Những Địa Danh Nổi Tiếng Và Ba Lần Ở Quân Y K50

Những Địa Danh Nổi Tiếng Và Ba Lần Ở Quân Y K50
***
"Trên đường mòn Hồ Chí Minh từ Bắc vào Nam có ba địa danh dành cho chuyển quân bằng đường bộ, đó là  dốc Ba Thăng, Năm Thăng và Mỏm Đá Ghềnh. Đường chuyển quân khác với đường vận tải. Đường vận tải luôn có máy bay, phi pháo của địch săn đuổi vì dễ bị lộ, còn đường dành cho chuyển quân thì ít khi bị lộ và luôn thay đổi đường đi. Đường hành quân nhỏ và đầy hiểm nguy, luôn được ngụy trang để bảo toàn cho đoàn quân tiếp viện cho chiến trường. Trên đường đi các đoàn quân cứ thế nối tiếp nhau, đoàn trước và đoàn sau không xa, chỉ cách nhau vài giờ xuất phát hợp lý, để đến binh trạm bố trí những đoàn quân không gặp nhau là được. Cũng có khi vì lý do gì đó mà đoàn của bọn miềng gặp được đoàn đi trước và đoàn đi sau, chỉ cần hỏi thăm số hiệu của đơn vị là biết, cứ đoàn của bọn miềng là 90 thì đoàn đi trước sẽ là 89 và đi sau là 91, cũng chỉ biết là vậy, chỉ biết khi gặp nhau thì hỏi đồng chí ở đoàn số mấy, quê ở đâu, cũng chỉ mấy câu hỏi và mấy câu trả lời là Thái Bình đây, Thanh Hóa đây, vừa hỏi chân vừa bước cho kịp đội hình, nếu sơ suất một chút sẽ bị tụt lại và lạc đường ngay. Khi đến chỗ rẽ giao liên trạm dẫn đường bẻ một nhành cây bỏ giữa đường là biết đường đó không đi. Mỗi đoàn đến một trạm và có thể không đi theo con đường của đoàn khác mà rẽ ở con đường khác, nên mỗi đoàn quân xấp xỉ 600 chiến sĩ có nơi đóng quân riêng. Trạm cũng có lúc nghỉ chân đến hai ba đoàn như thế trong một khu rừng kín đáo. Trạm là một nơi nghỉ chân và cứ cách 6, 7 ngày thì nghỉ một ngày để nhận lương thực, thực phẩm. Chủ yếu là gạo, còn lại là bột trứng, thịt hộp cũng có nhưng rất ít. Thỉnh thoảng trạm còn có cả trạm xá, bệnh viện để các đoàn gửi lại những đồng chí bị thương hay sốt rét. Gặp đồng hương thì mọi người chuyển thông tin rất nhanh. Một đồng hương của tiểu đội trưởng thì thầm " trạm đã chuyển ba lần rồi vì mùi tử thi quá tải, phải chôn cũng chật"
Hai bên đường đi miềng nhìn thấy có những chiếc võng mắc còn nguyên vẹn cả tăng bạt và những ngôi mộ chỉ lấp bằng đá cuội, đó là những ngôi mộ của những đồng chí sốt ác tính và tử vong ngay trên đường hành quân. Vào độ nửa đường hành quân, có lẽ trên đất B3 thì bệnh sốt rét hoành hành, có lúc một nửa đoàn quân là mắc sốt rét. Trong đó một phần ba quân số bị sốt rét, còn mắc bệnh lở chân, phải thành lập bộ phận hành quân đoạn hậu, có chỉ huy từ tiểu đoàn đến tiểu đội. Những đồng chí này được tự do đi lại, tự do nghỉ ngơi vì vậy mà đảm bảo được quân số, khi đến trạm đội quân này chỉ đến sau vài chục phút. Tình thương đồng chí đồng đội ở trong đội quân này rất cao, có đồng chí đeo đi ba lô chỉ có tăng võng, một bộ quân phục,  thắt lưng, dao găm và bình tông nước.
Hành quân như vậy, cũng phải vượt qua những địa danh đầy nguy hiểm, sơ suất một tí là hi sinh cả tính mạng. Đường đi càng khó thì địch càng không phát hiện ra quân ta đang hành quân, đó là cách tránh thương vong tốt nhất và cái địa danh nổi tiếng nhất có tên gọi là Ba Thang. Dốc Ba Thang như thế nào không ai tưởng tượng được hết cả, chỉ biết lệnh của cấp trên ngày mai hành quân phải vượt dốc Ba Thang, đơn vị phải chuẩn bị tinh thần. Bốn giờ chiều, đoàn quân xuất phát, vượt qua quãng rừng già, qua con suối nhỏ khô chỉ còn đá cuội lởm chởm, phía trước là rừng già che kín đường đi, rồi lộ ra một triền núi toàn đá, cây bụi lúp xúp mọc ra từ vách đá. Đến chân núi, thì đường dốc càng lúc càng cao, khi ánh hồng bên kia núi thì trước mặt xuất hiện một đoạn dốc, có một cái thang gỗ, bề rộng độ 50cm, từng bậc thang cách nhau độ ba, bốn tấc. Dốc ngược lên, lại chênh vênh trên ghềnh đá. Ngọn núi này dài, chỉ có điều bề ngang thì hẹp như cái lưng của con trâu. Hai bên vách đá cây tầm vừa xen lẫn cây tầm cao, ghềnh đá vôi trắng. Qua một thang là một quãng đường đi độ năm mươi phút, dốc dựng đứng thì phải trèo lên. Khi đến thang thứ hai thì nhìn thấy dây buộc từng nấc thang vào hai thanh gỗ, hai bên có hai dây thép và dây rừng. Tuy nhìn là có vẻ lâu ngày, nhưng những thanh gỗ và dây buộc trông chắc chắn làm cho miềng yên tâm cái bụng khi đặt chân lên, cứ như vậy khi đặt chân lên đến cái thang thứ ba không một ai dám nhìn ra hai bên hoặc nhìn lại ra sau vì dưới dốc là một vực thẳm sâu hun hút, ngút ngàn, nếu bị trượt chân xuống thì không tránh khỏi thương vong, nhưng nhờ hai bên có cây rừng nên cũng đỡ ngợp mắt, chóng mặt. Khi lên được trên đỉnh núi, đã thấy mặt trời khuất về phía Tây, dù vậy còn ánh sáng nên vẫn thấy đường đi. Đường đi men theo sườn núi, thoai thoải xuống dốc dần và thành một con đường nhìn cảnh vật khá là thơ mộng, nếu như đây là một cuộc dạo chơi thì thật là nên thơ. Nhưng tất cả đang đứng trước một sự thật hiển nhiên là đang đứng giữa núi rừng bao la, nơi chưa từng đặt dấu chân người qua, trừ những dấu chân của người lính của cụ Hồ. Nếu như chẳng may lạc vào trong rừng thì không bao giờ trở lại thế gian này, vì rừng sâu nước độc lại đầy chướng khí, thú dữ, côn trùng độc hại sẽ cướp đi sinh mệnh của con người một cách dễ dàng.
Cứ như vậy đoàn quân cứ từ từ xuống dốc, đến chín giờ tối thì đến một khu rừng ở trên một ngọn núi khá bằng phẳng. Xuống thêm một con dốc độ vài trăm mét, có một con suối nhỏ, nước trong veo, chảy quanh co qua những tảng đá. Khi này thì cả đoàn bọn miềng dừng lại nơi đây, một tổ đi kiếm củi, một tổ đi lấy nước bằng cách cột tấm tăng bằng ni lông vào cái cây gỗ nhỏ, ba người thay nhau khiêng lên dốc và đổ vào một cái tăng khác đã buộc sẵn. Tất cả chuẩn bị cho ngày mai đầy đủ mọi sinh hoạt, nấu cơm, nước uống, rửa mặt đánh răng đều dùng nước do tổ trực nhật chuẩn bị, cứ như vậy ba tổ tam tam thay nhau, người khỏe giúp đỡ người yếu và để rồi chiều hôm sau lúc bốn giờ chiều lại xuất phát. Hai phần ba thời gian đều hành quân vào ban đêm, người sau nhìn người trước với một miếng phát sáng được gắn ở sau mũ. Mỗi tiểu đội được phát một cây đèn pin và vài cục pin dự trữ, như thế cũng phải tính toán, tiết kiệm vì hành quân chủ yếu vào ban đêm và còn đi lấy củi, lấy nước, có khi còn có việc khác phải đi vào ban đêm, nhưng đa số sáng ra mới đi kiếm củi, lấy nước và nước thì vào ban đêm cũng phải lấy cho đủ dùng, thì  cần phải có đèn pin chỉ có điều ánh sáng, khói lửa cũng phải đề cao cảnh giác, nếu không máy bay trinh sát, do  thám của địch sẽ phát hiện, khi đó thì lộ vị trí. Nhưng cũng có thời gian bọn miềng hành quân tuyệt đối không gây ra tiếng động, mọi thứ đều trong im lặng, chỉ có một, hai trạm là có máy bay địch oanh tạc, chỉ có điều cũng cách xa hàng trăm mét, lúc đó chỉ nghe tiếng mảnh bom cắt vào thân cây chỉ vài chục mét, lúc này đang vào thời điểm tấn công của Tết Nguyên Đán Mậu Thân 1968. Quân Mỹ ngụy đang tập trung chống trả lại sự tấn công của quân giải phóng nên bọn miềng được yên bình hành quân, đây là một thời điểm lịch sử hiếm có trên đường mòn Hồ Chí Minh.
Muốn biết sự thể ra sao? Xin mời mọi người xem chương sau sẽ rõ.

                      Hết chương 11

Bạn đang đọc truyện trên: truyentop.pro