Chương 6.1

Gentleman đi trước tiên. Ngài Lilly và Maud đứng ở cửa nhìn anh ta rời khỏi, còn tôi nhìn từ cửa sổ phòng cô ấy. Cô ấy bắt tay, anh ta thì cúi chào. Rồi cỗ xe chở anh ta đi, đến nhà ga ở Marlow. Anh ta ngồi, hai tay khoanh lại, nón đội ra sau, mặt hướng về phía chúng tôi, mắt nhìn mắt cô ấy, và mắt tôi.

Ác quỷ lên đường rồi đấy, tôi nhủ.

Anh ta không hề ra dấu hiệu nào. Không cần thiết. Anh ta đã thông qua kế hoạch với chúng tôi, chúng tôi đã thuộc lòng. Anh ta sẽ lên tàu lửa đi ba dặm, rồi chờ đợi. Chúng tôi sẽ ở trong phòng khách của Maud đến nửa đêm, rồi đi. Anh ta sẽ gặp chúng tôi tại sông khi đồng hồ báo mười hai rưỡi.

Ngày hôm đó trôi qua vẫn hệt như tất cả những ngày xưa cũ. Maud đến chỗ bác, như vẫn hay làm, còn tôi chậm rãi đi loanh quanh các phòng của cô ấy, cân nhắc các thứ – nhưng lần này, tất nhiên, tôi tìm kiếm các thứ nên mang theo. Chúng tôi cùng ngồi ăn trưa. Đi dạo trong công viên, đến nhà chứa nước đá, nghĩa trang, và con sông. Đây là lần cuối cùng chúng tôi làm những việc này, nhưng mọi thứ dường vẫn cứ y hệt như thế. Điều thay đổi, chính là chúng tôi. Chúng tôi bước đi, không nói gì. Thi thoảng hai chiếc váy chạm vào nhau – một lần, là hai bàn tay – rồi chúng tôi tách ra, như thể bị đâm vậy. Nhưng nếu, cũng như tôi, cô ấy có đỏ mặt, thì tôi cũng không biết, vì tôi không nhìn. Trở về phòng, cô ấy đứng bất động, hệt một bức tượng. Chỉ lâu lâu mới nghe có tiếng thở dài. Tôi ngồi ở bàn của cô ấy, cùng chiếc hộp đầy ghim cài áo, nhẫn và một đĩa giấm, đánh bóng những viên đá. Tôi nghĩ, thà mình làm việc đó, còn hơn chẳng làm gì. Một lần, cô ấy tiến đến nhìn. Rồi lại bước đi, quệt mắt. Cô ấy nói giấm làm cay mắt. Mắt tôi cũng bị như thế.

Rồi trời tối. Cô ấy đi dùng bữa tối của mình, tôi đi dùng bữa tối của tôi. Ở dưới bếp, mọi người đều ủ rũ.

"Giờ ngài Rivers đi rồi, mọi thứ chẳng như cũ nữa," họ nói.

Mặt bà Cakebread tối sầm sầm. Khi Margaret đánh rơi một chiếc muỗng, bà dùng muôi đánh cô gái, khiến cô ta la oai oái. Và rồi, khi chúng tôi vừa bắt đầu bữa ăn, Charles oà lên khóc tại bàn, phải bỏ chạy khỏi bếp, vừa chạy vừa quệt nước mũi nơi cằm.

"Thằng nhỏ chấp nhận việc đó một cách rất khó khăn," một trong mấy cô hầu bàn nói. "Tâm trí nó đã đặt cả nơi chuyện được đi Luân Đôn như là người của ngài Rivers rồi."

"Mày trở lại đây!" Ông Way đứng dậy gọi, khiến bột bay lên. "Nhóc con như mày, với một chàng trai như ngài ấy, tao thật xấu hổ!"

Nhưng Charles không quay lại, không quay lại với ông Way hay ai hết. Nó đã mang bữa sáng cho Gentleman, đánh giày, chải sạch những chiếc áo khoác đẹp đẽ của anh ta. Giờ thì nó mắc kẹt với công việc mài dao, lau chùi kiếng trong căn nhà lặng lẽ nhất nước Anh.

Nó ngồi nơi cầu thang, khóc, đập đầu vào thành cầu thang. Ông Way đến cho nó một trận. Chúng tôi nghe tiếng đen đét khi thắt lưng của ông đập lên lưng Charles, và tiếng kêu la.

Việc đó phủ một không khí khá ủ dột lên bữa tối. Chúng tôi ăn trong yên lặng, và khi xong xuôi, ông Way cũng đã quay lại – với khuôn mặt tím rịm, tóc giả lệch sang bên, thì tôi không đi cùng ông ta và bà Stiles đến buồng để nhận put-đing. Tôi nói mình bị nhức đầu. Cũng gần như thế. Bà Stiles nhìn tôi từ trên xuống dưới, rồi nhìn đi chỗ khác.

"Cô thật tệ quá, cô Smith," bà nói. "Dám nói là cô bỏ quên sức khoẻ ở Luân Đôn rồi."

Nhưng những điều bà nghĩ đều chẳng là gì đối với tôi. Tôi sẽ chẳng gặp bà ta – hay ông Way, Margaret, hay bà Cakebread – một lần nào nữa.

Tôi chúc họ ngủ ngon, rồi lên tầng trên. Maud tất nhiên vẫn đang ở chỗ bác. Cho đến lúc cô ấy quay lại, tôi làm những gì đã được chúng tôi lên kế hoạch, thu gom tất cả váy áo, giày, của cải mà chúng tôi đã đồng ý rằng nên mang theo. Tất cả đều là của cô ấy. Chiếc váy vải nâu của tôi thì tôi bỏ lại. Tôi mặc nó chưa quá một tháng. Đặt nó ở đáy va li. Bỏ cả va li lại luôn. Chúng tôi chỉ có thể mang túi theo. Maud đã tìm thấy hai món đồ cũ kỹ ấy của mẹ. Da của chúng ẩm ướt, có một bông hoa trắng. Chúng được ký hiệu, bằng đồng, các ký tự đậm đến nỗi tôi có thể đọc được: một chữ M và một chữ L – viết tắt tên của mẹ cô ấy, cũng giống tên cô ấy.

Tôi lót giấy bên trong, nhét chặt các thứ. Trong một túi – cái nặng nhất, tôi sẽ mang – đựng chỗ nữ trang tôi đã đánh bóng. Tôi gói chúng trong vải lanh, để tránh chúng rung lắc lộn xộn và bị trầy xước. Tôi bỏ cùng vào đó một chiếc găng của cô ấy – một chiếc màu trắng bằng da dê thuộc, có nút cài ngọc trai. Cô ấy từng đeo nó một lần, và ngỡ bị mất. Tôi định giữ nó, để nhớ về cô ấy.

Hình như trái tim tôi đang vỡ làm hai.

Rồi cô ấy từ chỗ bác quay về. Bước vào, vặn vẹo hai tay. "Ồ!" Cô ấy nói. "Sao mà tôi đau đầu quá! Tôi tưởng tối nay ông ấy sẽ giữ mình lại, mãi mãi!"

Tôi đoán cô ấy sẽ trở về trong tâm trạng đó, nên đã lấy chút rượu từ ông Way, dùng để trấn tĩnh. Tôi bảo cô ấy ngồi xuống, uống một chút. Rồi tôi nhúng ướt một chiếc khăn tay, cọ lên chỗ hõm nơi chân mày cô ấy. Rượu vang khiến chiếc khăn có màu hồng như hoa hồng. Đầu cô ấy, chỗ tôi đã cọ xát, trở thành màu đỏ. Gương mặt cô ấy mát lạnh dưới bàn tay tôi. Đôi mi nhấp nháy. Khi chúng ngước lên, tôi bước ra xa.

"Cảm ơn," cô ấy lặng lẽ nói, ánh mắt rất nhẹ nhàng.

Cô ấy uống thêm rượu. Thứ đó thật sự chất lượng. Chỗ cô ấy để dư lại, tôi uống nốt, nó chạy vào người tôi như một ngọn lửa.

"Giờ thì," tôi nói, "cô phải thay áo." Cô ấy đã được phục trang để dùng bữa tối. Tôi đã để sẵn áo đầm cho việc đi bộ. "Nhưng chúng ta phải bỏ cái khung đi thôi."

Bởi vì, không thể có chỗ cho váy phồng được. Không có nó, váy ngắn của cô ấy rốt cuộc biến thành một cái váy dài, và cô ấy trông mảnh mai hơn bao giờ hết. Cô ấy đã gầy đi. Tôi đưa cho cô ấy mang một đôi bốt bền, chắc. Rồi cho cô ấy xem các túi. Cô ấy chạm vào chúng, lắc đầu.

"Cô đã làm mọi thứ," cô ấy nói. "Tôi thì sẽ chẳng bao giờ nghĩ đến tất cả những việc đó. Tôi sẽ chẳng bao giờ làm được việc này, nếu không có cô."

Cô ấy nhìn vào mắt tôi, vẻ cảm kích, buồn rầu. Có Chúa mới biết mặt tôi trông thế nào. Tôi quay đi. Căn nhà đang kêu rên, dần yên lại khi các cô hầu bàn đã lên tầng trên. Rồi đồng hồ lại điểm, báo chín giờ rưỡi. Cô ấy nói,

"Ba giờ nữa, anh ta sẽ đến."

Cô ấy nói bằng kiểu cách chậm rãi, nao núng mà tôi đã từng nghe thấy, một lần, "Ba tuần."

Chúng tôi tắt chiếc đèn trong phòng khách của cô ấy, rồi đứng nơi cửa sổ. Không thể thấy dòng sông, nhưng chúng tôi nhìn đăm đăm về phía bức tường của công viên, nghĩ đến dòng nước nằm bên dưới nó, lạnh lẽo, sẵn sàng, đang chờ đợi, cũng giống chúng tôi. Chúng tôi đứng cả giờ, gần như không nói gì. Thỉnh thoảng cô ấy run. Thấy vậy, tôi hỏi, "Cô lạnh à?" Nhưng cô ấy không lạnh. Cuối cùng sự chờ đợi bắt đầu ảnh hưởng đến cả nơi tôi, và tôi bắt đầu bồn chồn. Tôi nghĩ biết đâu mình đã không gói ghém các túi đúng cách nên làm. Biết đâu mình đã để sót gói vải lanh, hoặc nữ trang, hoặc chiếc găng trắng đó. Tôi đã bỏ chiếc găng trắng vào, tôi biết vậy, chỉ là tôi đang trở nên giống cô ấy, đứng ngồi không yên như một con bọ chét. Tôi bèn vào phòng ngủ của cô ấy, mở các túi ra, để cô ấy lại bên cửa sổ. Tôi lấy ra tất cả váy áo và vải lanh, gói ghém trở lại lần nữa. Rồi, trong lúc tôi thít chặt sợi dây buộc trên vào khoá, nó đứt. Da thuộc cũ đến nỗi muốn rã tới nơi. Tôi lấy một cây kim, khâu chặt sợi dây buộc, bằng những mũi khâu thật lớn và rối tinh. Tôi đưa miệng lại sợi chỉ để cắn, cảm nhận được vị muối.

Rồi nghe tiếng cửa của Maud mở ra.

Tim tôi thót một nhịp. Tôi đặt các túi khỏi tầm mắt, trong bóng tối của chiếc giường, đứng đó lắng nghe. Không một âm thanh. Tôi đi lại cửa sang phòng khách, nhìn vào trong. Màn cửa sổ mở, để ánh trăng chiếu vào, nhưng căn phòng trống trơn, Maud đã đi mất.

Cô ấy để cửa khép hờ. Tôi nhón chân bước lại, liếc vào hành lang. Lúc đó, hình như có một tiếng ồn khác, ngoài tiếng kêu rên thường lệ của căn nhà – có lẽ, là tiếng đóng mở của một cánh cửa khác, ở phía xa. Nhưng tôi không dám chắc. Tôi gọi, bằng giọng thì thào, "Cô Maud!" Tuy vậy, ở Briar, tiếng thì thào nghe cũng lớn, và tôi lặng im, căng hai tai ra, gắng sức nhìn vào bóng tối, rồi bước ít bước vào lối đi, lại lắng nghe. Tôi chắp hai tay lại với nhau, xiết chặt, bấy giờ âu lo hơn cả mức có thể diễn tả được. Nhưng, thành thật mà nói, tôi cũng khá bực mình – chẳng phải là rất giống cô ấy sao, lang thang đi đâu mất vào lúc trễ thế này, mà chẳng có lý do hay một lời báo?

Khi đồng hồ điểm mười một giờ rưỡi, tôi lại gọi, bước thêm hai bước dọc lối đi. Nhưng rồi chân tôi vấp phải mép một tấm thảm, suýt trượt ngã. Cô ấy có thể đi trong cái lối này mà không cần nến, vì đã biết nó quá rõ, nhưng với tôi, nó hoàn toàn xa lạ. Tôi không dám lần mò đi theo. Nhỡ trong bóng tối, tôi rẽ nhầm chỗ nào đó thì sao? Có khi tôi sẽ chẳng bao giờ tìm lối trở ra được.

Nên tôi chỉ chờ đợi, đếm từng phút. Tôi trở vào phòng ngủ, mang các túi ra. Rồi đứng ở cửa sổ. Trăng tròn, đêm rất sáng. Bãi cỏ nằm trải dài trước ngôi nhà, phía cuối là bức tường, bên dưới là con sông. Ở đâu đó trên làn nước là Gentleman, đang đến gần trong lúc tôi nhìn. Anh ta sẽ chờ bao lâu?

Cuối cùng, khi tôi đã lấm tấm đầy mồ hôi, đồng hồ điểm mười hai giờ. Tôi đứng đó, rùng mình theo từng tiếng gõ chuông. Tiếng cuối cùng cất lên, để lại một dải âm vang. Tôi nghĩ, "Đây rồi." Và, trong lúc tôi nghĩ, có tiếng nhẹ nhàng của giày cô ấy bước trên sàn – cô ấy đang ở nơi cửa, gương mặt nhợt nhạt trong bóng tối, hơi thở nhanh như một con mèo.

"Thứ lỗi cho tôi, Sue!" Cô ấy nói. "Tôi đến thư viện của bác. Tôi muốn trông thấy nó, một lần cuối cùng. Nhưng tôi không thể đến, cho tới khi biết rằng ông ta đã ngủ."

Cô ấy run rẩy. Tôi hình dung cô ấy, nhợt nhạt, mỏng manh, lặng lẽ, cô độc giữa những quyển sách tối tăm đó. "Đừng bận tâm," tôi nói. "Nhưng, chúng ta phải nhanh lên. Lại đây, nào."

Tôi đưa cho cô ấy áo khoác của cô ấy, cài áo khoác của mình. Cô ấy nhìn quanh, cuối cùng thì cũng ra đi. Răng cô ấy bắt đầu đánh lập cập. Tôi đưa cô ấy chiếc túi nhẹ nhất. Rồi tôi đứng phía trước, đặt một ngón tay lên môi cô gái.

"Giờ thì, bình tâm nhé," tôi nói.

Tất cả âu lo của tôi đã biến mất, bỗng nhiên tôi bình tĩnh lạ lùng. Tôi nghĩ đến mẹ mình, cùng tất cả những căn nhà tăm tối đang ngủ mà bà phải len lỏi qua, trước khi bị người ta bắt. Dòng máu xấu trỗi dậy trong tôi, cả rượu nữa.

Chúng tôi đi bằng lối thang cho người giúp việc. Tôi đã cẩn thận đi lên đi xuống vào ngày hôm trước, tìm những bậc cụ thể phát ra tiếng kêu cọt kẹt. Giờ thì tôi dẫn cô ấy qua chúng, nắm tay, quan sát nơi cô ấy đặt chân xuống. Ở đầu hành lang, nơi có các cửa vào bếp và buồng bà Stiles, tôi dừng cô ấy lại, chờ đợi, lắng nghe. Cô ấy để yên tay trong tay tôi. Một con chuột chạy vụt qua nơi ván lát chân tường. Không có động tĩnh nào khác, không có âm thanh gì từ bất kỳ nơi đâu. Sàn có lót vải dầu, làm dịu đi tiếng giày của chúng tôi. Chỉ có váy áo là kêu sột soạt, lào rào.

Cửa ra sân bị khoá bằng một chiếc chìa, nhưng chìa được để lại đó. Tôi bèn rút nó ra, xoay lại, bôi một chút mỡ bò vào đầu chiếc chìa, rồi trét thêm mỡ vào các chốt cài ở trên đỉnh và dưới cùng cánh cửa – đã được đóng lại. Tôi lấy mỡ từ tủ chén của bà Cakebread. Không tới sáu xu mà bà ta mua từ thằng bé bán thịt! Maud nhìn tôi trát mỡ quanh các khoá, bằng ánh mắt sửng sốt. Tôi nói khẽ,

"Việc này dễ thôi. Nếu chúng ta chọn con đường kia, thì mới khó đấy."

Rồi tôi nháy mắt với cô ấy. Đó là sự thoả mãn về công việc. Ngay bấy giờ, tôi thực sự ao ước, giá mà điều này khó khăn hơn. Tôi liếm sạch mỡ trên tay, đặt vai nơi cửa, ấn chặt nó vào khung. Sau đó, chiếc chìa xoay thật ngọt ngào, các chốt trượt đi trong hõm, nhẹ nhàng như một đứa trẻ sơ sinh.

Bên ngoài, không khí lạnh và trong lành. Mặt trăng rọi xuống những cái bóng đen to tướng. Chúng thật đáng biết ơn. Chúng tôi men theo những bức tường tối nhất của ngôi nhà, đi nhanh và nhẹ nhàng từ bức tường này sang bức tường khác, rồi chạy nhanh qua một góc thảm cỏ, đến bờ giậu và rừng cây phía xa. Cô ấy lại nắm tay tôi, tôi chỉ cho cô ấy nên chạy đến đâu. Chỉ một lần, tôi cảm thấy sự do dự nơi cô ấy, bèn quay lại, trông thấy cô ấy đang nhìn về phía ngôi nhà, với kiểu biểu cảm lạ lùng, nửa như sợ hãi, mà lại gần như đang cười. Không có ánh sáng nơi các cửa sổ. Không ai trông thấy. Ngôi nhà trông phẳng lì, hệt một cái nhà trong kịch. Tôi để cô ấy đứng trong khoảng một phút, rồi kéo tay cô ấy.

"Giờ cô phải đi thôi," tôi nói.

Cô ấy quay đầu, không nhìn lần nào nữa. Chúng tôi nhanh chóng đi đến bức tường công viên, rồi men theo nó, dọc một lối đi ẩm ướt, rối rắm. Những bụi cây mắc vào áo khoác lông len của chúng tôi, các con vật búng tanh tách trong cỏ, hoặc bò qua trước mặt chúng tôi. Có cả mạng nhện, mảnh và sáng như những sợi thuỷ tinh mà chúng tôi phải giẫm lên, làm chúng rách bươm. Tiếng ồn dường thật khủng khiếp. Hơi thở của chúng tôi nặng hơn. Chúng tôi đã đi bộ rất xa, tôi tưởng đã bỏ lỡ mất cổng đến sông, nhưng rồi con đường trở nên rõ hơn, cổng vòm nhô lên, được mặt trăng chiếu sáng. Maud vượt qua tôi, lấy ra chìa khoá của cô ấy, mở cửa để hai người cùng qua, rồi khoá chặt lại sau lưng.

Giờ khi đã ra khỏi công viên, tôi thở nhẹ nhõm hơn một chút. Chúng tôi đặt túi xuống, đứng yên trong bóng tối, trong bóng của bức tường. Ánh trăng phủ xuống bờ phía xa, vẽ nên những mũi lao với phần đầu nhọn hoắt. Mặt sông trông như có màu trắng. Lúc này, âm thanh duy nhất là tiếng nước chảy, tiếng gọi của một con chim nào đó, rồi tiếng lõm bõm của một con cá. Chẳng có dấu hiệu nào của Gentleman. Chúng tôi đến nơi nhanh hơn dự định. Tôi lắng tai, chẳng nghe thấy được gì. Rồi nhìn lên trời, nhìn tất cả những ngôi sao trên đó. Nhiều sao hơn mức bình thường. Sau đó tôi nhìn Maud. Cô ấy đang giữ áo khoác quanh mặt, nhưng khi trông thấy tôi quay sang, cô ấy đưa tay cầm lấy tay tôi. Cầm lấy nó, không phải để được tôi dẫn đường, hay để được vỗ về, mà chỉ để giữ nó, vì đó là tay tôi.

Trên bầu trời, một ngôi sao chuyển động, cả hai chúng tôi ngoái đầu nhìn.

"Điềm may đấy," tôi nói.

Rồi tiếng chuông Briar kêu lên. Mười hai rưỡi – tiếng gõ vang rất rõ ngang qua công viên, có lẽ không khí trong lành đã làm nó đanh gọn hơn. Trong một giây, âm vang của nó ngân quanh tai, rồi một âm thanh khác, nhẹ hơn – chúng tôi nghe thấy, bèn bước tách nhau ra – tiếng kẽo kẹt thận trọng của mái chèo, tiếng nước chảy qua gỗ. Nơi khúc quanh của con sông bạc, hiện lên hình dạng đen đúa của một chiếc thuyền. Tôi thấy cặp mái chèo nâng lên, hạ xuống, vung vãi những đồng xu bằng ánh trăng. Rồi chúng được nhấc lên cao, để lại sự tĩnh lặng. Chiếc thuyền lướt dọc theo hàng bấc, nghiêng ngả, lại kêu kẽo kẹt trong lúc Gentleman hơi nhổm dậy từ chỗ anh ta đang ngồi. Anh ta không thấy được chúng tôi, nơi chúng tôi đứng nằm trong bóng tối của bức tường. Anh ta không thấy được chúng tôi, nhưng tôi không phải người bước đến trước, mà là cô ấy. Cô ấy bước một cách cứng nhắc đến mép nước, bắt lấy cuộn dây thừng anh ta ném, trụ lại trước sức kéo của con thuyền, cho đến khi con thuyền thăng bằng.

Tôi không nhớ Gentleman có nói gì không. Tôi cũng không tin anh ta đã nhìn tới mình, ngoại trừ lần mà, sau khi đã giúp Maud đi qua chỗ đỗ tàu cũ kỹ, thì đưa tay cho tôi để dẫn tôi đi như đã làm với cô ấy, qua những tấm ván mục nát. Tôi nghĩ chúng tôi làm tất cả những điều đó trong im lặng. Tôi biết chiếc thuyền hẹp, váy chúng tôi phồng lên khi ngồi – vì, khi Gentleman cầm mái chèo lên để xoay đầu thuyền, chúng tôi lại nghiêng ngả, tôi bất chợt thấy sợ con thuyền sẽ lật úp, hình dung cảnh nước tràn vào tất cả những đường diềm, đường xếp này, kéo tuột chúng tôi xuống. Nhưng Maud ngồi vững vàng. Tôi thấy Gentleman nhìn cô ấy từ trên xuống dưới. Tuy nhiên, vẫn chẳng ai nói gì. Chỉ một loáng đã xong mọi việc. Chiếc thuyền bắt đầu đi nhanh. Dòng chảy xuôi với hướng đi. Trong một phút, con sông đi theo bức tường công viên. Chúng tôi đi ngang nơi tôi đã thấy anh ta hôn tay cô ấy, nơi bức tường uốn cong đi. Thay vào đó, là hàng cây tối. Maud ngồi, mắt dõi xuống chân, không nhìn nơi đó.

Chúng tôi đi rất cẩn thận. Đêm rất tĩnh. Gentleman giữ thuyền đi gần hết mức vào bóng tối của bờ sông. Chỉ thỉnh thoảng, khi hàng cây mỏng hơn, chúng tôi mới di chuyển dưới ánh trăng. Nhưng xung quanh cũng chẳng có ai để bị dòm ngó. Ở những nơi có nhà cửa dựng gần con sông, thảy đều đã đóng kín cửa, tối om. Và rồi, khi con sông mở rộng ra, có những hòn đảo, nơi neo những chiếc sà lan, cùng những con ngựa đang gặm cỏ, anh ta dừng mái chèo, để thuyền lướt đi trong yên lặng, nhưng vẫn chẳng có ai nghe tiếng hoặc trông thấy chúng tôi di chuyển. Rồi con sông lại thu hẹp, chúng tôi tiếp tục đi. Sau đó, không còn nhà nữa, cũng không còn thuyền. Chỉ còn mỗi bóng tối, ánh trăng vỡ, tiếng cọt kẹt của những mái chèo nhỏ, sự nâng lên, hạ xuống của tay Gentleman và màu trắng nơi đôi má anh ta, bên trên bộ râu.

Chúng tôi không ở trên sông lâu. Ở một chỗ trên sông, cách Briar hai dặm, anh ta dừng thuyền lại, neo vào bờ. Đây là nơi chúng tôi khởi hành. Anh ta đã để sẵn một con ngựa, cùng bộ yên cương cho phụ nữ. Anh ta giúp chúng tôi lên bờ, đặt Maud trên lưng ngựa, ràng các túi cạnh bên. Anh ta nói,

"Chúng ta phải đi thêm khoảng một dặm nữa. Maud?" Cô ấy không trả lời. "Cô phải dũng cảm lên. Chúng ta đến rất gần rồi."

Rồi anh ta nhìn tôi, gật đầu. Chúng tôi khởi hành – anh ta cầm cương dắt ngựa, Maud ngồi rụt vai, khó nhọc trên lưng con vật, tôi đi bộ phía sau. Chúng tôi vẫn không gặp một ai. Tôi lại nhìn những ngôi sao. Chưa bao giờ được thấy sao sáng thế này ở nhà. Bầu trời chưa bao giờ đen và quang thế này.

Con ngựa không đeo móng sắt. Tiếng vó nghe rất thộn trên nền đất của con đường.

Chúng tôi đi khá chậm – tôi đoán, là vì Maud, để tránh cô ấy bị xóc và choáng. Dù sao thì cô ấy trông cũng rất tệ. Khi cuối cùng cũng đến nơi anh ta tìm được – hai hay ba cái chòi nghiêng ngả, với một nhà thờ to, tối thui – thì cô ấy trông tệ hại hơn bao giờ hết. Một con chó xuất hiện, cất tiếng sủa. Gentleman đá nó một cái, khiến nó kêu ăng ẳng. Anh ta dẫn chúng tôi đến cái chòi gần nhà thờ nhất. Cửa mở, một người đàn ông bước ra, rồi một phụ nữ cầm đèn. Họ đang chờ. Người phụ nữ là người giữ phòng cho chúng tôi. Bà ta đang ngáp, nhưng cùng lúc còn vươn cổ, để nhìn cho rõ Maud. Bà ta nhún người chào Gentleman. Người đàn ông là trưởng xứ đạo, cha sở – gọi thế nào cũng được. Ông ta cúi chào, trên người mặc áo chùng trắng bẩn thỉu, râu ria lởm chởm và cần phải được cạo xén. Ông ta nói,

"Chào ngài buổi tối. Chào cô buổi tối, thưa cô. Thật là một đêm quá đẹp, cho những trò mạo hiểm tinh nghịch!"

Gentleman chỉ nói, "Mọi thứ đã được sẵn sàng chưa?" Anh ta đưa cánh tay lên cho Maud, giúp cô ấy xuống ngựa. Cô ấy giữ tay trên yên, vụng về trượt xuống, bước xa ra khỏi anh ta. Cô ấy cũng chẳng đến gần tôi, chỉ đứng một mình. Người phụ nữ vẫn săm soi cô ấy. Săm soi khuôn mặt tái nhợt, cứng rắn, xinh đẹp đó, vẻ choáng váng đó, và tôi biết bà ta đang nghĩ – mà chắc là ai cũng sẽ nghĩ tương tự – rằng cô ấy là kiểu người lệ thuộc gia đình, kết hôn vì sợ hãi. Biết đâu Gentleman cũng đã khiến bà ta nghĩ vậy khi nói chuyện với bà ta trước đây. Bởi vì anh ta sẽ hoàn toàn có lợi thế nếu nảy ra cuộc thách thức với ngài Lilly, nhìn vào thì anh ta đã nẫng được Maud ngay trong nhà của ông bác. Về sau, chúng tôi có thể nói rằng đứa bé đã bị sẩy thai.

Tôi sẽ nói điều đó, có lẽ, để có thêm năm trăm.

Tôi nghĩ vậy, ngay cả khi đứng quan sát người phụ nữ đang nhìn Maud, ghét bà ta vì làm điều đó, ghét cả chính mình – vì nghĩ đến điều đó. Lão trùm xứ đạo tiến đến, lại cúi chào.

"Mọi thứ đã sẵn sàng, thưa ngài," ông ta nói. "Chỉ có một chút vấn đề – Trong tình huống thuộc trường hợp đặc biệt–"

"Ừ, ừ," Gentleman nói. Anh ta dắt lão trùm xứ đạo sang bên, rút sổ tay ra. Con ngựa ngúc ngoắc đầu, nhưng từ một trong số các căn chòi còn lại, một thằng bé bước ra, dẫn con ngựa đi. Thằng bé cũng nhìn Maud, nhưng rồi nhìn sang tôi, và chạm tay lên mũ tỏ ý chào tôi. Tất nhiên, thằng bé đâu thấy cô ấy ngồi trên yên, còn tôi mặc một chiếc đầm cũ của cô ấy, hẳn là trông khá giống một quý cô, trong khi cô ấy đứng bằng kiểu cách rụt vai, hèn mọn, tựa một cô hầu.

Cô ấy không thấy việc đó. Mắt cô ấy nhìn xuống đất. Lão trùm xứ đạo cất tiền vào túi bên dưới áo chùng, rồi xoa hai tay với nhau. "Hết xẩy," ông ta nói. "Quý cô đây muốn thay phục trang chứ? Cô ấy muốn đến phòng chăng? Hay chúng ta làm lễ hôn phối ngay lập tức?"

"Chúng tôi sẽ làm ngay lập tức," Gentleman nói, trước khi ai khác kịp trả lời. Anh ta bỏ nón ra, vuốt tóc, làm màu mè một chút nơi những lọn quanh tai. Maud đứng đờ người ra. Tôi đi đến chỗ cô ấy, kéo nón trùm lên thật tươm tất, chỉnh áo khoác cho các đường nếp thẳng thớm hơn, rồi đưa tay qua tóc và má cô ấy. Cô ấy không nhìn đến tôi. Gương mặt khá lạnh. Gấu váy sẫm màu, như thể đã bị nhúng vào thuốc nhuộm nhằm để tang. Áo choàng dính bùn. Tôi nói, "Thưa cô, đưa tôi găng tay đi ạ." – Vì tôi biết rằng, bên dưới đó, cô ấy còn đôi găng da dê. Tôi nói, "Cô nên đến lễ cưới với găng trắng, hơn là găng da bò."

Cô ấy để tôi tháo chúng ra, rồi đứng khoanh tay. Người phụ nữ nói với tôi, "Không hoa à, cho cô gái ấy?" Tôi nhìn Gentleman. Anh ta nhún vai.

"Cô muốn một bông hoa không, Maud?" Anh ta thờ ơ hỏi. Cô ấy không trả lời. Anh ta nói, "Chà, tôi nghĩ chúng ta không nên bận tâm đến sự thiếu vắng của một bông hoa. Giờ thì, thưa ngài, nếu không phiền–"

Tôi nói, "Anh ít nhất cũng lấy cho cô ấy một bông hoa chứ! Chỉ là một bông hoa, để cô ấy mang vào nhà thờ thôi mà!"

Phải đến khi người phụ nữ nói thì tôi mới nghĩ đến điều đó, nhưng giờ thì – ôi! Ngay lập tức, tôi cảm thấy ghê sợ cái sự tàn nhẫn khi cưới cô ấy làm vợ, mà không có được lấy một bông hoa. Tôi không thể chịu nổi. Giọng tôi bật lên, nghe gần như điên tiết, và Gentleman nhìn tôi chằm chằm, cau mặt. Lão trùm xứ đạo có vẻ tò mò, người phụ nữ thì lấy đó làm tiếc. Và rồi Maud đưa ánh mắt sang tôi, chậm rãi nói,

"Tôi muốn một bông hoa, Richard. Tôi muốn một bông hoa. Và Sue cũng nên có một bông hoa."

Với mỗi lần nói từ đó, bông hoa, dường như cô ấy lại trở nên lạ lùng hơn một chút. Gentleman thở hắt ra, bắt đầu nhìn quanh một cách cáu kỉnh. Lão trùm xứ đạo cũng nhìn. Đã khoảng một giờ rưỡi, ngoài ánh trăng ra, mọi vật đều tối om. Chúng tôi đứng nơi những bờ giậu mâm xôi tươi trên mặt đất đầy bùn. Mấy bờ giậu đen thui. Nếu ở đó có hoa, chúng tôi cũng chẳng bao giờ tìm được. Tôi nói với người phụ nữ,

"Bà không có gì cho chúng tôi mang theo sao? Không có bông hoa nào trong bình?" Bà ta ngẫm nghĩ một giây, nhanh nhẹn bước trở vào trong chòi, cuối cùng trở ra với một nhúm nhành lá khô, tròn như những đồng shi-ling, trắng như giấy, rung rinh trên những cành mỏng mảnh trông như thể sắp gãy đánh rộp tới nơi.

Đó là cây cải âm. Chúng tôi đứng nhìn đăm đăm, không ai dám gọi tên nó. Rồi Maud cầm lấy những nhành cây, chia ra, đưa tôi một ít, giữ phần nhiều cho mình. Gentleman đốt một điếu thuốc, hít hai hơi, rồi ném nó đi. Nó vẫn cháy trong bóng tối. Anh ta hất đầu về phía lão trùm xứ đạo, ông này bèn cầm đèn lên, dẫn chúng tôi qua cổng nhà thờ, dọc theo một con đường giữa các bia mộ xiêu vẹo mà ánh trăng rọi xuống thành những cái bóng sâu, sắc nhọn. Maud đi cùng Gentleman, anh ta giữ cánh tay cô ấy trong tay mình. Tôi đi cùng người phụ nữ. Chúng tôi sẽ là nhân chứng. Đó là bà Cream.

"Còn xa không?" Cô ấy hỏi.

Tôi không trả lời.

Nhà thờ làm bằng đá xám cứng và, ngay cả dưới ánh trăng, nó vẫn trông rất đen. Bên trong quét vôi trắng, nhưng sắc trắng đã ngả sang vàng. Có dăm cây nến đã được thắp quanh bệ thờ và các hàng ghế dài, dăm con mọt vải bu quanh các cây nến, vài con chết trong sáp. Chúng tôi không ráng ngồi lại, cứ đi thẳng đến bệ thờ, lão trùm xứ đạo đứng phía trước chúng tôi cùng quyển Kinh thánh. Ông ta chớp mắt nhìn trang sách. Rồi đọc, lẫn lộn hết cả từ ngữ. Bà Cream thở mạnh, hệt một con ngựa. Tôi đứng cầm nhành cải âm cong vẹo đáng thương, nhìn Maud đứng cạnh bên Gentleman, giữ chặt lấy những nhành cây của mình. Tôi đã hôn cô ấy. Đã nằm trên người cô ấy. Chạm vào cô ấy bằng bàn tay lướt đi thật êm ái. Gọi cô ấy là một viên ngọc trai. Ngoài bà Sucksby, cô ấy đã tử tế với tôi hơn bất cứ ai khác. Đã khiến tôi yêu thương, trong khi chỉ rắp tâm huỷ hoại cô ấy.

Cô ấy sắp kết hôn, và đang sợ đến chết được. Và rồi sẽ sớm chẳng còn ai yêu thương cô ấy nữa, không bao giờ nữa.

Tôi thấy Gentleman nhìn cô ấy. Lão trùm xứ đạo ho vào quyển sách. Ông ta đã đến đoạn nghi lễ hỏi rằng có ai biết bất cứ lý do nào người đàn ông và người phụ nữ trước mặt không nên kết hôn hay không. Ông ta nhướn mắt nhìn qua hàng lông mày. Trong một giây, nhà thờ lặng yên.

Tôi ghìm hơi thở, không nói gì.

Vậy là ông ta tiếp tục, nhìn Maud và Gentleman, hỏi điều tương tự với họ, rằng, vào Ngày phán xét, họ sẽ phải từ bỏ tất cả những bí mật kinh khủng trong tim, nên tốt nhất là hãy từ bỏ chúng ngay bây giờ, đoạn tuyệt với chúng.

Lại một khoảng lặng.

Vậy là ông ta quay sang Gentleman. "Anh có đồng ý," ông ta nói nốt phần còn lại, "Anh có đồng ý ở cạnh, tôn trọng cô ấy cho đến hết đời?"

"Tôi đồng ý," Gentleman nói.

Vị trùm xứ đạo gật đầu. Rồi ông quay mặt sang Maud, hỏi điều tương tự. Cô ấy ngần ngừ, rồi nói.

"Tôi đồng ý."

Gentleman đứng có vẻ nhẹ nhõm hơn một chút. Vị trùm xứ đạo vươn cổ khỏi cổ áo, gãi gãi.

"Ai trao quyền kết hôn cho người phụ nữ này?" Ông ta hỏi.

Tôi vẫn giữ im lặng, cho đến khi Gentleman quay sang, ra hiệu bằng đầu. Tôi bèn bước đến đứng cạnh bên Maud, họ chỉ tôi cách cầm tay cô ấy đưa cho vị trùm xứ đạo, để ông ta đặt vào tay Gentleman. Tôi thà để bà Cream làm điều đó còn hơn. Những ngón tay của cô ấy, khi không có găng, cứng nhắc và lạnh như thể làm bằng sáp. Gentleman cầm chúng, nói những lời được vị trùm xứ đạo đọc cho. Rồi Maud cầm tay anh ta, lặp lại những lời đó. Giọng cô ấy nhẹ tênh, như thể sắp bốc vào bóng đêm như khói, và tan mất.

Gentleman lấy ra một chiếc nhẫn, lại cầm lấy tay cô ấy, tròng chiếc nhẫn vào ngón tay, trong lúc vẫn lặp lại những lời từ vị trùm xứ đạo, rằng anh ta sẽ tôn thờ cô ấy, dành cho cô ấy mọi điều tốt đẹp của mình. Chiếc nhẫn trông thật kỳ quặc trên tay cô ấy. Trông như vàng dưới ánh nến, nhưng – về sau tôi mới thấy – nó rất tệ.

Tất thảy đều tệ, và không thể tệ hơn nữa. Vị trùm xứ đạo đọc một lời cầu nguyện khác, rồi đưa hai tay lên, nhắm mắt lại.

"Những gì Chúa đã phối hợp," ông ta nói, "loài người không được phân ly."

Thế là xong. Họ đã kết hôn.

Gentleman hôn cô ấy. Cô ấy đứng, đung đưa như thể bị choáng. Bà Cream lầm bầm,

"Cô ta không biết cái gì sẽ ập đến, nhìn kia kìa. Rồi cô ta sẽ biết thôi – một chàng ngon lành như anh ta. Hê hê."

Tôi không quay sang bà ta. Nếu có, thì tôi sẽ đấm bà ta mất. Lão trùm xứ đạo đóng quyển Kinh thánh, dẫn chúng tôi khỏi bệ thánh lễ, vào căn phòng lưu trữ sổ sách. Tại đây, Gentleman viết tên mình, Maud – giờ là bà Rivers – viết tên cô ấy. Bà Cream và tôi viết tên bên dưới. Gentleman đã chỉ tôi cách viết chữ Smith, nhưng tôi vẫn viết một cách vụng về, ngượng ngập. Ngượng, vì việc đó! Căn phòng tối, có mùi ẩm ướt. Trong những tia nến, vài thứ chấp chới – có lẽ là chim, hoặc dơi. Tôi thấy Maud nhìn đăm đăm về phía những chiếc bóng, như thể sợ các vật ấy sẽ nhào xuống.

Gentleman cầm cánh tay cô ấy, giữ lấy, rồi dẫn ra khỏi nhà thờ. Phía trước mặt trăng đã có những cụm mây kéo đến, màn đêm càng tối hơn. Lão trùm xóm đạo bắt tay chúng tôi, cúi chào Maud, rồi đi mất. Ông ta đi rất nhanh, trong lúc đi thì cởi áo chùng ra, để lộ bộ quần áo đen bên dưới – hệt như ông ta làm mình tắt phụt đi tựa một chiếc đèn. Bà Cream dẫn chúng tôi đến chòi của bà ta. Bà ta mang đèn, chúng tôi theo sau, va vấp trên lối đi. Cửa vào khá thấp, hất rơi nón của Gentleman. Bà dẫn chúng tôi lên một cái thang xiêu vẹo, quá hẹp cho những váy áo của chúng tôi, đến đầu cầu thang, nó to gần bằng một cái tủ chạn, nơi tất cả chúng tôi huých đẩy nhau một lúc, chiếc khuy măng sét trên áo khoác của Maud vướng lên lỗ thoát khói của đèn, thế là bị cháy.

Ở đó có hai cánh cửa đã đóng, dẫn đến hai phòng ngủ nhỏ của căn nhà. Phòng thứ nhất có một tấm đệm rơm đặt trên ổ rơm trên sàn, dành cho tôi. Phòng thứ hai có chiếc giường to hơn, một ghế bành và tủ đứng, dành cho Gentleman và Maud. Cô ấy vào đó, đứng dõi mắt xuống sàn, chẳng nhìn vào gì cả. Có một chiếc nến được thắp sáng. Các túi được đặt cạnh giường.

Tôi bước lại, lấy các thứ của cô ấy ra, từng thứ một, đặt vào tủ. Bà Cream nói, "Vải lanh đẹp quá!" Bà ta đang nhìn từ ngưỡng cửa. Gentleman đứng cùng bà ta, trông có vẻ lạ lẫm. Chính anh ta đã dạy tôi cách xoay sở với áo lót nhưng lúc này, trông thấy tôi lấy đồ lót và vớ dài của Maud ra, anh ta trông gần như đang sợ, nói,

"Chà, tôi nên hút một điếu cuối cùng ở dưới nhà. Sue, cô lo liệu các thứ trên này được chứ?"

Tôi không trả lời. Anh ta và bà Cream xuống dưới, giày bốt nện to như sấm, cửa, ván, chiếc thang ọp ẹp rung bần bật. Rồi tôi nghe tiếng họ bên ngoài, tiếng đánh diêm.

Tôi nhìn Maud. Cô ấy đang cầm mấy nhánh cải âm. Cô ấy tiến một bước về phía tôi, nói nhanh,

"Nếu chút nữa tôi gọi, cô có đến không?"

Tôi cầm lấy hoa từ cô ấy, rồi đến áo khoác. Tôi nói, "Đừng nghĩ đến việc đó. Tôi sẽ sang trong vòng một phút."

Tay phải cô ấy, vẫn còn đeo găng, nắm lấy cổ tay tôi. Cô ấy nói, "Nghe tôi này, thật đấy. Đừng bận tâm anh ta làm việc gì. Hãy nói rằng nếu tôi gọi, cô sẽ đến. Tôi sẽ trả tiền cho cô về việc đó."

Giọng cô ấy rất lạ. Các ngón tay thì run, nhưng tóm lấy tôi rất chặt. Ý nghĩ rằng cô ấy cho tôi đến một farthing (=1/4 penny) quả là khủng khiếp. Tôi nói,

"Thuốc ngủ của cô đâu nhỉ? Này, có nước đây, cô có thể uống vài giọt, chúng sẽ giúp cô ngủ."

"Ngủ?" Cô ấy nói, bật cười, rồi nín thở trong một chốc. "Cô nghĩ tôi muốn ngủ sao, vào đêm tân hôn của mình?"

Cô ấy đẩy tay tôi ra. Tôi đứng sau lưng cô ấy, bắt đầu cởi phục trang giúp. Khi đã cởi xong váy cùng áo nịt, tôi quay người, lặng lẽ nói,

"Cô nên dùng chậu đi. Nên rửa chân, trước khi anh ta đến."

Tôi nghĩ cô ấy rùng mình. Tôi không nhìn, nhưng nghe tiếng khoả nước. Rồi tôi chải tóc cho cô ấy. Chẳng có cái gương nào để cô ấy đứng soi, và khi đi vào giường, cô ấy nhìn sang cạnh bên, chẳng có bàn, hộp hay bức chân dung, đèn đuốc gì cả – tôi thấy cô ấy đưa tay ra như thể bị mù.

Rồi cửa nhà đóng lại, cô ấy nằm ra sau, tóm lấy chăn, kéo lên cao ngang tầm ngực. Trên chiếc gối trắng, gương mặt cô ấy trông tối, nhưng tôi biết nó rất trắng. Chúng tôi nghe tiếng Gentleman và bà Cream, họ đang nói chuyện trong căn phòng bên dưới. Giọng vọng đến rất rõ. Nơi những khoảng hở giữa các tấm ván, một ánh sáng mập mờ hiện lên.

Tôi nhìn Maud. Cô ấy bắt gặp ánh mắt tôi. Mắt cô ấy đen, nhưng phát những tia nhỏ lấp lánh tựa thuỷ tinh. "Cô cứ nhìn đi mãi thế sao?" Cô ấy thì thầm, khi trông thấy tôi quay đầu đi. Tôi bèn quay lại. Tôi không chịu được, thật kinh khủng vì phải nhìn, dù gương mặt cô ấy thật tệ hại. Gentleman cứ huyên thuyên. Một ngọn gió lọt vào phòng, khiến ngọn lửa đèn cầy chùng xuống. Tôi run rẩy. Nhưng cô ấy vẫn nhìn thẳng vào ánh mắt tôi. Rồi lại nói.

"Đến đây."

Tôi lắc đầu. Cô ấy lặp lại. Tôi lại lắc đầu – nhưng, sau đó bước lại chỗ cô ấy – đi đến thật nhẹ nhàng, qua những tấm ván cọt kẹt. Cô ấy nhấc cánh tay, kéo mặt tôi lại kề sát mặt mình, và hôn. Cô ấy hôn tôi, với đôi môi ngọt ngào, với vị mặn của nước mắt. Tôi không cưỡng lại được việc hôn trả – cảm thấy trái tim mình, lúc này, hệt như khối băng trong lồng ngực bị tan chảy thành nước bởi hơi nóng từ môi cô ấy.

Nhưng rồi cô ấy làm một việc. Vẫn giữ tay nơi đầu tôi, ấn mạnh tôi lại, cô ấy nắm lấy tay tôi, trước nhất đưa lên ngực, rồi đến nơi chiếc chăn trũng xuống, giữa hai chân. Cô ấy dùng bàn tay tôi cọ xát đến khi chúng nóng rực.

Cảm giác ngọt ngào nhanh chóng mà nụ hôn của cô ấy gợi lên trong tôi biến thành thứ gì đó tựa nỗi kinh hoàng, hoặc sợ hãi. Tôi vùng khỏi cô ấy, rụt tay lại. "Cô sẽ không làm vậy sao?" Cô ấy nói khẽ, vươn về phía tôi. "Chẳng phải cô đã từng làm việc đó trước đây, vì đêm hôm nay đấy thôi? Giờ cô không thể để tôi lại với anh ta với những nụ hôn trên môi, sự tiếp xúc, ở đó, để giúp tôi chịu đựng anh ta tốt hơn? – Đừng đi!" Cô ấy lại giữ lấy tôi. "Lúc trước, cô đã đi rồi. Cô nói tôi mơ về cô. Lúc này thì tôi không mơ. Giá mà tôi đang mơ! Có Chúa biết, Chúa biết, tôi ước giá như mình đang mơ, và lại thức dậy ở Briar!"

Những ngón tay của cô ấy trượt khỏi cánh tay tôi, cô ấy ngã ra sau, lún người vào gối. Tôi đứng đó, siết tay rồi lại mở tay, sợ hãi ánh nhìn của cô ấy, những lời nói, cách cô ấy lên giọng, sợ cô ấy sẽ hét lên, hoặc bất tỉnh – sợ rằng, khốn nạn thân tôi! Rằng cô ấy có thể kêu lên, đủ to để Gentleman hoặc bà Cream nghe thấy, rằng tôi đã hôn cô ấy.

"Suỵt! Suỵt!" Tôi nói. "Giờ cô đã kết hôn với anh ta. Cô phải khác. Cô là một người vợ. Cô phải–"

Tôi im bặt. Cô ấy nhấc đầu lên. Bên dưới, ánh đèn đã nhấc lên và di chuyển. Tiếng giày của Gentleman lớn dần trên những bậc thang hẹp. Tôi nghe tiếng anh ta chậm bước lại, ngần ngừ nơi cửa. Có lẽ anh ta đang tự hỏi có nên gõ cửa không, vì ở Briar thì anh ta phải làm thế. Cuối cùng, anh ta chậm chạp đưa ngón cái đẩy then cửa, bước vào.

"Sẵn sàng chứ?" Anh ta hỏi.

Anh ta mang theo vào cái lạnh lẽo của buổi đêm. Tôi không nói thêm tiếng nào với cả hai người. Cũng không nhìn mặt cô ấy. Chỉ đi vào phòng mình, nằm lên giường. Tôi nằm, trong bóng đêm, trong tấm áo choàng và váy đầm, đầu ở giữa gối và tấm đệm. Tất cả những gì tôi nghe thấy, vào mỗi lần chợt tỉnh trong đêm, là tiếng bò trườn, tiếng bò trườn của những sinh vật tí hon dọc qua lớp rơm bên dưới má.

Buổi sáng, Gentleman vào phòng tôi. Anh ta mặc áo sơ mi trần.

"Cô ta muốn cô, sang mặc đồ giúp," anh ta nói.

Bạn đang đọc truyện trên: truyentop.pro