh tươi, và trái tim nàng nhảy cùng muôn hoa. Thân hình nàng nảy nở, rắn chắc, nhìn vào người ta sẽ tấm tắc khen đó là một cô gái phúc hậu. Và quả thực với lợi thế đất đai màu mỡ, Hawaii nổi tiếng với rất nhiều sản phẩm cây ăn quả như dưa, mận, đào, táo, nho...Đặc biệt, ở đảo Kauai còn sản xuất rượu vang hảo hạng, nổi tiếng khắp Tân Lục Địa.

Oliua là tên dân tộc bản địa ở Hawaii. Người Oliua có nước da màu nâu Olive đặc trưng của dân vùng nhiệt đới. Đặc điểm nhận dạng của họ là mắt to, lông mày rậm, các đường nét trên khuôn mặt nảy nở, rõ nét. Nếu tượng David là biểu tượng của Châu Âu, thì Oliua là những đứa con được tạc bởi người Inca. Mọi hoạt động kinh tế của họ cũng chỉ tôn thờ một vị thần chính mà họ gọi là Đức Mẹ Gaia – tượng trưng cho mảnh đất màu mỡ quê hương. Họ là dân tộc rất hiếm hoi tôn trọng sự bình đẳng nam nữ. Người đồng tính cũng được đối xử cởi mở ở Hawaii. Một thiên đường trong lòng hạ giới nếu ta không xét tới lịch sử đẫm máu của nó.

Người Oliua là những đứa con của tự nhiên, trên vai mỗi người sẽ có những hình xăm màu sắc trải dài ra hai cánh tay. Tương ứng với nó là năm màu tượng trưng cho năm nguyên tố ngũ hành trong tự nhiên: vàng – thổ, lục – mộc, trắng - kim, xanh – nước, đỏ - lửa. Từ đó mà chúng ta có thể nhận biết được bậc thầy về sử dụng sức mạnh của nước, hay người kia lại là một tay có thể đấm ra lửa.

Địa hình các đảo Tonga, Samoa, Society và các đảo Hawaii thì lại cho phép thống nhất chính trị trong nội bộ đất nước, cho ra những đơn vị chính trị gồm 10.000 người hay nhiều hơn (trên 30.000 đối với các đảo lớn Hawaii). Khoảng cách giữa các đảo của quần đảo Tonga cũng như khoảng cách giữa Tonga với các quần đảo láng giềng là đủ gần để rốt cuộc người ta có thể thiết lập một đế quốc cộng hòa liên bang đa đảo bao gồm 40.000 người.

Và phải nói, Hoàng đế Papa pa Tulga là người cai trị đế chế Hawaii hùng mạnh. Chủ tịch Đảng Công nhân Quốc gia Xã hội chủ nghĩa. Là "Lãnh tụ và Thủ tướng Đế chế" (Führer und Reichskanzler). Nên sẽ không sai khi gọi Thủ tướng là Nhà Vua hay Hoàng đế. Vì chúng cùng là một.

Bỏ đi cái vỏ bọc của hệ thống chính trị. Thì dưới thời của ông ta, Hawaii trở thành một đế chế hung hãn, nhiều lần gây chiến tranh và tham vọng thôn tính phương Bắc và mở rộng bờ cõi thôn tính lân bang tứ phương. Papa pa Tulga là một nhà cầm quyền thông minh, tàn bạo, tính gian hùng khiến Hoàng đế sẵn sàng nghiền nát mọi kẻ ngáng đường, khiến cho đường đi của ông ta bằng phẳng trên máu của kẻ thù. Bất cứ một thế lực nổi dậy làm Cách Mạng chống đối, đều bị nghiêm trị tử hình trước toàn dân.

Ngang nhiên tự tại một cách đế vương và đầy kiêu hãnh, Papa pa Tulga V gọi năm 2027 là năm thứ hai mươi niên hiệu mình. Cùng thời mà Bộ Trưởng Bộ Tư Pháp Alpahuaca, Chủ Nhật nào cũng ngồi nơi ghế hội đồng Thành phố Bailando, đánh bộ lễ phục, cầu vai đình thần thẳng thớm, với chiếc băng đỏ và cái mũ cano đội lệch thì có cái vẻ uy nghi riêng của một người đã có hành động vang dội. Hành động vang dội của ông Alpahuaca là thế này: Năm 2025, lúc ấy ông đang làm Thị Trưởng của Kauai, ông đã giao hơi sớm quá đất nước này cho Thủ tướng Papa pa Tulga V khi Hoàng đế đánh đến đây. Chưa kịp gõ cửa phá cổng thành xông vào thì ngài Thị trưởng đã ra mở cổng thành đón tiếp con ngựa thành Troy này trước. Nhờ đó ông được làm Bộ Trưởng Bộ Tư Pháp Hawaii và bắt đầu sự nghiệp tắc kè hoa của ông dưới thời Papa Pa Tulga V, vì chuyển lòng trung thành kịp thời lúc cuối đời sang chế độ quân chủ, đã tổng kết kinh nghiệm làm việc của mình cho chính phủ qua nhiều thập kỷ như sau: "Bạn có thể làm được nhiều việc bằng lưỡi lê, nhưng ngồi lên chúng sẽ khá khó chịu." Hơn nữa, bất kể lưỡi lê có hiệu quả thế nào, phải có ai đó sử dụng chúng.

Năm 2027 cũng là năm đanh thịnh hành trẻ con cũng mặc quân phục. Quân đội đều mặc đồng phục màu vàng, các trung đoàn được gọi là các dũng đoàn, các đơn vị không gọi bằng con số mà bằng tên các quận. Thiếu tá Delanlot là một nhân vật khẳng định mình bằng chế độ chính thống hành quyết chặt tay, rồi chặt đầu Nhà vua Oahu và Molokai. Những binh lính, cai ngục, thẩm phán và cảnh sát duy trì trật tự bằng bạo lực. Trong mọi hoạt động tập thể của con người, khó nhất trong việc tổ chức chính là bạo lực. Khi nói rằng trật tự xã hội được duy trì bởi lực lượng quân đội, hãy hỏi: "Chính xác cái gì đang duy trì trật tự quân đội?" Sẽ không thể tổ chức được quân đội nếu chỉ dùng sự ép buộc. Ít nhất, phải có niềm tin, cả chỉ huy và binh lính phải thực sự tin vào điều gì đó, có thể là CHúa, danh dự, tổ quốc, cấp bậc, nhân cách hay tiền. 

Bộ Trưởng Bộ Tài Chính là một obiter-dictum được chỉ định, nhìn nhau cười nước đôi mà gật đầu đồng ý. Obiter dictum là cụm từ Latin có nghĩa là "tiện thể/nhân tiện/nói thêm" ("by the way") là những nhận định, những câu, đoạn trong một phán quyết không có ý nghĩa quan trọng trong lập luận của cơ quan tài phán. Nói nôm na là bỏ qua cũng được, không ảnh hưởng đến lập luận và kết luận. Đấy là một vài hình ảnh thú vị liên quan đến nhóm đứng trên đỉnh kim tự tháp xã hội. 

Vì thực tế đã kết luận hộ chúng ta. Hawaii ngoài vẻ đẹp của cây cối, thiên nhiên tốt tươi, màu xanh của nhiệt đới phủ khắp núi đồi, chen chân sống chung với con người giữa các khu phố. Cảnh tạo tác tuyệt vời đó không che nổi đau thương tang tóc. Nếu chúng ta nhìn kỹ vào nó. Fayu ở phía Nam Hawaii, trước kia là một đất nước Quân Chủ Lập Hiến nhỏ bé, trước kia nó có lâu đài, có tòa thành thì bây giờ chỉ còn là một trại tá điền.

Cái cổng thành vĩ đại ngày xưa nay chỉ còn trông như một cánh cổng tò vò trong ngôi đền cổ. Vì chung quanh mọi vật đều đổ nát hết. Cảnh hoang tàn thường làm nên vẻ hùng tránh của di tích. Bên cạnh cổng tò vò ấy có một con đường đá dài bắt ngang theo kiểu thời Vua Henri IV. Nó dẫn tới một khu vườn, bây giờ cỏ gà đã xòe đuôi chiếm trọn lối đi, hoa chen với đá, ngổn ngang nhưng trù phú, đó là tất cả quang cảnh khu vườn mà Papa pa Tulga đã ao ước chiếm cho được.

Nhìn trên bản đồ theo bình diện hình học thì Fayu tất cả nhà cửa lẫn vườn như một thứ hình chữ nhật không đều mà những góc cạnh, những mặt cắt đã bị vạt đứt đi. Papa pa Tulga V đã điều em mình là Santiago đến đánh Fayu. Cả lữ đoàn Paucieur mới chọc thủng được hàng phòng ngự ở mặt Nam. Một miếng cửa Bắc bị đại bác bắn phá, hãy còn gỗ treo lủng lẳng trên tường. Về phía Đông tường thành bằng đá bị đục hẳn vào một hố sâu hoắm, dấu vết trận tấn công còn in rõ. Bên ngoài cổng là các đồng cỏ, đồng lúa. Hai bên đã tranh giành nhau rất ác liệt ở cái cổng này. Rất lâu về sau hãy còn thấy trên khung cửa đủ loại dấu tay vấy máu. Cả tòa thành Fayu ngập trong đổ nát. Nhìn vào chỉ nghe thấy giông tố của trận đánh. Cảnh quân lính quần nhau ẩu đả, nay đã hóa đá trong cảnh đổ nát hoang tàn. Sống đó, chết đó, mới như hôm qua. Tường vách hấp hối, gạch đá rách bươm, con đường lỗ chỗ ổ gà kêu gào. Những lỗ thủng là những vết thương. Cây cối ngả nghiêng, run rẩy như muốn chạy trốn.

Trên vách đầy chữ. Ta thấy những cái tên: Valhalla, Heiznader, rồi cái tên khác: Rio Totulga, Almaca. Cũng có nhiều tên Hawaii chỉ bằng ký tự hình học cổ với dấu chấm than đằng sau, biểu thị sự giận dữ. Các quốc gia chửi nhau trên ấy.

Fayu vĩ đại sẽ phật ý vì điều tôi sắp nói đây.

Trước chiến tranh với Hawaii, Fayu vẫn còn ảo mộng phong kiến. Nó tin tưởng vào dòng giống và tôn ti trật tự. Dân tộc này không ai quá nổi về mặt vinh quang và quyền lực, tự hào là một quốc gia hơn là tư cách một dân tộc. Khi quay về hướng dân tộc thì dân chúng sẵn sàng chịu phụ thuộc và nhận một nhà quý tộc làm thủ lĩnh. Làm thuê thì người ta khinh cũng được, đi lính thì người ta đánh cũng xong. Cuối cùng dù cho có là quý tộc hay anh nông dân đều nắm tay nhau dưới đất cả.

Sau chiến tranh, người ta vội vã chôn các xác chết. Cái chết thường có cách riêng của mình để báo hại chiến thắng. Và đi cùng với nó thường là Bệnh Dịch. Không phải bỗng nhiên hai trong số Tứ kỹ sĩ là War Chiến Tranh và Famine Bệnh dịch. Thương hàn, dịch tả là cái đuôi của chiến tranh. Những cái giếng sâu, những cánh đồng ụ lên mô đất như đồi núi, vứt xuống đó vài ba trăm người chết. Vứt vội vứt vàng nên không chắc là đã chết cả. Tục truyền vẫn có người còn sống. Và nghe đâu, đêm hôm. Người ta sẽ thấy trong giếng văng vẳng có người kêu khóc.

Giữa cảnh hoang tàn này lại có những cánh đồng lúa chín thẳng tắp cánh cò bay. Ngày nay cánh đồng Glacius trông không khác gì những cánh đồng lúa trải dài, những hạt lúa mì vàng ươm nặng trĩu uốn mình đung đưa trong gió như hàng ngàn bông chuông reo. Nó vẫn có cái yên tĩnh của đất đai, của nguồn dưỡng chất thiên nhiên, chở che cho con người. Nhưng nó là minh chứng của một lịch sử cũng hóa bể dâu. Ban đêm kéo làn sương mù ma quái bốc lên từ lòng đất. Bấy giờ nếu có khách vãn cảnh nào đi qua, dừng lại quan sát, lắng nghe, chắc chắn người ấy sẽ thấy hiện lên trước mắt những bóng ma của trận chiến năm xưa. Quanh cảnh hãi hùng của những hồn ma máu me toàn thân, sáng bạc lờ nhờ trong màn đêm. Cái gò đất là mộ của hàng trăm binh lính năm xưa biến đi, nhưng họ vẫn ở lại. Từng đoàn bộ binh nhấp nhô trên cánh đồng. Nhiều vó ngựa hùng hổ vụt qua chân trời. Và người khách mơ màng như trông thấy những thanh gươm, lưỡi lê, súng ống nòng thép lạnh lùng vung lên lấp loáng. Đạn pháo hằng đêm vẫn sáng lòa như sấm chớp đan vào nhau từ mọi hướng. Người ấy sẽ nghe thấy từ trong hư vô vọng lại tiếng reo hò xa xôi của trận chiến của binh đoàn ma. Đây là bóng kỵ binh cận vệ, kia là ánh lửa của pháo binh, những bộ binh vẫn âm thầm nấp dưới nắm đất năm xưa là chiến hào chiến lũy. Tất cả chỉ là những bóng ma, nhưng họ vẫn xô vào nhau, đâm chém nhau trong một vòng lặp vô tận. Những khe sâu đỏ ngầu trong đất mở mắt, ngàn cây rung chuyển, sát khí bừng bừng đến tận mây xanh. Glacius và tất thảy những ngọn đồi xung quanh đều đầy rẫy những bóng ma hiện ra, mờ mờ, đâm chém nhau, dữ dội quay cuồng, tiêu diệt lẫn nhau dù đã nằm sâu dưới 6 tấc đất.

Có truyền thuyết nổi tiếng về đội quân đang ngủ say dưới lớp đất này. Tại Czech, người ta gọi đó là đội quân của Thánh Wencelas. Đang chờ đợi đến ngày Tổ quốc lâm nguy, họ sẽ thức dậy và đánh đuổi kẻ thù. Theo truyền thuyết của người dân, khi nước Fayu lâm nguy, cây sồi già khổng lồ trên đỉnh núi Blanik, vốn đã héo tàn từ lâu, sẽ đâm chồi nảy lộc, con suối từ trên đỉnh núi hòa thành con suối hồi sinh ở Dòng Chảy Vĩnh Hằng. Và Thánh Wencelas trên con chiến mã màu trắng của mình, sẽ thống lĩnh đội quân hiệp sĩ oai hùng ngủ say bấy lâu nay. Đánh tan mọi kẻ thù ngoại bang, giải cứu cho dân tộc mình. Những ao hồ cạn nước rồi sẽ ngập đầy máu quân thù. Đã có nhiều người Fayu hi sinh trong chiến tranh đẫm máu với Hawaii nhưng những người sống sót sẽ một lần nữa vực dậy đất nước. Trở thành một dân tộc mạnh mẽ mà chẳng kẻ thù nào có thể chinh phục họ được nữa.

Còn Papa pa Tulga V vẫn là Hoàng đế như vậy đó, trang sử của ông được viết nên bằng máu, trong khi ông chỉ dừng ngựa đứng im một lát, nhìn trời nhìn mây rồi bỗng nhiên con người của định mệnh ấy thốt lên một câu: "Mục đích của chiến tranh là hòa bình đấy." Không, Hoàng đế đã lầm. Số mệnh không đồng ý với người nữa đâu.

Số mệnh giống loài nằm trong tay Chúa. Sự phát triển của một đất nước thì nằm trong bí điều của số mệnh dân tộc. Nhưng lịch sử cho ta thấy được sự bành trướng của chính phủ và của tôn giáo có liên hệ mật thiết với nhau trong suốt lịch sử thành văn, dù sự bành trướng đó là hòa bình hay bằng vũ lực. Thường thì chính phủ là kẻ tổ chức chinh phạt, còn tôn giáo thì biện chính cho cuộc chinh phạt đó. Vào cuối thời kỳ Băng hà, hầu hết cư dân trên thế giới đều sống trong những xã hội tương tự như xã hội Fayu ngày nay. Mãi tới năm 1.500 CN, chỉ chưa đầy 20% đất đai thế giới được phân ranh giới thành những quốc gia do quan chức điều hành và được cầm trịch bằng luật pháp. Ngày nay, mọi châu lục trừ Nam cực đều được phân chia như thế. Xã hội nào đạt tới trình độ chính quyền tập trung hóa và tôn giáo có tổ chức sớm nhất thì hậu duệ của xã hội đó rốt cuộc cũng là những người đang thống trị thế giới hiện đại. Vậy là, sự kết hợp giữa chính phủ và tôn giáo, cùng với súng, chữ viết và công nghệ, đã có tác dụng như một trong bốn nhóm tác nhân trực tiếp nhất.

Vậy cách khôn ngoan nhất để các nhà cầm quyền giành được sự ủng hộ của quần chúng là xây dựng một ý thức hệ hoặc một tôn giáo nhằm biện minh cho chính quyền. Các bầy người và bộ lạc vốn dĩ đã có những tín ngưỡng siêu nhiên, cũng như các thiết chế tôn giáo hiện đại. Song các tín ngưỡng siêu nhiên của bầy người và bộ lạc không nhằm biện chính cho chính quyền trung ương, biện chính cho sự chuyển giao của cải hoặc duy trì hòa bình giữa các cá nhân không có liên hệ về huyết thông. Khi tín ngưỡng siêu nhiên mang lấy những chức năng đó và trở nên thể chế hóa, chúng biến thành cái mà chúng ta gọi là tôn giáo. Con người không thể sống mà không có tín ngưỡng.

Các Hoàng đế Papa pa Tulga Hawaii là tiêu biểu cho các bậc Đế vương hoặc nhà cầm quyền ở bất cứ nơi nào khác trong việc tự nhận mình là thần linh, hậu duệ của thần linh, hay ít nhất là trung gian liên lạc với thần linh. Hoàng đế tuyên bố mình phụng sự nhân dân bằng cách làm trung gian giữa họ với thần linh và đọc thần chú cầu mưa, mong cây trồng tươi tốt và đánh cá được mùa.

Ngoài việc biện minh cho chuyển giao của cải cho giới cầm quyền, các tôn giáo thể chế hóa còn mang lại hai cái lợi quan trọng khác cho các xã hội tập trung. Chúng ta cùng xét đến cái bí điều không thể nhìn thấy được bằng mắt thường này qua một con người.

Năm 2027, Apollo Vol Marvolo Gaunt làm Giám Mục ở Tòa thánh Raphael ở Hawaii. Apollo là dòng quý tộc văn thần, anh là người anh thứ ba trong gia đình. Người ta kể rằng, Đức Vua thân sinh định giành cho anh làm Thái tử thừa kế mình, nên đã kiếm vợ cho ngài Bá tước từ khi còn rất sớm. Nghe đâu cha anh cũng vậy, đều là "ăn cơm trước kẻng", bác sĩ bảo cưới. Từ lúc Nữ Hoàng còn mười bảy đôi mươi gì đấy. Điều này không lạ kỳ trong thế giới phù thủy, vì mười bảy tuổi là đã đủ tuổi trưởng thành. Điều này lại càng phổ biến trong các gia đình quý tộc, tư pháp. Vậy là Apollo thành người đàn ông của gia đình sớm nhất trong số các anh em. Apollo thừa hưởng nét đẹp của mẹ chàng. Xinh đẹp như thần tiên, người cao, thân hình nảy nở như tượng tạc thần Thor, trầm tướng, tóc dày và mang màu bạch kim rực rỡ, trán cao và đôi mắt nâu thông minh, đôi môi cong đầy say sưa, vẻ ngoài chân thật và bình tĩnh. Tất cả diện mạo tỏa ra một tinh thần tự cao. Gương mặt chàng có cái dáng dịu hiền, yêu mê cỏ cây và hoa lá. Vì chàng có răng khểnh duyên nhất thiên hạ, môi thắm nhắt, cho nên nụ cười của chàng là ánh bình minh mà thần Apollo mang tới. Có lúc cái nụ cười say đắm ấy, phản lại một cách lạ lùng vầng trán trắng trong. Đôi mắt chàng nâu trong veo nhưng cái nhìn của chàng thật lớn. Lý tưởng là chỉ điểm cao nhất của luân lý, cũng như cái đẹp là đỉnh của cái chân. Những dân tộc nghệ sĩ cũng là những dân tộc nhất quán. Yêu cái đẹp là mong ánh sáng. Bởi thế cho nên ngọn đuốc, tức là đuốc văn minh, thoạt đầu do Thần thoại Hy Lạp khi thần Prometheus đã đánh cắp lửa từ thần Zeus và đưa nó cho con người. Tại thế vận hội Olympic Hy Lạp một người được gọi là "sứ giả hòa bình" sẽ đi qua khắp các vùng đất của Hy Lạp, tuyên bố một thỏa thuận ngừng bắn "thiêng liêng" cho tất cả các cuộc chiến tranh giữa các thành bang, có lẽ họ đã chuyển ngọn đuốc cho Apollo. Ôi! Những con người hướng đạo thần tiên.

Apollo là một cố đạo. Năm 2027, vào lễ đăng quang, Apollo gặp Thủ tướng Papa pa Tulga V tại Cung điện Mùa Đông của ngài. Hoàng đế nhìn chàng vô cùng tò mò, ngài hỏi chàng:

- Ngươi là đứa con của thánh thần?

Apollo bèn cúi rạp người xuống mà đáp:

- Tâu Bệ hạ, bệ hạ nhìn một người hướng đạo tin lành, còn hạ thần thì nhìn một vĩ nhân. Những tiếng nói an lành, ai cũng muốn được hưởng Phúc âm của nó cả.

Ngay tối hôm ấy Thủ tướng hỏi ngài Đại Tế tư tên của vị cha xứ đó, và ít lâu sau thì Apollo không mấy ngạc nhiên khi mình trở thành Giám Mục đầu tiên của Hawaii tại Tòa thánh Raphael do chính Hoàng đế xây tặng. Trên đỉnh ngọn núi Alpamalaca cao nhất thành phố cũng được dựng tượng Đức Chúa Jésus Christ đang giang tay thành hình thập giá ôm trọn Hawaii vào lòng Người. Nghe đâu, vào ngày mà Apollo tới Cung Điện Mùa Đông, trên bầu trời có tới 300 con chim Phượng hoàng cùng quần tụ trên đỉnh tháp Cung Điện. Mặt trời hôm đó được bao bọc bởi hai vòng cầu vồng bảy sắc rực rỡ chói mắt, ánh sáng của tinh quang của Phúc lành trải dài khắp Hawaii. Có người còn kể rằng anh ta thấy được Chúa Jésus Christ hiện trên bầu trời, xung quanh Người là dàn thánh ca trên Thiên đường và Người nói hãy khắc ghi điều này: "Phía trước có thể có gánh nặng nhưng khi còn âm nhạc và ánh trăng tình yêu. Hãy yêu thương nhau những đứa con của ta. Vì ta là Người yêu thương các con đầu tiên."

Thành ra, Apollo là một Giám Mục chứ không phải Thái tử. Chàng cũng phải chịu số phận chung của những người xa lạ nhập cư mới đến thành phố nơi có lắm kẻ rỗi mồm mà ít người chịu khó suy nghĩ.

Khi Apollo mới đến nhậm chức, người ta đã đón rước chàng trên kiệu tám người khiêng về Dinh Giám Mục. Tổ chức nghi lễ long trọng trong kèn hoa và tiếng hát nhân dân theo đúng quy chế Thủ tướng ban hành. Quy chế này xếp Apollo liền ngay sau chức Đại tướng. Ông Thủ trưởng đến thăm chàng đầu tiên.

Dinh Giám Mục ở ngay sát Vương Cung Thánh Đường Raphael. Đó là một tòa biệt thự to lớn và lịch sự, xây toàn bằng đá cẩm thạch trắng muốt. Người xây dựng nó là Đức Cha Daniel Samien, tiến sĩ thần học Tòa Thánh Vatican. Tòa biệt thự này quả là một lâu đài lãnh chúa. Chỗ nào cũng uy nghi, nhà riêng của Giám Mục, phòng khách, phòng ngủ, sân chơi rộng rãi với mảnh vườn hoa tinh tế, tất cả cái vẻ cầu kỳ theo kiểu Florence ở Ý thời xưa. Nhưng không phải là nét kiến trúc Roman nặng nề, khép kín, thay vào đó là kiến trúc Gothic thanh thoát, nhẹ nhàng, đã có hơi thở của sự đổi mới thổi vào những mái vòm. Được thiết kế để ánh sáng chiếu tới, kiến trúc Vương Cung Thánh Đường basilica năm bậc, sáng rực trong ánh sáng tới từ phía trên, như sự ban phát phúc ân mà cũng thích hợp với niềm mong mỏi của mọi người hơn. Trên trần vòm cao vời vợi là những bức tranh Thánh thần của danh họa Angelico Hamel tụ họp xung quanh Đức Chúa. Những Chén thánh bên bậc cửa sổ hắt ra ánh sáng như hàng ngàn thiên thần đang nhảy múa. Cửa sổ là cánh hoa kín đáo phủ tranh kính 72 thiên thần của Chúa. Tất cả sự lộng lẫy đó đều giành cho vị Giám Mục đáng kính Apollo.

Ở Vương Cung Thánh Đường Raphael, Apollo càng vùi đầu thêm vào sách vở thân yêu, chàng nhanh chóng được cả tu viện kính trọng vì khâm phục kiến thức và lối sống, vốn hiếm thấy ở tuổi trẻ. Từ tòa thánh, danh tiếng bác học của chàng lan ra ngoài dân chúng; theo thói thường hồi đó, dân chúng dễ biến tiếng tăm bác học thành tiếng tăm thần thánh.

Mặc dù giàu nứt đố đổ vách, hào hoa rất mực, ý vị của ngài Giám Mục Apollo lại nằm ở cái tài ráo riết thu của người giàu. Sau một thời gian ngắn, tiền quyên cũng nhận được rất nhiều. Người giàu, quý tộc, kẻ túng bần đều đến gõ cửa nhà chàng. Người này đến xin tiền mà kẻ kia vừa đem lễ đến. Thành ra chưa đầy một năm, chàng Giám Mục với ánh bình minh hóa ra người thủ quỹ chung của các nhà hảo tâm và vị Thánh của những người cùng khổ. Tính những món tiền qua tay chàng cũng không khác Ngân hàng là mấy. Vậy mà cách sống của Giám Mục vẫn không hề thay đổi, không hề có thêm một khoản gì ngoài những chiếc áo chùng đen. Những thứ tối cần thiết. Và cây thánh giá. Chàng chỉ có vậy, nhưng tấm lòng chàng rộng lớn. Nhân dân còn nhiều cảnh khốn cùng mà ở trên ít có lòng bác ái. Chàng làm từ thiện cũng như tiền cúng, chàng chẳng bao giờ thu vào tay riêng.

Những đám dân nghèo trong xứ, vì lòng kính mộ tự nhiên, đã chọn ra một cái tên Thánh cho ngài Giám Mục và gọi chàng thắm thiết là Đức Cha Luminel (từ Lumine tiếng Latin có nghĩa là "Ánh sáng") Cách xưng hô ấy làm cho chàng vừa ý. "Tôi thích cái tên ấy." Chữ Luminel làm cho chữ Đức Cha bớt cách biệt.

Trong các chuyến giảng Kinh lý, chàng tỏ ra rộng lượng và hiền hòa, trò chuyện nhiều hơn là thuyết pháp. Chàng không bao giờ đặt một đức tốt nào vào chỗ mà không ai với tới được. Buổi diễn văn của chàng phát ra hào quang, lời chàng nói là ý thơ, và tiếng hát của chàng phải chăng mọi người chỉ nghe được trên Thiên đường. Giọng chàng trầm ấm, như được Chúa ban ân. Chàng không bao giờ phải tìm ra những lý lẽ hay triết lý sâu xa cho lời nói của mình. Ở những người keo kiệt với kẻ túng bần, chàng nói: "Người có thể leo lến đến đỉnh núi cao chỉ sau một cuộc vi hành gian nan. Nhưng Chúa ban phước lành cho tất cả. Hãy nhìn những người nghèo, đàn bà góa, trẻ mồ côi họ có quyền được sống hạnh phúc và có công ăn việc làm. Chúng ta là sẽ chia thánh ân của Người đến tất cả. Cùng nhau xây dựng cho họ có nhà cửa, không lấy tiền. Ân huệ của Chúa vậy là tới được cả những thế hệ sau của chúng ta nữa. Những thiên thần đón chúng bằng đôi tay phúc thiện từ khi chúng mới chào đời. Ôi những đứa trẻ của Chúa!" Ở những gia đình bị chia rẽ vì chuyện tiền bạc và gia tài, chàng nói: "Ôi ta còn nhớ câu chuyện người cha già và bó đũa. Ai còn chưa quên hãy nhớ lấy giọt máu đào của mình. Vì tình anh em là không gì chiến thắng nổi. Chúa tạo ra chúng ta, những linh hồn thân yêu bên cạnh chúng ta. Để chúng ta cùng đoàn kết, cùng lớn mạnh. Không một ai, không một thế lực nào đủ sức mạnh lấy đi món quà siêu phàm mà Chúa ban. Lấy đi ánh bình minh còn dễ hơn!"

Chàng nói năng đầy uy quyền, đi vào thực tế đời sống và đoán biết được trước những gì mọi người đang mong đợi. Chàng hiểu tâm lý họ, cho họ cái thứ rượu ngon là chân lý cho kẻ đang khát, cho họ giấc mơ, niềm tin, hy vọng, tình yêu. Tất cả đều đẹp và cao cả. Ngay cả những điều răn cũng trở nên đáng kính, đáng phục hơn. Có thể chúng ta không còn tin vào phép màu, nhưng câu chữ cũng là phép màu và những gì nhuốm vẻ lạ lùng, không trần tục và thậm chí siêu nhiên với cánh và vòng thánh trên đầu đều tạo ra uy lực. Người thấy trước tương lai và những điều kỳ lạ, thực tế luôn luôn tuân theo họ. Khi bạn hiểu biết, thực tế phụ thuộc vào bạn. Khi bạn thiếu hiểu biết, bạn phục thuộc vào thực tế. Bằng cách mô tả chi tiết những hình ảnh, câu chuyện, điều răn, phần thưởng, sự cứu rỗi, sự bảo vệ, sự trừng phạt trở nên thần thánh hóa. Chính vì thế, các mặt truyền thống, huyền ảo, diệu kỳ, huyền thoại của các sự kiện thường tác động rất lớn đến nhân dân. Khi phân tích một nền văn minh, ta thấy rằng trên thực tế những câu chuyện kỳ ảo và các huyền thoại mới là những trụ cột thực sự của nền văn minh đó. Trong lịch sử, vẻ bề ngoài đóng vai trò quan trọng hơn thực chất. Cái phi luôn lấn át cái thực. 

Và nếu như lời tiên đoán lại tự động xảy ra, sự khẳng định về thịnh vượng , giàu có, an tâm lại đúng là điều người khác muốn nghe thì nhân dân sẽ say mê và nhìn những sự kiện xảy ra sau này như sự khẳng định về những gì chàng đã tiên đoán. Bất cứ hành động nào dù nhỏ, cũng sẽ được đám đông coi là phép lạ, là sức mạnh thần bí và là ánh sáng uy quyền. Từ đó mà chúng ta có Jeanne d'Arc, chúng ta có Nostradamus, có Ngày tận thế trong lịch người Maya cổ đại. Với quan khách, Apollo thường hay dùng vẻ điềm tĩnh và giọng rất trầm: "Ta biết rõ, ta nhìn thấu được tâm hồn con. Sự thành bại và sự sụp đổ, không nhà, không anh em, không vương quốc chỉ là một biến cố. Làm người phải biết khiêm tốn. Phải sống nhường nhịn, đơn giản, biết thật giả, biết đừng dối gian, biết yêu thương và hiếu kính cha mẹ. Các con phải giản dị hơn nữa. Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu vào nước Đức Chúa Trời. Chỉ khi con biết sẻ chia, chỉ lúc đó Chúa mới lại gần con". Ngay lúc đó, tất cả quan khách đều trở nên sôi động, họ trượt xuống cái lý tưởng cao đẹp mà không suy nghĩ hay thêm một sự giải thích nào, đồng tử họ nở to và giọng điệu hùng hồn, ánh mắt cương quyết của Đức Cha Luminel thật sự ấn tượng và gợi nhớ đến hình ảnh Chúa Jesus đang tống bọn cho vay nặng lãi vào đền thờ. Tất cả tạo ra hình ảnh gây xúc động thỏa mãn tâm trí và nỗi sợ hãi vô hình không thấy được sau lưng ám ảnh. Người nào nắm được nghệ thuật kích thích trí tưởng tượng của đám đông cũng sẽ biết cách thống trị họ. Những tín đồ chỉ đơn giản muốn được gần Đức Cha, nhiễm được phần nào vầng hòa quang của chàng, nghe chàng nói, cảm nhận được ánh sáng đang tràn vào căn phòng, tràn vào tâm hồn, gột rửa sạch sự dơ bẩn, cằn khô, tù đày ám ảnh nhân cách, linh hồn họ. Con người thường tự động bị cuốn vào những ai toát ra vẻ hạnh phúc vì hy vọng họ sẽ bắt được cái hạnh phúc đó từ người ấy. Họ không cần bản thân nói với chính mình điều đó mà họ thích để người khác kết luận là họ hạnh phúc. Một lãnh tụ tinh thần, một cha đỡ đầu là hào quang ánh sáng, hào quang giác ngộ nhưng không chịu ảnh hưởng của những người khác. 

Chàng là lòng Từ thiện. Là ánh sáng. Chàng tô điểm cảnh thiên đường êm đẹp ai cũng thèm ước và chàng khuyên người giàu nên bố thí cho kẻ nghèo để được lên thiên đường, khỏi phải xuống địa phục. Trong những người nghe, có kẻ là thương nhân, cả đời keo kiệt, chưa từng bố thí cho ai bao giờ. Từ hôm nghe giảng Kinh Thánh, Chủ Nhật nào cũng thấy họ ném tiền cho mấy gã ăn mày ở cửa Tòa Thánh, ông ta mỗi lần từ thiện còn không quên chụp hình đăng lên mạng xã hội Faciem, và mỗi lần như vậy chúng ta nên đặt caption cho ông là: "Tôi đang thuê chỗ trước trên thiên đường đấy". Ôi, những xu mua thiên đường cả đấy!

Cũng như vậy đối với phụ nữ, chàng là vị Thần, vị Thần để mọi người tôn thờ, ở chàng họ cảm thấy được lắng nghe, những đau khổ, những tâm sự thầm kín đều có thể sẻ chia với Đức Cha Luminel. Phụ nữ hiến dâng tim người phàm làm vơi đi cơn khát của bầu trời. Một vùng đất đầy phúc âm. Những đau khổ sẽ được gột rửa, rồi những người phụ nữ đó sẽ mặc lên mình lớp áo thánh và áo giáp chiến binh. Họ mạnh mẽ. Rồi họ sẽ có nó.

Chàng nói chuyện như vậy, nghiêm túc và chân tình, thiếu ví dụ sống thì dùng ngụ ngôn, đi thẳng vào đích, ít lời mà nhiều hình ảnh: Đó là lối hùng biện của Chúa Jésus Christ, đầy tin tưởng và sức thuyết phục. Các yếu tố tạo nên sức thuyết phục của nhà lãnh đạo, ngoài uy tín, hiểu thấu tâm lý đám đông, dân vận. Đặc biệt anh ta phải hiểu rõ ảnh hưởng phép thuật của ngôn từ, công thức và hình ảnh. Nhà lãnh đạo phải có tài hùng biện đặc biệt, phải biết cách kết hợp những lời khẳng định cương quyết, đi kèm với đó là hình ảnh ấn tượng cùng lý lẽ lập luận đơn giản, dễ hiểu với số đông. Kiểu hùng biện như vậy ta có thể bắt gặp rất nhiều ở các cuộc họp, hội nghị, kể cả nghị viện, hội đồng quốc tế, dù cho đó có là nơi nghiêm túc nhất. 

Chàng có một hệ tư duy riêng của mình, có vẻ ngoài hấp dẫn đồng biến với trí tuệ sâu sắc. Ta ngờ rằng chàng đã học nó ở sách Phúc Âm nếu như không biết về lịch sử gia tộc Vol M.G. Chàng mở nhiều trường học miễn phí cho trẻ em. Tư tưởng của chàng cũng như bản Hiến Pháp Furcidisum với tinh thần nhìn về tương lai phát triển, Mục 14, chương I nêu rõ: "Đảm bảo mọi công dân đều có quyền được giáo dục miễn phí." Và Mục 3, chương I trước đó thì là một lý tưởng thiện lành: "Các nguyên tắc chủ quyền có nguồn gốc từ Quốc gia. Không một tổ chức hoặc cá nhân nào có thể thực hiện quyền mà không xuất phát từ nguyên tắc đó." Ở Furcidisum có trường học miễn phí thì ở Hawaii cũng sẽ có. Ấy là cái tấm lòng.

Vì phải cố gắng trong sự nghiệp trồng người, dạy cho người không biết càng nhiều điều hay lẽ phải. Trẻ thơ thì nên được chăm sóc dạy dỗ từ nhỏ, không phải chỉ là dạy kiến thức mà còn dạy nhân văn, dạy đạo đức, đức tin uốn nắn từ nhỏ. Xã hội mà không thực hiện được giáo dục không mất tiền là xã hội có lỗi. Nó phải chịu trách nhiệm về tình trạng tối tăm do nó sản sinh ra. Con người tối tăm mới gây ra tội lỗi. Cho nên kẻ có tội không phải là người đã lầm lỗi mà chính kẻ đã gây nên tối tăm.

Thành ra, lúc này ta mở to mắt ra mới thấy được ánh sáng từ Apollo. Trong số khoảng 40 dân tộc ở Tân Lục Địa, toàn bộ ngày nay đều dùng một ngôn ngữ Paradisum làm ngôn ngữ chính thức. Nay cả ở những nước có số dân bản địa đông đúc như Polynesia, Tonga, Pachuca hay Hawaii đều nói cùng một thứ ngôn ngữ. Ảnh các lãnh tụ chính trị và giới quý tộc hàng đầu đều là người Âu, họ đều là phù thủy, là lãnh tụ. Trong khi một số quốc gia như Marquesas có lãnh tụ là người Châu Phi da đen còn Guyana thì có lãnh tụ là người Anh-điêng gốc Châu Mỹ, Pitagairn, Polynesia là người bản địa làm lãnh tụ. Tương tự, nhiều nhóm Nhân mã ở vùng Amazonia cũng bị tiêu diệt bởi những phù thủy, pháp sư da trắng di cư trong cuộc bùng nổ cao su vào cuối thể kỷ XX đầu thế kỷ XXI. Những người Sói bản địa vùng Amazonia khác thì bị những kẻ khai thác mỏ giết hại. Hầu hết các bộ lạc nhỏ đó bị giết sạch hoặc chiếm đất trong hoặc ngay sau cơn sốt tìm vàng ở Amazonia vào năm 1848-1852 khi những người nhập cư Châu Âu đổ xô vào vùng này để tìm vàng. Nên giữa lựa chọn bị giết hay rơi vào vòng kiểm soát của các nhà truyền giáo hay đại diện Chính phủ. Thì ngã lòng về Đức Chúa vẫn hơn. 

Bạn đang đọc truyện trên: truyentop.pro