Chương 3.1

Họ đánh thức tôi dậy lúc sáu giờ sáng. Đối với tôi vẫn cứ như nửa đêm, vì chiếc nến hẳn nhiên đã cháy hết sạch, mà màn cửa sổ thì dày, ngăn hết ánh sáng bên ngoài. Khi cô giúp việc - Margaret, đến gõ cửa, tôi ngỡ mình đang ở căn phòng cũ tại phố Lant. Tôi đóan chắc cô ta là một tay trộm vừa vượt ngục, cần ông Ibbs giúp tháo còng xích. Việc đó thỉnh thoảng vẫn xảy ra. Đôi khi tay trộm là một người đàn ông tốt tính có quen với chúng tôi. Đôi khi lại là những gã côn đồ liều mạng. Có lần một gã kề dao vào yết hầu ông Ibbs, càm ràm sự chậm trễ khi phá còng. Cho nên khi nghe Margaret gõ cửa lúc này, tôi ngồi dậy khỏi giường, kêu lớn, "Rồi! Chờ đó!" – Tôi có ý nói người kia chờ, dù người kia là ai thì tôi không biết, và hẳn Margaret cũng không biết. Cô ta ló mặt qua cánh cửa, thì thào, "Cô gọi đấy hả?" Cô ta mang cho tôi một bình nước ấm, đánh lửa trong lò, lấy cái bô tiểu đêm dưới giường, trút hết vào xô chất thải, chùi sạch bằng một miếng vải ướt mắc nơi tạp dề.

Ở nhà, tôi từng rửa các bô tiểu đêm. Bây giờ, trông thấy Margaret đổ nước tiểu của mình vào xô, tôi không chắc mình thích việc đó. Nhưng tôi nói, "Cảm ơn, Margaret," rồi ước giá mình chưa nói vậy, vì khi nghe thấy, cô ta hất đầu, như thể muốn nói, rằng tôi nghĩ mình là ai mà cảm ơn?
Người giúp việc. Cô ta nói tôi nên nhận bữa sáng ở phòng bà Stiles. Rồi quay đi, để tôi lại – có nhìn sơ qua, tôi nghĩ vậy, về phía quần áo, giày cùng chiếc vali đang mở của tôi trên đường đi.
Tôi chờ ngọn lửa bén, mới đứng dậy mặc áo. Trời quá lạnh để lau rửa. Áo váy của tôi nhớp nháp. Khi kéo tấm màn cửa sổ, để ánh sáng ban ngày ùa vào, tôi thấy thứ mà đêm trước tôi chưa thể thấy khi dùng nến – trần nhà vằn vện các dải ướt nâu, và gỗ ở các vách tường bị vấy những vệt bẩn trắng.

Từ căn phòng sát bên có tiếng người khe khẽ. Tôi nghe Margaret nói, "Vâng, thưa cô." Rồi có tiếng đóng cửa.
Rồi yên lặng. Tôi xuống nhà nhận bữa sáng. Ban đầu thì lạc đường giữa các lối đi tối ở chân cầu thang dành cho người giúp việc, thấy mình đang đứng trong khoảnh sân có nhà xí. Cái nhà xí đó, giờ tôi mới thấy, được bao quanh bởi cây tầm ma, những viên gạch trong sân đã bị cỏ làm cho nứt vỡ. Các bức tường của ngôi nhà có dây thường xuân bám, vài khung cửa sổ cần phải có bệ. Rốt cuộc, Gentleman nói đúng, về việc ngôi nhà chẳng đáng để khoắng. Anh ta cũng đúng về những người giúp việc. Khi cuối cùng cũng tìm thấy phòng của bà Stiles, tôi gặp một người đàn ông ở đó, mặc quần ống túm và vớ lụa đen, đầu đội tóc giả có rắc phấn. Đó là ông Way. Ông ấy làm người phục dịch cho ngài Lilly đã bốn mươi lăm năm, ông ấy nói vậy, và trông giống như vậy thật. Khi một cô gái mang bữa sáng tới, ông ấy được phục vụ trước. Giăm bông, một quả trứng, cùng một cốc bia. Ở đây họ uống bia trong tất cả các bữa ăn. Có hẳn cả một phòng để ủ. Thế đấy, người ta cứ nói dân London mới nhậu nhẹt tuý luý!

Ngài Way gần như chẳng nói lời nào với tôi, nhưng trò chuyện với bà Stiles về công việc trong nhà. Ông hỏi thăm gia đình mà tôi vừa rời khỏi. Khi tôi kể với ông, về gia đình Dunraven, ở phố Whelk, Mayfair, ông gật đầu, tỏ vẻ hiểu biết, nói rằng có lẽ mình biết người đó. Điều đó cho thấy ông là một gã bịp bợm thế nào.

Lúc bảy giờ ông rời đi. Bà Stiles không rời bàn cho đến khi ông đứng dậy. Khi đứng dậy thì bà nói: - Cô sẽ vui nếu được biết, cô Smith, rằng tối qua cô Maud ngủ ngon.
Tôi không biết nói gì để đáp lại điều đó. Nhưng bà nói tiếp:
- Cô Maud dậy sớm. Cô ấy yêu cầu dẫn cô đến gặp. Cô có muốn rửa tay trước khi đi lên không? Cô Maud cũng giống bác cô ấy, rất tỉ mỉ.

Tay tôi có vẻ đủ sạch đối với tôi, nhưng tôi vẫn rửa, trong một cái bồn đá ở góc phòng.
Tôi cảm nhận được chỗ bia mình đã uống, và ước rằng mình đã không uống. Tôi ước giá như mình đã dùng nhà xí khi đi ngang nó trong sân. Tôi dám chắc mình sẽ không bao giờ tìm đường đến đó được nữa. Tôi cảm thấy lo.
Bà dẫn tôi đi. Như lúc trước, chúng tôi dùng cầu thang cho người giúp việc, nhưng rồi tiến vào lối đi xinh đẹp hơn dẫn đến một trong hai cánh cửa. Tại đây, bà gõ cửa. Tôi không nghe rõ câu trả lời vọng ra, nhưng đoán là bà nghe được. Bà đứng thẳng người, xoay nắm cửa bằng thép, dẫn tôi vào.
Căn phòng khá tối, tựa tất cả những căn phòng khác ở đây. Các bức tường đều được ốp một loại gỗ đen lâu năm, còn sàn trơn, ngoại trừ hai chiếc thảm Thổ Nhĩ Kỳ nhỏ màu đen mòn vẹt vài chỗ. Có vài chiếc bàn to nặng để rải rác, một hai ghế sopha cứng. Có một bức vẽ một ngọn đồi màu nâu, một bình đầy lá khô cùng một con rắn chết trong cái chuồng thuỷ tinh – đang ngậm một quả trứng trắng trong miệng. Những ô cửa sổ cho thấy nền trời xám, những nhành cây trần trụi, ẩm ướt. Các bệ cửa sổ nhỏ, được dát chì, rung lách cách trong khung.

Có một chút lửa kêu lèo xèo trong vỉ lò cũ to tướng, và phía trước nó, đang đứng nhìn vào ngọn lửa yếu ớt cùng đám khói, nhưng xoay lại khi nghe tiếng chân của tôi, ngạc nhiên, chớp mắt – là cô Maud Lilly, cô chủ của ngôi nhà, nhân vật chính cho vở diễn được dàn xếp của chúng tôi.

Từ tất cả những gì Gentleman đã kể, tôi ngỡ cô ấy phải đẹp một cách khác thường. Nhưng cô ấy không phải như vậy – ít ra, tôi không nghĩ vậy khi quan sát cô ấy. Tôi cho là cô ấy trông khá thường. Cô ấy cao hơn tôi chừng một hay hai phân – có nghĩa là, chiều cao bình thường, vì tôi nhỏ con. Tóc cô ấy đẹp hơn tôi nhưng không đẹp lắm. Còn mắt, màu nâu nhạt hơn. Môi, má cô ấy đầy đặn và mịn màng – điểm này thì ăn đứt tôi, phải thừa nhận như vậy. Tôi thì thích cắn môi, má có tàn nhang, còn đường nét trên mặt thường được cho là sắc sảo. Người ta cũng cho rằng tôi trông trẻ hơn tuổi, nhưng về mặt này – chà, tôi muốn những người nghĩ như vậy được săm soi cô Maud Lilly khi lúc này, cô ấy đang đứng trước mặt tôi. Vì nếu tôi trẻ, thì cô ấy chắc phải là đứa bé sơ sinh, một bé gà con, một chú bồ câu chẳng biết gì. Cô ấy thấy tôi đến, giật mình, như tôi đã kể, rồi bước một hai bước đến gần tôi, đôi má trắng trẻo ửng đỏ lên. Cô ấy ngừng lại, đặt tay ra phía trước, thật gọn gàng, trên chiếc váy. Chiếc váy – tôi chưa bao giờ thấy một thứ như vậy trước đây, trên người một cô gái lứa tuổi này – nó phồng, ngắn, để lộ mắt cá chân. Quanh eo cô ta – thon một cách đáng ngạc nhiên có một dải khăn buộc. Tóc được túm trong chiếc mạng nhung. Chân mang giày đi trong nhà, màu đỏ mận. Tay đeo găng trắng sạch sẽ, cài nút chặt nơi cổ tay. Cô ta nói :
- Cô Smith. Cô là Susan Smith, đúng không? Cô từ London đến, để làm hầu gái cho tôi! Tôi gọi cô là Susan được chứ? Tôi hy vọng cô sẽ thích cuộc sống ở Briar, Susan, và hy vọng cô sẽ thích tôi. Nơi đây hay tôi thì cũng không có nhiều điều để thích. Tôi nghĩ cô sẽ làm được rất dễ dàng – thật sự, rất dễ dàng."

Cô ấy nói bằng chất giọng nhẹ nhàng, ngọt ngào, ngập ngừng, hơi nghiêng đầu, dường chẳng nhìn sang tôi, má vẫn hơi đỏ. Tôi nói, "Tôi chắc chắn mình sẽ thích cô, thưa cô." Rồi nhớ đến tất cả những việc đã học ở phố Lant, tôi cầm chặt váy, nhún người chào. Khi tôi vươn người dậy, cô ấy mỉm cười, tiến lại cầm tay tôi.

Cô ấy nhìn bà Stiles, người vẫn đứng phía sau tôi, nơi cửa.
"Bà không cần ở lại, bà Stiles," cô ta dịu dàng nói. "Nhưng tôi biết, bà sẽ đối xử tốt với cô Smith." Cô ta nhìn vào mắt tôi. "Có lẽ cô đã được nghe, rằng tôi mồ côi, Susan, giống như cô. Tôi đến Briar khi còn bé, rất nhỏ, chẳng hề có ai chăm sóc cho tôi. Tôi không thể nói hết với cô những gì bà Stiles đã làm từ dạo đó để tôi được biết đến tình yêu của một người mẹ."
Cô ta mỉm cười, nghiêng đầu. Bà Stiles không nhìn vào mắt cô chủ, nhưng chút màu hồng vẫn xoay sở hiện lên trên má, mi mắt bà chớp chớp. Bản thân tôi chưa bao giờ nghĩ bà là kiểu người mang thiên hướng mẫu tử, nhưng những người giúp việc dần dà sẽ cảm những kẻ tai to mặt lớn mà họ phục dịch, giống như chó dần dà sẽ thích những kẻ hay ức hiếp. Bạn cứ tin tôi về việc này.
Dù sao, bà chớp mắt, ra vẻ nhã nhặn thêm một phút, rồi rời đi. Maud lại mỉm cười, dẫn tôi đến một chiếc ghế sô pha có lưng tựa, gần ngọn lửa. Cô ấy ngồi cạnh tôi, hỏi thăm về chuyến đi, "Chúng tôi ngỡ cô bị lạc!" Cô ấy nói, hỏi thăm căn phòng của tôi. Tôi có thích chiếc giường không? Có thích bữa sáng không?
"Và có thật là cô," cô ấy nói, "đến từ London ?" Đó là tất cả những gì người ta hỏi tôi, kể từ lúc tôi rời phố Lant – như thể tôi đến được từ nơi nào khác vậy! Nhưng, tôi nghĩ cô ấy hỏi theo một cách khác: không phải kiểu cách há hốc ngạc nhiên quê mùa, mà là phong thái chú tâm, khao khát – tựa hồ London là một nơi đặc biệt, và cô ấy mong mỏi được nghe về nó.

Tất nhiên, tôi nghĩ mình biết tại sao lại như vậy.
Tiếp theo, cô ấy nói với tôi tất cả các nhiệm vụ cần phải thực hiện, trong thời gian làm hầu gái cho cô ấy. Chính yếu cho việc này, như tôi cũng đã biết, là ngồi bầu bạn với cô ấy, cùng đi dạo quanh công viên, sắp xếp áo váy. Cô ấy hạ thấp ánh nhìn.
"Cô sẽ thấy rằng ở đây, Briar, chúng tôi khá lạc mốt," cô ấy nói. "Tôi nghĩ, việc đó không phiền hà lắm, vì chúng tôi có rất ít khách viếng thăm. Bác của tôi chỉ thích trông thấy tôi gọn gàng. Nhưng cô, hẳn nhiên, chắc đã quen với các phong cách tuyệt vời của London."

Tôi nghĩ đến tóc của Dainty, da chó của John. "Rất quen," tôi nói.
"Cô chủ trước của cô," cô ấy nói tiếp, "cô ấy có phải một quý cô thanh nhã không? Tôi đoán, nếu trông thấy tôi chắc cô ấy sẽ bật cười!"
Cô ấy càng đỏ mặt hơn khi nói điều đó, và lại nhìn tôi. Một lần nữa, tôi nghĩ, "Cô đúng là bồ câu!"
Nhưng điều tôi nói ra là, cô Alice – cô chủ mà Gentleman đã dựng lên cho tôi – quá tốt bụng để cười cợt bất kỳ ai, đồng thời cũng biết rằng quần là áo lượt chẳng có ý nghĩa gì, vì con người bên trong bộ áo đó mới đáng để xem xét. Xét cho kỹ, tôi nghĩ, đó là một phát biểu rất thông minh. Cô ấy có lẽ cũng nghĩ vậy, vì khi tôi nói, cô ấy nhìn tôi theo một cách khác, không đỏ mặt nữa. Rồi lại nắm tay tôi, nói,
"Tôi nghĩ, cô là một cô gái tốt, Susan."
Tôi đáp, "Cô Alice luôn nói vậy, thưa cô."

Rồi tôi nhớ đến nhân vật Gentleman đã vẽ cho mình, nghĩ đây chính là lúc để diễn nó. Tôi lấy lá thư từ trong túi đưa ra. Cô ấy đứng dậy, gỡ sáp niêm phong, đi đến bên cửa sổ để đưa tờ giấy đến chỗ sáng. Cô ấy đứng một lúc lâu, nhìn những dòng chữ cong cong, một lần khẽ liếc nhìn tôi. Lúc đó, tim tôi đập hơi nhanh khi nghĩ rằng có thể cô ấy đã để ý được điều gì đó khả nghi. Nhưng không phải vậy, vì cuối cùng tôi trông thấy bàn tay cầm lá thư của cô ấy run rẩy. Tôi đoán cô ấy cũng chẳng biết nhiều hơn tôi về việc một nhân vật đàng hoàng thì thế nào, và đang suy tính nên nói điều gì.

Tôi thiếu điều cho đó là một nỗi xấu hổ, cứ nghĩ đi, cô ấy đâu có mẹ.
"Chà," cô ấy gấp lá thư lại rất nhỏ, đặt vào túi của mình, "Cô Alice quả thật nói rất tốt về cô. Hẳn cô phải rất tiếc khi rời ngôi nhà đó."
"Rất tiếc, thưa cô," tôi nói. "Nhưng cô thấy đấy, cô Alice sẽ đến Ấn Độ. Mặt trời ở đó chắc là rất khủng khiếp."
Cô ấy mỉm cười. "Cô sẽ thích bầu trời xám của Briar hơn sao? Cô biết không, ở đây mặt trời không bao giờ chiếu sáng. Bác tôi cấm việc đó. Ánh sáng mạnh, cô biết đấy, sẽ làm phai màu mực in."

Cô ấy bật cười, để lộ những chiếc răng nhỏ rất trắng. Tôi cười, nhưng giữ môi mình khép chặt – vì răng của tôi, đã ố vàng, khiến tôi e ngại phải nói rằng chúng đã ngả màu. Trông thấy răng của cô ấy khiến tôi tưởng tượng răng mình càng vàng hơn.

Cô ấy nói, "Cô biết bác tôi là một học giả chứ, Susan?"
Tôi đáp, "Tôi đã được nghe nói, thưa cô."
"Ông có một cái thư viện khổng lồ. Cái thư viện lớn nhất, trong số các thư viện cùng loại, trên toàn nước Anh. Tôi dám nói cô sẽ sớm được thấy nó."
"Đó sẽ là một dịp thú vị, thưa cô, chắc chắn là vậy."
Cô ấy lại mỉm cười. "Hẳn nhiên, chắc cô thích đọc?"
Tôi nuốt nước bọt. "Đọc sao, thưa cô?" Cô ấy gật đầu, chờ đợi. "Thích lắm," cuối cùng tôi nói. "Đó là, tôi bảo đảm mình sẽ thích, nếu từng được động tới sách hoặc giấy tờ. Ý của tôi là" – tôi ho – "nếu tôi được cho xem."
Cô ấy tròn mắt.
"Để học, ý tôi là vậy," tôi nói.

Cô ấy lại càng tròn mắt hơn. Sau đó, là tiếng cười ngắn, kiểu như không tin. "Cô đang nói đùa," cô ấy nói. "Không phải cô có ý, là cô không đọc được đấy chứ? Thật không vậy? Không đọc được chữ, không đọc được thư từ?" Nụ cười của cô ấy chuyển thành cái cau mày. Đằng sau cô ấy có một chiếc bàn nhỏ, bên trên có sách. Vẫn nửa cười, nửa nhíu mày, cô ấy cầm quyển sách lên, đưa cho tôi. "Nào," cô ấy nói thật tử tế. "Tôi nghĩ cô đang khiêm tốn. Đọc cho tôi nghe một đoạn bất kỳ, vấp váp chút đỉnh cũng không sao."

Tôi cầm quyển sách, không nói gì, nhưng bắt đầu toát mồ hôi. Tôi mở ra, nhìn vào một trang. Đầy rẫy các dòng in khin khít màu đen. Tôi thử một trang khác. Còn tệ hơn. Tôi cảm nhận được ánh nhìn chăm chú của Maud, chẳng khác gì lửa trên khuôn mặt nóng bừng của tôi. Tôi cảm nhận được sự yên lặng. Mặt tôi càng nóng hơn. Thử vận may đi thôi, tôi nghĩ.

"Cha của chúng ta," tôi cố gắng, "nghệ thuật nào trên thiên đường–"
Nhưng rồi, tôi quên mất phần còn lại. Tôi đóng sách, cắn môi, nhìn xuống sàn. Tôi nghĩ, đầy cay đắng, "Hỡi ôi, tất cả kế hoạch của chúng ta thế là kết thúc ở đây. Cô ta sẽ không muốn có hầu gái không đọc được sách, không viết được những lá thư hoa hoè bằng nét chữ cong cong!" Tôi ngước nhìn cô ấy, nói,
"Xin hãy dạy cho tôi, thưa cô. Tôi rất tình nguyện. Tôi chắc chắn mình có thể học được, chỉ một loáng thôi–"
Nhưng cô ấy lắc đầu, biểu hiện trên mặt rất lạ.
"Dạy à?" Cô ấy đến gần, nhẹ nhàng lấy lại quyển sách. "Ôi, không! Không, không, tôi không thể cho phép. Không biết đọc! À, Susan, nếu cô sống trong căn nhà này, là cháu gái của chú tôi, thì cô sẽ biết điều đó nghĩa là gì. Thật đấy, cô sẽ biết!"
Cô ấy mỉm cười. Và trong lúc cô ấy vẫn nhìn vào mắt tôi, vẫn mỉm cười, có tiếng gõ chậm, nặng nề của chiếc chuông lớn, kêu tám lần. Nụ cười của cô ấy tan mất.
"Bây giờ," cô ấy quay đi, "tôi phải đến chỗ ngài Lilly. Khi đồng hồ báo một giờ tôi sẽ lại được tự do."
Cô ấy nói vậy – nghe có vẻ, tôi nghĩ, hệt như một cô gái trong truyện kể. Chẳng phải là có những câu chuyện với các cô gái có những ông bác có ma lực – pháp sư, quái vật ? Cô ấy nói :
- Hãy đến gặp tôi, Susan, tại buồng của bác tôi, lúc một giờ."
"Vâng, thưa cô," tôi nói.

Lúc này, cô ấy đang nhìn quanh, theo một cách khá lơ đãng. Có một cái gương bên trên lò lửa. Cô ấy đi lại đó, đưa đôi tay đeo găng lên mặt, rồi cổ áo. Tôi quan sát cô ấy nghiêng người. Chiếc đầm ngắn của cô ấy nhấc lên phía sau, để lộ hai bắp chân.
Cô ấy bắt gặp ánh mắt tôi trong gương. Tôi nhún người chào một cái nữa.
"Tôi có nên đi không, thưa cô?" Tôi nói.
Cô ấy bước lùi. "Ở lại đi," cô ấy vẫy tay, "và sắp xếp các phòng của tôi, được chứ?"
Cô ấy đi ra cửa. Tuy nhiên, đến tay nắm cửa, thì dừng lại. Cô ấy nói,
"Tôi hy vọng cô sẽ hạnh phúc ở đây, Susan." Giờ cô ấy lại đỏ mặt lần nữa. Má của tôi, khi tôi trông thấy điều đó, thì lại lạnh. "Tôi hy vọng dì của cô ở London sẽ không quá thương nhớ cô. Đó là một người dì, đúng không, như ngài Rivers đã nói?" Cô ấy hạ thấp ánh nhìn. "Tôi hy vọng khi cô gặp, thì ngài Rivers vẫn khoẻ?"

Cô ấy hạ giọng ở lời hỏi, như thể nó chẳng là gì cả. Tôi biết những gã lừa đảo làm điều tương tự, bỏ một đồng shilling tốt vào một đống tiền giả, để khiến tất cả chỗ đồng xu có vẻ trung thực. Như thể cô ấy thèm màng đến tôi và dì vậy!
Tôi nói, "Ngài ấy rất khoẻ, thưa cô. Ngài ấy gửi lời chúc đến cô."
Lúc này cô ấy đã mở cửa, nửa người đã khuất phía sau. "Có thật ngài ấy làm vậy không?" Cô ấy hỏi.
"Thật, thưa cô."
Cô ấy tựa nơi chân mày vào cánh cửa gỗ. "Tôi nghĩ ngài ấy thật tốt bụng," giọng nói thật nhẹ nhàng.

Tôi nhớ lúc anh ta ngồi chồm chỗm ở một bên chiếc ghế trong căn bếp, bàn tay lần lên cao bên dưới những lần áo lót, miệng nói Con ả đáng yêu.
"Tôi chắc chắn là ngài ấy rất tốt bụng, thưa cô," tôi nói.
Rồi, từ đâu đó trong căn nhà vọng đến tiếng lanh canh gấp gáp, cáu kỉnh từ một chiếc chuông cầm tay nhỏ, và, "Bác tôi đấy!" Cô ấy kêu lên, nhìn qua vai. Cô ấy quay người chạy, để mặc cánh cửa chỉ mới đóng phân nửa. Tôi nghe tiếng giày đi trong nhà của cô ấy vỗ xuống sàn, tiếng kẽo kẹt của thang khi cô ấy xuống.

Tôi chờ một giây, rồi bước đến cánh cửa, đặt chân lên, đá nó đóng lại. Tôi đi đến lò lửa, hơ tay. Tôi không nghĩ mình đã được thật ấm áp kể từ lúc rời phố Lant. Tôi ngẩng đầu, trông thấy tấm kính mà cô Maud đã nhìn vào, bèn vươn người, nhìn chăm chăm vào chính gương mặt mình – vào răng và chiếc má lấm tấm tàn nhang. Tôi đưa lưỡi mình ra. Rồi tôi xoa tay, cười khẩy. Cô ấy hệt như những gì Gentleman đã cam đoan, và rõ ràng là đã yêu anh ta chết mê chết mệt. Ba ngàn bảng kia xem như đã đếm xong, gói ghém, ghi tên tôi bên trên. Vị bác sĩ đã đứng sẵn sàng với một cái áo cho người điên tại cửa nhà thương điên.

Đó là những gì tôi nghĩ, sau khi gặp cô ấy.

Nhưng tôi nghĩ theo một cách bất mãn, và tiếng cười khẩy, phải thừa nhận, là khá miễn cưỡng. Tuy vậy, tôi không thể nói rõ vì sao. Tôi đoán hẳn do sự ảm đạm – bởi căn nhà có vẻ tối, tĩnh lặng hơn bao giờ hết, khi giờ đây cô ấy đã đi mất. Chỉ còn tiếng rơi của tro trong vỉ lò, tiếng va đập lạch cạch của những khung kính. Tôi đi đến cửa sổ. Trận gió lùa thật khủng khiếp. Có những bao cát đỏ nhỏ đặt bên trên ngưỡng cửa để ngăn gió, nhưng vẫn không hiệu quả. Tất cả chúng đã ướt, và bị mốc. Tôi đặt tay lên một bao, khi nhấc lên thì tay đã dính màu xanh lục. Tôi đứng run, nhìn quang cảnh – nếu có thể gọi đó là quang cảnh, chỉ rặt cỏ và cây. Vài con chim đen bắt sâu trên trảng cỏ. Không biết London ở hướng nào.

Tôi ao ước tột cùng được nghe tiếng khóc của một đứa trẻ, hoặc của cô em gái ông Ibbs. Tôi sẵn sàng mất năm bảng để có một gói đồ trộm được hoặc ít đồng xu xấu để làm bẩn đi.

Rồi tôi nghĩ đến điều khác. Sắp xếp các phòng của tôi, Maud đã nói vậy. Đây mới chỉ là một phòng, chắc là phòng khách. Vậy là ở đâu đó còn có phòng khác nữa, nơi cô ấy ngủ trên giường. Xem nào, các bức tường trong căn nhà thảy đều ốp gỗ sồi đen, nhìn rất u ám và rối rắm, vì các cửa được làm rất khít với khung, không thể nhận ra được. Nhưng tôi nhìn thật kỹ, và trên bức tường đối diện nơi đang đứng, tôi trông thấy một cái kẽ, rồi tay nắm. Hình dạng một cánh cửa hiện lên trước mắt tôi, rõ như ban ngày.

Đó là cửa đến phòng ngủ của cô ấy, đúng như tôi đoán. Và tất nhiên, bên trong căn phòng này có một cánh cửa khác nữa. Đó là cửa sang phòng của tôi, nơi đêm trước tôi đã đứng lắng nghe tiếng cô ấy thở. Bây giờ, điều đó có vẻ thật ngốc nghếch khi tôi đã trông thấy được các thứ phía bên này. Chỉ là một căn phòng thông thường của các quý cô – không khổng lồ, nhưng đủ lớn, thoảng một mùi hương nhẹ, một chiếc giường có bốn cột trụ cao với màn che và vòm bằng vải bố cũ. Tôi không dám chắc việc ngủ trên chiếc giường như thế có làm mình nhảy mũi hay không. Cứ nghĩ xem, tất cả những bụi bặm, ruồi chết lẫn nhện hẳn phải tụ tập phía trên vòm, như thể đã chín chục năm không được tháo xuống. Giường đã được dọn gọn gàng, nhưng một chiếc đầm ngủ nằm trên đó – tôi gấp nó lại, đặt dưới gối. Có một hay hai sợi tóc ở đó, tôi cầm lấy, mang đến lò sưởi. Làm hầu gái rõ mệt. Bên trên thân lò là chiếc gương soi to trông có vẻ cũ kỹ, có những đường vân như cẩm thạch, màu bạc và xám. Phía kia là một tủ đứng nhỏ, được chạm khắc đầy hoa, nho, khá đen màu véc ni, lác đác vài đường nứt. Tôi dám nói vào ngày thứ này được làm ra, các quý cô cũng chẳng mặc gì trên người ngoài lá cây, vì lúc này khi chỉ chứa sáu hay bảy chiếc đầm nhẹ đặt thờ ơ bên trên, mấy cái kệ đã rên ư ử. Có một ngăn để váy phồng, cánh cửa phía đó không thể khép chặt được. Thấy điều này, tôi lại nghĩ đến việc Maud không có mẹ, thật đáng hổ thẹn. Bà ấy chắc chắn sẽ đào thải những thứ đồ cổ thế này và tìm cho con gái thứ gì đó hợp thời, thanh nhã hơn.

Nhưng một điều mà việc kinh doanh của chúng tôi ở phố Lant sẽ dạy bạn, đó là cách quản lý đúng đắn những món hàng chất lượng. Tôi gom những chiếc đầm – đều kỳ quặc, ngắn, trẻ con như nhau – giũ chúng ra, rồi đặt lại tươm tất trên kệ. Rồi tôi chêm một chiếc giày vào cái váy phồng để giữ nó thẳng thớm. Sau đó, cánh cửa đóng lại, như nó phải thế. Tủ đứng được đặt ở một hốc tường. Ở góc khác là bàn trang điểm. Nó vương vãi đầy chai lọ và ghim – tôi dọn sạch cả chỗ này – và bên dưới có các ngăn kéo được trang trí. Tôi mở chúng ra. Chúng đựng – chà, thật thú vị. Đều là găng tay. Nhiều hơn cả của một người làm phục trang phụ nữ. Ngăn trên cùng, là găng trắng, găng lụa đen ở ngăn giữa, dưới cùng là găng hở ngón.

Mỗi chiếc trong số chúng đều được ký hiệu bên trong cổ tay bằng chỉ đỏ, tôi đoán là chữ cái viết tên của Maud. Tôi sẽ thích được xử lý chúng, với kéo và một cái ghim.

Hẳn nhiên, tôi không làm vậy, chỉ để nguyên chỗ găng tay nằm gọn gàng ở đó, đi quanh căn phòng một lần nữa đến khi đã chạm, săm soi tất cả. Không nhiều nhặn gì để quan sát, nhưng có một thứ lạ lùng nữa: một chiếc hộp gỗ nhỏ, khảm ngà, được đặt trên bàn cạnh giường cô ấy.

Chiếc hộp bị khoá, khi tôi cầm lên, nó phát ra tiếng loạt soạt tẻ nhạt. Chẳng có chiếc chìa nào sẵn đó, chắc là cô ấy giữ chìa đâu đó trên người, bằng một vòng dây chẳng hạn. Tuy nhiên, ổ khoá khá đơn giản, với ổ khoá kiểu này chỉ việc đưa miếng kim loại vào là chúng sẽ tự mở ra, hệt như đưa nước mặn cho con hàu. Tôi dùng một cái kẹp tóc của cô ấy.

Gỗ hoá ra được viền bằng vải nhung có lông dài. Bản lề làm bằng bạc, được bôi dầu để không phát lên tiếng rít. Tôi không chắc mình trông chờ tìm thấy cái gì trong đó – có lẽ, là thứ gì đó từ Gentleman, lời nhắn yêu đương tán tỉnh, hoặc thư từ gì đó. Nhưng thứ bên trong, chỉ là một bức chân dung thu nhỏ, khung bằng vàng được đính một chiếc nơ phai màu, ảnh một cô gái trắng trẻo, mái tóc thật đẹp. Đôi mắt hiền hoà. Cô gái mặc trang phục theo phong cách của hai mươi năm trước, và chiếc khung đã cũ. Cô gái trông không giống Maud lắm, nhưng tôi nghĩ có thể đoan chắc đó là mẹ của cô ấy. Nhưng, nếu đúng vậy, thì cũng thật kỳ khôi khi Maud giữ hình bà trong một cái hộp có khoá, thay vì mang theo trong người.

Tôi thắc mắc khá lâu về việc này, xoay bức ảnh, tìm các ký hiệu, khiến cái khung – vốn lạnh khi tôi cầm lên, giống mọi thứ khác ở đây – dần ấm lên. Nhưng rồi có tiếng động, từ đâu đó trong căn nhà. Tôi nghĩ đến việc sẽ thế nào, nếu Maud – hoặc Margaret, hoặc bà Stiles – vào phòng, bắt gặp tôi đứng cạnh chiếc hộp đã mở, bức ảnh cầm trong tay. Tôi nhanh chóng đặt nó trở vào chỗ, đóng chặt lại.

Chiếc kẹp tóc đã bị uốn cong để làm đồ nạy khoá, thì tôi giữ lấy. Tôi không muốn Maud tìm thấy nó và nghĩ rằng tôi là một tên trộm.



Sau những việc đó, tôi chẳng còn gì để làm. Tôi đứng bên cửa sổ thêm một lúc. Lúc mười một giờ, một cô hầu mang lên một chiếc khay. "Cô Maud không có ở đây," tôi nói khi trông thấy ấm trà bằng bạc, nhưng trà là dành cho tôi. Tôi nhấp từng ngụm nhỏ, để uống được lâu hơn. Rồi tôi mang chiếc khay trở xuống, nghĩ đến việc tiết kiệm cho cô hầu một cuộc đi lại. Tuy nhiên, khi trông thấy tôi mang nó vào bếp, mấy cô gái ở đó trợn mắt, còn người đầu bếp nói,

"Chà, thật hết nói! Nếu cô nghĩ Margaret đến không đủ nhanh, thì phải báo với bà Stiles. Nhưng ta chắc chắn, cô Fee chưa bao giờ bảo ai ăn không ngồi rồi."

Cô Fee là người hầu gái Ai-len đã mắc bệnh tinh hồng nhiệt. Thật ác khi bị cho là kiêu hãnh hơn cô ta, trong khi tôi chỉ cố gắng tử tế.

Nhưng tôi không nói gì. Tôi nghĩ, "Nếu các người không thích tôi, thì cũng đã có cô Maud!"

Cô ấy là người duy nhất, trong số tất cả bọn họ, dành cho tôi vài lời dễ nghe. Bỗng nhiên, tôi tha thiết mong thời gian trôi qua nhanh, chẳng phải vì ích lợi của bản thân nó, mà để nó tôi được trở lại với cô ấy.

Ít nhất, ở Briar bạn luôn luôn biết bây giờ là mấy giờ. Chuông báo mười hai giờ. Mười hai rưỡi. Tôi đi đến cầu thang hậu, loanh quanh ở đó đến khi một trong các cô hầu bàn đi ngang, chỉ đường cho tôi đến thư viện. Đó là một căn phòng trên tầng đầu tiên, tới được bằng cách đi qua phòng trưng bày bên trên một cầu thang gỗ lớn và một đại sảnh. Nhưng nó tối, mờ mịt, tồi tàn như mọi nơi khác trong căn nhà này – cứ nhìn xung quanh, bạn sẽ chẳng bao giờ nghĩ mình đang ở ngay trong nhà của một học giả dữ tợn. Cạnh cửa vào thư viện, trên một cái khiên gỗ, treo chiếc đầu của sinh vật gì đó với một con mắt thuỷ tinh. Tôi đứng đấy, đưa mấy ngón tay lên hàm răng nhỏ trắng của nó, chờ nghe tiếng chuông báo một giờ. Bên kia cánh cửa, giọng Maud vọng sang – rất khẽ, nhưng chậm, đều đặn, tựa hồ cô ấy đang đọc sách cho ông bác.

Rồi một giờ điểm, tôi đưa tay gõ cửa. Một giọng nam nhỏ nhẹ gọi ra, bảo tôi vào trong.

Tôi thấy Maud trước tiên. Cô ấy đang ngồi tại một chiếc bàn giấy, trước mặt có một quyển sách, hai tay đặt nơi bìa. Tay cô ấy để trần, đôi găng trắng nhỏ đặt gọn gàng cạnh bên. Cô ấy ngồi cạnh chiếc đèn có nắp chụp, nó ném tất cả ánh sáng lên những ngón tay cô, khiến chúng trông nhợt nhạt như tro bên trên trang giấy in. Phía trên cô ấy là một cửa sổ, mặt kính có hình vẽ màu vàng. Khắp xung quanh, khắp các bức tường của căn phòng, là kệ, chứa sách – chưa bao giờ thấy nhiều sách như vậy. Một lượng đáng sửng sốt. Một con người thì cần bao nhiêu sách truyện chứ? Tôi nhìn chúng, rùng mình. Maud đứng dậy, đóng quyển sách trước mặt. Cô ấy cầm lấy đôi găng trắng, đeo trở vào.

Rồi nhìn sang bên phải, đến cuối phòng, nơi mà vì cánh cửa mở nên tôi không thể thấy được. Một giọng gắt gỏng cất lên,

"Cái gì vậy?"

Tôi đẩy cửa mở rộng hơn, và trông thấy một cửa sổ được vẽ trang trí khác, nhiều kệ sách nữa, nhiều sách nữa, cùng với chiếc bàn lớn thứ hai. Chiếc bàn này đặt hàng đống giấy, cùng một chiếc đèn có nắp chụp khác. Ngài Lilly ngồi phía sau, ông bác già của Maud. Để miêu tả ông khi tôi trông thấy ông vào lúc này, thì phải kể ra mọi thứ.

Ông mặc áo choàng nhung, đội mũ nhung có nhúm lông đỏ nhô ra từ nơi trước kia hẳn đã là một quả tua. Trong tay ông cầm chiếc bút, được tránh hẳn khỏi giấy, bàn tay thì đen, trong khi tay Maud thì trắng – vì tay ông bị dây bẩn bởi mực Ấn Độ, như một người đàn ông bình thường bị bẩn bởi thuốc lá. Tuy nhiên, tóc của ông trắng. Cằm cạo nhẵn. Miệng nhỏ, chẳng có màu, nhưng lưỡi – cứng và nhọn – thì gần như đen ở nơi ông hẳn đã dùng để liếm ngón trỏ và ngón cái khi lật trang.

Mắt ông ẩm và mờ. Trước cặp mắt đó, ông đeo kính, một cặp ánh màu xanh lục. Ông trông thấy tôi, bèn nói,
"Cô là kẻ quái quỷ nào hả?"
Maud cài những chiếc nút nơi cổ tay.
"Đây là người hầu gái mới của con, thưa bác," cô lẳng lặng nói. "Cô Smith."
Đằng sau cặp kính xanh của ngài Lilly, tôi trông thấy mắt ông nheo rịt lại, trở nên ướt hơn.
"Cô Smith," ông nhìn tôi, nhưng nói với cô cháu gái. "Có phải một đứa theo đạo Gia-tô như đứa trước không?"
"Con không biết," Maud nói. "Con chưa hỏi cô ấy. Cô có theo đạo Gia-tô không, Susan?"
Tôi chẳng biết đó là cái gì. Nhưng vẫn nói, "Không, thưa cô. Tôi không nghĩ vậy."
Ngài Lilly lập tức đưa tay lên bịt tai.
"Ta không ưa giọng nói của cô ta," ông nói. "Cô ta không yên lặng được hả? Không dịu dàng được hả?"
Maud mỉm cười. "Cô ấy làm được, thưa bác," cô nói.
"Vậy tại sao bây giờ nó lại ở đây, làm phiền ta?"
"Cô ấy đến đón con."
"Đón con?" Ông nói. "Đồng hồ báo giờ rồi sao?"

Ông đưa tay tới cái dây đeo đồng hồ trên áo gi-lê, rút ra một cái đồng hồ báo giờ định kỳ, nghiêng đầu để nghe tiếng báo, rồi há miệng. Tôi nhìn Maud – cô đứng đó, vẫn đang loay hoay cài găng tay, bèn tiến một bước, định giúp cô ấy. Nhưng khi trông thấy tôi làm điều đó, lão già chồm lên hệt ông Punch trong vở kịch rối, rồi cái lưỡi đen xuất hiện.

"Ngón tay, cô kia!" Ông kêu lên. "Ngón tay! Ngón tay!"

Ông giơ ngón tay đen thui về phía tôi, lắc chiếc bút đến khi mực vung vãi. Về sau tôi trông thấy chỗ thảm bên dưới bàn của ông khá đen, đoán là ông lắc bút tương đối thường xuyên. Nhưng vào khoảnh khắc đó, ông trông rất lạ lùng, giọng thì the thé, tim tôi suýt nữa giật nảy lên. Tôi ngỡ ông ta sắp nổi cơn tam bành. Tôi bước thêm bước nữa, việc đó khiến lão già càng kêu the thé hơn – cuối cùng Maud đến chỗ tôi, chạm vào cánh tay tôi.
"Đừng sợ," cô ấy dịu dàng. "Ông có ý nói thứ này, xem kìa." Và cô ấy chỉ cho tôi, dưới chân tôi, được ốp vào ván sàn đen, ở khoảng trống giữa ngưỡng cửa và mép thảm, là hình bàn tay phẳng phiu với một ngón tay đang trỏ.
"Bác không muốn người giúp việc dòm ngó sách của mình," cô nói, "vì sợ họ làm hỏng sách. Bác yêu cầu không người giúp việc nào được vào phòng vượt quá dấu hiệu này."

Cô đặt mũi giày bên trên miếng đồng. Gương mặt cô ấy mịn như sáp, tiếng nói như nước chảy.
"Nó có thấy không vậy?" Bác của cô hỏi.

"Có ạ," cô trả lời, rút mũi chân lại. "Cô ấy thấy rất rõ. Lần tới cô ấy sẽ biết – phải không, Susan?"
"Vâng, thưa cô," tôi đáp – cũng chẳng biết nên nói gì, hay nên nhìn ai, nhìn thế nào. Điều này với tôi chắc chắn là mới mẻ, rằng nhìn vào một hàng chữ in cũng có thể làm hỏng nó. Nhưng tôi thì biết gì về việc đó chứ? Lại còn, lão già kỳ quái thật, khiến tôi bị một vố điếng cả người, hẳn là mọi thứ đều đúng rồi. "Vâng, thưa cô," tôi nói, lần thứ hai. Và thêm, "Vâng, thưa ngài." 

Bạn đang đọc truyện trên: truyentop.pro