Hai chien song Ap Luc

Trận chiến sông Áp lục - Một phần của chiến tranh Giáp Ngọ năm 1894 -> 95

Hoàn cảnh lịch sử của trận chiến sông Áp lục

Trung Quốc dưới ách thống trị của Triều đình nhà Thanh ( Thanh Đình) khoảng gần 2 thế kỷ, trải qua gần 1 thế kỷ dưới các đời Khang Hy, Ung Chính, Càn Long thì đất nước này khá ổn định, tuy nhiên càng về cuối thì Trung Quốc ngày càng tụt dốc không phanh, một trong những ngyên nhân là do sự hủ bại của Thanh Đình. Đặc biệt là khoảng giữa thế kỷ 19 đổ lại Trung Quốc ngày càng trở nên bại hoại với đối nội là những cuộc khởi nghĩa triền miên của người nông dân như phong trào Thái Bình Thiên Quốc, khởi nghĩa của người Niệm, người Tạng, người Miêu... đối ngoại thì liên tục thất trận và bị xâu xé bởi Liên quân bát cường quốc. Tuy nhiên vào thời điểm này cũng không thể phủ nhận rằng ở Trung Quốc lúc đó không có các điểm sáng, và một trong những điểm sáng đó chính là Hạm đội Bắc Dương, hạm đội này được thành lập trong thời trị vì của Từ Hy Thái Hậu, có lẽ nguyên nhân chính của việc thành lập hạm đội Bắc Dương là do Từ Hy Thái Hậu đã cảm thấy được sự nguy hiểm của một đế quốc trẻ trung và bạo tàn ở sát ngay bên nách mình, đó chính là Đế quốc Nhật Bản - Đế quốc mặt trời mọc. Và một phần nào đó bà ta cũng có tham vọng thông qua hạm đội này để thống trị vùng biển phía Bắc Trung Quốc qua đó mà có thể giải quyết một số mâu thuẫn đối nội.Còn về phía Nhật bản, chỉ sau khoảng 30 năm kể từ cải cách của Thiên Hoàng Minh Trị nước Nhật Bản đã tiến bộ môt cách khủng khiếp và có xu hướng trở thành một nước công nghiệp hiện đại, nhưng buồn thay nước Nhật Bản lại là một hòn đảo cô độc và hiếm tài nguyên thiên nhiên. Chính vì vậy mà Nhật Bản lại có ý nhòm ngó sang bờ biển phía Bắc của Trung Quốc và cụ thể hơn là người Nhật muốn chiếm lấy Triều Tiên - một quốc gia đang nằm trong sự bảo hộ của Trung Quốc. Ý định của người Nhật có lẽ là lấy Triều Tiên làm bàn đạp để qua đó từ từ chiếm Mãn Châu rồi nuốt dần Trung Quốc, và lịch sử đã từng chứng minh rằng người Nhật Bản đã làm như vậy ở thế kỷ 17, chỉ có sự suất sắc đến mức tuyệt vời của Đô đốc hải quân Triều tiên Lý Thuấn Thần mới chặn bước được tham vọng của họ mà thôi. Chính vì vậy mà cuộc đối đầu giữa Trung Quốc ( dưới sự thống trị của Thanh Đình) và Nhật Bản là không thể tránh khỏi, và điểm nhấn của cuộc chiến tranh này ( chiến tranh Giáp Ngọ) chính là cuộc đối đầu giữa hai hạm đội mạnh nhất nhì châu Á, hạm đội Bắc Dương và hạm đội Nhất Bản chính cuộc đối đầu này sẽ quyết định kết quả cuối cùng của cuộc chiến. Hạm đội Bắc Dương tuy đông tầu hơn, súng lớn hơn nhưng do một loạt lý do đã thua te tua đến mức hoàn toàn bị xóa sổ. Ham đội Nhật Bản tuy yếu hơn nhưng người Nhật có lòng quyết tâm cao hơn lại được dẫn dắt bởi vị Đô đốc tài ba Ito Sukeyuki đã đánh một trận ở sông Áp Lục làm bại xương sống hạm đội Bắc Dương, đánh trận nữa ở Uy Hải Vệ xóa sạch hạm đội này và qua đó dành chiến thắng trong cuộc chiến Giáp Ngọ. Không biết thế nào chứ theo em thì bại trận trong cuộc chiến tranh Giáp Ngọ hóa ra lại là một điều may mắn cho người Trung Quốc bởi vì nếu kết quả ngược lại thì có lẽ Thanh Đình vẫn thống trị Trung Quốc cho tới tận ngày nay hé hé

Vài nét về Hạm Đội Bắc Dương

Hạm đội Bắc Dương là một trong bốn hạm đội hiện đại của hải quân Trung Quốc vào cuối thời nhà Thanh. Hạm đội này nhận được sự hậu thuẫn rất lớn từ Lý Hồng Chương, Tổng đốc Trực Lệ. Hạm đội Bắc Dương trở thành một thế lực ở vùng Đông Á trước cuộc Chiến tranh Trung-Nhật lần thứ nhất. Hạm đội Bắc Dương vào cuối những năm 1880 được coi là "mạnh nhất châu Á" và "mạnh thứ 8 trên thế giới".Hạm đội Bắc Dương được thành lập vào năm 1871, khi bốn con tàu từ các tỉnh phía Nam Trung Quốc di chuyển về phía bắc để tuần tra vùng biển phía Bắc. Hạm đội Bắc Dương bước đầu bị coi là yếu nhất trong bốn Hạm đội của Trung Quốc (Thanh Đình) trong khu vực, nhưng sự việc ngày càng thay đổi khi Lý Hồng Chương đã ưu tiên phân bổ phần lớn các quỹ hải quân cho Hạm đội Bắc Dương. Năm 1884, vào đêm trước của Cuộc chiến Trung-Pháp, Hạm đội Bắc Dương đã trở thành hạm đội lớn thứ 2 của Thanh Đình và dần dần thu hẹp khoảng cách với Hạm đội Nam Dương lúc đó đang đóng tại Thượng Hải. Đến năm 1890 nó đã hạm đội lớn nhất trong bốn hạm đội của Trung Quốc.Không giống với các hạm đội khác của Trung Quốc, nòng cốt của Hạm đội Bắc Dương bao gồm chủ yếu là các thiết giáp hạm được đóng ở nước Đức và Anh đặc biệt là các kỳ hạm Định Viễn và Trấn Viễn được mua từ nước Đức. Những thế mạnh của Hạm đội Bắc Dương đã trở thành một điều hiển nhiên, bởi vì người Đức là sức mạnh đang nổi lên trở thành đối thủ của người Anh (hiện đang thống trị đại dương) trong xây dựng lực lượng hải quân mới.Vào lúc này Hạm đội Bắc Dương đang ở đỉnh cao của nó với gồm 78 chiếc tàu, với tổng trọng tải lên tới 83.900 tấn. Tuy nhiên, việc đóng thêm các tàu mới gần như hoàn toàn bị đình đốn vào năm 1888 do nhà Thanh chi tiêu quá nhiều vào các khoản mục khác và người ta còn nói rằng quỹ chi dùng cho hải quân đã được sử dụng để sửa chữa và xây dựng cung điện Di hòa viên sau khi bà ta không còn quan tâm đến việc xây dựng hải quân nữa. Do thiếu kinh phí, việc duy trì đội tàu và đào tạo nhân sự cơ bản cơ bản trở nên bế tắc, và điều này cuối cùng đã góp phần vào thất bại của Hạm đội Bắc Dương trong Trận chiến sông Áp Lục với Hải Quân Nhật Bản.Trong cuộc chiến tranh Trung - Pháp Hạm đội Bắc Dương đã được cất giấu kỹ lưỡng của ở ngoài tầm với của Hạm đội Viễn đông của Đô đốc Amédée Courbet (Tháng 8 năm 1884-tháng 4 năm 1885). Tuy nhiên, việc này cũng làm nổi bật nổi bật thủ đoạn của chính phủ Pháp vào giữa các năm 1883 và 1885. Hạm đội Bắc Dương vốn phải nhận bàn giao các thiết giáp hạm Định viễn, Trấn viễn và Tề viễn vào đầu năm 1884, đây là ba tàu chiến hiện đại được đóng tại nhà máy đóng tàu ở Đức. Trong tháng 12 năm 1883, khi cuộc chiến với Trung Quốc dường như ngày càng có khả năng trở thành hiện thực, người Pháp đã thuyết phục chính phủ Đức để làm chậm trễ việc bàn giao ba tàu này. Chúng (ba chiếc Định viễn, Trấn viễn và Tề viễn) đã không thể đến được Trung Quốc cho đến tận mùa thu năm 1885 khi mà Chiến tranh Trung-Pháp đã kết thúc.Vào cuối tháng 6 năm 1884, sau khi những có những tin tức về trận tập kích Bắc Lê, đô đốc Pháp Sébastien Lespès, chỉ huy Hạm đội Viễn Đông, đã lượn lờ ở ngoài khơi Che-foo thuộc Vịnh Petchili với các tàu chiến Pháp La Galissonnière, Triomphante, Volta và Lutin trong khi Hạm đội Bắc Dương đang nằm ở neo tại bến cảng Che-foo. Mặc dù chiến tranh đã rõ ràng sắp xảy ra, Pháp và Trung Quốc về vẻ bề ngoài vẫn duy trì hòa bình, và Lespès bị cấm không được tấn công Hạm đội Bắc Dương, mà Hạm đội này đang nằm chờ kết quả của những nỗ lực ngoại giao để giải quyết cuộc khủng hoảng này. Vào ngày 03 Tháng 7 năm 1884 chỉ huy của Hạm đội Bắc Dương, Đô đốc Đinh Nhữ Xương. rút tàu của mình từ Che-foo về Pei-ho, nơi có một bến cảng được phòng thủ tốt để bảo vệ chúng khỏi bị tấn công từ các tàu của Pháp. Hạm đội Bắc Dương vẫn ở Pei-ho và trở nên gần như hoàn toàn vô dụng trong suốt cuộc chiến tranh Trung-Pháp.Trong tháng 2 năm 1885 Hạm đội Bắc Dương miễn cưỡng phái hai con tàu của nó, chiếc Chaoyong và chiếc Yangwei, để tham gia cùng với một số tàu của Hạm đội Nam Dương để thành lập một lực lượng xung kích nhằm phá bỏ sự phong tỏa của người Pháp ở Đài Loan. Hai chiếc tàu này căng buồm đến Thượng Hải để gia nhập với các tàu chiến thuộc Hạm đội Nam Dương, nhưng gần như ngay lập tức chúng bị gọi quay về bởi Lý Hồng Chương, người cho rằng cần thiết phải có chúng để canh chừng những hành động của Nhật Bản tại Hàn Quốc. Kết quả là Hạm đội Nam Dương đã mất hai tầu chiến tại trận phá vây này - Trận Shipu (Ngày 14 tháng hai năm 1885). Thái độ ích kỷ của Lý Hồng Chương đã không bị quên lãng và cũng không bao giờ được tha thứ, và trong Chiến tranh Trung-Nhật lần thứ nhất Hạm đội Nam Dương đã có rất ít các cố gắng để cứu viện cho Hạm đội Bắc Dương.

Cấu thành của hạm đội Bắc Dương năm 1894

Năm 1894, vào đêm trước của cuộc chiến tranh với Nhật Bản, Hạm đội Bắc Dương là hạm đội mạnh nhất ở châu Á. Nó chỉ là một trong bốn hạm đội của Trung Quốc nhưng chỉ mình số lượng tầu của nó đã ngang bằng với toàn bộ số tầu của hạm đội Nhật Bản. Niềm tự hào của Hạm đội Bắc Dương là các thiết giáp hạm Định viễn và Trấn viễn do người Đức đóng.Giữa các năm 1881 và 1889 Hạm đội Bắc Dương mua một lèo tám tầu tuần dương hạm thiết giáp, phần lớn trong số chúng được đóng ở nước Anh hoặc nước Đức. Hai tuần dương hạm Chaoyong và Yangwei gia nhập hạm đội vào năm 1881 và đã được thận trọng giữ để không tham gia vào chiến sự trong Chiến tranh Trung-Pháp bởi Lý Hồng Chương, là sản phẩm của xưởng đóng tầu Laird, Birkenhead. Ba con tầu tuần dương do người Đức đóng là các chiếc, Jiyuan, Jingyuan và Laiyuan hoàn thành vào năm 1887 tại xưởng đóng tầu Vulcan - Stettin. Một cặp tuần dương hạm hộ vệ, chiếc Chingyuan và chiếc Zhiyuan được đóng bởi nhà thầu Armstrong năm 1887 tại xướng đóng tầu mới có tên là Elswickcủa nó. Cặp thứ hai là một lớp tầu được biết đến như là lớp "Elswick Cruisers", tàu được đóng để xuất khẩu theo một thiết kế thông thường. Những tàu tuần dương có tốc độ cao (25 hải lý/h) và vũ khí mạnh, nhưng không được chấp nhận bởi Hải quân Hải quân Hoàng gia Anh Quốc bởi chúng bị coi là "yếu về cấu trúc". Xem ra điều này đã được chứng minh là đúng đắn khi cả hai cặp tầu của Trung Quốc đã bị đắm trong cuộc chiến Trung-Nhật, và điều tương tự như vậy xảy ra với cặp tầu Nhật Bản (Yoshino và Takasago) trong cuộc chiến Nga-Nhật 1904. Đội tàu được đóng ở nước ngoài còn được gia nhập bởi chiếc thiết giáp hạm Pingyuan vào năm 1889, đây là một sản phẩm của xưởng đóng tầu Foochow và ban đầu nó được đặt tên là Yard Longwei.Hạm đội Bắc Dương cũng còn có sáu pháo hạm không có bọc thép do người Anh đóng, được giao hàng vào năm 1879. Các pháo hạm này có các chi tiết kỹ thuật giống hệt nhau, và chúng được đặt tên tương ứng là Zhenbei ( Guard phía bắc), Zhendong (Guard phía đông), Zhennan ( Guard phía Nam), Zhenxi ( Guard phía tây), Zhenbian ( Guard biên giới) và Zhenzhong ( Guard nội địa). Bốn con tàu đầu tiên trong lớp này ban đầu được giao cho Hạm đội Nam Dương, nhưng Lý Hồng Chương rất ấn tượng với chất lượng của chúng và ông ta đã đưa chúng lên cho Hạm đội Bắc Dương, sau đó đền bù cho Hạm đội Nam Dương bằng bốn pháo hạm cũ kỹ đã phục vụ trong Hạm đội Bắc Dương kể từ năm 1876.Hạm đội Bắc Dương cũng sở hữu một thê đội tàu nhỏ phóng ngư lôi. Người ta không có con số chính xác một cách chắc chắn, bởi vì đội tầu này không được liệt kê một cách có hệ thống, nhưng có một số chi tiết được biết đến như, Bốn tàu phóng ngư lôi 16 tấn được đóng vào năm 1883 tại xưởng đóng tầu Vulcan, Stettin cùng lúc với các thiết giáp hạm Định viễn và Trấn viễn. Bốn con tàu phóng ngư lôi này được đặt tên tương ứng là Định viễn số 1 và số 2 và Trấn viễn số 1 và số 2, chúng đã bị trì hoãn giao hàng và phải nằm lại bến cảng của Đức trong Chiến tranh Trung-Pháp cùng với các con tàu mẹ, và chỉ được gia nhập vào Hạm đội Bắc Dương vào tháng 10 năm 1885.

Thiết giáp hạm

Tên Loại Đóng tại Thông số kỹ thuật

Định viễn Thiết giáp hạm 1882, Vulcan, Stettin 7.430 tấn, 14,5 hải lý, bốn pháo Krupp 12-in và hai pháo Krupp 6-in

Trấn viễn Thiết giáp hạm 1882, Vulcan, Stettin 7.430 tấn, 14,5 hải lý, bốn pháo Krupp 12-in và hai pháo Krupp 6-in

Tuần dương hạm

Tên Loại Đóng tại Thông số kỹ thuật

Chaoyong

tuần dương hạm bọc thép 1881, Laird, Birkenhead 1.350 tấn, 15 knots, hai pháo 10-in, bốn pháo bắn nhanh 12-cm, hai súng 1 in, 3 ống phóng ngư lôi cố định

Yangwei

tuần dương hạm bọc thép 1881, Laird, Birkenhead 1.350 tấn, 15 knots, hai pháo 10-in, bốn pháo bắn nhanh 12-cm, hai súng 1-in, 3 ống phóng ngư lôi cố định

Jiyuan

tuần dương hạm bọc thép 1884, Vulcan, Stettin 2.440 tấn, 15 knots, hai pháo 8-in, một pháo 6-in, 4 pháo 3-in, 6 súng 2-in, 4 ống phóng ngư lôi 15-in

Jingyuan

tuần dương hạm bọc thép 1887, Vulcan, Stettin 2.440 tấn, 15 knots, hai pháo 8-in, một pháo 6-in, 4 pháo 3-in, 6 súng 2-in, 4 ống phóng ngư lôi 15-in

Laiyuan

tuần dương hạm bọc thép 1887, Vulcan, Stettin 2.440 tấn, 15 knots, hai pháo 8-in, một pháo 6-in, 4 pháo 3-in, 6 súng 2-in, 4 ống phóng ngư lôi 15-in

Zhiyuan

tuần dương hạm bọc thép 1887, Armstrong, Elswick 2.355 tấn, 18 knots, ba pháo 8,2-in, hai pháo 5,9-in, 8 súng 2,2-in, 4 ống phóng ngư lôi 18-in

Jingyuan

tuần dương hạm bọc thép 1887, Armstrong, Elswick 2.355 tấn, 18 knots, ba pháo 8,2-in, hai pháo 5,9-in, 8 súng 2,2-in, 4 ống phóng ngư lôi 18-in

Pingyuan

tuần dương hạm bọc thép 1889, Foochow Yard 2.355 tấn, 18 knots, ba pháo 8,2-in, hai pháo 5,9-in, 8 súng 2,2-in, 4 ống phóng ngư lôi 18-in

pháo hạm

Tên Loại Đóng tại Thông số kỹ thuật

Zhenbei pháo hạm 1879, Laird, Birkenhead 440 tấn, 10 knots, một pháo Armtrong 35-tấn, hai súng 22-lb

Zhenbian pháo hạm 1879, Laird, Birkenhead 440 tấn, 10 knots, một pháo Armtrong 35-tấn, hai súng 22-lb

Zhendong pháo hạm 1879, Laird, Birkenhead 440 tấn, 10 knots, một pháo Armtrong 35-tấn, hai súng 22-lb

Zhennan pháo hạm 1879, Laird, Birkenhead 440 tấn, 10 knots, một pháo Armtrong 35-tấn, hai súng 22-lb

Zhenxi pháo hạm 1879, Laird, Birkenhead 440 tấn, 10 knots, một pháo Armtrong 35-tấn, hai súng 22-lb

Zhenzhong pháo hạm 1879, Laird, Birkenhead 440 tấn, 10 knots, một pháo Armtrong 35-tấn, hai súng 22-lb

Tầu phóng ngư lôi

Tên Loại Đóng tại Thông số kỹ thuật

Định viễn 1 Tầu phóng ngư lôi 1883, Vulcan, Stettin 15,7 tấn, hai ống phóng ngư lôi 14-in

Định viễn 2 Tầu phóng ngư lôi 1883, Vulcan, Stettin 15,7 tấn, hai ống phóng ngư lôi 14-in

Trấn viễn 1 Tầu phóng ngư lôi 1883, Vulcan, Stettin 15,7 tấn, hai ống phóng ngư lôi 14-in

Trấn viễn 2 Tầu phóng ngư lôi 1883, Vulcan, Stettin 15,7 tấn, hai ống phóng ngư lôi 14-in

Thông tin thêm về con tầu thiết giáp hạm chủ lực của hạm đội Bắc dương

Ảnh chụp chiếc thiết giáp hạm Định viễn - Kỳ hạm của Hạm đội Bắc Dương

Tên: Định viễn

Đặt hàng: 1881

Đóng bởi: Stettiner AG Vulcan, Stettin, Đức

Đặt lườn: 31 Tháng Ba 1881

Hạ thủy: Ngày 28 tháng 12 năm 1881

Hoàn thành: 1884

Hoạt động: Ngày 29 tháng 10 năm 1885

Số phận: Bị đánh đắm ngày 10 Tháng Hai 1895

Đặc điểm chung

Trọng tải: 7.144 longton(7.259t) Chuẩn

7.355 longton (7.473 t) đầy tải

Chiều dài: 94,5 m (310 ft 0 in)

Chiều ngang: 18,4 m (60 ft 4 in)

Mớn nước: 5,94 m (19 ft 6 in)

Lực đẩy: 2-trục ba động cơ pit tông hơi nước, 7.500 shp

2 nồi hơi

1.000 tấn than đá

Tốc độ: 15,4 knot (17,7mph; 28,5km / h)

Tầm hoạt động: 4.500hải lý (8.300km) ở tốc độ 10 kn (12 mph, 19 km / h)

Thủy thủ đoàn: 363

Vũ khí: • 4 pháo 305 mm (12 in)

• 2 pháo 150 mm (6 in)

• 2 pháo 57 mm

• 2 pháo 47 mm

• 8 pháo 37 mm

• 3 ống phóng ngư lôi 356 mm (14 in)

Bọc thép: • Belt: 355 mm (14 in)

• Ổ pháo: 305 mm (12 in)

Thiết kế

Chiếc Định viễn là một chiếc tầu được thiết kế theo kiểu tầu bọc thép có tháp pháo. Nó được công nhận là một trong những chiếc tầu chiến tiên tiến nhất của thời gian đó, nó có chất lượng ngang bằng hoặc thậm chí còn tốt hơn so với bất kỳ con tàu nào trong các hạm đội của Anh và Đức khi nó được đóng. Nó có chiều dài 94,5 mét (298ft, 5in), rộng 18,4 mét (60ft, 4in) và độ mớm nước 5,94 mét (19 ft, 6 in). Nó được bảo vệ bởi một lớp giáp dày 30-centimetre (1ft). Các chuyên gia nói rằng con tàu có thể chịu đựng được mọi loại hỏa lực hiện có tại thời điểm đó.

Chiếc Định viễn có tải trọng tối đa 7.670 tấn, động cơ 6.000 hp (4.500 kW) và tốc độ 14,5 hải lý (27 km) / giờ, và tầm hoạt động khoảng 4.500 hải lý (8.330 km) với tốc độ 10 hải lý (19 km / h).

Vũ khí

Vũ khí chính của con tầu là bốn khẩu pháo 305 mm calibre của hãng Krupp được bố trí thành hai khẩu đội và mạn phải phía trước của amidships. Các khẩu súng có tầm bắn lên tới 7,8 km, với vận tốc của viên đạn là 500 mét/ giây. Một cặp hai pháo Krupp 150 mm calibre đã được đặt trong các ụ súng ở mũi tầu, các khẩu pháo này có tầm bắn lên tới 11.000 mét. Ngoài ra còn có 6 khẩu 37 mm súng và ba ống phóng ngư lôi nằm trên mực nước. Thủy thủ đoàn đầy đủ bao gồm khoảng 363 sỹ quan và thủy thủ.Hai tàu phóng lôi cũng được chở trên tàu, ở phần cơi ra của con tầu để làm tăng sức chiến đấu của nó. Để đáp ứng nhu cầu trên tàu, 20 bộ khử muối có thể cung cấp nước ngọt hàng ngày cho trên 300 người.

Lịch sử

Sau khi đàm phán với cả hai chính phủ Anh và tiếng Đức, năm 1881 Thanh đình đã chọn nhà máy đóng tàu Stettiner Maschinenbau AG Vulcan của Đức để đóng con tầu tiên tiến này với chi phí là 1,7 triệu tael bạc (6.200.000 mark bằng vàng của Đức). Thân tàu được đặt vào ngày 31 tháng 3 năm 1881 và nó được hạ thủy vào ngày 8 tháng 12 năm 1881 và bắt đầu được thử nghiệm trên biển vào ngày 2 tháng 5 năm 1883.Việc giao chiếc tầu Định viễn đáng lẽ là vào năm 1884 và do một thủy thủ đoàn người Đức, nhưng nó bị trì hoãn do một yêu cầu từ phía người Pháp vì họ đang có một cuộc xung đột với Trung Quốc mà đỉnh điểm là Chiến tranh Trung-Pháp (1884-1885). Con tầu Định viễn là một tàu chiến rất mạnh và vượt trội bất cứ tàu chiến nào của Phá, nên nó đã có thể tạo ra lợi thế cho Hạm đội Trung Quốc đặc biệt là trong Trận Foochow nếu nó được tham gia.Vào năm 1885 cuối cùng thì chiếc Định viễn cũng căng buồm đến Trung Quốc. Cũng trong năm 1885 Hạm đội Bắc Dương chính thức được thành lập tại Uy Hải Vệ và thiết lập căn cứ tại Đảo Liugongdao, việc này đánh dấu sự thành lập hạm đội hiện đại đầu tiên của nhà Thanh.Vào giữa thập niên 1890, Nhà Thanh cảm thấy mệt mỏi và mất đi tham vọng dẫn đầu trong cuộc chạy đua vũ trang của hải quân, ngược lại họ đã hải quân Nhật Bản dần dần vượt lên. Vì vấn nạn tham nhũng trong nội bộ Thanh Đình cùng với thiếu kinh phí và kiệt sức nên trong Chiến tranh Trung-Nhật Hải quân Đế quốc Nhật Bản đã có thể chiếm ưu thế trước Hải quân Bắc Dương. Chiếc Định viễn phục vụ như là chiếc kỳ hạm của Đô đốc Đinh Nhữ Xương trong Trận chiến sông Áp Lục ngày 17 tháng 9 1894. Trong trận chiến này, do một lỗi kỹ thuật khi đóng tàu, đô đốc Đinh Nhữ Xương và nhiều sỹ quan của ông đã bị thương vong do phát bắn đầu tiên của họ khi họ đang đứng trên đài chỉ huy. Sau đó Hạm đội Bắc Dương đã quay trở về căn cứ ở đảo Liugongdao. Đầu năm 1895, người Nhật bao vây Hạm đội Bắc Dương cả trên đất liền và từ mặt biển. Ngày 5 tháng 2 năm 1895, chiếc Định viễn đã bị hư hỏng nghiêm trọng sau khi bị trúng một quả ngư lôi Nhật Bản và sau đó là trúng tiếp đạn hỏa pháo. Thuyền trưởng Liu Buchan của tầu Định viễn đã ra lệnh cho đánh đắm con tầu này.

Thiết giáp hạm thứ hai của Trung Quốc - chiếc Trấn viễn

Sự nghiệp ở Hải quân Bắc Dương

Tên: Trấn viễn

Đặt hàng: 1882

Nhà đóng tầu: Stettiner Vulcan AG, Stettin, Đức

Đặt lườn: 1 Tháng Ba năm 1882

Hạ thủy: Ngày 28 tháng 11 năm 1882

Hoàn thành: 1884

Hoạt động: Ngày 01 tháng 3 năm 1885

Số phận: Bị bắt giữ bởi HQ Nhật Bản năm 1895

Sự nghiệp ở Hải quân Nhật Bản

Tên: Chin-en

Vào biên chế: 1895

Số phận: Bị tháo dỡ vào năm 1914

Đặc điểm chung

Tải trọng: 7.220 longton (7.336t) tiêu chuẩn

7.670 longton (7.793 t) đầy tải

Chiều dài: 98,89 m (324 ft 5 in)

Chiều rộng 17,98 m (59 ft 0 in)

Tầm nước: 6,1 m (20 ft 0 in)

Lực đẩy: 2-trục pittông ba động cơ hơi nước, 7.500 shp

2 nồi hơi

1.000 tấn than đá

Tốc độ: 15,4 knot (17,7mph; 28,5km / h)

Tầm hoạt động: 4.500hải lý (8.300km) ở tốc độ 10 kn (12 mph, 19 km / h)

Thủy thủ đoàn: 363

Vũ khí:

• 4 súng Krupp 305 mm (12 in) / 25 có khóa nạp đạn (2 × 2)

• 2 súng Krupp 150 mm (6 in) / 35 có khóa nạp đạn (2 × 1)

• 6 súng 37 mm (1 in)

• 3 ống phóng ngư lôi

Thiết giáp: • Belt: 355 mm (14 in)

• Ổ pháo: 305 mm (12 in)

Chiếc Trấn viễn là một tầu chiến bọc thép có tháp pháo được người Đức đóng cho Hạm đội Bắc Dương tại thế kỷ 19, con tàu chị em của nó là chiếc Định Viễn. Chiếc Trấn viễn được đóng với lớp giáp dày tới với 14-inch (360 mm) và súng Krupp hiện đại, đây là chiếc tầu chiến hiện đại hơn bất kỳ chiếc tầu chiến nào được đóng cho Hải quân Đế quốc Nhật Bản tại thời đó.

Chiếc Trấn viễn có tải trọng lên tới 7.670 tấn và có tốc độ 15,4 knots (29 km / h), ở tốc độ trung bình 10 knots (19 km / h) nó có tầm hoạt động lên tới 4.500 hải lý (8.300 km). Trang bị vũ khí của nó bao gồm 4 pháo Krupp có cỡ nòng 12 inch (305 mm) có khóa nạp đạn và hai khẩu pháo nhỏ hơn 5,9 inch (150 mm) trong hai khẩu đội pháo ở phía đầu và phía đuôi của con tầu. Ngoài ra con tầu còn được bổ sung 6 súng 37 mm và ba ống phóng ngư lôi ở trên mực nước. Tổng số thủy thủ đoàn là 363 sĩ quan và thủy thủ.Chiếc Trấn viễn được đóng bởi xưởng đóng tầu Stettiner Vulcan AG, thuộc Stettin nước Đức (Nay là thành phố Szczecin, Ba Lan). thân tàu được đặt lườn vào tháng 3 năm 1882, nó được hạ thủy vào ngày 28 tháng 11 năm 1882 và bắt đầu thử nghiệm trên biển vào tháng 3 năm 1884.

Quá trình phục vụ chiến đấu

Chiếc Trấn viễn đã tham gia chiến đấu ở trận chiến sông Áp Lục, trận đánh này diễn ra vào ngày 17 tháng 9 năm 1894, giữa Hải quân Nhật Bản và Trung Quốc trong Chiến tranh Trung-Nhật. Hải Quân Nhật Bản đã bắt giữ chiếc Trấn viễn sau khi kết thúc trận Uy Hải Vệ vào ngày 17 tháng 2 năm 1895. Vào năm 1896 /7 nó được cải tiến và tham gia chiến đấu trong suốt cuộc Chiến tranh Nga-Nhật 1905 /07 như là một tàu tiền tuyến hạng 2 dưới cái tên Chin-en, đây là tên ban đầu của con tầu (tiếng Trung Quốc) được chuyển sang tiếng Nhật bản, chiếc tầu Trấn viễn bị tháo dỡ vào năm 1914.

Vài nét về Hải Quân Đế Quốc Nhật Bản

Nước Nhật Bản thời kỳ này vừa tiến hành công cuộc cải cách Duy Tân dưới sự lãnh đạo của Thiên hoàng Minh Trị, người Nhật Bản cực kỳ ưu tiên chú trọng đến việc xây dựng hải quân, và họ muốn tạo ra được lực lượng lục quân và hải quân theo kiểu tiên tiến, hiện đại và hiệu quả. Nhật Bản đã gửi nhiều sỹ quan quân đội ra nước ngoài để đào tạo, và người Nhật Bản rất chịu khó đánh giá các điểm mạnh, điểm yếu tương đối và các chiến thuật của lục quân và hải quân của các cường quốc châu Âu.Hải quân Đế quốc Nhật Bản được mô phỏng theo mô hình Hải

quân Hoàng gia Anh, mà Hải quân Anh quốc là lực lượng hải quân mạnh nhất thế giới lúc bấy giờ ( Người Nhật thường tự gọi nước Nhật Bản là Đất nước mặt trời mọc - còn người Anh thường tự cho là Mặt trời không bao giờ lặn trên đất Anh, trong WWII Hải quân của đất nước Mặt trời mọc đã quật chết toi lực lượng hải quân ở châu Á của Đất nước Mặt trời không bao giờ lặn). Cố vấn Anh đã được gửi đến Nhật Bản để đào tạo, tư vấn cho các cơ sở giáo dục về hải quân; trong khi đó học sinh học nghề hàng hải lũ lượt được gửi đến Vương quốc Anh để nghiên cứu và quan sát các hoạt động của Hải quân Hoàng gia. Thông qua sự luyện tập và các khóa học được giáo viên của Hải quân Hoàng gia Anh quốc hướng dẫn, người Nhật Bản đã dần dần có một lực lượng hải quân chuyên nghiệp có tay nghề cao về thật bắn và điều khiển tầu biển.Ở giai đoạn bắt đầu thù địch, Hải quân Đế quốc Nhật Bản có một hạm đội gồm 12 tàu chiến hiện đại, ( chiếc Izumi được bổ xung vào trong thời gian chiến tranh), một tàu khu trục nhỏ (chiếc Takao), 22 tàu phóng ngư lôi, và rất nhiều tầu thương mại được trang bị vũ khí và chuyển đổi cho mục đích chiến đấu.Nhật Bản vẫn chưa có đủ các nguồn lực để đóng hoặc mua được các thiết giáp hạm có trọng tải lớn và do đó họ lên kế hoạch để sử dụng "Jeune Ecole" làm học thuyết ưa thích, đó là dùng tàu chiến nhỏ và nhanh, đặc biệt là các tàu tuần dương và tàu phóng lôi, để chống lại các loại tầu lớn hơn và tất nhiên là cũng kém nhanh nhẹn hơn.Nhiều tàu chiến lớn của Nhật Bản đã được chế tạo tại xưởng đóng tàu Anh và Pháp (tám chiếc do người Anh đóng, ba chiếc do người Pháp đóng và hai chiếc do người Nhật Bản tự đóng) và 16 tàu phóng ngư lôi như đã được biết là được đóng ở Pháp và lắp ráp tại Nhật Bản.

Vài nét về các tầu chiến Nhật Bản đã tham dự trận chiến sông Áp Lục

Chiếc kỳ hạm - tuần dương hạm Nhật Bản Matsushima

Tên: Matsushima

Đặt hàng: Năm 1886

Đóng tại: Société Nouvelle des Forges Chantiers et de la Méditerranée, La Seyne-sur-Mer, Pháp

Đặt lườn: Ngày 17 tháng 2 năm 1888

Hạ thủy: Ngày 22 tháng 1 năm 1890

Hoàn thành: 05 Tháng 4 năm 1892

Số phận: Chìm sau một vụ nổ ngẫu nhiên vào ngày 30 tháng 4 năm 1908

Đặc điểm chung

Thứ hạng: Tầu tuần dương lớp Matsushima

Tải trọng: 4.217 longton (4.285t)

Chiều dài: 91,81 m (301 ft 3 in) w / l

Chiều rộng: 15,6 m (51 ft 2 in)

Độ mớm nước: 6,05 m (19 ft 10 in)

Lực đẩy: 2- trục pittông; 6 nồi hơi; 5.400 hp (4.000 kW), 680 tấn than đá

Tốc độ: 16,5 knot (19,0mph; 30,6km / h)

Thủy thủ đoàn: 360

Vũ khí:

• 1 súng Canet 320 mm (13 in)

• 12 súng 120 mm (4,7 in)

• 6 súng 47 mm

• 2 súng 37 mm

• 9 súng 1 pounder

• 4 ống phóng ngư lôi 360 mm (14 in)

Thiết giáp: Boong: 50 mm (2 in)

Tháp pháo: 300 mm (12 in)

Lá chắn súng: 100 mm (4 in)

Matsushima là chiếc tàu thứ hai trong lớp Matsushima-class của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, đây là lớp tuần dương hạm được tăng cường lớp bảo vệ. Cũng giống như các bà chị của nó (các tầu Itsukushima và Hashidate) tên của nó được lấy từ một trong ba danh thắng nổi tiếng nhất ở Nhật Bản, trong trường hợp này, là quần đảo Matsushima gần Sendai trong tỉnh Miyagi.Là xương sống của Hải quân Đế quốc Nhật Bản trong thời gian cuộc Chiến tranh Trung-Nhật, Những chiếc tuần dương hạm lớp Matsushima được dựa trên các nguyên tắc của Jeune Ecole được truyền đạt bởi cố vấn quân sự kiêm kiến trúc sư hải quân người Pháp Emile Bertin.Các con tầu lớp Matsushima được đóng bởi Société Nouvelle des Forges Chantiers et de la Méditerranée tại xưởng đóng tàu hải quân Pháp.Chính phủ Nhật Bản không có đủ các nguồn lực hay ngân sách để đóng một thiết giáp hạm lớn để đối đầu với các thiết giáp hạm hạng nặng của Hải quân Bắc dương. Thay vào đó, người Nhật Bản đã chấp nhận các lý thuyết tiên tiến trong việc sử dụng các tầu chiến nhỏ hơn, nhanh hơn, với lớp thiết giáp mỏng hơn và nhiều súng có cỡ nòng nhỏ hơn nhưng có tầm bắn xa hơn, cùng với chỉ một khẩu súng Cannet đơn lớn tới 320 mm (12,6 in) Canet súng. Chiếc Matsushima có điếm khác với hai chiếc tàu chị em của nó là khẩu súng 320 mm được gắn phía sau boong chính của con tầu, chứ không phải là phần phía trước của con tầu. Thiết kế này cuối cùng đã được chứng minh là mang tính chất phi thực tế, vì sức giật của một khẩu súng lớn là rất lớn đối với một con tầu nhỏ như vậy và thời gian nạp đạn của khẩu súng này lại dài đến mức phi thực tiễn, tuy nhiên các tuần dương hạm lớp Matsushim đã hoàn thành suất sắc nhiệm vụ của chúng so với Hạm đội Trung Quốc vốn được trang bị nghèo nàn và chỉ huy quá kém cỏi.

Quá trình phục vụ chiến đấu

Chiếc Matsushima đến Sasebo vào ngày 19 tháng 10, 1892 đây là một phần của cuộc hành trình thử nghiệm cuối cùng của nó, từ tháng 6 -> 11 năm 1893, các chiếc Matsushima, Takachiho và Chiyoda đã thực hiện một chuyến hành trình dài 160 ngày, vượt qua 7000 hải lý ngoài khơi bờ biển Trung quốc, Hàn Quốc và Nga.Sau khi bắt đầu Chiến tranh Trung-Nhật lần thứ nhất, chiếc Matsushima là kỳ hạm của Đô đốc Itō Sukeyuki. Nó đóng vai trò trung tâm trong Trận chiến sông Áp Lục, nơi một vụ đấu súng đã giết chết 90 thủy thủ đoàn của nó chiếm tới hơn một nửa số thương vong của người Nhật trong trận đánh. Trong trận chiến, chiếc Matsushima bắn ra chỉ có 4 phát đạn từ khẩu 320 mm của nó, chiếc Itsukushima bắn 5 phát đạn, và Hashidate bắn 5 phát. Dường như là trong các phát đạn này dường như chỉ có một phát trúng trực tiếp vào một con tàu nào đó trong hạm đội Trung Quốc. Chiếc Matsushima được nhìn thấy trong chiến dịch quân sự tiếp theo khi Hạm đội Nhật bản phát động cuộc tấn công vào Uy Hải Vệ.Chiếc Matsushima là một trong những con tầu của hạm đội Nhật Bản đã tham gia vào Cuộc xâm lược Đài Loan năm 1895, và cũng tham gia chiến đấu vào ngày 3 tháng 6 năm 1895 ở trận pháo kích vào pháo đài ven biển của Trung Quốc tại Keelung (Cửu long?).Sau khi kết thúc chiến tranh, chiếc Matsushima được tái cơ cấu như là một tầu tuần dương hạng 2 vào ngày 21 Tháng 3 năm 1898. Hoàng tử Arisugawa Takehito (1862-1913) sau đó được bổ nhiệm làm thuyền trưởng, tiếp theo sau ông ta là Uryū Sotokichi.Từ ngày mùng 3 tháng 5 tới 15 tháng 9 năm 1898, chiếc Matsushima được giao nhiệm vụ tuần tra các tuyến đường biển giữa Đài Loan và Manila. Trong thời kỳ này đã xảy ra những căng thẳng cao độ giữa Nhật Bản và Hoa Kỳ trong khi cuộc chiến Tây Ban Nha-Hoa Kỳ đang diễn ra.

Một số hình ảnh về các tầu chiến của Hải quân Nhật Bản tham gia trận sông Áp lục (tiếp theo)

Tên gọi: Fusō

Đặt hàng: 1875

Nhà sản xuất: Samuda Brothers, Cubitt Town, London

Đặt thân lườn: 24/09/1875

Hạ thủy: 1877/04/17

Hoạt động: Tháng 1 năm 1878

Ngừng hoạt động: 01/04/1908

Kết cục: bị tháo dỡ năm 1910

Đặc điểm riêng

Loại tầu: tàu chiến bọc thép lớp Fusō

Trọng tải: 3.717 tấn

Chiều dài: 67,06 m (220,01 ft)

Chiều rộng: 14,63 m (48,00 ft)

Tầm nước: 5,49 m (18,01 ft)

Động cơ: 2-trục pittông máy chạy bằng hơi; 8 nồi hơi,

3.500 shp (2.610 kW)

Tốc độ: 13 knots (24 km / h)

360 tấn than

Phạm vi:

4.500 hải lý (8.000 km) tại tốc độ 10 knots (19 km / h)

Thủy thủ đoàn: 377

Vũ khí trang bị:

4 súng cỡ nòng 240 mm/20

4 súng cỡ nòng 170 mm/25

4 súng 7,5 mm

2 súng máy Nordenfelt

2 ống ngư lôi 35,6 mm

Thiết giáp:

Xung quanh 100-230 mm

Ổ pháo 200 mm

Vách ngăn 175 mm

Phục vụ ở Hải Quân Chile

Tên: Esmeralda

Nhà sản xuất: W. G. Armstrong & Company, United Kingdom

Đặt thân lườn: 5 tháng 4 1881

Hạ thủy: 6 tháng 6 1883

Hoàn thành: 15 Tháng 7 năm 1884

Hoạt động: 16 tháng 10, 1884

Kết cục: Bán cho Nhật Bản, 15 tháng 11 1894

Phục vụ ở Hải Quân Nhật Bản

Đặt mua: năm 1894

Đổi tên: Izumi

Kết cục: bị dỡ bỏ ngày 01 tháng 4 1912

Đặc điểm riêng

Loại: Tuần dương hạm có tăng cường bảo vệ

Trọng tải: 2.930 longton (2.977t)

Chiều dài: 82,29 m (270 ft) w / l

Chiều rộng: 12,8 m (42 ft)

Tầm nước: 5,64 m (18 ft 6 in)

Động cơ đẩy: Hai trục động cơ hơi nước theo chiều dọc

6.083 hp (4.536 kW)

12 nồi hơi

600 tấn than

Tốc độ: 18,25 knots (21,0 mph; 33,8 km / h)

Thủy thủ đoàn: 300

Vũ khí trang bị:

• 2 súng 254 mm (10 in)

• 6 súng 152 mm (6 in)

• 2 súng 6 pounder

• 5 súng 2 pounder

• 2 súng máy

• 3 ống phóng ngư lôi 380 mm (15 in)

Thiết giáp:

ở boong có độ dốc 25 mm (0,98 in)

ở phần boong phẳng 12 mm (0,47 in)

Tên: Takachiho

Đặt mua: Năm 1883

Nhà sản xuất: W. G. Armstrong & Company, Vương quốc Anh

Đặt thân lườn: Ngày 27 tháng 3 năm 1884

Hạ thủy: Ngày 16 tháng 5 năm 1885

Hoàn thành: Ngày 01 Tháng 12 1885

Kết cục: Trúng ngư lôi và chìm ngày 17 Tháng 10 năm 1914

Đặc điểm riêng

Loại: Tuần dương hạm có tăng cường bảo vệ

Trọng tải : 3.650 longton (3.709t)

Chiều dài: 91,4 m (299 ft 10 in)

Chiều rộng 14 m (45 ft 11 in)

Tầm nước: 6,4 m (21 ft 0 in)

Động cơ đẩy: 2-trục động cơ piston;

6 nồi hơi, 7.604 hp (5.670 kW)

Tốc độ: 18,5 knots (21,3mph; 34,3km / h)

Phạm vi hoạt động: 9.000hải lý (17.000km) Tại tốc độ 13 knot (24 km / h)

Thủy thủ đoàn: 357

Vũ khí trang bị:

• 2 súng 260 mm (10 in) (sau này là 150 mm)

• 6 súng 150 mm (5,9 in)

• 2 súng 6 pounder

• 10 súng Nordenfelt

• 4 súng máy Gatling

• 4 ống phóng ngư lôi 380 mm (15 in)

Thiết giáp:

• Boong: 50-75 mm (2-3 in)

• Các khu vực đặt súng: 37 mm (1,5 in)

• Tháp điều khiển: 37 mm (1,5 in)

Tên: Naniwa

Đặt hàng: Năm 1883

Nhà sản xuất: W. G. Armstrong & Company, Vương quốc Anh

Đặt thân lườn: Ngày 27 tháng 3 năm 1884

Hạ thủy: 18 tháng 3 năm 1885

Hoàn thành: Ngày 01 Tháng 12 1885

Kết cục: Bị đánh chìm 05 tháng 8 Năm 1912

Đặc điểm riêng

Loại: Tuần dương hạm có tăng cường bảo vệ

Trọng tải: 3.650 longton (3.709t)

Chiều dài: 91,4 m (299 ft 10 in)

Chiều rộng: 14 m (45 ft 11 in)

Tầm nước: 6,4 m (21 ft 0 in)

Động cơ đẩy: 2-trục động cơ piston;

6 nồi hơi, 7.604 hp (5.670 kW)

Tốc độ: 18,5 knots (21,3mph; 34,3km / h)

Phạm vi hoạt động: 9.000hải lý (17.000km) tại tốc độ 13 knot (24 km / h)

Phi hành đoàn: 357

Vũ khí trang bị:

• 2 súng 260 mm (10 in) (sau này là 150 mm)

• 6 súng150 mm (5,9 in)

• 2 súng 6 pounder

• 10 súng Nordenfelt

• 4 súng máy Gatling

• 4 ống phóng ngư lôi 380 mm (15 in)

Thiết giáp:

• Boong: 50-75 mm (2-3 năm)

• Khu vực đặt súng: 37 mm (1,5 in)

• Tháp điều khiển: 37 mm (1,5 in)

Tên: Hashidate

Đặt mua: Năm 1886

Nhà sản xuất: Yokosuka Naval Arsenal, Nhật Bản

Đặt thân lườn: Ngày 06 tháng 8 1888

Hạ thủy: Ngày 24 tháng 3 năm 1891

Hoàn thành: 26 tháng 6 năm 1894

Va phải đá ngầm: Ngày 01 Tháng 4 1922

Kết cục: Bị tháo dỡ năm 1927

Đặc điểm riêng

Thứ hạng: Tầu tuần dương lớp Matsushima

Tải trọng: 4.278 dài tấn (4.347t)

Chiều dài: 91,81 m (301 ft 3 in) w / l

Chiều rộng: 15,6 m (51 ft 2 in)

Độ mớm nước: 6,05 m (19 ft 10 in)

Động cơ đẩy: 2-trục pittông;

6 nồi hơi, 5.400 hp (4.000 kW), 680 tấn than

Tốc độ: 16,5 knots (19,0mph; 30,6km / h)

Thủy thủ đoàn: 360

Vũ khí trang bị:

• 1 súng Canet 320 mm (12,6 in)

• 11 súng 120 mm (4,7 in)

• 6 súng 6 pounder

• 2 súng 3 pounder

• 4 ống phóng ngư lôi 360 mm (14 in)

Thiết giáp:

Boong: 50 mm (2 in)

Tháp súng: 300 mm (12 in)

Lá chắn súng: 100 mm (4 in)

Học thuyết Jeune École, học thuyết được người Pháp sáng chế nhưng lại được người Nhật, người Đức lấy làm sách gối đầu giường

Học thuyết Jeune École là một khái niệm chiến lược của Hải quân được phát triển trong thế kỷ 19. Nó ủng hộ việc sử dụng các tầu chiến nhỏ, được trang bị mạnh mẽ để chống lại một hạm đội tàu chiến lớn hơn, và tấn công các tầu thương mại có khả năng có đặt dấu chấm hết cho nền thương mại của quốc gia đối thủ. Ý tưởng được phát triển bởi các nhà lý luận hải quân Pháp: chính phủ Pháp có lực lượng hải quân lớn thứ hai trên thế giới vào thời gian đó, và các nhà lý luận mong muốn có một chiến lược thích hợp để chống lại sức mạnh của hải quân Anh được coi là mạnh nhất thời đại bấy giờ.

Dùng tầu chiến nhỏ chống lại tàu chiến lớn

Một trong những người ủng hộ đầu tiên học thuyết École Jeune là vị tướng pháo binh Henri-Joseph Paixhans, người phát minh ra Hải pháo Paixihans bắn đạn nổ cho tàu chiến trong thập niên 1820. Ông ủng hộ việc sử dụng những khẩu súng mạnh mẽ trên nhiều tàu chiến hơi nước nhỏ để có thể phá hủy những tàu chiến lớn hơn nhiều.Sau đó, Hải quân Pháp phát triển khái niệm này một cách công phu hơn nữa khi họ thử nghiệm ngư lôi và tàu phóng ngư lôi. Hải quân Pháp trở thành một trong những người ủng hộ mạnh mẽ của hệ thống chiến đấu này vào cuối thế kỷ 19. Những thành công của Hải quân Pháp chống lại Hải Quân Trung Quốc (Hạm đội Nam Dương) trong Chiến tranh Trung-Pháp năm 1883-1885 cũng làm người ta lạc quan với xu hướng sử dụng tiềm năng của tàu ngư lôi để chống lại các tầu hải quân thông thường.Người Pháp cũng rất tích cực trong việc phát triển một hạm đội tàu ngầm, một lần nữa họ cố gắng dựa vào sự phát triển của khoa học kỹ thuật để bù lại số ưu thế về chiến hạm của người Anh. Vào đầu thế kỷ 20, Pháp "chắc chắn là lực lượng hải quân đầu tiên có một lực lượng tàu ngầm có hiệu quả". Biện pháp để chống lại học thuyết Jeune École là phải tập hợp một số lượng lớn tàu chiến cỡ trung bình và trang bị mạnh, đây là loại tầu được thiết kế chuyên để ngăn chặn và tiêu diệt các đội tầu phóng ngư lôi nhỏ, nhanh nhẹn (từ " khu trục" theo tiếng Pháp là contre-torpilleur), thuật ngữ này theo tiếng Anh được gọi là Torpedo Destroyer hoặc Destructor, và qua thời gian người ta chỉ còn đơn giản gọi chúng là Destroyer - Tầu khu trục.Tấn công vào nền thương mại của kẻ thù (Binh pháp Tôn tử gọi là rút củi đáy nồi phải ko các bác?) cũng là một phần của học thuyết " Jeune École" nó bao gồm kế hoạch công kích các tàu thương mại của đối phương để cản trở nền thương mại và phá hoại nền kinh tế của họ, một lần nữa đây lại là một chiến thuật được thiết kế một cách đặc biệt để chống lại Vương quốc Anh.Tàu tấn công, chẳng hạn như chiếc Dupuy de Lome được thiết kế một cách đặc biệt cho vai trò này. Tầu Dupuy de Lome là một tuần dương hạm bọc thép được đặt hàng vào năm 1888, nó có tốc độ tối đa là 23 kts và được thiết kế để tấn công các tàu thương mại của đối phương trong thời gian đột phá phong tỏa.

Ảnh hưởng của Học thuyết "Jeune École"

Học thuyết "Jeune École" đặc biệt ảnh hưởng đến sự phát triển lực lượng hải quân của các quốc gia nhỏ trong thế kỷ 19 như Nhật Bản và nước Đức trong thế kỷ 20, đặc biệt khi họ cố gắng áp dụng nó để bù đắp cho những yếu kém trong việc không có những thiết giáp hạm hạng nặng có giáp dày và súng lớn.

Diễn biến trận đánh

Ngày Ngày 17 tháng 9 năm 1894

Vị trí Gần cửa sông Áp Lục - biển Hoàng Hải

Kết quả Nhật Bản chiến thắng quyết định

Các bên tham chiến

Hạm đội Bắc Dương

Chỉ huy

Đinh Nhữ Xương

Liu Buchan

Sức mạnh

2 thiết giáp hạm hạng nặng

7 tuần dương hạm

1 tầu hộ vệ

2 pháo hạm

2 tầu phóng ngư lôi

Thương vong và thiệt hại

850 người thiệt mạng

500 người bị thương

5 tàu chìm

3 tàu bị hư hỏng

Hạm đội Đế quốc Nhật Bản

Chỉ huy

Sukeyuki Ito

Tsuboi Kozo

Sức mạnh

1 thiết giáp hạm hạng nhẹ

8 tàu tuần dương hạng nặng

1 tầu hộ vệ

1 pháo hạm

1 tuần dương hạm nhẹ

Thương vong và thiệt hại

190 người thiệt mạng

200 người bị thương

4 tàu bị hư hỏng

Trận chiến sông Áp Lục - Trận biển Hoàng Hải diễn ra vào ngày 17 tháng 9 1894 giữa Hạm Đội Bắc Dương - Trung Quốc với Hạm đội Đế quốc Nhật Bản, và đây là trận hải chiến lớn nhất trong Chiến tranh Trung-Nhật lần thứ nhất. Con sông Áp Lục tạo thành một biên giới thiên nhiên giữa Trung quốc và Triều Tiên, dù thực có tên là trận chiến sông Áp Lục nhưng trận chiến thực sự lại nổ ra ở phía cửa con sông này và trong biển Hoàng Hải. Hạm đội Nhật Bản dưới sự chỉ huy của Đô đốc Sukeyuki Ito đã cố gắng phá rối cuộc đổ bộ của quân đội Trung Quốc được bảo vệ bởi một hạm đội dưới sự chỉ huy của Đô đốc Đinh Nhữ Xương.Trận chiến kéo dài khoảng 1 ngày. Trong khi đây không phải là trận chiến đầu tiên có ứng dụng các kỹ thuật Tiền-Dreadnought trên quy mô rộng (Trận Foochow năm 1884 giữa Hạm đội Pháp và Hạm đội Trung Quốc đã diễn ra trước đó), vẫn có những bài học quan trọng cho các nhà phân tích hải quân để xem xét.Trên giấy tờ, hạm đội Trung Quốc có các tàu hạng nặng và có nhiều súng cớ nòng mười inch và tám-inch (203 mm). Tuy nhiên, các pháo thủ của tàu Trung Quốc đã không được tổ chức thực hành thuật súng trong nhiều tháng trước, và các đội pháo thủ Trung Quốc cũng không chuẩn bị để đối mặt với sự căng thẳng khi nổ súng. Sự tham nhũng dường như cũng đã đóng một vai trò cực kỳ quan trọng; nhiều quả đạn dường như chỉ được nhồi đầy bằng mùn cưa hoặc nước, một số sĩ quan Trung Quốc đã bỏ chạy khỏi khu vực chiến sự, một chiếc tàu dường như đã sử dụng súng của nó để lưu trữ dấm chua, và ít nhất trong một trường hợp, một cặp súng 10-inch (254 mm) dường như đã bị bán ra thị trường chợ đen để lấy tiền mặt.Vào thời gian này, người Nhật đã khá tự tin vào khả năng của chính họ. Tuy nhiên người Trung Quốc vẫn có một số cố vấn và giảng viên người nước ngoài. Đặc biệt là thiếu tá người Đức Von Hanneken đã được bổ nhiệm làm cố vấn hải quân cho Đô đốc Đinh Nhữ Xương. W. F. Tyler, một thiếu úy trong lực lượng dự bị của Hải quân Hoàng gia kiêm sĩ quan hải quan Anh được bổ nhiệm làm trợ lý của Von Hanneken. Philo McGiffen trước đây là một trong nhân viên mật mã trong lực lượng Hải quân Hoa Kỳ và kiêm luôn là một giảng viên tại học viện hải quân Wei-Hải-Wei Trung Quốc được bổ nhiệm đển chiếc Chen Yuen như là một cố vấn kiêm đồng chỉ huy.Trước khi trận chiến với Hạm Đội Nhật Bản nổ ra, các tàu thuyền và vũ khí của hạm đội Trung Quốc đã được kiểm tra, và các tàu đã được sơn lại. Philo McGiffin lưu ý rằng vào thời điểm đó, các tàu của Trung Quốc đã được sơn thành mầu xám - để tạo khả năng tàng hình, mặc dù các bức ảnh hiện đại cho thấy một thân tầu mầu tối và phần trên cao có mầu sáng, do đó có lẽ chỉ có phần màu trắng ở phía trên con tầu và các mới được sơn lại màu xám, còn phần vỏ tầu vẫn giữ màu đen. McGiffen cũng lưu ý rằng phần lớn trong số thuốc súng dự trữ đã " được lưu cữu đến mười ba năm và đã bị hỏng" Các lớp vải mỏng che phủ các khẩu đội pháo trên một số con tàu đã bị bỏ ra, và chúng đã vỡ ra từng mảng khi trúng đạn. Chiếc Tsi Yuen trở về cảng sau khi giao chiến với Hạm Đội Nhật Bản đã cho thấy một loạt vấn đề.Đô đốc Sukeyuki Ito chỉ huy Hạm đội Nhật Bản ở trên chiếc tàu tuần dương Matsushima, chiếc này được hai chiếc tàu thông báo hạm làm hộ tống; đó là hai chiếc tầu Sei-kyo do thuyền trưởng người Anh John Wilson chỉ huy và chiếc pháo hạm Akagi. Tổng tham mưu trưởng Hải quân Nhật Bản, Đô đốc Kabayama Sukenori cũng cùng làm một chuyến thanh tra trên chiếc Saikyō. Phần còn lại của hạm đội chính bao gồm các tuần dương hạm Chiyoda, Itsukushima, Hashidate, Fusō và Hiei. Một hải đội tầu xung kích có tốc độ cao, bao gồm các tuần dương hạm Yoshino, Takachiho, Akitsushima và Naniwa dẫn đầu các tàu của Nhật Bản.Đội tầu Nhật Bản tiến về phía đội tầu Trung Quốc với hải đội xung kích ở hàng đầu theo đội hình dòng phía sau (line astern formation) với các tầu thông báo hạm tiến lên ở mạn trái của hải đội thứ hai, đây là hải đội chính có những tầu xương sống của hạm đội. Người Trung Quốc chia tầu thành hai hải đội trong đội hình sát cánh nhau với phần lớn các tàu chiến tập trung vào trong hải đội một, "hải đội xung kích đầu tiên" bao gồm các chiếc Tsi Yuen, Kuang Chia, Chih Yuen, King Yuen, Dingyuan, Chen Yuen, Lai Yuen, Ching Yuen, Chao Yung và Yang Wei. Hải đội thứ hai, "Hải đội chính", bao gồm các chiếc Kuang Ping và Ping Yuen cùng với một vài pháo hạm hoặc tàu phóng ngư lôi.Việc tạo đội hình dòng phía sau (line astern formation) ngăn cản việc các thiết giáp hạm Trung Quốc đóng ở phía trung tâm bắn vào tầu Nhật Bản vì có những tầu nhỏ chắn giữa họ và đối thủ của họ trong lúc này. Đồng thời, những tầu nhỏ hơn, trang bị yếu hơn các tàu bọc thép đã bắt đầu trúng những pháo lớn có tầm bắn xa từ tàu chiến của Nhật Bản. Ngoài ra, khi các hải đội Nhật tách ra, với Phi đội xung kích dẫn đầu quay về phía nam của hạm đội Bắc Dương trong khi đó hải đội chính di chuyển chậm hơn và giữ hướng tiến thẳng vào đánh vỗ mặt Hạm đội xung kích của Trung Quốc, các thiết giáp hạm của Trung Quốc trong hải đội chính bị buộc phải phân tán hỏa lực ở giữa hai nhóm.Một số giải thích khác nhau đã được đưa ra để giải thích tại sao hạm đội Bắc Dương đã không thay đổi hình của mình để phản ứng với các chiến thuật Nhật Bản hiệu quả hơn. Theo các ghi chép của Trung úy Hải quân Hoàng gia William Ferdinand Tyler, một cố vấn của chiếc Dingyuan (Định viễn), đây có vẻ là ghi chép tốt nhất có trình độ và căn cứ nhất. Nó nói rằng "Đô đốc Đinh Nhữ Xương ra lệnh cho tàu của mình đổi hướng theo cách mà đã có thể làm lộ chiếc kỳ hạm của ông, nhưng làm cho phần còn lại của đội tầu ở trong một vị trí tốt để nổ súng vào hạm đội Nhật Bản " Tyler nói vậy, tuy nhiên,. rằng thuyền trưởng của chiếc Dingyuan cố tình không chấp nhận mệnh lệnh này hoặc không thông báo nó đển phần còn lại của đội tàu.Chiếc Dingyuan nổ súng vào tầu Nhật Bản khi khoảng cách giữa các con tầu là khoảng 6.000 yard (5.500 m). Điều này hoá ra là một loạt bắn tai hại một cách không đáng có đối với chiếc kỳ hạm của Trung Quốc. Khi Hải quân Đức mang chiếc Dingyuan đi để bắn thử súng vào năm 1883 (chiếc Dingyuan được đóng ở Đức) Họ ghi nhận rằng súng chính của con tầu không nên được bắn từ một hướng thẳng phía trước (ahead bearing). Bắn từ một phía hướng thẳng phía trước dẫn đến sự hư hỏng đài chỉ huy (có thể là do sức giật khủng khiếp của khẩu súng), và Đô đốc Đinh Nhữ Xương đã trở thành một nạn nhân từ phát bắn đầu tiên của tầu mình cùng với một số sỹ quan khác trên đài chỉ huy Hạm đội Trung Quốc đã nổ súng vào các tầu Nhật Bản khi họ đi qua từ mạn trái sang mạn phải vượt qua mũi của các tàu Trung Quốc. Họ không tạo ra được thiệt hại đáng kể nào vào tầu Nhật Bản từ các khẩu súng 12 inch (305 mm) và 8,2 inch (208 mm) của họ. Tại khoảng cách 3000 yard (2700 m) (tầu Trung Quốc lúc này khả năng đã hết đạn), người Nhật tập trung hỏa lực của họ vào cánh phải của dòng tầu Trung Quốc, với những loạt bắn dữ dội vào đầu tiên là chiếc Chao Yung và sau đó là chiếc Yang Wei.Cả hai tàu này bắt đầu bốc cháy và một số người đã quy nguyên nhân là do có quá nhiều các lớp dầu sơn bóng và được sơn trong nhiều năm. Trong mọi lý do thì đây chỉ các tầu gỗ đã lỗi thời chỉ được bảo vệ vùng thân tàu với chỉ một lớp giáp kim loại. Chúng không thể chịu nổi đạn pháo hiện đại của Nhật Bản. Người Nhật Bản có toan tính về việc phân chia một cách nhịp nhàng hải đội xung kích ra để bao vây cánh phải của tuyến tầuung Quốc theo một kiểu quây vòng tròn nhưng sự xuất hiện kịp thời của các chiếc Kuang Ping và Ping Yuen cùng với hai chiếc pháo thuyền Fu Lung (đóng tại Schichau) và tầu phóng ngư lôi Choi Ti, một chiếc tầu được đóng bởi Yarrow đã làm tầu Nhật Bản phải đổi hướng sự cơ động.Các tàu tuần dương tốc độ cao của người Nhật vượt qua mạn trái và sau đó theo lệnh của Ito được điều đến để hỗ trợ cho chiếc Hiei, Saikyō và Akagi nên không thể theo kịp với dòng tầu chính và sau đó đã tham gia vào tấn công các tầu cánh trái của tuyến Trung Quốc. Ngay từ đầu trận đánh cột tín hiệu của chiếc Dingyuan đã bị phá hủy, việc này đã gây nhiều nhầm lẫn hơn nữa trong các tàu của Trung Quốc. Hạm đội Trung Quốc phần nào đã dự đoán được tình hình xảy ra và lập thành ba cặp đôi để các tầu cùng hỗ trợ lẫn nhau và tiếp tục cuộc chiến.Hạm đội Nhật Bản, về phần nó đã tàn phá Hạm đội Trung Quốc mặc dù họ còn trúng nhiều đạn hơn đội tầu Trung Quốc, nhưng với đạn pháo tốt hơn. Nhật Bản làm bốc cháy nhiều vỏ tàu của Trung Quốc và đã làm chìm hoặc gây tổn hại nghiêm trọng cho tám con tầu của hạm đội Bắc dương hoặc toi ngay trong thời gian trận chiến hoặc nghím trong thời gian sau đó.

Hậu quả của trận sông Áp Lục

Người Nhật Bản đã đánh chìm 5 tàu chiến Trung Quốc đánh hỏng nặng 3 chiếc khác, giết khoảng 850 thủy thủ Trung Quốc và làm bị thương 500 người. Chiếc Ting Yuen có nhiều thương vong nhất trong số những con tầu vẫn còn nổi được của Trung Quốc với 14 người chết và 25 người bị thương.Tầu Trung Quốc đã đánh bị thương ngiêm trọng bốn tàu chiến Nhật Bản - chiếc kỳ hạm Matsushima là con tầu phải chịu những tổn thất tồi tệ nhất với hơn 100 người chết và bị thương sau khi bị trúng một phát đạn pháo hạng nặng của Hạm Đội Trung Quốc; chiếc Hiei cũng bị hư hỏng nặng và phải từ giã trận chiến, chiếc Akagi bị cháy lớn và có những mất mát lớn về nhân sự; chiếc Saikyō, bị thúc dục bởi Đô đốc Kabayama Sukenori đã tiến lên phía trước là trúng liên bốn phát đạn pháo 12 inch (305 mm) kết quả là nó không còn có thể kiếm soát được nữa và phải ra khỏi cuộc chiến, tổng số là khoảng 180 thủy thủ Nhật Bản bị giết chết và hơn 200 người bị thương.Hạm đội Trung Quốc phải chạy đến và nghỉ ngơi tại thành phố Port Arthur và sau đó nó quay trở lại Uy Hải Vệ, nơi nó cuối cùng bị tiêu diệt bởi một đợt tấn công kết hợp từ cả đất liền và trên biển. Người Nhật Bản có thể đã rút lui vì e ngại các tầu ngư lôi của Trung Quốc tấn công vào ban đêm và cũng vì lý do thiếu đạn dược.Trong khi Nhật Bản chắc chắn đã gây nhiều thiệt hại hơn rất nhiều cho hạm đội Trung Quốc, thì nhiều người nước ngoài tại thời điểm đó lại tin rằng chiến thắng đã thuộc về người Trung Quốc. Phía Trung Quốc đã tiến hành đổ bộ binh lính một cách thành công, và người Nhật, ít nhất là một bộ phận của hộ, đã phải rút lui vì đã cạn đạn dược. Nhiều người tin vào những hành động nhanh chóng của các cố vấn người nước ngoài trong hạm đội của Trung Quốc (đáng chú ý nhất McGiffin) để có thể đưa ngay những tàu bị hư hại nặng nề nhất của Trung Quốc quay trở lại chiến đấu cho đến hết chiến dịch - nhưng điều này đã không xảy ra. Những nghiên cứu sau đó cho thấy rằng các tàu Trung Quốc chiến đấu theo cặp là kế hoạch họ đã đặt ra thời gian trước đó để đối phó với việc liên lạc bị mất do khói và những nhầm lẫn trong trận đánh. Đồng thời, cũng phải công bằng mà lưu ý rằng Hạm Đội Trung Quốc phải chịu thất bại vì chất lượng đạn dược quá kém, ví dụ đặc biệt là nhiều phát đạn bắn từ chiếc Ping Yuen đã trúng vào chiếc kỳ hạm của Nhật Bản chiếc Matsushima nhưng không nổ bởi vì chúng đã được đổ đầy bằng xi măng chức không phải là thuốc nổ cực mạnh, đây chính là của tệ nạn tham nhũng biển thủ công quỹ hải quân. Người ta đã thay thế thuốc đạn bằng xi măng từ lúc ở nhà máy quân giới Tientsin. ( cũng theo một nguồn tin trong tạp chí Thế Giới Ngày Nay nói rằng Hải Quân Bắc Dương không có đủ kinh phí để mua thuốc súng, đạn dược và nâng cấp các khẩu pháo có tầm bắn xa hơn vì Từ Hy Thái Hậu dùng ngân quỹ của hải quân để chi vào tu bổ cung Di Hòa Viên làm nơi ăn chơi đàn đúm - sau này cung DHV bị liên quân bát quốc đốt khi tấn công Bắc kinh cháy cả tháng trời mới tắt) Chính phủ Trung Quốc đã hoàn toàn đổ lỗi thất bại của trận đánh này lên vai của Lý Hồng Chương và Đô đốc Đinh Nhữ Xương. Tuy nhiên, vào ngày 27 Tháng 10 năm 1894, Đô đốc Freemantle, Đô đốc hạm đội Anh đã gặp gỡ Đô đốc Đinh tại Wei-Hải-Wei và thấy Đinh "vẫn mang đầy những vết bỏng vì bị thương trong trận sông Áp Lục" và viên Đô đốc người Anh này đã mô tả ông ta là một người đàn ông "dũng cảm và yêu nước".Mặc dù có những cách đánh giá khác nhau về trận đánh này như chung cuộc Trận chiến sông Áp Lục trong trí nhớ của người Trung Quốc là một nỗi thua trận nhục nhã - đây âu cũng lại là một trong những nguyên nhân làm cho Thanh Đình suy yếu, và kích thích lòng tự tôn dân tộc của người Trung Quốc, khiến họ vùng lên làm cuộc cách mạng năm Tân Hợi để dành chính quyền về tay người Hán. Hạm đội Bắc Dương đã ngừng tồn tại như là một đơn vị chiến đấu có hiệu quả, và cuối cùng Nhật Bản đã hoàn toàn tiêu diệt hạm đội này trong trận tập kích Wei-Hải-Wei và hoàn toàn đánh bại Trung Quốc trong Chiến Tranh Trung-Nhật lần thứ nhất và vươn lên làm bá chủ Đông Á.

Bạn đang đọc truyện trên: truyentop.pro