Trường Sơn Đông Trường Sơn Tây
Trường Sơn Đông Trường Sơn Tây
***
"Vượt qua đường chín, qua mấy trạm nghỉ, đặt chân lên những dãy núi cao chót vót cứ như chọc đến trời. Khi thì dốc ngược, người cứ ngửa mặt lên trời. Khi thì xuống dốc người cứ lao về phía trước, may nhờ có cây gậy Trường Sơn, cứ như cái chân thứ ba đỡ người, nếu không có cây gậy thì dù có khỏe đến đâu cũng không thể một mình vượt dãy Trường Sơn đầy hiểm nguy. Đường đi đã dốc, lại còn những đá tai mèo lởm chởm, không những thế mà còn mưa phùn suốt ngày đêm. Nhưng nhờ có tấm vải nhựa mà mưa mấy cũng không ướt người. Quần xắn cao, dép cao su giúp cho đôi chân thêm cứng cáp vượt qua những con suối đầy rong rêu. Những hòn đá đầy rêu, lại có chỗ đặt chân của những đoàn quân đi qua là không có rêu mọc, chỉ cần bước trạch một chút là bị ngã ngay. Phải nói rằng đôi dép cao su lúc này như đang gắn chặt vào bàn chân. Đi như vậy gần sáu tháng trời và ở chiến trường 8 năm cho đến lúc trở về Hà Nội vào năm 1976, đôi dép cao su có mòn nhưng vẫn còn chắc chắn, với những bộ quai dép xơ cua được cấp thêm suốt chặng đường hành quân. Ở chiến trường suốt một thời gian dài thật sự như câu đó là "đá mòn mà đôi dép không mòn" như một câu trong hành khúc ca. Rừng rậm, cây cao ước chừng cũng phải 50m. Rừng Trường Sơn thật sự hùng vĩ. Mọi chiến sĩ đều qua sách báo, bây giờ mới nhìn tận nơi, chứng kiến tận mắt, thế mà ai cũng ngỡ ngàng. Thế mà chẳng một ai tỏ ra một lời, chỉ khua cái gậy lộc cộc, rồi âm thầm lặng lẽ hành quân. Cây cối hai bên đường xát vào tấm vải nhựa với những cơn mưa rừng mùa Đông, khi một cơn gió thổi, nước rơi lộp độp trên áo, trên mũ. Lúc hành quân ban ngày đi nữa, cũng không nghe tiếng máy bay, không nghe tiếng bom nổ. Trên đất miền Bắc và suốt những ngày hành quân sau đó, đa số xuất phát từ bốn, năm giờ chiều và kết thúc lúc chín giờ đêm. Có lúc đi dưới tán cây rừng hàng giờ đồng hồ, có lúc ngủ lại ở một khu rừng già, phải dùng dao chặt cây to để lấy củi đun. Nấu cơm từng tiểu đội hai bếp, một nồi cơm, một nồi canh nấu với lá rừng. Bếp được đóng trên ba cái cọc, đường kính khoảng ba phân. Khi cơm mà chín, thì cái cọc cũng cháy luôn. Muối là thức ăn chính, còn canh thì nấu với lá bứa, một cây họ gỗ từ Nam chí Bắc đều có. Thỉnh thoảng mới kiếm được rau "choóc" ở trong đơn vị có nhiều người quê ở nông thôn, anh em rất thành thạo tìm kiếm các loại rau dại. Rau này ăn với rất ngon miệng, gạo thì đủ ăn không sợ thiếu. Anh em bàn với nhau cứ nấu cho nhiều gạo vào trong chẳng sợ thiếu, đây là cách giải quyết đúng, vì khi đến B3 thì sốt rét hoành hành trong đơn vị. Những chiến sĩ trẻ người Hà Nội là sốt trước hết và bỏ cơm, còn gạo thì phải đổ bớt vì mang theo không nổi, phần nữa cứ ngửi thấy mùi muối là nôn mửa. Khi đến đoạn đường này thì hành quân vào ban ngày, thật sự là hiếm hoi. Xuất phát từ lúc 7 giờ sáng, đến trưa thì lấy cơm nắm ra ăn, độ 3 giờ chiều thì đến trạm nghỉ chân. Hôm nay là một ngày đặc biệt, khi đi thì trời mưa, thế mà khi đổ dốc thì thấy rừng khô ráo và đất đỏ bụi bay mù mịt. Cứ như vậy đoàn quân người trước, người sau tụt xuống dốc mấy giờ đồng hồ vẫn chưa hết. Trước lúc xuất phát hành quân, chỉ huy đơn vị đã có mệnh lệnh căn dặn "đến trạm nghỉ chân không được phép vào nhà dân, không được mua bán đổi chác" khi nghe qua thấy thật lạ lùng, chỉ có điều đã là mệnh lệnh thì phải phục tùng. Khi đó miềng tự hỏi:
_ Sao ở trong rừng lại có dân mà mua bán và trao đổi?
Bọn miềng khi đó nửa tin nửa ngờ. Đến khi đến trạm nghỉ chân, thấy xa xa có những người dân bên suối, lại gần nghe họ nói tiếng Việt pha lẫn với tiếng dân tộc thiểu số, cũng không biết đó là dân tộc thiểu số nào cả, thấy chỉ có ông bà già, bà mẹ và trẻ con. Họ được vũ trang vì miềng thấy súng trường dựng ở bên gốc cây, tăng võng cũng mắc như bọn miềng khi dừng lại nghỉ chân cùng với những túp lều bằng ni lông dưới bóng cây của rừng già. Những cô gái trẻ thì đang giã gạo bằng cối gỗ và thấy súng thì dựng gần ở đó. Lại nói cái cối gỗ, là một khúc gỗ được khoét sâu, hai khúc gỗ được đẽo làm chày mà nông thôn ở nơi đâu cũng có. Chuyện đó hôm nay thì thấy ở trên sách báo và trên phim, còn lúc đó miềng thấy thì nhớ nhà, nhớ quê vô cùng, đã bao nhiêu lâu rồi, không được thấy cha mạ, thấy hai chị cùng với bạn bè đồng trang lứa. Cha giờ đây chắc tóc đã bạc hơn, cũng không biết bọn địch có bắt bớ đánh đập hay không, khi có con trai đang ở đất Bắc, cho dù miềng đã thay tên để bảo mật. Trong lòng của miềng khi đó thầm nhủ:
_ Cha mạ! Khi bọn địch có bắt bớ, đánh đập, tra khảo thì cứ bảo rằng; con của cha mẹ hắn bỏ nhà đi đâu chẳng biết, có khi chết đói dọc đường hay là lạc lên rừng xuống biển, bị cọp, thuồng luồng bắt đi mất rồi.
Miềng nhìn thấy cái cối gỗ, thấy cái chày thì nhớ đến cha mạ, trong lòng xốn xang vô cùng, thì các đồng chí, đồng đội lâu ngày hành quân trong rừng không thấy dân khi này mới mạnh dạn chào các cô gái. Những cô gái cũng tươi cười đáp lại "chào các anh bộ đội" có chiến sĩ còn bạo gan hỏi:
_ Các cô có yêu bộ đội không?
Những cô gái nghe hỏi thì nhoẻn cười, khoe đóa hoa hàm tiếu đều như ngô non trên khuôn mặt da đen thế mà đẹp lạ kỳ, đáp lại rằng;
_ Chỉ sợ bộ đội không ưng gái Lào thôi.
À! Thì ra là như thế, khi này miềng mới biết đây là gái Lào và sau này cũng biết đây là Trường Sơn Tây. Trường Sơn Đông thì mưa phùn gió lạnh, còn Trường Sơn Tây thì hạt nắng vàng, đất bụi bay.
Đến trạm nghỉ chân, không biết thông tin ở đâu ra mà đồng chí tiểu đội phó nói nhỏ với bọn miềng.
_ Muốn có thịt gà để ăn, thì đem áo quần vào bản mà đổi.
Mặc dù có lệnh trên đã cấm vào bản mua bán đổi chác, thế mà bọn miềng cũng đánh liều vào trong bản để nói chuyện với dân, chứ cũng đã lâu rồi không nói chuyện. Khi bọn miềng vào bản, thấy đó là những ngôi nhà lợp bằng gianh đơn sơ nằm bên cạnh là nương sắn. Bản của người Lào có độ hơn chục nhà. Tiểu đội có ba tổ tam tam, mổi tổ cử một đồng chí trong đó có miềng đem theo một bộ áo quần. Số quân tư trang này nếu để cũng để lại cho bớt trọng lượng khi hành quân vì mỗi đồng chí chỉ cần hai bộ là đủ mà bọn miềng được cấp đến bốn bộ. Bọn miềng vào nhà đầu tiên hỏi có gà đồi áo quần không? Một ông già khi này trả lời là "có" và bắt ra một con gà mái tơ nặng khoảng 1kg. Bọn miềng đưa một cái áo thì ông già gật đầu. Bọn miềng đi tiếp mấy nhà nữa, nhưng lại không có gà. Miềng nghĩ thầm trong bụng.
_ Chắc là con gà này ở đâu đưa về, vì con gà này đã nhốt sẵn trong lồng tre.
Miềng đưa mắt nhìn quanh chẳng thấy con vật nuôi nào, trừ vài con heo gầy còm được thả rông, đang hì hục ủi cái mõm xuống đất và vài con chó gầy nhom đang sủa "nhách nhách"
Đưa mắt nhìn vào, thấy đây là những ngôi nhà trệt, dựng đơn sơ với cây rừng được lợp bằng cỏ gianh. Họ ở đây làm nương trồng sắn, không có vết tích của một bản làng lâu đời, chắc chỉ định cư mới vài năm là cùng, thấy thêm vài cây mít đang cho quả...
Muốn biết sự thể ra sao? Xin mời mọi người xem chương sau sẽ rõ.
Hết chương 9
Bạn đang đọc truyện trên: truyentop.pro